You are on page 1of 10

1. Khái niệm về tài chính công.

Trong tiến trình tự nhiên của lịch sử, nhà nước đã ra đời như một điều tất yếu
và mang trong mình hai chức năng chính, đó là: Bảo vệ chính quyền và ổn định
chính trị; Quản lý và phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, để thực hiện tốt các
chức năng kể trên, nhà nước cần phải có trong tay một nguồn lực tài chính nhất
định. Cho nên, bằng quyền lực chính trị đặc thù của mình, nhà nước đã tập trung
được một bộ phân của cải và thu nhập xã hội để hình thành nên nguồn tài chính
ấy. Trong quá trình này, các quan hệ kinh tế phát sinh giữa nhà nước và các chủ
thể khác trong nền kinh tế ra đời, và phát triển đan xen vào nhau. Tập hợp các
quan hệ kinh tế này hình thành nên một khu vực tài chính đặc thù, được gọi là khu
vực tài chính công. Trong hệ thống tài chính của một quốc gia, tài chính công là
bộ phận đóng vai trò chủ đạo và chi phối các bộ phận tài chính khác. Tài chính
công cũng là khu vực tài chính được hình thành sớm nhất, nó ra đời, tồn tại và
phát triển gắn liền với sự ra đời và hoàn thiện của thể chế nhà nước và phát triển
không ngừng của nền kinh tế hàng hóa tiền tệ.
Thuật ngữ "tài chính công" được sử dụng rộng rãi ở các nước, với nhiều quan
điểm khác nhau xuất phát từ các khía cạnh và mục đích nghiên cứru khác nhau.
Tuy nhiên, hầu hết các khái niệm đều chú trọng đến hoạt động bề ngoài của tài
chính công là hoạt động thu và chi ngân sách nhà nước. Nhưng chính từ những
hoạt động thu chi ấy lại làm phát sinh hàng loạt các quan hệ kinh tế giữa nhà nước
và các chủ thể khác trong nền kinh tế. Chẳng hạn, khoản mục thu từ thuế trong
ngân sách không chi đơn thuần là một khoản thu của nhà nước, mà đẳng sau nó là
quan hệ kinh tế phát sinh giữa nhà nước với các doanh nghiệp, tố chức hay cá
nhân đóng thuế; mà mối quan hệ kinh tế này cần phải được nhà nước điêu hòa để
thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Ngoài ra, còn có các quan hệ kinh
tế khác phát sinh giữa nhà nước với các cơ quan hành chính sự nghiệp, với các tố
chức xã hội, hay với các cá nhân hộ gia đình,...
Do đó, có thể khái quát khái niệm tài chính công như sau: Tài chính công là hệ
thống các quan hệ kinh tế dưới hình thái giá trị giữa nhà nước và các chủ thể trong
xã hội, phát sinh trong quá trình nhà nước tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ quốc
gia nhằm thực hiện các chức năng quản lý kinh tế xã hội của nhà nước.
2. Đặc điểm của tài chính công.
Hoạt động của tài chính công rất đa dạng và phong phú, có liên quan và tác
động trực tiếp đến mọi lĩnh vực, chủ thể trong nền kinh tế. Tài chính công mang ba
đặc điểm quan trọng sau đây:
a) Tính chủ thể: Tài chính công do nhà nước sở hữu và bản chất nhà nước
chính là một chủ thể duy nhất có quyền quyết định sử dụng các quỹ tiền tệ
của nhà nước. Mọi quyết định sử dụng tiền tệ, ngân sách sẽ gắn bó mật thiết
tới bộ máy nhà nước. Mục tiêu chung của việc sử dụng là duy trì sự tồn tại,
ổn định và phát huy hiệu lực của bộ máy quản lý, thực hiện các nhiệm vụ
liên quan tới hoạt động kinh tế – xã hội mà nhà nước đảm nhận. Đặc điểm
này còn có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo quyền lãnh đạo thống nhất
và tập trung của phía nhà nước, giúp loại trừ sự chia sẻ, phân tán quyền lực
trong việc điều hành ngân sách.
b) Tính hiệu quả của việc chi tiêu tài chính công: Hoạt động thu chi chủ yếu
mang tính chất không hoàn trả trực tiếp nên không thể đánh giá hiệu quả một
cách cụ thể, mà chỉ có thể xác định một cách tương đối thông qua các chỉ
tiêu kinh tế – xã hội. Điều này được thể hiện qua việc phân bổ và sử dụng
vốn của nhà nước gồm quỹ ngân sách, quỹ tài chính công ngoài ngân sách.
Nếu sản xuất kinh doanh tại những đơn vị kinh tế cơ sở thì đặc điểm này
được đánh giá bằng các chỉ tiêu định lượng như hệ số doanh lợi, tổng số lợi
nhuận đã thu trong kỳ xác định,… Nếu sản xuất kinh doanh ở cơ sở, tầm vi
mô, việc đánh giá hiệu quả bằng chỉ tiêu định lượng sẽ cho ra phép tính
không toàn diện. Chính vì vậy, đặc đặc điểm này thường được đánh giá bởi
sự kết hợp hai tiêu chí căn bản nhất là kết quả đạt được so với chi phí đã bỏ
ra.
c) Nguồn hình thành thu nhập: Tài chính công là bao gồm cả hoạt động thu
và chi, đối với thu nhập sẽ đến từ các nguồn trong và ngoài nước. Dựa vào
nhiều lĩnh vực từ sản xuất, lưu thông, phân phối,… nguồn thu này gắn chặt
với kết quả của quá trình hoạt động kinh tế, cùng với việc theo dõi và đánh
giá các yếu tố giá trị khác như giá cả, lãi suất, mức thu nhập,… Đặc điểm
này đóng vai trò quan trọng trong tổng thu nhập tài chính công, nhất là
nguồn của cải mới được sáng tạo bởi các ngành sản xuất. Việc thu nhập tài
chính công sẽ thông qua nhiều hình thức và phương thức, nhưng phải dựa
trên sự tự nguyện và bắt buộc, có hoàn trả hoặc không có hoàn trả, không
ngang giá hoặc ngang giá.
Ngoài các đặc điểm trên, Hoạt động của tài chính công luôn gắn chặt với sở hữu
nhà nước, nhằm mục đích phục vụ cho lợi ích chung, lợi ích công cộng. Lợi ích
của nhà nước (lợi ích chung của quốc gia) thể hiện trong phân phối thu nhập của
doanh nghiệp, dân cư, phân phối GDP, GNP và cả trong phân bổ các nguồn lực tài
chính cho các mục tiêu kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng của quốc gia. Trong
đó, lợi ích quốc gia được đặt lên hàng đầu và chi phối các lợi ích khác. Hoạt động
của tài chính công là hoạt động phân phối lại nguồn tài chính, trong đó các khoản
thu mang tính chất bắt buộc, các khoản chi mang tính chất cấp phát, được thực
hiện theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp.
3. Vai trò của tài chính công.
Tài chính công bao gồm các vai trò chính như sau:
a) Huy động nguồn tài chính đấp ứng nhu cầu chi tiêu phục vụ cho hoạt
động kinh tế chính trị xã hội của nhà nước.
Bất cứ một Nhà nước nào cũng cần có các nguồn lực tài chính để duy trì bộ
máy nhà nước và phục vụ cho công việc quản lý vĩ mô nền kinh tế. Các nguồn tài
chính này có thể được huy động từ mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế trong xã
hội dưới nhiều hình thức, biện pháp khác nhau. Trong đó, huy động từ thuế là
nguồn vốn huy động chủ yếu.
Tuy nhiên nếu mức huy động vào thu ngân sách nhà nước từ thuế và các nguồn
thu ngoài thuế quá cao vì chỉ chú ý đến lợi ích của nhà nước sẽ làm giảm mối quan
tâm của các đơn vị sản xuất trong việc nâng cao hiệu quả kinh tế cũng như trong
việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế lâu dài của nhà nước. Trái lại, mức thuế
huy động thấp cũng ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế xã hội, do đó nhà nước phải xác
định mức huy động vốn tối ưu đáp ứng yêu cầu chi tiêu của nhà nước, hợp lý với
tốc độ tăng trưởng kinh tế, vừa đảm bảo lợi ích kinh tế của doanh nghiệp có điều
kiện tích tụ vốn để tái sản xuất mở rộng.
b) Tài chính công là công cụ điều tiết, quản lý vĩ mô nền kinh tế.
Tài chính công cung cấp nguồn kinh phí để nhà nước đầu tư cho cơ sở, kết cấu
hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt, trên cơ sở đó tạo
môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp
thuộc thành phần kinh tế khác, đây cũng là một trong những biện pháp căn bản để
chống độc quyền.
Thông qua các khoản thuế và chính sách thuế sẽ đảm bảo vai trò dịnh hướng
đầu tư, kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh. Việc đặt ra các loại thuế với
thuế suất ưu đãi, các quy định miễn thuế, giảm thuế ... có tác dụng kích thích mạnh
mẽ đổi với các doanh nghiệp. Một chính sách thuế có lợi sẽ thu hút được doanh
nghiệp bỏ vốn đầu tư vào nơi cần thiết, ngược lại, một chính sách thuế khắt khe sẽ
giảm bớt luồng di chuyển vốn vào nơi cần hạn chế sản xuất kinh doanh.
Hoạt động của tài chính công kích thích sự tăng trưởng kinh tế qua:Thu ngân
sách-chủ yếu từ thuế: Sử dụng các loại thuế và thuế suất khác nhau, kích thích sản
xuất phát triển, thu hút các doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư vào các ngành cần thiết, từ
đó điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế theo định hướng. Áp dụng thống nhất các loại
thuế đối với các chủ thể kinh tế trong ngoài quốc doanh cũng như trong nước ngoài
nước để tạo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Chi ngân sách: vào
phát triển kinh tế, vào cơ sở hạ tầng hoặc trợ giá cho các ngành có ảnh hưởng đến
sự phát triển của nền kinh tế, từ đó tạo điều kiện để các doanh nghiệp trong và
ngoài nước hướng vốn đầu tư vào các ngành, các vùng cần thiết để từ đó thúc đẩy
sự ra đời của các cơ sở kinh tế mới.
c) Công cụ để điều tiết thị trường, bình ổn giá cả và kiềm chế lạm phát.
Thông qua thực hiện các khoản thu ngân sách (đặc biệt là thuế), các khoản chi
tiêu, dự trữ nhà nước, từ đó tác động rất lớn đến quan hệ cung cầu và bình ổn giá
cả trên thị trường.
Đối với thị trường hàng hoá: Hoạt động điều tiết của chính phủ được thực
hiện thông qua việc sử dụng các quỹ dự trữ nhà nước (bằng tiền, bằng ngoại tệ, các
loại hàng hóa, vật tư chiến lược ...) được hình thành từ nguồn thu ngân sách. Khi
cung lớn hơn cầu, nhà nước thực hiện chính sách kích cầu: Hàng hóa nhiều, giá
thấp nhưng không bán được vì thu nhập người dân còn thấp, nhất là nông dân,
công nhân viên chức. Giá thấp có lợi cho người tiêu dùng nhưng ảnh hưởng tới nhà
sản xuất và nhà nước, nhà nước sẽ can thiệp bằng cách trợ giá hoặc mua hàng hóa
đó với giá thích hợp, mục đích đề tránh tình trạnh các nhà sản xuất chuyển cơ cấu
sản xuất sẽ ảnh hưởng tới nền kinh tế, đời sống xã hội. Khi giá tăng, cung nhỏ hơn
cầu, có lợi cho nhà sản xuất nhưng ảnh hưởng đến đời sống xã hội, nhà nước can
thiệp bằng cách đưa hàng hóa đó ra thi trường với giá thích hợp, tránh tình trạng
tăng giá hàng loạt thông qua quỹ dự phòng tài chính.
Đối với thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường sức lao động: Hoạt
động điều tiết của chính phủ thông qua việc thực hiện một cách đồng bộ giữa các
công cụ tài chính, tiền tệ, giá cả ... trong đó công cụ ngân sách với các biện pháp
như phát hành công trái, chi trả nợ, các biện pháp tiêu dùng của chính phủ cho toàn
xã hội, đào tạo ...
Tài chính công sẽ điều tiết bằng các biện pháp tích cực như khai thác các nguồn
vay trong nước, nước ngoài thông qua việc phát hành trái phiếu chính phủ, tham
gia thị trường chúng khoán với tư cách người mua, người bán chứng khoán, từ đó
tạo nguồn tài chính cho ngân sách, góp phần điều tiết lượng tiền trong lưu thông,
kiềm chế và đẩy lùi lạm phát.
Tài chính công được sử dụng như một công cụ có hiệu lực để kiềm chế và đẩy
lùi lạm phát, khi xảy ra lạm phát, giá cả tăng lên do cung cầu mất cân đối (cung
nhỏ hơn cầu), chính phủ có thể sử dụng biện pháp thuế như tăng thuế tiêu dùng,
giảm thuế đối với nhà đầu tư và thắt chặt chi tiêu của ngân sách nhà nước, nhất là
các khoản chi cho tiêu dùng. Ngoài ra, đê kiềm chế lạm phát, nhà nước có thể tăng
cường các khoản vay trong dân góp phần làm giảm lượng tiền mặt trong nền kinh
tế, triệt để không phát hành tiền tệ để bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước.
d) Công cụ có hiệu lực của nhà nước để điều chính thu nhập, góp phần giải
quyết các vấn đề xã hội.
Thông qua các khoản chi của ngân sách nhà nước nhằm thực hiện các chính
sách xã hội: chi hoạt động bộ máy nhà nước, lực lượng quân đội, công an, chi giáo
dục đào tạo, y tế, văn hóa, thể dục thề thao ... Bên cạnh đó, hàng năm chính phủ
vẫn có sự chú ý đặc biệt đối với tâng lớp dân cư có thu nhập thấp thông qua các
loại trợ giúp trực tiếp được dành cho những người có thu nhập thấp hoặc có hoàn
cảnh đặc biệt như chi trợ cấp xã hội, các loại trợ giúp gián tiếp dưới hình thức trợ
giá đối với các mặt hàng thiết yếu (lương thực, điện, nước ..), các khoản chi phí
thực hiện chính sách dân số, chính sách việc làm, các chương trình quốc gia lớn về
chống mù chữ, chống dịch bệnh, các chi phí cho việc cung cấp hàng hóa công.
Thông qua thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm điều tiết
những đối tượng có thu nhập cao để phân phối lại cho những đối tượng có thu nhập
thấp, hạn chề sự phân hóa giàu nghèo, tiến tới đảm bảo công bằng xã hội về thu
nhập. Đối với các loại thuế gián thu (như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng
...), nhà nước áp dụng mức thuế suất thấp đối với hàng hóa tiêu dùng thiết yếu và
mức thuế suất cao đối với những mặt hàng xa xỉ, các loại dịch vụ cao cấp nhằm
phân phối lại một bộ phận thu nhập của người giàu trong xã hội.
Ngoài các vai trò trên, tài chính công còn có vai trò củng cố, tăng cường sức
mạnh của bộ máy nhà nước, bảo vệ đất nước, giữ gìn an ninh, vai trò kiếm tra tài
chính khác trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, các khoản nộp, trong việc sử
dụng các tài sản quốc gia và thực hiện các pháp luật, chính sách về ngân sách và
các chính sách khác có liên quan.
4. Nội dung của tài chính công.
a) Dự trữ nhà nước ( dự trữ quốc gia )
Hoạt động dự trữ quốc gia là việc xây dựng, thực hiện chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch, dự toán ngân sách về dự trữ quốc gia; xây dựng hệ thống cơ sở vật chất -
kỹ thuật; quản lý, điều hành và sử dụng dự trữ quốc gia.
Dự trữ quốc gia được hình thành từ các nguồn sau đây:
Ngân sách nhà nước. Nguồn lực hợp pháp khác ngoài ngân sách nhà nước được
đưa vào dự trữ quốc gia bao gồm: Các nguồn lực có được từ tự nguyện đầu tư xây
dựng cơ sở vật chất, cung cấp công nghệ thông tin cho hoạt động quản lí và bảo
quản hàng dự trữ quốc gia, trực tiếp bảo quản hàng dự trữ quốc gia; hàng hóa, vật
tư được huy động từ các tổ chức, cá nhân trong tình huống đột xuất, cấp bách theo
qui định của pháp luật.
Nội dung quản lí nhà nước về dự trữ quốc gia:
1. Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản qui phạm pháp luật về dự trữ quốc gia.
2. Quyết định chiến lược, qui hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển dự trữ quốc
gia.
3. Qui định chi tiết Danh mục hàng dự trữ quốc gia; phân bổ ngân sách nhà nước
cho dự trữ quốc gia; quyết định xuất, nhập, mua, bán hàng dự trữ quốc gia.
4. Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học, kĩ thuật và công nghệ bảo quản
hàng dự trữ quốc gia.
5. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về dự trữ quốc gia.
6. Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ dự trữ quốc gia.
b) Tín dụng nhà nước
Tín dụng nhà nước là các hoạt động vay trả giữa nhà nước với các tác nhân
khác trong nền kinh tế, phụ vụ cho mục đích của nhà nước.
Đặc điểm của tín dụng nhà nước:
Tín dụng nhà nước cũng hoạt động theo nguyên tắc vay trả và có sinh lợi tức
như các loại hình tín dụng khác nhưng tín dụng nhà nước có những đặc điểm riêng,
phân biệt nó với các hình thức tín dụng khác, thể hiện ở các đặc điểm chủ yếu sau:
Chủ thể nhà nước trong quan hệ tín dụng : Trong hoạt động tín dụng nhà
nước luôn có một bên tham gia là chủ thể nhà nước so với các loại hình tín dụng
khác mà trong đó chủ thể nhà nước là không bắt buộc. Ví dụ, tổ chức thực hiện tín
dụng nhà nước luôn do Chính phủ thành lập 100% vốn nhà nước, không thực hiện
cổ phần hoá. Hiện nay, 02 tổ chức cho vay chính sách, thực hiện chính sách tín
dụng nhà nước ở Việt Nam là Ngân hàng Chính sách xã hội và Ngân hàng Phát
triển Việt Nam đều do Chính phủ thành lập, có thời hạn hoạt động là 99 năm.
Trong đó, hiện nay bên cạnh các tổ chức tín dụng có vốn đầu tư nước ngoài, tất cả
các tổ chức tín dụng thương mại trong nước khác, kể cả 04 ngân hàng thương mại
quốc doanh lớn (Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Ngân hàng Đầu
tư và phát triển Việt Nam; Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam; Ngân hàng Công
thương Việt Nam) đều hoạt động theo mô hình doanh nghiệp cổ phần hoặc theo kế
hoạch sẽ lần lượt được thực hiện cổ phần hoá, đa dạng hoá sở hữu.
Mục đích của tín dụng nhà nước: Mục đích của tín dụng nhà nước là hỗ trợ
các dự án, các sản phẩm trọng điểm thuộc một số ngành then chốt, lĩnh vực quan
trọng, chương trình kinh tế lớn có tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế nhằm
tập trung phát triển các ngành, các sản phẩm này hoặc ưu tiên, khuyến khích đầu tư
cho các vùng miền, miền khó khăn, khu vực doanh nghiệp vừa và nhà, tạo điều
kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, thực hiện các định hướng mục tiêu
phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ của Chính phủ.
Đối tượng của tín dụng nhà nước: Do mục đích của tín dụng nhà nước như
nêu trên nên đối tượng của tín dụng nhà nước thường là các tổ chức, doanh nghiệp
hoặc chủ thể khác thuộc một số ngành, lĩnh vực, chương trình kinh tế lớn của nhà
nước (như chương trình cho vay cơ khí, chương trình cho vay đóng tàu đánh bắt
hải sản,...), các chương trình quốc gia về việc làm, chương trình xoá đói giảm
nghèo và các vùng khó khăn cần khuyến khích đầu tư chứ không phải là các đối
tượng thuộc tất cả các lĩnh vực, các ngành nghề tỏng nền kinh tế như đối tượng
phục vụ của tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại hay tín dụng tiêu dùng của
các tổ chức tín dụng thương mại.
Nguyên tắc hoạt động của tín dụng nhà nước: Từ mục đích, đối tượng được
xác định như vậy, tín dụng nhà nước hoạt động theo nguyên tắc bổ sung thay vì
cạnh tranh với các ngân hàng thương mại với đặc đểm của khoản vay thường có
thời hạn dài, đầu tư vào các lĩnh vực sinh lợi thấp, có nhiều rủi ro, thâm dụng vốn
mà các ngân hàng thương mại thường không đủ tiềm lực tài chính hoặc không
muốn cho vay do khó thu được lợi nhuận. Vì vậy, hoạt động tín dụng nhà nước
thường là hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, lãi suất cho vay của tín dụng
nhà nước thường là lãi suất ưu đãi, thấp hơn lãi suất thị trường, thời gian cho vay
dài hơn, cơ chế bảo đảm tiền vay ưu đãi hơn. Phần chênh lệch giữa lãi suất ưu đãi
và lãi suất thị trường do Nhà nước cấp bù cho tổ chức thực hiện tính dụng nhà
nước.
Nội dung của hoạt động tín dụng nhà nước:
Nhà nước đi vay: Đây là hoạt động truyền thống và cũng là hoạt động trong
nền kinh tế hiện đại. Nhà nước đi vay bằng cách phát hành trái phiếu hoặc tín
phiếu, kí kết các hiệp định vay nợ... tùy thuộc vào mức độ thiếu hụt của ngân sách
nhà nước và nhu cầu vốn đầu tư cho các chương trình, dự án phát triển kinh tế xã
hội trong từng thời kì.
Nhà nước cho vay: Hoạt động này được thực hiện chủ yếu bằng tiền hoặc hiện
vật tùy thuộc vào khả năng và tính chất của các nguồn vốn, nhu cầu sử dụng vốn
của Nhà nước trong từng thời kì, nhưng chủ yếu là bằng tiền, còn hiện vật chỉ sử
dụng ít trong một số trường hợp.Tín dụng nhà nước là loại tín dụng mang tính chất
tín chấp cả về phía đi vay cũng như cho vay. Nhà nước dùng uy tín của mình để
đảm bảo việc trả nợ đúng hạn số tiền đã vay.Công cụ lưu thông tín dụng là: Cho
vay đầu tư; Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư; Bảo lãnh tín dụng.
c) Ngân hàng nhà nước
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây gọi là Ngân hàng Nhà nước) là cơ
quan ngang bộ của Chính phủ, là Ngân hàng trung ương của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.Trong đó, Ngân hàng Nhà nước là pháp nhân, có vốn pháp
định thuộc sở hữu nhà nước, có trụ sở chính tại Thủ đô Hà Nội.Ngân hàng Nhà
nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và
ngoại hối (sau đây gọi là tiền tệ và ngân hàng); thực hiện chức năng của Ngân hàng
trung ương về phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và cung ứng dịch
vụ tiền tệ cho Chính phủ.
Nhiệm vụ của ngân hàng nhà nước:
Hoạt động của Ngân hàng Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền; bảo đảm an
toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng; bảo đảm sự an toàn,
hiệu quả của hệ thống thanh toán quốc gia; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế –
xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tham gia xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của đất
nước.
Xây dựng chiến lược phát triển ngành ngân hàng trình cơ quan nhà nước có
thẩm quyền phê duyệt và tổ chức thực hiện.
Ban hành hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy
phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng; tuyên truyền, phổ biến và kiểm tra theo
thẩm quyền văn bản quy phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng.
Xây dựng chỉ tiêu lạm phát hằng năm để Chính phủ trình Quốc hội quyết định
và tổ chức thực hiện.
Tổ chức, điều hành và phát triển thị trường tiền tệ.
Tổ chức hệ thống thống kê, dự báo về tiền tệ và ngân hàng; công khai thông tin
về tiền tệ và ngân hàng theo quy định của pháp luật.
Tổ chức in, đúc, bảo quản, vận chuyển tiền giấy, tiền kim loại; thực hiện nghiệp
vụ phát hành, thu hồi, thay thế và tiêu huỷ tiền giấy, tiền kim loại.
Cấp, sửa đổi, bổ sung, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của tổ chức tín
dụng, giấy phép thành lập chi nhánh ngân hàng nước ngoài, giấy phép thành lập
văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có
hoạt động ngân hàng; cấp, thu hồi giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung
gian thanh toán cho các tổ chức không phải là ngân hàng; cấp, thu hồi giấy phép
hoạt động cung ứng dịch vụ thông tin tín dụng cho các tổ chức; chấp thuận việc
mua, bán, chia, tách, hợp nhất, sáp nhập và giải thể tổ chức tín dụng theo quy định
của pháp luật.
Thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước, tổ chức tín dụng có vốn nhà
nước theo quy định của pháp luật; được sử dụng vốn pháp định để góp vốn thành
lập doanh nghiệp đặc thù nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà
nước theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Kiểm tra, thanh tra, giám sát ngân hàng; xử lý vi phạm pháp luật về tiền tệ và
ngân hàng theo quy định của pháp luật.
Quyết định áp dụng biện pháp xử lý đặc biệt đối với tổ chức tín dụng vi phạm
nghiêm trọng các quy định của pháp luật về tiền tệ và ngân hàng, gặp khó khăn về
tài chính, có nguy cơ gây mất an toàn cho hệ thống ngân hàng, gồm mua cổ phần
của tổ chức tín dụng; đình chỉ, tạm đình chỉ, miễn nhiệm chức vụ người quản lý,
người điều hành của tổ chức tín dụng; quyết định sáp nhập, hợp nhất, giải thể tổ
chức tín dụng; đặt tổ chức tín dụng vào tình trạng kiểm soát đặc biệt; thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật về phá sản đối với tổ
chức tín dụng.
Chủ trì, phối hợp với các cơ quan hữu quan xây dựng chính sách, kế hoạch và
tổ chức thực hiện phòng, chống rửa tiền.
Thực hiện quản lý nhà nước về bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật
về bảo hiểm tiền gửi.
Chủ trì lập, theo dõi, dự báo và phân tích kết quả thực hiện cán cân thanh toán
quốc tế.
Tổ chức, quản lý, giám sát hệ thống thanh toán quốc gia, cung ứng dịch vụ
thanh toán cho các ngân hàng; tham gia tổ chức và giám sát sự vận hành của các hệ
thống thanh toán trong nền kinh tế.
Quản lý nhà nước về ngoại hối, hoạt động ngoại hối và hoạt động kinh doanh
vàng.
Quản lý Dự trữ ngoại hối nhà nước.
Quản lý việc vay, trả nợ, cho vay và thu hồi nợ nước ngoài theo quy định của
pháp luật.
Chủ trì, phối hợp với cơ quan có liên quan chuẩn bị nội dung, tiến hành đàm
phán, ký kết điều ước quốc tế với tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế mà Ngân hàng
Nhà nước là đại diện và là đại diện chính thức của người vay quy định tại điều ước
quốc tế theo phân công, uỷ quyền của Chủ tịch nước hoặc Chính phủ.
Tổ chức thực hiện hợp tác quốc tế về tiền tệ và ngân hàng.
Đại diện cho Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức
tiền tệ và ngân hàng quốc tế.
Tổ chức hệ thống thông tin tín dụng và cung ứng dịch vụ thông tin tín dụng;
thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các tổ chức hoạt động thông tin tín
dụng.
Làm đại lý và thực hiện các dịch vụ ngân hàng cho Kho bạc Nhà nước.
Tham gia với Bộ Tài chính về việc phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu do
Chính phủ bảo lãnh.
Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ về tiền tệ và ngân hàng; nghiên cứu, ứng
dụng khoa học và công nghệ ngân hàng.
Quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách
Quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách là quỹ do cơ quan có thẩm quyền quyết
định thành lập, hoạt động độc lập với ngân sách nhà nước, nguồn thu, nhiệm vụ chi
của quỹ để thực hiện các nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.
Đặc điểm của quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách:
Nguồn quỹ tài chính ngoài ngân sách được hình thành từ sự đóng góp của các tổ
chức, cá nhân trong xã hội và sự hỗ trợ của từ ngân sách nhà nước. Theo đó, việc
hỗ trợ từ ngân sách là không hoàn toàn bắt buộc, nhưng đối với một số quỹ quan
trọng thì đây lại là điều kiện đảm bảo cho sự ổn định của quỹ . Mức độ hỗ trợ của
ngân sách nhà nước đối với mỗi quỹ tài chính ngoài ngân sách là khác nhau do
chức năng và khả năng huy động nguồn lực từ xã hội là khác nhau.
Mục tiêu của quỹ tài chính ngoài ngân sách là nhằm hỗ trợ thêm cho ngân sách
nhà nước trong việc thực hiện các chức năng của Nhà nước. Đó là trong những
trường hợp Nhà nước khó khăn về nguồn tài chính, hoặc phục vụ các mục đích hỗ
trợ khuyến khích phát triển văn hóa, giáo dục, y tế và các mục đích phát triển cộng
đồng khác mà về bản chất thuộc về trách nhiệm của Nhà nước nhưng Nhà nước
chưa thể một mình đảm nhiệm vì hạn chế về nguồn lực. Đặc điểm này giúp phân
biệt quỹ tài chính ngoài ngân sách với các quỹ tài chính cũng do các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền thành lập nhưng hoạt động không vì lợi ích của cộng đồng
hoặc do cộng đồng thành lập nhưng chỉ để phục vụ riêng một số mục đích của các
thành viên.
Quỹ tài chính ngoài ngân sách ra đời và tồn tại có tính chất thời điểm tùy thuộc
vào sự tồn tại các tình huống, các sự kiện đòi hỏi phải tập trung nguồn lực để giải
quyết. Mặc dù vậy, trên thực tế, nhiều quỹ tồn tại rất lâu dài vì chính những nhu
cầu lâu dài của xã hội, nhằm mục đích hỗ trợ cho Nhà nước thực hiện các hoạt
động quản lý, phát triển kinh tế xã hội, tuy mức độ động viên và vai trò trong mỗi
giai đoạn có tăng, giảm khác nhau.

You might also like