You are on page 1of 5

1.

Phân tích vai trò của lợi ích kinh tế và các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích
kinh tế.

a) Khái niệm
Lợi ích kinh tế là lợi ích vật chất, lợi ích thu được khi thực hiện các hoạt động kinh tế của
con người. Quan hệ lợi ích kinh tế là sự thiết lập những tương tác giữa người với người,
giữa con người với tổ chức kinh tế, giữa các tổ chức kinh tế, giữa các bộ phận nề kinh tế,
giữa quốc gia với phần còn lại của thế giới nhằm mục tiêu xác lập các lợi ích kinh tế trong
mối liên hệ với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng.

b) Vai trò của lợi ích kinh tế trong nền kinh tế thị trường
Lợi ích kinh tế là động lực trực tiếp của các chủ thể và hoạt động kinh tế - xã hội. Trong nền
kinh tế thị trường, mọi chủ thể kinh tế đều phải hành động với mục tiêu nâng cao thu nhập,
nhằm đảm bảo lợi ích kinh tế của mình. Tất cả các chủ thể kinh tế đều phải tích cực tham
gia vào các hoạt động kinh tế qua đó đóng góp vào sự phát triển nền kinh tế - xã hội. Lợi ích
kinh tế là cơ sở thúc đẩy sự phát triển các lợi ích khác. Lợi ích kinh tế được thực hiện sẽ tạo
điều kiện vật chất cho sự hình thành và thực hiện lợi ích chính trị, lợi ích xã hội, lợi ích văn
hóa của các chủ thể xã hội.

c) Các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích kinh tế.
Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất : Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất càng
cao lợi ích kinh tế của các chủ thể ngày càng đáp ứng tốt hơn.
Địa vị của chủ thể trong hệ thống quan hệ sản xuất xã hội : Quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất quyết định quan hệ lợi ích kinh tế.
Chính sách phân phối thu nhập của nhà nước : Chính sách phân phối thu nhập của nhà nước
làm thay đổi mức thu nhập và tương quan thu nhập, theo đó, lợi ích kinh tế và quan hệ lợi
ích kinh tế giữa các chủ thể cũng thay đổi.
Hội nhập kinh tế quốc tế : Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ có những tác động tích cực và tiêu
cực đến lợi ích kinh tế của các chủ thể.

2. Bằng những dẫn chứng cụ thể, hãy làm rõ vai trò của Nhà nước trong đảm bảo hài
hòa các quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt Nam thời gian qua.

a) Khái niệm
Hài hòa các lợi ích kinh tế là sựu thống nhất biện chứng giữa lợi ích kinh tế của các chủ thể,
trong đó hạn chế mặt mâu thuẫn, khuyến khích mặt thống nhất. Bảo đảm hài hòa lợi ích
kinh tế là sự can thiệp của nhà nước vào các quan hệ lợi ích kinh tế bằng các công cụ giáo
dục, pháp luật, hành chính, kinh tế... nhằm hạn chế mâu thuẫn, tăng cường sự thống nhất lợi
ích kinh tế. Bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động tìm kiếm lợi
ích của các chủ thể kinh tế.

b) Vai trò của Nhà nước trong đảm bảo hài hòa các quan hệ lợi ích kinh tế
Nhà nước tạo lập môi trường thuận lợi trước hết là giữ vững ổn định về chính trị. Xây dựng
môi trường pháp luật thông thoáng, bảo vệ được lợi ích của đất nước, tuân thủ các chuẩn
mực và thông lệ quốc tế. Các hoạt động kinh tế bao giờ cũng diễn ra trong một môi trường
nhất định. Môi trường càng thuận lợi, các hoạt động kinh tế càng hiệu quả và không ngừng
mở rộng. Tuy nhiên, môi trường vĩ mô thuận lợi không tự hình thành, mà phải được nhà
nước tạo lập. Trong những năm vừa qua, Việt Nam đã thực hiện rất tốt việc tạo lập môi
trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế, trước hết là giữ vững ổn định về chính trị. Nhờ
đó, các nhà đầu tư trong và ngoài nước rất yên tâm khi tiến hành đầu tư. Vì vậy, tiếp tục giữ
vững ổn định về chính trị là góp phần bảo đảm hài hòa các lợi ích kinh tế ở Việt Nam. Tạo
lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế đòi hỏi phải xây dựng được môi trường
pháp luật thông thoáng, bảo vệ được lợi ích chính đáng của các chủ thể trong và ngoài nước
(doanh nghiệp, các cá nhân...), đặc biệt là lợi ích của đất nước. Trong những năm vừa qua,
khi đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, hệ thống pháp luật của nước ta đã và
đang thay đổi tích cực để phù hợp, tuân thủ theo các chuẩn mực và thông lệ quốc tế.Tạo lập
môi trường văn hóa phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường, trong đó con người
năng động, sáng tạo; tôn trọng kỷ cương, pháp luật; giữ chữ tín... Đầu tư xây dựng kết cấu
hạ tầng của nền kinh tế (bao gồm hệ thống đường bộ, đường sắt, đường sông, đường hàng
không...; hệ thống cầu cống; hệ thống điện, nước; hệ thống thông tin liên lạc...). . Trong
những năm vừa qua, kết cấu hạ tầng của nền kinh tế nước ta đã được cải thiện rất đáng kể,
đáp ứng nhu cầu của các hoạt động kinh tế. Môi trường vĩ mô về kinh tế đòi hỏi Nhà nước
phải đưa ra các chính sách phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế trong từng giai đoạn. Thực
tế cho thấy, các chính sách kinh tế của Việt Nam đang từng bước đáp ứng yêu cầu này.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2022, nước ta có 148.500 doanh nghiệp đăng ký
thành lập mới, với tổng số vốn 1590,9 nghìn tỷ đồng, tăng 27,1% về số doanh nghiệp, giảm
1,3% về số vốn đăng ký, với tổng số lao động là 51,7 triệu người, tăng 1,1 triệu người so với
năm 2021. Bên cạnh đó, việc kiểm soát tốt dịch bệnh COVID-19, kết hợp chống dịch với
phát triển kinh tế của nước ta hiện nay cũng tạo ra môi trường thuận lợi để đầu tư hơn nhiều
nước trong khu vực và trên thế giới.

Điều hòa lợi ích giữa cá nhân - doanh nghiệp - xã hội. Do mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa
các chủ thể và tác động của các quy luật thị trường, sự phân hóa về thu nhập giữa các tầng
lớp dân cư làm cho lợi ích kinh tế của một bộ phận dân cư được thực hiện rất khó khăn, hạn
chế. Vì vậy, Nhà nước có chính sách phân phối thu nhập nhằm bảo đảm hài hòa các lợi ích
kinh tế. Các chính sách này, một mặt, phải thừa nhận sự chênh lệch về thu nhập giữa các
chủ thể kinh tế là khách quan, mặt khác phải ngăn chặn sự chênh lệch thu nhập quá đáng.
Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát triển khoa học – công nghệ để nâng cao thu
nhập cho các chủ thể kinh tế, là những điều kiện vật chất để thực hiện sự công bằng xã hội
trong phân phối. Bởi sự phân hóa xã hội thái quá có thể dẫn đến căng thẳng, thậm chí xung
đột xã hội. Thêm nữa, phân phối không chỉ phụ thuộc vào quan hệ sở hữu, mà còn phụ
thuộc vào sản xuất. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất càng cao, hàng hóa, dịch vụ
càng dồi dào, chất lượng càng tốt, thì thu nhập của các chủ thể càng lớn. Do đó, phát triển
mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát triển khoa học – công nghệ sẽ góp phần nâng cao thu
nhập cho các chủ thể kinh tế. Trong giai đoạn (2016 - 2020), tốc độ tăng trưởng bình quân 5
năm ước đạt khoảng 5,8%/năm. Riêng năm 2020, do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19,
GDP tăng 2,91%, nhưng vẫn thuộc nhóm tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới; tổng sản
phẩm trong nước (GDP) đạt 268.4 tỷ USD, tăng gấp 1,3 lần so với năm 2010 đạt 116 tỷ
USD; thu nhập bình quân đầu người đạt 4,23 triệu đồng/người/tháng; tính đến ngày
14/1/2021, đã có 88 triệu người tham gia bảo hiểm y tế (chiếm khoảng 90,85% dân số cả
nước)… Tuy chịu ảnh hưởng của dịch bệnh, nhưng đời sống vật chất của người dân vẫn
được đảm bảo ở mức cơ bản.

Kiểm soát, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích có ảnh hưởng tiêu cực đối với sự phát triển xã hội.
Lợi ích kinh tế là kết quả trực tiếp của phân phối thu nhập, do đó phân phối công bằng, hợp
lý góp phần quan trọng đảm bảo hài hòa các lợi ích kinh tế. Vì vậy, Nhà nước phải tích cực,
chủ động thực hiện công bằng trong phân phối thu nhập. Hiện nay, công bằng trong phân
phối có hai quan niệm chính: công bằng theo mức độ và công bằng theo chức năng. Hai
quan niệm này đều có ưu điểm và nhược điểm, do đó cần được sử dụng kết hợp như sau:
Trước hết, Nhà nước phải chăm lo đời sống vật chất cho mọi người dân. Ở mỗi giai đoạn
phát triển, để người dân ít nhất đạt được mức sống tối thiểu, Nhà nước cần thực hiện có hiệu
quả các chính sách xóa đói giảm nghèo, tạo cơ hội tiếp cận bình đẳng các nguồn lực phát
triển, hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản, vận động toàn dân tham gia các hoạt động đền
ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn. Đẩy mạnh các hoạt động nhân đạo, từ thiện, giúp đỡ
người nghèo, đồng bào các vùng gặp thiên tai... Nhà nước cần có các chính sách khuyến
khích người dân làm giàu hợp pháp. Về nguyên tắc, người dân được làm tất cả những gì luật
pháp không cấm. Để lợi ích kinh tế thật sự là động lực của các hoạt động kinh tế, người lao
động và người sử dụng lao động phải hiểu được các nguyên tắc phân phối của kinh tế thị
trường để có sự phân chia hợp lý giữa tiền lương và lợi nhuận. Không chỉ vậy, chủ doanh
nghiệp còn phải hiểu và tự thực hiện nghĩa vụ nộp thuế... Do vậy, tuyên truyền, giáo dục để
nâng cao nhận thức, hiểu biết về phân phối thu nhập cho các chủ thể kinh tế - xã hội. Bên
cạnh đó, trong cơ chế thị trường, các hoạt động bất hợp pháp như buôn lậu, làm hàng giả,
hàng nhái; lừa đảo; tham nhũng... tồn tại khá phổ biến và nếu càng gia tăng sẽ càng làm tổn
hại lợi ích kinh tế của các chủ thể làm ăn chân chính. Để chống lại các hình thức thu nhập
bất hợp pháp, bảo đảm hài hòa các lợi ích kinh tế,cần xây dựng bộ máy nhà nước liêm
chính, có cơ chế kiểm soát thu nhập nhằm chống các hình thức thu nhập bất hợp pháp, bảo
đảm hài hòa các lợi ích kinh tế. Nhà nước phải kiểm soát được thu nhập của công dân, trước
hết là thu nhập của cán bộ, công chức nhà nước. Trước pháp luật, mọi người dân và cán bộ,
công chức nhà nước phải thực sự bình đẳng; mọi vi phạm phải được xét xử theo quy định
của pháp luật. Theo đó, việc thực hiện công khai, minh bạch mọi cơ chế, chính sách và quy
định của Nhà nước sẽ giúp người dân, doanh nghiệp và cán bộ, công chức nhà nước hiểu rõ
được quyền lợi, trách nhiệm của mình, tránh được tình trạng lạm quyền, thiếu trách nhiệm,
tham nhũng… Trong năm 2022, lực lượng quản lý thị trường đã kiểm tra, xử lý 43.989 vụ
vi phạm (tăng 6% so với cùng kỳ năm 2021); chuyển cơ quan điều tra 127 vụ việc có dấu
hiệu tội phạm. Thu nộp ngân sách nhà nước trên 490 tỷ đồng (tăng 14% so với cùng kỳ năm
2021). Trị giá hàng tịch thu gần 96 tỷ đồng, trị giá hàng hóa áp dụng biện pháp khắc phục
hậu quả buộc tiêu hủy hơn 19 tỷ đồng. Để vai trò của thị trường trong giải quyết hài hòa các
lợi ích kinh tế được phát huy một cách hiệu quả, Nhà nước còn can thiệp để tránh những tác
động tự phát có hại của thị trường, như: quản lý những tác động ngoại lai, điều tiết độc
quyền, bảo hiểm xã hội…

Giải quyết những mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế. Mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh
tế là khách quan, nếu không được giải quyết sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến động lực của các
hoạt động kinh tế. Do đó, để giải quyết kịp thời khi có mâu thuẫn phát sinh, các cơ quan
chức năng của nhà nước cần phát hiện kịp thời mẫu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế và
chuẩn bị chu đáo các giải pháp đối phó, theo nguyên tắc có sự tham gia của các bên liên
quan, có nhân nhượng và phải đặt lợi ích đất nước lên trên hết. Khi có xung đột giữa các
chủ thể kinh tế (đình công, bãi công...), cần có sự tham gia hòa giải của các tổ chức xã hội
có liên quan, đặc biệt là nhà nước.

3. Bạn hãy đề xuất những biện pháp xử lý hài hòa mối quan hệ: lợi ích cá nhân, lợi ích
nhóm và lợi ích xã hội ở Việt Nam hiện nay.

a) Hạn chế
Thứ nhất, tình trạng nhân danh lợi ích xã hội để vi phạm lợi ích cá nhân chính đáng của
nhân dân lao động vẫn tồn tại và tiềm ẩn nhiều vấn đề phức tạp. Biểu hiện của tình trạng
này đó là những hiện tượng tham ô, tham nhũng, lãng phí, những biểu hiện của “lợi ích
nhóm” tiêu cực, hay “tư bản thân hữu”... trong rất nhiều lĩnh vực xã hội, nhất là trong sở
hữu, quản lí tài sản của Nhà nước, lĩnh vực đất đai, xây dựng. Thực chất của những biểu
hiện này chính là việc đề cao lợi ích các nhân không chính đáng, vi phạm đến lợi ích, lợi ích
của nhân dân lao động và của cá nhân khác.
Thứ hai, tình trạng đề cao lợi ích cá nhân không chính đáng, vi phạm lợi ích xã hôi và lợi
ích cá nhân khác gây ra những tổn hại cho sự phát triển xã hội vẫn có những xu hướng
phức tạp. Hiện tượng buôn lậu, trốn thuế của nhiều cá nhân, doanh nghiệp; các hiện tượng
hàng giả, hàng kém chất lượng; thực phẩm “bẩn”, cho đến những hành vi xây dựng nhà ở,
khu đô thị, phá vỡ quy hoạch của thành phố, xây nhà khống phép, lấn chiếm lòng lề đường,
vỉa hè, hành lang an toàn, không gian công cộng, xây dựng các chung cư không theo quy
định, không đảm bảo tiện ích theo quy định xảy ra ở nhiều nơi, nhất là thành phố lớn; những
hiện tượng xe quá khổ, quá tải, xâm hại, lấn chiếm các công trình công cộng, công trình Nhà
nước... đang làm lợi ích xã hội mà Nhà nước là đại diện bị những tổn hại rất lớn. Cho đến
những hiện tượng trộm, cướp ở nhiều, đặc biệt là ở các thành phố trở thành nỗi bất an của
người dân; tình trạng lừa đảo, các mô hình kinh doanh đa cấp biến tướng, “chơi hụi”, cho
vay nặng lãi - tính dụng “đen”, đòi nợ thuê... đang gây những hệ lụy không nhỏ đối với cuộc
sống của nhiều cá nhân, gia đình, gây phức tạp tình hình kinh tế - xã hội.
Thứ ba, nhiều lợi ích xã hội chưa được thực hiện một cách phổ quát song vẫn còn tồn tại
những biểu hiện đề cao lợi ích xã hội, trong khi lợi ích cá nhân chính đáng, chưa được chú ý
một cách đúng mức. Cụ thể khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư còn lớn,
đời sống một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn; thu nhập, đời sống của người lao động
còn thấp; lương của cán bộ, công chức, viên chức chưa cao; tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo ở
vùng sâu, vùng xa, nhất là trong đồng bào dân tộc thiểu số còn cao (một số huyện, xã lên
đến 50%), cả nước có khoảng 1% số người vẫn trong tình trạng thiếu đói. Một số nội dung
của an sinh xã hội và phúc lợi xã hội chưa được thực hiện tốt, vẫn diễn ra “nghịch lý an sinh
xã hội”, thể hiện đặc biệt rõ qua việc so sánh tỷ trọng trợ cấp an sinh xã hội mà các hộ gia
đình giàu và nghèo nhận được.

b) Giải pháp
Một là, nâng cao nhận thức của các chủ thể lợi ích trong việc giải quyết quan hệ lợi ích, nhất
là giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Nâng cao nhận thức của các chủ thể lợi ích để các
chủ thể lợi ích xác định rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong các quan hệ lợi ích, tránh
xung đột lợi ích giữa các chủ thể. Cần nâng cao nhận thức của các chủ thể về tầm quan
trọng của sự thống nhất lợi ích. Mỗi chủ thể cần được giáo dục để tự đặt lợi ích của bản thân
trong mối quan hệ với các lợi ích khác. Trong mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã
hội, chủ thể cá nhân cần nhận thức được rằng, lợi ích xã hội chỉ có thể đạt được khi mỗi cá
nhân cố gắng thực hiện tốt các lợi ích chính đáng của mình thông qua việc tích cực học tập,
lao động, rèn luyện, hài hòa giữa cống hiến và hưởng thụ; mặt khác chủ thể của lợi ích xã
hội chủ yếu là Đảng, Nhà nước cũng cần nhận thức được rằng, muốn  thực hiện tốt các mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội, phải quan tâm đến lợi ích thiết thực của mọi cá nhân, của
từng đối tượng, nhất là quan tâm đến những người có công với cách mạng, những đối tượng
yếu thế trong xã hội, thực hiện tốt anh sinh xã hội và phúc lợi xã hội.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện chính sách về sở hữu, phân phối và tổ chức thực hiện tốt các
chính sách trên thực tế để giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội . Theo đó,
cần tiếp tục thực hiện nhất quán một chế độ pháp lý kinh doanh cho các doanh nghiệp,
không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế. Mọi doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế đều hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh theo
pháp luật, tạo cơ hội ngang nhau trong việc tiếp cận các nguồn lực. Cụ thể hóa các quy định
của pháp luật để đảm bảo quyền bình đẳng trong tiếp cận tài sản công của mọi chủ thể trong
nền kinh tế, trong đó, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy phát triển doanh nghiệp và đội ngũ
doanh nhân Việt Nam thật sự trở thành lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Hoàn thiện thể chế bảo vệ nhà đầu tư,
quyền sở hữu và quyền tài sản của mọi chủ thể. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, tạo thuận lợi
phát triển khu vực kinh tế tư nhân thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh
tế. Thúc đẩy hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có công nghệ hiện
đại, năng lực quản trị tiên tiến. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và
vừa. Xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp trong một số lĩnh vực, nhất là với doanh nghiệp nhà
nước.
Ba là, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách tiền lương, kết hợp thực hiện tốt chính sách an
sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Cùng với đó, Đảng, Nhà nước cần thực hiện tốt chính sách an
sinh xã hội, phúc lợi xã hội trong toàn xã hội, nhất là đối với các đối tượng còn nhiều khó
khăn như nông dân, công nhân, những đồng bào vùng sâu, vùng xa, đối tượng chính sách...
thực hiện tốt chính sách xóa đói, giảm nghèo, thực hiện thật tốt các chế độ, chính sách, nâng
cao đời sống đối với các đối tượng có công với cách mạng, đảm bảo cho họ được hưởng thụ
các giá trị căn bản của sự phát triển như đời sống vật chất, y tế, giáo dục, hưởng thụ các giá
trị văn hóa - xã hội khác. Thực hiện tốt chính sách tiền lương theo Đề án cải cách tiền lương
đã được ban hành, đảm bảo tiền lương thực sự đảm bảo cuộc sống của cán bộ, công chức,
viên chức, người lao động, đặc biệt đối với người công nhân; có chính sách đãi ngộ xứng
đáng đối với những nhân tài của từng lĩnh vực, địa phương.
Bốn là, thực hiện các giải pháp đảm bảo công khai, minh bạch nhằm ngăn chặn những hành
vi tiêu cực như tham ô, tham nhũng, lợi ích nhóm. Đảng, Nhà nước cần thực hiện tốt hơn
nữa các biện pháp công khai, minh bạch để phòng ngừa các hiện tượng tham ô, tham nhũng,
lãng phí. Nâng cao năng lực, hiệu quả sử dụng tài sản công, phát huy tốt trách nhiệm giải
trình, thực hiện tốt các biện pháp công khai tài chính, minh bạch tài sản, thu nhập của cán
bộ, công chức, viên chức... Trên phạm vi toàn xã hội, cần phải tiến tới một xã hội minh
bạch, trên cơ sở quản lý tốt việc sở hữu tài sản của mỗi cá nhân, xây dựng một xã hội hạn
chế dùng tiền mặt, quản lý chặt chẽ các nguồn tiền trong thanh toán... Mặt khác, cần tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xử lý nghiêm minh những trường hợp vi phạm tội tham ô,
tham nhũng, lãng phí, buôn lậu, trốn thuế, hàng giả, hàng kém chất lượng... đây là những
hành vi phá hoại nghiêm trọng các quan hệ lợi ích, gây tổn hại tới cả lợi ích cá nhân và các
mục tiêu của lợi ích xã hội.
Năm là, khuyến khích cá nhân thực hiện lợi ích chính đáng của mình đồng thời bảo đảm lợi
ích xã hội. Cần tích cực khuyến khích mỗi cá nhân tích cực vươn lên trong học tập, lao
động, sản xuất - kinh doanh, lập thân, lập nghiệp bằng nhiều cơ chế, chính sách cụ thể, nhất
là trong khởi nghiệp nhằm huy động tối đa các nguồn lực cho sự phát triển. Thông qua các
biện pháp giáo dục - đào tạo, tuyên truyền, các hoạt động thực tiễn phong phú để họ thấy
rằng, để thỏa mãn các nhu cầu, lợi ích của bản thân, trước hết cần có sự cố gắng, rèn luyện,
cần cù, vượt khó vươn lên, tích cực lao động, đóng góp cho xã hội; đấu tranh với những
biểu hiện tiêu cực, vi phạm các lợi ích chính đáng của bản thân từ các chủ thể khác; loại bỏ
tư tưởng tự mãn, ỷ lại; có cái nhìn tích cực về các vấn đề của xã hội, tìm ra những cơ hội
cho sự phát triển của mỗi cá nhân. 

You might also like