You are on page 1of 14

Đề tài: Phân tích bộ máy quản lý tài chính công ở Việt Nam

Nhóm 5:
1. Vũ Hà Anh
2. Đỗ Linh Chi
3. Nguyễn Hoàng An Chinh
4. Lê Thuỳ Dương
5. Trần Thị Hồng Gấm
6. Nguyễn Thu Hà
7. Nguyễn Thuý Hằng
8. Vũ ThịHồng Hạnh
9. Đào Thị Thu Hiền
10. Nguyễn Thị Thuý Hiền
11. Đinh Thị Lan Hương
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
Tài chính công gắn liền với hoạt động của nhà nước. Nó vừa là nguồn lực để nhà nước
thực hiện tốt chức năng của mình,  vừa là công cụ để thực hiện các dịch vụ công, chi phối,  điều
chỉnh các mặt hoạt động khác của đất nước. Trong tiến trình đổi mới, thực hiện cải cách nền
hành chính quốc gia, Đảng và nhà nước ta coi đổi mới quản lý tài chính công là một trong
những nội dung quan trọng hàng đầu.
Nhận thức một cách đầy đủ, có hệ thống về tài chính công là đòi hỏi bức thiết trong công
tác nghiên cứu, học tập cũng như hoạt động thực tiễn cho cán bộ ở mọi ngành, mọi cấp, đặc
biệt là trong thời kỳ đẩy mạnh cải cách hành chính hiện nay ở nước ta.
Mặt khác trong giai đoạn hiện nay, khi mà nước ta đang trong giai đoạn phát triển kinh tế
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cuộc cải cách cơ bản tài chính nhà
nước được thực hiện theo hướng “phải nhằm mục tiêu thúc đẩy sản xuất phát triển, huy động
và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tăng tích luỹ để tạo vốn cho đầu tư phát triển; đáp ứng
những nhu cầu chi thường xuyên thật sự cần thiết, cấp bách; bảo đảm quản lý thống nhất nền
tài chính quốc gia, giảm bội chi ngân sách, góp phần khống chế và kiểm soát lạm phát. Xử lý
đúng đắn các mối quan hệ như: tích luỹ và tiêu dùng; tài chính nhà nước, tài chính doanh
nghiệp và tài chính dân cư, ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; chi thường xuyên
và chi đầu tư phát triển, chi bảo đảm quốc phòng an ninh, huy động vốn trong nước và vốn bên
ngoài, vay và trả nợ….Vì thế tài chính công là một lĩnh vực vô cùng quan trọng đối với nhà
nước và việc quản lý nó đòi hỏi phải chính xác và khoa học.
Tài chính công và quản lý tài chính công là vấn đề còn tương đối mới cả về nhận thức lý
luận thực tiễn ở nước ta hiện nay. Từ những vấn đề nêu trên chúng em chọn đề tài để viết là:
“ Phân tích bộ máy phản lý tài chính công ở Việt Nam”. Với nhận thức và nghiên cứu viết bài
còn nhiều hạn chế nhất định, rất mong được sự góp ý của cô, chúng em xin chân thành cảm ơn!

B. NỘI DUNG
Phần 1: Cơ sở lý thuyết về tài chính công và quản lí tài chính công
1.1. Tổng quan về tài chính công
“Tài chính công là những hoạt động thu, chi gắn với các quỹ tiền tệ của các cấp chính quyền
nhằm thực hiện các chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước.” 
1.2. Tổng quan về quản lí tài chính công
1.2.1. Khái niệm quản lý tài chính công 
 Tiếp cận theo nghĩa rộng:
       Quản lý tài chính công có thể hiểu theo nghĩa rộng là quá trình Nhà nước hoạch định, xây
dựng chính sách, sử dụng hệ thống các công cụ và phương pháp thích hợp, tác động đến các
hoạt động của tài chính công nhằm thực hiện hiệu quả các chức năng của Nhà nước.
1.2.2. Nội dung quản lý tài chính công 
 Quản lý thu
Là quá trình Nhà nước huy động các nguồn tài chính tập trung vào ngân sách Nhà nước và
các quỹ ngoài ngân sách Nhà nước để thực hiện nhiệm vụ của Nhà nước. Đối với quỹ ngân
sách Nhà nước: Nguồn thu chủ yếu từ thuế, ngoài ra còn có các nguồn từ phí, lệ phí, bán tài sản
Nhà nước, vay nợ trong và nước ngoài. Ngoài ra; đối với các quỹ tài chính Nhà nước ngoài
ngân sách: Nguồn thu một phần từ ngân sách Nhà nước, một phần do các tổ chức và nhân dân
đóng góp.
 Quản lý chi
Là quá trình Nhà nước sử dụng các nguồn tài chính đã huy động được để thực hiện nhiệm
vụ của mình. Nội dung chi tài chính công rất đa dạng, nó bao gồm các khoản chi phát triển kinh
tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy Nhà nước; chi trả nợ
cho Nhà nước; chi viện trợ và các khoản chi khác.
 Quản lý vay nợ
Quản lý nợ vay là sự kiểm soát của chính phủ từ việc huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay
đến việc trả nợ nhằm đảm bảo các yêu cầu an toàn nợ, an ninh tài chính quốc gia, cân đối vĩ mô
nền kinh tế và công khai, minh bạch. ( Theo luật quản lý nợ công 2017). Quản lý nợ cần phải
bảo đảm an toàn nợ, an ninh tài chính quốc gia và cân dối vĩ mô nền kinh tế, công khai minh
bạch trong việc sử dụng vốn vay, trả nợ.
1.2.3. Các giai đoạn chính của quá trình quản lý tài chính công
Thứ nhất, Giai đoạn xây dựng và quyết định kế hoạch tài chính công là quá trình các tổ
chức công xác định mục tiêu, nhiệm vụ về thu  chi, vay nợ và phương pháp thực hiện các mục
tiêu, nhiệm vụ đó để trình các cơ quan có thẩm quyền quyết định.
Thứ hai, Giai đoạn tổ chức thực hiện kế hoạch tài chính công là quá trình sử dụng tổng hợp
các biện pháp kinh tế, tài chính và hành chính… nhằm đưa các mục tiêu thu chi trong kế hoạch
đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt trở thành hiện thực. Quá trình này bao gồm kiểm soát
quản lý ( hay còn gọi là kiểm soát nội bộ ) và kiểm toán nội bộ.
Thứ ba, Giai đoạn kiểm toán bên ngoài và đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch tài chính
công. Kiểm toán được thực hiện bởi tổ chức kiểm toán tối cao, với ba loại hình chính là kiểm
toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động. Đánh giá là quá trình thu
thập, xử lý, phân tích thông tin và đưa ra các nhận định với mục tiêu cung cấp thông tin tin cậy
và hữu ích hỗ trợ việc ra quyết định quản lý, tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm giải
trình trong quản lý tài chính công.
1.3. Tổng quan về bộ máy quản lý tài chính công tại Việt Nam 
1.3.1. Tổ chức bộ máy quản lý tài chính công tại Việt Nam
Ở cấp chính quyền Trung ương tại Việt Nam, các cơ quan tham gia quản lý tài chính công của
Chính phủ gồm: Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch – Đầu tư. Đây là hai cơ quan có chức năng quản
lý nhà nước về tài chính nói chung và tài chính công nói riêng.
Bộ máy quản lý tài chính công Việt Nam gồm hai chức năng chính: Thứ nhất, chức năng
hoạch định chính sách như chính sách thuế, chính sách chi ngân sách, chính sách vay nợ,…;
Thứ hai, chức năng thực hiện chính sách (quản lý thu thuế, quản lý ngân quỹ, quản lý nợ, …)
 Nhiệm vụ 
Để thực hiện được các chức năng này, nhiệm vụ chính đối với Bộ Tài chính là xây dựng kế
hoạch tài chính 05 năm, kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 03 năm và lập dự toán ngân
sách nhà nước trung hạn và hàng năm; Xây dựng nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ chi
thường xuyên của ngân sách nhà nước; các chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách, cơ chế
quản lý tài chính - ngân sách nhà nước, chế độ kế toán, thanh toán, quyết toán, mục lục ngân
sách nhà nước, chế độ báo cáo, công khai tài chính - ngân sách. Tổ chức thực hiện ngân sách
nhà nước bao gồm quản lý thu, quản lý ngân quỹ, quản lý nợ và đánh giá hiệu quả chi ngân
sách nhà nước.
Nhiệm vụ chính của Bộ Kế hoạch và Đầu tư để thực hiện chức năng trên là xây dựng kế hoạch
phát triể kinh tế - xã hội 05 năm và hàng năm của cả nước cùng với các cân đối vĩ mô của nền
kinh tế quốc dân làm cơ sở cho Bộ Tài chính xây dựng kế hoạch tài chính 05 năm, kế hoạch tài
chính - ngân sách nhà nước 03 năm và dự toán ngân sách nhà nước hàng năm.
Ngoài ra, Bộ còn chủ trì trong việc quản lý ODA; xây dựng nguyên tắc, tiêu chí và định mức
phân bổ vốn đầu tư phát triển của ngân sách nhà nước; lập phương án phân bố chi đầu tư phát
triển của ngân sách trung ương. Hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra, giám sát về đấu thầu và tổ chức
mạng lưới thông tin về đấu thầu.
1.3.2. Các cơ quan quản lý tài chính công thuộc chính quyền trung ương
1.3.2.1. Cơ quan quản lý thuế
Trách nhiệm chính trong quản lý thuế về hai cơ quan là cơ quan thuế và cơ quan hải quan.
 Cơ quan thuế
Cơ quan thuế là cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quản lý và thu thuế vào ngân sách Nhà nước.
Đứng đầu cơ quan thuế là Tổng cục Thuế, là cơ quan trực thuộc Bộ Tài chính, có nhiệm vụ
thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tài chính quản lý nhà nước về các khoản
thu nội địa trong phạm vi cả nước và tổ chức quản lý thuế. Ở các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương có các Cục thuế trực thuộc Tổng cục Thuế. Ở các quận, huyện có Chi cục thuế
thuộc Cục thuế.
 Cơ quan hải quan
Cơ quan hải quan có nhiệm vụ tổ chức thực hiện pháp luật về thuế và các khoản thu khác đối
với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Cơ quan hải quan tại trung ương là Tổng cục Hải quan và
địa phương có 34 Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; ngoài ra còn
có Chi cục Hải quan, Đội Kiểm soát Hải quan và đơn vị tương đương.
1.3.2.2. Cơ quan quản lý ngân quỹ
Đứng đầu cơ quan quản lý quỹ là Kho bạc Nhà nước, là cơ quan trực thuộc Bộ Tài Chính.
Nhiệm vụ chính của cơ quan quản lý quân quỹ là tổ chức thực hiện việc thu nộp vào quỹ
NSNN; kiểm soát, thanh toán, chi trả các khoản chi của NSNN; thực hiện kế toán NSNN; huy
động vốn cho NSNN qua việc phát hành trái phiếu Chính phủ.
Hệ thống tổ chức: Kho bạc Nhà nước được tổ chức thành hệ thống dọc từ Trung ương đến cấp
tỉnh và cấp huyện. Cơ quan Kho bạc Nhà nước ở địa phương gồm: Kho bạc Nhà nước cấp tỉnh
và Kho bạc Nhà nước cấp huyện.
1.3.3. Các cơ quan quản lý tài chính công thuộc chính quyền địa phương các cấp
Tại cấp tỉnh: Cơ quan chuyên môn về có chức năng tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh
trong quá trình xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện và kiểm tra theo dõi, đánh giá hoạt động
tài chính công là Sở Tài Chính, Sở kế hoạch và đầu tư
Tại cấp huyện: tại chính quyền cấp huyện, quận, thị xã là phòng Tài chính- Kế hoạch
Tại cấp xã: Uỷ ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) không tổ chức cơ
quan chuyên môn tham mưu mà chỉ có cán bộ chuyên trách tài chính - kế toán thực hiện nhiệm
vụ này.

Phần 2: Thực trạng về bộ máy quản lý tài chính công ở Việt Nam
2.1. Tổng quan về bộ máy quản lý tài chính công ở Việt Nam
Xuất phát từ yêu cầu giải quyết các nhiệm vụ gắn liền với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
xã hội, hiện nay cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý tài chính công đã được hoàn thiện thêm một
bước. So với trước đây, cơ cấu tổ chức mới đã có những thay đổi đáng kể, nhằm hướng vào
việc nâng cao hiệu quả quản lý tài chính công. Những thay đổi trong cơ cấu tổ chức bộ máy
quản lý tài chính công được quyết định bởi chức năng, vai trò mới của Bộ Tài Chính, là một
trong những bộ kinh tế chủ yếu, đóng vai trò quan trọng trong tiến trình chuyển đổi nền kinh tế
từ kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Những
thay đổi đó dựa trên cơ sở tăng trưởng vai trò điều chỉnh vĩ mô của tài chính công và áp dụng
rộng rãi biện pháp kinh tế trong quản lý gắn liền với với việc mở rộng tính độc lập, tự chủ của
các địa phương, các doanh nghiệp.
Hệ thống thuế đổi mới theo hướng thích nghi với cơ chế thị trường và được đánh giá là phù
hợp với thông lệ quốc tế. Tính đến nay nguồn thu thuế đã cơ bản đảm bảo được các nhiệm vụ
phát triển kinh tế- xã hội, an ninh quốc phòng. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các
doanh nghiệp phát triển, đẩy mạnh xuất khẩu.
Ngân sách Nhà nước đã chuyển hướng sang đầu tư phát triển, ưu tiên nhiệm vụ phát triển
kinh tế- xã hội, thay vì hàng loạt các yếu tố, chính sách bao cấp như trước. Giải quyết thành
công cơ cấu lại nợ nước ngoài, tỷ lệ nợ nước ngoài được khống chế ở mức an toàn theo thông
lệ quốc tế, tạo điều kiện giữ vững an ninh tài chính quốc gia. Huy động nguồn vốn ODA và sử
dụng hiệu quả hơn để thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội. Giải quyết các vấn đề hộ đói- nghèo
và dịch bệnh của đất nước thời gian qua. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài hiệu quả, góp phần
thúc đẩy nền kinh tế phát triển và sử dụng nguồn lao động hiệu quả. 
2.2. Thực tiễn về bộ máy quản lý tài chính công hiện nay
2.2.1. Những kết quả đạt được
Hệ thống thuế: Thuế đã bảo đảm nguồn tài chính chủ yếu để thực hiện tốt các nhiệm vụ
phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng. Năm 2022 cơ quan thuế đã thực hiện
được 64.289 cuộc thanh, kiểm tra, tăng 8,3% so với cùng kỳ năm 2021; kiểm tra được 665.781
hồ sơ khai thuế tại cơ quan thuế. Tổng số tiền kiến nghị xử lý qua thanh tra, kiểm tra là 59.530
tỷ đồng, tăng 40,7% so với cùng kỳ năm 2021.
Ngân sách Nhà nước: Bội chi ngân sách nhà nước được xử lý theo hướng tích cực và
được kiềm chế trong giới hạn cho phép. Năm 2022, tổng thu ngân sách ước đạt 1.460.100 tỷ
đồng, bằng 124,3% dự toán, tăng 8,5% so với cùng kỳ năm 2021. Giải quyết thành công cơ cấu
lại nợ nước ngoài, tỷ lệ nợ nước ngoài được khống chế ở mức an toàn theo thông lệ quốc tế, tạo
điều kiện giữ vững an ninh tài chính quốc gia. Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tài chính bước
đầu đã thu được kết quả tích cực.
Cơ chế tài chính đối với đơn vị hành chính sự nghiệp: Cơ chế tài chính đối với khu vực
hành chính sự nghiệp được đổi mới về cơ bản theo hướng tiết kiệm và nâng cao hiệu quả sử
dụng nguồn lực tài chính. Cơ chế tài chính trong việc cung cấp dịch vụ công theo hướng
khuyến khích các tổ chức kinh tế và nhân dân đầu tư để thực hiện và cung cấp một số dịch vụ
công, đẩy mạnh xã hội hóa một số lĩnh vực sự nghiệp, thu hút được nguồn nội lực đáng kể cho
phát triển sự nghiệp.
Cơ chế tài chính trong lĩnh vực quản lý tài sản công: Cơ chế này đã được hoàn thiện
nhằm tăng cường huy động các nguồn lực tài chính cho phát triển kinh tế – xã hội.
Huy động và sử dụng nguồn vốn ODA: Nguồn vốn ODA đã được sử dụng để khôi phục,
nâng cấp và xây dựng mới hàng loạt các dự án quốc gia quy mô lớn trong các lĩnh vực giao
thông, điện, thủy lợi, cấp thoát nước, y tế, giáo dục và đào tạo. Đồng thời, vốn ODA cũng được
chú trọng hơn vào lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, thủy sản, sản xuất và chế biến
hàng xuất khẩu, lĩnh vực du lịch và dịch vụ, góp phần thúc đẩy sự gia tăng giá trị sản lượng
nông nghiệp và tạo ra nguồn thu ngoại tệ để trả nợ nước ngoài.
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài: Trong 2 năm gần đây, cơ cấu đầu tư nước
ngoài có chuyển biến tích vượt bậc. Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết đến ngày 20/12, ước tính
các dự án đầu tư nước ngoài (FDI) đã giải ngân được khoảng 22,4 tỷ USD, tăng 13,5% so với
cùng kỳ năm 2021,đặc biệt là việc gia tăng tỷ trọng đầu tư vào kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất
kỹ thuật của một số ngành mũi nhọn và một số lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp.
Quản lý nợ nước ngoài: Đã thực hiện thành công quá trình cơ cấu lại các khoản nợ trước
đây của Việt Nam đối với các chủ nợ nước ngoài. Thực hiện thanh toán trả nợ với các khoản
vay mới và các khoản đã cơ cấu lại nợ đã bảo đảm trả nợ đúng như các hiệp định đã ký, không
để phát sinh nợ quá hạn. Đã linh hoạt xử lý theo hướng chuyển đổi một phần nợ nước ngoài
thành các khoản tài trợ cho các dự án đầu tư trong nước; xử lý giảm số nợ thông qua mua lại
nợ, chuyển đổi nợ, giảm nợ…
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong quá trình thực hiện cải cách tài chính công ở
Việt Nam còn tiềm ẩn những yếu tố chưa được tốt như đầu tư của Nhà nước chiếm tỷ trọng
cao, nhưng mức đóng góp vào tăng trưởng thấp, chưa tương xứng. Quy mô tài chính còn nhỏ,
cân đối ngân sách nhà nước chưa thực sự vững chắc, tỷ trọng thuế trực thu còn thấp. Trong 11
tháng của năm 2022, tỷ lệ giải ngân nguồn vốn ODA mới chỉ đạt khoảng 26% dự toán. Có 41
bộ, ngành, địa phương xin trả lại vốn, do giao vốn kéo dài, các dự án còn nhiều vướng mắc,...
Mặc dù, Chính phủ đã áp dụng chính sách ưu đãi, nhưng đầu tư nước ngoài vào các vùng có
điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn chưa đáng kể. Chưa chú ý khai thác vốn thông qua các gián
tiếp và thông qua thị trường vốn. Phạm vi đánh thuế còn hạn hẹp, hệ thống thuế chưa bao quát
hết các nguồn thu nhập, bỏ sót nguồn thu và đối tượng nộp thuế.
2.2.2. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách tài chính công trong thời gian tới
Xu hướng chung hiện nay, các nước trên thế giới đang thúc đẩy một cách mạnh mẽ cải cách
hoạt động tài chính công. Hoạt động của tài chính công có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình phát
triển kinh tế – xã hội của đất nước. Nếu hoạt động của tài chính công được triển khai theo
hướng tích cực, phù hợp với xu thế cải cách hành chính, đáp ứng với những đòi hỏi hợp lý của
các lực lượng thị trường sẽ là động lực thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất
nước. Ngược lại, nếu hoạt động của tài chính công không hiệu quả, không thích ứng với bối
cảnh kinh tế, xã hội mới, thì sẽ là lực cản cho quá trình phát triển kinh tế – xã hội.
Cải cách tài chính công ở nước ta cần phải vừa góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa vừa phù hợp với yêu cầu của quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Cải cách phải phù hợp với yêu cầu mở cửa và hội nhập kinh tế quốc
tế. Mở cửa và hội nhập nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế khu vực và quốc tế đòi hỏi Việt
Nam phải tuân thủ những luật chơi chung đã cam kết với các tổ chức khu vực và quốc tế. Điều
đó đòi hỏi phải có những cải cách về mặt hành chính, trong đó có cải cách tài chính công sao
cho phù hợp với những quy định và cam kết quốc tế, bảo đảm nâng cao năng lực quản lý nhà
nước về kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và của nền kinh tế là
vấn đề có ý nghĩa sống còn.
Trên cơ sở đó, những mục tiêu, nhiệm vụ cần phải đạt được trong thời gian tới là:
Thứ nhất, bảo đảm tiết kiệm và hiệu quả các khoản chi tài chính của khu vực công. Thứ hai,
cải cách, đổi mới tài chính công phải hướng tới mục tiêu thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc cải
cách hành chính nhà nước, bảo đảm cho bộ máy hành chính hoạt động tốt hơn chuyên nghiệp
hơn, điều hành có hiệu quả hơn hoạt động kinh tế – xã hội của đất nước. Thứ ba, thông qua cải
cách, đổi mới hoạt động tài chính công phải bảo đảm cho việc sản xuất và cung cấp hàng hóa
dịch vụ công cộng công bằng và hiệu quả hơn.. Thứ tư,đối với thu – chi ngân sách nhà nước
nội dung đổi mới bao gồm đổi mới chính sách, cơ chế, quy trình làm thay đổi căn bản cách
thức thu – chi ngân sách nhà nước, bảo đảm ngân sách nhà nước thực sự là công cụ điều tiết vĩ
mô của Nhà nước. Thứ năm, đối với hoạt động các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách, nội
dung đổi mới là gia tăng tỷ trọng huy động các nguồn lực tài chính nhàn rỗi của xã hội trên cơ
sở bảo đảm tính hợp pháp của số lượng các quỹ và sử dụng chúng một cách có hiệu quả. Thứ
sáu, đối với tài chính của các cơ quan công quyền và các đơn vị sự nghiệp công lập, nội dung
đổi mới là tập trung nâng cao quyền tự chủ gắn việc đổi mới với công cuộc cải cách hành chính
và việc cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cộng công bằng và hiệu quả.
2.3. Đánh giá
 Về mặt tích cực
Huy động nguồn lực tài chính công
Các chính sách động viên NSNN tiếp tục được hoàn thiện, bổ sung, bám sát các mục tiêu, định
hướng đề ra. Nhờ đó, đã động viên hợp lý, kịp thời các nguồn lực từ sản xuất và các nguồn lực
từ tài nguyên, đất đai. Các chính sách thuế, phí, lệ phí được ban hành về cơ bản đã đảm bảo
minh bạch, đơn giản, phù hợp với các cam kết về hội nhập quốc tế, góp phần tạo môi trường
đầu tư ổn định, hấp dẫn, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
Phân bổ, sử dụng nguồn lực công
Chính sách phân bổ và sử dụng các nguồn lực tài chính tiếp tục được hoàn thiện gắn với quá
trình tái cơ cấu nền tài chính quốc gia, đảm bảo thực hiện phân bổ các nguồn lực tài chính nhà
nước theo hướng minh bạch, ưu tiên cho những nhiệm vụ quan trọng, các vùng, đối tượng còn
nhiều khó khăn, mở rộng hệ thống an sinh xã hội…
Cơ cấu lại nợ công, đảm bảo an ninh, an toàn nền tài chính công
Trong thời gian qua, các thể chế, chính sách pháp luật trong lĩnh vực quản lý nợ công đã được
hoàn thiện và đổi mới, từng bước tiếp cận các thông lệ quốc tế. Đồng thời, sử dụng hiệu quả
các giải pháp quản lý nợ bền vững, Chương trình quản lý nợ trung hạn, kế hoạch vay, trả nợ
hằng năm, quản lý chặt chẽ bảo lãnh Chính phủ và vay về cho vay lại; tăng cường giám sát,
kiểm soát bội chi và vay nợ của ngân sách địa phương, qua đó, góp phần giảm nợ công. Đến
cuối năm 2021, dư nợ công chiếm khoảng 43,1% GDP, nợ Chính phủ khoảng 39,1% GDP, dư
nợ vay nước ngoài quốc gia khoảng 38,4% GDP, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của chính phủ
khoảng 21,5% tổng thu NSNN, trong phạm vi giới hạn an toàn cho phép.
Đổi mới cơ chế, chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước, đơn vị sự nghiệp công
lập
Đối với doanh nghiệp nhà nước: Cơ chế, chính sách về quản lý tài chính doanh nghiệp và sắp
xếp, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại DNNN đã được ban hành tương đối đầy đủ, đồng bộ
và được điều chỉnh, bổ sung để phù hợp với thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp và tình hình
thị trường, thúc đẩy tái cơ cấu DNNN, bảo đảm ngăn chặn thất thoát vốn, tài sản nhà nước, góp
phần minh bạch trong công tác quản lý tài chính DNNN.
Đối với đơn vị sự nghiệp công lập: Cơ chế quản lý tài chính đối với ĐVSNCL được đổi mới,
giúp cho đông đảo người dân được tiếp cận và hưởng thụ các dịch vụ công cơ bản, thiết yếu với
chất lượng cao hơn; tăng tính tự chủ cho các đơn vị, giảm áp lực đối với cân đối NSNN.
Công tác quản lý giá
Trước diễn biến phức tạp, nghiêm trọng của dịch COVID-19, tác động đến giá cả và tâm lý tiêu
dùng của người dân, Bộ Tài chính đã chủ động theo dõi giá cả, thị trường; phân tích, đánh giá,
thường xuyên cập nhật kịch bản điều hành giá để tham mưu đưa ra các biện pháp điều hành
phù hợp với tình hình thực tế, nhằm mục đích ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo đời sống người
dân và hoạt động sản xuất - kinh doanh cho doanh nghiệp.
 Một số hạn chế
Bên cạnh các kết quả đạt được, công tác cải cách tài chính công ở Việt Nam vẫn còn tồn tại
một số hạn chế, yếu kém do cả nguyên nhân chủ quan và khách quan như sau:
Về huy động nguồn lực tài chính công: Tình trạng chuyển giá, trốn thuế vẫn còn tồn tại,
gây thất thu cho NSNN, nhất là khu vực ngoài quốc doanh, khu vực FDI; hiệu quả quản lý, sử
dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp còn hạn chế; tình trạng thất thu thuế trong các lĩnh vực
thương mại điện tử vẫn còn lớn và chưa có giải pháp tối ưu để giải quyết thực trạng này.
Về phân bổ, sử dụng nguồn lực công: Nguồn lực NSNN dành cho đầu tư công hàng năm
vẫn được đảm bảo nhưng giải ngân vốn đầu tư công đạt thấp so với kế hoạch được giao. Giải
ngân vốn đầu tư công chậm một mặt là do công tác đền bù giải phóng mặt bằng, thủ tục hành
chính và các vướng mắc về thủ tục giải ngân vốn đầu tư công; mặt khác do ảnh hưởng của dịch
bệnh COVID-19 bùng phát, giá cả nguyên vật liệu tăng cao đột biến so với thời điểm đấu thầu,
các khâu từ nhập máy móc, thiết bị cho đến tuyển chuyên gia, nhân công, nhà thầu nước ngoài,
tư vấn giám sát, thống nhất với nhà tài trợ đối với từng hoạt động và kế hoạch của dự án đều
chậm trễ so với điều kiện bình thường.
Về cân đối ngân sách và quản lý nợ công: Với việc Việt Nam đã trở thành nước có thu
nhập trung bình, tỷ trọng các khoản vay ODA giảm dần, tiến tới chấm dứt, điều kiện huy động
vốn vay nước ngoài của Chính phủ có xu hướng kém thuận lợi hơn so với trước đây. Việc phân
bổ vốn ODA và vốn vay ưu đãi nước ngoài trong khuôn khổ kế hoạch đầu tư công trung hạn và
hàng năm còn có những hạn chế, chưa sát thực tế, phải điều chỉnh nhiều lần.

Phần 3: Giải pháp


Một là, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật về tài chính công.
Tăng cường tuyên truyền, giáo dục sâu rộng tạo thống nhất nhận thức và hành động trong
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cộng đồng doanh nghiệp về chấp hành nghĩa vụ nộp thuế,
pháp luật về ngân sách nhà nước, quản lý nợ công, thực hành tiết kiệm và phòng, chống tham
nhũng, lãng phí, nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong cả hệ thống chính trị.
Hai là, hoàn thiện chính sách thu ngân sách nhà nước.
Hoàn thiện chính sách thu gắn với cơ cấu lại thu ngân sách nhà nước theo hướng bao quát
toàn bộ các nguồn thu, mở rộng cơ sở thu, nhất là các nguồn thu mới; tăng tỉ trọng thu nội địa,
bảo đảm tỉ trọng hợp lý giữa thuế gián thu và thuế trực thu, khai thác tốt thuế từ tài sản, tài
nguyên, bảo vệ môi trường, đảm bảo đồng bộ, minh bạch, bền vững, đồng thời thúc đẩy phát
triển kinh tế bền vững trong bối cảnh đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Ba là, hoàn thiện chính sách chi ngân sách nhà nước.
Từng bước điều chỉnh chính sách chi ngân sách nhà nước theo hướng cơ cấu lại chi ngân
sách nhà nước nhằm tăng hợp lý tỉ trọng chi đầu tư, giảm dần tỉ trọng chi thường xuyên gắn với
đổi mới mạnh mẽ khu vực sự nghiệp công lập theo cơ chế tự chủ và tinh gọn bộ máy, biên chế,
thực hiện cải cách tiền lương, từng bước tính đúng, tính đủ chi phí vào giá dịch vụ công, điện,
nước, đất đai, … và có chính sách hỗ trợ phù hợp cho đối tượng chính sách, người nghèo,
người yếu thế trong xã hội. Đổi mới chính sách chi ngân sách nhà nước phù hợp với kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, tăng cường kiểm soát bội chi ngân sách nhà nước.
Thực hiện nghiêm nguyên tắc vay bù đắp bội chi ngân sách nhà nước chỉ được sử dụng
cho đầu tư phát triển, không sử dụng cho chi thường xuyên; cải thiện cân đối ngân sách nhà
nước, từng bước tăng tích lũy cho đầu tư phát triển và trả nợ vay. Xây dựng và triển khai ké
hoạch tài chính trung hạn gắn với chiến lược quản lý nợ công, kiểm soát bội chi ngân sách và
kế hoạch đầu tư công trong cùng thời kỳ.
Năm là, hoàn thiện quản lý nợ công phù hợp với kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế.
Hoàn thiện thể chế, đặc biệt là chính sách, công cụ, nghiệp vụ và bộ máy quản lý nợ
công bảo đảm đúng quy định của hiến pháp và pháp luật có liên quan để kiểm soát toàn diện rủi
ro và hiệu quả nợ công; điều chỉnh phạm vi nợ công phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế.
Tăng cường kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay về cho vay lại. Hạn chế tối đa cấp bảo
lãnh Chính phủ cho các khoản vay mới, khống chế hạn mức bảo lãnh cho hai ngân hàng chính
sách tối đa bằng nghĩa vụ trả nợ gốc hàng năm.
Sáu là, đẩy mạnh cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả đầu tư công.
Tập trung nguồn vốn ngân sách nhà nước đầu tư các công trình trọng điểm, có sức lan tỏa
lớn và giải quyết các vấn đề phát triển của quốc gia, vùng và liên vùng, tạo thuận lợi thu hút
đầu tư tư nhân, đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Bảy là, tăng cường kỷ luật, kỷ cương tài chính; thực hiện có hiệu quả việc phân cấp, phân
quyền cho các địa phương trong quản lý tài chính công; đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
quản lý tài chính công; ngăn chặn và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm liên quan.

C. KẾT LUẬN
       Như vậy qua phân tích ở trên cho thấy vấn đề tài chính công gắn liền với hoạt động của
nhà nước. Nó vừa là nguồn lực để nhà nước thực hiện tốt chức năng của mình , vừa là công cụ
để thực hiện các dịch vụ công, chi phối , điều chỉnh các mặt hoạt động khác của đất nước.
Trong tiến trình đổi mới, thực hiện cải cách nền hành chính quốc gia, Đảng và nhà nước ta coi
đổi mới quản lý tài chính công là một trong những nội dung quan trọng hàng đầu. Nhận thức
một cách đầy đủ, có hệ thống về tài chính công là đòi hỏi bức thiết trong công tác nghiên cứu,
học tập cũng như hoạt động thực tiễn cho cán bộ ở mọi nghành, mọi cấp, đặc biệt là trong thời
kỳ đẩy mạnh cải cách hành chính hiện nay ở nước ta. Đặc biệt là đối với thế hệ trẻ, là những
người làm chủ đất nước trong tương lai cần phải hiểu một cách cụ thể về vấn đề tài chính công,
cũng như quản lý tài chính công.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

You might also like