You are on page 1of 15

VAI TRÒ CỦA NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT

TRIỂN KINH TẾ LIÊN HỆ THỰC TẾ Ở VIỆT NAM

I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC


1. Khái niệm ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước được
dự toán và thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền quyết định để bảo đảm thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ của Nhà nước.
– Về mặt nội dung: Là toàn bộ các khoản thu – chi của Nhà nước. Khái
niệm thu – chi đã được khái quát hoá, trong đó “thu” được hiểu là tất cả
các nguồn tiền được huy động cho nhà nước; còn “chi” được hiểu là bao
gồm tất cả các khoản chi và các khoản hoàn trả khác của Nhà nước. Các
khoản thu chi được xác định bởi những con số cụ thể nhằm xác định rõ
khả năng tạo nguồn kinh phí để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước,
đồng thời tạo thế cân bằng trong thu chi, tạo sự chủ động trong hoạt động
của ngân sách nhà nước.
– Về mặt pháp lý: Các khoản thu – chi này phải nằm trong dự toán đ
được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định. Ngân sách nhà
nước hoạt động trong lĩnh vực phân phối các nguồn tài chính, vì vậy nó
thể hiện các mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa nhà nước và xã hội.
Quyền lực về ngân sách nhà nước thuộc về nhà nước, nên ngân sách nhà
nước do Quốc hội với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ở
nước ta quyết định.
– Về mặt thời gian: Các khoản thu – chi này chỉ được thực hiện trong một
năm. Tính niên hạn của ngân sách nhà nước được thể hiện quá trình thực
hiện nhiệm vụ thu – chi của nhà nước; nó tồn tại trong vòng 12 tháng, có
thể bao trùm năm dương lịch (từ ngày 01.01 đến 31.12 của năm) nhưng
cũng có thể bắt đầu và kết thúc vào những khoảng thời gian khác nhau
như: Ví dụ: có nước bắt đầu từ 1.4 của năm trước và kết thúc vào 31.03
của năm sau; có nước bắt đầu từ 01.10 của năm trước và kết thúc vào
30.9 của năm sau…
- Về mục đích: Nhằm thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà
nước. Mọi khoản thu và chi tài chính của nhà nước đều do nhà nước
quyết định và nhằm mục đích phục vụ yêu cầu thực hiện các chức năng
nhà nước. Bất kỳ nhà nước nào cũng đều có quyền ban hành pháp luật.
Do nhu cầu chi tiêu của mình, nhà nước đã sử dụng pháp luật để ban
hành chính sách thuế khoá và bắt buộc các tổ chức, cá nhân phải nộp một
phần thu nhập của mình cho nhà nước với tư cách là chủ thể thực hiện
nghĩa vụ với nhà nước. Tính cưỡng bức của các khoản thu ngân sách
không hề mang ý nghĩa tiêu cực; bởi vì đây là sự cần thiết. Mọi đối tượng
nộp thuế đều ý thức được nghĩa vụ của mình trong việc đảm bảo sự tồn
tại và phát triển của nhà nước, của quốc gia. Đồng thời họ cũng ý thức
được vai trò quan trọng của nhà nước trong quá trình sử dụng các nguồn
tài chính nhằm thực hiện các chức năng về kinh tế – xã hội của mình.
(Ngay từ khái niệm đã cho thấy mục đích của ngân sách nhà nước
là bảo đảm thực hiện những nhiệm vụ, chức năng của Nhà nước theo quy
định pháp luật. Điều này khiến cho ngân sách không chỉ là một nguồn tài
sản để chi tiêu mà còn là một lĩnh vực cụ thể, trong đó cần có sự phối hợp
của các cơ quan có thẩm quyền để đảm bảo cho việc thiết lập, thi hành và
kiểm soát quá trình thực hiện ngân sách nhà nước.
Ngoài ra, các khoản thu, chi của ngân sách nhà nước chỉ được dự
toán và thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định và sẽ được quyết
toán khi hết thời hạn đó. Theo quy định, năm ngân sách bắt đầu từ ngày
01 tháng 01 và kết thúc vào ngày 31 tháng 12 năm dương lịch. )
2. Phân loại Ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước bao gồm ngân sách trung ương và ngân
sách địa phương. Ngân sách trung ương là ngân sách của các bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác ở trung
ương. Ngân sách địa phương bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính
các cấp có Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân.
3. Đặc điểm của ngân sách nhà nước
Thứ nhất, ngân sách nhà nước là kế hoạch tài chính phải được
Quốc hội biểu quyết và thông qua.
Theo đó, việc thiết lập ngân sách nhà nước không chỉ dựa trên góc độ
kinh tế thông qua việc dự toán các khoản thu và chi được thực hiện mà
còn là vấn đề mang tính pháp lý, trong đó ngân sách nhà nước phải trải
qua việc xem xét, biểu quyết thông qua tại Quốc hội như việc ban hành
một đạo luật để làm phát sinh quyền và nghĩa vụ cho các chủ thể tham gia
vào hoạt động ngân sách.
Thứ hai, ngân sách nhà nước có thể được coi là một đạo luật.
Dự toán ngân sách nhà nước trước khi trình lên Quốc hội được
soạn thảo bởi Chính phủ, do đó quy trình này phải có sự tham gia của cả
cơ quan hành pháp và lập pháp.
Đặc điểm này tạo ra sự khác biệt của ngân sách nhà nước so với
các loại ngân sách khác. Bản dự toán ngân sách nhà nước tại cơ quan lập
pháp thể hiện sự khác biệt về phương diện pháp lý, bởi vì chỉ có ngân
sách nhà nước mới trải qua quá trình Luật hoá này.
Thứ ba, ngân sách nhà nước là kế hoạch tài chính của toàn thể
quốc gia, được trao cho Chính phủ tổ chức thực hiện đặt dưới sự giám
sát của Quốc hội.
Quyền giám sát của Quốc hội đối với hoạt động thi hành ngân sách
nhà nước là một nguyên tắc hiến định, trong đó thể hiện sự tham gia quản
lý của các cơ quan khác nhau nhằm kiểm soát nguy cơ lạm quyền của cơ
quan thi hành ngân sách nhà nước. Nói cách khác, quy định này một mặt
củng cố, đề cao quyền lực của Quốc hội - cơ quan quyền lực cao nhất của
nhà nước Việt Nam - đối với vấn đề quan trọng bậc nhất, ảnh hưởng trực
tiếp đến đời sống chính trị - xã hội của nhân dân, mặt khác cũng cho thấy
tính dân chủ, công khai, minh bạch trong hoạt động tài chính của nhà
nước.
Thứ tư, ngân sách nhà nước được thiết lập và thực thi hoàn toàn vì
mục đích chung của toàn thể quốc gia.
Đặc điểm này có thể coi là yếu tố quyết định phân biệt ngân sách
nhà nước với các nguồn ngân sách khác của các tổ chức, cá nhân khác,
bởi lẽ ngân sách của các chủ thể này thường chỉ trong phạm vi nhất định
và liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của các chủ thể đó.
4. Các khoản thu - chi của ngân sách nhà nước
Thu ngân sách nhà nước gồm những khoản:
- Thuế, phí, lệ phí do các tổ chức và cá nhân nộp theo quy định của pháp
luật;
- Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước;
- Các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân;
- Các khoản viện trợ;
- Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
Ngân sách nhà nước được chi cho những hoạt động:
- Chi đầu tư phát triển: xây đường, cầu bệnh viện, trường học,….
- Chi dự trữ quốc gia: bổ sung vào quỹ dự trữ nhà nước và dự trữ tài
chính.
- Chi thường xuyên: lương công nhân viên chức, chi cho an ninh quốc
phòng,…
- Chi trả nợ lãi: trả các khoản vay trong nước, vay nước ngoài, vay viện
trợ,..
- Chi viện trợ: viện trợ cho người dân bị thiên tai, lũ lụt,….
- Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
II. VAI TRÒ CỦA NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ, LIÊN HỆ THỰC TẾ Ở VIỆT NAM
Với chức năng phân phối, ngân sách có vai trò huy động nguồn tài
chính để đảm bảo nhu cầu chi tiêu của Nhà nước và thực hiện sự cân đối
thu chi tài chính của Nhà nước. Đó là vai trò truyền thống của Ngân sách
nhà nước trong mọi mô hình kinh tế. Nó gắn chặt với các chi phí của Nhà
nước trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình.
Ngân sách nhà nước là công cụ tài chính của Nhà nước góp phần
thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế, điều chỉnh kinh tế vĩ mô. Nhà
nước sử dụng Ngân sách nhà nước như là công cụ tài chính để kiềm chế
lạm phát, ổn định thị trường, giá cả cũng như giải quyết các nguy cơ tiềm
ẩn về bất ổn định KT
Ngân sách nhà nước là công cụ tài chính góp phần bù đắp những
khiếm khuyết của KTTT, đảm bảo công bằng xã hội, bảo vệ môi trường,
thúc đẩy phát triển bền vững. KTTT phân phối nguồn lực theo phương
thức riêng của nó, vận hành theo những quy luật riêng của nó.
Muốn thực hiện tốt vai trò này Ngân sách nhà nước phải có quy mô
đủ lớn để Nhà nước thực hiện các chính sách tài khóa phù hợp (nới lỏng
hay thắt chặt) kích thích sản xuất, kích cầu để góp phần thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế.

Thực tế vai trò của ngân sách nhà nước


Nhìn chung, ngân sách nhà nước đóng vai trò quan trọng không thể thiếu
đối với bất kỳ một nhà nước trong bất kỳ thời đại nào. Đối với Việt Nam
cũng vậy, ngân sách nhà nước thể hiện rõ nét vai trò đó trong suốt quá
trình xây dựng đất nước, đặc biệt là trong giai đoạn từ trước đổi mới và
sau đổi mới, quá trình sử dụng ngân sách nhà nước đã có sự tác động tích
cực và cả tiêu cực đối với nền kinh tế nhất là quá trình chuyển đổi nền
kinh tế từ tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của
nhà nước.
Trước đổi mới, xuất phát từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu lại bị
chiến tranh tàn phá nặng nề, hầu hết các khoản tích lũy cho đầu tư đều
phải dựa vào các nước xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế mất cân đối nghiêm
trọng, thu chi ngân sách mất cân đối lại dựa vào phát hành tiền để bù đắp
thâm hụt nên gây ra tình trạng lạm phát và nền kinh tế khủng hoảng trầm
trọng.
Thu chi ngân sách của Chính phủ trong thời kỳ này mang nặng tính bao
cấp, nguồn thu eo hẹp, quy mô nhỏ nhưng phải chịu gánh nặng từ hầu hết
các nhu cầu chi tiêu của nền kinh tế – xã hội. Do phải chi tiêu phục vụ
khôi phục và xây dựng hạ tầng cơ sở kinh tế và đẩy mạnh năng lực sản
xuất của doanh nghiệp nhà nước nên tổng chi ngân sách nhà nước so với
thu nhập quốc dân luôn ở mức cao, lớn hơn tổng thu rất nhiều. Ngân sách
nhà nước thâm hụt nặng nề, tổng thu ngân sách luôn thấp hơn rất nhiều so
với nhu cầu chi tiêu.
Toàn bộ nguồn vốn chi đầu tư phát triển đều phải dựa vào nguồn vốn viện
trợ và vay nợ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa cũng như từ
nguồn phát hành tiền của ngân hàng nhà nước.
Nhu cầu chi NSNN rất lớn trong khi nguồn thu hạn hẹp dẫn đến thâm hụt
trầm trọng NSNN. Thâm hụt NSNN giai đoạn 1976-1980 là 28%, giai
đoạn 1981-1985 là 14%. Việc phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân
sách đã dẫn đến lạm phát phi mã vào giữa những năm 80 buộc Nhà nước
phải tiến hành cải cách. Nhưng cuộc cải cách giá-lương-tiền năm 1985
không những không cải thiện được tình hình mà còn làm cho nền kinh tế
lâm vào khủng hoảng trầm trọng hơn.

Chính sách thu NSNN trong thời kỳ này có đặc trưng chủ yếu:
Chính sách thuế không thực hiện đồng bộ nền kinh tế mà chỉ áp dụng đối
với bộ phận kinh tế ngoài quốc doanh, kinh doanh tiểu thủ công nghiệp
và buôn bán nhỏ.
Chính sách thu đối với khu vực doanh nghiệp nhà nước là cơ chế thực
thanh thực chi, thu đủ chi đủ, không phân biệt hiệu quả đầu tư kinh
doanh, cũng không có tác dụng khuyễn khích đổi mới công nghệ, tăng
năng suất chất lượng sản phẩm, giảm chi phí, tăng lợi nhuận.
Chi tiêu dùng trong thời kỳ này chiếm tỷ trọng lớn và có xu hướng tăng.
Giai đoạn 1976-1980 chi tiêu dùng chiếm bình quân 60,8% tổng chi
NSNN. Do bao cấp tràn nan và nặng nề nên nhu cầu chi tiêu NSNN ngày
càng tăng.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI cuối năm 1986 đã mở ra một thời kỳ
mới với những chương trình cải cách kinh tế sâu rộng và toàn diện. Nền
kinh tế đã chuyển dần từ mô hình tập trung bao cấp sang kinh tế thị
trường phù hợp với đặc điểm của Việt Nam.
Sau 10 năm đổi mới, vị thế và tiềm lực tài chính công đã được củng cố và
tăng cường, dự trữ tài chính nhà nước và dự trữ ngoại tệ tăng khá, cán cân
thanh toán được cải thiện. Về quy mô, thu ngân sách nhà nước đã tăng từ
mức 13,4% GDP giai đoạn 1986-1990 lên mức 20,2% giai đoạn 1991-
2000. Điều này đã tạo nguồn lực cho nhà nước thực hiện các nhiệm vụ
chiến lược, đưa nền tài chính ngân hàng thoát khỏi tình trạng phụ thuộc,
có tích lũy vốn để đầu tư phát triển kinh tế, cải thiện cơ sở hạ tầng, giải
quyết các vấn đề xã hội.
Thực hiện cải cách lại cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hóa đã góp
phần làm giảm đáng kể các khoản chi cho các doanh nghiệp nhà nước.
Chi đầu tư phát triển trong thời kỳ này được coi là nội dung ưu tiên hàng
đầu trong cơ cấu chi NSNN.
Chi đầu tư phát triển của NSNN là quá trình phân phổi và sử dụng một
phần vốn tiền tệ từ quỹ NSNN để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế –
xã hội, phát triển sản xuất và dự trữ vật tư hàng hóa của đất nước, nhằm
thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và
phát triển xã hội.
Giai đoạn này nguồn vốn chi đầu tư phát triển từ NSNN tuy còn hạn hẹp
nhưng vốn đàu tư của toàn xã hội đã tăng nhanh đáng kể. Ngoài nguồn
vốn chi từ NSNN còn huy động được nguồn vốn từ nhiều thành phần
kinh tế khác nhau. Bên cạnh đó, đầu tư gián tiếp của Nhà nước thông qua
cơ chế để lại khấu hao cơ bản cho các doanh nghiệp nhà nước, cấp lại
một số tiền thuế, để lại lợi nhuận cho doanh nghiệp, miễn thuế cho các
doanh nghiệp mới thành lập đi vào hoạt động. Đồng thời với chính sách
huy động vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần tăng mức đầu tư xã hội lên
cao.
NSNN được sử dụng để kích thích nền kinh tế phát triển hoặc hình thành
cơ cấu kinh tế mới, hướng hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế đi
vào quỹ đạo mà chính phủ đã hoạch định thông qua các hoạt động như:
Dùng vốn NSNN để đầu tư vào cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội như giao
thông, điện, nước thuỷ lợi… Đây là những lĩnh vực rất cần cho sự phát
triển kinh tế xã hội nhưng tư nhân không muốn đầu tư (do tỷ suất lợi
nhuận thấp, thời gian hoàn vốn chậm) hoặc không đủ khả năng (về vốn và
trình độ) để đầu tư.
Ví dụ : Nhà máy lọc dầu Dung Quất (Quảng Ngãi) là công trình trọng
điểm quốc gia, nhằm hình thành ngành công nghiệp lọc hóa dầu của Việt
Nam, tạo điều kiện cho phát triển nhanh các ngành công nghiệp, dịch vụ
liên quan. Công trình còn góp phần thúc đẩy phát triển và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của miền Trung, từng bước tạo ra sự phát triển kinh tế cân đối
giữa các vùng, miền trong cả nước. Điều này đáp ứng mục tiêu vừa phát
triển kinh tế vừa ổn định xã hội của Chính phủ. Hơn nữa, Công trình
trọng điểm quốc gia về dầu khí này cho phép chúng ta chế biến và gia
tăng giá trị dầu thô khai thác trong nước, hạn chế nhập siêu và giảm bớt
sự phụ thuộc vào nguồn cung cấp xăng dầu từ nước ngoài, đảm bảo từng
bước về an ninh năng lượng. Năm 2010, tính từ khi bàn giao, NMLD
Dung Quất đạt doanh thu 60.000 tỷ đồng, nộp ngân sách 10.000 tỷ đồng,
sản phẩm đáp ứng 30% nhu cầu xăng dầu của cả nước.
Hay cụm công trình công nghiệp khí-điện-đạm Cà Mau có tổng giá trị
hơn 1,2 tỷ USD cung cấp điện năng cho đất nước. Đây là công trình trọng
điểm có ý nghĩa cả về kinh tế, xã hội và an ninh quốc phòng.

Cấp vốn hình thành các doanh nghiệp Nhà nước là một trong những biện
pháp căn bản để chống độc quyền và giữ cho thị trường khỏi rơi vào tình
trạng cạnh tranh không hoàn hảo.
Thực hiện những ưu đãi về tín dụng hoặc thuế nhằm khuyến khích phát
triển những ngành nghề hoặc vùng cần phát triển, ví dụ các ngành kinh tế
mới (công nghệ sinh học, tin học), các ngành trọng điểm (sản xuất hàng
xuất khẩu), các vùng kinh tế ở vùng sâu vùng xa cần hỗ trợ phát triển để
đảm bảo đời sống người dân ở đó. Ví dụ gói kích cầu năm 2009 (bao gồm
cả hỗ trợ lãi suất, miễn giảm thuế…) trị giá khoảng 8 tỷ USD.
Thông qua việc áp dụng thuế suất cao đối với những mặt hàng xa xỉ có
tác dụng định hướng tiêu dùng, định hướng đầu tư nhằm tiết kiệm nguồn
vốn có hạn của xã hội để phát triển kinh tế.
Ví dụ, để hạn chế nhập khẩu hàng xa xỉ Nhà nước đánh thuế nhập khẩu
cao kèm theo thuế tiêu thụ đặc biệt như ở mặt hàng ô tô, máy bay…
Khi nền kinh tế suy thoái, nhà nước có thể tăng chi ngân sách cho đầu tư,
cắt giảm thuế nhằm kích cầu, hỗ trợ nền kinh tế phục hồi sớm.
Thông qua các khoản chi đầu tư từ vốn ngân sách và ưu đãi thuế để thúc
đẩy hình thành cơ cấu kinh tế mới, hợp lý hơn, qua đó phát huy các
nguồn lực trong xã hội một cách có hiệu quả.

Vai trò ổn định kinh tế xã hội của NSNN được thể hiện qua những hoạt
động như:
Lập quỹ dự trữ nhà nước về hàng hoá, vật tư thiết yếu, các quỹ dự phòng
tài chính (kể cả bằng vàng và ngoại tệ) để ổn định kinh tế xã hội khi có sự
biến động do thiên tai, tai hoạ lớn mà Nhà nước cần can thiệp.
Ví dụ như tính đến tháng 11/2012 Tổng cục Dự trữ Nhà nước đã chỉ đạo
các đơn vị nhập đủ 191.550 tấn gạo và 80.000 tấn thóc, hoàn thành 100%
kế hoạch được giao; về kết quả xuất đổi hàng, thóc được 68.019 tấn (đạt
81,2%), gạo được 86.477 tấn, đạt 62,1%; triển khai việc xuất 5.000 tấn
gạo quà tặng đến nhân dân Triều Tiên; xuất 4.000 tấn gạo viện trợ cho
các tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An khắc phục hậu quả thiên tai; mua vật tư,
thiết bị, đã nhập được 185.000 chiếc phao tròn tại các đơn vị; thương thảo
hợp đồng với các nhà thầu trúng thầu cung cấp thiết bị chữa cháy rừng,
nhà bạt nhẹ theo kết quả đấu thầu được Bộ phê duyệt.
Tính đến ngày 25/3/2013, Tổng cục dự trữ quốc gia đã hoàn thành việc
xuất cấp 29.092 tấn gạo hỗ trợ cho các địa phương, trong dịp Tết Nguyên
đán và giáp hạt năm 2013 và 750 tấn gạo (đợt 1) cho Dự án Đầu tư và
phát triển rừng, tại 4 huyện vùng cao núi đá tỉnh Hà Giang.
Bình ổn giá cả hàng hoá để ổn định thị trường. Nhà nước chỉ điều tiết
những mặt hàng quan trọng, mang tính chất chiến lược. Cơ chế điều tiết
thông qua trợ giá, điều chỉnh thuế suất thuế xuất nhập khẩu, dự trữ quốc
gia
Ví dụ: Bộ Công Thương ban hành văn bản số 3705/BCT-CNNg triển
khai thực hiện các biện pháp bình ổn giá cả mặt hàng thép, góp phần
kiềm chế lạm phát trong năm 2010.
Bình ổn giá xăng trong cuối năm 2010 để tránh việc giá cả các mặt hàng
khác tăng nhanh trong dịp tết, tranh nguy cơ lạm phát trong đầu năm
2011.
Cấp tín dụng ưu đãi hoặc mua lại các doanh nghiệp có vị trí quan trọng
đang gặp khó khăn, có nguy cơ giải thể hoặc phá sản.
Kinh tế Việt Nam đang ở trong thời kỳ cuối của giai đoạn suy thoái kinh
tế. Chính phủ đã buộc phải tung ra các gói cứu trợ để kích thích nền kinh
tế đang suy yếu.Trong vòng 5 năm trở lại đây, chính phủ Việt Nam đã hai
lần tung ra các gói cứu trợ để kích thích nền kinh tế sau khi thực hiện các
biện pháp thắt chặt tiền tệ để chống lạm phát.
Nhà nước đã tung ra các gói kích cầu kinh tế như gói hỗ trợ lãi suất
160.000 tỷ đồng đẩy nhanh tăng trưởng tín dụng năm 2009 và gói kích
cầu miễn giảm thuế cho doanh nghiệp 29.000 tỷ đồng năm 2012.
Gần đây nhất, ngày 7/01/2013 Chính phủ ra Nghị quyết số 02/NQ-CP về
một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị
trường, giải quyết nợ xâu nhằm tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, không phải lúc nào các gói kích cầu cũng mang lại hiệu quả
và đôi khi những sai lầm trong quản lý điều hành doanh nghiệp đã dẫn
đến doanh nghiệp làm ăn thua lỗ và gây thất thoát tiền bạc của nhà nước.
Đó là trường hợp của Tập đoàn kinh tế Vinashin (Vinashin Business
Group) đã làm thất thoát hàng chục nghìn tỷ VNĐ của nhà nước. Các
thống kê ban đầu cho thấy với hơn 4 tỷ USD thất thoát của Vinashin đã
gấp 4 lần gói kích cầu của Chính phủ trong nỗ lực phục hồi kinh tế trong
cơn khủng hoảng suy thoái năm 2008, gấp 3 lần tổng mức đầu tư cho
chương trình xóa đói giảm nghèo cả nước.

Lập quỹ dự trữ ngoại tệ để ổn định tỷ giá.

Dự trữ ngoại hối của Việt Nam .

Năm 2008 dự trữ ngoại hối của Việt Nam là 23,9 tỷ USD, năm 2009
giảm xuống còn 14,1 tỷ USD, năm 2010 chỉ còn 12,4 tỷ USD.
Tuy nhiên, Quỹ dự trữ ngoại tệ của Việt Nam hiện tương ứng khoảng 14-
16 tuần nhập khẩu. Nếu tính theo số liệu Hải quan về kim ngạch nhập
tháng 1/2013 thì khối lượng ngoại tệ đang dự trữ của Việt Nam có thể lên
tới gần 43 tỷ USD.

Sử dụng các chính sách tài khoá thắt chặt hoặc mở rộng nhằm điều tiết
kinh tế vĩ mô (giảm nhiệt nền kinh tế, chống lạm phát, phục hồi tổng
cầu).

Ngoài ra, các hoạt động nhằm cân bằng ngân sách cũng có ảnh hưởng lớn
tới các cân bằng vĩ mô của nền kinh tế như cán cân thanh toán…

Vai trò NSNN về mặt thực hiện công bằng xã hội thể hiện ở những hoạt
động như:

Chi phúc lợi công cộng như giáo dục, y tế, văn hoá… nhằm tạo điều kiện
nâng cao mặt bằng xã hội.

Chi trợ cấp trực tiếp đối với những người có hoàn cảnh khó khăn như trẻ
em mồ côi, người già không nơi nương tựa, những gia đình có công với
đất nước. Chi trợ cấp thất nghiệp, người có thu nhập thấp nhằm giúp ổn
định xã hội.

Chi trợ cấp gián tiếp dưới hình thức trợ giá cho các mặt hàng thiết
yếu,các khoản chi phí để thực hiện chính sách dân số, chính sách việc
làm, chống mù chữ,…

Chi hỗ trợ việc làm cho người nghèo, người tàn tật qua tín dụng ưu đãi.
Thông qua thuế thu nhập, thuế lợi tức nhằm điều tiết thu nhập cao để
phân phối lại cho các đối tượng có thu nhập thấp, góp phần giảm bớt
khoảng cách giàu nghèo.

Về nội dung và cơ cấu chi đầu tư phát triển đã từng bước thay đổi theo
hướng phù hợp với yêu cầu đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng trong điều kiện
nền kinh tế nhiều thành phần. Một xu hướng mới đang hình thành: chi
đầu tư phát triển từ nguồn vốn tập trung của nhà nước được dành chủ yếu
để xây dựng cơ sở hạ tầng và những khu vực đặc biệt khó khăn hoặc
không thu hồi được vốn. Trong thời kỳ 1991-1995 tỷ trọng chi đầu tư xây
dựng cơ bản bình quân là 85,2% chi đầu tư phát triển, đến năm 1996 tỷ lệ
này đã tăng lên 92,1%, năm 1999 tăng lên 93,2%.

Hiệu quả và tác động của chi đầu tư phát triển từ nguồn vốn NSNN đến
kinh tế – xã hội được thể hiện ở những mặt sau đây:

Về hiệu quả kinh tế:

Đầu tư phát triển từ nguồn vốn NSNN có tác động vào phát triển GDP
kinh tế nhà nước. Giai đoạn 2006-2008 và 2009-2010 hiệu quả đầu tư
phát triển từ nguồn vốn NSNN đối với việc phát triển GDP kinh tế nhà
nước có xu hướng tăng. Giai đoạn 2005-2006 và 2008-2009 hiệu quả
giảm, đặc biệt giai đoạn 2008-2009 hiệu quả giảm rõ rệt. Nhìn chung cả
giai đoạn 2005-2010 hiệu quả tăng, giảm thiếu ổn định và ngày càng có
xu hướng giảm dần với tốc độ lớn trong việc đóng góp vào phát triển
GDP kinh tế nhà nước.

Đối với đầu tư phát triển từ nguồn vốn NSNN theo số liệu Niên giám
thống kê Việt Nam giai đoạn 2005-2010, kết quả cho thấy ICOR kinh tế
nhà nước đã tăng rất nhanh và tăng liên tục từ 6,81 năm 2005 lên 10,24
năm 2010, có năm tăng đến 12, 37 (năm 2009). ICOR khu vực vốn đầu tư
phát triển từ NSNN tăng nhanh và cao như vậy, giai đoạn 2005-2010 đầu
tư phát triển từ vốn NSNN kém hiệu quả.

Chi đầu tư phát triển tới hiệu quả xã hội trong giai đoạn 2006-2008 và
2009-2010 có tác động làm tăng mức sống của người dân còn giai đoạn
2005-2006 và 2008-2009 có hiệu quả giảm, đặc biệt giai đoạn 2008-2009
hiệu quả giảm rõ rệt. Nhìn chung, trong cả giai đoạn 2005-2010 đầu tư
phát triển từ nguồn vốn NSNN có hiệu quả giảm rõ rệt trong việc nâng
cao mức sống của người dân.

Về lao động, giai đoạn 2005-2007, hiệu quả đầu tư phát triển từ NSNN
trong việc tăng thêm số lao động bình quân trong khu vực nhà nước có xu
hướng giảm dần, giai đoạn 2008-2009 tăng lên. Nhìn chung, trong cả giai
đoạn 2005-2010 đầu tư phát triển từ NSNN có hiệu quả nhưng thiếu ổn
định.

Đầu tư phát triển từ vốn NSNN trong việc giảm hộ nghèo ở nông thôn có
hiệu quả tăng lên.

Về bình ổn giá cả, giai đoạn 2005-2008 và 2009-2010 đầu tư phát triển từ
NSNN có hiệu quả tăng, giai đoạn 2008-2009 hiệu quả giảm. Nhìn
chung, trong cả giai đoạn 2005-2010 đầu tư phát triển vào bình ổn giá cả
còn thiếu ổn định và hiệu quả thấp.

Từ năm 2006-2010 tình hình lạm phát khó lường và khó kiểm soát. Đầu
tư phát triển từ nguồn vốn NSNN ít có hiệu quả trong việc bình ổn giá cả
và chống lạm phát.
Tóm lại, ngân sách nhà nước đóng vai trò then chốt trong việc huy động
các nguồn vốn vay để thực hiện các nhu cầu chi tiêu của nhà nước và điều
tiết kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, vai trò đó chỉ được thực hiện hiệu quả khi
ngân sách nhà nước được sử dụng hợp lý và hiệu quả từ quá trình huy
động vốn đến thu, chi ngân sách nhà nước cũng như các chính sách
NSNN chung. Ngược lại, ngân sách nhà nước sẽ có tác động tiêu cực,
hiệu quả của NSNN giảm, kinh tế phát triển thiếu ổn định và điều này
đúng với thực trạng kinh tế Việc Nam trong những năm gần đây.

You might also like