You are on page 1of 24

BÀI 7:

CÁN BỘ, CÔNG CHỨC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ

7.1. Khái niệm

Quản lý nhà nước về kinh tế là sự tác động của các cơ quan QLNN có chức
năng, thẩm quyền nhất định đối với các quá trình kinh tế, các đơn vị kinh tế cơ
sở, các ngành, địa phương, vùng kinh tế cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân
thông qua pháp luật, chính sách, công cụ, lực lượng vật chất và tài chính ở tất cả
các lĩnh vực, các thành phần kinh tế nhằm đạt mục tiêu định trước. Trong xu thế
hiện nay, vai trò QLNN về kinh tế ngày càng quan trọng. Song, vai trò đó có
được phát huy hay không lại tùy thuộc vào đội ngũ công chức trong bộ máy
QLNN về kinh tế. Ở nước ta không có bộ máy QLNN về kinh tế riêng. Bộ máy
QLNN về kinh tế là một bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước, mang tính độc
lập tương đối, bao gồm các cơ quan nhà nước thựchiện các chức năng quản lý
nhà nước về kinh tế từ trung ương đến địa phương. Theo đó, Công chức QLNN
về kinh tế là những người làm việc trong bộ máy QLNN về kinh tế. Từ quan
điểm tiếp cận đó, khái niệm công chức QLNN về kinh tế được sử dụng trong
nghiên cứu của luận án có nội hàm như sau: Công chức QLNN về kinh tế là
những người làm việc trong lĩnh vực QLNN về kinh tế, được bố trí trong hệ
thống các cơ quan quản lý nhà nước; họ đại diện cho Nhà nước thực hiện chức
năng quản lý kinh tế của Nhà nước, họ cũng là người lao động nhưng khác
những người lao động trực tiếp trong lĩnh vực sản xuất - kinh doanh ở chỗ lao
động mà họ thực hiện là: lao động quản lý - một loại hình lao động sản xuất đặc
biệt tạo ra giá trị mang lại lợi ích quốc gia.

1
Công chức QLNN về kinh tế là công chức nhà nước làm việc trong lĩnh vực
quản lý nhà nước về kinh tế, được bố trí trong hệ thống các cơ quan quản lý kinh
tế nằm trong bộ máy nhà nước

Quản lý nhà nước về kinh tế ở nước ta không có bộ máy riêng. Bộ máy

QLNN về kinh tế là một bộ phận cán bộ, công chức chuyên về QLNN về kinh tế

trong hệ thống bộ máy QLNN nói chung.

Vậy có thể hiểu: Cán bộ, công chức QLNN về kinh tế là những người làm

việc trong bộ máy nhà nước thực hiện chức năng QLNN về kinh tế. Hay nói
cách khác đó chính là bộ phận cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước thực
hiện chức năng QLNN về kinh tế.

7.2. Phân loại đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh tế

Đội ngũ cán bộ, công chức QLNN về kinh tế có thể phân loại theo những

tiêu chí khác nhau, tùy thuộc vào đặc điểm và mục đích nghiên cứu.

- Dựa vào vị trí, tầm quan trọng của đội ngũ CCQLNN về kinh tế, có thể chia
đội ngũ này thành 3 nhóm:

+ Nhóm các nhà hoạch định chính sách kinh tế, là những người quyết định chính
sách, biện pháp lớn về kinh tế, trực tiếp sử dụng những công cụ quản lý, điều tiết
sự vận động của nền kinh tế.

+ Nhóm những chuyên gia phân tích kinh tế chuyên sâu trên từng lĩnh vực cụ
thể, có khả năng đưa đến những phương án hoặc từng mảng cho các quyết định
về chính sách.

+ Nhóm các nhân viên nghiệp vụ, giúp việc về mặt kỹ thuật quản lý như kỹ
thuật viên máy tính, thư ký, quản trị văn phòng,…Đây là những người trực tiếp
2
chuẩn bị các tài liệu, thông tin phục vụ cho các chuyên gia và các nhà quyết định
chính sách.

- Dựa vào việc phân cấp quản lý, đội ngũ này được chia thành 4 loại:

+ Công chức QLNN về kinh tế cấp trung ương.

+ Công chức QLNN về kinh tế cấp tỉnh (tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương).

+ Công chức QLNN về kinh tế cấp huyện (huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh…).

+ Công chức QLNN về kinh tế cấp xã (xã, phường, thị trấn).

- Công chức QLNN về kinh tế ở cấp tỉnh bao gồm những người làm việc trong
các cơ quan:

+ Văn phòng đoàn ĐBQH và HĐND

+ Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh

+ Văn phòng Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng

+ Thanh tra tỉnh

+ Sở Nội vụ

+ Sở Tài chính

+ Sở Kế hoạch và Đầu tư

+ Sở Tài nguyên và Môi trường

+ Sở Lao động, Thương binh và xã hội

+ Sở Nông nghiệp và PTNT

+ Sở Xây dựng
3
+ Sở Công Thương

+ Sở Tư pháp

+ Các Ban quản lý…

Trên đây là nhóm công chức cấp tỉnh, là nhóm đối tượng mà luận án quan tâm
nghiên cứu.

- Dựa theo cấp bậc quản lý của hệ thống, đội ngũ này gồm:

+ Nhóm cấp cao: Những người chịu trách nhiệm điều hành và phối hợp hoạt
động của các bộ phận trong tổ chức và đại diện cho tổ chức trong mối liên hệ
với môi trường bên ngoài tổ chức

+ Nhóm cấp trung: Những người kết nối giữa cấp cao và cấp cơ sở, triển khai
quyết định của cấp cao tới cấp cơ sở và giúp cấp cao theo dõi quy trình thực hiện
quyết định ở cấp cơ sở.

+ Nhóm cấp cơ sở: Những người đối diện với người lao động trực tiếp, là những
người cuối cùng thực hiện các quyết định quản lý. - Dựa vào lĩnh vực ngành
nghề, có thể chia CCQLNN về kinh tế ngành nông nghiệp, công nghiệp, thương
mại, dịch vụ, tài chính,…

- Theo trình độ: công chức loại A, công chức loại B và công chức loại C

- Theo tính chất công việc: Lãnh đạo chỉ huy, chuyên môn, thi hành công vụ,
nhân viên hành chính

- Theo ngạch, bậc: chuyên viên cao cấp, chuyên viên chính, chuyên viên, cán
sự, nhân viên.

7.3. Vai trò của cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh tế

Ngày nay các quốc gia trên thế giới đều ý thức được tầm quan trọng của
4
nguồn tài nguyên nhân lực trong công cuộc phát triển kinh tế, xã hội của đất
nước.

Với vai trò là những người hoạch định chính sách và quản lý các sự vụ công, đội
ngũ cán bộ, công chức nhà nước là lực lượng quan trọng, dẫn đường cho công
cuộc phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ,
công chức nhà nước là yếu tố quyết định đến hiệu quả hoạt động của Nhà nước,
đến năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia.

Trong nền kinh tế thị trường, vai trò QLNN về kinh tế có xu hướng tăng lên.Sự
vận hành của hệ thống chính sách và các công cụ quản lý kinh tế có hiệu quả
hay không phần lớn phụ thuộc vào khả năng, trình độ của đội ngũ cán bộ, công
chức QLNN về kinh tế. Nước ta đang từng bước xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN, vì vậy, vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức QLNN về
kinh tế ngày càng nổi trội, là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định đến
sự thành công hay thất bại của sự nghiệp đổi mới đất nước. Vai trò đó được thể
hiện như sau:

- Cán bộ, công chức QLNN về kinh tế có vai trò quyết định trong việc hoạch
định đường lối, chiến lược, chủ trương, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội,
chính sách, cơ chế quản lý và hệ thống pháp luật kinh tế trong phạm vi cả nước,
từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương.

- Là bộ phận quan trọng trong quá trình triển khai và tổ chức thực hiện

đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước; là đội ngũ tiếp thu, chọn lọc,
tổng kết thực tiễn, góp phần hoàn thiện đường lối, chiến lược phát triển kinh tế

- Là đội ngũ đảm nhiệm phần lớn các hoạt động kinh tế - xã hội của bộ máy nhà
nước, mà trước hết là việc thực hiện các chức năng quản lý như: dự báo, kế
hoạch, tổ chức. điều khiển, kiểm tra, điều chỉnh,

5
- Là những người trực tiếp tạo môi trường, điều kiện và sử dụng công cụ,

thực lực kinh tế để quản lý, điều tiết nền kinh tế thị trường. Ngày nay, trong điều
kiện kinh tế thị trường và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, mọi quốc gia phải
luôn có những điều chỉnh linh hoạt về cơ chế, chính sách để khai thác những lợi
thế, hạn chế yếu tố bất lợi và phải phù hợp với luật pháp, quy định, thông lệ
quốc tế. Vì vậy, vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức QLNN về kinh tế càng trở

nên quan trọng và được thể hiện:

- Các mô hình phát triển kinh tế trên thế giới ngày càng trở nên đa dạng và phức
tạp hơn, việc lựa chọn con đường đi đúng đắn, phù hợp với thực tế khách quan
trong nước và quốc tế phụ thuộc nhiều vào đội ngũ cán bộ, công chức QLNN về
kinh tế.

- Sản xuất xã hội ngày càng phát triển toàn diện khiến cạnh tranh trên thị

trường càng quyết liệt, làm tăng nhanh số lượng các phương án quản lý, vì vậy
việc lựa chọn phương án tối ưu trở nên khó khăn, phức tạp hơn. Đòi hỏi đội ngũ
cán bộ, công chức QLNN về kinh tế phải có có tài năng, có trình độ để có thể
lựa chọn được những phương án tốt nhất.

- Sự xuất hiện của hệ thống thông tin mới gồm cả thông tin quản lý đã và

đang được mở rộng, đòi hỏi cán bộ, công chức QLNN về kinh tế phải có đủ
năng lực xử lý thông tin để có thể ra quyết định một cách có hiệu quả.

- Sự đổi mới trong bản thân hệ thống quản lý từ cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý,
bộ máy quản lý đòi hỏi cán bộ, công chức QLNN về kinh tế phải vừa đổi mới
kiến thức, nâng cao nghiệp vụ, kỹ năng quản lý, vừa nâng cao trách nhiệm quản
lý,lãnh đạo, ở tất cả các khâu, các cấp quản lý.

7.4. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh tế
6
7.4.1. Nguyên tắc xây dựng đội ngũ công chức quản lý nhà nước về kinh tế

Xây dựng đội ngũ CCQLNN về kinh tế là hoạt động có chủ đích, được tiến hành
bởi một chủ thể (lãnh đạo, quản lý các cấp) nhằm tác động lên khách thể (đội
ngũ CCQLNN về kinh tế) để thực hiện mục tiêu xác định. Đó là, chủ thể tiến
hành các hoạt động theo chức năng như: xác định mục tiêu, biện pháp; tổ chức,
lãnh đạo, điều hành; phối hợp và sử dụng các nguồn lực cơ bản để thực hiện các
mục tiêu trong một thời gian nhất định. Cuối cùng là giám sát, kiểm tra kết quả
đạt được so sánh với mục tiêu đề ra và định hướng phát triển. Xây dựng đội ngũ
CCQLNN về kinh tế là một nội dung hoạt động trong công tác tổ chức - cán bộ,
nó được hình thành khi xuất hiện yêu cầu phát triển của đất nước nhằm huy
động tối đa nguồn nhân lực phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế trong giai
đoạn mới. Xây dựng đội ngũ CCQLNN về kinh tế trong một tổ chức, địa
phương là hoạt động xây dựng chiến lược, hoạch định qui hoạch, tạo cơ chế,
chính sách thu hút, tuyển dụng, đào tạo, duy trì và phát triển nguồn nhân lực; áp
dụng các biện pháp, chính sách trong quản lý cán bộ; cách bố trí hợp lý và trả
công xứng đáng. Xây dựng chính sách đối với CCQLNN về kinh tế phải hoạch
định chiến lược tổng quát, lâu dài, đồng thời phải có chính sách cụ thể của từng
giai đoạn. Trong quá trình thực hiện phải kiểm tra, đánh giá, kiểm chứng lại sự
đúng đắn của chính sách có phù hợp hay không để kịp thời điều chỉnh cho giai
đoạn tiếp theo. Việc xây dựng đội ngũ CCQLNN về kinh tế phải quán triệt một
số nguyên tắc sau:

+ Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (kinh tế nhiều thành
phần) phải đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động quản lý nhà
nước nói chung, quản lý nhà nước về kinh tế nói riêng. Đó là, nhà nước tập
trung đầu tư các nguồn lực để thực hiện các định hướng, mục tiêu, yêu cầu của
Nhà nước. Mặt khác, phải đảm bảo quyền tự do sáng tạo trong các hoạt động sản

7
xuất kinh doanh mà pháp luật không cấm đáp ứng nhu cầu thị trường; kết hợp
thực hiện sự chỉ đạo của Đảng, nhà nước với sáng tạo của toàn dân.

+ Mọi chủ trương, biện pháp đề ra để xây dựng đội ngũ CCQLNN về kinh tế
phải căn cứ nhu cầu thực tiễn phát triển của xã hội. Trong xu thế hội nhập quốc
tế đi vào chiều sâu như hiện nay càng đặt ra yêu cầu về trình độ đào tạo chuyên
môn, ngoại ngữ, về năng lực hoạt động thực tiễn càng lớn.

+ Bộ máy quản lý đội ngũ CCQLNN về kinh tế phải chặt chẽ, có hiệu quả, hiệu
lực; phương pháp quản lý theo hướng tăng cường kiểm tra, giám sát đi đôi với
tạo điều kiện để cán bộ phát huy sáng tạo trong công việc. Nói một cách khái
quát: Xây dựng đội ngũ CCQLNN về kinh tế là tập hợp các hành vi nhằm định
hướng chiến lược, quy hoạch phát triển đội ngũ công chức; xây dựng các chính
sách đào tạo, sử dụng, khuyến khích, tổ chức triển khai đội ngũ đó phát huy
năng lực phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế nói riêng và kinh tế- xã hội nói
chung.

7.4.2. Yêu cầu đối với đội ngũ công chức quản lý nhà nước về kinh tế

Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước cùng với tác động của nền kinh
tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, yêu cầu đối với CCQLNN về kinh tế là
phải đáp ứng những tiêu chuẩn mới của thời kỳ mới. Ngoài những tiêu chuẩn
chung đối với CCQLNN về kinh tế cần phải xây dựng những tiêu chuẩn cụ thể
đối với từng loại công chức trong từng lĩnh vực. Những tiêu chuẩn đó là cơ sở
để thực hiện các khâu từ tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo, sử dụng, đề bạt, bổ
nhiệm, …nhằm tạo động lực mạnh mẽ trong sự nghiệp xây dựng và phát triển
đất nước. Công chức quản lý nhà nước về kinh tế cấp tỉnh phải đảm bảo các yêu
cầu sau:

- Về phẩm chất: phẩm chất là nền tảng làm nên giá trị của công chức, bao gồm
phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo đức.
8
+ Về phẩm chất chính trị: là những yếu tố cơ bản, có ý nghĩa quan trọng đối với
công chức. Biểu hiện cao nhất, tập trung nhất về phẩm chất của từng CCQLNN
về kinh tế cấp tỉnh hiện nay là nắm vững, quán triệt được quan điểm, đường lối
đổi mới của Đảng. Phải có khả năng cụ thể hóa quan điểm, đường lối vào nội
dung quản lý để phù hợp với tình hình, đặc điểm kinh tế - xã hội của địa
phương. Phẩm chất chính trị không trừu tượng, khó hiểu mà phải được thể hiện
ở những việc làm, những đóng góp và cống hiến của người công chức vào sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. CCQLNN về kinh tế cấp tỉnh
là một bộ phận của công chức nói chung nên cần đảm bảo những yêu cầu: Trung
thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chấp hành chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tích cực đóng góp cho
công cuộc đổi mới đất nước; Có quan điểm, lập trường tư tưởng vững vàng, có
bản lĩnh và kiên định thực hiện nhiệm vụ được giao. Có ý chí và khả năng làm
giàu cho tập thể, cho bản thân với ý nghĩa đầy đủ là làm giàu về tri thức, về đạo
đức, lối sống và giàu có về đời sống vật chất; năng động, sáng tạo trong công
việc; có khả năng tự hoàn thiện, tự quản lý, tự đánh giá kết quả công việc của
bản thân; biết quản lý, đánh giá đúng công chức cấp dưới; biết tạo sự đồng thuận
trong công việc, có khả năng biến nhận thức của mình thành nhận thức chung
của mọi người, tạo được lòng tin và lôi cuốn mọi người tham gia, có uy tín đối
với đồng nghiệp và bạn bè. Tùy từng vị trí, thẩm quyền của mỗi CCQLNN về
kinh tế cấp tỉnh khác nhau mà yêu cầu về phẩm chất chính trị cũng khác nhau.
Công chức giữ vị trí càng cao, phạm vi ảnh hưởng càng rộng thì bản lĩnh chính
trị phải càng vững vàng, nhất là công chức đề ra chủ trương, đường lối, các
chính sách của nhà nước.

+ Về phẩm chất đạo đức, lối sống: Sống làm việc theo tiêu chuẩn đạo đức của
công dân. Lấy việc gương mẫu sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật
làm tiêu chuẩn đạo đức cơ bản, phải luôn gương mẫu trước công dân. Đồng thời,

9
mỗi CCQLNN về kinh tế cấp tỉnh phải tích cực học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh. CCQLNN về kinh tế cấp tỉnh là những người thường
xuyên tiếp xúc với những vấn đề kinh tế, tuy trong tay họ không trực tiếp nắm
giữ tiền tài nhưng họ có quyền lực rất lớn đối với các đơn vị sản xuất, kinh
doanh. Nếu CCQLNN về kinh tế cấp tỉnh không giữ được phẩm chất đạo đức tốt
rất dễ dẫn đến việc lợi dụng chức quyền, nhũng nhiễu nhằm thu lợi cho bản
thân. Do đó, việc rèn luyện đạo đức trong sạch, liêm khiết, không vụ lợi là một
điều rất quan trọng. Họ phải biết chăm lo cho mọi người, cho tập thể, cộng đồng
biểu hiện qua việc làm phải công bằng, công tâm, khách quan, có văn hóa, tôn
trọng và yêu thương con người. Đồng thời là tấm gương cho người dưới quyền
và người lao động noi theo.

- Về năng lực chuyên môn, trình độ tổ chức quản lý: Năng lực của người quản lý
là khả năng hoàn thành có hiệu quả một loại hoạt động nhất định. Năng lực được
chia thành hai nhóm: năng lực chuyên môn và năng lực quản lý.

+ Về năng lực chuyên môn: Trước hết, phải có kiến thức chuyên môn về lĩnh
vực được giao quản lý, biết sử dụng và tập hợp các chuyên gia giỏi, các công
chức chuyên môn dưới quyền, giao đúng việc và tạo điều kiện thuận lợi cho họ
phát huy khả năng. Phải có kiến thức về kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế
quốc tế; các kiến thức mới về kinh tế mà đặc biệt là luật kinh tế, công ty cổ
phần, thị trường chứng khoán; nắm rõ bản chất, cơ chế vận động để ứng xử, lựa
chọn trong kinh doanh nhằm sử dụng công cụ điều tiết hợp lý trong quản lý.
Phải có kiến thức khoa học quản lý hiện đại, hình thành đội ngũ CCQLNN về
kinh tế cấp tỉnh chuyên nghiệp ở mọi cấp quản lý, hoạt động theo nguyên tắc thị
trường như mọi ngành nghề khác. Trong hoạt động quản lý phải xuất phát từ
thực tế sản xuất, kinh doanh, thực tế của địa phương, đời sống kinh tế - xã hội để
tìm giải pháp, biện pháp cụ thể, tránh giáo điều, sách vở. Trong điều kiện đất
nước đang hội nhập, mở cửa, CCQLNN về kinh tế cấp tỉnh cần phải có kiến
10
thức sâu rộng về pháp luật kinh tế quốc tế; có trình độ ngoại ngữ, ngoại giao, tin
học để sử dụng tốt các phương tiện khoa học kỹ thuật hiện đại, giao dịch với đối
tác nước ngoài để không bị thua thiệt trong cạnh tranh.

+ Về năng lực tổ chức quản lý: CCQLNN về kinh tế cấp tỉnh phải là người có
bản lĩnh, có khả năng nhạy cảm, linh hoạt, khả năng quan sát được các nhiệm vụ
từ tổng thể đến chi tiết để tổ chức cho hệ thống hoạt động đồng bộ, hiệu quả. Họ
phải bình tĩnh, tự chủ nhưng quyết đoán, dứt khoát trong công việc, có kế hoạch
làm việc rõ ràng và tiến hành công việc nhất quán theo kế hoạch. Họ là người
năng động, sáng tạo, tháo vát, phản ứng nhanh nhạy, dám nghĩ, dám làm, dám
mạo hiểm, dám chịu trách nhiệm, luôn biết lường trước mọi tình huống xảy ra,
biết tập trung tiềm lực vào những khâu yếu, tận dụng thời cơ có lợi cho hệ
thống; Họ có tác phong đúng mực, thông cảm và hiểu cấp dưới, có thái độ chân
thành, đồng thời biết xây dựng tập thể đoàn kết, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau và họ
biết sử dụng, đánh giá đúng người, đúng việc; biết xử lý các mối quan hệ bên
trong và bên ngoài hệ thống, với người dưới quyền và cấp trên. Như vậy, yêu
cầu đối với đội ngũ QLNN về kinh tế cấp tỉnh trong điều kiện hiện nay phải có
phẩm chất chính trị, đạo đức, vừa có năng lực chuyên môn và tổ chức điều hành.
Thực tế cho thấy, nếu có đội ngũ CCQLNN về kinh tế cấp tỉnh tài giỏi thì các
đường lối, chính sách đưa ra sẽ rất đúng đắn, dẫn đến việc thực hiện sẽ tốt và
kinh tế sẽ phát triển. Ngược lại, nếu CCQLNN về kinh tế cấp tỉnh không có
phẩm chất chính trị và nhất là không có phẩm chất đạo đức sẽ gây nên tệ cửa
quyền, tham nhũng, tài sản nhà nước thất thoát, lòng tin của người dân bị giảm
sút, kinh tế sẽ bị đình trệ, tình hình xã hội sẽ rối loạn.

7.4.3. Nội dung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về
kinh tế

11
7.4.3.1. Xây dựng tiêu chuẩn các chức danh công chức quản lý nhà nước về
kinh tế

Chức danh CC là khái niệm để chỉ tên gọi chức vụ của công chức trong bộ máy
hành chính hay hệ thống công vụ nói chung, ví dụ như: Giám đốc, Phó Giám
đốc, Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng, chuyên viên… Tiêu chuẩn chức danh
khác với tiêu chuẩn công chức, cụ thể: tiêu chuẩn công chức là khái niệm để chỉ
điều kiện bắt buộc để ứng viên được tuyển dụng vào công chức nhà nước. Tiêu
chuẩn chức danh công chức là điều kiện bắt buộc để ứng viên bổ nhiệm giữ các
chức danh lãnh đạo hoặc chức danh chuyên môn, nghiệp vụ. Xây dựng tiêu
chuẩn chức danh CC nói chung và tiêu chuẩn chức danh CCQLNN về kinh tế
cấp tỉnh nói riêng theo từng bộ phận, từng phòng ban là cơ sở khoa học cho việc
quy hoạch, xây dựng chiến lược cán bộ và đào tạo, bố trí, sử dụng có hiệu quả
công chức QLNN về kinh tế. Trên cơ sở đó mới có thể tính toán nhu cầu từng
loại công chức trong bộ máy QLNN về kinh tế ở cấp tỉnh. Hệ thống tiêu chuẩn
các chức danh CC là cơ sở khoa học cho quy hoạch, đào tạo, tuyển dụng, sử
dụng và bố trí công chức, khắc phục các yếu tố chủ quan, thiên vị, địa phương
chủ nghĩa trong bố trí sắp xếp công chức. Căn cứ xác định, xây dựng các tiêu
chuẩn chức danh công chức QLNN về kinh tế cấp tỉnh: - Đội ngũ CCQLNN về
kinh tế là một bộ phận của đội ngũ cán bộ chung của Đảng trong hệ thống chính
trị nhà nước. Vì vậy, việc xây dựng tiêu chuẩn chức danh cho đội ngũ CCQLNN
về kinh tế được căn cứ vào tiêu chuẩn chung của Đảng và Nhà nước đã ban
hành. - Xây dựng tiêu chuẩn chức danh công chức cần dựa vào các đặc điểm,
đặc thù của đối tượng quản lý, đặc điểm kinh tế xã hội cũng như yêu cầu của
từng tỉnh để xây dựng tiêu chuẩn các chức danh cho phù hợp. - Khi xây dựng
tiêu chuẩn các chức danh CCQLNN về kinh tế phải căn cứ vào xu hướng phát
triển của khoa học công nghệ để xác định các tiêu chí như có trình độ hiểu biết
về ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ tiên tiến trên thế giới mới đáp ứng

12
được yêu cầu của thời kỳ CNH, HĐH đất nước và tình hình hội nhập kinh tế
quốc tế. Quá trình xác định các tiêu chuẩn chức danh CCQLNN cấp tỉnh cần chú
ý thực hiện các yêu cầu sau:

+ Xác định tiêu chuẩn chức danh CCQLNN về kinh tế cấp tỉnh phải dựa vào
chức năng của bộ máy QLNN về kinh tế. Bởi vì, từ chức năng mới xác định
được nhiệm vụ của bộ máy, từ nhiệm vụ của bộ máy mới xác định được chức
danh của mỗi cán bộ trong bộ máy đó. + Phải trên cơ sở năng lực, trình độ của
mỗi người để xây dựng tiêu chuẩn, chức danh cho CCQLNN về kinh tế, bởi vì
mỗi người có một khả năng khác nhau. + Quá trình xây dựng các tiêu chuẩn
chức danh CCQLNN về kinh tế phải căn cứ vào yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn
đang đặt ra của bộ máy QLNN về kinh tế nói trên.

7.4.3.2. Tổ chức tuyển dụng

Tuyển dụng công chức là một khâu quan trọng, mở đầu cho công tác tổ chức cán
bộ. Nếu làm tốt công tác tuyển dụng sẽ lựa chọn được những người có tiêu
chuẩn phù hợp với chức danh quy định, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ
công chức nói chung và đội ngũ CCQLNN về kinh tế nói riêng. Các văn bản ban
hành làm cơ sở pháp lý cho công tác tuyển dụng được nêu rõ trong Luật CB, CC
năm 2008; Nghị định số 24/2010/NĐ-CP, ngày 15//3/2010 của Chính phủ quy
định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức. Chung quy lại, việc tuyển
dụng CCQLNN về kinh tế cũng cần tuân thủ các yêu cầu cơ bản sau:

- Xuất phát từ nhu cầu công việc mà tuyển người phù hợp. Mỗi CC đều đảm
nhận một vị trí công việc đã được mô tả cụ thể trong bộ máy quản lý nhà nước
về kinh tế của cơ quan đó, địa phương đó. Vì vậy, chỉ khi nào trong bộ máy
quản lý ấy thiếu hụt người đảm nhận những vị trí nhất định thì tổ chức mới tiến
hành tuyển dụng, hay nói cách khác, việc tuyển dụng phải xuất phát từ nhu cầu
của công việc.
13
- Bảo đảm tiêu chuẩn chức danh của người cần tuyển. Nội dung thi tuyển phải
bám sát yêu cầu chức danh cần tuyển, kiến thức cơ bản và kỹ năng cần thiết để
hoàn thành công việc đó. Ngoài ra, kiến thức hành chính nhà nước và sự hiểu
biết về chức năng, nhiệm vụ của tổ chức mà thí sinh dự tuyển cần phải được
nắm rõ. Ngoài yêu cầu chung về trình độ đào tạo theo tiêu chuẩn chức danh đã
quy định, mỗi đơn vị, địa phương còn cần có thêm quy định cụ thể phù hợp với
tình hình của địa phương mình. Phần lớn các cơ quan, đơn vị đều có hai hình
thức thi chính là viết và vấn đáp. Có nơi áp dụng thi trắc nghiệm để tuyển chọn,
trong đó kết hợp cả đánh giá kỹ năng thực hành với đánh giá phong cách, ngoại
hình và khả năng giao tiếp. Đây là những yêu cầu cần thiết đối với mỗi công
chức.

- Bảo đảm công minh, bình đẳng và thực hiện công khai. Việc tuyển dụng phải
được thông báo, đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng, đồng thời
phải niêm yết công khai tại địa điểm tiếp nhận hồ sơ của cơ quan, đơn vị tuyển
dụng. Việc thực hiện chế độ ưu tiên trong tuyển dụng và xét tuyển (thông qua
kiểm tra sát hạch bằng hình thức vấn đáp) cũng phải được tuân thủ chặt chẽ theo
dúng quy định đối với một số đối tượng cụ thể. Nhờ công tác tổ chức thi tuyển
đã tạo ra động lực thúc đẩy công chức tích cực tham gia học tập nâng cao trình
độ chuyên môn, năng lực quản lý, điều hành; động viên, khuyến khích đội ngũ
công chức có tuổi đời trẻ, trình độ và năng lực; huy động, khơi dậy nguồn lực từ
bên ngoài tổ chức đăng ký dự tuyển; khắc phục tình trạng đề bạt, bổ nhiệm khép
kín trong từng cơ quan, đơn vị; những công chức trẻ thực sự có năng lực, trình
độ và phẩm chất đạo đức không phải "xếp hàng" chờ đợi.

7.4.3.3. Quy hoạch đội ngũ công chức

Quy hoạch cán bộ nói chung và quy hoạch đội ngũ công chức nói riêng là một
mắt xích quan trọng khác của công tác cán bộ. Thuật ngữ "QHCB" bắt nguồn từ

14
quá trình xây dựng và triển khai thực hiện các chương trình, kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội. Nó đòi hỏi các cấp, các ngành phải xây dựng quy hoạch, kế
hoạch công chức cho đồng bộ với yêu cầu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
nhằm chuẩn bị đội ngũ công chức cho từng ngành, từng địa phương cả trước mắt
và lâu dài, khắc phục tình trạng bố trí, sử dụng công chức một cách thiếu kế
hoạch, bị động, không đồng bộ, kém hiệu quả.

- Yêu cầu của quy hoạch công chức: Một là, phải tuân thủ các nguyên tắc về
công tác cán bộ của Đảng. Cần nắm vững mục tiêu, nguyên tắc, tiêu chuẩn và
giải pháp lớn về công tác cán bộ trong thời kỳ mới. Hai là, quy hoạch đảm bảo
tính hệ thống giữa các cấp, lấy quy hoạch cấp dưới làm cơ sở cho quy hoạch cấp
trên, quy hoạch cấp trên tạo điều kiện thực hiện tốt cho quy hoạch cấp dưới. Quy
hoạch CCQLNN về kinh tế cấp tỉnh phải gắn với quy hoạch chung của đội ngũ
công chức toàn tỉnh và các khâu trong công tác cán bộ nhằm đạt cơ cấu hợp lý,
bảo đảm tính hiệu quả cao. Ba là, phải bám sát thực tiễn, trên cơ sở phân tích
thực trạng đội ngũ công chức hiện có và nguồn công chức, dự báo được yêu cầu
sắp đến để có phương án quy hoạch mang tính hệ thống, cơ bản, lâu dài, sớm
phát hiện những công chức trẻ có triển vọng. Tạo môi trường bình đẳng về điều
kiện và cơ hội để công chức được rèn luyện, phấn đấu và trưởng thành. Bốn là,
đảm bảo tính khoa học, thực tiễn và khách quan, vừa tạo nguồn để đào tạo, xây
dựng đội ngũ công chức, vừa tạo động lực cho công chức phấn đấu vươn lên;
vừa mang tính nhất quán, khoa học nhưng không cứng nhắc, khép kín. Thực
hiện quy hoạch "động" và "mở" một cách linh hoạt, một chức danh có thể quy
hoạch nhiều người, một người có thể quy hoạch nhiều chức danh, đồng thời phải
luôn được xem xét, đánh giá để bổ sung, điều chỉnh hằng năm.

- Quy trình xây dựng quy hoạch công chức lãnh đạo, quản lý nhà nước về kinh
tế cấp tỉnh phải tuân thủ theo các bước sau đây: Một là, rà soát, đánh giá đội ngũ
công chức lãnh đạo, quản lý trên cơ sở các tiêu chuẩn, yêu cầu nêu trên và căn
15
cứ vào kết quả công tác cụ thể. Phát hiện, thẩm định và quản lý nguồn công
chức trẻ, có triển vọng, công chức nữ, công chức người DTTS,… xuất hiện
trong hoạt động thực tiễn. Hai là, xác định cụ thể tiêu chuẩn và các yêu cầu công
chức lãnh đạo, quản lý, dự báo nhu cầu CCQLNN về kinh tế cấp tỉnh của mỗi
địa phương cho từng thời kỳ, căn cứ vào nhiệm vụ chính trị, mô hình tổ chức và
cơ chế quản lý ở địa phương đó. Ba là, xác định nguồn bổ sung cho đội ngũ
CCQLNN về kinh tế cấp tỉnh là những nhân tố mới và đưa ra khỏi quy hoạch
những công chức không còn đủ tiêu chuẩn, đồng thời thực hiện quy hoạch
không chỉ khép kín trong một địa phương, đơn vị mà còn mở rộng ra phạm vi
ngoài cơ quan đáp ứng các tiêu chuẩn và các yêu cầu đặt ra. Bốn là, quy hoạch
phải đảm bảo mở rộng dân chủ, khách quan trong việc phát hiện nguồn, lấy kết
quả nhận xét đánh giá công chức thường xuyên và định kỳ hằng năm làm cơ sở
để lựa chọn công chức đưa vào quy hoạch. Và quy hoạch phải được bố trí hợp lý
về độ tuổi, giới tính, lãnh thổ,… Năm là, thực hiện và quản lý quy hoạch, trên cơ
sở quy hoạch, cần xây dựng và thực hiện tốt các kế hoạch tuyển chọn, đào tạo,
bồi dưỡng công chức, kế hoạch luân chuyển công chức và kế hoạch sắp xếp, bố
trí công chức dự nguồn vào các vị trí theo yêu cầu quy hoạch. Sáu là, kiểm tra,
tổng kết nhằm nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, qua kiểm tra, đánh giá
để kịp thời có những biện pháp xử lý tình huống và điều chỉnh quy hoạch, sau
mỗi nhiệm kỳ tiến hành tổng kết, rút kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả công
tác quy hoạch công chức.

7.4.3.4. Đào tạo, bồi dưỡng

Đào tạo là quá trình tác động đến con người nhằm làm cho họ lĩnh hội và nắm
vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo… một cách có hệ thống để chuẩn bị cho họ thích
nghi với cuộc sống và khả năng đảm nhận một sự phân công lao động nhất định,
góp phần vào việc phát triển xã hội. Về cơ bản, đào tạo là giảng dạy và học tập
trong nhà trường, gắn với giáo dục đạo đức nhân cách. Kết quả và trình độ được
16
đào tạo (trình độ học vấn) của một người còn do việc tự đào tạo của người đó
thể hiện ra ở việc tự học và tham gia các hoạt động xã hội, lao động sản xuất rồi
tự rút kinh nghiệm của người đó quyết định. Chỉ khi nào quá trình đào tạo được
biến thành quá trình tự đào tạo một cách tích cực, tự giác thì việc đào tạo mới có
hiệu quả cao. Tùy theo tính chất chuẩn bị cho cuộc sống và cho lao động, người
ta phân biệt đào tạo ra thành đào tạo chuyên môn và đào tạo nghề nghiệp. Hai
loại hình này gắn bó và hỗ trợ cho nhau với những nội dung dựa trên các đòi hỏi
của sản xuất, của các quan hệ xã hội, tình trạng khoa học, kỹ thuật và văn hóa
của đất nước. Khái niệm giáo dục nhiều khi bao gồm cả khái niệm đào tạo. Có
nhiều dạng đào tạo: đào tạo cấp tốc, đào tạo chuyên sâu, đào tạo cơ bản, đào tạo
lại, đào tạo ngắn hạn, đào tạo từ xa... Nhiều trường hợp, hai khái niệm "đào tạo"
và "bồi dưỡng" được sử dụng với nghĩa như nhau. Nếu đào tạo là quá trình làm
cho con người có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định, thì bồi dưỡng làm
tăng thêm năng lực hoặc phẩm chất. Nghĩa là hai hoạt động này cùng hướng tới
một mục tiêu nhưng có điểm khác là, đào tạo đi từ cái chưa có thành cái có hoặc
cái chưa đủ "chuẩn" thành đủ "chuẩn", còn bồi dưỡng làm tăng thêm giá trị cái
đã có, có thêm những kiến thức, kỹ năng. Khi thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi
dưỡng công chức cần lưu ý những yêu cầu sau đây:

- Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý công chức có trách nhiệm xây dựng
quy hoạch, kế hoạch và tổ chức việc đào tạo bồi dưỡng để tạo nguồn và nâng
cao trình độ, năng lực của công chức.

- Việc đào tạo bồi dưỡng công chức phải căn cứ vào quy hoạch, kế hoạch, tiêu
chuẩn đối với từng chức vụ, tiêu chuẩn nghiệp vụ của từng ngạch.

- Kinh phí đào tạo, bồi dưỡng công chức do ngân sách nhà nước cấp. chế độ đào
tạo bồi dưỡng do các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quy định.

17
Công tác đào tạo, bồi dưỡng CCQLNN về kinh tế cần chú ý tập trung các vấn đề
sau:

- Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về lý luận chính trị, bao gồm những hiểu biết về
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.

- Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ của ngành, lĩnh vực
công tác.

- Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về quản lý hành chính nhà nước, quản lý kinh tế
Ngoài ra, để đáp ứng yêu cầu xây dựng nền hành chính hiện đại, CCQLNN về
kinh tế nói chung và CCQLNN về kinh tế ở cấp tỉnh nói riêng cần phải được
trang bị đầy đủ những kiến thức về ngoại ngữ, công nghệ thông tin và đặc biệt là
kiến thức về quản lý khoa học hiện đại, kinh tế thị trường, hiểu biết về luật pháp,
thông lệ quốc tế,…

7.4.3.5. Bố trí sử dụng, đề bạt, luân chuyển

Về bố trí sử dụng công chức, mục tiêu là phát huy tối đa khả năng của từng cá
nhân, giúp cho họ tự rèn luyện, nâng cao trình độ về mọi mặt, hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao và giúp tập thể giải quyết những vấn đề vướng mắc nhằm
đạt hiệu quả cao. Sau khi bố trí công chức phải thường xuyên theo dõi và kịp
thời phát hiện chỗ mạnh, chỗ yếu, những điểm chưa phù hợp để kịp thời uốn nắn
hoặc sắp xếp lại. Nếu sử dụng công chức không đúng thì chẳng những công việc
của họ không hoàn thành mà bản thân công chức không tiến bộ, năng lực, tinh
thần làm việc, phẩm chất sa sút nghiêm trọng. Trong việc dùng người, Hồ Chí
Minh cho rằng những người không có tâm, thường mắc phải sai phạm: "Ham
dùng người bà con, anh em quen biết, bầu bạn, cho họ là chắc chắn hơn người
ngoài. Ham dùng những kẻ khéo nịnh hót mình mà chán ghét những người
chính trực. Ham dùng những người tính tình hợp với mình mà tránh những
người tính tình không hợp với mình". Nhằm khắc phục những hạn chế trên, Hồ
18
Chí Minh nêu quan điểm: "Mình có quyền dùng người thì phải dùng những
người có tài năng, làm được việc. Chớ vì bà con, bầu bạn mà kéo họ vào chức
nọ, chức kia. Chớ vì sợ mất địa vị mà dìm những kẻ có tài năng hơn mình. Phải
trung thành với Chính phủ, với đồng bào. Chớ lên mặt làm quan cách mệnh".
Trong bối cảnh mới của đất nước, việc bố trí CCQLNN về kinh tế cấp tỉnh cần:

- Cần quán triệt quan điểm, chủ trương của Đảng, pháp luật của nhà nước về
công tác cán bộ; phải luôn nắm được các chủ trương, chính sách mới, hiểu rõ và
thực hiện đúng các quy định của nhà nước, chủ động, sáng tạo, luôn đúc kết
kinh nghiệm thực tiễn để góp phần đổi mới, hoàn thiện chế độ chính sách đối
với công chức trong thời kỳ mới.

- Bố trí công chức phải đảm bảo tiêu chuẩn, phù hợp với sở trường, nghĩa là
phải xem xét tiêu chuẩn và năng lực, nguyện vọng, cá tính công chức.

- Tạo điều kiện để công chức được làm việc, cọ xát thực tiễn nhằm phát huy tính
độc lập, sáng tạo trong công việc; kiểm tra, điều chỉnh, rút kinh nghiệm để hoàn
thiện năng lực, phẩm chất của công chức.

- Trọng dụng người tài, không phân biệt người trong Đảng hay ngoài Đảng, tất
cả những người có đức, tài, có tinh thần trách nhiệm, ý thức tập thể cao, phấn
đấu vì lợi ích của nhân dân đều được trọng dụng và sử dụng phù hợp.

- Phải căn cứ vào quy hoạch công chức và chiến lược phát triển để bố trí, sử
dụng công chức nhằm chuẩn bị tốt nguồn nhân lực có chất lượng cao cho các
ngành kinh tế được xác định là mũi nhọn của địa phương. Khi sắp xếp, bố trí
công chức QLNN về kinh tế cần tuân thủ các nguyên tắc chung sau đây:

- Sắp xếp theo nghề nghiệp chuyên môn được đào tạo. Xuất phát từ yêu cầu của
nhiệm vụ để bố trí, sắp xếp cho phù hợp. Mọi công vụ đều do người có chuyên
môn phù hợp đảm nhận.

19
- Sắp xếp theo hướng chuyên môn hóa: chuyên môn hóa sẽ giúp cán bộ đi sâu
nghề nghiệp, tích lũy kinh nghiệm. Nhiệm vụ xác định rõ ràng. Mỗi người phải
hiểu rõ mình cần phải làm gì? Trong thời gian nào? Nếu hoàn thành sẽ được gì?
Nếu không trách nhiệm sẽ ra sao?

- Sắp xếp, sử dụng phù hợp với trình độ chuyên môn và thuộc tính tâm lý cũng
như kết quả phấn đấu về mọi mặt. Phương pháp sắp xếp bố trí cần diễn ra theo 2
hình thức là trực tiếp và thi tuyển. Theo cách trực tiếp căn cứ yêu cầu công vụ
và năng lực của cán bộ, cấp trên có thẩm quyền ra quyết định bố trí cán bộ vào
một vị trí công vụ cụ thể. Thi tuyển tương tự như thi tuyển công chức. Ngay cả
đối với cương vị lãnh đạo cũng có thể áp dụng phương pháp thi tuyển. Việc sắp
xếp bố trí công chức không chỉ giới hạn trong việc bố trí vào một ngạch bậc,
nghề nghiệp mà còn bao hàm việc sử dụng trong việc thực thi công vụ. Về việc
luân chuyển CCQLNN về kinh tế là khâu quan trọng và có ý nghĩa đối với công
tác cán bộ, góp phần vào việc xây dựng đội ngũ cán bộ đủ về số lượng, mạnh về
chất lượng đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.

Các hình thức luân chuyển cán bộ:

Một là, luân chuyển CC là một hình thức đào tạo, bồi dưỡng.

Hai là, luân chuyển cán bộ là hình thức thử thách, khảo nghiệm cán bộ, tạo điều
kiện cho công tác đánh giá cán bộ, là cơ sở để đề bạt, bổ nhiệm cán bộ, tạo
nguồn cán bộ.

Ba là, luân chuyển cán bộ là biện pháp tăng cường cán bộ cho lĩnh vực và địa
bàn cần thiết, góp phần sử dụng cán bộ có hiệu quả.

Bốn là, luân chuyển cán bộ để dỡ bỏ tâm lý trì trệ của cán bộ và tính khép kín
của địa phương, đơn vị.

20
Một số điểm cần lưu ý trong công tác luân chuyển cán bộ:

- Phải căn cứ vào năng lực, sở trường của cán bộ, nhiệm vụ chính trị của địa
phương, cơ quan, đơn vị, QHCB và ý định bố trí cán bộ sau luân chuyển để lựa
chọn cán bộ, địa bàn luân chuyển cán bộ cho phù hợp.

- Phải chống tư tưởng cục bộ, khép kín, không muốn nhận người từ nơi khác
đến; hoặc lợi dụng luân chuyển để đưa người trung thực, thẳng thắn, người có
năng lực không hợp với mình đi nơi khác.

- Khắc phục nhận thức sai lệch, cho rằng cán bộ đã qua luân chuyển phải được
bố trí ở cương vị công tác cao hơn.

- Luân chuyển cán bộ để điều chỉnh việc bố trí cán bộ hợp lý hơn, tăng cường
cán bộ cho những nơi có nhu cầu cấp thiết, nhất là cơ sở.

Luân chuyển công chức về cơ bản không khác với điều động và tăng cường
công chức. Đây là việc làm bình thường trong công tác tổ chức và cán bộ từ
trước tới nay. Luân chuyển công chức là điều động, tăng cường một cách chủ
động theo quy hoạch và kế hoạch đào tạo đội ngũ công chức lãnh đạo và quản lý
cho trước mắt và lâu dài. Điều động và tăng cường chỉ khác luân chuyển là
nhiều khi phải thực hiện trong tình huống bị động, chắp vá, thiếu quy hoạch,
không theo quy trình đánh giá và phân công công chức, khi ấy hiệu quả không
cao, thậm chí gây phức tạp, khó khăn cho công chức được điều động hoặc cho
địa phương nơi công chức đến.

7.4.3.6. Đánh giá công chức quản lý nhà nước về kinh tế

Đánh giá công chức để làm rõ phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực, trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao. Kết quả đánh giá
là căn cứ để bố trí, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật và thực
hiện chính sách đối với công chức.
21
Việc đánh giá công chức được thực hiện hằng năm (vào thời gian cuối năm),
trước khi bầu cử, phê chuẩn, quy hoạch, bổ nhiệm, điều động, đào tạo, bồi
dưỡng, khi kết thúc nhiệm kỳ, luân chuyển.

- Nội dung đánh giá công chức:

+ Chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà
nước;

+ Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong và lề lối làm việc;

+ Năng lực lãnh đạo, điều hành, tổ chức thực hiện nhiệm vụ;

+ Tinh thần trách nhiệm trong công tác;

+ Kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao.

- Quy trình đánh giá công chức:

+ Công chức viết bản tự nhận xét đánh giá công tác.

+ Tập thể nơi công chức làm việc tham gia góp ý kiến bản tự nhận xét.

+ Sau khi tham khảo ý kiến tự nhận xét, phân loại tập thể, thủ trưởng trực tiếp
quản lý công chức đánh giá và quyết định xếp loại công chức theo các mức độ:
Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ, hoàn thành nhiệm vụ
nhưng còn hạn chế về năng lực và không hoàn thành nhiệm vụ.

+ Đối với công chức lãnh đạo thực hiện tự phê bình trước cơ quan, đơn vị, công
chức trong cơ quan góp ý kiến và cấp trên trực tiếp đánh giá, quyết định xếp
loại.

+ Kết quả đánh giá sẽ được lưu vào trong hồ sơ và thông báo đến công chức
được đánh giá.

22
7.4.3.7. Chế độ, chính sách đối với công chức

Chính sách cán bộ nói chung hay chính sách đối với công chức nói riêng là hệ
thống các quan điểm, chủ trương, mục tiêu,… của Đảng và nhà nước Việt Nam
về công tác cán bộ, kèm theo các giải pháp thực hiện các mục tiêu đó nhằm xây
dựng đội ngũ công chức đồng bộ, có chất lượng đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ
chính trị trong mỗi thời kỳ. Chính sách công chức hiện nay bao gồm: chính sách
tuyển dụng, bổ nhiệm và miễn nhiệm công chức; chính sách đào tạo bồi dưỡng
công chức; chính sách tiền lương; chính sách khen thưởng kỷ luật; chính sách
bảo vệ công chức và các chính sách đãi ngộ khác đối với công chức… Tùy theo
mức độ quan trọng, phạm vi, cấp độ điều tiết của chính sách mà nó phải được
thể chế bằng luật, pháp lệnh, nghị định, quy định của các cơ quan nhà nước có
liên quan. Các chế độ, chính sách có thể được điều chỉnh, bổ sung, cụ thể hóa
thêm, loại bỏ những điều bất hợp lý cho phù hợp với tình hình thực tế nhằm đảm
bảo tính công bằng, động viên tinh thần của công chức phấn đấu vươn lên trong
học tập và công tác. Hệ thống chính sách công chức được chia thành 2 nhóm
chủ yếu:

- Nhóm chính sách đãi ngộ về vật chất, tinh thần như việc làm, thu nhập, chế độ
bảo hiểm xã hội, y tế, chế độ nghỉ dưỡng,...

- Nhóm chính sách tuyển chọn những công chức ưu tú để đào tạo, bồi dưỡng,
khuyến khích phát triển tài năng; chính sách phát hiện, thu hút nhân tài, chính
sách vùng, miền, tôn giáo, thương bệnh binh, gia đình có công với cách mạng.
Ngoài ra, có chính sách tôn vinh những người có công với nước, người có đức,
tài, có đóng góp lớn cho sự nghiệp đổi mới. Biểu dương, khen thưởng kịp thời
những công chức có thành tích xuất sắc trong lao động, quản lý, có phát minh,
sáng kiến trong quá trình công tác, đi đôi với khuyến khích lợi ích vật chất.
Trong giai đoạn hiện nay, những chính sách có liên quan đến lợi ích vật chất có

23
vị trí quan trọng hàng đầu nhưng cũng không xem nhẹ động lực tinh thần, công
tác chính trị tư tưởng cùng các phong trào thi đua... Sự phân phối các lợi ích vật
chất một cách công khai, công bằng, xứng đáng với cống hiến là một động lực
tinh thần rất lớn. Mọi cách tiếp cận quan liêu trong sử dụng và đãi ngộ tài năng,
mọi sự cào bằng, bình quân chủ nghĩa kể cả trong khen thưởng đều triệt tiêu cả
động lực vật chất và động lực tinh thần của người lao động.

24

You might also like