You are on page 1of 21

NGUỒN THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGUỒN THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC


1.1. Giới thiệu chung
1.1.1. Khái niệm ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu chi của nhà nước được dự toán và thực
hiện trong một khoảng thời gian nhất định do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định để
đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
1.1.2. Vai trò của ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước có vai trò rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động kinh tế, xã hội, an
ninh, quốc phòng và đối ngoại của đất nước. Ngân sách nhà nước là công cụ điều chỉnh vĩ mô
nền kinh tế xã hội, định hướng phát triển sản xuất, điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, điều
chỉnh đời sống xã hội.
- Huy động các nguồn tài chính của ngân sách nhà nước để đảm bảo nhu cầu chi tiêu của nhà
nước: Mức động viên các nguồn tài chính từ các chủ thể trong nguồn kinh tế đòi hỏi phải hợp
lý nếu mức động viên quá cao hoặc quá thấp thì sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh
tế,vì vậy cần phải xác định mức huy động vào ngân sách nhà nước một cách phù hợp với khả
năng đóng góp tài chính của các chủ thể trong nền kinh tế.
- Quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế: Ngân sách nhà nước là công cụ định hướng hình thành
cơ cấu kinh tế mới, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền.

Trước hết, Chính phủ sẽ hướng hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế đi vào quỹ
đạo mà chính phủ đã hoạch định để hình thành cơ cấu kinh tế tối ưu, tạo điều kiện cho nền
kinh tế phát triển ổn định và bền vững.

Thông qua hoạt động chi Ngân sách, Nhà nước sẽ cung cấp kinh phí đầu tư cho cơ sở kết
cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt trên cơ sở đó tạo môi
trường và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế (có thể thấy rõ nhất tầm quan trọng của điện lực, viễn thông, hàng không đến
hoạt động kinh doanh của các Doanh nghiệp). Bên cạnh đó, việc cấp vốn hình thành các
doanh nghiệp Nhà nước là một trong những biện pháp căn bản để chống độc quyền và giữ
cho thị trường khỏi rơi vào tình trạng cạnh tranh không hoàn hảo. Và trong những điều kiện
cụ thể, nguồn kinh phí trong ngân sách cũng có thể được sử dụng để hỗ trợ cho sự phát triển
của các doanh nghiệp, đảm bảo tính ổn định về cơ cấu hoặc chuẩn bị cho việc chuyển sang cơ
cấu mới hợp lý hơn. Thông qua hoạt động thu, bằng việc huy động nguồn tài chính thông qua
thuế, ngân sách nhà nước đảm bảo thực hiện vai trò định hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn
chế sản xuất kinh doanh.

- Về mặt kinh tế: Kích thích sự tăng trưởng kinh tế theo sự định hướng phát triển kinh tế xã
hội thông qua các công cụ thuế và thuế suất của nhà nước sẽ góp phần kích thích sản xuất
phát triển thu hút sự đầu tư của các doanh nghiệp.ngoài ra nhà nước còn dùng ngân sách nhà
nước đầu tư vào cơ sở hạ tầng tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp
hoạt động

- Về mặt xã hội: Vai trò điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. Trợ giúp
trực tiếp dành cho những người có thu nhập thấp hay có hoàn cảnh đặc biệt như chi về trợ cấp
xã hội, trợ cấp gián tiếp dưới hình thức trợ giá cho các mặt hàng thiết yếu, các khoản chi phí
để thực hiện chính sách dân số, chính sách việc làm, chống mù chữ, hỗ trợ đồng bào bão lụt.

- Về mặt thị trường: Nhà nước sẽ sử dụng ngân sách nhà nước như một công cụ để góp phần
bình ổn giá cả và kiềm chế lạm phát. Nhà nước chỉ điều tiết những mặt hàng quan trọng
những mặt hàng mang tính chất chiến lược. Cơ chế điều tiết thông qua trợ giá, điều chỉnh
thuế suất thuế xuất nhập khẩu, dự trữ quốc gia. Thị trường vốn sức lao động: thông qua phát
hành trái phiếu và chi tiêu của chính phủ. Kiềm chế lạm phát: Cùng với ngân hàng trung
ương với chính sách tiền tệ thích hợp NSNN góp phần điều tiết thông qua chính sách thuế và
chi tiêu của chính phủ.

1.2. Nguồn thu ngân sách nhà nước


1.2.1. Nội dung nguồn thu ngân sách nhà nước
- Thu thuế: Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc cho nhà nước do luật quy định đối với các
pháp nhân và thể nhân nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Thuế phản ánh các quá
trình phân phối lại thu nhập trong xã hội,thể hiện các mối quan hệ tài chính giữa nhà nước
với các pháp nhân và thể nhân trong phân phối các nguồn tài chính và là công cụ cơ bản thực
hiện phân phối tài chính.

- Phí và lệ phí: Phí và lệ phí là khoản thu có tính chất bắt buộc, nhưng mang tính đối giá,
nghĩa là phí và lệ phí thực chất là khoản tiền mà mọi công dân trả cho nhà nước khi họ hưởng
thụ các dịch vụ do nhà nước cung cấp. So với thuế, tính pháp lý của phí và lệ phí thấp hơn
nhiều. Phí gắn liền với vấn đề thu hồi một phần hay toàn bộ chi phí đầu tư đối với hàng hóa
dịch vụ công cộng hữu hình. Lệ phí gắn liền với việc thụ hưởng những lợi ích do việc cung
cấp các dịch vụ hành chính, pháp lý cho các thể nhân và pháp nhân.
- Các khoản thu từ các hoạt động kinh tế của nhà nước: Các khoản thu này bao gồm:

+ Thu nhập từ vốn góp của nhà nước vào các cơ sở kinh tế có vốn góp thuộc sở hữu
nhà nước
+ Thu hồi tiền cho vay của nhà nước.
- Thu từ hoạt động sự nghiệp: Các khoản thu có lãi và chênh lệch từ các hoạt động của các cơ
sở sự nghiệp có thu của nhà nước.

- Thu từ bán hoặc cho thuê tài nguyên, tài sản thuộc sở hữu nhà nước: Khoản thu này mang
tính chất thu hồi vốn và có một phần mang tính chất phân phối lại, vừa có tính chất phân phối
lại, vừa có tác dụng nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản quốc gia vừa tăng nguồn thu cho ngân
sách nhà nước. Các nguồn thu từ bán hoặc cho thuê tài sản, tài nguyên, thiên nhiên; thu về
bán tài sản thuộc sở hữu nhà nước.

- Thu từ phạt, tịch thu, tịch biên tài sản: Các khoản thu này cũng là một phần thu quan trọng
của thu ngân sách nhà nước và được pháp luật quy định...

1.2.2. Cơ cấu khoản thu của ngân sách nhà nước


Các nội dung ngân sách nhà nước gắn liền và phản ánh các mặt hoạt động khác nhau
nhau của nền kinh tế. Mỗi khoản thu ngân sách có nguồn hình thành, tính chất và tác dụng
khác nhau đối với nền kinh tế và các mặt của đời sống xã hội, theo đó các khoản thu ngân
sách có thể phân loại bao gồm các khoản:
- Theo nguồn hình thành:
+ Thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước
+ Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu
+ Thu viện trợ không hoàn lại
+ Thu tiền đóng góp đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
- Theo nội dung kinh tế:
+ Thu từ thuế, phí, lệ phí
+ Thu từ tiền cho thuê đất, mặt nước
+ Thu từ hoạt động kinh tế, sự nghiệp của Nhà nước
+ Thu từ viện trợ không hoàn lại, thu phạt, tịch thu…
- Theo khu vực kinh tế:
+ Thu từ các doanh nghiệp Nhà nước trung ương, doanh nghiệp Nhà nước địa phương
+ Thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
+ Thu từ khu công thương nghiệp không thuộc Nhà nước (doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ
kinh doanh cá thể, cá nhân)

II. THỰC TRẠNG


2.1. Tổng quát về thu ngân sách nhà nước Việt Nam giai đoạn 2018 - 2022
Thu ngân sách nhà nước Việt Nam giai đoạn 2018 - 2022 có nhiều biến động do ảnh
hưởng của đại dịch COVID-19 và các yếu tố kinh tế vĩ mô trong nước và quốc tế. Tổng thu
NSNN đạt 1,431,662 tỷ đồng năm 2018, tăng lên 1,815,470 tỷ đồng năm 2022, ngoài ra, tỷ lệ
thu/GDP giảm từ 20.43% năm 2018 xuống 14.84% năm 2022.
Về cấu trúc thu, thu nội địa là nguồn thu chủ đạo, chiếm tỷ trọng cao trong tổng thu
NSNN. Thu từ dầu thô có sự biến động lớn do giá dầu thế giới biến động. Trong khi đó, thu
từ xuất nhập khẩu tăng trưởng khá tốt, nhất là trong giai đoạn 2020 - 2022.

2.2. Biến động và xu hướng của nguồn thu năm 2018 - 2022
2.2.1. Quy mô thu ngân sách nhà nước
2.2.1.1. Phân tích quy mô và tốc độ tăng thu ngân sách nhà nước

Nhìn chung, tổng thu NSNN chủ yếu có xu hướng biến động và tốc độ tăng trưởng có
xu hướng giảm trong giai đoạn 2018 - 2022 do bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19, chỉ
tăng mạnh lại vào năm 2022, vào thời điểm đại dịch đã qua đi.
Năm 2018, quyết toán thu NSNN đạt 1,431,662 tỷ đồng, tăng 8,5% so dự toán, chủ yếu
do tăng thu từ tiền sử dụng đất, thuế xuất nhập khẩu và thu từ dầu thô. Đến năm 2019, tình
hình thu NSNN tiếp tục đạt kết quả tích cực, vượt dự toán Quốc hội giao, cụ thể: quyết toán
thu NSNN đạt 1,553,612 tỷ đồng, tăng 8.52% so với năm ngoái. Năm 2020 là năm duy nhất
thu NSNN bị giảm trong giai đoạn này, do ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch COVID-19, thu
NSNN đạt 1,510,579 tỷ đồng. Tuy nhiên, thu ngân sách đã tăng mạnh trở lại trong năm 2021
và năm 2022, chủ yếu do hoạt động kinh tế tiếp tục duy trì đà phục hồi và tăng trưởng khả
quan (GDP tăng 8,02%)
2.2.1.2. Phân tích tỷ trọng thu NSNN/GDP

Tỷ trọng thu/GDP của Việt Nam có xu hướng giảm từ năm 2018 đến năm 2022. Năm
2020, tỷ trọng này giảm từ 20.16% xuống 18.78%, do trong năm này có sự tác động của đại
dịch COVID-19 cùng với sự ảnh hưởng của chính sách miễn giảm thuế để hỗ trợ doanh
nghiệp và người dân khiến GDP giảm. Năm 2021 và 2022 ghi nhận cả thu NSNN và GDP
đều tăng trở lại, dẫn đến tỷ trọng thu NSNN/GDP tăng nhẹ.

2.2.2. Cơ cấu thu NSNN

Trong giai đoạn 2018 - 2022, cơ cấu thu ngân sách nhà nước Việt Nam theo nguồn hình
thành có sự thay đổi khá rõ rệt, với xu hướng tăng dần tỷ trọng các khoản thu nội địa và giảm
dần sự phụ thuộc vào các nguồn thu từ bên ngoài, cho thấy cơ cấu thu ngày càng bền vững
hơn, tích cực hơn.

a) Thu từ nội địa


Thu nội địa là nguồn thu chủ đạo và ngày càng quan trọng trong cơ cấu thu ngân sách
nhà nước Việt Nam giai đoạn này, chiếm tỷ trọng ngày càng cao và ổn định. Cụ thể, tỷ trọng
thu nội địa luôn dao động ở mức 80% từ năm 2018 đến nay. Điều này cho thấy sự tăng
trưởng bền vững của các nguồn thu trong nước. Tăng trưởng kinh tế ổn định và cao đã tạo
động lực then chốt cho thu nội địa tăng mạnh, góp phần bù đắp xu hướng giảm thu từ dầu thô
và thu từ cân đối hoạt động xuất nhập khẩu. Bên cạnh đó, các chính sách cải cách thuế, mở
rộng cơ sở thuế và tăng cường quản lý thu của Chính phủ cũng góp phần quan trọng trong
tăng trưởng thu từ nội địa.
b) Thu từ dầu thô
Trong giai đoạn 2018-2022, tỷ trọng đóng góp của khoản thu từ dầu thô vào ngân sách
nhà nước Việt Nam có xu hướng giảm dần, chỉ tăng trở lại vào năm 2022. Xu hướng giảm
chủ yếu này chủ yếu đến từ các nguyên nhân khách quan. Thứ nhất, trữ lượng dầu thô toàn
cầu đang có xu hướng giảm. Tại Việt Nam, một phần dầu thô khai thác đã được sử dụng cho
ngành hóa dầu trong nước và các nguồn thu khác từ thuế, phí, lệ phí đã có sự mở rộng đáng
kể. Thứ hai, giá dầu thô thế giới biến động mạnh mẽ qua các năm, đặc biệt là sụt giảm mạnh
từ năm 2014 do cung vượt cầu. Tuy nhiên, đến năm 2022, giá dầu thô thế giới tăng cao do
ảnh hưởng của cuộc xung đột Nga - Ukraine, cùng với sản lượng khai thác dầu thô tăng
10.7% so với năm trước, dẫn đến thu dầu thô trong năm này tăng 74% so với năm 2021. Tình
hình trên cũng đòi hỏi Chính phủ Việt Nam phải đa dạng hóa nguồn thu ngân sách, không
còn quá phụ thuộc vào khoản thu không ổn định, dễ lung lay trước những biến động thị
trường như thu từ khoáng sản dầu thô.
c) Thu từ cân đối hoạt động xuất nhập khẩu
Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu tuy không chiếm tỷ trọng lớn nhưng vẫn giữ vị trí ổn
định trong cơ cấu thu ngân sách Việt Nam giai đoạn 2018 - 2022, dao động trong khoảng 11 -
15%. Điều này phản ánh quá trình hội nhập sâu rộng của nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh
tế thế giới thông qua hoạt động xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, khoản thu này cũng chịu tác động
mạnh mẽ từ xu thế cắt giảm thuế nhập khẩu theo lộ trình cam kết khi Việt Nam tham gia các
hiệp định thương mại tự do đa phương và song phương. Xu hướng này khiến thu từ nhập
khẩu giảm dần, nhưng may mắn là Việt Nam cũng gia tăng đáng kể kim ngạch xuất khẩu
hàng hóa trong giai đoạn này. Nhìn chung, sự dịch chuyển cơ cấu các khoản thu ngân sách
cho thấy Chính phủ Việt Nam đã linh hoạt thích ứng với những biến động kinh tế thế giới,
đảm bảo ngân sách ổn định bền vững.
d) Thu viện trợ
Trong giai đoạn 2018 - 2022, khoản thu từ viện trợ nước ngoài trong cơ cấu thu ngân
sách nhà nước Việt Nam luôn ở mức rất thấp, thường dưới 1%, chỉ có năm 2021 thì chỉ tiêu
này mới tăng lên 1.08%. Xu hướng này cho thấy Việt Nam đã dần giảm sự phụ thuộc vào
nguồn viện trợ không hoàn lại từ các đối tác phát triển mà thay vào đó tự cân đối ngân sách
nhà nước chủ yếu dựa trên các nguồn thu nội địa.

2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thu ngân sách nhà nước giai đoạn 2018 - 2022
2.3.1. Kinh tế
Giai đoạn 2018 - 2022 là giai đoạn nền kinh tế gặp nhiều biến động và tác động đáng kể
đến nguồn thu ngân sách nhà nước:

- Tăng trưởng kinh tế


Thu nhập bình quân đầu người theo khu vực

Nguồn: Tổng cục Thống kê


Thu nhập bình quân đầu người theo tháng của Việt Nam chịu nhiều biến động trong
giai đoạn 2018 - 2022, GDP giảm năm 2020 - 2021 và phục hồi trở lại từ 2022.
Tốc độ tăng GDP giai đoạn 2018 - 2022 (%)

Nguồn: Tổng cục thống kê


Chịu tác động lớn từ COVID-19, tốc độ tăng trưởng GDP giảm mạnh trong 2 năm 2020
và 2021, đến năm 2022 hoạt động kinh tế tiếp tục được phục hồi và tăng trưởng khả quan.
Hoạt động kinh doanh phục hồi tích cực trên hầu hết các lĩnh vực, điều này góp phần đóng
góp tích cực vào nguồn thu ngân sách nhà nước.
- Hoạt động xuất nhập khẩu
Xuất khẩu và nhập khẩu là một nguồn thu quan trọng thông qua thuế xuất khẩu và nhập
khẩu. Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam tăng liên tục trong giai đoạn 2018 - 2022 kéo
theo đó là thu từ thuế xuất nhập khẩu tăng theo. Năm 2021, kim ngạch xuất nhập khẩu của
Việt Nam lần đầu tiên vượt mốc 668 tỷ USD, giúp thu ngân sách trên 379,6 nghìn tỷ đồng.
Tuy chịu ảnh hưởng lớn từ COVID-19 làm cho tốc độ tăng kim ngạch xuất nhập khẩu chững
lại và giảm dần trong giai đoạn 2018 - 2020 nhưng nhờ chính sách tài khóa, điều tiết của nhà
nước, đến năm 2021 tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh và sau đó duy
trì ở mức ổn định.
- Giá dầu và một số hàng hóa, nguyên liệu đầu vào tăng cao
Giai đoạn 2018 - 2022 nhu cầu nhiên liệu vận tải phục hồi sau COVID-19 đã đẩy giá
xăng dầu tăng, mặt khác căng thẳng chính trị giữa Nga và Ukraine cùng với bất ổn chính trị
tại các nước như Kazakhstan, Libya, Iran và động thái cắt giảm sản lượng của OPEC+ đã
khiến cho nguồn cung bị siết chặt. Khoản thu từ dầu thô năm 2022 tăng rất mạnh so với dự
toán năm 2022 và thực hiện năm 2021, chủ yếu là do giá dầu thô năm 2022 tăng rất mạnh so
với năm 2021: giá dầu thô thế giới bình quân khoảng 105 USD/thùng (tăng 45 USD/thùng so
với giá ước tính khi lập dự toán); giá dầu thô xuất khẩu bình quân của Việt Nam năm 2022
đạt 829,9 USD/tấn, tăng 47,09% so với năm trước (năm 2021 tăng 68,77%, năm 2020 giảm
34,56%)… Điều này đã góp phần tăng thu từ dầu thô và từ hoạt động xuất nhập khẩu.
Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, trong năm 2021 Việt Nam đã xuất khẩu hơn 3,13
triệu tấn dầu thô, trị giá xuất khẩu dầu thô đạt trên 1,76 tỷ USD và nhập khẩu hơn 9,94 triệu
tấn dầu thô, trị giá nhập khẩu đạt trên 5,15 tỷ USD. Năm 2022, xuất khẩu 2,7 triệu tấn dầu
thô, trị giá xuất khẩu đạt 1,7 tỷ USD và nhập khẩu 10,8 triệu tấn, đạt gần 8,2 tỷ USD. Điều
này đã làm cho thu từ dầu thô tăng liên tục trong giai đoạn 2020 - 2022.
- Thị trường chứng khoán, bất động sản tăng trưởng mạnh
Mặc dù chịu nhiều ảnh hưởng từ COVID-19, song thị trường chứng khoán và bất động
sản vẫn phát tăng trưởng mạnh từ 2018 cho đến giữa năm 2020. Thị trường chứng khoán toàn
cầu tăng trưởng theo chu kỳ “thị trường bò tót” giúp cho thị trường chứng khoán Việt Nam
bứt phá và thiết lập các mức kỷ lục chưa từng có trong lịch sử 21 năm hoạt động, một phần
xuất phát từ chính sách nới lỏng tiền tệ và mặt bằng lãi suất thấp do ảnh hưởng của đại dịch
COVID-19. Điều này đã góp phần tăng thu từ thuế thu nhập cá nhân, và thu từ hoạt động
kinh tế vào ngân sách. Cùng với đó, thị trường bất động sản phát triển nóng ở các địa phương
có quy hoạch hạ tầng làm cho các khoản thu về nhà đất liên tục tăng mạnh trong giai đoạn
2018 - 2022.
- Tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp năm 2022 đã có sự hồi phục
Năm 2022, tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam đã có sự hồi
phục đáng kể. Theo Tổng cục Thống kê, số doanh nghiệp thành lập mới trong năm 2022 đạt
148,5 nghìn doanh nghiệp, tăng 27,1% so với năm trước. Nếu tính cả 3.172,7 nghìn tỷ đồng
vốn đăng ký tăng thêm của 50,4 nghìn doanh nghiệp tăng vốn, tổng số vốn đăng ký bổ sung
vào nền kinh tế trong 2022 là 4.763,5 nghìn tỷ đồng, tăng 15,2% so với năm trước. Điều này
đã góp phần tăng thu từ thuế thu nhập doanh nghiệp, VAT và thuế tiêu thụ vào ngân sách nhà
nước. Nhờ sự hồi phục này, thu ngân sách Nhà nước năm 2022 đã tăng đáng kể. Cụ thể, tổng
thu ngân sách Nhà nước năm 2022 ước đạt 1.803,6 nghìn tỷ đồng, bằng 127,8% dự toán, tăng
15% so với năm 2021. Sự tăng trưởng này chủ yếu do hoạt động kinh tế tiếp tục duy trì đà
phục hồi và tăng trưởng khả quan.
- Nguồn đầu tư nước ngoài (FDI):
Nguồn đầu tư nước ngoài (FDI) đã có tác động tích cực đến thu ngân sách Nhà nước
Việt Nam. Năm 2022, tổng vốn FDI đăng kí vào Việt Nam đạt gần 27,72 tỷ USD, mức vốn
FDI thực hiện đạt kỷ lục 22,4 tỷ USD, tăng 13,5% so với cùng kỳ năm 2021. Đây là số vốn
FDI thực hiện cao nhất trong 5 năm (2017 - 2022). Vốn đầu tư đăng ký mới và điều chỉnh
đều tăng so với năm 2020, đặc biệt vốn điều chỉnh tăng mạnh tới 40,5%.
Các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 18 ngành trong tổng số 21 ngành kinh tế quốc
dân. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đạt trên 18,1
tỷ USD, chiếm 58,2% tổng vốn đầu tư đăng ký. Thu từ khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài đạt 117,6% dự toán, tăng 11,5%.
Nguồn đầu tư nước ngoài đã góp phần quan trọng vào việc tăng thu ngân sách Nhà
nước thông qua việc tạo ra thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài, cũng như qua việc thuế từ hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh
nghiệp này.
- Cơ quan Thuế, Hải quan tăng cường quản lý thuế
Cơ quan Thuế và Hải quan đã tăng cường quản lý thuế nhằm tăng thu ngân sách Nhà
nước trong giai đoạn này. Cụ thể, các cơ quan này đã xây dựng cơ sở dữ liệu lớn từ hóa đơn
điện tử để truy dấu gian lận, rà soát những nguồn thu có tiềm năng nhưng còn thất thu để đưa
vào quản lý. Họ đã quyết liệt quản lý, chống thất thu, khai thác tăng thu từ hoạt động thương
mại điện tử, từ hoạt động chuyển nhượng bất động sản.
Năm 2018, cơ quan Thuế đã thực hiện 95,94 nghìn cuộc thanh tra, kiểm tra và kiểm tra
gần 597 nghìn hồ sơ khai thuế tại cơ quan thuế, qua đó kiến nghị xử lý thu vào NSNN gần 19
nghìn tỷ đồng (số đã thu vào NSNN là 14,74 nghìn tỷ đồng), giảm lỗ 40,9 nghìn tỷ đồng; đã
đôn đốc thu hồi được 32 nghìn tỷ đồng nợ đọng thuế (tổng số nợ thuế nội địa, không bao gồm
nợ đang xử lý, chờ điều chỉnh, tính đến 31/12/2018 là 76.328 tỷ đồng, giảm 1.227 tỷ đồng so
với cuối năm 2017, trong đó nợ có khả năng thu là 38.756 tỷ đồng, chiếm 50,8% tổng số nợ
thuế, giảm 6.298 tỷ đồng so với cuối năm 2017)
Đến nay, đã có 42 nhà cung cấp nước ngoài kê khai nộp thuế, với tổng số thuế đã nộp
là 3,44 nghìn tỷ đồng. Ước thu cả năm 2022 từ hoạt động chuyển nhượng bất động sản đạt
hơn 41 nghìn tỷ đồng, tăng hơn 20 nghìn tỷ đồng, khoảng 97% so năm 20211. Nhờ vậy, đã
góp phần không nhỏ trong việc tăng thu ngân sách Nhà nước trong năm 2022
Điều này đã giúp truy dấu gian lận, rà soát những nguồn thu có tiềm năng nhưng còn
thất thu để đưa vào quản lý, quyết liệt quản lý, chống thất thu, khai thác tăng thu từ hoạt động
thương mại điện tử, từ hoạt động chuyển nhượng bất động sản.

2.3.2. Xã hội
Dịch bệnh Covid-19 đã gây ra ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế toàn cầu nói chung và
Việt Nam nói riêng. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp bị gián đoạn, ảnh
hưởng đến đời sống kinh tế - xã hội và tác động trực tiếp đến khoản thu ngân sách nhà nước.
Trong thời gian đó, Bộ Tài chính đã có nhiều giải pháp về thu – chi ngân sách phù hợp, góp
phần quản lý tốt công tác NSNN và đảm bảo ổn định tình hình phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước.
Thu ngân sách nhà nước giảm từ 1.553.611 nghìn tỷ đồng năm 2019 xuống còn
1.510.579 nghìn tỷ đồng năm 2020 do chịu ảnh hưởng từ COVID - 19. Sau năm 2020, thu
ngân sách bắt đầu ổn định và tăng trở lại.

2.3.3. Chính trị


- Chính sách thuế và chính sách kinh tế
Chính phủ đã thực hiện hàng loạt chính sách hỗ trợ, củng cố năng lực phục hồi cho
doanh nghiệp, trong đó có các chính sách miễn giảm thuế, phí. Điều hành chính sách tài khóa
linh hoạt, thận trọng, bám sát diễn biến của dịch COVID-19, phối hợp chặt chẽ với chính
sách tiền tệ và các chính sách vĩ mô khác, thực hiện mục tiêu vừa phòng, chống dịch, vừa
phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn dịch COVID-19 tác động mạnh mẽ lên
nền kinh tế. Do đó, thu ngân sách nhà nước 2020 đạt 1.510.579 tỷ giảm 2,77% so với 2019.
Cơ quan thuế, hải quan cũng tăng cường quản lý thuế, xây dựng cơ sở dữ liệu lớn từ
hóa đơn điện tử để truy dấu gian lận, rà soát những nguồn thu có tiềm năng nhưng còn thất
thu để đưa vào quản lý, chống thất thu, khai thác tăng thu từ hoạt động thương mại điện tử, từ
hoạt động chuyển nhượng bất động sản.

2.4. Đánh giá hiệu quả thu ngân sách


Thu ngân sách nhà nước giai đoạn 2018 - 2022 tăng trưởng trung bình 6,29%/năm. Thu
ngân sách có xu hướng giảm trong năm 2020 và tăng trưởng lại từ năm 2021 (2021 tăng
5,35% so với năm 2020, 2022 tăng 14,08% so với 2021). Nguyên nhân chủ yếu là do hoạt
động sản xuất kinh doanh bị gián đoạn do dịch COVID-19. Đồng thời, chính phủ cũng thực
hiện điều chỉnh chính sách thuế theo hướng miễn, giảm, giãn, giảm thời hạn nộp thuế ở hầu
hết các sắc thuế chính như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế giá trị gia
tăng, thuế xuất nhập khẩu, thuế sử dụng đất nông nghiệp nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp.
Thu Ngân sách Nhà nước có cơ cấu ngày càng bền vững hơn, phù hợp với xu hướng
hội nhập kinh tế quốc tế với hàng loạt các hiệp định cắt giảm thuế quan khi tỷ trọng thu nội
địa trong tổng thu Ngân sách Nhà nước ngày càng cao tăng từ mức 55.76% trong tổng thu
Ngân sách Nhà nước năm 2008 lên đến hơn 84.9% năm 2018 đồng thời thu nội địa luôn được
duy trì ở mức trên 82% tổng thu ngân sách nhà nước trong giai đoạn 2018 - 2022.
Không những quy mô thu NSNN được cải thiện, cơ cấu thu NSNN bền vững hơn so
với tỷ trọng thu nội địa tăng dần, giai đoạn 2006-2010 và giai đoạn 2011-2015 tương ứng là
59,5% và 68,7%, đến năm 2020 đạt 85,6% tổng thu NSNN, đạt kế hoạch là 84-85% tại Nghị
quyết số 25/2016/QH14, đã góp phần bù đắp xu hướng giảm thu từ dầu thô và thu từ thuế
xuất, nhập khẩu. Tỷ trọng thu dầu thô và thu cân đối từ hoạt động xuất, nhập khẩu bình quân
giai đoạn 2018-2022 là 17,3% tổng thu NSNN, giảm mạnh so với các giai đoạn trước (giai
đoạn 2006-2010 tỷ trọng thu cân đối xuất nhập khẩu và dầu thô là 38,3%; giai đoạn 2011-
2015 là 30%).
Đánh giá theo phân cấp NSNN, thu ngân sách địa phương (NSĐP) có xu hướng tăng
dần theo các giai đoạn cả về quy mô và tỷ trọng, góp phần tăng cường tính tự chủ cho NSĐP.
Tỷ trọng thu NSĐP trong tổng thu NSNN đã tăng từ 37,4% giai đoạn 2011-2015 lên khoảng
45% giai đoạn 2016-2020; quy mô thu NSĐP giai đoạn 2016-2020 tăng khoảng 1,87 lần so
với giai đoạn 2011-2015, cao hơn mức tăng quy mô thu NSNN nói chung (khoảng 1,6 lần).
Số lượng các địa phương có số thu NSNN trên địa bàn vào nhóm trên 10.000 tỷ đồng, từ
5.000 nghìn đến dưới 10.000 tỷ đồng và từ 1.000 tỷ đồng đến dưới 5.000 tỷ đồng không
ngừng tăng qua các năm
Thu Ngân sách Nhà nước từ xuất nhập khẩu và thu Ngân sách Nhà nước từ dầu thô
giảm từ mức đóng góp 21.24% và 20.8% tổng thu Ngân sách Nhà nước năm 2008 xuống còn
14.3% và 4% năm 2018. Thu Ngân sách Nhà nước từ xuất nhập khẩu trong tổng thu Ngân
sách Nhà nước giảm do cắt giảm thuế quan theo các hiệp định thương mại tự do. Thu Ngân
sách Nhà nước đỡ phụ thuộc vào dầu thô thể hiện xu hướng tốt vì đây là nguồn thu từ tài
nguyên thiên nhiên và không có tính bền vững lâu dài.
Thu Ngân sách Nhà nước qua các năm đều cao hơn so với dự toán trước đó trừ năm
2020 thu ngân sách chỉ bằng 87,7% dự toán. Trung bình trong giai đoạn 2018 đến 2022 thu
ngân sách thực tế luôn cao hơn dự toán thu Ngân sách Nhà nước 7.82%. Điều này đặt ra yêu
cầu về công tác dự báo thu Ngân sách Nhà nước cần chính xác và sát với thực tế hơn. Bên
cạnh đó, xuất phát từ nguyên nhân chủ quan một số địa phương có thể muốn dự báo thu ngân
sách ở mức thấp hơn so với thu ngân sách thực tế hàng năm để từ đó có khoản thưởng vượt
thu từ ngân sách trung ương.

III. THÁCH THỨC VÀ CƠ HỘI


3.1 Những thách thức mà ngân sách đang phải đối mặt ( ví dụ: giảm thu nhập, tăng chi
tiêu y tế,...)
Thứ nhất, triển vọng kinh tế thế giới đang có những diễn biến xấu đi, tác động bất lợi đến
kinh tế Việt Nam

Triển vọng kinh tế toàn cầu được đánh giá sẽ tiếp tục trải qua một năm khó khăn. IMF
trong báo cáo tháng 4/2023 dự báo, có đến 1/3 nền kinh tế thế giới sẽ rơi vào suy thoái. Tăng
trưởng kinh tế toàn cầu giảm từ 3,4% vào năm 2022 xuống 2,8% vào năm 2023, trước khi ổn
định ở mức 3,0% vào năm 2024. Các nền kinh tế tiên tiến chứng kiến sự suy giảm tăng
trưởng đặc biệt rõ rệt, từ 2,7% vào năm 2022 xuống 1,3% vào năm 2023. Trong một kịch bản
thay thế hợp lý với căng thẳng gia tăng trong lĩnh vực tài chính, tăng trưởng toàn cầu sẽ giảm
xuống còn khoảng 2,5% vào năm 2023 với tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế tiên tiến
giảm xuống dưới 1%. Lạm phát toàn cầu theo đường cơ sở giảm từ 8,7% vào năm 2022
xuống 7,0% vào năm 2023 do giá hàng hóa thấp hơn nhưng lạm phát cơ bản có thể sẽ giảm
chậm hơn. Trong hầu hết các trường hợp, khó có khả năng lạm phát quay trở lại mục tiêu
trước năm 2025.
Như vậy, có thể thấy rằng, triển vọng kinh tế toàn cầu không mấy tích cực với tăng
trưởng kinh tế suy giảm, lạm phát dù có giảm so với năm 2022, nhưng vẫn ở mức cao. Trong
bối cảnh đó, Việt Nam là quốc gia có độ mở lớn sẽ không tránh khỏi xu hướng tác động của
kinh tế thế giới. Tác động của sự suy giảm kinh tế toàn cầu trong giai đoạn này sẽ tác động
đến nền kinh tế Việt Nam nhiều hơn giai đoạn trước - khi 70% giá trị hàng hóa xuất khẩu của
chúng ta là những hàng hóa không thiết yếu - nhu cầu bị cắt giảm nhiều nhất khi kinh tế suy
giảm. Triển vọng kinh tế không tốt được dự báo còn kéo dài sẽ tác động rất lớn đến tình hình
xuất nhập khẩu cũng như nguồn thu của NSNN trong những tháng còn lại của năm 2023.

Tác động đầu tiên đó là tác động đến nguồn thu từ các doanh nghiệp FDI. Khu vực
doanh nghiệp FDI đóng góp đến 15% tổng số thu NSNN của Việt Nam, các doanh nghiệp
FDI cũng chiếm đến 75% tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam (Tổng cục Thống kê,
2023). Sự suy giảm kinh tế toàn cầu trong năm 2023, có thể sẽ dẫn đến nguồn thu của NSNN
từ khu vực này sẽ không đạt được như dự toán ban đầu của Bộ Tài chính.

Không chỉ các doanh nghiệp FDI, triển vọng kinh tế toàn cầu ảm đạm cũng tác động đến
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam. Các doanh nghiệp đang hoạt động cũng bị
ảnh hưởng rất nhiều khi số đơn hàng mới giảm liên tục từ quý III/2022 và được dự báo sẽ còn
tiếp tục suy giảm trong những quý tới (đặc biệt với các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may, giày
dép, đồ gỗ).

Thứ hai, kinh tế trong nước được dự báo còn tiếp tục khó khăn trong những năm tới

Mặc dù kinh tế năm 2022 tăng trưởng lên đến 8%, tuy nhiên bước sang năm 2023, Chính
phủ và Quốc hội đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế chỉ ở mức 6,5% - thấp hơn rất nhiều năm
2022. Điều này cho thấy, cả Chính phủ và Quốc hội đã phân tích tình hình kinh tế thế giới và
những khó khăn nội tại của nền kinh tế để đặt ra mức tăng trưởng kinh tế phù hợp hơn.

Tuy nhiên, kết quả tăng trưởng kinh tế quý I/2023 thấp hơn kỳ vọng đang cho thấy, kinh
tế trong nước có thể có những diễn biến khó hơn dự đoán. Điều này được phản ánh khá rõ
qua các dự báo kinh tế Việt Nam được thay đổi trong thời gian qua. Nếu như cuối 2022, IMF
đã đưa ra dự báo tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2023 là 6,2%, còn mức dự báo
của WB là 6,7% thì trong báo cáo cập nhật tháng 4 năm 2023, cả hai tổ chức này đều hạ dự
báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam xuống còn 5,8% (IMF) và 6,3%( World Bank). Tương tự
Ngân hàng HSBC cũng hạ dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam từ mức 6% xuống 5,8%
(TP, 2023). Trong các báo cáo kinh tế cập nhật sau quý I/2023, ngoài các tổ chức trên, hầu
hết các tổ chức và định chế tài chính lớn đều hạ dự báo tăng trưởng kinh tế GDP của Việt
Nam. Điều này cho thấy rằng, những khó khăn của kinh tế trong nước sẽ còn tiếp tục trong
những quý còn lại. Và điều này có thể sẽ tác động đến NSNN.

Trước hết là nguồn thu NSNN từ các doanh nghiệp trong nước. Số liệu quý I/2023 của
Tổng cục Thống kê cho thấy, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới quý I/2023 giảm 2%; số
doanh nghiệp quay trở lại hoạt động giảm 10%; số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có
thời hạn tăng 20,1% so với cùng kỳ. Như vậy, số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường (60.000
doanh nghiệp) nhiều hơn số doanh nghiệp gia nhập thị trường (57.000 doanh nghiệp). Không
chỉ số doanh nghiệp gia nhập mới thị trường ít đi, mà đối với các doanh nghiệp đang hoạt
động, thì sự suy giảm trong tốc độ tăng trưởng kinh tế trong nước, số lượng việc làm mới tạo
ra ít, sức cầu yếu cũng khiến các doanh nghiệp thận trọng hơn trong các kế hoạch kinh doanh
của mình. Theo thống kê thì dự kiến tổng lợi nhuận sau thuế của 358 doanh nghiệp lớn nhất
và ngân hàng niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam trong năm 2023 gần như đi ngang so
với năm 2022.

Kết quả kinh doanh quý I/2023 của 1.000 doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán
Việt Nam cũng đã cho thấy những khó khăn rất lớn mà các doanh nghiệp trong tất cả các
ngành nghề đều đang gặp phải, khi lợi nhuận của nhóm ngành vật liệu xây dựng giảm 76%,
dệt may giảm 67%, ngành bán lẻ đa kênh giảm 99% (Ban Thời sự, 2023). Đặc biệt, nhóm
ngành ngân hàng - vốn được coi là ngành có vốn hóa lớn nhất cũng ít bị tác động nhất trong
các nhóm ngành thì lợi nhuận quý I/2023 cũng giảm so với các năm trước. Dự kiến lợi nhuận
của các doanh nghiệp trong nước đi ngang, thậm chí là giảm và có khả năng sẽ thua lỗ sẽ đặt
ra thách thức rất lớn cho NSNN khi nhóm các doanh nghiệp này (bao gồm cả doanh nghiệp
nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh) đang được dự toán sẽ đóng góp đến 30% vào
tổng thu NSNN năm 2023. Việc sụt giảm lợi nhuận, thậm chí thua lỗ của nhóm các doanh
nghiệp trong nước có thể sẽ làm cho NSNN có thể không đạt được số thu như dự toán ban
đầu, qua đó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến các cân đối ngân sách năm 2023.

Sự khó khăn của kinh tế không chỉ tác động đến các doanh nghiệp, mà nó có thể ảnh
hưởng đến các nguồn thu khác của NSNN bao gồm: thuế thu nhập cá nhân, thuế giá trị gia
tăng. Khi hai nguồn thu này phụ thuộc rất nhiều vào tình hình kinh doanh của các doanh
nghiệp và sự lạc quan của người tiêu dùng.

Với những dự báo không khả quan về lợi nhuận của các doanh nghiệp, về đơn hàng mới, về
số lượng các doanh nghiệp mới sẽ làm cho người dân có xu hướng thắt chặt chi tiêu, hạn chế
những hàng hóa dịch vụ không thiết yếu. Điều đó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nguồn thu từ thuế
giá trị gia tăng trong thời gian sắp tới. Mặc dù, Chính phủ đã có Tờ trình Quốc hội vào ngày
24/5/2023 về tiếp tục thực hiện chính sách giảm thuế giá trị gia tăng 2% theo Nghị quyết số
43/2022/QH15, tuy nhiên, chính sách này sẽ chỉ có hiệu quả nếu thu nhập của người dân tăng
lên hoặc ít nhất vẫn được đảm bảo. Còn nếu triển vọng về việc làm và thu nhập của người
dân không có những tín hiệu tốt, thì chính sách này có thể sẽ khó mang lại sự gia tăng tiêu
dùng đủ như mong muốn của Chính phủ và Bộ Tài chính.

Thứ ba, sự ảm đạm của thị trường bất động sản (BĐS)

Như vậy có thể thấy rằng, thử thách lớn nhất mà NSNN sẽ phải đối mặt trong thời gian
còn lại của năm 2023 là sự suy giảm của kinh tế toàn cầu cũng như những triển vọng tăng
trưởng không cao của kinh tế trong nước, thì sự ảm đạm của thị trường BĐS cũng sẽ là một
thách thức đối với nguồn thu của NSNN trong giai đoạn sắp tới.

Trong dự toán thu NSNN năm 2023, các khoản thu liên quan đến BĐS và đất chiếm
khoảng 10% các khoản thu. Tuy nhiên, việc thị trường BĐS ảm đạm và đóng băng từ giữa
năm 2022 và tiếp tục kéo dài qua cũng sẽ là một khó khăn rất lớn cho NSNN để đạt được
mức thu như dự kiến ban đầu. Bên cạnh đó, sự yếu kém cùng những vấn đề liên quan đến thị
trường BĐS tác động trực tiếp đến các doanh nghiệp trong nhiều lĩnh vực khác nhau bao
gồm: vật liệu xây dựng, xây dựng, môi giới BĐS. Đến hết năm 2022, lợi nhuận của các
doanh nghiệp xây dựng niêm yết trên 3 sàn chứng khoán giảm đến 11%. Trong đó, 37 doanh
nghiệp tăng trưởng lợi nhuận, 34 doanh nghiệp báo lãi giảm, còn lại là các doanh nghiệp lỗ
trong năm 2022. Lợi nhuận dự kiến năm 2023, của toàn bộ ngành xây dựng được dự đoán sẽ
tiếp tục suy giảm ở mức từ 10%-15%, thậm chí có những doanh nghiệp lợi nhuận dự kiến
giảm đến gần 40% so với năm 2022. Nếu thị trường BĐS không ấm lên, cũng như những
vướng mắc hiện nay không được tháo gỡ, thì nguồn thu trực tiếp liên quan đến lĩnh vực BĐS
khó có thể đạt được theo kế hoạch. Ngoài ra, sự khó khăn của thị trường BĐS cũng sẽ khiến
cho lợi nhuận của các doanh nghiệp trong nhiều lĩnh vực suy giảm thậm chí có thể lỗ qua đó
cũng sẽ khiến cho nguồn thu của NSNN từ các doanh nghiệp bị ảnh hưởng rất lớn. Mặc dù
việc đẩy mạnh đầu tư công được kỳ vọng có thể sẽ tháo gỡ phần nào khó khăn cho các doanh
nghiệp lĩnh vực xây dựng, vật liệu xây dựng. Tuy nhiên, tác động của chính sách này khó lan
tỏa đến toàn bộ các doanh nghiệp trong các lĩnh vực này. Do đó, sự ảm đạm của thị trường
BĐS sẽ vẫn là một thách thức lớn đối với nguồn thu của NSNN.

Thứ tư, chi đầu tư phát triển tăng hơn 40% kéo giảm thặng dư ngân sách

Một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho thặng dư ngân sách thường xuyên của
Việt Nam giảm là do quy mô chi thường xuyên liên tục tăng cao gây nên áp lực tài chính: Khi
ngân sách tăng cao, Chính phủ phải tìm cách huy động thêm nguồn tài chính để đáp ứng chi
tiêu. Điều này có thể dẫn đến việc tăng thuế, vay thêm nợ, hoặc cắt giảm các chương trình và
dự án. Ngoài ra chi đầu tư tăng cao còn tác động đến kinh tế ảnh hưởng đến tình hình kinh tế.
Nếu không được quản lý cẩn thận, nó có thể gây lạm phát, tăng lãi suất, và ảnh hưởng đến
đầu tư và tiêu dùng. Ngoài ra còn ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ công: Tăng cao của ngân
sách có thể dẫn đến tăng chi tiêu cho các dự án và chương trình. Tuy nhiên, quản lý hiệu quả
và đảm bảo chất lượng dịch vụ công là một thách thức đối với NSNN

3.2 Các cơ hội có thể tận dụng để cải thiện ngân sách
Thứ nhất, cơ hội lớn để tăng thu ngân sách từ thuế tối thiểu toàn cầu
Việt Nam đã tham gia Hiệp định ngăn ngừa xói mòn cơ sở tính thuế và chuyển dịch lợi
nhuận (MLI) từ tháng 2/2022. Tham gia triển khai thuế tối thiểu toàn cầu góp phần tăng
cường hội nhập quốc tế của Việt Nam nói chung, cải cách hệ thống thuế theo hướng phù hợp
với thông lệ và chuẩn mực quốc tế nói riêng. Việc tích cực tham gia, thực hiện các công cụ,
khuôn khổ pháp lý của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) sẽ góp phần cải thiện
hình ảnh của Việt Nam trong mắt các đối tác, nhà đầu tư nước ngoài. Điều này cũng sẽ góp
phần hoàn thiện khung pháp lý về thuế của Việt Nam và thúc đẩy sửa đổi chính sách thu hút
đầu tư nước ngoài (FDI) theo hướng giảm ưu đãi về thuế và tăng cường cạnh tranh bằng môi
trường đầu tư, cơ sở hạ tầng, nhân lực...khi được thực thi thuế tối thiểu toàn cầu sẽ góp phần
tăng nguồn thu từ thuế, hạn chế các hiện tượng trốn, tránh thuế, chuyển giá…, của các tập
đoàn đa quốc gia tại Việt Nam. Việt Nam có thể tận dụng nguồn thu tăng thêm từ việc áp
dụng thuế tối thiểu toàn cầu (nếu có) để tăng cường đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, cải
thiện các yếu tố về môi trường đầu tư như: cơ sở hạ tầng, chất lượng nguồn nhân lực…
Thứ hai, tận dụng dư địa lạm phát thấp
Nhìn vào bức tranh kinh tế xã hội có một số điểm sáng như: tốc độ tăng trưởng chung
vẫn dương, dù trong một số tháng bị sụt giảm tương đối mạnh do buộc phải tiến hành giãn
cách xã hội để ứng phó với tình hình dịch diễn biến phức tạp cùng với sự suy thoái của tình
hình kinh tế chung trên toàn thế giới.

Ngân sách đang được quản lý tốt, dù thực tế thu ngân sách bị ảnh hưởng do kinh tế khó
khăn, sụt giảm nhưng thu ngân sách nhà nước (NSNN) vẫn đạt 77% dự toán thu. Đây là một
điểm quan trọng bởi nó giúp tích lũy nguồn lực, hỗ trợ công tác chống dịch một cách tốt nhất.
Chỉ số giá tiêu dùng CPI, bình quân 9 tháng tăng 1,82% so với cùng kỳ 2020, thấp nhất
trong 6 năm, thể hiện một phần là cầu còn yếu, vòng luân chuyển tiền tệ trong nền kinh tế
quốc dân còn chậm, gây ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh. Nhân cơ hội áp lực lạm phát
giảm, có thể xem xét điều chỉnh chính sách nới lỏng tiền tệ hơn (như hạ lãi suất) cũng như
triển khai các gói hỗ trợ tài khoá, bơm thêm tiền thúc đẩy sản xuất kinh doanh, hỗ trợ DN
phát triển.

Thực tế, thời gian qua, bên cạnh chống dịch quyết liệt, Chính phủ đã và đang khẩn trương
xây dựng và ban hành các chương trình kế hoạch lớn đa dạng, mục tiêu là dồn các nguồn lực
bao gồm cả ngân sách để tạo cú hích mạnh giúp phục hồi kinh tế.

Thứ ba, khai thác tối đa các FTA

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý III/2021 ước tính giảm 6,17% so với cùng kỳ năm
trước, cho thấy tác động nặng nề của làn sóng dịch COVID-19 lớn hơn mọi dự đoán của giới
kinh tế trước đó.

Tuy nhiên, nhìn tổng thể khi đánh giá “sức khỏe” của nền kinh tế, chúng ta vẫn thấy
được các động lực cho sự phục hồi và tăng trưởng. Trước tiên, không ít doanh nghiệp (DN)
gặp khó khăn do dịch, nhưng nhìn chung đây vẫn là vấn đề tạm thời. Khi nền kinh tế mở cửa
trở lại với quan điểm chống dịch đúng đắn của Chính phủ về thích ứng an toàn, linh hoạt với
dịch COVID-19 thì tình hình sẽ sớm cải thiện.

Điểm sáng đáng chú ý nhất là xuất khẩu, thương mại quốc tế. Tính chung 9 tháng, tổng
kim ngạch đạt 483,17 tỷ USD, tăng 24,4% so với cùng kỳ năm trước. Do đó, trong quý IV,
nếu các DN nghiệp trở lại hoạt động kịp thời với các đơn hàng dịp cuối năm, tổng kim ngạch
XNK trong năm 2021 vẫn có thể đạt mức trên 600 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam vẫn có xu hướng tăng qua các năm, cho thấy nền kinh tế của Việt Nam có độ mở rất cao
và giao thương quốc tế sôi động. Việt Nam là quốc gia rất tích cực triển khai hợp tác các hiệp
định thương mại tự do như CPTPP, RCEP, EVFTA… Đây là những hiệp định có tiềm năng
như những “con đường cao tốc” lớn đến các thị trường toàn cầu. Đến nay, các DN Việt Nam
vẫn chưa khai thác triệt để hiệp định thương mại tự do mới.

Về đầu tư nước ngoài, số liệu 9 tháng cho thấy tổng số dự án đầu tư nước ngoài (FDI)
tính đến 20/9/2021 đăng ký cấp mới giảm 37,8% so với cùng kỳ năm 2020 nhưng số vốn
đăng ký tăng 20,6%. Số liệu trên cho thấy, dù bối cảnh rất khó khăn, Việt Nam vẫn là mảnh
đất tốt để đổ vốn đầu tư của các DN FDI.

Các DN khi đầu tư ở Việt Nam tính toán rất kỹ triển vọng lâu dài, không vì một vài khó
khăn trước mắt, ngắn hạn mà họ thay đổi chiến lược đầu tư. Với một Chính phủ tận tâm
trong việc cải thiện môi trường kinh doanh, coi “thành công của nhà đầu tư là thành công của
chính mình”, hay lợi thế thị trường lớn, dồi dào, Việt Nam vẫn là điểm đến hấp dẫn của dòng
vốn FDI trong thời gian tới.

IV. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP


4.1. Đánh giá chung
4.1.1. Thành tựu đạt được
Giai đoạn 2019-2023 là giai đoạn có nhiều biến động trong nền kinh tế thế giới và Việt
Nam do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19. Tuy nhiên, công tác thu ngân sách nhà nước
(NSNN) vẫn đạt được những thành tựu quan trọng:
Thứ nhất, Thu ngân sách nhà nước (NSNN) tăng trưởng
- Tổng thu NSNN: Tăng bình quân 8,4%/năm, cao hơn so với mục tiêu Quốc hội giao
(7,5%/năm).
- Vượt dự toán:
+ 4/5 năm (2019, 2021, 2022, 2023) vượt dự toán.
+ Năm 2020 chỉ thấp hơn dự toán 1,9%.
+ Năm 2023: Thu NSNN ước đạt 1.693,5 nghìn tỷ đồng, bằng 104,5% dự toán (tăng
72,7 nghìn tỷ đồng).
+ Năm 2022: Thu NSNN đạt 1.766,1 nghìn tỷ đồng, vượt 2,3% dự toán (tăng 163,7
nghìn tỷ đồng so với năm 2021).
Thứ hai, Cơ cấu thu NSNN dần hợp lý:
- Tỷ trọng thu nội địa tăng: Từ 77,8% (2019) lên 82,5% (2023).
- Tỷ trọng thu từ xuất khẩu dầu thô giảm: Từ 12,5% (2019) xuống 7,5% (2023).

Thứ ba, Công tác quản lý thu NSNN được cải thiện:
Hệ thống quản lý thu NSNN ngày càng hoàn thiện: Ứng dụng công nghệ thông tin hiệu
quả.
Công tác thanh tra, kiểm tra được tăng cường: Góp phần nâng cao hiệu quả thu NSNN.
- Hoàn thiện thể chế, chính sách thu NSNN:
+ Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 được ban hành, có hiệu lực từ ngày 01/7/2020,
đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định nhằm tăng cường công tác quản lý thuế, nâng cao
hiệu quả thu NSNN.
+ Ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi hành Luật Quản lý thuế và các quy định pháp
luật thuế khác.
- Tăng cường công tác quản lý thuế:
+ Ứng dụng công nghệ thông tin:
● Hệ thống quản lý thuế điện tử được triển khai rộng rãi, giúp nâng cao hiệu quả quản
lý thuế, giảm thiểu thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho người nộp thuế.
● Hệ thống hóa đơn điện tử được triển khai bắt buộc từ năm 2022, giúp tăng cường
quản lý việc kê khai, nộp thuế.
+ Nâng cao chất lượng công tác thanh tra, kiểm tra thuế:
● Tăng cường thanh tra, kiểm tra thuế đối với các tổ chức, cá nhân có nguy cơ cao vi
phạm pháp luật thuế.
● Áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm pháp luật thuế nghiêm minh, kịp thời.
+ Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật thuế:
● Nâng cao hiểu biết của người dân và doanh nghiệp về nghĩa vụ nộp thuế.
● Tạo môi trường chấp hành pháp luật thuế ngày càng tốt hơn.

4.1.2. Một số hạn chế


Thứ nhất, Cơ cấu thu NSNN chưa hợp lý:
Cơ cấu thu ngân sách của Việt Nam chưa thực sự hợp lý, còn phụ thuộc vào những
nguồn không bền vững; cơ cấu thu NSNN của Việt Nam theo sắc thuế còn chưa đảm bảo với
yêu cầu của một cơ cấu thu hợp lý, bền vững; tỷ lệ thu NSNN so với GDP chưa hợp lý; quy
mô thu ngân sách tuy có tăng nhưng tốc độ tăng không bằng tốc độ chi ngân sách nên dẫn
đến tình trạng bội chi ngân sách trong các năm vừa qua…
Nguyên nhân của những hạn chế trên là do:
- Nguyên nhân chủ quan: Vẫn còn những bất hợp lý trong xác định mức thu của những sắc
thuế quan trọng trong hệ thống thuế nên chưa khai thác có hiệu quả hoặc chưa tạo tiền đề
khai thác có hiệu quả những khoản thu có tiềm năng và có tính bền vững, góp phần tạo nên
tính hợp lý trong quy mô và cơ cấu thu NSNN; cơ sở thuế của một số sắc thuế đã được mở
rộng nhưng chưa khai thác hết khả năng tạo số thu hiện tại và nguồn thu tiềm năng; hệ thống
pháp lý và cơ chế chưa hoàn chỉnh, đồng bộ; sự tuân thủ các chính sách thuế chưa cao;
- Nguyên nhân khách quan: Việt Nam xuất phát điểm từ một nền kinh tế thấp, việc tạo nguồn
và nuôi dưỡng nguồn thu gặp khó khăn; năng lực cạnh tranh của quốc gia và doanh nghiệp
trong nước.
Thứ hai, Công tác quản lý thu NSNN còn bất cập:
Hiện nay số lượng người nộp thuế thì có tới hơn 90% số doanh nghiệp và người nộp thuế
đã được kiểm tra, thanh tra thuế, nhưng qua công tác thanh tra, kiểm toán vẫn phát hiện thêm
nhiều sai phạm bị bỏ sót và đã kiến nghị tăng thêm số tiền thuế phải thu khá nhiều. Mặc dù
cơ quan thanh tra, kiểm toán đã tiến hành nhiều cuộc thanh, kiểm tra và cũng đã có rất nhiều
kiến nghị về chấn chỉnh công tác quản lý thu thuế đối với các bộ, ngành, địa phương, tuy
nhiên tiền thuế thất thu vẫn còn tương đối nhiều do tình trạng trốn thuế, gian lận thuế ngày
càng diễn biến phức tạp, quy mô ngày càng lớn.
Đối với công tác quản lý thu hồi nợ thuế, nợ tiền sử dụng đất, ngành Thuế còn nhiều tồn
tại như chưa thực hiện nghiêm túc đầy đủ, kịp thời đúng quy định của pháp luật về xử lý đối
với các doanh nghiệp sử dụng hóa đơn bất hợp pháp và tình trạng doanh nghiệp sử dụng bất
hợp pháp xảy ra trên diện rộng và phức tạp dẫn đến giảm thu NSNN
Thứ ba, Nợ thuế còn cao
Một số doanh nghiệp phát sinh thuế giá trị gia tăng kê khai quý, thuế tài nguyên, thuế thu
nhập doanh nghiệp nhưng chưa nộp kịp thời vào ngân sách nhà nước (NSNN). Một số doanh
nghiệp có khoản tiền thuế, tiền thuê đất đã hết thời gian gia hạn nộp thuế theo nghị định,
quyết định của Chính phủ để tháo gỡ khó khăn cho người dân và doanh nghiệp nhưng người
nộp thuế (NNT) vẫn còn khó khăn về dòng tiền, chưa nộp được tiền thuế đã được gia hạn. Cụ
thể các doanh nghiệp có số tiền nợ thuế lớn: Công ty TNHH Đầu tư Sài Gòn nợ 103,4 tỷ
đồng, Công ty cổ phần Xây dựng Công trình giao thông 677 nợ 45,6 tỷ đồng, Công ty TNHH
Khai thác Chế biến Khoáng sản Cát Tường nợ 22,5 tỷ đồng…

Thứ tư, Hệ thống quản lý thuế chưa hoàn thiện:


Hệ thống quản lý thuế bị chồng chéo, còn phiền hà trong thủ tục hành chính gây khó
khăn cho người nộp thuế. Ví dụ: thủ tục hoàn thuế còn nhiều bước, rườm rà. Những ách tắc
mang tính hệ thống trong khâu hoàn thuế đối với một số nhóm ngành hàng xuất khẩu xuất
phát từ những văn bản hướng dẫn nghiệp vụ của Tổng cục Thuế có những điểm chưa phù
hợp, thiếu cơ sở pháp lý vững chắc, thiếu tính khả thi, thiếu sự phối hợp chặt chẽ với các cơ
quan liên quan.
4.2. Giải pháp
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống quản lý thuế:
Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2030 được ban hành theo Quyết định số
508/QĐ-TTg ngày 23/4/2022 của Thủ tướng Chính phủ. Chiến lược nêu rõ quan điểm về việc
xây dựng thể chế quản lý thuế sẽ tiếp tục hoàn thiện để đơn giản hóa thủ tục hành chính, đẩy
mạnh ứng dụng công nghệ thông tin nhằm giảm chi phí tuân thủ pháp luật thuế của người dân
và doanh nghiệp. Đồng thời, tạo cơ sở pháp lý để xây dựng cơ quan thuế Việt Nam hiện đại,
chuyên nghiệp, hiệu lực, hiệu quả, liêm chính, đủ năng lực để thực hiện và quản lý tốt các
mục tiêu và nội dung cải cách hệ thống thuế đã đề ra.
- Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật thuế giúp nâng cao hiểu biết của
người dân và doanh nghiệp về nghĩa vụ nộp thuế, từ đó tạo một môi trường chấp hành pháp
luật thuế ngày càng tốt hơn.
- Nâng cao hiệu quả thanh tra, kiểm tra thuế đối với các tổ chức, cá nhân có nguy cơ cao vi
phạm pháp luật thuế. Đồng thời, áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm pháp luật thuế nghiêm
minh, kịp thời.
- Đẩy mạnh công tác đào tạo tập huấn, trao đổi nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra thuế, nâng cao
năng lực và kỹ năng cho công chức làm công tác thanh tra, kiểm tra thuế trong việc phát hiện
phương thức, thủ đoạn, hành vi gian lận mới đảm bảo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Với những giải pháp đồng bộ, quyết liệt, công tác thu ngân sách nhà nước sẽ ngày càng
được hoàn thiện, góp phần đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, phục vụ cho công tác
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

You might also like