Professional Documents
Culture Documents
Đề bài: Trình bày các phương pháp và công cụ Quản lý Nhà nước (QLNN) về kinh
tế. Lý luận và thực tiễn các phương pháp và công cụ QLNN về kinh tế mà anh/chị
quan tâm?
Bài làm
có của nó. Bên cạnh những yếu tố tích cực phù hợp với mục tiêu dự đoán của Nhà
nước cũng có thể xuất hiện một số hiện tượng nằm ngoài dự đoán ban đầu, thậm chí
trái ngược với mục tiêu đặt ra. Điều đó đòi hỏi Nhà nước phải tỉnh táo, sâu sát thực
tế, kịp thời có biện pháp bổ sung để khắc phục các mặt tiêu cực khi chúng xuất hiện.
Như vậy, việc sử dụng các phương pháp quản lý kinh tế vừa là khoa học, vừa
là nghệ thuật. Tính khoa học đòi hỏi phải nắm vững đối tượng với những đặc điểm
vốn có của nó, để tác động trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan
phù hợp với đối tượng. Tính nghệ thuật biểu hiện ở chỗ biết lựa chọn và kết hợp các
phương pháp trong thực tiễn để sử dụng tốt tiềm năng và cơ hội của đất nước, đạt
mục tiêu quản lý đề ra. Quản lý kinh tế có hiệu quả nhất khi biết lựa chọn đúng đắn
và kết hợp linh hoạt các phương pháp quản lý. Đó chính là tài nghệ quản lý của Nhà
nước nói riêng, của các viên chức quản lý nói chung.
Các phương pháp quản lý chủ yếu của Nhà nước về kinh tế bao gồm :
1. Các phương pháp hành chính:
Phương pháp hành chính trong quản lý kinh tế là các cách tác động trực tiếp
bằng các quyết định dứt khoát mang tính bắt buộc của Nhà nước lên đối tượng và
khách thể trong quản lý kinh tế của Nhà nước nhằm đạt mục tiêu đặt ra trong những
tình huống nhất định.
Đặc điểm cơ bản của phương pháp hành chính trong QLKT của Nhà nước là
tính bắt buộc, tính quyền lực. Tính bắt buộc đòi hỏi các đối tượng quản lý phải chấp
nhận nghiêm chỉnh các tác động hành chính, nếu vi phạm sẽ bị xử lý kịp thời thích
đáng. Tính quyền lực đòi hỏi các cơ quan QLNN chỉ được phép đưa ra các tác động
hành chính đúng với thẩm quyền của mình. Thực chất của phương pháp hành chính
trong QLKT là sử dụng quyền lực nhà nước để tạo ra sự phục tùng của các cá nhân
và tổ chức trong hoạt động và quản lý kinh tế.
Vai trò của phương pháp hành chính trong quản lý kinh tế rất to lớn. Nó xác
lập trật tự kỷ cương làm việc trong hệ thống, kết nối các phương pháp khác lại thành
một hệ thống có thể giấu dược ý đồ hoạt dộng và giải quyết các vấn đề đặt ra trong
quản lý rất nhanh chóng.
Phương pháp hành chính tác động về mặt tổ chức và tác động điều chỉnh hành
động của đối tượng quản lý kinh tế.
Theo hướng tác động về mặt tổ chức, Nhà nước xây dựng và không ngừng
hoàn thiện khung pháp luật tạo ra một hành lang pháp lý cho các chủ thể kinh tế yên
tâm hoạt động trong an toàn và trật tự. Những chủ trương chính sách có tầm vóc lớn
và dài hạn của Nhà nước đều phải được thế chế hóa bằng các đạo luật do Quốc hội
thông qua nhằm bảo đảm được chấp hành nhất quán. Ban hành các văn bản quy định
về quy mô, cơ cấu, điều lệ hoạt động, tiêu chuẩn nhằm thiết lập tổ chức và xác định
những mối quan hệ hoạt động nội bộ theo hướng tác động điều chỉnh hành động của
đối tượng quản lý, quy định những thủ tục hành chính bắt buộc tất cả các chủ thể cơ
quan nhà nước, các doanh nghiệp đến hộ gia dình đều phải tuân thủ. Những công cụ
này nhằm giúp Nhà nước cụ thể hóa khung luật pháp và các kế hoạch hướng dẫn thị
trường, tác động trực tiếp vào các chủ thể, như thủ tục xét duyệt cấp giấy phép đầu
tư, thành lập doanh nghiệp, thủ tục dăng ký kinh doanh, đăng ký chất lượng, đăng ký
nhãn hiệu hàng hóa, thủ tục cấp giấy phép xuất nhập khẩu.
Phương pháp hành chính đòi hỏi chủ thể quản lý phảo có quyết định dứt khoát,
rõ ràng, dễ hiểu, có địa chỉ người thực hiện, loại trừ khả năng có sự giải thích khác
nhau đối với nhiệm vụ được giao.
Tác động hành chính có hiệu lực ngay từ khi ban hành quyết định. Vì vậy
phương pháp hành chính sức cần thiết trong những trường hợp hệ thống quản lý rơi
vào những tình huống khóa khăn, phức tạp.
Tác động hành chính có hiệu lực ngay từ khi ban hành quyết định. Vì vậy
phương pháp hành chính hết sức cần thiết trong những trường hợp hệ thống quản lý
rơi vào những tình huống khó khăn, phức tạp.
Đối với những quyết định hành chính thì cấp dưới bắt buộc phải thực hiện,
không được lựa chọn, chỉ có cấp thẩm quyền ra quyết định mới có quyền thay đổi
quyết định.
Cần phân biệt phương pháp hành chính với kiểu quản lý hành chính quan lieu
do việc lạm dụng các kỷ luật hành chính, sử dụng mệnh lệnh hành chính thiếu cơ sở
khoa học, theo ý muốn chủ quan, thường những mệnh lệnh hành chính thiếu cơ sở
khoa học, theo ý muốn chủ quan, thường những mệnh lệnh kiểu đó dễ gây ra các tổn
thất cho quản lý, hạn chế sức sang tạo của người lao động. Đó là nhược điểm của
phương pháp hành chính, cán bộ quản lý và ác cơ quan quản lý nhà nước nếu thiếu
tỉnh táo, say sưa với mệnh lệnh hành chính thì dễ sa vào tình trạng lạm dụng quyền
hành, là môi trường tốt cho bệnh chủ quan, duy ý chí, bệnh hành chính quan liêu, các
tệ nạn tham nhũng, đặc quyền đặc lợi…
Sử dụng phương pháp hành chính chỉ có hiệu quả cao khi quyết định đó có căn
cứ khoa học, được luật chứng đầy đủ về mặt kinh tế. Người ra quyết định phải hiểu rõ
tình hình thực tế, nắm vững tình huống cụ thể. Cho nên, khi đưa ra quyết định hành
chính phải cố gắng có đủ thong tin cần thiết cho việc ra quyết định. Chủ thể quản lý
chỉ ra quyết định trên cơ sở đủ đảm bảo về thong tin. Tập hợp đủ thong tin, tính toán
dầy đủ đến các lợi ích và các khía cạnh có liên quan, bảo dảm cho quyết định hành
chính có căn cứ khoa học.
Người quản lý giỏi, có nhiều kinh nghiệm không chỉ ra quyết định khi có thong
tin mà còn dự đoán được những nét phát triển chính, những mặt tích cực cũng như
những khía cạnh tiêu cực có thể diễn ra khi quyết định được thi hành, từ đó sẵn sàng
bổ sung các biện pháp phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực nếu có.
Hai là, khi sử dụng phương pháp hành chính gắn chặt quyền hạn và trách
nhiệm của cấp ra quyết định, mỗi bộ phận, mỗi cán bộ khi sử dụng các quyền hạn đó.
ở cấp càng cao, phạm vi ra quyết định càng rộng, nếu càng sai thì tổn thất càng lớn.
Người ra quyết định phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về quyết định của mình.
Như vậy, phương pháp hành chính là hoàn toàn cần thiết, không có phương
pháp hành chính thì Nhà nước không thể quản lý kinh tế có hiệu quả. Hoàn chỉnh hệ
thống pháp luật với các thể chế quản lý kinh tế phù hợp là nội dung cơ bản của quán
lý nhà nước về kinh tế ở nước ta hiện nay.
2. Phương pháp kinh tế:
Phương pháp kinh tế trong quản lý nhà nước về kinh tế là cách thức tác động
gián tiếp của Nhà nước, dựa trên những lợi ích kinh tế có tính hướng dẫn lên đối
tượng quản lý nhà nước về kinh tế nhằm làm cho họ quan tâm tới hiệu quả cuối cùng
của sự hoạt động, từ đó mà tự giác, chủ động hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao,
không cần phải có sự tác động thường xuyên của Nhà nước bằng phương pháp hành
chính.
Mọi hoạt dộng của con người đều tuân theo yêu cầu của các quy luật khách
quan. Sự chi phối của các quy luật đối với các hoạt động sản xuất - kinh doanh của
con người dều được thực hiện thong qua lợi ích kinh tế. Phương pháp kinh tế trong
quản lý nhà nước về kinh tế là cách thức tác động của nhà nước lên đối tượng quản lý
nhà nước về kinh tế là cách thức tác động của Nhà nước lên đối tượng quản lý nhà
nước về kinh tế dựa trên cơ sở vận dụng các phạm trù kinh tế, các đòn bẩy kinh tế,
các định mức kinh tế kỹ thuật.
Tác động dựa trên lợi ích kinh tế chính là tạo ra động lự thúc đẩy con người
tích cực hoạt động. Động lực đó càng to lớn nếu nhận thức đầy đủ và kết hợp đúng
đắn các lợi ích tồn tại khách quan trong hệ thống. Mặt mạnh của phương pháp kinh tế
chính là ở chỗ nó tác động vào lợi ích kinh tế của đối tượng quản lý (là cá nhân hoặc
các doanh nghiệp) xuất phát từ đó mà họ lựa chọn phương án hoạt động vừa đảm bảo
lợi ích riêng, vừa đảm bảo lợi ích chung.
Vì vậy, thực chất của các phương pháp kinh tế là đặt mỗi người lao động, mỗi
tập thể lao động dựa vào những điều kiện kinh tế dể họ có khả năng kết hợp với lợi
ích của hệ thống chung. Điều đó cho phép người lao động lựa chọn con người có hiệu
quả nhất dể thực hiện nhiệm vụ của mình.
Đặc điểm của phương pháp kinh tế là tác động lên đối tượng quản lý không
bằng cưỡng chính mà bằng lợi ích, tức là chỉ đề ra mục tiêu nhiệm vụ phải đặt ra, đưa
ra những điều kiện khuyến khích về kinh tế, những phương tiện vật chất có thể sử
dụng để họ tự tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Chính các tập thể lao động (với tư cách là
dối tượng quản lý) vì lợi ích thiết thân, phải tự xác định và lựa chọn phương án giải
quyết vấn đề. Phương pháp kinh tế cho phép có thể sử dụng những giải pháp kinh tế
khác nhau cho cùng một vấn đề. Đồng thời, khi sử dụng các phương pháp kinh tế,
Nhà nước phải biết tạo ra những tình huống, những điều kiện lợi ích cá nhân và của
doanh nghiệp phù hợp với lợi ích của nhà nước.
Phương pháp kinh tế tạo ra sự quan tâm vật chất thiết than của đối tượng quản
lý, chứa đựng nhiều yếu tố kích thích kinh tế cho nên tác động rất nhạy bén linh hoạt,
phát huy được tính chủ động sang tạo của người lao động và các tập thể lao động.
Với một biện pháp kinh tế đúng đắn, các lợi ích được thực hiện thỏa đáng thì tập thể
con người trong hệ thống quan tâm hoàn thành nhiệm vụ, người lao động hăng hái
sản xuất và nhiệm vụ chung được giải quyết nhanh chóng, có hiệu quả. Phương pháp
kinh tế là phương pháp quản lý tốt nhất để thực hành tiết kiệm và nâng cao hiệu quả
kinh tế. Thực tế quản lý chỉ rõ khoán là một biện pháp tốt để giảm chi phí, nâng cao
năng suất, chất lượng và hiệu quả.
Phương pháp kinh tế mở rộng quyền hành động cho các cá nhân và các doanh
nghiệp, đồng thời cũng tăng trách nhiệm kinh tế của họ. Điều đó giúp Nhà nươc giảm
được nhiều việc điều hành, kiểm tra, dôn đốc những nhiệm vụ vụn vặt mang tính chất
sự vụ hành chính, nâng cao ý thức kỷ luật tự giác của con người và của mọi doanh
nghiệp. Việc sử dụng phương pháp kinh tế luôn luôn dược Nhà nước định hướng
nhằm thực hiện các nhiệm vụ kế hoạch, các mục tiêu kinh tế của từng thời kỳ của đất
nước. Nhưng đây không phải là những nhiệm vụ gò ép mệnh lệnh chủ quan mà là
những mục tiệu, nhiệm vụ có căn cứ khoa học và cơ sở chủ động.
Nhà nước tác động lên đối tượng quản lý bằng phương pháp kinh tế theo
những hướng sau:
- Định hướng phát triển chung bằng các mục tiêu, nhiệm vụ phù hợp với điều
kiện thực tế của hệ thống, bằng những chỉ tiêu cụ thể cho từng thời gian, từn
phân hệ, từn cá nhân của hệ thống.
- Sử dụng các định mức kinh tế ( mức thuế, mức lãi suất ngân hàng…), các biện
pháp đòn bẩy, kích thích kinh tế để lôi cuốn, thu hút, khuyến khích các cá nhân
và các doanh nghiệp phát triển sản xuất theo hướng vừa lợi nhà, vừa ích nước.
- Bằng chính sách ưu đãi kinh tế để điều chỉnh hoạt động kinh tế trong cả nước
và thu hút được tiềm năng của Việt kiều cũng như các tổ chức, cá nhân người
nước ngoài.
Ngày nay, xu hướng chung của các nước là mở rộng việc áp dụng phương pháp
kinh tế. Để làm việc đó cần chú ý một số vấn đề quan trọng sau đây:
Phải hoàn thiện hệ thống các đòn bẩy kinh tế, nâng cao năng lực vận dụng các
quan hệ hang hóa - tiền tệ, quan hệ thị trường.
Để áp dụng phương pháp kinh tế phải thực hiện sự phân cấp đúng đắn giữa các
cấp quản lý theo hướng mở rộng quyền hạn cho các cấp dưới.
Sử dung phương pháp kinh tế đòi hỏi cán bộ quản lý phải có trình độ và năng
lực về nhiều mặt bời vì sử dụng phương pháp kinh tế đòi hỏi cán bộ quản lý phải hiểu
biết về thong thạo nhiều kiến thức và kinh nghiệm quản lý, đồng thời phải có tác
phong quản lý dân chủ.
Phương pháp kinh tế có độ bão hòa nhanh, do đó phải thường xuyên hoàn thiện
nhất là hệ thống định mức, tiêu chuẩn…
3. Phương pháp tâm lý giáo dục:
Phương pháp tâm lý giáo dục trong quản lý nhà nước về kinh tế là cách thức
tác động của Nhà nước vào nhận thức và tình cảm của những con người thuộc đối
tượng quản lý nhà nước về kinh tế nhằm nâng cao tính tự giác, tích cực và nhiệt tình
lao động của họ trong việc thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Phương pháp tâm lý giáo dục có ý nghĩa to lớn trong quản lý kinh tế vì đối
tượng của quản lý là con người - một thực thể năng động và là tổng hòa của nhiều
mối quan hệ xã hội. Do đó, để tác động lên con người không chỉ dùng các phương
pháp hành chính, kinh tế, mà còn có tác động tinh thần, tâm lý - xã hội…
Phương pháp tâm lý giáo dục dựa trên cơ sở vận dụng các quy luật tâm lý. Đặc
trưng của phương pháp này là tính thuyết phục, tức là làm cho người lao động phân
biệt phải – trái, đúng – sai, lợi – hại, đẹp – xấu, thiện – ác, từ đó nâng cao tính tự giác
làm việc và sự gắn bó với doanh nghiệp.
Phương pháp tâm lý giáo dục thường được sử dụng kết hợp với các phương
pháp khác một cách uyển chuyển, linh hoạt, vừa nhẹ nhàng, vừa sâu sát đến từng
người lao động, có tác động giáo dục rộng rãi trong xã hội. Đây là một trong những
bí quyết thành công của nhiều công ty ở Nhật Bản, ở các nước Đông Nam Á và Bắc
Âu. Khuyến khích về tinh thần phải đi liền với khuyến khích về vật chất.
Nội dung giáo dục:
- Giáo dục đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước để mọi người dân đều
hiểu, đều ủng hộ và đều quyết tâm xây dựng đất nước, có ý chí làm giàu
- Giáo dục ý thức lao động sáng tạo, có năng suất, có hiệu quả, có tổ chức
- Xóa bỏ tâm lý và phong cách của người sản xuất nhỏ mà biểu hiện là chủ nghĩa
cá nhân thu vén nhỏ mọn, tâm lý ích kỷ gia đinh đầu óc thiển cận, hẹp hỏi, tư
tưởng địa phương, cục bộ, phường hội, bình quân chủ nghĩa, không chịu để ai
hơn mình, ghen ghét dố kỵ nhau, tác phong làm việc luộm thuộm, tùy tiện, cửa
quyền, không biết tiết kiemj thời giờ, thích hội họp
- Xóa bỏ tàn dư tưởng phong kiến, thói đạo đức già, nói một đằng làm một nẻo,
thích đặc quyền, đặc lợi, thích hưởng thụ, kìm hãm thanh niên, coi thường phụ
nữ
- Xóa bỏ tàn dư tư tưởng tư sản, với các biểu hiện xấu như chủ nghĩa thực dụng
vô đạo đức, cái gì cũng chỉ cốt có lợi, bất kể đạo đức, tình người, chủ nghĩa tự
do vô Chính Phủ “ cá lớn nuốt cá bé”
- Xây dựng tác phong hiện đại công nghiệp, tính hiệu quả, hiện thực, tính tổ
chức, tính kỷ luật, đảm nhận trách nhiệm khẩn trương, tiết kiệm.
Các hình thức giáo dục: Sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng (sách
bảo, đài phát thanh, truyền hình…) sử dụng các đoàn thể, các hoạt động có tính xã
hội. Tiến hành giáo dục cá biệt, sử dụng các hội nghị tổng kết, hội thi tay nghề, hội
chợ triển lãm… sử dụng các doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả.
nền kinh tế mộ t cá ch giá n tiếp thô ng qua cơ chế hoạ t độ ng củ a thị trườ ng. Như
vậ y, cá c chiến lượ c cá c kế hoạ ch dà i hạ n, cá c dự á n phá t triển… đượ c vạ ch ra chỉ
mang tính chấ t định hướ ng. Trên cơ sở đó , Nhà nướ c sử dụ ng cô ng cụ phá p luậ t
kinh tế và cá c hệ thố ng chính sá ch khuyến khích tá c độ ng và o quan hệ lợ i ích củ a
chủ thể kinh tế, khuyến khích họ vì theo đuổ i lợ i ích riêng mà hoạ t độ ng cho sự
nghiệp chung.
Đườ ng lố i, chiến lượ c phá t triển kinh tế- xã hộ i là khở i đầ u củ a quá trình
xây dự ng và phá t triển kinh tế - xã hộ i đấ t nướ c, đượ c xem là cô ng cụ hà ng đầ u
xủ a Nhà nướ c trong quả n lý vĩ mô nền kinh tế.
Nền kinh tế nướ c ta là nền kinh tế thị trườ ng, vậ n độ ng dướ i sự chi phố i
củ a cá c quy luậ t kinh tế thị trườ ng trong mô i trườ ng cạ nh tranh vì mụ c tiêu lợ i
nhuậ n. Nhà nướ c ta là Nhà nướ c phá p quyền, thự c hiện quả n lý củ a mình đố i vớ i
xã hộ i nó i chung và nền kinh tế quố c dâ n nó i riêng, chủ yếu bằ ng phá p luậ t và
theo phá p luậ t.
đặ t ra, thự c thi và bả o vệ, nhằ m mụ c tiêu bả o toà n và phá t triển xã hộ i theo cá c
đặ c trưng đã định.
+ Vai trò củ a phá p luậ t kinh tế trong quả n lý nhà nướ c về kinh tế
Phá p luậ t kinh tế bao gồ m tổ ng thể nhữ ng vă n bả n phá p luậ t liên quan
trự c tiếp đến sự tồ n tạ i, vậ n hà nh củ a nền kinh tế. Trong nhữ ng vă n bả n phá p
luậ t đó quy định cụ thể cá c quy tắ c xử sự bắ t buộ c do Nhà nướ c đặ t ra hay thừ a
nhậ n mà mỗ i cá nhâ n hay tổ chứ c kinh tế buộ c phả i tuâ n theo để hà nh vi ứ ng xử
củ a họ phù hợ p vớ i nhữ ng quan hệ kinh tế khá ch quan và lợ i ích chung củ a xã
hộ i. Đố i tượ ng điều chỉnh củ a phá p luậ t kinh tế là các quan hệ phá t sinh trong
lĩnh vự c sả n xuấ t, phâ n phố i, lưu thô ng, tiêu dù ng và trong quá trình vậ n hà nh
quả n lý kinh tế. Quyền và nghĩa vụ củ a cá c bên tham gia nhữ ng quan hệ đó đượ c
Nhà nướ c quy định và đượ c đả m bả o thự c hiện bằ ng phá p luậ t và việc xá c định
quyền và nghĩa vụ cũ ng như việc đả m bả o thự c hiện quyền và nghĩa vụ ấ y củ a
cá c bên tham gia và o cá c hoạ t độ ng kinh tế. Bằ ng cá ch đo, phá p luậ t tá c độ ng chi
phố i hà nh vi kinh tế củ a đố i tượ ng quả n lý cũ ng như củ a chủ thể quả n lý. Do vậ y,
phá p luậ t tồ n tạ i vớ i tính cách là mộ t cô ng cụ quả n lý đố i vớ i kinh tế và vai trò
quan trọ ng thể hiện trên cá c khía cạ nh sau:
- Xá c lậ p cơ sở phá p lý, bả o vệ và hỗ trợ cho việc hình thà nh, phá t triển
đồ ng bộ cơ chế thị trườ ng. Dự a trên nhậ n thự c đú ng đắ n, khá ch quan và khoa
họ c cá c quy luậ t vậ n độ ng củ a nền kinh tế theo cơ chế thị trườ ng, Nhà nướ c ban
hà nh cá c vă n bả n phá p quy nhằ m tổ chứ c có tính chấ t nhà nướ c cá c quan hệ kinh
tế khá ch quan phù hợ p vớ i cơ chế mớ i. Mặ t khá c, sự hỗ trợ và bả o vệ củ a phá p
luậ t mà ý thự c tô n trọ ng, tuâ n thủ cá c quan hệ kinh tế khá ch quan củ a các bên
tham gia sẽ điều chỉnh hà nh vi kinh tế củ a họ , tạ o điều kiện để phá t triển cá c mố i
quan hệ đã đượ c phá p luậ t xác định, Như vậ y, phá p luậ t giữ vai trò là yếu tố tạ o
dự ng, hỗ trợ và bả o vệ cho sự hình thà nh và phá t triển cá c quan hệ kinh tế theo
mụ c tiêu định hướ ng củ a Nhà nướ c.
là yêu cầ u đương nhiên củ a bả n than phá p luậ t chứ khô ng phả i vì sự cưỡ ng chế
củ a Nhà nướ c. Sự cưỡ ng chế củ a Nhà nướ c mang tính quyền uy chỉ xuấ t phá t từ
yêu cầ u bả o vệ phá p luậ t dướ i dạ ng ră n đe, do vậ y có tá c dụ ng nâ ng cao hiệu lự c
củ a cô ng cụ phá p luậ t kinh tế.
Cô ng cụ phá p luậ t về quả n lý nhà nướ c chủ yếu là quả n lý hà nh chính kinh
tế. Do vậ y phá p luậ t là cô ng cụ quan trọ ng nhấ t để Nhà nướ c điều hà nh nền kinh
tế.
Kinh tế phá t triển phả i đượ c hướ ng theo nhữ ng mụ c tiêu đã đượ c lự a
chọ n, hướ ng theo cá c chương trình có mụ c tiêu nhấ t định. Kinh tế trong ngắ n
hạ n, đầ u và o khó biến đổ i lớ n thì hiệu quả đầ u ra có giớ i hạ n. Nền kinh tế trong
dà i hạ n có sự biến đổ i lớ n ở đầ u và o, đó là sự thay đổ i lớ n vè cá c yếu tố lao độ ng,
Kế hoạ ch mang định hướ ng giá n tiếp là chủ yếu. Song kế hoạ ch phả n á nh
nhữ ng quy luậ t, nhữ ng tấ t yếu khá ch quan. Nó đượ c thô ng qua bộ ó c tinh vi-
thô ng minh và nhạ y cả m củ a Nhà nướ c đề chính kế hoạ ch phá t hiện đượ c cá c tồ n
tạ i…Cũ ng chính kế hoạ ch mà phá t hiện cá c tiềm nă ng mớ i, nộ i lự c mớ i, thủ đoạ n,
kỹ nă ng mớ i để giả i quyết nhữ ng vấ n đề thự c tiễn bị che lấ p trong kinh tế mà
chưa đượ c phá t hiện để đẩ y nhanh sự phá t triển.
- Kế hoạ ch cho phép chủ thể quả n lý cũ ng như mọ i bộ phậ n trong hệ thố ng
quả n lý nhậ n thứ c thố ng nhấ t về đườ ng đi, cá ch đi thích hợ p nhanh chó ng đạ t tớ i
mụ c tiêu. Trên cơ sở thố ng nhấ t nhậ n thứ c mà hoạ t độ ng củ a mọ i cấ p, mọ i bộ
phậ n, mọ i tổ chứ c tự giá c, chủ độ ng và thố ng nhấ t trong hà nh độ ng thự c tiễn.
- Trong nền kinh tế thị trườ ng, kế hoạ ch hướ ng dẫ n và giá n tiếp là chủ yếu.
Chính sá ch kinh tế có vai trò quan trọ ng, giú p Nhà nướ c điều khiển hoạ t
độ ng củ a cá c chủ thể kinh tế. Nhờ cá c chính sá ch kinh tế dẫ n dắ t hoạ t độ ng mà
cá c chủ thể kinh tế đã hà nh độ ng phù hợ p vớ i lợ i ích chung củ a xã hộ i, cá c nguồ n
lự c tà i nguyên đượ c huy độ ng mộ t cách có hiệu quả để đạ t đến mụ c tiêu và cá c
kế hoạ ch định hướ ng.
Tù y theo cách tiếp cậ n khá c nhau, ngườ i ta phâ n loạ i cá c chính sá ch kinh tế
như sau:
- Chính sá ch tà i khó a
- Chính sá ch tiền tệ
- Chính sá ch tạ o việc là m
Nền kinh tế thị trườ ng tư bả n phá t triển theo chu kì kinh doanh, theo
khủ ng hoả ng chu kỳ. Cá c nhà nướ c tư bả n đã sử dụ ng nhiều chính sá ch kinh tế
phố i hợ p như chính sá ch chố ng chu kỳ bằ ng sự phố i hợ p giữ a cá c chính sá ch tà i
khó a và chính sá ch tiền tệ để chố ng lạ i chu lỳ kinh doanh. Nhà nướ c tư sả n có thể
dung chính sá ch tà i chính và chính sá ch tiền tệ thắ t chặ t để chố ng lạ i khủ ng
hoả ng.