You are on page 1of 13

Chính sách tài khóa là gì?

Chính sách tài khóa (Fiscal policy) là hệ thống các chính sách tài chính đề cập đến việc sử dụng chính sách
thuế và chính sách chi tiêu của chính phủ để tác động đến các điều kiện kinh tế, đặc biệt là nền kinh tế vĩ
mô. Chính sách tài khóa thể hiện quan điểm, cơ chế và phương thức huy động các nguồn lực tài chính hình
thành ngân sách nhà nước để thực hiện các khoản chi cần thiết trong mỗi thời kỳ.
Chính sách này bao gồm tổng cầu về hàng hóa và dịch vụ, việc làm, lạm phát, tăng trưởng kinh tế,…Trong
thời kỳ kinh tế suy thoái, chính phủ có thể tăng chi tiêu hay giảm thuế suất để kích thích nhu cầu và thúc đẩy
các hoạt động kinh tế. Ngược lại, để chống lại lạm phát, chính phủ có thể tăng lãi suất hoặc cắt giảm chi tiêu
để hạ nhiệt nền kinh tế.

1. Phân loại chính sách tài khóa


1.1 Chính sách tài khóa mở rộng
Chính sách tài khóa mở rộng (Expansionary Policy) là việc Chính phủ thực hiện tăng chi tiêu chính phủ,
giảm thuế, hay kết hợp cả hai giúp tăng tổng cầu và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chính sách tài khóa mở
rộng được sử dụng khi nền kinh tế suy thoái, tăng trưởng chậm với các ưu điểm:
Tạo cơ hội việc làm cho người lao động, giúp họ có thu nhập ổn định, từ đó sẽ chi nhiều tiền hơn trong tương
lai.
Giảm gánh nặng chi phí cho doanh nghiệp, tạo cơ hội để họ đầu tư và phát triển. Từ đó tạo ra nhiều cơ hội
việc làm hơn cho người lao động giúp phát triển nền kinh tế.
Chính sách tài khóa mở rộng thường được đặc trưng bởi thâm hụt chi tiêu. Điều này xảy ra khi chi tiêu của
chính phủ vượt quá thu từ thuế và các nguồn khác. Trên thực tế, chi tiêu thâm hụt có xu hướng là kết quả của
sự kết hợp giữa cắt giảm thuế và chi tiêu nhiều hơn. Chính sách này thường được kết hợp với chính sách tiền
tệ giúp thực hiện mục tiêu ổn định và phát triển nền kinh tế một cách hiệu quả nhất.
1.2 Chính sách tài khóa thắt chặt
Chính sách tài khóa thắt chặt (Contractionary Policy) là việc Chính phủ thực hiện giảm chi tiêu công, tăng
nguồn thu từ thuế, hay kết hợp cả hai. Những việc này giúp giảm tổng cầu, khiến nền kinh tế không phát
triển quá nóng. Chính sách này được áp dụng để đưa nền kinh tế đang phát triển quá nhanh, thiếu ổn định,
lạm phát cao trở về trạng thái cân bằng và ổn định hơn.
Hiểu đơn giản là khi chính phủ giảm chi tiêu công, tăng thuế, kinh tế sẽ tăng trưởng chậm lại khiến người
dân có ít tiền hơn. Khi cầu giảm, doanh nghiệp sẽ sản xuất hàng hóa ít hơn. Điều này giúp cung cầu được
cân bằng, từ đó giúp kiểm soát lạm phát. Nếu chính sách tài khóa mở rộng liên quan đến thâm hụt chi tiêu
thì chính sách tài khóa thắt chặt được đặc trưng bởi thặng dư ngân sách.
2. Các công cụ của chính sách tài khóa và cách thức hoạt động
2.1 Chi tiêu của chính phủ
Chi tiêu của chính phủ gồm có chi mua hàng hóa dịch vụ và chi chuyển nhượng, cụ thể:
• Chi mua hàng hóa dịch vụ là Chính phủ sử dụng ngân sách đầu tư cho quốc phòng, xây dựng cơ sở hạ
tầng, hay trả tiền lương cho cán bộ nhà nước…
• Chi chuyển nhượng là Chính phủ chi ngân sách trợ cấp những nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội
như người nghèo, người khuyết tật, thương bệnh binh…
Cả hai khoản chi trên tác động trực tiếp hay gián tiếp tới tổng cầu của nền kinh tế. Nếu Chính phủ chi mua
hàng hóa dịch vụ thì cầu hàng hóa tăng, trực tiếp làm tăng tổng cầu. Nếu Chính phủ chi ngân sách trợ cấp xã
hội, thu nhập của người dân tăng thì sẽ mua sắm nhiều hơn, gián tiếp làm tăng tổng cầu.
Chi tiêu chính phủ tăng thì tổng cầu của nền kinh tế tăng, cầu tăng khiến cung tăng từ đó giúp nền kinh tế
từng bước phục hồi và tăng trưởng, đạt được mục tiêu phát triển. Ngược lại, nếu chi tiêu chính phủ giảm thì
tổng cầu giảm, ổn định lại sự phát triển quá nóng của nền kinh tế.

3. Thuế
Thuế gồm có hai loại là thuế trực thu và thuế gián thu, cụ thể:
• Thuế trực thu là thuế đánh trực tiếp vào thu nhập, tài sản của người chịu thuế, và người chịu thuế cũng
chính là người nộp thuế. Các loại thuế trực thu như thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp,
thuế thừa kế, thuế tài sản, thuế đất…
• Thuế gián thu là thuế điều tiết gián tiếp thông qua giá hàng hóa và dịch vụ, người chịu thuế không phải
là người nộp thuế. Một số loại thuế gián thu như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế nhập
khẩu, thuế xuất khẩu…
Nếu như chi tiêu chính phủ là chi ra, thì thuế là thu vào nên thuế có tác động ngược lại so với chi tiêu chính
phủ. Nếu thuế tăng thì thu nhập của người dân giảm, họ sẽ giảm chi tiêu, từ đó tổng cầu giảm và GDP cũng
giảm. Nếu thuế giảm thì giá cả hàng hóa dịch vụ giảm, người dân chi tiêu nhiều hơn, tổng cầu tăng và GDP
đều tăng.

4. Tác động của chính sách tài khóa đến nền kinh tế
Chính sách tài khóa là công cụ giúp Chính phủ tác động toàn diện đến nền kinh tế trong mọi trường hợp, từ
đó ổn định lại nền kinh tế đang biến động.
Chính phủ dùng hai công cụ của chính sách tài khóa để phân bổ hiệu quả các nguồn lực của nền kinh tế.
Với chính sách tài khóa, Chính phủ có thể tập trung phát triển một lĩnh vực trọng tâm của quốc gia.
Đây là công cụ hiệu quả giúp phân phối và tái phân phối tổng sản phẩm quốc dân, tạo ra một môi trường an
toàn, ổn định cho đầu tư và tăng trưởng.
Mục tiêu quan trọng nhất của chính sách tài khóa là tăng trưởng và phát triển nền kinh tế.
5. Phân biệt chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
Theo dõi bảng phân tích dưới đây để thấy được sự khác biệt giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ.

Chính sách tài khóa Chính sách tiền tệ

Liên quan đến việc chính phủ thay đổi thuế


Liên quan đến việc thay đổi lãi suất và
Định nghĩa suất và mức chi tiêu của chính phủ để tác
ảnh hưởng đến cung tiền
động đến tổng cầu trong nền kinh tế

Kiểm soát cung tiền để ảnh hưởng đến


Kiểm soát tổng cầu giúp tăng sản lượng, tăng
Mục đích tăng trưởng kinh tế, tỷ giá hối đoái, dòng
cơ hội việc làm và tăng trưởng kinh tế
tiền, tỷ lệ thất nghiệp, lạm phát,…

Người tạo
Chính phủ Ngân hàng trung ương
chính sách

Công cụ Lãi suất, tỷ giá hối đoái, lãi suất, nghiệp


Thuế và chi tiêu của chính phủ
thực hiện vụ thị trường mở,…
Quốc hội sẽ xem xét vấn đề nhân sự tại kỳ họp khai mạc 22/5
13/5/2023
Theo Tổng thư ký, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Bùi Văn Cường, kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa 15 khai
mạc 22/5 sẽ bàn vấn đề nhân sự trong ngày làm việc đầu tiên.
Báo cáo việc chuẩn bị kỳ họp tại phiên làm việc của Ủy ban Thường vụ Quốc hội sáng 13/5, ông Cường cho
biết Quốc hội sẽ họp tập trung, chia theo hai đợt với tổng thời gian làm việc 22 ngày. Đợt 1 kéo dài 17 ngày
(22/5-10/6); đợt 2 trong 5 ngày (19/6-23/6).
"Quốc hội họp tập trung do dịch bệnh đã được kiểm soát và để đảm bảo điều kiện tiến hành các phiên họp
về nhân sự, biểu quyết các nội dung của kỳ họp", Tổng thư ký Quốc hội nói.
Ông cho hay, Quốc hội nghỉ một tuần giữa hai đợt để các cơ quan có thời gian tiếp thu, chỉnh lý, hoàn thiện
dự thảo luật, nghị quyết sau khi Quốc hội thảo luận các nội dung. Việc này cũng tạo điều kiện cho đại biểu
Quốc hội kiêm nhiệm giải quyết công việc ở bộ, ngành, địa phương.
Theo ông Cường, Chính phủ đề nghị bổ sung một số nội dung vào chương trình kỳ họp như dự thảo Nghị
quyết của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP HCM; giảm thuế VAT; bổ
sung vốn điều lệ cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Agribank).
Riêng việc thực hiện Nghị quyết 43/2022 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ chương trình
phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, Chính phủ gửi tài liệu muộn nên các cơ quan của Quốc hội chưa kịp
thẩm tra. Vì vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội chưa xem xét cho ý kiến, chưa đưa vào dự kiến chương trình
kỳ họp.
Ba dự án Luật Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở; Trật tự, an toàn giao thông đường bộ và
Luật Đường bộ đang chờ xin ý kiến Bộ Chính trị. Sau đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ trình Quốc hội
xem xét, quyết định. Trường hợp bổ sung ba dự án luật này vào chương trình, kỳ họp dự kiến kéo dài thêm
khoảng 5 ngày, kết thúc vào 28/6.
Bộ trưởng Tài chính Hồ Đức Phớc đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, bổ sung vào chương trình
kỳ họp thứ 5 dự thảo Nghị quyết thí điểm việc sử dụng kinh phí chi thường xuyên ngân sách nhà nước để cải
tạo, nâng cấp, mở rộng, xây dựng mới các hạng mục trong các cơ sở, công trình đã có.
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ không đồng ý đề xuất này vì Chính phủ gửi hồ sơ quá muộn, không đủ
thời gian để các cơ quan của Quốc hội thẩm tra, và "không phải cứ vướng mắc là ban hành một nghị quyết
mới "chạy" song song với luật (Luật Ngân sách Nhà nước)". Ông Huệ đề nghị Chính phủ hoàn chỉnh hồ sơ,
nêu rõ "địa chỉ" thí điểm, mục tiêu và trách nhiệm các cơ quan.
"Kỳ họp thứ 5 sẽ không bổ sung nội dung nào nữa. Nếu đủ điều kiện, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ xem
xét, trình Quốc hội việc thí điểm dùng vốn chi thường xuyên này tại kỳ họp thứ 6 vào cuối năm", ông Huệ
nói.
Chủ tịch Quốc hội cũng yêu cầu Tổng thư ký, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội rà soát, đưa ra thời hạn cuối
cùng cho cơ quan trình, thẩm tra những nội dung vừa được bổ sung vào chương trình để đảm bảo thời gian
kỳ họp thứ 5 theo kế hoạch.
Chính sách tài khóa nhắm vào các đối tượng thực sự cần thiết
18/01/2023
(TBTCO) - Trao đổi với phóng viên TBTCVN, GS.TS Tô Trung Thành - Trưởng phòng Quản lý Khoa học
(Đại học Kinh tế Quốc dân) cho rằng, chính sách tài khóa trong giai đoạn tới cần hỗ trợ các đối tượng thực
sự cần thiết. Ưu tiên cao nhất là hỗ trợ những người mất việc làm, kể cả khu vực chính thức và phi chính
thức; tiếp đến, là các hỗ trợ về chi phí đối với doanh nghiệp bị ảnh hưởng…
PV: Năm 2022, các chính sách tài khóa được cho là đã phát huy rất tốt trong việc hỗ trợ doanh nghiệp và
thúc đẩy kinh tế phát triển, ông đánh giá thế nào về vai trò của chính sách này đối với doanh nghiệp và nền
kinh tế phục hồi trong năm 2022?
GS.TS Tô Trung Thành: Trong năm 2022, có thể thấy Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội
được đưa ra từ đầu năm bao gồm một tổ hợp các chính sách tài khóa và tiền tệ nhằm hỗ trợ nền kinh tế sau
ảnh hưởng của dịch Covid-19. Trong đó, chính sách tài khóa là chủ yếu trong các nhóm nhiệm vụ trọng tâm
của chương trình, bao gồm: Thúc đẩy đầu tư công, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng; đảm bảo an sinh xã hội
và hỗ trợ việc làm; miễn giảm thuế, phí, lệ phí.
Tổng quy mô của chương trình lên đến 347 nghìn tỷ đồng, thực hiện trong hai năm 2022 - 2023. Năm 2022,
kết quả giải ngân đầu tư vốn ngân sách nhà nước (NSNN) ước đạt hơn 75% kế hoạch được giao; ước thực
chi gói miễn giảm thuế, tiền thuê đất, phí, lệ phí thực hiện được 78,4% giá trị. Gói gia hạn thời hạn nộp thuế,
tiền thuê đất mới triển khai được khoảng 78,5%...
Kết quả trên cho thấy các chính sách tài khóa hỗ trợ DN và nền kinh tế phục hồi còn chưa đạt được quy mô
giải ngân của Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, nếu nhìn vào con số tuyệt đối,
nguồn lực tài khóa để hỗ trợ nền kinh tế đã gia tăng cao so với năm 2021. Trong năm 2022, ước chi ngân
sách bằng 87,5% dự toán và tăng 8,1% so với năm trước. Chi thường xuyên vẫn tiếp tục là khoản chi chiếm
tỷ trọng lớn nhất trong chi ngân sách, song tỷ trọng này đã giảm xuống mức thấp nhất trong vòng 5 năm qua.
Cùng với đó là chi đầu tư phát triển đạt 82,28%... tăng mạnh so với năm trước, nâng tỷ trọng từ mức 27,81%
trong năm 2021 lên 32,59% trong năm 2022. Những kết quả trên cũng đã góp phần quan trọng trong quá
trình hồi phục của nền kinh tế trong năm 2022.
Chính sách tài khóa thời gian qua đã góp phần hỗ trợ giảm chi phí cho các doanh nghiệp thông qua miễn,
giảm, gia hạn thời hạn nộp thuế, phí, lệ phí.
PV: Nhiều ý kiến cho rằng, trong thời gian qua Bộ Tài chính đã chủ động trong xây dựng và đề xuất những
chính sách tài khóa, đồng thời phối hợp hiệu quả giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ để hỗ trợ
nền kinh tế sớm phục hồi, ông nhận định thế nào về ý kiến trên?
GS.TS Tô Trung Thành: Việc phối hợp chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ là rất quan trọng để đảm bảo
hỗ trợ nền kinh tế sớm phục hồi, đồng thời đảm bảo ổn định về kinh tế vĩ mô. Trong năm 2022, một số động
thái chính sách đã phản ánh sự phối hợp có hiệu quả hơn so với các năm trước. Cụ thể, chính sách tài khóa
hỗ trợ giảm chi phí cho các DN thông qua miễn, giảm, gia hạn thời hạn nộp thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất và
các khoản thu NSNN khác; đồng thời với chính sách tiền tệ tăng cường tín dụng và giảm lãi suất đến các khu
vực sản xuất ưu tiên của nền kinh tế. Chính sách tài khóa đảm bảo an sinh xã hội có gói hỗ trợ gián tiếp cho
DN thông qua chính sách cho vay để trả lương... Các mặt hàng quản lý giá của Nhà nước như giá điện, nước,
dịch vụ y tế.... đã có những điều chỉnh giảm phù hợp với sức ép tăng lạm phát do nới lỏng tiền tệ, nhằm đảm
bảo ổn định giá cả.
Ngoài ra, thị trường trái phiếu Chính phủ phát triển một phần cũng nhờ vào những chính sách tiền tệ, tỷ giá
và lãi suất phù hợp. Trong thời gian sắp tới, việc phối hợp chính sách tài khóa và tiền tệ cần chặt chẽ hơn,
đúng đủ liều lượng và thời điểm, với mục tiêu nền kinh tế phục hồi hoàn toàn, thị trường tài chính tiền tệ
lành mạnh, ngân sách và nợ công bền vững, kinh tế vĩ mô ổn định.
PV: Nhiều tổ chức quốc tế nhận định, năm 2023 nền kinh tế nước ta đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức
từ kinh tế toàn cầu. Để chính sách tài khóa tiếp tục phát huy hiệu quả, cần chú trọng những gì, thưa ông?
GS.TS Tô Trung Thành: Theo tôi, các chính sách nên được thiết kế hướng chủ yếu vào hỗ trợ chi phí thay vì
lợi nhuận. Các chính sách hỗ trợ thông qua giảm mức thu các loại phí, lệ phí có thể thu hẹp đối tượng thụ
hưởng dựa trên mức độ chịu tác động bởi đại dịch. Các chính sách liên quan đến an sinh xã hội phải được
xếp thứ tự ưu tiên hàng đầu. Để đẩy nhanh tiến độ giải ngân các gói hỗ trợ, Chính phủ cần có những đánh
giá kịp thời việc thực hiện chính sách để phát hiện những bất cập, từ đó kịp thời điều chỉnh về điều kiện hỗ
trợ, cũng như cách thức thực hiện các chính sách hỗ trợ này.
Đặc biệt, đối tượng thụ hưởng nên được mở rộng và chú trọng tới nhóm lao động không có giao kết hợp
đồng lao động thuộc khu vực phi chính thức. Trong quá trình thực thi chính sách, các chính sách hỗ trợ cần
rõ ràng và minh bạch về thủ tục, cũng như đối tượng được hưởng các gói chính sách. Ngoài ra, cần có những
giải pháp cả về ngắn hạn và dài hạn để đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công. Về thể chế, đây là vấn đề lâu
dài và luôn phải cải thiện, không chỉ hoàn thiện thể chế của Luật Đầu tư công để tháo gỡ vướng mắc, mà còn
các luật khác có liên quan như Luật Quy hoạch, Luật NSNN, Luật Xây dựng, Luật Đất đai, Luật Bảo vệ môi
trường, Luật Khoáng sản và các luật chuyên ngành khác. Hệ thống pháp luật đồng bộ, rõ ràng, liên tục là
điều kiện tiên quyết để thực hiện dự án đầu tư công thuận lợi.
PV: Xin cảm ơn ông!
Nâng cao trách nhiệm người đứng đầu trong giải ngân vốn đầu tư công
Theo GS.TS Tô Trung Thành, để chính sách tài khóa phát huy hiệu quả tích cực, trong ngắn hạn, cần có
những giải pháp như nâng cao tinh thần trách nhiệm của người đứng đầu các bộ, ngành, địa phương trong
việc giải ngân vốn đầu tư công; tổng hợp phương án cắt giảm vốn của các bộ, ngành có tỷ lệ giải ngân thấp
so với kế hoạch để điều chuyển cho các dự án quan trọng,
Ngoài ra, cần đẩy nhanh tiến độ các dự án có khả năng giải ngân nhanh vốn đầu tư từ nguồn ngân sách trung
ương và các dự án khẩn cấp như ứng phó với biến đổi khí hậu, hay chương trình phục hồi kinh tế; xử lý vấn
đề giải phóng mặt bằng; cải cách thủ tục hành chính...
Quốc hội thảo luận về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ phục hồi và phát
triển kinh tế - xã hội
07/01/2022
(TN&MT) - Tiếp tục chương trình Kỳ họp bất thường lần thứ Nhất, sáng 7/1, dưới sự điều hành của Phó Chủ
tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải, Quốc hội thảo luận trực tuyến về dự thảo Nghị quyết về chính sách tài khóa,
tiền tệ để hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.
Trước đó, tại Phiên khai mạc kỳ họp bất thường của Quốc hội, Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí
Dũng, thừa ủy quyền của Thủ tướng trình bày Tờ trình về dự thảo nghị quyết về chính sách tài khóa, tiền tệ
hỗ trợ triển khai Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.
Đây là những chính sách bổ sung, ngoài khung khổ chính sách tài chính, tiền tệ đã được Quốc hội quyết định
trong kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội; kế hoạch tài chính, kế hoạch vay và trả nợ công, kế hoạch đầu tư
công giai đoạn từ 2021-2025. Tổng giá trị của những chính sách này trong 2 năm tới lên đến gần 350 nghìn
tỷ đồng.
Mục tiêu nhằm khôi phục nhanh chuỗi sản xuất, cung ứng, lao động, thúc đẩy các động lực tăng trưởng, phấn
đấu đạt mục tiêu tăng trưởng bình quân 6,5 - 7%/năm giai đoạn 2021-2025, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô,
bảo đảm các cân đối lớn trong trung và dài hạn. Đồng thời, phục hồi, phát triển nhanh sản xuất kinh doanh,
nhất là ngành, lĩnh vực quan trọng, tiết giảm chi phí, hỗ trợ dòng tiền, bảo đảm tính chủ động, tạo thuận lợi
cho doanh nghiệp, người dân trên cơ sở thực hiện hiệu quả các biện pháp phòng, chống dịch; Bảo đảm an
sinh xã hội và đời sống của người dân, người lao động, nhất là người nghèo, người yếu thế, đối tượng chịu
ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh, góp phần giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội.
Chương trình xác định khung những vấn đề trọng tâm, cần tập trung giải quyết, bao gồm 5 nhóm nhiệm vụ,
giải pháp chủ yếu với quy mô thực hiện dự kiến trong năm 2022-2023 như: Mở cửa nền kinh tế gắn với đầu
tư nâng cao năng lực y tế, phòng, chống dịch bệnh; Bảo đảm an sinh xã hội và hỗ trợ việc làm; Hỗ trợ phục
hồi doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh; Phát triển kết cấu hạ tầng, khơi thông nguồn lực xã hội cho đầu
tư phát triển; Cải cách thể chế, cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Ngoài ra, huy
động từ các Quỹ tài chính ngoài ngân sách Nhà nước.

Nâng tỷ lệ giảm tiền thuê đất cho doanh nghiệp


Đóng góp cho Dự thảo Nghị quyết về giải pháp tài khóa, tiền tệ để hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát
triển kinh tế - xã hội, đại biểu Lê Văn Dũng, Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Nam khẳng định, đây là gói
hỗ trợ hết sức cấp thiết trong bối cảnh hiện nay. Chính phủ đã xây dựng Đề án rất công phu, dự lường kỹ
lưỡng các tình huống, đánh giá khách quan, đầy đủ các mặt hạn chế.
Theo đại biểu Lê Văn Dũng, trước ảnh hưởng nghiêm trọng của đại dịch COVID-19 đến sản xuất, kinh
doanh, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ; trong đó, chính sách giảm 30% tiền thuê đất năm
2021 theo Quyết định 27/2021/QĐ-TTg ngày 25/9/2021 của Thủ tướng Chính phủ đã kịp thời hỗ trợ doanh
nghiệp trong lúc khó khăn. Tuy nhiên, việc giảm tiền thuê đất theo Quyết định 27 chỉ thực hiện đến hết năm
2021, trong khi đại dịch COVID-19 vẫn đang tác động nặng nề, sâu rộng đến nhiều ngành nghề. Khó khăn
nhất vẫn là lĩnh vực du lịch với nhiều doanh nghiệp thua lỗ nghiêm trọng, mất khả năng thanh toán, buộc
phải đóng cửa vì không thể duy trì các chi phí bảo dưỡng cơ sở vật chất, ngành du lịch được dự báo chưa thể
phục hồi trong năm đến.
Đại biểu Lê Văn Dũng cho rằng, nếu không có những chính sách kịp thời, lâu dài và đủ mạnh, đủ hiệu quả
thì rất khó khăn để các doanh nghiệp trên lĩnh vực du lịch tồn tại, duy trì. Do đó, đại biểu đề nghị Quốc hội,
Chính phủ quan tâm, xem xét tiếp tục có cơ chế, chính sách hỗ trợ đối với lĩnh vực du lịch, dịch vụ. Theo đó
đề nghị nâng tỉ lệ giảm tiền thuê đất cho các doanh nghiệp dịch vụ du lịch trong năm 2021 lên 70% và thực
hiện đến hết năm 2023; đồng thời, gia hạn thời gian nộp tiền thuê đất còn lại (30%) thêm 12 tháng.
Cùng với phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội tại các trung tâm kinh tế, các thành phố nơi tập trung nhiều
lao động, việc đẩy mạnh thu hút đầu tư tại các khu vực miền núi, vùng đặc biệt khó khăn cũng rất cần được
quan tâm. Có thể nói, trong khó khăn chung do ảnh hưởng bởi đại dịch, việc xúc tiến đầu tư tại các khu vực
miền núi, vùng đặc biệt khó khăn lại càng khó khăn thêm, trở lực lớn nhất đến từ hiệu quả đầu tư thấp, chính
sách đất đai tại các khu vực này chưa thật sự thu hút, công tác giải phóng, san lấp mặt bằng gặp nhiều trở
ngại do điều kiện tự nhiên, thiên tai và nhiều yếu tố xã hội khác. Đại biểu Lê Văn Dũng đề nghị Quốc hội,
Chính phủ xem xét, miễn 100% tiền cho thuê đất và có giải pháp hỗ trợ giải phóng mặt bằng đối với doanh
nghiệp đầu tư vào miền núi, vùng đặc biệt khó khăn để đẩy mạnh thu hút đầu tư, tạo tiền đề giải quyết lao
động, phát triển kinh tế xã hội tại các khu vực này.
Về thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư đối với dự án xây dựng nhà ở, khu đô thị được quy định tại
Luật Đầu tư năm 2020, đại biểu Lê Văn Dũng thống nhất cao với đề xuất của Chính phủ tại Tờ trình số 573
ngày 27/12/2021 về sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung Điểm g, Khoản 1, Điều 31 Luật Đầu tư năm 2020 quy
định thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư xây dựng nhà ở (để bán, cho thuê,
cho thuê mua), khu đô thị trong trường hợp dự án đầu tư có quy mô sử dụng đất từ 300 ha trở lên hoặc quy
mô dân số từ 50.000 người trở lên.
Đối với các dự án có quy mô sử dụng đất hoặc quy mô dân số thấp hơn so với đô thị loại IV (tương ứng quy
mô sử dụng đất dưới 300 ha hoặc quy mô dân số dưới 50.000 người) thì phân quyền chấp thuận chủ trương
đầu tư cho UBND cấp tỉnh. Việc sửa đổi không chỉ phù hợp chủ trương phân cấp, phân quyền trong công tác
quản lý, mà còn tạo cơ chế thông thoáng để đẩy mạnh thu hút đầu tư, triển khai thực hiện các dự án xây dựng
nhà ở xã hội, đáp ứng cao thực tiễn nhu cầu của người dân, doanh nghiệp.

Bảo đảm thực hiện hiệu quả gói phục hồi kinh tế
Theo luận tại Quốc hội, các đại biểu cho rằng đề án về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ phục hồi và phát
triển kinh tế-xã hội là sự gửi gắm niềm hy vọng của người dân, doanh nghiệp vào một tương lai tốt đẹp hơn
nhưng cần cụ thể, rõ trách nhiệm hơn. Theo các đại biểu, cần làm rõ cam kết đầu ra của đề án, bảo đảm việc
thực hiện theo kết quả đầu ra. Đây là chuẩn mực, kinh nghiệm quốc tế và cũng là yêu cầu bắt buộc trong
phân bổ, chi tiêu ngân sách.
Đại biểu Vũ Thị Lưu Mai, Đoàn ĐBQH thành phố Hà Nội, chỉ rõ nếu không có cam kết về những kết quả
đạt được thì khó có thể có thước đo chính xác để đánh giá hiệu quả sau này. Do đó, cần đưa ra những cam
kết cụ thể, có thể có những sản phẩm hữu hình, có những kết quả vô hình nhưng đều có thể tính toán được.
Theo đại biểu, căn cứ Luật Đầu tư công và các Nghị quyết về phân bổ ngân sách, một trong những nguyên
tắc quan trọng là tất cả nguồn lực được phân bổ phải dựa trên những nguyên tắc, tiêu chí, điều kiện ràng
buộc.
“Lần này, chúng ta phân bổ hơn 346.000 tỷ đồng cho nhiều mục tiêu khác nhau, có những mục tiêu được
phân bổ trực tiếp, có những mục tiêu thông qua các công cụ khác như công cụ thuế, công cụ hỗ trợ lãi suất…
Tuy nhiên, dù trực tiếp hay gián tiếp thì cũng cần nguyên tắc, tiêu chí cụ thể tương ứng với từng gói chính
sách”, đại biểu Vũ Thị Lưu Mai phân tích và đề nghị bổ sung vào dự thảo Nghị quyết những nội dung cụ thể
về nguyên tắc tiêu chí tương ứng với từng gói chính sách.
Liên quan đến danh mục dự án, có ý kiến cho rằng, danh mục dự án cần bao quát mọi lĩnh vực đời sống xã
hội. Tuy nhiên, theo quan điểm của đại biểu, cần tập trung vào hai lĩnh vực cụ thể. Đó là những ngành nghề
bị tác động nhiều nhất bởi dịch bệnh và những ngành nghề có ý nghĩa thúc đẩy tăng trưởng quan trọng nhất.
“Chúng ta không chấp nhận bội chi, không chấp nhận đi vay để đầu tư cho những mục tiêu chưa thực sự cấp
bách”, đại biểu Vũ Thị Lưu Mai nhấn mạnh.
Đại biểu cũng cho rằng, Nghị quyết của Quốc hội là căn cứ pháp lý để thực hiện sau này, vì thế Nghị quyết
cần bổ sung về đối tượng áp dụng chính sách; thời hạn hoàn thành; quy định cụ thể về trách nhiệm, thẩm
quyền và cần quy định cụ thể lộ trình thanh toán nợ gốc; bổ sung những cam kết về sản phẩm đầu ra.
Nhấn mạnh Đề án trình Quốc hội lần này là chủ trương hoàn toàn đúng đắn nhưng đây cũng là công việc hết
sức khó khăn, là thử thách, đòi hỏi trí tuệ và sự quyết tâm, đại biểu Vũ Thị Lưu Mai chỉ rõ cần có những
bước đi thực sự vững chắc, không chịu áp lực bởi bất kỳ mục tiêu tăng trưởng hoặc mục tiêu thành tích. Điều
cốt lõi cần đạt được là yếu tố thực chất và hiệu quả.
Ở một khía cạnh khác, nghiên cứu dự thảo Nghị quyết, đại biểu Đàng Thị Mỹ Hương, Đoàn ĐBQH tỉnh
Ninh Thuận, nhận định việc bố trí nguồn lực khá lớn, quy định thời gian thực hiện khá ngắn, chủ yếu trong
2 năm 2022-2023. Do đó, theo đại biểu, trong triển khai thực hiện cần đưa ra các tiêu chí, nguyên tắc rõ ràng,
quy định thứ tự ưu tiên, các nội dung cụ thể cần làm ngay, nội dung cần triển khai từng bước để đảm bảo tính
khả thi.
Ngoài các giải pháp được quy định tại dự thảo Nghị quyết, đề nghị rà soát, bổ sung giải pháp về cải cách thể
chế, cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; đẩy nhanh việc rà soát, tháo gỡ các rào cản
về thể chế, các quy định pháp luật còn cản trở hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng cường xử lý kịp thời các
công việc trên nền tảng trực tuyến. Bên cạnh đó, quy định chặt chẽ công tác giám sát, kiểm tra, xử lý nghiêm
các sai phạm trong hoạt động đầu tư công, quản lý tài chính nhà nước. "Đây là vấn đề rất quan trọng, không
cần phải tốn nhiều kinh phí để đầu tư nhưng rất cần thiết thực hiện để kịp thời tháo gỡ các nút thắt, điểm
nghẽn. Các giải pháp này phải được triển khai thực hiện ngay", đại biểu nhấn mạnh.
Theo đại biểu Mai Văn Hải, Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa, đây là chương trình có quy mô lớn với gần 350.000
tỷ đồng nên cần quan tâm đến giải pháp. Đồng tình với phương án huy động vốn trình Chính phủ, đại biểu
đề xuất cần phải làm rõ dự kiến nguồn huy động trong nước, nguồn vốn vay nước ngoài là bao nhiêu. Theo
quan điểm của đại biểu, nên huy động nguồn vốn trong nước là chính.
Về hỗ trợ 2%/năm lãi suất thông qua hệ thống các ngân hàng thương mại cho các doanh nghiệp, hợp tác xã,
hộ kinh doanh với giá trị 40.000 tỷ đồng, theo đại biểu, cần hỗ trợ có trọng tâm, trọng điểm, hỗ trợ một số
lĩnh vực phải chịu thiệt hại nặng nề bởi đại dịch như du lịch, vận tải hành khách, dịch vụ nhà hàng, khách
sạn, dịch vụ ăn uống...
Đồng thời, đại biểu đề nghị ngành ngân hàng, nhất là ngân hàng thương mại cần cải cách thủ tục hành chính
để doanh nghiệp và người dân dễ dàng tiếp cận gói chính sách này. Mặt khác, cần kiểm soát chặt chẽ nguồn
vốn cho vay, tránh tình trạng doanh nghiệp, người dân vay không dùng vào mục đích phục hồi sản xuất mà
đem đầu tư tài chính, đầu tư bất động sản và một số lĩnh vực rủi ro khác.
Thảo luận sôi nổi về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ triển khai phục hồi và
phát triển kinh tế - xã hội
04/01/2022
(LĐ online) - Chiều 4/1, Quốc hội tiếp tục chương trình làm việc của kỳ họp bất thường lần thứ nhất để tập
trung thảo luận ở tổ về dự thảo Nghị quyết về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ triển khai Chương trình phục
hồi và phát triển kinh tế - xã hội.
ĐBQH Trần Đình Văn – Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Lâm Đồng phát biểu
góp ý Nghị quyết về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ triển khai phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội
Tại hội trường Văn phòng Đoàn ĐBQH Lâm Đồng, tham gia thảo luận về nội dung quan trọng này, Đại biểu
Trần Đình Văn – Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn ĐBQH khóa XV tỉnh Lâm Đồng đã tập
trung góp ý dự thảo Nghị quyết về giải pháp tài khóa, tiền tệ hỗ trợ chương trình phục hồi và phát triển kinh
tế - xã hội: Các giải pháp tài khoá, tiền tệ để hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội được
đưa vào dự thảo Nghị quyết khá tổng thể, toàn diện, đầy đủ từ quan điểm, mục tiêu, các giải pháp, phương
án huy động nguồn lực, thí điểm cơ chế đặc thù, tổ chức thực hiện và giám sát. Do tính chất cấp bách của
tình hình thực tiễn, đòi hỏi nội dung các cơ chế đặc thù trong dự thảo Nghị quyết cần được quy định cụ thể,
rõ ràng, bảo đảm thi hành được ngay, không phải “chờ” văn bản hướng dẫn thi hành.
Về các giải pháp tài khóa, tiền tệ để hỗ trợ thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội
(Điều 3 của dự thảo Nghị quyết): Về Điều 3 của dự thảo đề nghị Chính phủ cần: (1) Xác định nhu cầu kinh
tế từ doanh nghiệp, người dân, việc làm, lao động để đưa ra khung chính sách cho phù hợp hơn; (2) Cần
lượng hóa, đánh giá tác động thêm về lạm phát và (3) Cần có sự phối hợp tốt hơn nữa giữa giải pháp “tài
khóa” với giải pháp “tiền tệ”.
Đối với giải pháp tài khóa quy định tại khoản 1, Điều 3. Còn có nhiều điểm chưa hợp lý khi quy định mức
giảm thuế giá trị gia tăng (điểm a, khoản 1 của Điều 3). Cụ thể như sau:
Thứ nhất, mức giảm có thể thấp hơn nữa, việc giảm từ 10% xuống còn 9% là chưa thực sự phù hợp, Chính
phủ cần có sự đánh giá lại ở điểm này.
Thứ hai, điều kiện giảm đối với nhóm hàng hóa, dịch vụ đang áp dụng mức thuế suất 10% là thiếu chính xác
bởi vì nhiều ngành dịch vụ ngân hàng hiện nay không áp dụng mức 10%.
Do đó, cân nhắc mở rộng phạm vi và tăng mức giảm, đặc biệt, giảm thuế giá trị gia tăng mạnh hơn cho ngành
dịch vụ, mặt hàng thiết yếu. Bởi vì, làm được điều này, chúng ta vừa kích thích thị trường, vừa hỗ trợ cho cả
cung - cầu, mang lại giá trị cho xã hội rất tốt. Hơn nữa, đây cũng là giải pháp dễ thực hiện hơn so với giải
pháp khác.
Bên cạnh đó, chính sách tài khóa cần xác định rõ đối tượng được ưu tiên vào thời điểm nhất định. Ở giai
đoạn hiện tại, tập trung cho y tế và phát triển kết cấu hạ tầng là nhiệm vụ trọng tâm, cụ thể như sau:
Thứ nhất, chi cho phòng, chống dịch là điều kiện tiên quyết để phục hồi kinh tế và do đó là khoản chi tất yếu.
Tuy nhiên, chi cho phòng, chống dịch cần tính thêm khoản chi cho mua vắc-xin (tới đây không còn được
viện trợ) và mua thuốc chữa trị Covid-19. Khoản chi này nên tách riêng thành một điểm riêng, không nên
nằm trong quy định về chi đầu tư phát triển. Cùng với đó, cần phải tiến tới xã hội hóa tiêm vaccine và điều
trị Covid để giảm gánh nặng cho Ngân sách nhà nước, đồng thời, phải chủ trương xem Covid là một bệnh
đặc hữu, từ đó, cho phép sự vào cuộc của y tế tư nhân.
Thứ hai, đây là thời điểm vàng cho đầu tư vào cơ sở hạ tầng, đặc biệt là kết cấu hạ tầng thiết yếu như giao
thông vận tải. Tận dụng lưu lượng đi lại của khách du lịch và người dân ít, nên tạo đột phá trong kết cấu hạ
tầng. Với định hướng đó, cần xác định tăng đầu tư công tập trung cho phát triển kết cấu hạ tầng, từ đó, có
thể tạo ra công ăn việc làm, tạo ra dịch vụ cho xã hội, cuối cùng, sẽ đạt được đáp ứng mục tiêu kích cầu.
Về cho phép áp dụng chỉ định thầu (khoản 1 Điều 5): Đấu thầu rộng rãi về lý thuyết là hình thức tốt được áp
dụng nhằm lựa chọn nhà thầu có đủ năng lực; tính minh bạch cao và khả năng hấp dẫn nhà đầu tư. Tuy nhiên,
thực tế ở Việt Nam cho thấy việc đấu thầu chưa chắc đã chọn được nhà đầu tư tốt, đấu thầu không phải là
chìa khóa vạn năng. Hiện tượng quân xanh - quân đỏ, sự bất công giữa bên trúng thầu và người thực hiện
thầu là những vấn đề tiêu cực từ “đấu thầu” đã được minh chứng trong thời gian qua. Việc chỉ định thầu trong
một số trường hợp là cần thiết nếu thực sự cần có tư duy mạnh dạn đổi mới, hoàn thành các dự án trọng điểm,
cấp bách. Tuy nhiên, mặt trái của chỉ định thầu là: (1) Tiêu cực (cơ chế xin - cho, lợi ích nhóm); (2) Dễ phát
sinh tình trạng thông thầu; (3) Khó thực hiện (đặc biệt là đối với dự án giao thông từ nhiều nguồn, không rõ
chỉ định thầu như thế nào) và (4) Không công bằng, không bình đẳng trong việc thực hiện dự án đầu tư. Việc
“đấu thầu” hay “chỉ định thầu” đều có ưu điểm và hạn chế, việc lựa chọn hình thức nào phải cân nhắc thật
kỹ.
Trưởng Đoàn ĐBQH Lâm Đồng cũng bày tỏ quan điểm đồng ý với phương án “chỉ định thầu” trong
dự thảo, nhưng không coi là hình thức thay thế “đấu thầu” một cách hoàn toàn. Cụ thể:
(1) Chỉ nên áp dụng đối với một số dự án và phải đưa ra tiêu chí, điều kiện rất cụ thể, phạm vi loại dự án
được áp dụng, giới hạn thời gian áp dụng nhằm hạn chế việc chỉ định thầu tràn lan (việc chỉ định thầu đối
với gói thầu tư vấn, gói thầu phục vụ và gói thầu thực hiện đền bù, giải phóng mặt bằng, tái định cư có thể
khả thi, tuy nhiên, chỉ định thầu xây lắp là không cần thiết). (2) Cho phép chủ đầu tư được quyền chọn: (i)
theo hình thức chỉ định hay (ii) hình thức khác. Việc cho quyền chọn sẽ thúc đẩy hiệu quả và thu hút các nhà
đầu tư có năng lực thực sự. (3) Đối với yêu cầu tiết kiệm 5%, việc xác định 5% là thiếu cơ sở và không cần
thiết. Một mặt, tờ trình chưa thể hiện được các căn cứ để xác định mức 5%, trong khi đó, việc đưa ra một
con số cụ thể như vậy dễ dẫn đến tình trạng: bên tư vấn và nhà đầu tư có thể thiết kế khung chương trình lên
cao để đảm bảo tiết kiệm, đội giá để vừa thỏa mãn điều kiện vừa đảm bảo thu lợi. Do vậy, đề nghị bỏ quy
định cụ thể 5%, trong trường hợp vẫn muốn giữ, đề nghị làm rõ cơ sở để tính toán; cần đưa ra bộ tiêu chí, so
sánh để đối chiếu và phát huy vai trò của các tập đoàn tư nhân trong vấn đề này. (4) Việc thưởng tiến độ là
cần thiết nhằm động viên, thúc đẩy nhà đầu tư hoàn thành sớm dự án, đóng góp cho hiệu quả xã hội. Tuy
nhiên: Việc thưởng phải lấy chất lượng của công trình làm trọng. Việc thưởng là cần thiết nhưng không nên
thưởng ngay, cần phải quy định thời hạn trao thưởng sau khi công trình có thời gian đi vào vận hành. Về xem
xét thưởng tiến độ cho các nhà thầu hoàn thành sớm tiến độ dự án từ 3 tháng trở lên, đây là con số thiếu
chính xác. Bởi lẽ, thời gian để được chỉ định thầu là sớm hơn 6 tháng theo đề xuất trong đề án, như vậy, để
được xem xét thưởng tiến độ, nhà thầu phải hoàn thành sớm tiến độ là 9 tháng (6 tháng đủ điều kiện + 3
tháng như đề xuất của Chính phủ).
Phát huy tinh thần trách nhiệm, trí tuệ, ĐBQH - Tiến sĩ Trịnh Thị Tú Anh phát biểu đề xuất một số
khuyến nghị sau:
Một là, hoạt động điều hành Chính sách tiền tệ nên được tiếp tục triển khai trên cơ sở phối hợp chặt chẽ với
chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác để có thể khắc phục những tác động bất lợi mà dịch
Covid-19 gây ra, hỗ trợ đà phục hồi kinh tế nhằm đảm bảo thực hiện mục tiêu kép của Chính phủ là “vừa
phòng, chống dịch, vừa đảm bảo phát triển kinh tế”. Do các yếu tố về lạm phát, thanh khoản, lợi tức trái
phiếu vẫn đang khá thuận lợi, nên NHNN có thể tiếp tục duy trì ổn định mặt bằng lãi suất phù hợp với cân
đối vĩ mô, lạm phát, tạo điều kiện giảm chi phí vay vốn cho người dân, doanh nghiệp và nền kinh tế.
Hai là, cần tiếp tục vận dụng linh hoạt các công cụ CSTT nhằm đảm bảo và duy trì thanh khoản hệ thống,
đồng bộ các giải pháp tiền tệ, tín dụng, thanh khoản góp phần ổn định thị trường và phục hồi tăng trưởng
trước các tác động khó lường của đại dịch Covid-19. Trong năm 2020, lãi suất cơ bản được Ngân hàng Nhà
nước điều hành linh hoạt trên nền tảng 3 lần giảm lãi suất và lãi suất trong 7 tháng đầu năm 2021 vẫn tiếp
tục duy trì ở mức thấp. Đề nghị Ngân hàng Nhà nước có thể cân nhắc tiếp tục các biện pháp hỗ trợ lãi suất
cho các tổ chức tín dụng để khuyến khích các tổ chức tín dụng cho vay khách hàng hoạt động trong những
lĩnh vực này. Thông qua những kênh truyền dẫn của chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục đóng
vai trò quan trọng thúc đẩy nhanh hơn quá trình phục hồi của nền kinh tế Việt Nam. Dịch bệnh có thể sẽ kéo
dài, đòi hỏi sự chủ động thích nghi thông qua chuyển đổi số, ứng dụng khoa học - công nghệ, là chìa khóa
để phát triển kinh tế trong trạng thái “bình thường mới”. Ngành ngân hàng đã có nhiều giải pháp thúc đẩy
mạnh mẽ chuyển đổi số, hiện đại hóa hệ thống thanh toán và hoạt động ngân hàng, đẩy mạnh áp dụng các
giao dịch “phi tiếp xúc”.
Kết thúc phiên thảo luận buổi chiều, Phó Trưởng Đoàn ĐBQH Nguyễn Tạo tham gia phát biểu: Dự
thảo Nghị quyết gồm 8 Điều, cơ bản cá nhân tôi thống nhất cao với sự cần thiết thực hiện chính sách tài khóa,
tiền tệ để hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển KT-XH đây là chính sách cấp thiết, phù hợp với yêu cầu
thực tiễn. Với những vấn đề đặt ra hiện nay đối với chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ, cùng với những
kinh nghiệm quốc tế, chúng ta thấy rằng: Thứ nhất, các chính sách cần tập trung hướng đến làm thế nào để
hồi phục và phát triển nền kinh tế một cách bền vững trong bối cảnh “sống chung với COVID-19”, điều này
phù hợp với chiến lược mới của Chính phủ là “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-
19” thay vì chiến lược “Zero COVID-19”.
Thứ hai, do dư địa chính sách dần thu hẹp, các chính sách mới cần đưa ra các giải pháp cụ thể hóa, cũng như
nguồn lực ưu tiên đến khu vực doanh nghiệp, tạo điều kiện cho khu vực doanh nghiệp phục hồi và phát triển
trong đại dịch, tạo điều kiện để thu hút thị trường lao động, hỗ trợ an sinh xã hội (thông qua doanh nghiệp),
đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động.
Để đảm bảo mục tiêu của Nghị quyết đã đề ra, Phó Trưởng Đoàn nhận định và đề nghị xem xét cân nhắc
thêm một số vấn đề như sau:
Thứ nhất: Về Quy mô của các chính sách hỗ trợ được ban hành, Theo Tờ trình của Chính phủ, tổng quy mô
hỗ trợ của Chương trình gồm hỗ trợ tài khóa 291.000 tỷ đồng, hỗ trợ tiền tệ khoảng 46.000 tỷ đồng, hỗ trợ
qua các quỹ khác 10.000 tỷ đồng và một số giải pháp hỗ trợ dự kiến triển khai… nhưng chưa được tính toán
cụ thể.
Đề nghị đánh giá tác động cụ thể hơn, đánh giá khả năng hấp thụ của nền kinh tế với các chính sách, đánh
giá nhiều chiều việc thực hiện các chính sách nêu trên đến tăng trưởng kinh tế, cân đối vĩ mô, lạm phát, nợ
xấu, ở đây chưa thể hiện được tác động đến lạm phát cụ thể; chưa có đánh giá đối với tình hình nợ xấu trong
thời gian tới, vì vậy cần tính toán kỹ dư địa chính sách trong thời gian triển khai Chương trình và trong cả
giai đoạn 2021-2025 để làm rõ khả năng ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế và
an ninh tài chính quốc gia.
Thứ hai: Về áp dụng thí điểm một số cơ chế đặc thù, cần cân nhắc kỹ lưỡng, đánh giá tác động cụ thể của
các cơ chế, đồng thời đưa ra phương án cụ thể để thực hiện một cách đồng bộ, kết hợp chặt chẽ giữa trách
nhiệm giám sát của các cơ quan có liên quan, để đảm bảo việc thực hiện các cơ chế đặc thù phải phát huy
hiệu quả tối đa, công khai minh bạch, đảm bảo không phát sinh tiêu cực, không phát sinh hiện tượng “đầu
cơ chính sách”, tham nhũng và lợi ích nhóm.
Thứ ba: Về cách thức triển khai thực hiện, cần rút kinh nghiệm từ việc triển khai các chính sách hỗ trợ trước
đây, đề nghị Chính phủ khi tiến hành triển khai chủ động, linh hoạt tính toán cả về quy mô và thời gian thực
hiện, đảm bảo tính nhanh, gọn, đơn giản, hiệu quả cao, áp dụng tùy theo diễn biến dịch bệnh và tốc độ phục
hồi của nền kinh tế, để tránh trường hợp như một số nước đã bổ sung ngân sách nhiều lần hoặc tung ra các
gói kích thích mới khi nền kinh tế vẫn tiếp tục bị ảnh hưởng xấu bởi dịch bệnh như Nhật Bản, Thái Lan,
Singapore…Mức tăng hỗ trợ hàng tháng của các hộ nghèo, hộ cận nghèo, từ 30% kên 40%, cận nghèo từ 25
– 30%, đối tượng khác từ 10% lên 20%. Gói hỗ trợ khó khăn khác tăng thêm 5%.
Để giải pháp tài khóa, tiền tệ cho công tác hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội phát huy hiệu quả và
đảm bảo được mục tiêu đề ra, Phó Trưởng Đoàn ĐBQH Nguyễn Tạo đề nghị xem xét cân nhắc thêm một số
vấn đề như sau:
Thực tế hiện nay đối tượng bị ảnh hưởng đến thu nhập bởi dịch Covid-19 thực trạng cho thấy đã nghèo còn
tiếp tục nghèo hơn, tuy nhiên theo quy định tại Nghị định 07/2021/NĐ-CP ngày 27/01/2021 của Chính phủ,
quy định về chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2021 – 2025, thì chuẩn nghèo ở nông thôn tăng từ 700.000 đồng
lên 1,5 triệu đồng/tháng (Mức đóng BHXH tự nguyện thấp nhất là 330.000 đồng/ tháng, mức này tăng
176.000 đồng/tháng so với mức đóng BHXH tự nguyện của năm 2021). Đề nghị Quốc hội xem xét tăng mức
hỗ trợ hàng tháng cho các đối tượng chuẩn nghèo, bị ảnh hướng đến thu nhập bởi dịch bệnh Covid-19 theo
phương án như sau: Tăng mức hỗ trợ đóng BHXH tự nguyện, đề xuất 2 Phương án: Phương án 1: tăng 10,
Người thuộc hộ nghèo: từ 30% lên 40%; Người thuộc hộ cận nghèo: từ 25% lên 35%; Người thuộc đối tượng
khác: từ 10% lên 20%. Phương án 2: Tăng 5 %, Người thuộc hộ nghèo: từ 30% lên 35%; Người thuộc hộ
cận nghèo: từ 25% lên 30%; Người thuộc đối tượng khác: từ 10% lên 15%. Và đề nghị mức đóng BHXH tự
nguyện tối thiểu: 20 % x 1.500.000đ = 300.000 đ/tháng.
Đồng thời bổ sung nội dung này, đưa vào Nghị quyết của Quốc hội về giải pháp chính sách tài khóa, tiền tệ
để hỗ trợ cho chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội, để luôn gắn liền với phục hồi phát triển kinh
tế xã hội gắn với công tác nâng cao và đảm bảo tính an sinh xã hội cho Nhân dân.
Ngày 06/01/2022, Quốc hội tiếp tục thảo luận ở tổ về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu
tư công, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Điện lực, Luật
Doanh nghiệp, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Thi hành án dân sự.

You might also like