You are on page 1of 26

Chương 3

NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA QUẢN LÝ KINH TẾ

3.1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ BẢN CHẤT CỦA NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ KINH
TẾ

3.1.1. Cơ sở hình thành các nguyên tắc quản lý kinh tế

Nguyên tắc quản lý kinh tế được xem là những quy tắc chuẩn mực chi phối mọi
hành động của các chủ thể quản lý trong quá trình quản lý kinh tế. Những quy tắc này
được hình thành dựa trên các cơ sở như: các quy luật khách quan, điều kiện thực tiễn của
quốc gia và các mục tiêu quản lý kinh tế...

a) Các quy luật khách quan

Quy luật khách quan là mối liên hệ bản chất, phổ biến và bền vững, được lặp đi lặp
lại của sự vật, hiện tượng trong những điều kiện nhất định. Hệ thống quy luật bao gồm
các quy luật tự nhiên - kỹ thuật, quy luật kinh tế - xã hội, quy luật tâm lý, tổ chức...

Hệ thống quy luật là cơ sở lý luận trực tiếp hình thành các nguyên lý quản lý kinh
tế. Quy luật chỉ ra xu hướng vận động tất yếu của hiện thực, vì vậy nguyên tắc quản lý
phải đảm bảo phù hợp với quy luật. Chỉ trên cơ sở tuân thủ yêu cầu của các quy luật thì
nguyên tắc quản lý mới chứa đựng nội dung khoa học, đảm bảo cho việc thực hiện
nguyên tắc có hiệu quả. Nói cách khác, nguyên tắc quản lý chính là phương tiện giúp chủ
thể quản lý nhận thức và vận dụng yêu cầu của các quy luật vào quá trình quản lý.

Các quy luật kinh tế - xã hội tác động trực tiếp đến quá trình phát triển kinh tế, bao
gồm các quy luật phổ biến, quy luật chung và quy luật đặc thù. Trong nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, các quy luật sau
đây là cơ sở trực tiếp hình thành hệ thống nguyên tắc quản lý kinh tế:

- Quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất.

- Quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc hạ tầng.


- Quy luật phân phối theo lao động.

- Các quy luật của kinh tế hàng hóa như quy luật giá trị, cung - cầu, cạnh tranh...

b) Căn cứ thực tiễn

Nhận thức các quy luật mới chỉ là bước thứ nhất của quá trình thiết lập các nguyên
tắc quản lý kinh tế. Bước quan trọng thứ hai đó là phải nghiên cứu và nắm bắt thực tiễn
để hình thành cơ sở xây dựng các nguyên tắc quản lý kinh tế. Những căn cứ thực tiễn đó
là: các điều kiện kinh tế - xã hội, yếu tố văn hóa kinh tế, các bài học kinh nghiệm...

Điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước là căn cứ thực tiễn quan trọng đầu tiên của
các nguyên tắc quản lý kinh tế. Cụ thể khi đề ra nguyên tắc phải dựa trên các điều kiện
kinh tế - xã hội bao gồm: tiềm lực về tài nguyên thiên nhiên, lao động, tiền vốn, khoa học
– công nghệ; khả năng khai thác các nguồn lực để phát triển kinh tế; năng lực điều hành
của đội ngũ các nhà quản lý... đối với nền kinh tế quốc dân nói chung cũng như các đơn
vị kinh tế cơ sở nói riêng. Khi hoạch định chính sách quản lý nếu không chú trọng đến
những yếu tố này có thể gây ra những sai lầm lệch lạc, dẫn đến các chính sách không đạt
được tính khả thi.

Ngoài ra để hình thành nguyên tắc quản lý kinh tế còn cần chú ý đến yếu tố văn hóa
kinh tế. Đó là sự thống nhất biện chứng giữa tri thức, niềm tin và sự sáng tạo của tập thể
và người lao động trong quá trình hoạt động kinh tế. Văn hóa kinh tế biểu hiện tính đặc
thù về truyền thống, đạo đức, phong tục, tập quán của một dân tộc, có tác dụng thúc đẩy
sự kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Mỗi quốc gia, mỗi địa phương
đều có những đặc điểm văn hóa riêng biệt. Do vậy các nhà quản lý trong quá trình hoạch
định các chính sách cần có sự điều chỉnh cho phù hợp với các yếu tố văn hóa kinh tế của
từng quốc gia, từng địa phương.

Bên cạnh đó, kinh nghiệm của nhân loại về phát triển kinh tế cũng là một căn cứ
thực tiễn không kém phần quan trọng để thiết lập nguyên tắc quản lý kinh tế. Đó là những
bài học về khai thác các nguồn lực có hạn để tăng trưởng kinh tế, về mở rộng quan hệ
kinh tế đối ngoại, về kết hợp các yếu tố truyền thống và hiện đại, về mối quan hệ giữa
quản lý tập trung thống nhất và bảo đảm quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của cơ sở.
Đặc biệt là kinh nghiệm quản lý nhà nước về kinh tế và quản lý sản xuất kinh doanh của
các quốc gia tiên tiến, các doanh nghiệp thành đạt trên thế giới... Tuy nhiên, do mỗi quốc
gia đều có các đặc điểm đặc thù khác biệt nên các nhà quản lý kinh tế phải có sự am hiểu
tình hình cụ thể của quốc gia mình để có sự điều chỉnh cho phù hợp khi áp dụng các kinh
nghiệm quản lý.

c) Mục tiêu quản lý

Ngoài hệ thống quy luật và cơ sở thực tiễn, để hình thành các nguyên tắc quản lý
kinh tế còn phải dựa vào các mục tiêu quản lý kinh tế. Mục tiêu là điểm khởi đầu của
quản lý và là cái đích phải đạt tới. Nguyên tắc quản lý kinh tế đặt ra nhằm để thể hiện
mục tiêu, do đó mục tiêu là cơ sở để đề ra nguyên tắc quản lý. Mục tiêu cơ bản nhất trong
quản lý kinh tế là huy động tối đa mọi nguồn lực để đảm bảo tính hiệu quả trong quá
trình hoạt động của tổ chức, phục vụ lợi ích của các thành viên trong tổ chức, đảm bảo sự
tồn tại và phát triển của các tổ chức. Quá trình quản lý kinh tế cần dựa trên mục tiêu trên
để đề ra các quyết định quản lý.

Mục tiêu còn tạo ra sự hỗ trợ và định hướng đối với tiến trình quản lý, là cơ sở để
đo lường mức độ hoàn thành công việc. Một hệ thống không có mục tiêu hoạt động thì
quá trình quản lý của nó cũng như một chuyến đi không có nơi đến và vô nghĩa. Căn cứ
vào mục tiêu để quản lý và quản lý vì mục tiêu, khi mục tiêu thay đổi thì nguyên tắc cũng
phải thay đổi cho phù hợp. Vì vậy, mặc dù nguyên tắc quản lý có tính chất tương đối ổn
định nhưng không đồng nghĩa với việc "bất di, bất dịch", cứng nhắc, máy móc trong quá
trình triển khai thực hiện.

Ngoài ra, có nhiều nguyên tắc quản lý gắn với nhiều cấp độ, lĩnh vực quản lý khác
nhau. Cho nên về cơ bản, để có thể thực hiện được các nguyên tắc quản lý phải đảm bảo
sự thống nhất với nhau. Nếu các nguyên tắc quản lý có mâu thuẫn thì chúng có thể gây
khó khăn và sự kém hiệu quả trong quản lý. Do vậy, đảm bảo tính hệ thống và nhất quán
là yêu cầu và cũng là cơ sở để xây dựng các nguyên tắc quản lý kinh tế.
3.1.2. Bản chất của nguyên tắc quản lý kinh tế

Trước hết, nguyên tắc là những điều cơ bản được tổ chức đặt ra dựa trên những
quan điểm tư tưởng nhất định, đòi hỏi các tổ chức và cá nhân phải tuân theo. Do đó,
nguyên tắc quản lý là các quy tắc chỉ đạo, những tiêu chuẩn hành vi, những quan điểm
cơ bản có tác dụng chi phối mọi hoạt động quản lý các chủ thể quản lý phải tuân thủ
trong quá trình tiến hành các hoạt động quản lý.

Cũng giống như bất kì một hoạt động có mục đích nào, quản lý nhà nước về kinh tế
cũng được tiến hành trên cơ sở những nguyên tắc nhất định. Đó là hệ thống các phương
pháp, cơ chế, công cụ... mà các tổ chức và cá nhân những người quản lý sử dụng để điều
khiển, phối hợp, động viên, kiểm tra... nhằm hướng đối tượng đạt tới mục tiêu. Đây cũng
chính là các tư tưởng chủ đạo rất quan trọng trong tổ chức và hoạt động giúp các chủ thể
quản lý nhà nước thực hiện có hiệu quả các công việc của mình trên các lĩnh vực đã được
phân công.

Quy tắc chỉ đạo quy định tính xuyên suốt, chi phối từ đầu đến cuối của quá trình
quản lý, bắt buộc chủ thể quản lý phải thực hiện mà không có quyền lựa chọn.

Tiêu chuẩn hành vi quy định chuẩn mực đánh giá hoạt động quản lý, đòi hỏi các nhà
quản lý phải thường xuyên rèn luyện theo tiêu chuẩn đó.

Quan điểm cơ bản xác định định hướng và phạm vi của quản lý, đòi hỏi các nhà
quản lý phải nắm vững và kiên định thực hiện trong mọi hành động và trong suốt quá
trình quản lý.

Như vậy, nguyên tắc quản lý kinh tế là những chuẩn mực, những quy định mang
tính bắt buộc do chủ thể quản lý đặt ra và thực hiện trong quá trình quản lý kinh tế. Nó
giúp các nhà quản lý trả lời câu hỏi: "phải làm gì", "không được làm gì" trong quá trình
thực hiện các hoạt động quản lý kinh tế.

Các nguyên tắc trong quản lý nhà nước về kinh tế vừa mang tính chủ quan vừa
mang tính khách quan. Tính chủ quan thể hiện ở chỗ nó là sản phẩm của các tổ chức và
cá nhân những người quản lý tạo ra. Nhưng mặt khác do nó được hình thành trên cơ sở
chủ thể quản lý nhận thức và vận dụng hệ thống các quy luật - mà trước hết là các quy
luật kinh tế - nên nguyên tắc quản lý kinh tế lại mang tính khách quan và khoa học.
Ănghen cho rằng "Nguyên tắc không phải là được ứng dụng vào giới tự nhiên và lịch sử
loài người mà được rút ra trong giới tự nhiên và lịch sử loài người. Không phải giới tự
nhiên và loài người thích ứng với nguyên tắc mà trái lại nguyên tắc chỉ đúng nếu nó phù
hợp với giới tự nhiên và lịch sử" nên các nguyên tắc trong quản lý nhà nước phải được
xây dựng và rút ra từ thực tiễn quản lý nhà nước về kinh tế và vận dụng vào điều kiện
kinh tế cụ thể của từng quốc gia. Nói cách khác, nguyên tắc quản lý kinh tế là hệ thống
các quy luật khách quan được các chủ thể quản lý nhận thức và vận dụng vào điều kiện
kinh tế cụ thể của đất nước nhằm thiết lập các chuẩn mực và quy định bắt buộc đối với
quá trình quản lý kinh tế.

Do nguyên tắc quản lý kinh tế vừa mang tính chủ quan vừa mang tính khách quan
nên nhà quản lý cần không ngừng hoàn thiện nội dung các nguyên tắc cho phù hợp với
yêu cầu tác động của hệ thống quy luật trong từng thời kì nhất định. Các nguyên tắc quản
lý kinh tế cũng cần được sử dụng một cách linh hoạt và sáng tạo cho từng đối tượng quản
lý cụ thể. Ngoài ra, nguyên tắc quản lý kinh tế là sự thể hiện ý chí, nguyện vọng của
những người lãnh đạo quản lý cấp trên, vì thế nó phụ thuộc và năng lực nhận thức và vận
dụng quy luật cũng như khả năng nắm bắt thực tiễn của những người quản lý quyền lực
đó.

3.2. CÁC NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ KINH TẾ CƠ BẢN

Trên thực tế, việc tiến hành hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế cần phải dựa trên
rất nhiều nguyên tắc khác nhau. Có những nguyên tắc quản lý chung mang tính phổ biến,
có những nguyên tắc quản lý riêng phù hợp với các tổ chức, lĩnh vực khác nhau do các
chủ thể quản lý khác nhau đề ra và thực hiện. Trong đó có những nguyên tắc được xác
định là nguyên tắc cơ bản mang tính phổ biến, có tính bao trùm, chi phối toàn bộ hoạt
động cơ bản của quản lý nhà nước về kinh tế như:

- Nguyên tắc thống nhất sự lãnh đạo chính trị và kinh tế


- Nguyên tắc tập trung dân chủ

- Nguyên tắc kết hợp hài hòa các lợi ích kinh tế

- Nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả...

Dưới đây sẽ xem xét cơ sở, nội dung và yêu cầu cụ thể của từng nguyên tắc quản lý
kinh tế.

3.2.1. Nguyên tắc thống nhất lãnh đạo chính trị và kinh tế

3.2.1.1. Cơ sở của nguyên tắc thống nhất lãnh đạo chính trị và kinh tế

a) Cơ sở lý luận

Nguyên tắc thống nhất lãnh đạo chính trị và kinh tế xuất phát từ mối quan hệ giữa
kinh tế và chính trị nhằm đảm bảo sự kết hợp hài hòa giữa mục tiêu kinh tế và mục tiêu
chính trị - xã hội trong mọi hình thái kinh tế xã hội, đó là biểu hiện tập trung giữa mối
quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.

Kinh tế là tổng thể các yếu tố sản xuất và các mối quan hệ người - người mà cốt yếu
là quan hệ sở hữu và lợi ích. Chính trị theo nghĩa rộng là tổng thể các quan điểm, các
phương pháp hoạt động thực tế của Đảng, của Nhà nước, của giai cấp mà mấu chốt là vấn
đề chính quyền, vấn đề quyền lực. Theo nghĩa hẹp, chính trị là đường lối xử sự khéo léo
để đạt được mục tiêu đề ra. Kinh tế và chính trị luôn có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
Kinh tế tự bản thân nó đã là chính trị vì nó quyết định quyền thống trị của giai cấp này
đối với giai cấp khác trong xã hội. Lợi ích thì quyết định quan điểm, đường lối xử sự. Lợi
ích của giai cấp thống trị là xuất phát điểm của các chính sách và cơ chế quản lý kinh tế;
là cơ sở để xây dựng thể chế chính trị, pháp luật, hệ tư tưởng... Do đó, không có kinh tế
thuần túy mà bao giờ nó cũng phục vụ cho nhiệm vụ chính trị. Nói cách khác, kinh tế là
tiền đề vật chất bảo đảm cho sự phát triển của xã hội do đó kinh tế quyết định chính trị.
Mặt khác, chính trị tác động trở lại đến kinh tế vì đường lối tốt là cơ sở để phát triển tốt
về kinh tế, đường lối bế tắc sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh tế. Chính trị là sự phản ánh
xã hội của kinh tế nhưng nó không phản ánh một cách thụ động thực tế kinh tế, mà nó là
phương tiện mạnh mẽ tác động và chi phối nền kinh tế. Một khi quyền thống trị về chính
trị được xác lập thì nó trở thành phương tiện để giai cấp thống trị duy trì và thực hiện
những lợi ích căn bản của mình, mà trước hết là các lợi ích kinh tế. Cho nên, xét đến
cùng, chính trị là tổng thể các quan điểm, các phương thức hoạt động của các tổ chức
chính quyền nhằm khắc phục, điều hòa các mâu thuẫn về lợi ích nhất là lợi ích về kinh tế
nảy sinh giữa các giai cấp và tầng lớp trong xã hội.

b) Cơ sở thực tiễn

Trên thực tế, đường lối chính trị của Đảng cầm quyền bao giờ cũng được thể hiện
cụ thể trong lãnh đạo các hoạt động về kinh tế. Trên cơ sở đường lối chính trị, Nhà nước
xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn cụ thể.
Do đó, Đảng lãnh đạo về đường lối chính trị luôn được thể hiện trong nội dung quản lý,
điều hành các hoạt động kinh tế của Nhà nước bằng các công cụ, các chính sách quản lý
kinh tế cụ thể. Cũng như vậy, các nguyên tắc của quản lý kinh tế phải đảm bảo tính thống
nhất giữa lãnh đạo chính trị của Đảng với quản lý, điều hành và kiểm soát các hoạt động
kinh tế của Nhà nước. Sự tác động của chính quyền có thể làm cho kinh tế phát triển
nhanh chóng và cũng có thể gây thiệt hại lớn tùy thuộc sự tác động đó là hợp lý hay bất
hợp lý.

Hoạt động kinh tế trên thị trường diễn ra rất phức tạp với nhiều mối quan hệ đa
dạng, nhiều chiều. Do vậy, để có thể duy trì ổn định thị trường, đảm bảo quyền lợi hợp
pháp của các cá thể tham gia vào nền kinh tế cần phải có sự quản lý thống nhất của Nhà
nước. Sự quản lý thống nhất của Nhà nước về kinh tế chỉ có thể bằng các chính sách,
pháp luật mới đảm bảo sự phù hợp, đáp ứng yêu cầu của hội nhập và phát triển. Vì thế, sự
thống nhất trong lãnh đạo chính trị và kinh tế là nguyên tắc quan trọng chi phối các hoạt
động kinh tế và quản lý kinh tế.

3.2.2.2. Nội dung của nguyên tắc thống nhất lãnh đạo chính trị và kinh tế

Nguyên tắc thống nhất lãnh đạo chính trị và kinh tế có những nội dung chủ yếu sau:

Thứ nhất, phát triển kinh tế là nhiệm vụ chính trị chủ yếu nhất của mọi tổ chức trong
hệ thống chính trị - xã hội.
Phát triển kinh tế là để tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa dịch vụ thỏa mãn nhu cầu
ngày càng tăng của xã hội; tạo cơ sở vật chất để phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội;
củng cố an ninh quốc phòng; tạo niềm tin cho quần chúng nhân dân vào chế độ, đưa đất
nước tiến kịp các quốc gia tiên tiến trên thế giới. Vì thế, các tổ chức và cá nhân trong hệ
thống chính trị - xã hội, mà trước hết là tổ chức Đảng và Nhà nước, phải tập trung vào
việc xây dựng đường lối, chính sách phát triển kinh tế, đồng thời động viên quần chúng
nhân dân tham gia tích cực và sáng tạo trong các hoạt động kinh tế; vừa phát triển kinh tế
vừa phải giữ gìn bảo vệ chủ quyền độc lập đất nước, an ninh an toàn xã hội; vừa đấu
tranh chống nạn tham nhũng và tệ quan liêu, vừa đấu tranh chống nguy cơ diễn biến hòa
bình của các thế lực thù địch.

Ở nước ta, chính quyền các cấp, các đơn vị kinh doanh, hành chính sự nghiệp, các
tổ chức quần chúng trong xã hội đều có trách nhiệm, đóng góp thiết thực đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Các hoạt động kinh tế đều phải dựa trên quan điểm
kinh tế - chính trị - xã hội toàn diện, kết hợp hài hòa giữa mục tiêu kinh tế với mục tiêu
chính trị - xã hội.

Thứ hai, sự thống nhất lãnh đạo của Đảng thể hiện cả về chính trị và kinh tế, không
tách rời hoặc đối lập nhau.

Trong thực tiễn, sự thống nhất về chính trị và kinh tế biểu hiện ở mức độ cao thấp
rất khác nhau, nhưng xu hướng chung là những bất đồng về chính trị đều gây nên những
trở ngại thậm chí thất bại trong các đàm phán, hợp tác về phát triển kinh tế. Ở đâu và nơi
nào có sự thống nhất cao giữa chính trị và kinh tế thì ở đó kinh tế được phát triển theo
chiều hướng tốt, đạt hiệu quả cao hơn và ngược lại. Ngày nay, trong bối cảnh hội nhập
kinh tế đa dạng, nhiều chiều, những yếu tố chính trị càng thể hiện nhiều hơn, sâu hơn
trong các lĩnh vực kinh tế thay thế cho cách thức giải quyết vấn đề kinh tế thuần túy do
thị trường chi phối, quyết định như trước đây. Muốn như vậy, phải phát huy vai trò của
Đảng trong mặt trận phát triển kinh tế và quản lý kinh tế. Cụ thể như sau:

- Đảng hình thành quan điểm, vạch đường lối, chủ trương chiến lược phát triển kinh
tế xã hội.
- Đảng phải chỉ rõ con đường, biện pháp, phương tiện để thực hiện được đường lối
chủ trương đã vạch ra.
- Đảng phải phải nắm chắc vấn đề nhân sự của bộ máy; động viên được đông đảo
quần chúng và cán bộ đảng viên đoàn kết nhất trí thực hiện đường lối chủ trương và phát
huy năng lực sáng tạo trong sản xuất kinh doanh.
- Đảng phải thực hiện kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện đường lối phát triển kinh
tế đã được xây dựng.

Thứ ba, phải phát huy vai trò điều hành, quản lý của Nhà nước trong quá trình phát
triển kinh tế bằng hệ thống chính sách, luật pháp và các công cụ kế hoạch hóa.

Tất cả chủ thể kinh doanh của các thành phần kinh tế cùng các hoạt động kinh tế
của họ trên thị trường đều phải đặt dưới sự quản lý, kiểm soát của Nhà nước theo quy
định của pháp luật. Vai trò của Nhà nước cụ thể như sau:

- Nhà nước biến đường lối chủ trương của Đảng thành kế hoạch phát triển kinh tế
xã hội, chống nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế
giới.
- Nhà nước phải dùng quyền lực của mình để hoàn chỉnh hệ thống pháp luật làm
cho pháp luật được thực hiện nghiêm minh.
- Nhà nước phải chăm lo, giải quyết vấn đề cán bộ, vấn đề lao động, vấn đề việc
làm và đời sống dân cư.
- Nhà nước triển khai việc thực hiện kế hoạch do Nhà nước vạch ra.
- Nhà nước phải kiểm tra, tổng kết việc thực hiện kế hoạch, đảm bảo cho sự phát
triển kinh tế - xã hội cân bằng và ổn định.

3.2.2.3. Yêu cầu thực hiện nguyên tắc thống nhất lãnh đạo chính trị và kinh tế

Để thực hiện nguyên tắc thống nhất lãnh đạo chính trị và kinh tế, cần đảm bảo các
yêu cầu sau:

- Thống nhất các mục tiêu chính trị với kinh tế - xã hội và các mục tiêu khác
- Hệ thống chính sách, pháp luật cần thống nhất, ổn định và nhất quán. Các chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, chương trình dự án phải rõ ràng, công khai
và minh bạch.

- Nâng cao năng lực chuyên môn về kinh tế và tố chất chính trị của cán bộ lãnh đạo,
quản lý.

3.2.2. Nguyên tắc tập trung dân chủ

3.2.2.1. Cơ sở của nguyên tắc tập trung dân chủ

a) Cơ sở lý luận

Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản trên mọi lĩnh vực nhằm đảm bảo
trật tự kỉ cương trong tổ chức mà vẫn phát huy được sự năng động sáng tạo của đội ngũ
trong quá trình hoạt động. Nó được xem là nguyên tắc quan trọng nhất trong quản lý nói
chung và quản lý nhà nước về kinh tế nói riêng. Nguyên tắc này dựa trên cơ sở mối quan
hệ biện chứng giữa tập trung và dân chủ.

Tập trung và dân chủ là hai mặt của một thể thống nhất. Tập trung trong nguyên tắc
thể hiện sự thống nhất quản lý từ một trung tâm - nơi tập hợp trí tuệ, ý chí, nguyện vọng
và cơ sở vật chất của cả một quốc gia nhằm đạt hiệu quả tổng thể cao nhất; tránh sự phân
tán, rối loạn và triệt tiêu sức mạnh chung. Nói cách khác tập trung là yêu cầu khách quan
khi có lao động tập thể: Ở đâu có hoạt động và hình thành tổ chức thì ở đó nảy sinh nhu
cầu tập trung nhằm tạo lập sự thống nhất lý chí, tư tưởng, hành động, dùng sức mạnh của
tổ chức để giải quyết mọi vấn đề. Việc tập trung quyền lực cho lãnh đạo sẽ điều hòa được
những quan hệ nội bộ cũng như quan hệ đối ngoại. Nhưng nếu tập trung quá sẽ dẫn đến
chuyên quyền, độc đoán, không phát huy được sự sáng tạo của đội ngũ, do đó cần thiết
phải thực hiện dân chủ. Dân chủ thể hiện sự tôn trọng quyền chủ động sáng tạo của tập
thể và cá nhân người lao động trong các hoạt động của đời sống xã hội. Như vậy, tập
trung là để đảm bảo quản lý, lãnh đạo và điều hành của Nhà nước thống nhất trong cả
nước, nhưng dân chủ lại đảm bảo sự tự do sáng tạo và tính chủ động cho địa phương
quản lý kinh tế theo địa bàn lãnh thổ.
Tập trung là điều kiện để phát huy dân chủ, mặt khác dân chủ phải đi liền với sự
quản lý tập trung thống nhất; dân chủ phải có mục đích và định hướng. Sự yếu kém, lỏng
lẻo của tập trung sẽ làm suy yếu dân chủ. Đồng thời, sự phát triển lệch lạc của dân chủ sẽ
làm suy yếu tập trung. Tách rời tập trung khỏi dân chủ và ngược lại thì không những cả
tập trung lẫn dân chủ đều không được thực hiện mà còn đẩy chúng đến nguy cơ bị biến
dạng. Để khắc phục tình trạng trên, đảm bảo giải quyết hài hòa thuận chiều mối quan hệ
giữa tập trung và dân chủ thì mở rộng dân chủ phải trên cơ sở không phá vỡ tập trung
cũng như tăng cường tập trung phải hướng theo mục đích và hiệu quả tăng lên của dân
chủ. Nói cách khác, tập trung phải dựa trên cơ sở dân chủ thực sự mới tạo được sức mạnh
của cả hệ thống còn dân chủ phải trong khuôn khổ tập trung thì lợi ích từng thành viên
mới được đảm bảo.

b) Cơ sở thực tiễn

Hoạt động kinh tế diễn ra trên phạm vi cả nước và từng địa phương, trên cả thị
trường nội địa và quốc tế, do đó cần sự lãnh đạo, chỉ huy tập trung thống nhất thông qua
những định hướng, hướng dẫn pháp luật và chính sách điều tiết vĩ mô của Nhà nước,
đồng thời vừa phải mở rộng quyền dân chủ, tự quyết và tự chịu trách nhiệm cho các địa
phương và các doanh nghiệp. Mỗi địa phương có đặc thù riêng về lợi thế so sánh, những
đặc sắc về văn hóa, khác biệt về tập quán tiêu dùng... nên việc trao quyền và đề cao trách
nhiệm của địa phương đối với công tác quản lý trên địa bàn được phân công là hết sức
cần thiết.

Quản lý tập trung là yêu cầu khách quan của nền kinh tế có phân công lao động xã
hội và là điều kiện để giai cấp thống trị duy trì những lợi ích căn bản của mình. Tuy
nhiên, phải không ngừng hoàn thiện nội dung và phương pháp quản lý của Nhà nước để
không trở về với cơ chế tập trung quan liêu như trước đây. Trong nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, nếu không có sự quản lý tập trung của Nhà nước thì thị trường sẽ bị rối
loạn, cơ cấu kinh tế sẽ mất cân đối, tăng trưởng kinh tế không đi liền với công bằng xã
hội, phân hóa giàu nghèo ngày một gia tăng... Tương tự, bảo đảm quyền tự chủ, tự quyết
cho các đơn vị kinh tế cơ sở là tất yếu khách quan nếu muốn khai thác triệt để tiềm năng
của các thành phần kinh tế. Các đơn vị kinh tế có quyền tham gia đóng góp ý kiến vào
các chủ trương, chính sách, hoàn thiện chính sách pháp luật, họ có quyền đòi hỏi nhà
nước phải bảo vệ lợi ích chính đáng của họ và giải quyết hài hòa lợi ích giữa nhà nước,
cộng đồng doanh nhân và xã hội. Mặt khác, cơ chế thị trường đòi hỏi nhà quản lý phải
tiếp cận và xử lý linh hoạt các thông tin có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh.
Vì vậy, quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước phải đi liền với bảo đảm quyền chủ
động sáng tạo của cơ sở để huy động tối đa các nguồn lực cho sự phát triển bền vững của
nền kinh tế.

3.2.2.2. Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ

Nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ là phải đảm bảo mối quan hệ
chặt chẽ và tối ưu giữa tập trung và dân chủ trong quản lý kinh tế; tôn trọng và thực hiện
dân chủ thông qua các quyết định của tập trung, đảm bảo quyền lực của tập trung dựa
trên cơ sở của dân chủ và vì mục đích của dân chủ. Nội dung đó được biểu hiện như sau:

Thứ nhất, Nhà nước thực hiện chế độ lãnh đạo tập thể gắn liền với chế độ phân
công cá nhân phụ trách.

Trong quá trình hoạch định các chính sách, vạch ra các chiến lược kinh tế của quốc
gia, nếu chỉ giao cho một cá nhân chịu trách nhiệm toàn bộ thì khó có thể tìm được giải
pháp tối ưu, hiệu quả. Cần có sự phối hợp, bổ sung và kết tinh trí tuệ, năng lực, kinh
nghiệm, phong cách, bản lĩnh của mỗi cá nhân để tạo thành trí tuệ tập thể, ý chí và hành
động tập thể cùng hướng tới giải quyết những vấn đề lớn, những mục tiêu chung. Trong
đó, lựa chọn những bộ phận ưu tú nhất thành lập nên tập thể ban lãnh đạo đại diện cho
quyền lực, ý chí, nguyện vọng chung. Cần phát huy trí tuệ tập thể trong xây dựng đường
lối, phương hướng, chủ trương, xác định các chính sách, biện pháp lớn và tổ chức chỉ đạo
thực hiện, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc bằng những kế hoạch, công việc cụ thể. Tuy
nhiên, quyết định tập thể chỉ hiệu quả khi được xây dựng trên cơ sở đoàn kết, thống nhất
cộng đồng trách nhiệm, thảo luận thực sự dân chủ, tôn trọng và phát huy năng lực của cá
nhân. Vì thế, trong tập thể lãnh đạo ra quyết định cần có sự phân chia trách nhiệm rõ ràng
giữa các thành viên, chọn ra người đứng đầu để thống nhất các ý kiến thảo luận và đưa ra
quyết định cuối cùng. Nói cách khác, chế độ tập thể lãnh đạo phải đi liền với chế độ phân
công phụ trách để nâng cao vai trò quyết định của tập thể gắn liền với phát huy vai trò và
đề cao trách nhiệm của cá nhân, đặc biệt là vai trò của thủ trưởng.

Thứ hai, vừa tôn trọng quyền lãnh đạo, quyết định của trung tâm, của cơ quan
Trung ương, vừa chú trọng mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở thông
qua những quy định về phân cấp quản lý.

Xuất phát từ yêu cầu duy trì và củng cố sức mạnh của tổ chức, đảm bảo hiệu lực và
hiệu quả của mọi hoạt động quản lý, việc thực hiện một đường lối thống nhất, quyền lãnh
đạo từ một trung tâm và tính chất bắt buộc thực hiện các quyết định của cấp trên là một
tất yếu.

Tuy nhiên, bên cạnh đó, để phát huy năng lực sáng tạo của mỗi cá nhân, khuyến
khích sự đối phó linh hoạt của mỗi địa phương trong những hoàn cảnh khác nhau, Nhà
nước cần mở rộng tối đa sự phân cấp và trao quyền trong quản lý. Phân cấp quản lý là sự
phân công chuyển giao thẩm quyền (quyền hạn và trách nhiệm) giữa các cấp khác nhau
của hệ thống các cơ quan quản lý Nhà nước về kinh tế. Đó có thể là hình thức phân công
lại quyền ra quyết định cùng trách nhiệm quản lý và tài chính giữa các cấp khác nhau của
bộ máy chính phủ Trung ương (tản quyền); hay là việc các cơ quan Nhà nước được chính
phủ chuyển giao quyền ra quyết định và quản lý một số chức năng hành chính nhà nước
cho các cơ quan khác trong hệ thông (ủy quyền); hoặc là việc chuyển giao quyền hạn và
trách nhiệm ở mức độ nào đó, một phần hay toàn bộ, từ Chính phủ cho các chính quyền
địa phương hay cho các công sở để thực hiện những nhiệm vụ nhất định (trao quyền)…
Việc mở rộng phân cấp quản lý giúp các cơ sở có thể phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm, từ đó nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý kinh tế.

Trong bước đường đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay, quán triệt tập trung lãnh đạo
và điều hành tập trung thống nhất của Trung ương, đồng thời phát huy trách nhiệm và
tính chủ động sáng tạo của địa phương. Khắc phục cả hai khuynh hướng lệch lạc: phân
tán cục bộ và tập trung quan liêu. Phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của mỗi cấp
chính quyền; tập trung vào Trung ương quyền quyết định những vấn đề ở tầm vĩ mô,
đồng thời phân cấp quản lý để phát huy tính chủ động và tinh thần trách nhiệm của chính
quyền địa phương. Đó là hai điểm chủ yếu về nội dung trong hoạt động quản lý, vấn đề
xuyên suốt trong mọi vấn đề của tập trung dân chủ. Thiếu nó không thể có sức mạnh và
uy tín của lãnh đạo, cũng như không thể làm cho dân chủ mang nội dung, ý nghĩa đích
thực.

Thứ ba, kết hợp quản lý theo ngành và quản lý theo vùng lãnh thổ

Quản lý theo ngành là định hướng chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế của cả
nước, xây dựng cơ chế, chính sách thương mại phù hợp hệ thống pháp luật trong nước,
quốc tế và cam kết hội nhập nhằm thúc đẩy tự do hóa thương mại, bảo vệ sản xuất và thị
trường nội địa hợp lý theo định hướng chiến lược và quy hoạch phát triển. Phối hợp các
ngành xây dựng khung pháp lý và đưa chính sách, pháp luật vào thực tiễn phát triển kinh
tế của cả nước. Quản lý theo vùng lãnh thổ có nội dung quy hoạch, xây dựng và phát
triển hạ tầng thương mại của địa phương hoặc vùng, cụ thể hóa chính sách kinh tế của
quốc gia, huy động và phát triển các nguồn lực để thực thi trách nhiệm quản lý kinh tế
trên địa bàn lãnh thổ. Địa phương có thể xây dựng những chính sách, quy định đặc thù
của lãnh thổ nhằm khai thác tiềm năng, lợi thế so sánh về kinh tế trên địa bàn. Kết hợp
quản lý theo ngành và theo lãnh thổ là biểu hiện của việc quản lý dựa trên nguyên tắc tập
trung dân chủ, giúp các chính sách được xây dựng có tính khả thi và hiệu quả hơn.
Thứ tư, đảm bảo chế độ thông tin hai chiều trong quản lý
Chế độ thông tin hai chiều trong quản lý là chế độ báo cáo thỉnh thị từ dưới lên cùng
với chế độ hướng dẫn, kiểm tra, giám sát từ trên xuống đảm bảo hiệu lực thực tế của các
quyết định quản lý. Kết hợp nắm bắt từ hai nguồn thông tin này giúp nhà quản lý có cái
nhìn đa chiều, tránh phiến diện, lệch lạc dẫn đến những quyết định quản lý sai lầm. Đây
cũng được xem là biểu hiện của việc áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quá
trình quản lý kinh tế.

3.2.2.3. Yêu cầu thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ
Có thể thấy rõ tập trung dân chủ là một nguyên tắc rất quan trọng của quản lý. Nó
có tính khách quan, phổ quát, song để thực hiện được lại không đơn giản. Để thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ cần đảm bảo các yêu cầu sau:

- Muốn thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ cần bản lĩnh và đạo đức của người
quản lý trong việc kiên quyết chống lại các biểu hiện tập trung quan liêu, độc đoán và dân
chủ hình thức, hoặc biểu hiện vô tổ chức, vô kỷ luật.
- Cần có sự phối hợp nhịp nhàng, thường xuyên giữa Trung ương và địa phương,
giữa cơ quan lãnh đạo quản lý với quần chúng về thông tin, về những chỉ tiêu có tính
pháp lệnh cùng những điều kiện bảo đảm thực hiện những chỉ tiêu đó cho phép phát huy
quyền chủ động sáng tạo của các tổ chức quần chúng và cơ sở.
- Mở rộng phân cấp quản lý tối đa nhưng vẫn phải nằm trong giới hạn cần thiết của
pháp lý, của tổ chức, không được phép trái với pháp luật, kỷ luật hiện hành để không xảy
ra tính tự phát, tùy tiện, phá vỡ kỉ cương, làm suy giảm hoặc làm mất hiệu lực của các
quyết định từ trung tâm.
- Phân công và phân cấp trong bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế phải hợp lý, rõ
ràng, tránh chống chéo hay bỏ trống nhiệm vụ.

3.2.3. Nguyên tắc kết hợp hài hòa các lợi ích kinh tế

3.2.3.1. Cơ sở của nguyên tắc kết hợp hài hòa các lợi ích kinh tế

a) Cơ sở lý luận

Nguyên tắc kết hợp hài hòa các lợi ích kinh tế dựa trên quy luật: động lực thúc đẩy
con người và các tổ chức hoạt động hiệu quả luôn xuất phát từ vấn đề lợi ích.

Quản lý kinh tế trước hết là quản lý con người, là tổ chức mang tính tích cực lao
động của người lao động. Con người vốn có những nhu cầu về lợi ích một cách tự nhiên
trong đó có những lợi ích về vật chất và lợi ích tinh thần. Khi con người có nhu cầu, họ
đòi hỏi phải có lợi ích để thỏa mãn nhu cầu đó, từ đó họ tìm cách hoạt động tối ưu để đạt
được các lợi ích. Lợi ích là mục tiêu, nhu cầu là động lực khiến con người hành động. Vì
thế sẽ không có sự nhất trí về mục đích và hành động nếu không có sự thống nhất về lợi
ích và nhu cầu. Do vậy, một trong những nhiệm vụ và nguyên tắc quan trọng của quản lý
là phải chú ý đến lợi ích của con người để khuyến khích việc làm có hiệu quả phát huy
tính tích cực lao động của họ, tạo động lực cho sự phát triển.

b) Cơ sở thực tiễn

Trên thực tế, các chính sách, quy định của Nhà nước đưa ra nếu không thỏa mãn lợi
ích của đại đa số các đơn vị kinh doanh và cá nhân người lao động thì sẽ khó có thể thực
thi được. Cũng như vậy, một doanh nghiệp nếu đưa ra các quy định trái với lợi ích của số
đông người lao động sẽ gây phản ứng trái chiều và khó đạt được mục đích như mong
muốn. Vì vậy, khi hoạch định chính sách, các nhà quản lý cần có sự quan tâm đến việc
kết hợp cân đối các lợi ích của tập thể và lợi ích cá nhân một cách hợp lý nhất.

3.2.3.2. Nội dung của nguyên tắc kết hợp hài hòa các lợi ích kinh tế

Trong nền kinh tế nhiều thành phần, có nhiều loại lợi ích cần được thỏa mãn. Tuy
nhiên, lợi ích người lao động, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội là ba yếu tố cơ bản nhất của
hệ thống lợi ích. Lợi ích người lao động là quyền lợi mà mỗi thành viên trong xã hội
được hưởng thụ căn cứ vào khả năng cống hiến của họ. Lợi ích tập thể là những khoản lợi
nhuận và toàn bộ cơ sở vật chất - kỹ thuật được tạo ra bởi sự đóng góp của cả tập thể. Lợi
ích xã hội là các nguồn thu của ngân sách nhà nước và toàn bộ tài sản của nền kinh tế
quốc dân. Nội dung cơ bản của nguyên tắc kết hợp hài hòa các lợi ích kinh tế chính là kết
hợp hài hòa các lợi ích xã hội, lợi ích tập thể và lợi ích người lao động trên cơ sở khách
quan.

Biểu hiện của nguyên tắc kết hợp hài hòa các lợi ích kinh tế được thể hiện như sau:

Thứ nhất, phải tạo ra những "véctơ" lợi ích chung nhằm kết hợp các lợi ích kinh tế

Trong quản lý, phải đảm bảo được sự hài hòa giữa các lợi ích: lợi ích cá nhân người
lao động, lợi ích bộ phận (tập thế) và lợi ích toàn xã hội. Trong các lợi ích trên, lợi ích cá
nhân người lao động là động lực trực tiếp, mạnh mẽ nhất cho sự phát triển xã hội, đồng
thời là cơ sở thực hiện lợi ích chung (lợi ích tập thể, lợi ích xã hội). Các quyết định quản
lý kinh tế phải quan tâm trước hết đến lợi ích người lao động. Người lao động là lực
lượng tạo ra sản phẩm hàng hóa dịch vụ trực tiếp cho xã hội, hơn nữa lại là nhân tố có
khả năng sáng tạo. Bởi vậy, hệ thống phương pháp, công cụ, cơ chế, chính sách quản lý
kinh tế phải nhằm vào việc đem lại lợi ích, mà quan trọng nhất là lợi ích mặt chất cho
người lao động. Đó là những khoản tiền lương, tiền thưởng, phúc lợi tập thể và phúc lợi
xã hội mà họ được hưởng thụ. Đồng thời, người lao động ngày càng có nhu cầu cao về
học tập, chữa bệnh, đi lại và trưởng thành trong công việc. Vì thế mọi chính sách kinh tế
luôn luôn được gắn liền với chính sách xã hội nhằm thỏa mãn sự đòi hỏi của con người.

Tuy nhiên, nếu chỉ quan tâm đến lợi ích người lao động mà sao nhãng lợi ích tập thể
và lợi ích xã hội thì chủ nghĩa cá nhân sẽ phát triển, thậm chí sẽ dẫn đến tham nhũng, đặc
quyền, đặc lợi ở một số người có chức có quyền. Hơn nữa, lợi ích cá nhân không thể bền
vững và ngày càng được thỏa mãn cao hơn nếu không đồng thời chăm lo đến lợi ích tập
thể và lợi ích xã hội. Vì thế các quyết định quản lý kinh tế phải có tác dụng huy động sự
đóng góp về trí tuệ, sức lực và cơ sở vật chất để xây dựng một tập thể, một doanh nghiệp,
cá nhân người lao động có cơ hội để thỏa mãn lợi ích, đồng thời được hưởng thụ các
khoản phúc lợi tập thể. Cũng tương tự, một nền kinh tế phồn thịnh là kết quả của sự cống
hiến sức lao động của các tập thể và người lao động. Ngược lại sự phồn thịnh của nền
kinh tế là cơ sở để phát triển toàn diện các cá nhân con người và thực hiện quá trình phân
phối lại thông qua hệ thống phúc lợi xã hội.

Lợi ích riêng là cơ sở cho lợi ích chung, ngược lại lợi ích chung là định hướng cho
việc thực hiện lợi ích riêng. Lợi ích cá nhân được thỏa mãn chính đáng thì lợi ích chung
mới được tôn trọng và đáp ứng. Vì vậy, kích thích lợi ích cá nhân phải kết hợp hài hòa
với lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội. Nếu xử lý mối quan hệ giữa các lợi ích trên
không đúng, dẫn đến xung đột giữa các lợi ích làm giảm hiệu quả kinh tế - xã hội. Thiên
về lợi ích xã hội, vi phạm lợi ích cá nhân và tập thể người lao động sẽ làm triệt tiêu động
lực phát triển. Quá chú trọng lợi ích cá nhân và tập thể nhỏ, vi phạm lợi ích xã hội thì lợi
ích cá nhân và lợi ích tập thể thiếu cơ sở bền vững. Các nhà quản lý kinh tế cần chú ý tạo
điều kiện cho các thành viên trong tổ chức thực hiện lợi ích cá nhân nhưng không khuyến
khích họ thực hiện chúng bằng mọi giá. Đồng thời cần nhận thức một cách rõ ràng rằng
các lợi ích được đề cập ở đây là lợi ích hợp pháp, chính đáng và lạnh mạnh, chứ không
phải là các lợi ích bất hợp pháp, không chính đáng và thiếu lành mạnh. Nói tóm lại, các
chủ thể quản lý - mà trước hết là Nhà nước - phải tạo ra những "vectơ" lợi ích chung
thông qua cơ chế, chính sách, sao cho các thành viên trong xã hội đều được hưởng thụ lợi
ích.

Thứ hai, phải coi trọng lợi ích vật chất lẫn lợi ích tinh thần của các tập thể và
người lao động

Người lao động và tập thể của họ không chỉ có nhu cầu về vật chất mà còn có nhu
cầu về tinh thần. Các hoạt động sản xuất vật chất đều bị chi phối bởi tinh thần và trạng
thái tâm - sinh lý của người lao động. Ý đồ sản xuất cái gì, được bao nhiêu, mất gì...tất cả
đều diễn ra trong đầu mỗi người trước khi bước vào sản xuất và họ sẽ kiểm nghiệm điều
đó trong thực tiễn. Vì thế, phải tác động vào ý thức con người nhằm tạo dựng môi trường
tâm lý xã hội cần thiết để khích lệ họ hành động vì một mục tiêu nhất định.

Trong khi lao động còn là một hoạt động bắt buộc đối với con người thì vấn đề
khuyến khích lợi ích vật chất đối với người lao động phải đặt lên vị trí ưu tiên thỏa đáng.
Song, không phải vì thế mà coi nhẹ hoặc phủ nhận khuyến khích lợi ích tinh thần thông
qua các phương pháp động viên, giáo dục chính trị tư tưởng, thưởng phạt, cất nhắc đề bạt
vào các chức vụ quản lý. Do vậy, người quản lý phải chú ý mang lại cho người lao động
quyền lợi về chính trị, về quyền tự chủ, quyền được học hành, quyền được hưởng thụ
những giá trị văn hóa tinh thần của xã hội.

Khuyến khích lợi ích tinh thần về thực chất là sự đánh giá của tập thể và xã hội đối
với sự cống hiến của mỗi người, là sự khẳng định về thang bậc về giá trị của họ trong
cộng đồng. Phải khen, chê đánh giá đúng mực sự cống hiến của mỗi người, mỗi tập thể -
đó là sự khẳng định danh dự, giá trị của họ trong cộng đồng. Cũng thông qua các hình
thức khuyến khích đó, người lao động nhận biết được kết quả và ý nghĩa của công việc
mình làm. Về thực chất, quản lý kinh tế là quá trình xử lý mối quan hệ giữa người với
người trong các hoạt động kinh tế. Chủ thể quản lý phải tác động vào tâm lý người lao
động qua đó khơi dậy lòng nhiệt tình hăng say và sự sáng tạo của họ. Muốn vậy, phải
nắm bắt quy luật tâm lý con người để đề ra nguyên tắc quản lý kinh tế. Tuy nhiên, các cá
nhân bao giờ cũng hoạt động trong các cộng đồng nhất định, cho nên ngoài việc nghiên
cứu tính cách, nhu cầu, sở trường của từng người còn phải nhận thức và vận dụng quy
luật tâm lý tập thể, tâm lý cộng đồng.

Thứ ba, coi trọng cả lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài

Các nhà quản lý không chỉ quan tâm đến lợi ích trước mắt mà còn đặc biệt chú ý
đến lợi ích mang tính dài hạn. Không vì lợi ích trước mắt mà quên đi lợi ích lâu dài
nhưng đồng thời cũng không vì lợi ích lâu dài mà không giải quyết các lợi ích cấp bách
trước mắt. Điều này đặt ra yêu cầu đối với các nhà quản lý phải quán triệt quan điểm phát
triển bền vững, không được chạy theo lợi ích trước mắt mà dẫn đến những hành động
nóng vội, sử dụng thiếu hợp lý, không tiết kiệm các yếu tố nguồn lực trong quá trình quản
lý.

Thứ tư, kết hợp hài hòa lợi ích của các chủ thể có liên quan đến các hoạt động kinh
tế, sản xuất kinh doanh

Muốn đạt được các mục tiêu như tăng trưởng kinh tế bền vững, đảm bảo sự phát
triển ổn định của các đơn vị kinh doanh, cần có sự kết hợp hài hòa lợi ích của các chủ thể
có liên quan đến hoạt động kinh tế, sản xuất kinh doanh như: nhà nước - chủ đầu tư -
người tiêu dùng, các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội như: sản xuất - phân phối -
trao đổi - tiêu dùng... Chỉ khi lợi ích của các chủ thể trong nền kinh tế được đảm bảo, họ
mới có động lực để cống hiến hết mình cho sự phát triển của đơn vị và quốc gia.

3.2.3.3. Yêu cầu thực hiện nguyên tắc kết hợp hài hòa các lợi ích kinh tế

Để thực hiện được nguyên tắc trên cần thỏa mãn những yêu cầu sau:

- Thực hiện đường lối, chính sách phát triển kinh tế đúng đắn, hợp lòng dân dựa
trên cơ sở vận dụng các quy luật khách quan phù hợp với đặc điểm của đất nước. Đường
lối đó phản ánh lợi ích cơ bản và lâu dài của toàn xã hội, cũng tức là lợi ích của mọi
thành viên xã hội.
- Xây dựng và thực hiện các quy hoạch và kế hoạch chuẩn xác, kế hoạch quy tụ
quyền lợi của cả hệ thống và phải có tính hiện thực cao.

- Chống các biểu hiện phiến diện một chiều trong xử lý mối quan hệ giữa các lợi
ích, chống rập khuôn máy móc mà phải gắn vào tình hình cụ thể của mỗi tổ chức, hệ
thống…

3.2.4. Nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả

3.2.4.1. Cơ sở của nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả

a) Cơ sở lý luận

Nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả dựa trên quy luật: bất cứ một hoạt động kinh tế
nào muốn tồn tại và phát triển đều phải thực hành tiết kiệm và đảm bảo sản xuất có hiệu
quả, nhất là trong điều kiện các điều kiện của sản xuất ngày càng khan hiếm va nhu cầu
của con người lại tăng lên không ngừng.

Tiết kiệm không đồng nghĩa với hạn chế tiêu dùng. Vấn đề là ở chỗ tiêu dùng hợp
lý, trên cơ sở khả năng và điều kiện cho phép, làm sao để với một nguồn tài nguyên, một
cơ sở vật chất kỹ thuật, một lực lượng lao động hiện có, có thể sản xuất được một số
lượng của cải vật chất và tinh thần nhiều nhất, tức là đạt hiệu quả cao. Trong nhiều
trường hợp, cần phải kích thích tiêu dùng để khắc phục tình trạng thiểu phát, thúc đẩy sản
xuất phát triển. Tiết kiệm cũng không chỉ là chi ít tiết mà là chi tiêu và sử dụng đồng tiền
một cách hợp lý, sao cho có thể sản xuất ra được nhiều sản phẩm hàng hóa có chất lượng
cao, giá thành hạ, phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng. Khi cần thiết, phải tăng chi
phí bằng cách đầu tư nhằm tạo việc làm và tăng khối lượng hàng hóa dịch vụ cho xã hội.

Hiệu quả được xác định bằng kết quả so với chi phí. Từ đó muốn tăng hiệu quả
phải bằng tăng kết quả và giảm chi phí. Tăng kết quả bằng cách tăng năng suất lao động.
Giảm chi phí bằng cách tiết kiệm các yếu tố đầu vào và tiết kiệm thời gian. Cũng có thể
tăng hiệu quả bằng cách tăng chi phí để tăng kết quả với tốc độ nhanh và quy mô lớn hơn.
Như vậy giữa tiết kiệm và hiệu quả có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Hiệu quả chính là
tiết kiệm theo nghĩa rộng và đầy đủ nhất. Nói đến tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng là
nói đến hiệu quả trong các lĩnh vực ấy chứ không phải là chi nhiều hay chi ít, tiêu nhiều
hay tiêu ít.

b) Cơ sở thực tiễn

Hoạt động quản lý kinh tế chỉ cần thiết và có ý nghĩa khi chủ thể quản lý biết lấy
vấn đề tiết kiệm và hiệu quả làm nguyên tắc hoạt động của mình. Nguyên tắc này đòi hỏi
nhà quản lý phải đưa ra các quyết định quản lý sao cho với một lượng chi phí nhất định
có thể tạo ra nhiều giá trị sử dụng và lợi ích nhất để phục vụ cho con người. Nói cách
khác, phải quản lý sao cho với một đơn vị giá trị sử dụng hay một đơn vị lợi ích có được,
chỉ cần một lượng chi phí bỏ ra ngày càng ít đi. Về mặt giá trị, các doanh nghiệp phải
được tổ chức quản lý sao cho mức lãi thu được trên một đồng chi phí bỏ ra ngày càng
tăng lên; hoặc để tạo ra 1 đồng lãi cần một lượng vốn nhất định. Đó là đòi hỏi của nguyên
tắc tiết kiệm và hiệu quả. Nói tóm lại hoạt động quản lý chỉ cần thiết và có ý nghĩa khi
chủ thể quản lý biết lấy vấn đề tiết kiệm và hiệu quả làm nguyên tắc hoạt động của mình.

3.2.4.2. Nội dung của nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả

Trong nền kinh tế sản xuất nhỏ, tiết kiệm thường đóng khung trong tiết kiệm tiêu
dùng cá nhân, hoặc người ta chỉ lo tiết kiệm trong việc sản xuất từng đơn vị sản phẩm,
không tính đến và cũng không thể đáp ứng nhu cầu to lớn của toàn xã hội về tư liệu sản
xuất và vật chất to lớn của toàn xã hội về tư liệu sản xuất và vật phẩm tiêu dùng. Đó là lối
tiết kiệm theo kiểu làm ăn "cò con", "dè xẻn", không đảm bảo hiệu quả kinh tế cả nền sản
xuất xã hội.

Trong sản xuất tư bản chủ nghĩa, từng nhà tư bản rất quan tâm tiết kiệm và quản lý
của họ cũng nhằm tiết kiệm và đạt hiệu quả kinh tế cao trong từng đơn vị xí nghiệp.

Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, tiết kiệm bao gồm cả tiết kiệm trong sản xuất, xây
dựng và tiêu dùng. Tiết kiệm cả lao động sống, lao động vật hóa và nguồn lực khác của
đất nước. Đặc biệt là nguồn lực về con người và nguồn lực thiên nhiên. Cơ sở khách quan
của chế độ tiết kiệm trong quản lý kinh tế xã hội chủ nghĩa và cũng là bảo đảm chắc chắn
cho chế độ ấy trở thành hiện thực trong hoạt động kinh tế là tính kế hoạch trong toàn bộ
nền sản xuất xã hội và sự nhất trí về lợi ích cơ bản trong xã hội xã hội chủ nghĩa giữa các
giai cấp, các tầng lớp, các cá nhân người lao động xã hội chủ nghĩa, giữa lợi ích cá nhân
tập thể và toàn xã hội.

Nội dung cụ thể của nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả được biểu hiện như sau:

Thứ nhất, đầu tư có trọng điểm, tránh dàn trải

Trong điều kiện các nguồn lực hạn chế, cần nghiên cứu lĩnh vực đầu tư mang tính
ưu tiên, đầu tư kỹ thuật mới phải đi kèm với điều kiện cơ sở hạ tầng phù hợp và đào tạo
nguồn nhân lực có trình độ tương ứng. Tránh đầu tư chạy theo tình thế (thị trường cần gì
tất cả cùng đổ xô vào đầu tư như mía đường, xi măng hay sắt thép...), đầu tư dàn trải (cái
gì cũng có, địa phương nào cũng có, kết quả cái gì cũng có nhưng hiệu quả mang lại rất
hạn chế); đầu tư thiếu căn bản, lâu dài (quá tập trung vào dịch vụ, gia công mà ít chú
trọng tới những ngành nền tảng, như sản xuất thiết bị, động cơ, máy móc...) mà cần coi
trọng tính hệ thống và đồng bộ, nhất là đầu tư xây dựng cơ bản.

Thứ hai, tiết kiệm đối với tài nguyên thiên nhiên

Tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên bằng các biện pháp bảo vệ và sử dụng có hiệu quả
cao nhất các nguồn tài nguyên thiên nhiên; có kế hoạch khai thác, sử dụng hợp lý, tránh
lãng phí, xóa bỏ tư tưởng coi tài nguyên thiên nhiên là vô tận, đảm bảo cho phát triển
trước mắt và lâu dài theo quan điểm phát triển bền vững. Cần giữ mức khai thác tài
nguyên trong phạm vi có thể tái sinh, tái tạo được đối với các nguồn tài nguyên phục hồi;
xác định rõ mức khai thác sản lượng bền vững (mức khai thác vừa đủ để các nguồn tài
nguyên có khả năng tái sinh được) và không được phép khai thác quá sản lượng bền vững
này. Đồng thời, phải quản lý tốt các nguồn tài nguyên không phục hồi, sử dụng những kỹ
thuật tiên tiến để giảm hao phí tài nguyên, có phương pháp tái sinh thích hợp để quay
vòng sử dụng các nguồn tài nguyên không phục hồi một cách có hiệu quả nhất.

Thứ ba, giảm chi phí một cách hợp lý

Phân loại đúng các chi phí để cắt giảm cho hợp lý và hiệu quả. Việc cắt giảm chi
phí một cách hợp lý cần có một tầm nhìn tổng thể, tránh cắt giảm một cách tiêu cực; tăng
chi phí tốt, giảm chi phí xấu; cắt giảm đúng trọng tâm và có tầm nhìn về tương lai. Đối
với các tổ chức sản xuất, cần giảm chi phí vật tư trên cơ sở áp dụng kỹ thuật mới và quy
trình sản xuất tiên tiến; cải tiến kết cấu sản phẩm, giảm trọng lượng; nâng cao chất lượng
sản phẩm; sử dụng vật liệu thay thế, sử dụng vật tư nhiều lần, giảm tổn thất phế liệu…

Thứ tư, tổ chức lao động khoa học đối với lao động

Tổ chức lao động khoa học đối với tất cả các loại lao động, kể cả lao động quản lý
trên cơ sở nâng cao trình độ nghề nghiệp của người lao động, cái tiến bộ máy quản lý
theo hướng gọn nhẹ, linh hoạt…qua đó sử dụng thời gian làm việc tiết kiệm và hợp lý
nhất, tối đa hóa hiệu suất công việc. Các nhà quản lý cần sử dụng tổng thể các biện pháp
tổ chức, kỹ thuật, kinh tế, an toàn, vệ sinh và tâm sinh lý dựa trên cơ sở những thành tựu
khoa học và kỹ thuật, những kinh nghiệm tiên tiến nhằm sử dụng lao động hợp lý, có hiệu
quả, kích thích được tính tự giác, chủ động sáng tạo của người lao động, nâng cao năng
suất lao động, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn tài nguyên, tiết kiệm tối đa sức khỏe của
người lao động. Các phương hướng chủ yếu để hoàn thiện tổ chức lao động khoa học là:
Cải thiện điều kiện lao động (tăng mức đầu tư thiết bị cho mỗi chỗ làm việc, bảo đảm an
toàn, áp dụng chế độ làm việc và nghỉ ngơi hợp lý); phân công lao động hợp lý; áp dụng
phương thức và phương pháp lao động tiên tiến, nghiên cứu và phổ biến các kinh nghiệm
tốt; nâng cao trình độ kỹ thuật sản xuất; áp dụng các định mức kinh tế kỹ thuật khoa học,
có chế độ lương bổng và khuyến khích khen thưởng hợp lý.

Vấn đề tiết kiệm và hiệu quả cần được xem xét trên bình diện rộng, trong thời gian
dài và với thái độ trân trọng; tránh tư tưởng cục bộ, cách nhìn thiển cận và những quyết
định vội vàng trong quản lý.

3.2.4.3 Yêu cầu thực hiện nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả

Để thực hiện nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả, cần phải thỏa mãn những yêu cầu sau:

- Có đường lối, chiến lược phát triển kinh tế đúng đắn, phù hợp với đòi hỏi của các
quy luật khách quan. Xây dựng và thực hiện các quy hoạch và kế hoạch chuẩn xác để
khai thác một cách có hiệu quả nhất các nguồn lực của đất nước.
- Thực hiện đầy đủ chế độ hạch toán kinh tế. Lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm tiêu
chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ.

- Tiến hành công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước lấy con người là nguồn lực chủ
yếu, khoa học, kỹ thuật là động lực cơ bản của sự nghiệp này. Kết hợp với việc đổi mới
các chính sách và đòn bẩy kinh tế nhằm khuyến khích sử dụng có hiệu quả, tiết kiệm các
nguồn lực của đất nước.

- Kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng công quỹ trong các cơ quan, cơ sở kinh
tế Nhà nước. Thực hành chế độ tiết kiệm, chống tham nhũng, xử lý nghiêm chỉnh những
hành vi làm lãng phí, làm thất thoát tài sản.

3.3. YÊU CẦU VẬN DỤNG CÁC NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ KINH TẾ

Việc hình thành các nguyên tắc quản lý kinh tế là công việc hết sức khó khăn. Việc
vận dụng chúng để thiết lập cơ chế, chính sách giải pháp... về quản lý kinh tế lại không
kém phần phức tạp, nó tùy thuộc vào năng lực, trình độ và nghệ thuật của nhà quản lý.
Quá trình vận dụng nguyên tắc quản lý kinh tế phải đảm bảo những yêu cầu chung sau:

3.3.1. Coi trọng việc hoàn thiện hệ thống nguyên tắc quản lý kinh tế

Nguyên tắc quản lý kinh tế vừa mang tính chủ quan vừa mang tính khách quan.
Nhận thức của nhà quản lý luôn có giới hạn, trong khi các quá trình kinh tế diễn ra đa
dạng và có sự thay đổi thường xuyên. Vì thế, chủ thể quản lý phải không ngừng nghiên
cứu lý luận để nâng cao khả năng nhận thức quy luật, đồng thời tổng kết thực tiễn nhằm
hoàn thiện nội dung các nguyên tắc quản lý kinh tế.

Việc hoàn thiện hệ thống nguyên tắc quản lý kinh tế còn đòi hỏi một mặt phải tự
giác tôn trọng và kiên trì tuân thủ các nguyên tắc, mặt khác cần phát hiện những nguyên
tắc không còn phù hợp, điều chỉnh bổ sung nguyên tắc quản lý kinh tế mới phù hợp với
quy luật khách quan và đòi hỏi của thực tiễn vận hành nền kinh tế.

3.3.2. Vận dụng tổng thể các nguyên tắc quản lý kinh tế
Mỗi nguyên tắc đều có mục đích, nội dung và yêu cầu riêng đối với quá trình quản
lý kinh tế. Cụ thể như sau:

- Nguyên tắc thống nhất sự lãnh đạo chính trị và kinh tế đảm bảo sự ổn định và an
toàn cho các hoạt động quản lý cũng như sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
- Nguyên tắc tập trung dân chủ tạo ra sức mạnh tổng hợp nhằm khai thác tiềm năng
của toàn xã hội để tăng trưởng và phát triển kinh tế.
- Nguyên tắc kết hợp hài hòa các lợi ích kinh tế tạo ra động lực và là động lực trực
tiếp của hoạt động quản lý kinh tế; đồng thời là phương tiện để thực hiện các nguyên tắc
khác, nhất là nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả.
- Nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả chỉ đạo các hoạt động quản lý kinh tế đạt tới mục
tiêu.

Vì thế, chủ thể quản lý phải có sự am hiểu, nắm rõ các nguyên tắc trên để vận dụng
tổng hợp các nguyên tắc quản lý kinh tế một cách linh hoạt trong việc xây dựng cơ chế,
chính sách, công cụ, phương pháp, cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý kinh tế... nhằm phát
huy ưu thế của từng nguyên tắc, đồng thời bảo đảm các nhân tố cần thiết của quá trình
quản lý kinh tế, đó là: mục tiêu, động lực, phương tiện, điều kiện, phương pháp quản lý
kinh tế.

3.3.3. Lựa chọn hình thức và phương pháp vận dụng nguyên tắc quản lý kinh tế phù
hợp

Hệ thống nguyên tắc chi phối việc hình thành các quyết định quản lý kinh tế ở cả
tầm vĩ mô lẫn tầm vi mô. Tuy nhiên, phải tùy thuộc vào đối tượng quản lý, cấp quản lý và
những điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể để lựa chọn và quyết định hình thức, phương pháp
vận dụng các nguyên tắc quản lý kinh tế.

Để lựa chọn hình thức và phương pháp vận dụng các nguyên tắc quản lý kinh tế,
nhà quản lý phải nắm vững chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và chiến
lược sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; hiểu rõ nội dung và yêu cầu của các nguyên
tắc; thực trạng kinh tế - xã hội quốc gia và năng lực sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Ngoài ra, cần tiếp cận kinh nghiệm và những thành tựu mới, tiến bộ của nhân loại
về quản lý kinh tế để vận dụng có hiệu quả các nguyên tắc trong việc đề ra các quyết định
quản lý kinh tế.

3.3.4. Cần có quan điểm toàn diện và hệ thống trong việc vận dụng các nguyên tắc
quản lý kinh tế

Trong quản lý kinh tế, hệ thống nguyên tắc giữ vai trò định hướng cho việc hình
thành các quyết định quản lý, bao gồm phương pháp, cơ chế, công cụ, tổ chức bộ máy
quản lý kinh tế... Chính vai trò định hướng đó đã quy định tính toàn diện và tính hệ thống
của nguyên tắc quản lý kinh tế. Ví dụ: Đối với nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả, tiết kiệm
và hiệu quả cần được xem xét trên bình diện rộng, thời gian dài và với thái độ trân trọng;
tránh tư tưởng cục bộ, cách nhìn thiển cận và những quyết định vội vàng về quản lý kinh
tế. Điều này còn có ý nghĩa sâu sắc trong việc lựa chọn các phương án đầu tư nước ngoài
vào trong nước, các hình thức hợp tác kinh tế quốc tế, cải cách hệ thống doanh nghiệp
nhà nước, giao quyền sử dụng đất đai lâu dài cho hộ nông dân ở Việt Nam.

You might also like