Professional Documents
Culture Documents
Chính sách tài khóa (Fiscal policy) là hệ thống các chính sách tài chính đề cập đến việc sử dụng chính sách
thuế và chính sách chi tiêu của chính phủ để tác động đến các điều kiện kinh tế, đặc biệt là nền kinh tế vĩ
mô. Chính sách tài khóa thể hiện quan điểm, cơ chế và phương thức huy động các nguồn lực tài chính hình
thành ngân sách nhà nước để thực hiện các khoản chi cần thiết trong mỗi thời kỳ.
Chính sách này bao gồm tổng cầu về hàng hóa và dịch vụ, việc làm, lạm phát, tăng trưởng kinh tế,…Trong
thời kỳ kinh tế suy thoái, chính phủ có thể tăng chi tiêu hay giảm thuế suất để kích thích nhu cầu và thúc đẩy
các hoạt động kinh tế. Ngược lại, để chống lại lạm phát, chính phủ có thể tăng lãi suất hoặc cắt giảm chi tiêu
để hạ nhiệt nền kinh tế.
3. Thuế
Thuế gồm có hai loại là thuế trực thu và thuế gián thu, cụ thể:
• Thuế trực thu là thuế đánh trực tiếp vào thu nhập, tài sản của người chịu thuế, và người chịu thuế cũng
chính là người nộp thuế. Các loại thuế trực thu như thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp,
thuế thừa kế, thuế tài sản, thuế đất…
• Thuế gián thu là thuế điều tiết gián tiếp thông qua giá hàng hóa và dịch vụ, người chịu thuế không phải
là người nộp thuế. Một số loại thuế gián thu như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế nhập
khẩu, thuế xuất khẩu…
Nếu như chi tiêu chính phủ là chi ra, thì thuế là thu vào nên thuế có tác động ngược lại so với chi tiêu chính
phủ. Nếu thuế tăng thì thu nhập của người dân giảm, họ sẽ giảm chi tiêu, từ đó tổng cầu giảm và GDP cũng
giảm. Nếu thuế giảm thì giá cả hàng hóa dịch vụ giảm, người dân chi tiêu nhiều hơn, tổng cầu tăng và GDP
đều tăng.
4. Tác động của chính sách tài khóa đến nền kinh tế
Chính sách tài khóa là công cụ giúp Chính phủ tác động toàn diện đến nền kinh tế trong mọi trường hợp, từ
đó ổn định lại nền kinh tế đang biến động.
Chính phủ dùng hai công cụ của chính sách tài khóa để phân bổ hiệu quả các nguồn lực của nền kinh tế.
Với chính sách tài khóa, Chính phủ có thể tập trung phát triển một lĩnh vực trọng tâm của quốc gia.
Đây là công cụ hiệu quả giúp phân phối và tái phân phối tổng sản phẩm quốc dân, tạo ra một môi trường an
toàn, ổn định cho đầu tư và tăng trưởng.
Mục tiêu quan trọng nhất của chính sách tài khóa là tăng trưởng và phát triển nền kinh tế.
5. Phân biệt chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
Theo dõi bảng phân tích dưới đây để thấy được sự khác biệt giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ.
Người tạo
Chính phủ Ngân hàng trung ương
chính sách
Bảo đảm thực hiện hiệu quả gói phục hồi kinh tế
Theo luận tại Quốc hội, các đại biểu cho rằng đề án về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ phục hồi và phát
triển kinh tế-xã hội là sự gửi gắm niềm hy vọng của người dân, doanh nghiệp vào một tương lai tốt đẹp hơn
nhưng cần cụ thể, rõ trách nhiệm hơn. Theo các đại biểu, cần làm rõ cam kết đầu ra của đề án, bảo đảm việc
thực hiện theo kết quả đầu ra. Đây là chuẩn mực, kinh nghiệm quốc tế và cũng là yêu cầu bắt buộc trong
phân bổ, chi tiêu ngân sách.
Đại biểu Vũ Thị Lưu Mai, Đoàn ĐBQH thành phố Hà Nội, chỉ rõ nếu không có cam kết về những kết quả
đạt được thì khó có thể có thước đo chính xác để đánh giá hiệu quả sau này. Do đó, cần đưa ra những cam
kết cụ thể, có thể có những sản phẩm hữu hình, có những kết quả vô hình nhưng đều có thể tính toán được.
Theo đại biểu, căn cứ Luật Đầu tư công và các Nghị quyết về phân bổ ngân sách, một trong những nguyên
tắc quan trọng là tất cả nguồn lực được phân bổ phải dựa trên những nguyên tắc, tiêu chí, điều kiện ràng
buộc.
“Lần này, chúng ta phân bổ hơn 346.000 tỷ đồng cho nhiều mục tiêu khác nhau, có những mục tiêu được
phân bổ trực tiếp, có những mục tiêu thông qua các công cụ khác như công cụ thuế, công cụ hỗ trợ lãi suất…
Tuy nhiên, dù trực tiếp hay gián tiếp thì cũng cần nguyên tắc, tiêu chí cụ thể tương ứng với từng gói chính
sách”, đại biểu Vũ Thị Lưu Mai phân tích và đề nghị bổ sung vào dự thảo Nghị quyết những nội dung cụ thể
về nguyên tắc tiêu chí tương ứng với từng gói chính sách.
Liên quan đến danh mục dự án, có ý kiến cho rằng, danh mục dự án cần bao quát mọi lĩnh vực đời sống xã
hội. Tuy nhiên, theo quan điểm của đại biểu, cần tập trung vào hai lĩnh vực cụ thể. Đó là những ngành nghề
bị tác động nhiều nhất bởi dịch bệnh và những ngành nghề có ý nghĩa thúc đẩy tăng trưởng quan trọng nhất.
“Chúng ta không chấp nhận bội chi, không chấp nhận đi vay để đầu tư cho những mục tiêu chưa thực sự cấp
bách”, đại biểu Vũ Thị Lưu Mai nhấn mạnh.
Đại biểu cũng cho rằng, Nghị quyết của Quốc hội là căn cứ pháp lý để thực hiện sau này, vì thế Nghị quyết
cần bổ sung về đối tượng áp dụng chính sách; thời hạn hoàn thành; quy định cụ thể về trách nhiệm, thẩm
quyền và cần quy định cụ thể lộ trình thanh toán nợ gốc; bổ sung những cam kết về sản phẩm đầu ra.
Nhấn mạnh Đề án trình Quốc hội lần này là chủ trương hoàn toàn đúng đắn nhưng đây cũng là công việc hết
sức khó khăn, là thử thách, đòi hỏi trí tuệ và sự quyết tâm, đại biểu Vũ Thị Lưu Mai chỉ rõ cần có những
bước đi thực sự vững chắc, không chịu áp lực bởi bất kỳ mục tiêu tăng trưởng hoặc mục tiêu thành tích. Điều
cốt lõi cần đạt được là yếu tố thực chất và hiệu quả.
Ở một khía cạnh khác, nghiên cứu dự thảo Nghị quyết, đại biểu Đàng Thị Mỹ Hương, Đoàn ĐBQH tỉnh
Ninh Thuận, nhận định việc bố trí nguồn lực khá lớn, quy định thời gian thực hiện khá ngắn, chủ yếu trong
2 năm 2022-2023. Do đó, theo đại biểu, trong triển khai thực hiện cần đưa ra các tiêu chí, nguyên tắc rõ ràng,
quy định thứ tự ưu tiên, các nội dung cụ thể cần làm ngay, nội dung cần triển khai từng bước để đảm bảo tính
khả thi.
Ngoài các giải pháp được quy định tại dự thảo Nghị quyết, đề nghị rà soát, bổ sung giải pháp về cải cách thể
chế, cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; đẩy nhanh việc rà soát, tháo gỡ các rào cản
về thể chế, các quy định pháp luật còn cản trở hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng cường xử lý kịp thời các
công việc trên nền tảng trực tuyến. Bên cạnh đó, quy định chặt chẽ công tác giám sát, kiểm tra, xử lý nghiêm
các sai phạm trong hoạt động đầu tư công, quản lý tài chính nhà nước. "Đây là vấn đề rất quan trọng, không
cần phải tốn nhiều kinh phí để đầu tư nhưng rất cần thiết thực hiện để kịp thời tháo gỡ các nút thắt, điểm
nghẽn. Các giải pháp này phải được triển khai thực hiện ngay", đại biểu nhấn mạnh.
Theo đại biểu Mai Văn Hải, Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa, đây là chương trình có quy mô lớn với gần 350.000
tỷ đồng nên cần quan tâm đến giải pháp. Đồng tình với phương án huy động vốn trình Chính phủ, đại biểu
đề xuất cần phải làm rõ dự kiến nguồn huy động trong nước, nguồn vốn vay nước ngoài là bao nhiêu. Theo
quan điểm của đại biểu, nên huy động nguồn vốn trong nước là chính.
Về hỗ trợ 2%/năm lãi suất thông qua hệ thống các ngân hàng thương mại cho các doanh nghiệp, hợp tác xã,
hộ kinh doanh với giá trị 40.000 tỷ đồng, theo đại biểu, cần hỗ trợ có trọng tâm, trọng điểm, hỗ trợ một số
lĩnh vực phải chịu thiệt hại nặng nề bởi đại dịch như du lịch, vận tải hành khách, dịch vụ nhà hàng, khách
sạn, dịch vụ ăn uống...
Đồng thời, đại biểu đề nghị ngành ngân hàng, nhất là ngân hàng thương mại cần cải cách thủ tục hành chính
để doanh nghiệp và người dân dễ dàng tiếp cận gói chính sách này. Mặt khác, cần kiểm soát chặt chẽ nguồn
vốn cho vay, tránh tình trạng doanh nghiệp, người dân vay không dùng vào mục đích phục hồi sản xuất mà
đem đầu tư tài chính, đầu tư bất động sản và một số lĩnh vực rủi ro khác.
Thảo luận sôi nổi về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ triển khai phục hồi và
phát triển kinh tế - xã hội
04/01/2022
(LĐ online) - Chiều 4/1, Quốc hội tiếp tục chương trình làm việc của kỳ họp bất thường lần thứ nhất để tập
trung thảo luận ở tổ về dự thảo Nghị quyết về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ triển khai Chương trình phục
hồi và phát triển kinh tế - xã hội.
ĐBQH Trần Đình Văn – Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Lâm Đồng phát biểu
góp ý Nghị quyết về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ triển khai phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội
Tại hội trường Văn phòng Đoàn ĐBQH Lâm Đồng, tham gia thảo luận về nội dung quan trọng này, Đại biểu
Trần Đình Văn – Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn ĐBQH khóa XV tỉnh Lâm Đồng đã tập
trung góp ý dự thảo Nghị quyết về giải pháp tài khóa, tiền tệ hỗ trợ chương trình phục hồi và phát triển kinh
tế - xã hội: Các giải pháp tài khoá, tiền tệ để hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội được
đưa vào dự thảo Nghị quyết khá tổng thể, toàn diện, đầy đủ từ quan điểm, mục tiêu, các giải pháp, phương
án huy động nguồn lực, thí điểm cơ chế đặc thù, tổ chức thực hiện và giám sát. Do tính chất cấp bách của
tình hình thực tiễn, đòi hỏi nội dung các cơ chế đặc thù trong dự thảo Nghị quyết cần được quy định cụ thể,
rõ ràng, bảo đảm thi hành được ngay, không phải “chờ” văn bản hướng dẫn thi hành.
Về các giải pháp tài khóa, tiền tệ để hỗ trợ thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội
(Điều 3 của dự thảo Nghị quyết): Về Điều 3 của dự thảo đề nghị Chính phủ cần: (1) Xác định nhu cầu kinh
tế từ doanh nghiệp, người dân, việc làm, lao động để đưa ra khung chính sách cho phù hợp hơn; (2) Cần
lượng hóa, đánh giá tác động thêm về lạm phát và (3) Cần có sự phối hợp tốt hơn nữa giữa giải pháp “tài
khóa” với giải pháp “tiền tệ”.
Đối với giải pháp tài khóa quy định tại khoản 1, Điều 3. Còn có nhiều điểm chưa hợp lý khi quy định mức
giảm thuế giá trị gia tăng (điểm a, khoản 1 của Điều 3). Cụ thể như sau:
Thứ nhất, mức giảm có thể thấp hơn nữa, việc giảm từ 10% xuống còn 9% là chưa thực sự phù hợp, Chính
phủ cần có sự đánh giá lại ở điểm này.
Thứ hai, điều kiện giảm đối với nhóm hàng hóa, dịch vụ đang áp dụng mức thuế suất 10% là thiếu chính xác
bởi vì nhiều ngành dịch vụ ngân hàng hiện nay không áp dụng mức 10%.
Do đó, cân nhắc mở rộng phạm vi và tăng mức giảm, đặc biệt, giảm thuế giá trị gia tăng mạnh hơn cho ngành
dịch vụ, mặt hàng thiết yếu. Bởi vì, làm được điều này, chúng ta vừa kích thích thị trường, vừa hỗ trợ cho cả
cung - cầu, mang lại giá trị cho xã hội rất tốt. Hơn nữa, đây cũng là giải pháp dễ thực hiện hơn so với giải
pháp khác.
Bên cạnh đó, chính sách tài khóa cần xác định rõ đối tượng được ưu tiên vào thời điểm nhất định. Ở giai
đoạn hiện tại, tập trung cho y tế và phát triển kết cấu hạ tầng là nhiệm vụ trọng tâm, cụ thể như sau:
Thứ nhất, chi cho phòng, chống dịch là điều kiện tiên quyết để phục hồi kinh tế và do đó là khoản chi tất yếu.
Tuy nhiên, chi cho phòng, chống dịch cần tính thêm khoản chi cho mua vắc-xin (tới đây không còn được
viện trợ) và mua thuốc chữa trị Covid-19. Khoản chi này nên tách riêng thành một điểm riêng, không nên
nằm trong quy định về chi đầu tư phát triển. Cùng với đó, cần phải tiến tới xã hội hóa tiêm vaccine và điều
trị Covid để giảm gánh nặng cho Ngân sách nhà nước, đồng thời, phải chủ trương xem Covid là một bệnh
đặc hữu, từ đó, cho phép sự vào cuộc của y tế tư nhân.
Thứ hai, đây là thời điểm vàng cho đầu tư vào cơ sở hạ tầng, đặc biệt là kết cấu hạ tầng thiết yếu như giao
thông vận tải. Tận dụng lưu lượng đi lại của khách du lịch và người dân ít, nên tạo đột phá trong kết cấu hạ
tầng. Với định hướng đó, cần xác định tăng đầu tư công tập trung cho phát triển kết cấu hạ tầng, từ đó, có
thể tạo ra công ăn việc làm, tạo ra dịch vụ cho xã hội, cuối cùng, sẽ đạt được đáp ứng mục tiêu kích cầu.
Về cho phép áp dụng chỉ định thầu (khoản 1 Điều 5): Đấu thầu rộng rãi về lý thuyết là hình thức tốt được áp
dụng nhằm lựa chọn nhà thầu có đủ năng lực; tính minh bạch cao và khả năng hấp dẫn nhà đầu tư. Tuy nhiên,
thực tế ở Việt Nam cho thấy việc đấu thầu chưa chắc đã chọn được nhà đầu tư tốt, đấu thầu không phải là
chìa khóa vạn năng. Hiện tượng quân xanh - quân đỏ, sự bất công giữa bên trúng thầu và người thực hiện
thầu là những vấn đề tiêu cực từ “đấu thầu” đã được minh chứng trong thời gian qua. Việc chỉ định thầu trong
một số trường hợp là cần thiết nếu thực sự cần có tư duy mạnh dạn đổi mới, hoàn thành các dự án trọng điểm,
cấp bách. Tuy nhiên, mặt trái của chỉ định thầu là: (1) Tiêu cực (cơ chế xin - cho, lợi ích nhóm); (2) Dễ phát
sinh tình trạng thông thầu; (3) Khó thực hiện (đặc biệt là đối với dự án giao thông từ nhiều nguồn, không rõ
chỉ định thầu như thế nào) và (4) Không công bằng, không bình đẳng trong việc thực hiện dự án đầu tư. Việc
“đấu thầu” hay “chỉ định thầu” đều có ưu điểm và hạn chế, việc lựa chọn hình thức nào phải cân nhắc thật
kỹ.
Trưởng Đoàn ĐBQH Lâm Đồng cũng bày tỏ quan điểm đồng ý với phương án “chỉ định thầu” trong
dự thảo, nhưng không coi là hình thức thay thế “đấu thầu” một cách hoàn toàn. Cụ thể:
(1) Chỉ nên áp dụng đối với một số dự án và phải đưa ra tiêu chí, điều kiện rất cụ thể, phạm vi loại dự án
được áp dụng, giới hạn thời gian áp dụng nhằm hạn chế việc chỉ định thầu tràn lan (việc chỉ định thầu đối
với gói thầu tư vấn, gói thầu phục vụ và gói thầu thực hiện đền bù, giải phóng mặt bằng, tái định cư có thể
khả thi, tuy nhiên, chỉ định thầu xây lắp là không cần thiết). (2) Cho phép chủ đầu tư được quyền chọn: (i)
theo hình thức chỉ định hay (ii) hình thức khác. Việc cho quyền chọn sẽ thúc đẩy hiệu quả và thu hút các nhà
đầu tư có năng lực thực sự. (3) Đối với yêu cầu tiết kiệm 5%, việc xác định 5% là thiếu cơ sở và không cần
thiết. Một mặt, tờ trình chưa thể hiện được các căn cứ để xác định mức 5%, trong khi đó, việc đưa ra một
con số cụ thể như vậy dễ dẫn đến tình trạng: bên tư vấn và nhà đầu tư có thể thiết kế khung chương trình lên
cao để đảm bảo tiết kiệm, đội giá để vừa thỏa mãn điều kiện vừa đảm bảo thu lợi. Do vậy, đề nghị bỏ quy
định cụ thể 5%, trong trường hợp vẫn muốn giữ, đề nghị làm rõ cơ sở để tính toán; cần đưa ra bộ tiêu chí, so
sánh để đối chiếu và phát huy vai trò của các tập đoàn tư nhân trong vấn đề này. (4) Việc thưởng tiến độ là
cần thiết nhằm động viên, thúc đẩy nhà đầu tư hoàn thành sớm dự án, đóng góp cho hiệu quả xã hội. Tuy
nhiên: Việc thưởng phải lấy chất lượng của công trình làm trọng. Việc thưởng là cần thiết nhưng không nên
thưởng ngay, cần phải quy định thời hạn trao thưởng sau khi công trình có thời gian đi vào vận hành. Về xem
xét thưởng tiến độ cho các nhà thầu hoàn thành sớm tiến độ dự án từ 3 tháng trở lên, đây là con số thiếu
chính xác. Bởi lẽ, thời gian để được chỉ định thầu là sớm hơn 6 tháng theo đề xuất trong đề án, như vậy, để
được xem xét thưởng tiến độ, nhà thầu phải hoàn thành sớm tiến độ là 9 tháng (6 tháng đủ điều kiện + 3
tháng như đề xuất của Chính phủ).
Phát huy tinh thần trách nhiệm, trí tuệ, ĐBQH - Tiến sĩ Trịnh Thị Tú Anh phát biểu đề xuất một số
khuyến nghị sau:
Một là, hoạt động điều hành Chính sách tiền tệ nên được tiếp tục triển khai trên cơ sở phối hợp chặt chẽ với
chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác để có thể khắc phục những tác động bất lợi mà dịch
Covid-19 gây ra, hỗ trợ đà phục hồi kinh tế nhằm đảm bảo thực hiện mục tiêu kép của Chính phủ là “vừa
phòng, chống dịch, vừa đảm bảo phát triển kinh tế”. Do các yếu tố về lạm phát, thanh khoản, lợi tức trái
phiếu vẫn đang khá thuận lợi, nên NHNN có thể tiếp tục duy trì ổn định mặt bằng lãi suất phù hợp với cân
đối vĩ mô, lạm phát, tạo điều kiện giảm chi phí vay vốn cho người dân, doanh nghiệp và nền kinh tế.
Hai là, cần tiếp tục vận dụng linh hoạt các công cụ CSTT nhằm đảm bảo và duy trì thanh khoản hệ thống,
đồng bộ các giải pháp tiền tệ, tín dụng, thanh khoản góp phần ổn định thị trường và phục hồi tăng trưởng
trước các tác động khó lường của đại dịch Covid-19. Trong năm 2020, lãi suất cơ bản được Ngân hàng Nhà
nước điều hành linh hoạt trên nền tảng 3 lần giảm lãi suất và lãi suất trong 7 tháng đầu năm 2021 vẫn tiếp
tục duy trì ở mức thấp. Đề nghị Ngân hàng Nhà nước có thể cân nhắc tiếp tục các biện pháp hỗ trợ lãi suất
cho các tổ chức tín dụng để khuyến khích các tổ chức tín dụng cho vay khách hàng hoạt động trong những
lĩnh vực này. Thông qua những kênh truyền dẫn của chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục đóng
vai trò quan trọng thúc đẩy nhanh hơn quá trình phục hồi của nền kinh tế Việt Nam. Dịch bệnh có thể sẽ kéo
dài, đòi hỏi sự chủ động thích nghi thông qua chuyển đổi số, ứng dụng khoa học - công nghệ, là chìa khóa
để phát triển kinh tế trong trạng thái “bình thường mới”. Ngành ngân hàng đã có nhiều giải pháp thúc đẩy
mạnh mẽ chuyển đổi số, hiện đại hóa hệ thống thanh toán và hoạt động ngân hàng, đẩy mạnh áp dụng các
giao dịch “phi tiếp xúc”.
Kết thúc phiên thảo luận buổi chiều, Phó Trưởng Đoàn ĐBQH Nguyễn Tạo tham gia phát biểu: Dự
thảo Nghị quyết gồm 8 Điều, cơ bản cá nhân tôi thống nhất cao với sự cần thiết thực hiện chính sách tài khóa,
tiền tệ để hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển KT-XH đây là chính sách cấp thiết, phù hợp với yêu cầu
thực tiễn. Với những vấn đề đặt ra hiện nay đối với chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ, cùng với những
kinh nghiệm quốc tế, chúng ta thấy rằng: Thứ nhất, các chính sách cần tập trung hướng đến làm thế nào để
hồi phục và phát triển nền kinh tế một cách bền vững trong bối cảnh “sống chung với COVID-19”, điều này
phù hợp với chiến lược mới của Chính phủ là “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-
19” thay vì chiến lược “Zero COVID-19”.
Thứ hai, do dư địa chính sách dần thu hẹp, các chính sách mới cần đưa ra các giải pháp cụ thể hóa, cũng như
nguồn lực ưu tiên đến khu vực doanh nghiệp, tạo điều kiện cho khu vực doanh nghiệp phục hồi và phát triển
trong đại dịch, tạo điều kiện để thu hút thị trường lao động, hỗ trợ an sinh xã hội (thông qua doanh nghiệp),
đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động.
Để đảm bảo mục tiêu của Nghị quyết đã đề ra, Phó Trưởng Đoàn nhận định và đề nghị xem xét cân nhắc
thêm một số vấn đề như sau:
Thứ nhất: Về Quy mô của các chính sách hỗ trợ được ban hành, Theo Tờ trình của Chính phủ, tổng quy mô
hỗ trợ của Chương trình gồm hỗ trợ tài khóa 291.000 tỷ đồng, hỗ trợ tiền tệ khoảng 46.000 tỷ đồng, hỗ trợ
qua các quỹ khác 10.000 tỷ đồng và một số giải pháp hỗ trợ dự kiến triển khai… nhưng chưa được tính toán
cụ thể.
Đề nghị đánh giá tác động cụ thể hơn, đánh giá khả năng hấp thụ của nền kinh tế với các chính sách, đánh
giá nhiều chiều việc thực hiện các chính sách nêu trên đến tăng trưởng kinh tế, cân đối vĩ mô, lạm phát, nợ
xấu, ở đây chưa thể hiện được tác động đến lạm phát cụ thể; chưa có đánh giá đối với tình hình nợ xấu trong
thời gian tới, vì vậy cần tính toán kỹ dư địa chính sách trong thời gian triển khai Chương trình và trong cả
giai đoạn 2021-2025 để làm rõ khả năng ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế và
an ninh tài chính quốc gia.
Thứ hai: Về áp dụng thí điểm một số cơ chế đặc thù, cần cân nhắc kỹ lưỡng, đánh giá tác động cụ thể của
các cơ chế, đồng thời đưa ra phương án cụ thể để thực hiện một cách đồng bộ, kết hợp chặt chẽ giữa trách
nhiệm giám sát của các cơ quan có liên quan, để đảm bảo việc thực hiện các cơ chế đặc thù phải phát huy
hiệu quả tối đa, công khai minh bạch, đảm bảo không phát sinh tiêu cực, không phát sinh hiện tượng “đầu
cơ chính sách”, tham nhũng và lợi ích nhóm.
Thứ ba: Về cách thức triển khai thực hiện, cần rút kinh nghiệm từ việc triển khai các chính sách hỗ trợ trước
đây, đề nghị Chính phủ khi tiến hành triển khai chủ động, linh hoạt tính toán cả về quy mô và thời gian thực
hiện, đảm bảo tính nhanh, gọn, đơn giản, hiệu quả cao, áp dụng tùy theo diễn biến dịch bệnh và tốc độ phục
hồi của nền kinh tế, để tránh trường hợp như một số nước đã bổ sung ngân sách nhiều lần hoặc tung ra các
gói kích thích mới khi nền kinh tế vẫn tiếp tục bị ảnh hưởng xấu bởi dịch bệnh như Nhật Bản, Thái Lan,
Singapore…Mức tăng hỗ trợ hàng tháng của các hộ nghèo, hộ cận nghèo, từ 30% kên 40%, cận nghèo từ 25
– 30%, đối tượng khác từ 10% lên 20%. Gói hỗ trợ khó khăn khác tăng thêm 5%.
Để giải pháp tài khóa, tiền tệ cho công tác hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội phát huy hiệu quả và
đảm bảo được mục tiêu đề ra, Phó Trưởng Đoàn ĐBQH Nguyễn Tạo đề nghị xem xét cân nhắc thêm một số
vấn đề như sau:
Thực tế hiện nay đối tượng bị ảnh hưởng đến thu nhập bởi dịch Covid-19 thực trạng cho thấy đã nghèo còn
tiếp tục nghèo hơn, tuy nhiên theo quy định tại Nghị định 07/2021/NĐ-CP ngày 27/01/2021 của Chính phủ,
quy định về chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2021 – 2025, thì chuẩn nghèo ở nông thôn tăng từ 700.000 đồng
lên 1,5 triệu đồng/tháng (Mức đóng BHXH tự nguyện thấp nhất là 330.000 đồng/ tháng, mức này tăng
176.000 đồng/tháng so với mức đóng BHXH tự nguyện của năm 2021). Đề nghị Quốc hội xem xét tăng mức
hỗ trợ hàng tháng cho các đối tượng chuẩn nghèo, bị ảnh hướng đến thu nhập bởi dịch bệnh Covid-19 theo
phương án như sau: Tăng mức hỗ trợ đóng BHXH tự nguyện, đề xuất 2 Phương án: Phương án 1: tăng 10,
Người thuộc hộ nghèo: từ 30% lên 40%; Người thuộc hộ cận nghèo: từ 25% lên 35%; Người thuộc đối tượng
khác: từ 10% lên 20%. Phương án 2: Tăng 5 %, Người thuộc hộ nghèo: từ 30% lên 35%; Người thuộc hộ
cận nghèo: từ 25% lên 30%; Người thuộc đối tượng khác: từ 10% lên 15%. Và đề nghị mức đóng BHXH tự
nguyện tối thiểu: 20 % x 1.500.000đ = 300.000 đ/tháng.
Đồng thời bổ sung nội dung này, đưa vào Nghị quyết của Quốc hội về giải pháp chính sách tài khóa, tiền tệ
để hỗ trợ cho chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội, để luôn gắn liền với phục hồi phát triển kinh
tế xã hội gắn với công tác nâng cao và đảm bảo tính an sinh xã hội cho Nhân dân.
Ngày 06/01/2022, Quốc hội tiếp tục thảo luận ở tổ về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu
tư công, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Điện lực, Luật
Doanh nghiệp, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Thi hành án dân sự.