You are on page 1of 14

NỘI DUNG

 Khái niệm chi thường xuyên

Chi ngân sách nhà nước gồm nhiều loại. Theo khoản 2 điều 5 Luật ngân
sách nhà nước 2015, chi ngân sách nhà nước bao gồm: các khoản chi đầu tư
phát triển, chi dự trữ quốc gia, chi thường xuyên, chi trả nợ lãi, chi viện trợ và
các khoản chi luật định khác. Cơ cấu những khoản chi ngân sách nhà nước thể
hiện những nhiệm vụ kinh tế, chính trị và xã hội mà nhà nước phải gánh vác
trong từng giai đoạn thời kỳ lịch sử, dồng thời là căn cứ để đánh giá tính tích
cực, tiến bộ của ngân sách của từng quốc gia.

Theo khoản 6 Điều 4 Luật ngân sách nhà nước 2015: “Chi thường xuyên  là
nhiệm vụ chi của ngân sách nhà nước nhằm bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà
nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, hỗ trợ hoạt động   của  các tổ
chức khác và thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên của Nhà nước về phát triển
kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh.”

Chi thường xuyên là một bộ phận của nhiệm vụ chi – hoạt động nhằm sử
dụng quỹ ngân sách, là quá trình phân phối nguồn tiền tệ nằm trong quỹ ngân
sách nhà nước để chi dùng vào những mục đích khác nhau. Đây là những khoản
chi của ngân sách nhà nước nhằm bảo đảm hoạt đông của bộ máy nhà nước, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, hỗ trợ hoạt động của các tổ chức khác
và thực hiện nhiệm vụ thường xuyên của nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội,
đảm bảo quốc phòng an ninh. Nhiệm vụ chi bao gồm: Nhiệm vụ chi ngân sách
trung ương và nhiệm vụ chi ngân sách địa phương. Nhiệm vụ chi thuộc ngân
sách cấp nào do ngân sách cấp đó bảo đảm thực hiện. Ngân sách trung ương
cũng như ngân sách địa phương phải tự đảm đương các nhiệm vụ của mình, tự
bố trí các nguồn kinh phí để thực hiện các nhiệm vụ chi.

Mỗi cấp ngân sách đều có chi thường xuyên. Đây là khoản chi mang tính
định kỳ, lặp đi lặp lại, không tạo ra giá trị mới, mà là để duy trì hoạt động của
bộ máy nhà nước thực hiện tốt các chức năng của mình. Vì vậy, những khoản
chi này còn được gọi là chi mang tính tiêu dùng.
Nếu căn cứ vào mức độ ổn định của các khoản chi có thể phân các khoản
chi thành hai nhóm: chi thường xuyên và chi không thường xuyên. Trong đó,
chi thường xuyên bao gồm các khoản chi cho hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào
tạo, y tế, xã hội, văn hóa thông tin, văn học nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa
học và công nghệ; chi cho các hoạt động của các tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị - xã hội; chi cho các hoạt động sự nghiệp kinh tế; chi cho quốc phòng an
ninh, trật tự an toàn xã hội,…

 Đặc điểm chi thường xuyên

Là một nhiệm vụ chi, chi thường xuyên mang đặc điểm chung của chi
NSNN, ngoài ra còn có đặc điểm riêng biệt.

 Đặc điểm chung

Thứ nhất, chi thường xuyên chỉ được tiến hành trên cơ sở pháp luật và theo
kế hoạch chi ngân sách cũng như phân bổ ngân sách do cơ quan quyền lực nhà
nước quyết định.

Theo điều 19 Luật ngân sách nhà nước năm 2015, Quốc hội là cơ quan duy
nhất có quyền quyết định về tổng số chi, cơ cấu, nội dung, mức độ các khoản
chi ngân sách nhà nước và quyết định phân bổ ngân sách trung ương. Điều 30
Luật ngân sách nhà nước 2015 giao cho HĐND các cấp quyền quyết định về
tổng số chi, cơ cấu, nội dung, mức độ các khoản chi ngân sách cấp mình. Mọi
hoạt động chi ngân sách phải được thực hiện trên cơ sở các quyết định của Quốc
hội và hội đồng nhân dân các cấp.

Thứ hai, chi thường xuyên nhằm vào mục tiêu thỏa mãn nhu cầu về tài
chính cho sự vận hành của bộ máy nhà nước, đảm bảo cho nhà nước thực hiện
được các chức năng, nhiệm vụ của mình. Như vậy, bên cạnh việc chịu ảnh
hưởng của kết quả thu NSNN, mức độ và phạm vi, chi NSNN nói chung và chi
thường xuyên nói riêng còn phụ thuộc vào quy mô của bộ máy nhà nước, cũng
như tùy thuộc vào các chức năng, nhiệm vụ mà nhà nước đảm nhiệm. Khoản 3
điều 36 và khoản 2 điều 38 Luật ngân sách nhà nước 2015 phản ánh rõ nét mục
tiêu chi cho hoạt động của bộ máy nhà nước và đảm bảo thực hiện các chức
năng của nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh và quốc phòng.
Thứ ba, chi thường xuyên là hoạt động được tiến hành bởi hai nhóm chủ
thể:

- Nhóm chủ thể đại diện cho nhà nước thực hiện chức năng quản lý, cấp
phát, thanh toán các khoản chi ngân sách nhà nước, liên quan tới việc xuất quỹ
ngân sách nhà nước cho các mục tiêu đã được phê duyệt. Bao gồm: Bộ tài
chính, sở tài chính – vật giá cấp tỉnh, phòng tài chính cấp huyện, sở kế hoạch &
đầu tư và kho bạc nhà nước.
- Nhóm chủ thể sử dụng ngân sách nhà nước. Chia thành 3 loại:
+ Cơ quan nhà nước, kể cả các cơ quan hành chính thực hiện khoán
biên chế và kinh phí quản lý hành chính.
+ Các đơn vị, kể cả đơn vị sự nghiệp có thu.
+ Các chủ dự án sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước.

Mặc dù nhóm chủ thể thứ hai này bao gồm cả các cơ quan như Quốc hộ,
Chính phủ, hệ thống tòa án, viện kiểm sát,… nhưng những cơ quan này không
tham gia hoạt động chi NSNN với tư cách chủ thể mang quyền mà chỉ đơn
thuần là chủ thể được hưởng kinh phí ngân sách nhà nước cấp để trang trải các
chi phí phát sinh trong quá trình thực hiện các hoạt động chức năng.

 Đặc điểm riêng

Thứ nhất, chi thường xuyên có phạm vi rộng, gắn liền với việc thực hiện
các nhiệm vụ thường xuyên của nhà nước. Khoản chi này mang tính chất tiêu
dùng, quy mô và cơ cấu chi thường xuyên phụ thuộc chủ yếu vào tổ chức bộ
máy nhà nước. Với xu thế phát triển của xã hội, nhiệm vụ chi thường xuyên của
nhà nước ngày càng gia tăng chính vì vậy chi thường xuyên cũng có xu hướng
mở rộng.

Thứ hai, nguồn lực tài chính trang trải cho các khoản chi thường xuyên
được phân bố tương đối đều giữa các quý trong năm, giữa các tháng trong quý,
giữa các năm trong kỳ kế hoạch. Chi thường xuyên mang tính ổn định khá rõ nét
do những chức năng vốn có của nhà nước như tổ chức các hoạt động kinh tế xã
hội, đảm bảo an ninh trật tự an toàn xã hội đều đòi hỏi phải có nguồn kinh phí
ổn định để duy trì.
Thứ ba, việc sử dụng kinh phí thường xuyên chủ yếu chi cho con người, sự
việc nên nó không làm tăng thêm tài sản hữu hình của quốc gia. Chi thường
xuyên mang tính chất kịp thời, tiêu dùng xã hội và có hiệu lực tác động trong
thời gian ngắn nhằm đáp ứng cho các nhu cầu chi để thực hiện các nhiệm vụ của
Nhà nước về quản lý kinh tế xã hội ngay trong năm hiện tại khác với chi đầu tư
phát triển.

Thứ tư, hiệu quả của chi thường xuyên không thể đánh giá, xác định cụ thể
như chi cho đầu tư phát triển. Hiệu quả của nó không chỉ đơn thuần về mặt kinh
tế mà được thể hiện qua sự ổn định chính trị-xã hội từ đó thúc đẩy sự phát triển
bện vững của đất nước.

Thứ năm, phạm vi và mức độ chi thường xuyên của ngân sách nhà nước
cũng gắn chặt với cơ cấu, tổ chức của bộ máy nhà nước. Bộ máy nhà nước càng
tinh gọn thì số chi thường xuyên cũng được giảm bớt và ngược lại. đồng thời
quyết định của Nhà nước trong việc lựa chọn phạm vi cung ứng các hàng hoá
công cộng sẽ cũng ảnh hưởng đến phạm vi và mức độ của chi thường xuyên.

Như vậy, dựa vào các đặc điểm trên, có thể thấy vai trò chi thường xuyên
có ảnh hưởng rất quan trọng đến đời sống kinh tế xã hội của một quốc gia.

 Nguyên nhân pháp luật hướng đến cơ chế cho phép các đơn vị dự
toán tự chủ đối với chi thường xuyên.

Căn cứ khoản 10 điều 4 Luât ngân sách nhà nước 2015: “Đơn vị dự toán
ngân sách là cơ quan, tổ chức, đơn vị được cấp có thẩm quyền giao dự toán
ngân sách.” Pháp luật về ngân sách hiện nay ngày càng hướng đến cơ chế cho
phép các đơn vị dự toán tự chủ đối với chi thường xuyên bởi việc các đơn vị tự
chủ mang lại nhiều tác dụng tích cực.

Thứ nhất, các đơn vị dự toán khi được giao quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm tài chính đã chủ động sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước giao hiệu quả
hơn để thực hiện nhiệm vụ; đồng thời, chủ động sử dụng tài sản, nguồn nhân lực
để phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ, tạo điều kiện tăng nguồn thu. Thực
hiện cơ chế tự chủ chi thường xuyên, nhiều đơn vị dự toán đã đổi mới phương
thức hoạt động, tiết kiệm chi và cùng với các nguồn thu đã góp phần bảo đảm
bù đắp nhu cầu chi ngân sách.

Thứ hai, việc tự chủ chi thường xuyền của các đơn vị nhằm từng bước hạn
chế tình trạng cơ quan chủ quản cấp trên can thiệp quá sâu vào công việc của cơ
quan cấp dưới, cấp dưới chờ đợi sự chỉ đạo cụ thể của cấp trên. Đồng thời, cơ
chế này sẽ nâng cao trách nhiệm của Thủ trưởng, tăng cường sự giám sát của
cán bộ, công chức trong việc sử dụng kinh phí để hoàn thành nhiệm vụ được
giao.

Thứ ba, khi các đơn vị dự toán tự chủ trong chi thường xuyên sẽ làm giảm
gánh nặng cho ngân sách cấp trên. Các cơ quan, tổ chức, đơn vị được cơ quan
có thẩm quyền giao dự toán ngân sách sẽ tự chủ, tự lập kế hoạch và cân đối
trong hoạt động chi thường xuyên của mình phù hợp với hoạt động của đơn vị
mình. Các đơn vị chủ động sử dụng nguồn lực tài chính, lao động cơ sở vật chất
để thực hiện nhiệm vụ được giao, chủ động phân bổ nguồn tài chính của đơn vị
theo nhu cầu chi tiêu đối với từng lĩnh vực trên tinh thần tiết kiệm, thiết thực và
hiệu quả.

Thứ tư, pháp luật hướng đến cơ chế cho phép các đơn vị dự toán tự chủ đối
với chi thường xuyên là vì nguồn thu của các đơn vị sự nghiệp thuộc các Bộ, cơ
quan Trung ương quản lý cùng với nguồn kinh phí tiết kiệm 10% chi hoạt động
thường xuyên NSNN giao, đã góp phần bảo đảm bù đắp một phần nhu cầu tiền
lương tăng thêm theo quy định của Chính phủ; trong đó các đơn vị tự bảo đảm
chi phí hoạt động tự bảo đảm toàn bộ tiền lương, NSNN không phải bổ sung
kinh phí do thay đổi chế độ tiền lương, đối với các đơn vi tự bảo đảm một phần
kinh phí một phần thu sự nghiệp được huy động để bù đắp một phần nguồn tiền
lương tăng thêm theo quy định giảm chi từ nguồn NSNN.

Việc tự chủ trong chi thường xuyên giúp các đơn vị dự toán đạt được
những hiệu quả nhất định vì vậy pháp luật nước ta đang hướng đến cho các đơn
vị tự chủ trong chi thường xuyên. Bước đầu trong việc định hướng cho các đơn
vị dự toán là sự tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập.

Thực tiễn thời gian qua cho thấy, việc triển khai giao quyền tự chủ tài
chính cho các đơn vị sự nghiệp công lập đã mang lại một số kết quả tích cực.
Các đơn vị sự nghiệp công lập đã chủ động sử dụng nguồn kinh phí ngân sách
nhà nước giao để thực hiện nhiệm vụ có hiệu quả, thậm chí còn từ đó phát triển
nguồn thu do nâng cao số lượng, chất lượng hoạt động cung cấp dịch vụ sự
nghiệp công. Đồng thời, các đơn vị phát huy mọi khả năng để cung cấp dịch vụ
cho xã hội, nhằm từng bước giải quyết thu nhập cho người lao động; phát huy
tính sáng tạo, năng động, xây dựng “thương hiệu riêng” cho đơn vị mình, thực
hiện chủ trương xã hội hóa trong việc cung cấp dịch vụ cho xã hội, huy động sự
đóng góp của cộng đồng xã hội để phát triển các hoạt động sự nghiệp, từng
bước giảm dần bao cấp từ ngân sách nhà nước.

 Bình luận về các nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ dự toán
chi thường xuyên ngân sách nhà nước 2018 do Ủy ban thường vụ Quốc hội
ban hành.

 Về nguyên tắc phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách nhà
nước 2018 do Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành

Có 14 mức phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách nhà nước cho các
địa phương cấp tỉnh, bao gồm: chi sự nghiệp giáo dục, chi sự nghiệp đào tạo và
dạy nghề, chi sự nghiệp y tế, chi quản lý hành chính, chi sự nghiệp văn hóa -
thông tin, chi sự nghiệp phát thanh - truyền hình, chi sự nghiệp thể dục thể thao,
chi sự nghiệp đảm bảo xã hội, chi quốc phòng, chi an ninh, chi sự nghiệp khoa
học và công nghệ, chi hoạt động kinh tế, chi sự nghiệp bảo vệ môi trường và chi
thường xuyên khác của ngân sách địa phương. Ta có thể thấy được, các mức
phân bổ dự toán chi thường xuyên được nêu ở trên đây là các nhiệm vụ chi phục
vụ quản lý nhà nước trong hầu hết các lĩnh vực dân sinh, quốc phòng, an ninh.
Điều này hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật về chi thường xuyên.

Việc phân bổ dự toán chi thường xuyên NSNN nhằm góp phần thực hiện
các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh,
quốc phòng của cả nước, cũng như từng bộ, cơ quan trung ương, từng địa
phương trong giai đoạn đến năm 2020. Trong đó, Nghị quyết chỉ rõ một số
nguyên tắc lớn:
- Ưu tiên bố trí kinh phí cho các lĩnh vực xã hội (giáo dục, đào tạo và
dạy nghề, khoa học và công nghệ, môi trường, y tế) và các khu vực khó khăn
(địa bàn vùng cao - hải đảo, vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc ít người).

Nguyên tắc này đòi hỏi việc phân bổ các khoản chi ngân sách phải căn cứ
và ưu tiên các chương trình trọng điểm của nhà nước, tránh được tình trạng đầu
tư tràn lan mà thay vào đó phải xác định rõ đâu là mục tiêu quan trọng nhất, đâu
là vấn đề cần quan tâm hàng đầu để giải quyết trước, hơn nữa phải sử dụng hiệu
quả nguồn vốn do nhà nước cấp phát, cũng như các khoản đầu tư để giải quyết
tốt vấn đề đó. Thực hiện được đúng nguyên tắc này sẽ đảm bảo được tính mục
đích và khả năng tiết kiệm các khoản chi của ngân sách, phát huy được thế
mạnh tiềm năng của đất nước.

- Việc đưa tối đa các khoản chi thường xuyên vào định mức chi quản lý
hành chính của các bộ, cơ quan trung ương cần triệt để tiết kiệm, giảm các
khoản chi hội nghị, hội thảo, các đoàn đi công tác nước ngoài; ưu tiên mức
phân bổ kinh phí cho khối các cơ quan tư pháp, Kiểm toán Nhà nước, Thanh tra
Chính phủ.
- Phù hợp với khả năng cân đối NSNN, vừa hướng tới cơ cấu lại NSNN
vừa đảm bảo tính hiệu quả trong sử dụng NSNN và thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí.

Hai nguyên tắc kể trên đòi hỏi các tổ chức, đơn vị sử dụng nguồn vốn do
ngân sách nhà nước cấp phát phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, sử dụng một
cách có hiệu quả và tiết kiệm nhất, sử dụng đúng mục đích, cắt giảm những
khoản chi không cần thiết, các khoản chi tiếp khách, hội nghị, tổ chức lễ hội...

Do đặc thù hoạt động NSNN diễn ra trên phạm vi rộng, đa dạng và phức
tạp, nhu cầu chi từ NSNN luôn gia tăng với tốc độ nhanh trong khi khả năng
huy động nguồn thu có hạn, do đó trong quá trình phân bổ và sử dụng các khoản
chi ngân sách luôn phải tính toán sao cho với chi phí ít nhất nhưng phải đạt
được kết quả cao nhất.

Vì vậy, việc tiết kiệm, hiệu quả trong quản lý chi thường xuyên của NSNN
có thể coi là một trong những nguyên tắc quan trọng hàng đầu. Đảm bảo thực
hiện tốt nguyên tắc này sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển, tránh thất thoát nguồn
ngân sách, thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ kinh tế, chính trị...

- Góp phần đẩy mạnh đổi mới khu vực sự nghiệp công gắn với lộ trình
điều chỉnh giá, phí, tăng nguồn hỗ trợ trực tiếp cho các đối tượng chính sách;
khuyến khích xã hội hoá...

Nguyên tắc này góp phần nâng cao khả năng huy động các nguồn vốn khác
để giảm nhẹ gánh nặng cho ngân sách nhà nước như huy động các nguồn tài trợ,
sự ủng hộ trong nhân dân với các vấn đề xã hội như thiên tai, bão lụt, ô nhiễm
môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm... Bên cạnh đó, ngân sách nhà nước bảo
đảm chi cho các đối tượng chính sách được tiếp cận với các dịch vụ công, nhất
là dịch vụ thiết yếu.

Quán triệt nguyên tắc này không những giảm nhẹ các khoản chi tiêu ngân
sách nhà nước mà còn nâng cao tinh thần trách nhiệm của mỗi công dân trong
xã hội, đảm bảo được yêu cầu kiểm soát của quần chúng trong chi tiêu của ngân
sách nhà nước, tạo sự chủ động cho địa phương và các đơn vị trong quản lý
nguồn lực NSNN, góp phần cơ cấu lại NSNN tốt hơn.

- Tiêu chí phân bổ ngân sách cần rõ ràng, minh bạch, dễ hiểu, dễ thực
hiện, dễ kiểm tra và thúc đẩy cải cách hành chính.

Khi các tiêu chí phân bổ ngân sách nhà nước được xác định và công khai sẽ
góp phần đảm bảo tính hợp lý và hiệu quả trong phân bổ và chi tiêu ngân sách.

Bên cạnh đó, khi các thông tin và hoạt động của các cơ quan hành chính
được công khai, minh bạch sẽ đảm bảo cho người dân có thể tiếp cận tới các
thông tin và tài liệu của các cơ quan hành chính nhà nước, từ đó gây áp lực, làm
tăng trách nhiệm và gia tăng hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành chính nhà
nước.

Mặt khác, việc đảm bảo cho người dân có điều kiện tiếp cận thông tin của
các cơ quan nhà nước một cách đầy đủ sẽ góp phần cải thiện tình trạng tham
nhũng trong xã hội. Nếu sự minh bạch không được đề cao, các chính sách và thủ
tục hành chính không rõ ràng sẽ tạo điều kiện để cán bộ, công chức nhũng
nhiễu, hạch sách người dân, là môi trường để các hành vi tham nhũng, tiêu cực
nảy sinh.

- Định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên của ngân sách địa phương
tuân thủ thêm một số nguyên tắc: tiêu chí dân số chia theo bốn vùng (đô thị;
đồng bằng; miền núi, vùng đồng bào dân tộc ở đồng bằng, vùng sâu; vùng cao -
hải đảo) là tiêu chí chính; kết hợp các tiêu chí bổ sung phù hợp với thực tế và
đặc thù từng địa phương...

 Tiêu chí, định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách
nhà nước cho các bộ, cơ quan trung ương

Tiêu chí, định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách nhà nước
cho các bộ, cơ quan Trung ương năm 2018 được quy định tại Điều 4 Nghị quyết
266/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

- Chi quản lý hành chính: Dựa trên biên chế được giao theo định mức giảm
dần biên chế. Ngoài dự toán chi thường xuyên, các bộ, cơ quan trung ương được
phân bổ kinh phí chi tiền lương và các khoản có tính chất lương và kinh phí đặc
thù từng bộ, cơ quan.

- Chi cho các đơn vị sự nghiệp công lập: Hỗ trợ chi thường xuyên cho các
đơn vị sự nghiệp công dựa vào mức độ tự chủ của đơn vị; đấy nhanh giao quyền
tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp công lập, giảm hỗ trợ trực tiếp từ ngân sách nhà
nước.

- Chi quốc phòng, an ninh: Dựa vào nhu cầu kinh phí thực hiện các chính
sách, chế độ đối với con người, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và khả năng cân
đối ngân sách trung ương hàng năm Chính phủ trình Quốc hội quyết định.

 Như vậy, những tiêu chí và định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên
ngân sách nhà nước cho các bộ, cơ quan trung ương có một vài thay đổi so với
trước.

Đối với định mức phân bổ chi quản lý hành chính, áp dụng định mức phân
bổ theo phương pháp lũy thoái. Cụ thể, từ 100 biên chế trở xuống, tính 54 triệu
đồng/biên chế/năm; từ biên chế thứ 101 - 500, tính 50 triệu đồng/ biên chế/năm;
từ biên chế thứ 501 - 1000, tính 48 triệu đồng/biên chế/năm; từ biên chế 1.001
trở lên, tính 45 triệu đồng/biên chế/năm.

Chính những sự thay đổi về tài chính này đã góp phần khuyến khích, thúc
đẩy các đơn vị tinh giản biên chế, theo Nghị quyết mà Đảng đưa ra về “tiếp tục
đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu
lực, hiệu quả”1.

Định mức phân bổ ngân sách cho các cơ quan trung ương cũng đã bổ sung
thêm quy định về phân bổ dự toán chi quốc phòng, an ninh trên cơ sở nhu cầu
kinh phí thực hiện các chính sách, chế độ đối với con người, nhiệm vụ đặc thù
của quốc phòng, an ninh và khả năng cân đối ngân sách Trung ương hằng năm.

 Những vấn đề cần hoàn thiện

Đối với định mức phân bổ chi thường xuyên cho các cơ quan trung ương:
Nguyên tắc phân bổ dự toán chi thường xuyên NSNN có đề cập ưu tiên mức
phân bổ kinh phí cho khối các cơ quan tư pháp, Kiểm toán Nhà nước, Thanh tra
Chính phủ nên về mức phân bổ cho các cơ quan này theo đầu biên chế là cao
nhất (55 triệu đồng/biên chế/năm) nhưng nếu so với định mức phân bổ của giai
đoạn trước đó thì mức tăng lại là thấp nhất; quy định về phân bổ chi thường
xuyên NSNN đối với quốc phòng, an ninh cũng chưa rõ ràng, chưa có các mức
phân bổ cụ thể nên có thể tạo sự không minh bạch trong phân bổ ngân sách; việc
chậm ban hành các nghị định về cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập
trong từng lĩnh vực cũng làm hạn chế hiệu quả phân bổ chi thường xuyên từ
NSNN.

 Tiêu chí, định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách
nhà nước cho các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

Tiêu chí, định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách nhà nước
cho các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi là địa phương cấp
tỉnh) năm 2018 được quy định tại Điều 5 Nghị quyết 266/2016/UBTVQH14 của
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

1
Nghị quyết số 18/NQ-TW của Ban chấp hành Trung ương ngày 25/10/2017.
Có 14 mức phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách nhà nước cho các
địa phương cấp tỉnh, bao gồm:

- Chi sự nghiệp giáo dục,


- Chi sự nghiệp đào tạo và dạy nghề,
- Chi sự nghiệp y tế,
- Chi quản lý hành chính,
- Chi sự nghiệp văn hóa - thông tin,
- Chi sự nghiệp phát thanh - truyền hình,
- Chi sự nghiệp thể dục thể thao,
- Chi sự nghiệp đảm bảo xã hội,
- Chi quốc phòng, chi an ninh,
- Chi sự nghiệp khoa học và công nghệ,
- Chi hoạt động kinh tế,
- Chi sự nghiệp bảo vệ môi trường,
- Chi thường xuyên khác của ngân sách địa phương.

Như vậy, có thể thấy được, các mức phân bổ dự toán chi thường xuyên
được nêu ở trên đây là các nhiệm vụ chi phục vụ quản lý nhà nước trong hầu hết
các lĩnh vực dân sinh, quốc phòng, an ninh. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy
định của pháp luật về chi thường xuyên. Khoản 6 Điều 4 Luật Ngân sách nhà
nước năm 2015 quy định: “Chi thường xuyên là nhiệm vụ chi của ngân sách
nhà nước nhằm bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội, hỗ trợ hoạt động của các tổ chức khác và thực hiện các
nhiệm vụ thường xuyên của Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm
quốc phòng, an ninh”.

Trong số 14 mức phân bổ dự toán chi thường xuyên cho các địa phương
cấp tỉnh thì có tới 11 mức phân bổ dự toán có tiêu chí là theo dân số (trừ chi sự
nghiệp khoa học và công nghệ, chi hoạt động kinh tế, chi thường xuyên khác).

Để giải thích cho vấn đề này, chúng ta cần phải chú ý tới bản chất của chi
thường xuyên. Đó là nhiệm vụ chi thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước về
quản lý kinh tế xã hội, hay nói cách khác, chi thường xuyên là nhiệm vụ chi
nhằm đảm bảo sự tồn tại, an toàn và phát triển của công dân. Do đó, các khoản
chi này có đối tượng là con người, hiện tượng 11/14 mức phân bổ dự toán chi
thường xuyên cho các địa phương cấp tỉnh có tiêu chí là dân số cũng là điều dễ
hiểu.

Tuy nhiên, mỗi mức phân bổ dự toán chi thường xuyên lại tương ứng với
một lĩnh vực cụ thể của xã hội đã được thể hiện rõ trong tên gọi. Mỗi lĩnh vực
lại có đặc điểm, tính chất đặc thù riêng. Chính vì vậy, tiêu chí phân bổ dự toán
chi thường xuyên cho một lĩnh vực lại phản ánh những đặc điểm, tính chất đặc
thù của lĩnh vực đó.

- Đối với lĩnh vực giáo dục, độ tuổi dân số được lấy làm tiêu chí là từ 01
– 18 tuổi. Đây là độ tuổi mà bất cứ ai cũng phải trải qua, và chỉ có thể trở thành
một công dân có ích cho xã hội nếu được thụ hưởng một nền giáo dục tốt. Nền
giáo dục mà chúng ta hướng đến là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân
dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng. Về cơ bản, hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm các cấp
học: giáo dục mầm non (nhà trẻ, mẫu giáo) và giáo dục phổ thông (tiểu học,
trung học cơ sở, trung học phổ thông) 2. Các cấp học này tương ứng với độ tuổi
từ 01 – 18 tuổi. Do đó, tiêu chí phân bổ dự toán chi thường xuyên cho các địa
phương cấp tỉnh đối với lĩnh vực giáo dục là hợp lý.

Tại điểm c khoản 1 Điều 5 Nghị quyết này có nêu các tiêu chí bổ sung liên
quan đến các chế độ, chính sách về trẻ em mẫu giáo, người khuyết tật, học sinh
trung học phổ thông ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn…
Tuy nhiên, có một tiêu chí phụ mà chúng tôi cho rằng quy định ở trong điểm
này là chưa hợp lý. Đó là “hỗ trợ chi phí học tập đối với sinh viên là người dân
tộc thiểu số học tại các cơ sở giáo dục đại học”. Tiêu chí này không phù hợp ở
chỗ nó không phản ánh đúng lĩnh vực chi thường xuyên (lĩnh vực đào tạo – sẽ
được trình bày sau) và có thể sinh viên sẽ không đáp ứng được điều kiện về độ
tuổi. Cụ thể, điều kiện để có thể học lên đại học là phải có bằng tốt nghiệp trung
học phổ thông hoặc bằng tốt nghiệp trung cấp. Trong điều kiện bình thường,
một học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông thường có tuổi là 18. Như vậy sinh
viên đại học là đối tượng của tiêu chí phụ này chỉ có một khoảng thời gian ng ắn
để hưởng chế độ hỗ trợ chi phí học tập. Trong trường hợp học vượt theo quy
định của pháp luật, khoảng thời gian này sẽ dài hơn, tuy nhiên chỉ cần sinh viên
2
Khoản 2 Điều 4 Luật Giáo dục năm 2005 (đã được sửa đổi bổ sung bởi Luật số 44/2009/QH12, Luật số
74/2014/QH13 và Luật số 97/2015/QH13).
này đủ 19 tuổi, chế độ ưu đãi này mặc nhiên bị chấm dứt. Điều này đặt ra câu
hỏi liệu rằng tiêu chí này đã hướng đến đúng đối tượng hay chưa, khoản hỗ trợ
trong thời gian ngắn có thực sự đem lại ý nghĩa lớn cho người được hưởng ưu
đãi hay không?

- Đối với lĩnh vực đào tạo và dạy nghề, tiêu chí phân bổ theo dân số
không kể là người từ 01 – 18 tuổi. Theo quy định của pháp luật, hai trình độ đào
tạo hiện nay của hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm giáo dục nghề nghiệp,
giáo dục đại học và sau đại học. Và như đã nói ở trên, trong điều kiện bình
thường, độ tuổi bước vào đại học, cao đẳng thường là 18 tuổi.

Tuy nhiên các cơ sở dạy nghề lại có cả học viên chưa đủ 18 tuổi. Điều này
dẫn đến trường hợp có những người không phải là đối tượng của tiêu chí phân
bổ dự toán chi thường xuyên cho sự nghiệp đào tạo, dạy nghề nhưng lại là đối
tượng của giáo dục nghề nghiệp. Họ cũng không phải là đối tượng của tiêu chí
phân bổ dự toán chi thường xuyên cho sự nghiệp giáo dục vì không phải là đối
tượng của các cơ sở giáo dục phổ thông. Hay nói các khác, các khoản chi
thường xuyên cho giáo dục và đào tạo, nghề nghiệp không nhắm đến họ. Việc
để “lọt lưới” các đối tượng trên là do sự không thống nhất giữa quy định của
Nghị quyết này và pháp luật giáo dục. Ngoài ra còn có một nguyên nhân khác là
năng lực rà soát thống kê của nước ta còn nhiều khuyết điểm, việc lựa chọn tiêu
chí theo độ tuổi sẽ dễ dàng thực hiện phân bổ dự toán chi thường xuyên hơn là
lựa chọn tiêu chí theo lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Vấn đề nêu trên sẽ được
khắc phục khi kết thúc thời kỳ ổn định của năm ngân sách 2017 – 2020 và Luật
Giáo dục 2019 có hiệu lực thi hành.

- Đối với lĩnh vực quản lý hành chính, ngoài tiêu chí phân bổ theo dân
số, còn có tiêu chí phân bổ theo đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã và cơ quan
chuyên môn đặc thù. Tiêu chí này phù hợp với công tác quản lý hành chính. Rõ
ràng mỗi địa phương khác nhau lại có một đặc điểm khác nhau, mỗi cơ quan
trong cùng một cấp đơn vị hành chính cũng có những đặc thù riêng. Hơn nữa,
quy định này phù hợp với nguyên tắc phân cấp của hệ thống ngân sách nhà
nước3.
3
Khoản 3 Điều 9 Luật Ngân sách nhà nước 2015: “Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định việc phân cấp
nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách ở địa phương phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế - xã hội, quốc
phòng, an ninh và trình độ quản lý của mỗi cấp trên địa bàn”.
Tiêu chí phân bổ dự toán chi thường xuyên cho đơn vị hành chính cấp tỉnh
cho quốc phòng và an ninh hoàn toàn giống nhau. Điều này cũng dễ hiểu vì hai
lĩnh vực này có nhiều điểm tương đồng và có mối liên hệ chặt chẽ, tác động qua
lại lẫn nhau. Ngoài tiêu chí dân số, còn có tiêu chí bổ sung: các đơn vị hành chính
cấp tỉnh có có biên giới đất liền, có xã đảo hoặc huyện đảo (nhưng không có đơn
vị hành chính xã trực thuộc). Những địa phương trên là những phương được ưu
tiên phân bổ dự toán chi thường xuyên cho quốc phòng, an ninh. Việc đảm bảo
công tác quốc phòng – an ninh cho những khu vực này gặp nhiều khó khăn, trở
ngại lớn nhưng lại có giá trị quan trọng, nếu đảm bảo được sẽ làm cho nhân dân
cả nước an tâm lao động sản xuất, thúc đẩy các mặt của kinh tế - xã hội phát
triển.

- Đối với sự nghiệp bảo vệ môi trường, tiêu chí dân số đã được thu hẹp
đáng kể về phạm vi, song hành với yếu tố mật độ dân số, bên cạnh đó là các tiêu
chí giá trị sản xuất công nghiệp, diện tích khu bảo tồn thiên nhiên và rừng tự
nhiên. Các yếu tố được nêu trong tiêu chí là những yếu tố tác động mạnh mẽ
đến môi trường và cũng bị môi trường tác động ngược trở lại.

Chi sự nghiệp khoa học và công nghệ, chi hoạt động kinh tế, chi thường
xuyên khác là ba mức phân bổ dự toán chi thường xuyên đặc biệt mà tiêu chí
không phải là dân số. Các tiêu chí của ba lĩnh vực này được xác định theo đơn
vị hành chính, hoạt động hỗ trợ sản xuất hay tỷ trọng các khản chi thường
xuyên.

You might also like