You are on page 1of 17

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH

BÀI THẢO LUẬṆ

Môn: Kinh tế vĩ mô 1

̣
Đề tài: Phân tích chính sách tài khoá Việt Nam trong
giai đoạn 2015 – 2019 và giai đoạn 2020 – 2021

Nhóm: 2
Lớp học phần: 2209MAEC0111

Giáo viên hướng dẫn: Lương Nguyệt Ánh

̣
Hà Nội, ngày 19 tháng 3 năm 2022

1
LỜI MỞ ĐẦU
Chính sách tài khoá là một công cụ quan trọng trong việc điều hành chính sách
kinh tế của Nhà nước, có ảnh hưởng rất mạnh đến sự cân bằng vĩ mô của nền kinh tế
và tác động trực tiếp đến phương châm hoạt động của hệ thống ngân sách cũng như hỗ
trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Trong thời gian qua, chính sách tài khóa đã
đóng góp không nhỏ được nhận định là “điểm tựa” tốt cho tăng trưởng kinh tế. Tuy
nhiên, kinh tế toàn cầu vẫn còn đối mặt với nhiều rủi ro, bất ổn do chủ nghĩa bảo hộ
mậu dịch gia tăng, căng thẳng thương mại giữa Hoa Kỳ với một số nền kinh tế lớn,
nhiều quốc gia chuyển sang áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt và điều chỉnh chính
sách ưu đãi thuế, từ đó tác động đến tài chính toàn cầu và sự luân chuyển các dòng vốn
đầu tư quốc tế… 
Và đặc biệt, đại dịch COVID-19 hiện nay đang đặt ra những thách thức chưa từng
có tiền lệ và những khó khăn vô cùng to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế. Trong thời
gian quan Chính phủ đã có những bước đi kiên quyết và đúng đắn, kiềm chế sự lây lan
bùng phát của đại dịch COVID-19. Đó là thành quả rất đáng tự hào. Tuy nhiên, để có
thể chiến thắng dịch bệnh trên cả hai mặt trận y tế và kinh tế, ngay từ bây giờ, bên
cạnh việc hạn chế dịch bệnh, cần có những chính sách hợp lý nhằm: tăng cường khả
năng chịu đựng của nền kinh tế; chuẩn bị đủ năng lực ứng phó khi dịch bệnh kéo dài
từ đó tăng cường tiềm lực để phục hồi kinh tế nhanh chóng ngay khi dịch bệnh được
khống chế, không để nền kinh tế rơi vào suy thoái. Trong nước, quá trình cơ cấu lại
nền kinh tế và đầu tư công còn chậm và chưa rõ nét; giải ngân vốn đầu tư công chậm;
tình hình thiên tai, bão lũ, dịch bệnh diễn biến phức tạp… tác động không nhỏ đến việc
thực hiện chính sách tài khóa hướng tới mục tiêu tăng trưởng bền vững. Bài thảo luận:
“Phân tích chính sách tài khóa Việt Nam trong giai đoạn 2015 – 2019 và giai đoạn
2020 – 2021” dưới đây tổng hợp các lý thuyết về chính sách tài khóa với tăng trưởng
kinh tế từ đó đánh giá thực trạng chính sách tài khóa của Việt Nam và đưa ra các gợi ý
tăng cường hiệu quả của chính sách tài khóa nhằm hướng tới mục tiêu tăng trưởng bền
vững.

2
I. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1. Khái niệm, công cụ và phân loại của chính sách tài khóa
1.1. Khái niệm

Chính sách tài khóa là việc Chính phủ sử dụng thuế và chỉ tiêu công để điều
tiết mức chi tiêu chung của nền kinh tế. Chi tiêu công hay chi tiêu của Chính phủ là
một bộ phận cấu thành nên tổng cầu của nền kinh tế. Bên cạnh đó thuế ảnh hưởng
lớn đến chi tiêu của các hộ gia đình và hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. Do đó,
quyết định về chi tiêu công và thuế của Chính phủ có tác động đến chi tiêu chung
của nền kinh tế. Đến lượt nó, sự thay đổi trong chi tiêu chung lại tác động làm thay
đổi tổng cầu, từ đó tác động đến sản lượng, việc làm và giá cả của nền kinh tế.

1.2. Các công cụ của chính sách tài khóa

Để thực hiện chính sách tài khóa, Chính phủ sử dụng hai công cụ là chi tiêu của
Chính phủ và thuế.

- Chi tiêu của Chính phủ (G): Sự thay đổi trong chi tiêu của Chính phủ ảnh
hưởng trực tiếp đến tổng chi tiêu của toàn xã hội, vì G là một bộ phận của tổng
chi tiêu.
- Thuế (T): Là hình thức chủ yếu của thu ngân sách nhà nước. Thuế là nguồn thu
bắt buộc để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Khi Chính phủ tăng thuế
hay giảm thuế, chẳng hạn như thuế thu nhập cá nhân hay thuế thu nhập doanh
nghiệp sẽ tác động đến thu nhập của người dân và doanh nghiệp dẫn đến sự
thay đổi của chi tiêu cho tiêu dùng và cho đầu tư. Kết quả là tổng cầu, sản
lượng, việc làm và giá cả thay đổi.

1.3. Phân loại chính sách tài khóa

Khi chính phủ lựa chọn giữ mục tiêu về sản lượng là giữ cho nền kinh tế luôn
đạt mức sản lượng tiềm năng và mục tiêu đảm bảo ngân sách luôn cân bằng thì
Chính phủ sẽ áp dụng các chính sách tài khóa khác nhau.

 Chính sách tài khóa cùng chiều


- Là chính sách mà khi mục tiêu của Chính phủ là luôn đạt được ngân sách cân
bằng (B = 0) bất kể sản lượng có thay đổi như thế nào.
- Khi nền kinh tế suy thoái, ngân sách bị thâm hụt, Chính phủ có thể sử dụng
chính sách tài khóa cùng chiều với chu kỳ kinh tế với mục tiêu giữ cho ngân
sách cân bằng. Tuy nhiên, việc sử dụng chính sách tài khóa thu hẹp sẽ khiến
cho sản lượng cân bằng giảm đi và nền kinh tế đang vận hành ở mức sản lượng
thấp dưới mức sản lượng tiềm năng có thể bị suy thoái trầm trọng hơn. Việc sử
3
dụng chính sách tài khóa cùng chiều giúp giảm được thâm hụt, giữ cân bằng
ngân sách trong ngắn hạn. Tuy nhiên, trong dài hạn, ngân sách vẫn bị mất cân
bằng do việc giảm sản lượng sẽ khiến cho nguồn thu từ thuế giảm theo khi thuế
là một hàm của thu nhập.
 Chính sách tài khóa ngược chiều
- Là chính sách mà khi mục tiêu của Chính phủ là luôn đạt mức sản lượng cân
bằng ở mức sản lượng tiềm năng (Y=Y*) và mức việc làm đầy đủ bất kể ngân
sách bị thâm hụt như thế nào.
- Khi nền kinh tế bị suy thoái, với mục tiêu giữ cho nền kinh tế luôn ở mức sản
lượng tiềm năng và thực hiện việc làm đầy đủ, Chính phủ thực hiện chính sách
tài khóa mở rộng. Nói cách khác, chính sách tài khóa ngược chiều với chu kì
kinh tế được thực hiện để giữ chi tiêu của nền kinh tế ở mức cao, sản lượng
tăng lên đến mức sản lượng tiềm năng, nhưng ngân sách có thể bị thâm hụt và
đó là thâm hụt ngân sách cơ cấu. Việc Chính phủ sử dụng chính sách tài khóa
ngược chiều thông qua biện pháp tăng chi tiêu hoặc giảm thuế hoặc kết hợp cả
2 biện pháp trên khi nền kinh tế hoạt động ở mức sản lượng thấp sẽ làm cho
tổng cầu AD tăng, sản lượng cân bằng của nền kinh tế cũng tăng theo mô hình
số nhân. Kết quả là nền kinh tế sẽ hướng tới mức sản lượng tiềm năng và thoát
khỏi tình trạng suy thoái, nhưng ngân sách Chính phủ có thể bị thâm hụt trong
ngắn hạn. Tuy nhiên, trong dài hạn việc gia tăng sản lượng sẽ giúp cho nguồn
thu thuế của Chính phủ gia tăng và hạn chế được thâm hụt ngân sách do thuế là
một hàm của thu nhập.
1.4. Chính sách tài khoá biểu hiện như thế nào?

Việc cố gắng đưa sản lượng thực tế đến gần nhất với mức sản lượng tiềm năng,
ổn định giá cả và giảm thiểu thất nghiệp là mục tiêu hướng đến của các quốc gia.
Cơ chế tác động của chính sách tài khóa trong 2 trường hợp cụ thể như sau:

Trường hợp 1: Nền kinh tế vận hành dưới mức sản lượng tiềm năng, thất
nghiệp trong nền kinh tế gia tăng (dấu hiệu của nền kinh tế suy thoái)

Khi nền kinh tế đang vận hành ở mức sản lượng thấp, tỷ lệ thất nghiệp cao,
chính sách tài khóa mở rộng được sử dụng nhằm thúc đẩy gia tăng sản lượng và
giảm tỷ lệ thất nghiệp. Công cụ được sử dụng là tăng chi tiêu Chính phủ, giảm thuế
hoặc kết hợp vừa tăng chi tiêu vừa giảm thuế. Tổng cầu tăng, đến lượt nó khiến các
doanh nghiệp sản xuất và cung ứng nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn để đáp ứng nhu
cầu đang tăng lên, dẫn đến sản lượng tăng. Để tăng sản lượng, doanh nghiệp phải
có xu hướng huy động và sử dụng nhiều nguồn lực hơn, trong đó có nguồn lao
động, khiến cho thất nghiệp có xu hướng giảm.

4
0 Y

Giả định ban đầu nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng ngắn hạn tại điểm E1(giao
của đường AD 1 và đường ASS ) với mức sản lượng giá chung P1 và mức sản lượng cân
bằng Y 1 (Y 1 <Y*). Tại trạng thái cân bằng E1 nền kinh tế trong tình trạng suy thoái,
sản lượng thấp, thất nghiệp gia tăng. Với mục tiêu ổn định nền kinh tế, Chính phủ cần
sử dụng chính sách tài khóa mở rộng để làm tăng tổng cầu thì thông qua mô hình số
nhân, sản lượng cân bằng tăng và thất nghiệp sẽ giảm. Sự tăng của tổng cầu được minh
họa bằng sự dịch chuyển của đường tổng cầu sang phải tới vị trí đường AD 2. Nền kinh
tế đạt trạng thái cân bằng dài tại điểm E với mức sản lượng cân bằng đạt mức sản
lượng tiềm năng Y* và mức giá chung tăng lên P0.

Như vậy, việc sử dụng chính sách tài khóa mở rộng giúp cho nền kinh tế gia
tăng về sản lượng, thất nghiệp giảm nhưng có nguy cơ gây ra lạm phát.

Trường hợp 2: Nền kinh tế vận hành trên mức sản lượng tiềm năng, lạm phát gia
tăng (dấu hiệu của nền kinh tế tăng trưởng nóng)

Khi nền kinh tế đang vận hành ở mức sản lượng cao hơn mức sản lượng tiềm
năng, lạm phát gia tăng, chính sách tài khóa thu hẹp được sử dụng nhằm đưa nền kinh
tế về hoạt động ở mức sản lượng tiềm năng và kiểm soát ở mức lạm phát. Công cụ
được sử dụng là giảm chi tiêu Chính phủ, tăng thuế hoặc kết hợp vừa giảm chi tiêu vừa
tăng thuế. Tổng cầu giảm khiến các doanh nghiệp tương ứng giảm sản xuất cũng như
giảm giá thành của các hàng hóa dịch vụ. Từ đó, lạm phát của nền kinh tế được kiềm
chế.

5
0 Y

Giả định ban đầu nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng ngắn hạn tại điểm E1 (giao
của đường AD 1 và đường ASS )

Giả định ban đầu nền kinh tế đang đạt trạng thái cân bằng ngắn hạn tại điểm E1
(giao của đường AD 1 và ASS ) với mức giá chung cao ở mức P1 và mức sản lượng cân
bằng Y 1 ( Y 1>Y*). Tại trạng thái cân bằng E1 , nền kinh tế có dấu hiệu tăng trưởng
nóng, lạm phát gia tăng. Chính phủ cần sử dụng chính sách tài khóa thu hẹp. Khi
Chính phủ sử dụng chính sách tài khóa thu hẹp làm giảm tổng cầu thì thông qua mô
hình số nhân, sản lượng cân bằng giảm và mức giá chung trong nền kinh tế giảm, kiềm
chế được lạm phát. Sự giảm đi của tổng cầu được minh họa bằng sự dịch chuyển của
đường tổng cầu sang trái tới vị trí đường AD 2. Lúc này nền kinh tế đạt trạng thái cân
bằng dài hạn tại điểm E với mức sản lượng cân bằng đạt mức sản lượng tiềm năng Y*
và mức giá chung giảm xuống P0.

Việc sử dụng chính sách tài khóa thu hẹp giúp cho nền kinh tế kìm hãm được sự
tăng trưởng nóng, đưa sản lượng về mức sản lượng tiềm năng và kiểm soát được mức
giá chung của nền kinh tế.

1.5. Mỗi quan hệ giữa chính sách tài khoá và sự phát triển của nền kinh tế

Chính sách tài khóa là công cụ để điều tiết nền kinh tế của Chính phủ thông qua
thuế và chính sách chi tiêu mua sắm. Nếu trong điều kiện bình thường, chính sách tài
khóa dùng để tác động cho tăng trưởng kinh tế. Còn khi nền kinh tế phát triển quá mức
hoặc bị suy thoái thì nó lại là công cụ đưa nền kinh tế về trạng thái cân bằng nhất.

Về mặt lý thuyết thì chính sách tài khóa là một công cụ để khắc phục thất bại của
thị trường đồng thời phân bổ các nguồn lực có hiệu quả thông qua việc chi tiêu của
Chính phủ và thuế. Mục tiêu của chính sách tài khóa sẽ làm để điều chỉnh phân phối
thu nhập, tài sản, cơ hội hoặc rủi ro có nguồn gốc từ thị trường. Tức chính sách này sẽ
tạo lập sự ổn định về mặt xã hội để tạo nên môi trường ổn định hơn về tăng trưởng và
đầu tư.

6
THỰC TRẠNG THU CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 2015 - 2019

Thu chi ngân sách nhà nước thực hiện trong giai đoạn 2015 - 2019 có xu hướng
tăng ở 4 năm đầu giai đoạn, năm 2019 giảm đáng kể. số thu năm 2018 là cao
nhất với số liệu là 1616,414 nghìn tỷ đồng, lớn gấp 1,4 lần năm 2015. Bên cạnh
đó, số thu năm 2015 lớn gấp 0,93 lần so với năm 2019. Đối với số chi, siis chi
năm 2018 là cao nhất với số liệu là 1424,914 và lớn gấp 1,27 lần năm 2015.
Thâm hụt nhiều nhất diễn ra vào năm 2015 với số liệu là 255,826 nghìn tỷ đồng.
Trong khi đó, năm 2019, với tổng thu lớn hơn tổng chi khiến cho thâm hụt tăng
với số liệu 63,85 nghìn tỷ đồng đồng thời vào năm này GDP cũng cao nhất trong
giai đoạn với mức tăng là 6,89% so với cùng kỳ năm trước.

Quy mô thu chi và thâm hụt NSNN năm 2015 – 2019

2. Tình hình thực hiện vượt dự toán thu chi năm 2015 - 2019
So với dự toán thu chi các năm thì số thực hiện thu chi đều giảm. 9 tháng đầu
năm 2019, phần trăm vượt dự toán thu chi giảm đáng kể. Điều đó cho thấy rằng
chính phủ luôn sử dụng và điều tiết thu chi ngân sách nhà nước hợp lệ tránh
thâm hụt cao
Tình hình thực hiện chi thường xuyên tăng cao qua từng năm. Trong đó cao
nhất là vào năm 2018 với số liệu là 954.117 nghìn tỷ đồng, chiếm 40,7% tổng số
chi thường xuyên trong giai đoạn 2015 - 2019. Tổng chi thường xuyên trong giai
đoạn 2015 - 2019 chiếm gần 35,63% tổng chi ngân sách nhà nước. Đối với
những quốc gia trong quá trình chuyển đổi và phát triển kinh tế thì một đặc
trưng rất phổ biến và nổi bật là nhu cầu chi tiêu luôn lớn hơn. Việt Nam cũng
không nằm ngoài quy luật chung này. Chi tiêu thường xuyên gồm giáo dục, đào
tạo an ninh quốc phòng hay khoa học công nghệ luôn chiếm phần lớn là để đặt

7
nền móng cho phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bên
cạnh đó, chi cho việc trả nợ lãi giảm đáng kể qua từng năm.

* Về thu ngân sách nhà nước:

Tính chung cả giai đoạn 2015 - 2019, tổng thu NSNN đạt 6,89 triệu tỷ đồng,
hoàn thành vượt kế hoạch đề ra (100,4%), mức rất tích cực trong điều kiện thu
NSNN năm 2020 khó khăn, tăng trưởng kinh tế thấp hơn rất nhiều so dự kiến.

- Năm 2015, hầu hết các khoản thu NSNN đều đạt và vượt dự toán được
giao, một số khoản thu thuế, phí vượt cao so với dự toán đầu năm. Chỉ có
2 khoản thu không đạt dự toán là: thu từ dầu thô (đạt 72,6% dự toán); thu
từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (đạt 99% dự toán). Song đây là
2 khoản thu có ảnh hưởng đáng kể đến kết quả thực hiện dự toán thu
NSNN năm 2015.
- Năm 2016, thu NSNN có nhiều điểm tích cực. Tổng thu NSNN đạt
khoảng 1.080 nghìn tỷ đồng, vượt 65,5 nghìn tỷ đồng so với dự toán.

- Năm 2017, thu ngân sách nhà nước có nhiều điểm tích cực, vượt dự toán
ngân sách nhà nước. Nhờ việc thực hiện chính sách tài khóa chủ động, thu
ngân sách nhà nước trong năm 2017 tính đến ngày 31/12/2017 ước tính
đạt 1.283,2 nghìn tỷ đồng, vượt 71 nghìn tỷ đồng, vượt 5,9% so dự toán.
- Năm 2018, thu cân đối NSNN ước đạt 1.422,7 nghìn tỷ đồng, vượt 103,5
nghìn tỷ đồng (+7,8%) so dự toán, tăng 64,3 nghìn tỷ đồng so với báo cáo
Quốc hội, tỷ lệ động viên đạt 25,7%GDP, riêng thuế và phí đạt 21,1%.
Quy mô thu tăng so với năm 2017 nhìn chung còn khiêm tốn và có xu
hướng giảm dần.
- Năm 2019, thu cân đối NSNN đến ngày 31/12/2019 đạt 1.549,5 nghìn tỷ
đồng, vượt 138,2 nghìn tỷ đồng (tăng 9,79%) so với dự toán. Cơ cấu thu
NSNN tiếp tục có chuyển biến và ngày càng bền vững hơn, tỷ trọng thu
nội địa tăng dần, từ mức khoảng 68% bình quân giai đoạn 2011-2015 lên
trên 82% năm 2019.

Chính sách tài khóa Việt Nam giai đoạn 2020 - 2021

Sau khi khống chế được tạm thời dịch bệnh COVID-19 vào cuối năm
2020, nền kinh tế Việt Nam bước vào năm 2021, giai đoạn đầu của thời kỳ 5
8
năm 2021- 2025 với những kỳ vọng tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, từ
giữa năm 2020 đến nay, sự bùng phát của đại dịch COVID-19 với tốc độ lây lan
rất nhanh, diễn biến khó lường và mức độ nguy hiểm chưa từng có trong lịch sử
đã tác động mạnh mẽ, toàn diện và sâu rộng đến mọi mặt của đời sống kinh tế,
xã hội toàn cầu. Việt Nam cũng bị ảnh hưởng mạnh mẽ khi mà hàng loạt địa
phương phải thực hiện giãn cách xã hội trong đó có 2 trung tâm kinh tế lớn là
TP. Hà nội và TP. Hồ Chí Minh. Việt Nam sau quá trình hội nhập mạnh mẽ vào
kinh tế thế giới trở thành nền kinh tế có độ mở lớn nên càng chịu tác động mạnh
mẽ của khủng hoảng COVID-19. Nhiều hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội bị
ảnh hưởng; sản xuất kinh doanh bị đình trệ, nhất là trong một số lĩnh vực công
nghiệp, dịch vụ, vận tải, du lịch…; hàng triệu lao động mất việc làm, thiếu việc
làm, thu nhập giảm sâu.

1. Tổng quan về ngân sách nhà nước năm 2020

Sau sự thành công của năm tài khóa 2019, năm 2020, dự toán thu ngân
sách
năm 2020 được lập tăng khoảng 7,2 % so với năm 2019. Về lý thuyết, thu
NSNN
phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố trong đó có những yếu tố khách quan như tăng
trưởng kinh tế, giá dầu, xuất nhập khẩu, tình hình lạm phát... Trong bối cảnh
năm
2020, Chính phủ tiếp tục đặt kế hoạch đạt mục tiêu tăng trưởng 6,8% và lạm
phát
dưới 4 % thì đây không phải là mục tiêu quá khó khăn. Tuy nhiên, sự xuất hiện
của dịch bệnh COVID-19 đã làm đảo lộn mọi dự đoán. Đại dịch đã đẩy kinh tế
toàn cầu rơi vào tình trạng suy thoái trầm trọng nhất kể từ Đại suy thoái 1929-
1933 và có thể dẫn tới các cuộc khủng hoảng về năng lượng, nhiên liệu, tài
chính, tiền tệ.
Hầu hết các tổ chức quốc tế dự báo kinh tế toàn cầu và các quốc gia, đối
tác lớn tăng trưởng âm trong năm 2020; hàng trăm triệu lao động mất việc làm,
giảm sâu thu nhập, gây ra tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng về việc làm, thất
nghiệp, an sinh xã hội và tác động đến trật tự kinh tế, chính trị, xã hội toàn cầu.
Mặc dù vậy, Việt Nam là một trong số ít quốc gia vẫn tiếp tục duy trì được mức
tăng trưởng dương. Theo IMF, năm 2020, kinh tế Việt Nam tăng trưởng mức
2,4% và là một trong 4 nền kinh tế trên thế giới có được sự tăng trưởng về GDP
bình quân đầu người, đó là: Việt Nam, Đài Loan, Ai Cập và Trung Quốc.
Trước diễn biến phức tạp của dịch bệnh, Chính phủ đã ban hành hoặc
trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội ban hành một loạt các chính sách

9
miễn, giảm, gia hạn thuế và tiền thuê đất để hỗ trợ người dân và doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, các Bộ, ngành đã rà soát để miễn, giảm các khoản phí, lệ phí nhằm
tháo gỡ khó khăn cho các đối tượng chịu ảnh hưởng của dịch bệnh. Các gói hỗ
trợ tài chính đã kịp thời tháo gỡ khó khăn, giảm căng thẳng cân đối luồng tiền,
chi phí và áp lực tài chính ngắn hạn cho doanh nghiệp, hộ sản xuất, kinh doanh.
Ví dụ, để thực hiện giải pháp kích cầu tiêu dùng trong nước, hỗ trợ doanh
nghiệp phục hồi sản xuất, kinh doanh, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
70/2020 quy định mức thu lệ phí trước bạ đối với ôtô sản xuất, lắp ráp trong
nước bằng 50% mức thu theo quy định, áp dụng từ ngày 29/6/2020 đến hết ngày
31/12/2020. Ước tính của Bộ Tài chính, việc giảm 50% lệ phí trước bạ đã làm
giảm thu NSNN khoảng 3.700 tỉ đồng.
Hệ quả của việc thực hiện các chính sách miễn, hoãn, giãn, giảm thuế
cùng với những khó khăn của kinh tế chung, đây là lần đầu tiên sau nhiều năm
ngân sách thu không đạt được dự toán ở một số nhóm thu lớn như thu từ khu
vực doanh nghiệp nhà nước đạt 82,6%, thu từ khu vực doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài đạt 90%, thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt 91%. Kết
quả này có thể coi là chấp nhận được trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế giảm
mạnh vì dịch bệnh.

3. Chính sách tài khóa Việt Nam năm 2020

Theo Bộ Tài chính, thu NSNN năm 2020 ước tính đạt trên 1.507 nghìn tỷ
đồng, bằng 98% dự toán điều chỉnh (tăng thêm 1.538 nghìn tỷ đồng theo Nghị
quyết số 128/2020/QH14 ngày 12/11/2020 của Quốc hội). Việc thu ngân sách
không đảm bảo tiến độ dự toán là phù hợp với chu kỳ kinh tế, đồng thời là một
cơ chế chính sách tự động thuận chu kỳ (không đặt thêm gánh nặng lên nền kinh
tế đang khó khăn, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, người dân ứng phó với
đại dịch COVID-19). Tính đến ngày 31/12/2020, đã có khoảng 123,6 nghìn tỷ
đồng tiền thuế, thuê đất, phí và lệ phí được gia hạn, hoặc miễn, giảm.

10
(Nguồn: Tổng cục thống kê)

Chi NSNN 2020 ước tính đạt 1.781,4 nghìn tỷ đồng, bằng 82,8% so với
dự toán trình Quốc hội. Điểm sáng trong điều hành là tiến độ giải ngân vốn đầu
tư công tốt hơn so năm trước. Chi đầu tư ước tính chi đầu tư phát triển đạt
82,8% dự toán. Bội chi NSNN được kiểm soát chặt chẽ trong phạm vi Quốc hội
cho phép, tương ứng khoảng 3,93% GDP ước thực hiện. Mặc dù Chính phủ
đang cố gắng tăng đầu tư công để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh
kinh tế thế giới và trong nước khó khăn nhưng không nên kỳ vọng quá nhiều
vào đầu tư công trong năm sau vì thực trạng thâm hụt ngân sách của Việt Nam
diễn ra liên tục trong nhiều năm qua và năm nay có thể thâm hụt nhiều hơn nữa.
Tính đến hết ngày 30/12/2020, Chính phủ đã chi khoảng 18,1 nghìn tỷ đồng cho
công tác phòng, chống dịch COVID 19 và hỗ trợ cho gần 13 triệu người dân;
đồng thời đã đề xuất cấp 36,6 nghìn tấn gạo dự trữ quốc gia để cứu trợ, cứu đói
cho nhân dân miền Trung, khắc phục hậu quả thiên tai bão lũ.

11
Từ năm 2020, COVID-19 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến mọi mặt hoạt
động của nền kinh tế - xã hội, tạo sức ép rất lớn đến cân đối thu, chi ngân sách
nhà nước. Thu ngân sách nhà nước giảm do kinh tế khó khăn và thực hiện các
chính sách ưu đãi miễn, giảm; trong khi nhu cầu tăng chi lớn. Trong bối cảnh
đó, Bộ Tài chính đã chủ động đề xuất các giải pháp điều hành ngân sách nhà
nước chặt chẽ, linh hoạt, tiết kiệm, tập trung nguồn lực cho phòng, chống dịch
COVID-19 và hỗ trợ kịp thời cho doanh nghiệp, người dân khó khăn.

Về thu ngân sách nhà nước, Bộ Tài chính đã chỉ đạo quyết liệt quản lý
thu, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, phấn
đấu tăng thu ở những địa bàn, lĩnh vực có điều kiện, quyết liệt xử lý thu hồi nợ
đọng thuế. Nhờ đà tăng trưởng của nền kinh tế từ những tháng cuối năm 2020,
một số ngành, lĩnh vực được hưởng lợi từ chính sách nới lỏng về tài khóa như
ngân hàng, chứng khoán, bất động sản... tạo thêm nguồn thu cho ngân sách nhà
nước; tăng thu từ tăng giá dầu thô (bình quân 10 tháng đạt 65,6 USD/thùng, cao
hơn 20,6 USD/thùng so với giá dự toán); tăng thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu
(đến nay, kim ngạch xuất, nhập khẩu vẫn duy trì đà tăng trưởng cao). Kết quả
thực hiện thu ngân sách nhà nước 10 tháng đã đạt 90, 9% dự toán.

Về chi ngân sách nhà nước, để chủ động ưu tiên cân đối nguồn cho phòng
chống dịch và hỗ trợ người dân bị ảnh hưởng của dịch COVID-19, Bộ Tài chính
đã trình Chính phủ, trình Quốc hội yêu cầu các bộ, cơ quan Trung ương, địa
phương thực hiện cắt giảm tối thiểu 50% kinh phí hội nghị, kinh phí công tác
trong và ngoài nước, tiết kiệm thêm 10% kinh phí chi thường xuyên khác còn lại
của năm; thu hồi các khoản chi thường xuyên chưa thực sự cần thiết, chậm triển
khai để bổ sung dự phòng ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương, tập
trung kinh phí cho phòng, chống dịch COVID-19. Các địa phương chủ động sử

12
dụng nguồn dự phòng, dự trữ và nguồn lực hợp pháp khác (gồm tiền lương còn
dư) để chi phòng, chống dịch COVID-19.

CSTK 2021
Sau khi khống chế được tạm thời dịch bệnh COVID-19 vào cuối năm 2020, nền
kinh tế Việt nam bước vào năm 2021, giai đoạn đầu của thời kỳ 5 năm 2021-
2025 với những kỳ vọng tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, từ giữa năm
2020 đến nay, sự bùng phát của đại dịch COVID-19 với tốc độ lây lan rất nhanh,
diễn biến khó lường và mức độ nguy hiểm chưa từng có trong lịch sử đã tác
động mạnh mẽ, toàn diện và sâu rộng đến mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội
toàn cầu. Việt Nam cũng bị ảnh hưởng mạnh mẽ khi mà hàng loạt địa phương
phải thực hiện giãn cách xã hội trong đó có 2 trung tâm kinh tế lớn là TP. Hà nội
và TP. Hồ Chí Minh.
Những khó khăn của khủng hoảng COVID -19 đã ảnh hưởng không nhỏ đến
kinh tế năm 2021 nói chung và cân đối ngân sách nhà nước (NSNN) nói riêng.
Ngân sách năm 2021 sẽ còn khó khăn hơn nhiều so với năm 2020.
1. Thu ngân sách Nhà nước
(chỉ lấy 1 trong 2 số liệu của tổng cục thống kê hoặc biểu cân đối NSNN)
- Theo Báo cáo của Tổng Cục Thống kê, Cụ thể, lũy kế tổng thu ngân sách nhà
nước ước tính cả năm 2021 đạt 1.523,4 nghìn tỷ đồng, vượt dự toán 13,4%,
tương ứng 180,1 nghìn tỷ đồng. Hoạt động sản xuất kinh doanh, xuất, nhập khẩu
được phục hồi trong trạng thái “bình thường mới” đã tác động tích cực làm thu
ngân sách nhà nước vượt dự toán năm.
Thu nội địa bằng vượt dự toán 10,4%, tương đương 118 nghìn tỷ đồng. Thu từ
dầu thô vượt dự toán lên tới 97,4%, tương ứng 22,6 nghìn tỷ đồng. Thu cân đối
từ hoạt động xuất, nhập khẩu vượt 22,1% khoảng 39,5 nghìn tỷ đồng.
- Theo Biểu cân đối ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2021 ban hành kèm theo
quyết định, tổng thu NSNN năm 2021 là 1.343.330 tỷ đồng.
Trong đó: Thu nội địa là 1.133.500 tỷ đồng; thu từ dầu thô là 23.200 tỷ đồng;
thu cân đối từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu là 178.500 tỷ đồng; thu viện trợ
là 8.130 tỷ đồng.
- Theo Bộ Tài chính, có 53 địa phương thu nội địa 10 tháng đạt trên 83% dự
toán (trong đó 49 địa phương thu đạt trên 88% dự toán); 41 địa phương thu cao

13
hơn so với cùng kỳ, một số địa phương có mức tăng trưởng thu trên 15%; 10 địa
phương có tiến độ thu dự toán đạt thấp.
Bộ Tài chính đánh giá, dù chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của dịch COVID-19,
thu ngân sách nhà nước 10 tháng vẫn đảm bảo tiến độ dự toán và tăng so với
cùng kỳ, nhờ đà tăng trưởng của nền kinh tế từ những tháng cuối năm 2020, một
số ngành, lĩnh vực được hưởng lợi từ chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ tháo gỡ
khó khăn cho doanh nghiệp, người dân, duy trì được mức tăng trưởng khả quan
tạo thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước như ngân hàng, chứng khoán, bất
động sản...
Bên cạnh đó, giá dầu tăng 20,6 USD/thùng so với giá dự toán, góp phần tăng thu
ngân sách nhà nước từ dầu thô; kim ngạch xuất nhập khẩu những tháng đầu năm
tăng (trong đó kim ngạch xuất nhập khẩu có thuế lũy kế 10 tháng ước tăng
31,55% so cùng kỳ), tăng thu ngân sách nhà nước từ xuất nhập khẩu.

2. Chi ngân sách Nhà nước

Tổng chi NSNN năm 2021 là 1.687.000 tỷ đồng, bao gồm: chi đầu tư phát triển
là 477.300 tỷ đồng; chi trả nợ lãi là 110.065 tỷ đồng; chi viện trợ là 1.600 tỷ
đồng; chi thường xuyên là 1.036.730 tỷ đồng; chi cải cách tiền lương, tinh giản
biên chế là 25.505 tỷ đồng; chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính là 100 tỷ đồng; dự
phòng NSNN là 34.500 tỷ đồng.

Riêng tiến độ giải ngân vốn đầu tư phát triển vẫn chậm được cải thiện, mới đạt
55,8% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao (cùng kỳ năm 2020 đạt 27,25%),
trong đó vốn trong nước đạt 60,89%, vốn ngoài nước chỉ đạt 15,29% kế hoạch.

Mức bội chi NSNN là 343.670 tỷ đồng, bằng khoảng 4%GDP. Trong đó: Bội
chi ngân sách trung ương là 318.870 tỷ đồng; bội chi ngân sách địa phương
24.800 tỷ đồng.

14
Ước thu chi ngân sách nhà nước năm 2021
Nguồn: Tổng cục Thống kê

Dự toán ngân sách nhà nước


2021 đã được Quốc hội phê
duyệt.

- Theo Bộ Tài chính, ngân sách trung ương và ngân sách địa phương đã ưu tiên
bố trí chi cho phòng, chống dịch COVID-19.
Ước tính 10 tháng, ngân sách nhà nước đã chi 50,77 nghìn tỷ đồng cho phòng
chống dịch với 31,55 nghìn tỷ đồng và hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại
dịch COVID-19 với 19,22 nghìn tỷ đồng.
Trong số đó, trung ương đã chi 24,88 nghìn tỷ đồng để mua vaccine và chi cho
phòng, chống dịch; mua bù gạo dự trữ quốc gia đã xuất cấp để hỗ trợ người dân
gặp khó khăn do dịch COVID-19 và hỗ trợ các địa phương.
Các địa phương đã chi từ ngân sách địa phương là 25,89 nghìn tỷ đồng cho
phòng, chống dịch và hỗ trợ người dân gặp khó khăn do dịch COVID-19.
Bên cạnh đó, thực hiện quyết định của Thủ tướng Chính phủ, đã xuất cấp vật tư,
trang thiết bị dự trữ quốc gia cho phòng, chống dịch và 153,3 nghìn tấn gạo dự
trữ quốc gia để khắc phục hậu quả thiên tai, cứu trợ cho nhân dân trong dịp Tết,
giáp hạt đầu năm và một số địa phương bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19.

Tham khảo:
https://thoibaotaichinhvietnam.vn/boi-chi-ngan-sach-nam-2021-khoang-4-gdp-
52492.html
https://vneconomy.vn/ngan-sach-nha-nuoc-bat-ngo-boi-chi-hon-300-000-ty.htm
https://hoidapvui.com/thuc-trang-thu-chi-ngan-sach-nha-nuoc-nam-2021

15
KẾT LUẬN 

Qua phần phân tích chúng ta có thể thấy rằng các chính sách tài khóa của Chính
phủ đã và đang có hiệu quả như là “liều thuốc trợ lực” kịp thời phát huy tác dụng để
người dân cũng như các doanh nghiệp trên toàn cả nước bước đầu trụ vững trước
những khó khăn do đại dịch Covid-19 gây ra. 
Điều đặc biệt ở đây là tình hình lạm phát trong nước vẫn tăng so với năm 2019,
theo lý thuyết sẽ phải thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt. Tuy nhiên mức lạm phát
này vẫn ở mức bé hơn 10% nên việc thực hiện chính sách tài khóa mở rộng đã đem lại
nhiều hiệu quả cho kinh tế của Việt Nam. Qua đây có thể thấy được sự linh hoạt trong
việc áp dụng các chính sách sao cho phù hợp với tình hình hiện tại của Việt Nam là rất
đáng học hỏi. Mặc dù chịu nhiều biến động nhưng nền kinh tế Việt Nam đã thể hiện
khả năng chống chịu tốt trong bối cảnh đại dịch COVID-19. Tăng trưởng kinh tế đạt
2,9% trong năm 2020 và nằm trong mức cao nhất trên thế giới cho thấy hoạt động hiệu
quả của Chính phủ.
 Vì vậy, để thúc đẩy nền kinh tế phát triển cũng như để Việt Nam vượt qua khó
khăn do tình hình Covid-19 thì Nhà nước ta cần tiếp tục ban hành các chính sách tài
khóa về thuế, phí cũng như tiếp tục đẩy mạnh chi tiêu cho đầu tư công để góp phần
tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, tính toán, điều chỉnh giá các mặt hàng do
Nhà nước quản lý hoặc dịch vụ góp phần đưa nước nhà thoát khỏi tình hình khó khăn
16
này. Vấn đề đặt ra là phát huy nội lực, phát triển sản xuất. Hơn thế nữa, các nhà chính
sách Việt Nam cần tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi và những điều kiện chủ quan để
trong tương lai, Việt Nam có một thị trường tài chính phát triển. Đây chính là tiền đề
làm nền tảng để xây dựng và phát triển một chính sách tài khoá hoàn hảo có tác dụng
điều chỉnh và đem lại hiệu quả cho toàn bộ nền kinh tế.
Tóm lại, chính sách tài khoá với những đổi mới, hoàn thiện các công cụ của nó
đã tác động tích cực tới quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam trong những năm qua.
Chính sách tài khoá đã duy trì sự ổn định và tăng trưởng nhanh của nền kinh tế, vượt
qua sự ảnh hưởng tiêu cực của những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính – tiền
tệ khu vực, tạo cơ sở vững chắc cho Việt Nam mở cửa và hội nhập vào cộng đồng kinh
tế khu vực và thế giới an toàn và hiệu quả.

17

You might also like