You are on page 1of 9

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.

HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
----o0o----

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN


MÔN HỌC: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC- LÊNIN

Đề bài:
Phân tích vai trò của lợi ích kinh tế và các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ
lợi ích kinh tế
Bằng những dẫn chứng cụ thể, hãy làm rõ vai trò của nhà nước trong bảo
đảm hài hoà các quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt Nam thời gian qua.
Bạn hãy đề xuất những biện pháp xử lý hài hoà mỗi quan hệ: lợi ích cá
nhân, lợi ích nhóm và lợi ích xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Mã học phần: 23D1POL51002540
Phòng học - Buổi học: B2.407 – Sáng thứ 4

Giảng viên: TS. Nguyễn Khánh Vân


Sinh viên: Nguyễn Thị Khánh Trâm
MSSV: 31221025441
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 01 tháng 04 năm 2023
MỤC LỤC

PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU

PHẦN 2: NỘI DUNG

1. PHÂN TÍCH VAI TRÒ CỦA LỢI ÍCH KINH TẾ VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH
HƯỞNG ĐẾN QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ
1.1. Các khái niệm nền tảng
1.1.1. Khái niệm về lợi ích kinh tế
1.1.2. Khái niệm về quan hệ lợi ích kinh tế
1.2. Vai trò của lợi ích kinh tế trong nền kinh tế thị trường
1.2.1. Lợi ích kinh tế là động lực trực tiếp của các chủ thể, hoạt động kinh tế - xã hội 
1.2.2. Lợi ích kinh tế là cơ sở thúc đẩy sự phát triển các lợi ích khác
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích kinh tế
1.3.1. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
1.3.2. Địa vị của chủ thể trong hệ thống quan hệ sản xuất xã hội
1.3.3. Chính sách phân phối thu nhập của nhà nước
1.3.4. Hội nhập kinh tế quốc tế
2. THỰC TIỄN VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG ĐẢM BẢO HÀI HÒA CÁC
QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
2.1. Bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động tìm kiếm lợi ích
của các chủ thể kinh tế
2.2. Điều hoà lợi ích giữa cá nhân - doanh nghiệp - xã hội
2.3. Kiểm soát, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích có ảnh hưởng tiêu cực đối với sự phát
triển xã hội
2.4. Giải quyết những mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế
3. ĐỀ XUẤT NHỮNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀI HOÀ MỐI QUAN HỆ: LỢI ÍCH
CÁ NHÂN, LỢI ÍCH NHÓM VÀ LỢI ÍCH XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Những hạn chế vẫn còn tồn tại
3.2. Những biện pháp xử lý hài hoà mối quan hệ: lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm và lợi ích
xã hội ở Việt Nam

PHẦN 3: LỜI KẾT THÚC

TÀI LIỆU THAM KHẢO


LỜI MỞ ĐẦU

Trên phương diện của sự đổi mới đất nước, thời đại công nghiệp hoá - hi ện đại hoá đã
mang đến nhiều phát triển thịnh vượng đối mỗi quốc gia nói chung và Vi ệt Nam nói riêng .
Sự phát triển về nền kinh tế là một trong những yếu tố quan trọng, then chốt góp phần vào
việc thúc đẩy và hoàn thiện đổi mới đất nước. Tuy nhiên, để có thể duy trì một nền kinh tế
phát triển, đòi hỏi cần phải có những hoạt động sản xuất, trao đổi, kinh doanh, mua bán giữa
các chủ thể kinh tế. Thế nhưng, câu hỏi được đặt ra, điều gì có thể thu hút các nhà kinh
doanh, người lao động tham gia vào nền kinh tế thị trường? Lợi ích kinh tế và quan hệ lợi
ích kinh tế chính là nguồn động lực thôi thúc các chủ thể tham gia vào hoạt động của nền
kinh tế thì trường, bởi lẽ để có thể tồn tại và phát triển, con người cần được thoả mãn về các
nhu của đời sống xã hội, cụ thể là nhu cầu về vật chất, nhu cầu về tinh thần và khi họ nhận
được sự thỏa mãn từ các nhu cầu trên, tức là nhận được lợi ích kinh tế từ các hoạt động kinh
tế.

Thế nhưng, nền kinh tế thị trường vốn tồn tại tính hai mặt, một mặt nó tạo ra sự cạnh
tranh, động lực thúc đẩy kinh tế phát triển, mặt khác nảy sinh ra những mâu thuẫn xung đột
xã hội. Nguyên nhân bắt nguồn nên sự mâu thuẫn chính là mối quan hệ lợi ích kinh tế giữa
các chủ thể: người lao động, người sử dụng lao động, những người sử dụng lao động với
nhau, những người lao động với nhau. Theo đó, nếu như những mâu thuẫn này diễn ra càng
căng thẳng, thái quá sẽ càng dẫn đến những bất ổn về chính trị - xã hội: những cuộc biểu
tình, bãi công, đền công.....xuất hiện. Để có thể đảm bảo hài hoà các lợi ích kinh tế thì vai
trò quản lý của nhà nước là điều vô cùng cần thiết. 

Chính vì vậy, bài tiểu luận kết thúc học phần môn Kinh tế Chính trị Mác-Lênin đã có
những nghiên cứu về vai trò của lợi ích kinh tế, quan hệ lợi ích kinh tế trong nền kinh tế thị
trường, theo đó, nêu lên vai trò của nhà nước trong bảo đảm hài hoà các quan hệ lợi ích kinh
tế và thực tiễn Việt Nam. Đồng thời, có những đề xuất, giải pháp xử lý hài hoà mối quan hệ:
lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm và lợi ích xã hội ở Việt Nam.
1. PHÂN TÍCH VAI TRÒ CỦA LỢI ÍCH KINH TẾ VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH
HƯỞNG ĐẾN QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ
1.1. Các khái niệm nền tảng 
1.1.1. Khái niệm về lợi ích kinh tế 
Lợi ích kinh tế là lợi ích vật chất, lợi ích thu được khi thực hiện các hoạt động kinh tế
của con người. 
1.1.2. Khái niệm về quan hệ lợi ích kinh tế 
Quan hệ lợi ích kinh tế là sự thiết lập những tương tác giữa người với người, giữa con
người với tổ chức kinh tế, giữa các tổ chức kinh tế, giữa các bộ phận nền kinh tế, giữa quốc
gia với phần còn lại của thế giới nhằm mục tiêu xác lập các lợi ích kinh tế trong mối liên hệ
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng 
1.2. Vai trò của lợi ích kinh tế trong nền kinh tế thị trường 
Vai trò của lợi ích kinh tế trong nền kinh tế thị trường có thể được khái quát thông qua
hai phương diện: 
1.2.1.Lợi ích kinh tế là động lực trực tiếp của các chủ thể, hoạt động kinh tế - xã
hội
Khi tiến hành tham gia vào các hoạt động kinh tế, lợi ích là nguồn động lực khiến cho
con người làm việc hiệu quả và trở nên tích cực hơn, phát huy được hết năng suất nhằm
nâng cao phương thức và mức độ thỏa mãn về các nhu cầu vật chất của mình. 
Trên phương diện đó, phương thức và mức độ thỏa mãn về các nhu cầu vật chất còn
phụ thuộc vào mức thu nhập của mỗi chủ thể. Do đó, khi mức thu nhập càng cao thì mức độ
thỏa mãn về nhu cầu vật chất càng tốt, thúc đẩy mạnh mẽ động lực làm việc của người lao
động. Chính vì vậy, trong nền kinh tế thị trường, mọi chủ thể kinh tế đều phải hành động với
mục tiêu nâng cao thu nhập, nhằm đảm bảo lợi ích kinh tế của chính mình. 
Bên cạnh yếu tố về mức thu nhập, lợi ích kinh tế còn thể hiện thông qua: số lượng,
chất lượng hàng hóa và dịch vụ thu được sau khi hoạt động, tất cả các nhân tố trên đều là
sản phẩm trực tiếp, là điều kiện cần và đủ thúc đẩy nền kinh tế vững mạnh. Vì vậy, để theo
đuổi lợi ích kinh tế chính đáng của mình, người lao động buộc phải tham gia tích cực, đầu tư
cả công sức lẫn kiến thức nhằm đóng góp một phần to lớn vào sự phát triển của nền kinh tế -
xã hội. Và điều đó được cụ thể hóa thông qua các hoạt động: Đối với chủ doanh nghiệp: cần
học hỏi, nâng cao hiệu suất trong việc sử dụng nguồn lực lao động, đáp ứng tốt các nhu cầu,
thị hiếu của khách hàng thông qua hoạt động cải tiến mẫu mã, chất lượng sản phẩm,.....cùng
với việc nâng cao tinh thần trách nhiệm trong lĩnh vực phục vụ người tiêu dùng.  Đối với
người lao động: học hỏi, tích cực phát huy năng lực lao động sản xuất của mình, không
ngừng nâng cao trình độ tay nghề, cải tiến và phát triển công cụ lao động.
1.2.2. Lợi ích kinh tế là cơ sở thúc đẩy sự phát triển các lợi ích khác
Dựa trên quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen: “Động lực của toàn bộ lịch sử chính là
cuộc đấu tranh giai cấp và những xung đột về quyền lợi của họ”. Theo đó, mức độ thỏa mãn
về nhu cầu vật chất của con người còn tùy thuộc vào địa vị của họ trong quan hệ sản xuất,
để có thể đạt được lợi ích kinh tế chính đáng, người lao động phải đấu tranh với nhau, thực
hiện quyền làm chủ về tư liệu sản xuất. Như vậy, suy cho cùng mọi sự vận động của con
người, dù được thể hiện ở hình thức nào thì vẫn luôn hướng đến vấn đề về lợi ích, trước hết
là lợi ích kinh tế. Bên cạnh việc thoả mãn các nhu cầu vật chất, con người cần thoả mãn các
nhu cầu về chính trị, xã hội, văn hoá. Điển hình, khi tham gia vào các hoạt động công tác xã
hội, gây quỹ từ thiện, trước hết mỗi cá nhân, tổ chức cần phải có điều kiện về vật chất,
nhưng để đáp ứng được thì phải dựa vào lợi ích kinh tế. Do đó, khi lợi ích kinh tế được thực
hiện, sẽ là cơ sở, điều kiện vật chất thúc đẩy sự hình thành, thực hiện và phát triển về các lợi
ích khác. Tuy nhiên, vai trò của lợi ích kinh tế chỉ có thể phát huy một cách triệt để khi có
1
sự đồng thuận, nhất quán giữa các lợi ích kinh tế. Ngược lại, nếu chủ thể theo đuổi lợi ích
kinh tế không: chính đáng, hợp lý, hợp pháp thì sẽ mang lại một trở ngại lớn đối với sự phát
triển của nền kinh tế - xã hội. Với quan điểm của Đảng và Nhà nước: Coi lợi ích kinh tế là
động lực của các hoạt động kinh tế, phải tôn trọng lợi ích cá nhân chính đáng, đã góp phần
nâng cao ý thức và động lực trong việc phát triển kinh tế đất nước những năm vừa qua. 
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích kinh tế 
1.3.1. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Khi tham gia vào quan hệ sản xuất, lợi ích kinh tế của mỗi chủ thể trước hết phụ thuộc
vào số lượng, chất lượng hàng hoá và dịch vụ, tuy nhiên, các yếu tố nêu trên lại là sản phẩm
trực tiếp thu được từ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Do đó, khi trình độ phát
triển cao sẽ là động lực thúc đẩy lợi ích kinh tế của mỗi chủ thể được đáp ứng tốt hơn.
Chính vì vậy, việc phát triển lực lượng sản xuất được coi là nhiệm vụ hàng đầu mà mỗi
quốc gia đang hướng đến và thực hiện.  
  Trải qua hơn 30 năm đổi mới, với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, Việt
Nam đã có những bước tiến đáng kể trong lĩnh vực khoa học - công nghệ. Từ những công
cụ lao động giản đơn mang tính chất tiểu thủ công nghiệp, nay được thay thế bằng dây
chuyền máy móc, thiết bị hiện đại, tối tân, lao động chân tay dần được thay thế bằng lao
động trí óc và lao động đơn giản dần được thay thế bằng sự chuyên môn hoá cao. Do đó, đã
tạo ra nâng suất lao động vượt trội, lượng sản phẩm làm ra ngày càng nhiều, chất lượng hơn,
dẫn đến lợi ích kinh tế của mỗi chủ thể được đáp ứng ngày càng cao hơn, thỏa mãn các nhu
cầu về vật chất. 
1.3.2. Địa vị của chủ thể trong hệ thống quan hệ sản xuất xã hội
Trong quá trình tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội, quan hệ sở hữu về tư liệu
sản xuất sẽ là yếu tố quyết định vị trí và vai trò của con người - chủ thể kinh tế. Điều đó có
thể  được biểu hiện thông qua hoạt động của một doanh nghiệp, có sự tham gia của các chủ
thể (chủ doanh nghiệp, thành viên, giám đốc,....), vì có sự khác nhau giữa quan hệ sở hữu về
tư liệu sản xuất, do đó địa vị của các chủ thể kinh tế trong doanh nghiệp cũng có sự khác
nhau. Theo đó mà mức thu nhập hay lợi ích kinh tế nói chung của các chủ thể là hoàn toàn
khác nhau. Như vậy, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất sẽ đóng vai trò quan trọng trong
việc quyết định sự tồn tại và biểu hiện của quan hệ lợi ích kinh tế trong nền thị trường. 
1.3.3. Chính sách phân phối thu nhập của nhà nước
Dưới góc độ của nền kinh tế thị trường, với sự can thiệp từ các chính sách của nhà
nước bằng nhiều loại công cụ khác nhau được cho là tất yếu khách quan. Nhà nước với
chính sách phân phối thu nhập đã làm cho mức thu nhập và tương quan thu nhập của các
chủ thể kinh tế thay đổi. Đồng thời, với sự thay đổi đó phương thức và mức độ thỏa mãn về
các nhu cầu vật chất của con người cũng thay đổi, theo đó, lợi ích kinh tế và quan hệ lợi ích
kinh tế giữa các chủ thể cũng thay đổi. 
Theo ghi nhận tại Nghị định số 38/2022/NĐ-CP, kể từ ngày 01/07/2022 nhà nước quy
định mức lương tối thiểu theo 4 vùng đối với người lao động, trong đó, vùng 1 mức lương
tối thiểu là 4.680.000 đồng/tháng, vùng 2 là 4.160.000 đồng/tháng, vùng 3 là 3.630.000
đồng /tháng và vùng 4 là 3.250.000 đồng/tháng. Như vậy, khi quy định mức lương tối thiểu
của 4 vùng khác nhau, với chính sách phân phối thu nhập của nhà nước đã làm thay đổi mức
thu nhập và tương quan thu nhập giữa các chủ thể kinh tế. 
1.3.4. Hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ là nhân tố quan trọng tác động đến quan hệ lợi ích kinh tế
bởi bản chất của nền kinh tế thị trường là mở cửa hội nhập. Do đó, khi tham gia vào công
cuộc hội nhập, các quốc gia có thể gia tăng lợi ích kinh tế thông qua nhiều lĩnh vực về
thương mại, đầu tư. Tuy nhiên, lợi ích kinh tế của một số hộ gia đình, doanh nghiệp kinh

2
doanh mặt hàng nội địa có thể bị ảnh hưởng bởi cạnh tranh hàng hoá nước ngoài. Song song
với việc phát triển nhanh hơn, các quốc gia phải đối mặt với tình trạng suy thoái, ô nhiễm
môi trường, cạn kiệt tài nguyên,...Như vậy, bên cạnh những tích cực vượt trội mà hội nhập
kinh tế quốc tế mang lại vẫn còn tồn đọng những mặt hạn chế cần phải khắc phục.  
Sau hơn 30 năm đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế đã có những tác động mạnh đến sự
tăng trưởng, phát triển kinh tế ở Việt Nam. Nhờ sự tăng trưởng kinh tế cao, ổn định mà quy
mô của nền kinh tế được mở rộng nhiều lần, do đó thu nhập bình quân đầu người cũng tăng
lên đáng kể: Năm 2016, GDP đầu người đạt hơn 2.200 USD so với 86 USD vào năm 1988. 

2.VAI TRÒ VÀ THỰC TIỄN CỦA NHÀ NƯỚC TRONG BẢO ĐẢM HÀI HÒA CÁC
QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
Hài hoà các lợi ích kinh tế là sự thống nhất biện chứng giữa lợi ích kinh tế của các chủ
thể, và trong đó, các mặt mâu thuẫn được hạn chế; khuyến khích, tạo điều kiện phát triển cả
chiều sâu và chiều rộng về mặt thống nhất. 
Bảo đảm hài hòa các lợi ích kinh tế là sự can thiệp từ nhà nước vào các quan hệ lợi ích
kinh tế, được thực hiện bằng các công cụ: giáo dục, pháp luật, hành chính,....nhằm hạn chế
mâu thuẫn, tăng cường sự thống nhất lợi ích kinh tế. 
Vai trò của nhà nước trong bảo đảm hài hòa các quan hệ lợi ích kinh tế ở nước ta hiện
nay được thực hiện thông qua bốn phương diện: 
2.1. Bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động tìm kiếm lợi ích
của các chủ thể kinh tế
Các hoạt động kinh tế được diễn ra với một môi trường nhất định, với môi trường
thuận lợi thì hoạt động diễn ra càng hiệu quả và không ngừng được mở rộng, nâng cao. Thế
nhưng, môi trường kinh tế vĩ mô thuận lợi sẽ không tự hình thành được mà phải cần có sự
tạo lập, củng cố từ nhà nước thông qua hành lang pháp lý. Vai trò của nhà nước được thể
hiện, trước hết là giữ vững ổn định về chính trị, điều đó đã góp phần quan trọng vào việc thu
hút vốn đầu tư nước ngoài, tạo sự vững chắc đối với các nhà đầu tư khi tiến hành đầu tư. 
Bên cạnh đó, để có thể tạo lập một môi trường thuận lợi, nhà nước cần phải xây dựng
một hệ thống pháp luật thông thoáng, bảo vệ lợi ích chính đáng của đất nước, của các chủ
thể kinh tế khi tham gia vào hoạt động. Đồng thời, quy định của nhà nước cần phải phù hợp
và tuân thủ với các chuẩn mực, thông lệ quốc tế. Ngoài ra, việc đầu tư, xây dựng kết cấu hạ
tầng (hệ thống đường bộ, đường sắt, đường hàng không,....hệ thống điện, nước, thông tin
liên lạc,...và các chính sách phù hợp với nền kinh tế thị trường trong từng giai đoạn là điều
tất yếu. Theo đó, cần tạo môi trường văn hoá phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế,
thể hiện thông qua việc khuyến khích tính năng động sáng tạo, tôn trọng kỷ cương pháp luật
và giữ gìn chữ tín đối với mọi chủ thể. 
Dịch Covid-19 bùng phát tại Việt Nam đã gây ra những ảnh hưởng vô cùng tiêu cực
đối nền kinh tế - xã hội trong nước. Theo đó, Bộ Tài chính đã có những quan sát thực tế,
đồng thời rà soát hệ thống pháp luật hiện hành để kịp thời triển khai những chính sách phù
hợp đối với tình hình thực tiễn. Cụ thể, trong năm 2020, Bộ Tài chính đã trình cấp có thẩm
quyền, ban hành những giải pháp hỗ trợ về gia hạn thời gian nộp các khoản thuế, phí, lệ phí
và tiền thuê đất đối với các doanh nghiệp, cá nhân, với tổng giá trị hỗ trợ khoảng 129 nghìn
tỷ đồng, trong đó: số tiền được gia hạn khoảng 97,5 nghìn tỷ đồng; số tiền được miễn, giảm
khoảng 31,5 nghìn tỷ đồng. Năm 2021, dự kiến tổng giá trị hỗ trợ khoảng 118 nghìn tỷ
đồng, trong đó: số tiền được gia hạn khoảng 115 nghìn tỷ đồng; số tiền được miễn, giảm
trên 3 nghìn tỷ đồng. Như vậy, trước những khó khăn mà dịch Covid mang lại, nhà nước đã
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp tục có vốn, khắc phục khó khăn, tạo ra môi trường
thuận lợi cho hoạt động tìm kiếm lợi ích của các chủ thể kinh tế. 

3
2.2. Điều hoà lợi ích giữa cá nhân - doanh nghiệp - xã hội
Những mâu thuẫn về lợi ích kinh tế cùng với các tác động của quy luật thị trường đã
dẫn đến sự phân hóa về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư là không đồng đều, một số bộ
phận dân cư có thu nhập cao, ngược lại một số có thu nhập thấp. Sự phân tầng giai cấp có
thể dẫn đến những mâu thuẫn căng thẳng, thậm chí là xung đột, đấu tranh giai cấp.
Do đó, nhà nước cần có những chính sách phân phối thu nhập, nhằm đảm bảo hài hoà
các lợi ích kinh tế, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo. Như vậy, cần thừa nhận sự chênh lệch
về thu nhập giữa các chủ thể kinh tế là khách quan, đồng thời ngăn chặn sự chênh lệch thu
nhập quá đáng. Ngoài ra, việc phân phối thu nhập còn phụ thuộc vào quá trình sản xuất, do
đó, để có thể điều hoà lợi ích kinh tế cần phải phát triển mạnh mẽ: lực lượng sản xuất, khoa
học - công nghệ, nâng cao thu nhập cho các chủ thể kinh tế, tạo điều kiện vật chất để thực
hiện công bằng trong phân phối. 
Nhà nước đặt ra chính sách thuế thu nhập cá nhân, hướng đến việc thu thuế đối với các
đối tượng có nguồn thu nhập cao, khoảng thuế thu được sẽ nộp vào ngân sách nhà nước,
theo đó, một phần sẽ được phân phối lại cho các đối tượng có thu nhập thấp thông qua các
quý phúc lợi xã hội, quỹ trợ cấp bảo hiểm. Chính sách thuế thu nhập cá nhân là một giải
pháp để điều hoà phân hóa thu nhập, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các bộ phận dân
cử, bởi thuế thu nhập cá nhân được xây dựng trên nguyên tắc công bằng, khả năng nộp thuế
không đánh vào những cá nhân có thu nhập thấp vừa đủ để nuôi sống bản thân và gia đình ở
mức cần thiết. 
2.3. Kiểm soát, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích có ảnh hưởng tiêu cực đối với sự phát
triển xã hội
Ở mỗi giai đoạn phát triển, để đảm bảo mức sống tối thiểu của người dân, nhà nước
cần phải có những chính sách xoá đói, giảm nghèo, tạo cơ hội tiếp cận đối với các nguồn lực
phát triển. Đồng thời khuyến khích, vận động người dân tham gia vào các hoạt động công
tác xã hội, làm giàu hợp pháp. Ngoài ra, việc tuyên truyền, giáo dục và nâng cao nhận thức
về phân phối thu nhập cho các chủ thể kinh tế - xã hội là điều rất cần thiết. Trong kinh tế thị
trường, sẽ khó tránh khỏi có những thu nhập bất hợp pháp, làm tổn hại đến lợi ích của các
chủ thể, do đó, để chống các hình thức thu nhập bất hợp pháp, bảo đảm hài hòa các lợi ích
kinh tế đòi hỏi cần phải xây dựng bộ máy nhà nước liêm chính, có hiệu lực và cơ chế kiểm
soát thu nhập, thực hiện công khai minh bạch, mỗi công dân, chủ thể đều được bình đẳng
trước pháp luật.
Hướng đến mục tiêu giảm nghèo bền vững, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã có
những chỉ đạo, bố trí ngân sách, tổ chức các chương trình, chính sách giảm nghèo cho người
dân. Đồng thời, chú trọng việc huy động vốn từ doanh nghiệp, cá nhân thực hiện Chương
trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững. Theo đó, với tỷ lệ hộ nghèo từ 9,88% năm
2015 (năm đầu kỳ) giảm xuống còn 2,23% năm 2021, trung bình giảm 1,27%/năm, riêng
đối với năm 2022, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giảm khoảng 1,2% so với cuối
năm 2021. Như vậy, với các chính sách xoá đói giảm nghèo, nhà nước tạo cơ hội, cho người
dân vươn lên, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích có ảnh hưởng tiêu cực đối với sự phát triển xã
hội.  
2.4. Giải quyết những mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế
Mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế là khách quan, do đó, nếu không được giải quyết
một cách triệt để sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh tế. Vì vậy, để giải quyết kịp thời
nhà nước cần phải quan tâm và chuẩn bị chu đáo các giải pháp đối phó, dựa trên nguyên tắc
có sự tham gia giữa các bên liên quan, có nhân nhượng và phải đặt lợi ích đất nước lên trên
hết. Và bên cạnh đó, khi diễn ra xung đột giữa các chủ thể kinh tế (đình công, bãi công, đập

4
phá nhà máy,....), cần có sự tham gia hoà giải của các tổ chức xã hội liên quan, đặc biệt là
nhà nước. 
Ngày 07/01/2021, khoảng 16.500 công nhân của Công ty TNHH Pouchen Việt Nam
(phường Hóa An, Tp. Biên Hoà) đã đình công vì tiền thưởng Tết thấp. Nhận được thông tin,
các cơ quan chức năng tỉnh Đồng Nai đã phối hợp với công đoàn sở, ban giám đốc công ty
để giải thích rõ vấn đề về tiền thưởng giảm do dịch bệnh kéo dài. Từ đó, người lao động đã
đồng thuận với những khó khăn của doanh nghiệp và quay trở lại làm việc. 

3. ĐỀ XUẤT NHỮNG GIẢI PHÁP XỬ LÝ HÀI HOÀ MỐI QUAN HỆ: LỢI ÍCH CÁ
NHÂN, LỢI ÍCH NHÓM VÀ LỢI ÍCH XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Những hạn chế vẫn còn tồn tại
Thứ nhất, tình trạng nhân danh lợi ích xã hội nhằm vi phạm lợi ích cá nhân chính đáng
của người dân lao động vẫn tồn tại và tiềm ẩn nhiều vấn đề phức tạp.
Thứ hai, tình trạng đề cao lợi ích cá nhân không chính đáng dẫn đến vi phạm về lợi ích
xã hội, lợi ích cá nhân, gây ra những tổn hại đến sự phát triển của đời sống của nhân dân. 
Thứ ba, nhiều lợi ích xã hội vẫn chưa được thực hiện một cách phổ quát, song tình
trạng đề cao lợi ích xã hội đã khiến cho việc thực hiện lợi ích cá nhân chưa thực sự đúng
mức.  
3.2. Những giải pháp xử lý hài hoà mối quan hệ giữa: lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm và
lợi ích xã hội ở Việt Nam
Thứ nhất, nâng cao nhận thức của các chủ thể lợi ích, trong giải quyết quan hệ lợi ích,
nhất là giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Việc nâng cao nhận thức giúp cho các chủ thể
xác định được quyền lợi và nghĩa vụ trong quan hệ lợi ích, tầm quan trọng của thống nhất
lợi ích và tránh những mâu thuẫn, xung đột xảy ra. Theo đó, mỗi chủ thể cá nhân cần phải
đặt lợi ích bản thân trong mối quan hệ với các lợi ích khác, đồng thời nhận thức được, chỉ
khi mỗi cá nhân cố gắng thực hiện tốt lợi ích chính đáng của mình thì lợi ích xã hội mới có
thể đạt được. Mặt khác, Đảng và Nhà nước muốn thực hiện tốt các mục tiêu phát triển kinh
tế - xã hội cần phải quan tâm đến lợi ích thiết thực của từng cá nhân, từng đối tượng trong
quan hệ lợi ích. 
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện chính sách về sở hữu, phân phối, thực hiện tốt các chính
sách trên thực tế, giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội . Thực hiện nhất
quán một chế độ pháp lý đối với tất cả các doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu,
thành phần kinh tế. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường, đi
đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, bình đẳng trong
việc tiếp nhận các nguồn lực, tài sản công và cạnh tranh lành mạnh. Thúc đẩy, hình thành,
phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân, hoàn thiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ, vừa,
đồng thời xóa bỏ doanh nghiệp độc quyền trong một số lĩnh vực đặc biệt là doanh nghiệp
nhà nước.  
Thứ ba, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách tiền lương, chính sách an sinh xã hội
và phúc lợi xã hội. Đối với những chủ thể còn khó khăn trong hoạt động kinh tế, Đảng và
Nhà nước cần có những chính sách ưu đãi, nâng cao đời sống xã hội, đảm bảo cho họ được
thụ hưởng các giá trị căn bản của sự phát triển đời sống xã hội. Đồng thời, thực hiện tốt các
chính sách về cải cách tiền lương, an sinh - phúc lợi xã hội nhằm đảm bảo đời sống của
người lao động được thay đổi, phát triển và hoàn thiện hơn.
Thứ tư, thực hiện các giải pháp đảm bảo công khai, minh bạch nhằm ngăn chặn
những hành vi tiêu cực như tham ô, tham nhũng, lợi ích nhóm. Thực hiện tốt các biện pháp
công khai minh bạch, phòng ngừa các hiện tượng: tham nhũng, trốn thuế, lãng phí,...là điều
mà Đảng và Nhà nước cần phải thực hiện tốt hơn trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã

5
hội. Theo đó, hướng đến một xã hội minh bạch dựa trên cơ sở quản lý tốt việc sở hữu tài sản
của mỗi cá nhân, khuyến khích các chủ thể thanh toán bằng thẻ điện tử, hạn chế sử dụng tiền
mặt. Đồng thời xây dựng hành lang pháp lý chặt chẽ, xử lý nghiêm các hành vi phạm tội:
tham nhũng, buôn lậu, trốn thuế,....gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến các quan hệ lợi ích xã
hội.
Thứ năm, khuyến khích cá nhân thực hiện lợi ích chính đáng của mình đồng thời bảo
đảm lợi ích xã hội. Để có thể phát huy tối đa các nguồn lực cho sự phát triển, cần tích cực
khuyến khích các cá nhân vươn lên trong học tập, rèn luyện lao động, sản xuất. Thông qua
các biện pháp về giáo dục, tuyên truyền, hoạt động thực tiễn giúp các chủ thể nhận thức
rằng, để có thể thỏa mãn các nhu cầu về vật chất, tinh thần, trước hết cần phải tích cực lao
động,vượt lên khó khăn, loại bỏ các tư tưởng tự mãn, ỷ lại, cống hiến hết năng lực của mình
cho xã hội

LỜI KẾT THÚC

You might also like