Professional Documents
Culture Documents
Trước hết, Chính phủ sẽ hướng hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế đi vào quỹ
đạo mà chính phủ đã hoạch định để hình thành cơ cấu kinh tế tối ưu, tạo điều kiện cho nền
kinh tế phát triển ổn định và bền vững.
Thông qua hoạt động chi Ngân sách, Nhà nước sẽ cung cấp kinh phí đầu tư cho cơ sở kết
cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt trên cơ sở đó tạo môi
trường và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế (có thể thấy rõ nhất tầm quan trọng của điện lực, viễn thông, hàng không đến
hoạt động kinh doanh của các Doanh nghiệp). Bên cạnh đó, việc cấp vốn hình thành các
doanh nghiệp Nhà nước là một trong những biện pháp căn bản để chống độc quyền và giữ
cho thị trường khỏi rơi vào tình trạng cạnh tranh không hoàn hảo. Và trong những điều kiện
cụ thể, nguồn kinh phí trong ngân sách cũng có thể được sử dụng để hỗ trợ cho sự phát triển
của các doanh nghiệp, đảm bảo tính ổn định về cơ cấu hoặc chuẩn bị cho việc chuyển sang cơ
cấu mới hợp lý hơn. Thông qua hoạt động thu, bằng việc huy động nguồn tài chính thông qua
thuế, ngân sách nhà nước đảm bảo thực hiện vai trò định hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn
chế sản xuất kinh doanh.
- Về mặt kinh tế: Kích thích sự tăng trưởng kinh tế theo sự định hướng phát triển kinh tế xã
hội thông qua các công cụ thuế và thuế suất của nhà nước sẽ góp phần kích thích sản xuất
phát triển thu hút sự đầu tư của các doanh nghiệp.ngoài ra nhà nước còn dùng ngân sách nhà
nước đầu tư vào cơ sở hạ tầng tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp
hoạt động
- Về mặt xã hội: Vai trò điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. Trợ giúp
trực tiếp dành cho những người có thu nhập thấp hay có hoàn cảnh đặc biệt như chi về trợ cấp
xã hội, trợ cấp gián tiếp dưới hình thức trợ giá cho các mặt hàng thiết yếu, các khoản chi phí
để thực hiện chính sách dân số, chính sách việc làm, chống mù chữ, hỗ trợ đồng bào bão lụt.
- Về mặt thị trường: Nhà nước sẽ sử dụng ngân sách nhà nước như một công cụ để góp phần
bình ổn giá cả và kiềm chế lạm phát. Nhà nước chỉ điều tiết những mặt hàng quan trọng
những mặt hàng mang tính chất chiến lược. Cơ chế điều tiết thông qua trợ giá, điều chỉnh
thuế suất thuế xuất nhập khẩu, dự trữ quốc gia. Thị trường vốn sức lao động: thông qua phát
hành trái phiếu và chi tiêu của chính phủ. Kiềm chế lạm phát: Cùng với ngân hàng trung
ương với chính sách tiền tệ thích hợp NSNN góp phần điều tiết thông qua chính sách thuế và
chi tiêu của chính phủ.
- Phí và lệ phí: Phí và lệ phí là khoản thu có tính chất bắt buộc, nhưng mang tính đối giá,
nghĩa là phí và lệ phí thực chất là khoản tiền mà mọi công dân trả cho nhà nước khi họ hưởng
thụ các dịch vụ do nhà nước cung cấp. So với thuế, tính pháp lý của phí và lệ phí thấp hơn
nhiều. Phí gắn liền với vấn đề thu hồi một phần hay toàn bộ chi phí đầu tư đối với hàng hóa
dịch vụ công cộng hữu hình. Lệ phí gắn liền với việc thụ hưởng những lợi ích do việc cung
cấp các dịch vụ hành chính, pháp lý cho các thể nhân và pháp nhân.
- Các khoản thu từ các hoạt động kinh tế của nhà nước: Các khoản thu này bao gồm:
+ Thu nhập từ vốn góp của nhà nước vào các cơ sở kinh tế có vốn góp thuộc sở hữu
nhà nước
+ Thu hồi tiền cho vay của nhà nước.
- Thu từ hoạt động sự nghiệp: Các khoản thu có lãi và chênh lệch từ các hoạt động của các cơ
sở sự nghiệp có thu của nhà nước.
- Thu từ bán hoặc cho thuê tài nguyên, tài sản thuộc sở hữu nhà nước: Khoản thu này mang
tính chất thu hồi vốn và có một phần mang tính chất phân phối lại, vừa có tính chất phân phối
lại, vừa có tác dụng nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản quốc gia vừa tăng nguồn thu cho ngân
sách nhà nước. Các nguồn thu từ bán hoặc cho thuê tài sản, tài nguyên, thiên nhiên; thu về
bán tài sản thuộc sở hữu nhà nước.
- Thu từ phạt, tịch thu, tịch biên tài sản: Các khoản thu này cũng là một phần thu quan trọng
của thu ngân sách nhà nước và được pháp luật quy định...
2.2. Biến động và xu hướng của nguồn thu năm 2018 - 2022
2.2.1. Quy mô thu ngân sách nhà nước
2.2.1.1. Phân tích quy mô và tốc độ tăng thu ngân sách nhà nước
Nhìn chung, tổng thu NSNN chủ yếu có xu hướng biến động và tốc độ tăng trưởng có
xu hướng giảm trong giai đoạn 2018 - 2022 do bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19, chỉ
tăng mạnh lại vào năm 2022, vào thời điểm đại dịch đã qua đi.
Năm 2018, quyết toán thu NSNN đạt 1,431,662 tỷ đồng, tăng 8,5% so dự toán, chủ yếu
do tăng thu từ tiền sử dụng đất, thuế xuất nhập khẩu và thu từ dầu thô. Đến năm 2019, tình
hình thu NSNN tiếp tục đạt kết quả tích cực, vượt dự toán Quốc hội giao, cụ thể: quyết toán
thu NSNN đạt 1,553,612 tỷ đồng, tăng 8.52% so với năm ngoái. Năm 2020 là năm duy nhất
thu NSNN bị giảm trong giai đoạn này, do ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch COVID-19, thu
NSNN đạt 1,510,579 tỷ đồng. Tuy nhiên, thu ngân sách đã tăng mạnh trở lại trong năm 2021
và năm 2022, chủ yếu do hoạt động kinh tế tiếp tục duy trì đà phục hồi và tăng trưởng khả
quan (GDP tăng 8,02%)
2.2.1.2. Phân tích tỷ trọng thu NSNN/GDP
Tỷ trọng thu/GDP của Việt Nam có xu hướng giảm từ năm 2018 đến năm 2022. Năm
2020, tỷ trọng này giảm từ 20.16% xuống 18.78%, do trong năm này có sự tác động của đại
dịch COVID-19 cùng với sự ảnh hưởng của chính sách miễn giảm thuế để hỗ trợ doanh
nghiệp và người dân khiến GDP giảm. Năm 2021 và 2022 ghi nhận cả thu NSNN và GDP
đều tăng trở lại, dẫn đến tỷ trọng thu NSNN/GDP tăng nhẹ.
Trong giai đoạn 2018 - 2022, cơ cấu thu ngân sách nhà nước Việt Nam theo nguồn hình
thành có sự thay đổi khá rõ rệt, với xu hướng tăng dần tỷ trọng các khoản thu nội địa và giảm
dần sự phụ thuộc vào các nguồn thu từ bên ngoài, cho thấy cơ cấu thu ngày càng bền vững
hơn, tích cực hơn.
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thu ngân sách nhà nước giai đoạn 2018 - 2022
2.3.1. Kinh tế
Giai đoạn 2018 - 2022 là giai đoạn nền kinh tế gặp nhiều biến động và tác động đáng kể
đến nguồn thu ngân sách nhà nước:
2.3.2. Xã hội
Dịch bệnh Covid-19 đã gây ra ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế toàn cầu nói chung và
Việt Nam nói riêng. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp bị gián đoạn, ảnh
hưởng đến đời sống kinh tế - xã hội và tác động trực tiếp đến khoản thu ngân sách nhà nước.
Trong thời gian đó, Bộ Tài chính đã có nhiều giải pháp về thu – chi ngân sách phù hợp, góp
phần quản lý tốt công tác NSNN và đảm bảo ổn định tình hình phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước.
Thu ngân sách nhà nước giảm từ 1.553.611 nghìn tỷ đồng năm 2019 xuống còn
1.510.579 nghìn tỷ đồng năm 2020 do chịu ảnh hưởng từ COVID - 19. Sau năm 2020, thu
ngân sách bắt đầu ổn định và tăng trở lại.
Triển vọng kinh tế toàn cầu được đánh giá sẽ tiếp tục trải qua một năm khó khăn. IMF
trong báo cáo tháng 4/2023 dự báo, có đến 1/3 nền kinh tế thế giới sẽ rơi vào suy thoái. Tăng
trưởng kinh tế toàn cầu giảm từ 3,4% vào năm 2022 xuống 2,8% vào năm 2023, trước khi ổn
định ở mức 3,0% vào năm 2024. Các nền kinh tế tiên tiến chứng kiến sự suy giảm tăng
trưởng đặc biệt rõ rệt, từ 2,7% vào năm 2022 xuống 1,3% vào năm 2023. Trong một kịch bản
thay thế hợp lý với căng thẳng gia tăng trong lĩnh vực tài chính, tăng trưởng toàn cầu sẽ giảm
xuống còn khoảng 2,5% vào năm 2023 với tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế tiên tiến
giảm xuống dưới 1%. Lạm phát toàn cầu theo đường cơ sở giảm từ 8,7% vào năm 2022
xuống 7,0% vào năm 2023 do giá hàng hóa thấp hơn nhưng lạm phát cơ bản có thể sẽ giảm
chậm hơn. Trong hầu hết các trường hợp, khó có khả năng lạm phát quay trở lại mục tiêu
trước năm 2025.
Như vậy, có thể thấy rằng, triển vọng kinh tế toàn cầu không mấy tích cực với tăng
trưởng kinh tế suy giảm, lạm phát dù có giảm so với năm 2022, nhưng vẫn ở mức cao. Trong
bối cảnh đó, Việt Nam là quốc gia có độ mở lớn sẽ không tránh khỏi xu hướng tác động của
kinh tế thế giới. Tác động của sự suy giảm kinh tế toàn cầu trong giai đoạn này sẽ tác động
đến nền kinh tế Việt Nam nhiều hơn giai đoạn trước - khi 70% giá trị hàng hóa xuất khẩu của
chúng ta là những hàng hóa không thiết yếu - nhu cầu bị cắt giảm nhiều nhất khi kinh tế suy
giảm. Triển vọng kinh tế không tốt được dự báo còn kéo dài sẽ tác động rất lớn đến tình hình
xuất nhập khẩu cũng như nguồn thu của NSNN trong những tháng còn lại của năm 2023.
Tác động đầu tiên đó là tác động đến nguồn thu từ các doanh nghiệp FDI. Khu vực
doanh nghiệp FDI đóng góp đến 15% tổng số thu NSNN của Việt Nam, các doanh nghiệp
FDI cũng chiếm đến 75% tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam (Tổng cục Thống kê,
2023). Sự suy giảm kinh tế toàn cầu trong năm 2023, có thể sẽ dẫn đến nguồn thu của NSNN
từ khu vực này sẽ không đạt được như dự toán ban đầu của Bộ Tài chính.
Không chỉ các doanh nghiệp FDI, triển vọng kinh tế toàn cầu ảm đạm cũng tác động đến
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam. Các doanh nghiệp đang hoạt động cũng bị
ảnh hưởng rất nhiều khi số đơn hàng mới giảm liên tục từ quý III/2022 và được dự báo sẽ còn
tiếp tục suy giảm trong những quý tới (đặc biệt với các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may, giày
dép, đồ gỗ).
Thứ hai, kinh tế trong nước được dự báo còn tiếp tục khó khăn trong những năm tới
Mặc dù kinh tế năm 2022 tăng trưởng lên đến 8%, tuy nhiên bước sang năm 2023, Chính
phủ và Quốc hội đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế chỉ ở mức 6,5% - thấp hơn rất nhiều năm
2022. Điều này cho thấy, cả Chính phủ và Quốc hội đã phân tích tình hình kinh tế thế giới và
những khó khăn nội tại của nền kinh tế để đặt ra mức tăng trưởng kinh tế phù hợp hơn.
Tuy nhiên, kết quả tăng trưởng kinh tế quý I/2023 thấp hơn kỳ vọng đang cho thấy, kinh
tế trong nước có thể có những diễn biến khó hơn dự đoán. Điều này được phản ánh khá rõ
qua các dự báo kinh tế Việt Nam được thay đổi trong thời gian qua. Nếu như cuối 2022, IMF
đã đưa ra dự báo tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2023 là 6,2%, còn mức dự báo
của WB là 6,7% thì trong báo cáo cập nhật tháng 4 năm 2023, cả hai tổ chức này đều hạ dự
báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam xuống còn 5,8% (IMF) và 6,3%( World Bank). Tương tự
Ngân hàng HSBC cũng hạ dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam từ mức 6% xuống 5,8%
(TP, 2023). Trong các báo cáo kinh tế cập nhật sau quý I/2023, ngoài các tổ chức trên, hầu
hết các tổ chức và định chế tài chính lớn đều hạ dự báo tăng trưởng kinh tế GDP của Việt
Nam. Điều này cho thấy rằng, những khó khăn của kinh tế trong nước sẽ còn tiếp tục trong
những quý còn lại. Và điều này có thể sẽ tác động đến NSNN.
Trước hết là nguồn thu NSNN từ các doanh nghiệp trong nước. Số liệu quý I/2023 của
Tổng cục Thống kê cho thấy, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới quý I/2023 giảm 2%; số
doanh nghiệp quay trở lại hoạt động giảm 10%; số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có
thời hạn tăng 20,1% so với cùng kỳ. Như vậy, số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường (60.000
doanh nghiệp) nhiều hơn số doanh nghiệp gia nhập thị trường (57.000 doanh nghiệp). Không
chỉ số doanh nghiệp gia nhập mới thị trường ít đi, mà đối với các doanh nghiệp đang hoạt
động, thì sự suy giảm trong tốc độ tăng trưởng kinh tế trong nước, số lượng việc làm mới tạo
ra ít, sức cầu yếu cũng khiến các doanh nghiệp thận trọng hơn trong các kế hoạch kinh doanh
của mình. Theo thống kê thì dự kiến tổng lợi nhuận sau thuế của 358 doanh nghiệp lớn nhất
và ngân hàng niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam trong năm 2023 gần như đi ngang so
với năm 2022.
Kết quả kinh doanh quý I/2023 của 1.000 doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán
Việt Nam cũng đã cho thấy những khó khăn rất lớn mà các doanh nghiệp trong tất cả các
ngành nghề đều đang gặp phải, khi lợi nhuận của nhóm ngành vật liệu xây dựng giảm 76%,
dệt may giảm 67%, ngành bán lẻ đa kênh giảm 99% (Ban Thời sự, 2023). Đặc biệt, nhóm
ngành ngân hàng - vốn được coi là ngành có vốn hóa lớn nhất cũng ít bị tác động nhất trong
các nhóm ngành thì lợi nhuận quý I/2023 cũng giảm so với các năm trước. Dự kiến lợi nhuận
của các doanh nghiệp trong nước đi ngang, thậm chí là giảm và có khả năng sẽ thua lỗ sẽ đặt
ra thách thức rất lớn cho NSNN khi nhóm các doanh nghiệp này (bao gồm cả doanh nghiệp
nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh) đang được dự toán sẽ đóng góp đến 30% vào
tổng thu NSNN năm 2023. Việc sụt giảm lợi nhuận, thậm chí thua lỗ của nhóm các doanh
nghiệp trong nước có thể sẽ làm cho NSNN có thể không đạt được số thu như dự toán ban
đầu, qua đó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến các cân đối ngân sách năm 2023.
Sự khó khăn của kinh tế không chỉ tác động đến các doanh nghiệp, mà nó có thể ảnh
hưởng đến các nguồn thu khác của NSNN bao gồm: thuế thu nhập cá nhân, thuế giá trị gia
tăng. Khi hai nguồn thu này phụ thuộc rất nhiều vào tình hình kinh doanh của các doanh
nghiệp và sự lạc quan của người tiêu dùng.
Với những dự báo không khả quan về lợi nhuận của các doanh nghiệp, về đơn hàng mới, về
số lượng các doanh nghiệp mới sẽ làm cho người dân có xu hướng thắt chặt chi tiêu, hạn chế
những hàng hóa dịch vụ không thiết yếu. Điều đó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nguồn thu từ thuế
giá trị gia tăng trong thời gian sắp tới. Mặc dù, Chính phủ đã có Tờ trình Quốc hội vào ngày
24/5/2023 về tiếp tục thực hiện chính sách giảm thuế giá trị gia tăng 2% theo Nghị quyết số
43/2022/QH15, tuy nhiên, chính sách này sẽ chỉ có hiệu quả nếu thu nhập của người dân tăng
lên hoặc ít nhất vẫn được đảm bảo. Còn nếu triển vọng về việc làm và thu nhập của người
dân không có những tín hiệu tốt, thì chính sách này có thể sẽ khó mang lại sự gia tăng tiêu
dùng đủ như mong muốn của Chính phủ và Bộ Tài chính.
Thứ ba, sự ảm đạm của thị trường bất động sản (BĐS)
Như vậy có thể thấy rằng, thử thách lớn nhất mà NSNN sẽ phải đối mặt trong thời gian
còn lại của năm 2023 là sự suy giảm của kinh tế toàn cầu cũng như những triển vọng tăng
trưởng không cao của kinh tế trong nước, thì sự ảm đạm của thị trường BĐS cũng sẽ là một
thách thức đối với nguồn thu của NSNN trong giai đoạn sắp tới.
Trong dự toán thu NSNN năm 2023, các khoản thu liên quan đến BĐS và đất chiếm
khoảng 10% các khoản thu. Tuy nhiên, việc thị trường BĐS ảm đạm và đóng băng từ giữa
năm 2022 và tiếp tục kéo dài qua cũng sẽ là một khó khăn rất lớn cho NSNN để đạt được
mức thu như dự kiến ban đầu. Bên cạnh đó, sự yếu kém cùng những vấn đề liên quan đến thị
trường BĐS tác động trực tiếp đến các doanh nghiệp trong nhiều lĩnh vực khác nhau bao
gồm: vật liệu xây dựng, xây dựng, môi giới BĐS. Đến hết năm 2022, lợi nhuận của các
doanh nghiệp xây dựng niêm yết trên 3 sàn chứng khoán giảm đến 11%. Trong đó, 37 doanh
nghiệp tăng trưởng lợi nhuận, 34 doanh nghiệp báo lãi giảm, còn lại là các doanh nghiệp lỗ
trong năm 2022. Lợi nhuận dự kiến năm 2023, của toàn bộ ngành xây dựng được dự đoán sẽ
tiếp tục suy giảm ở mức từ 10%-15%, thậm chí có những doanh nghiệp lợi nhuận dự kiến
giảm đến gần 40% so với năm 2022. Nếu thị trường BĐS không ấm lên, cũng như những
vướng mắc hiện nay không được tháo gỡ, thì nguồn thu trực tiếp liên quan đến lĩnh vực BĐS
khó có thể đạt được theo kế hoạch. Ngoài ra, sự khó khăn của thị trường BĐS cũng sẽ khiến
cho lợi nhuận của các doanh nghiệp trong nhiều lĩnh vực suy giảm thậm chí có thể lỗ qua đó
cũng sẽ khiến cho nguồn thu của NSNN từ các doanh nghiệp bị ảnh hưởng rất lớn. Mặc dù
việc đẩy mạnh đầu tư công được kỳ vọng có thể sẽ tháo gỡ phần nào khó khăn cho các doanh
nghiệp lĩnh vực xây dựng, vật liệu xây dựng. Tuy nhiên, tác động của chính sách này khó lan
tỏa đến toàn bộ các doanh nghiệp trong các lĩnh vực này. Do đó, sự ảm đạm của thị trường
BĐS sẽ vẫn là một thách thức lớn đối với nguồn thu của NSNN.
Thứ tư, chi đầu tư phát triển tăng hơn 40% kéo giảm thặng dư ngân sách
Một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho thặng dư ngân sách thường xuyên của
Việt Nam giảm là do quy mô chi thường xuyên liên tục tăng cao gây nên áp lực tài chính: Khi
ngân sách tăng cao, Chính phủ phải tìm cách huy động thêm nguồn tài chính để đáp ứng chi
tiêu. Điều này có thể dẫn đến việc tăng thuế, vay thêm nợ, hoặc cắt giảm các chương trình và
dự án. Ngoài ra chi đầu tư tăng cao còn tác động đến kinh tế ảnh hưởng đến tình hình kinh tế.
Nếu không được quản lý cẩn thận, nó có thể gây lạm phát, tăng lãi suất, và ảnh hưởng đến
đầu tư và tiêu dùng. Ngoài ra còn ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ công: Tăng cao của ngân
sách có thể dẫn đến tăng chi tiêu cho các dự án và chương trình. Tuy nhiên, quản lý hiệu quả
và đảm bảo chất lượng dịch vụ công là một thách thức đối với NSNN
3.2 Các cơ hội có thể tận dụng để cải thiện ngân sách
Thứ nhất, cơ hội lớn để tăng thu ngân sách từ thuế tối thiểu toàn cầu
Việt Nam đã tham gia Hiệp định ngăn ngừa xói mòn cơ sở tính thuế và chuyển dịch lợi
nhuận (MLI) từ tháng 2/2022. Tham gia triển khai thuế tối thiểu toàn cầu góp phần tăng
cường hội nhập quốc tế của Việt Nam nói chung, cải cách hệ thống thuế theo hướng phù hợp
với thông lệ và chuẩn mực quốc tế nói riêng. Việc tích cực tham gia, thực hiện các công cụ,
khuôn khổ pháp lý của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) sẽ góp phần cải thiện
hình ảnh của Việt Nam trong mắt các đối tác, nhà đầu tư nước ngoài. Điều này cũng sẽ góp
phần hoàn thiện khung pháp lý về thuế của Việt Nam và thúc đẩy sửa đổi chính sách thu hút
đầu tư nước ngoài (FDI) theo hướng giảm ưu đãi về thuế và tăng cường cạnh tranh bằng môi
trường đầu tư, cơ sở hạ tầng, nhân lực...khi được thực thi thuế tối thiểu toàn cầu sẽ góp phần
tăng nguồn thu từ thuế, hạn chế các hiện tượng trốn, tránh thuế, chuyển giá…, của các tập
đoàn đa quốc gia tại Việt Nam. Việt Nam có thể tận dụng nguồn thu tăng thêm từ việc áp
dụng thuế tối thiểu toàn cầu (nếu có) để tăng cường đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, cải
thiện các yếu tố về môi trường đầu tư như: cơ sở hạ tầng, chất lượng nguồn nhân lực…
Thứ hai, tận dụng dư địa lạm phát thấp
Nhìn vào bức tranh kinh tế xã hội có một số điểm sáng như: tốc độ tăng trưởng chung
vẫn dương, dù trong một số tháng bị sụt giảm tương đối mạnh do buộc phải tiến hành giãn
cách xã hội để ứng phó với tình hình dịch diễn biến phức tạp cùng với sự suy thoái của tình
hình kinh tế chung trên toàn thế giới.
Ngân sách đang được quản lý tốt, dù thực tế thu ngân sách bị ảnh hưởng do kinh tế khó
khăn, sụt giảm nhưng thu ngân sách nhà nước (NSNN) vẫn đạt 77% dự toán thu. Đây là một
điểm quan trọng bởi nó giúp tích lũy nguồn lực, hỗ trợ công tác chống dịch một cách tốt nhất.
Chỉ số giá tiêu dùng CPI, bình quân 9 tháng tăng 1,82% so với cùng kỳ 2020, thấp nhất
trong 6 năm, thể hiện một phần là cầu còn yếu, vòng luân chuyển tiền tệ trong nền kinh tế
quốc dân còn chậm, gây ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh. Nhân cơ hội áp lực lạm phát
giảm, có thể xem xét điều chỉnh chính sách nới lỏng tiền tệ hơn (như hạ lãi suất) cũng như
triển khai các gói hỗ trợ tài khoá, bơm thêm tiền thúc đẩy sản xuất kinh doanh, hỗ trợ DN
phát triển.
Thực tế, thời gian qua, bên cạnh chống dịch quyết liệt, Chính phủ đã và đang khẩn trương
xây dựng và ban hành các chương trình kế hoạch lớn đa dạng, mục tiêu là dồn các nguồn lực
bao gồm cả ngân sách để tạo cú hích mạnh giúp phục hồi kinh tế.
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý III/2021 ước tính giảm 6,17% so với cùng kỳ năm
trước, cho thấy tác động nặng nề của làn sóng dịch COVID-19 lớn hơn mọi dự đoán của giới
kinh tế trước đó.
Tuy nhiên, nhìn tổng thể khi đánh giá “sức khỏe” của nền kinh tế, chúng ta vẫn thấy
được các động lực cho sự phục hồi và tăng trưởng. Trước tiên, không ít doanh nghiệp (DN)
gặp khó khăn do dịch, nhưng nhìn chung đây vẫn là vấn đề tạm thời. Khi nền kinh tế mở cửa
trở lại với quan điểm chống dịch đúng đắn của Chính phủ về thích ứng an toàn, linh hoạt với
dịch COVID-19 thì tình hình sẽ sớm cải thiện.
Điểm sáng đáng chú ý nhất là xuất khẩu, thương mại quốc tế. Tính chung 9 tháng, tổng
kim ngạch đạt 483,17 tỷ USD, tăng 24,4% so với cùng kỳ năm trước. Do đó, trong quý IV,
nếu các DN nghiệp trở lại hoạt động kịp thời với các đơn hàng dịp cuối năm, tổng kim ngạch
XNK trong năm 2021 vẫn có thể đạt mức trên 600 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam vẫn có xu hướng tăng qua các năm, cho thấy nền kinh tế của Việt Nam có độ mở rất cao
và giao thương quốc tế sôi động. Việt Nam là quốc gia rất tích cực triển khai hợp tác các hiệp
định thương mại tự do như CPTPP, RCEP, EVFTA… Đây là những hiệp định có tiềm năng
như những “con đường cao tốc” lớn đến các thị trường toàn cầu. Đến nay, các DN Việt Nam
vẫn chưa khai thác triệt để hiệp định thương mại tự do mới.
Về đầu tư nước ngoài, số liệu 9 tháng cho thấy tổng số dự án đầu tư nước ngoài (FDI)
tính đến 20/9/2021 đăng ký cấp mới giảm 37,8% so với cùng kỳ năm 2020 nhưng số vốn
đăng ký tăng 20,6%. Số liệu trên cho thấy, dù bối cảnh rất khó khăn, Việt Nam vẫn là mảnh
đất tốt để đổ vốn đầu tư của các DN FDI.
Các DN khi đầu tư ở Việt Nam tính toán rất kỹ triển vọng lâu dài, không vì một vài khó
khăn trước mắt, ngắn hạn mà họ thay đổi chiến lược đầu tư. Với một Chính phủ tận tâm
trong việc cải thiện môi trường kinh doanh, coi “thành công của nhà đầu tư là thành công của
chính mình”, hay lợi thế thị trường lớn, dồi dào, Việt Nam vẫn là điểm đến hấp dẫn của dòng
vốn FDI trong thời gian tới.
Thứ ba, Công tác quản lý thu NSNN được cải thiện:
Hệ thống quản lý thu NSNN ngày càng hoàn thiện: Ứng dụng công nghệ thông tin hiệu
quả.
Công tác thanh tra, kiểm tra được tăng cường: Góp phần nâng cao hiệu quả thu NSNN.
- Hoàn thiện thể chế, chính sách thu NSNN:
+ Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 được ban hành, có hiệu lực từ ngày 01/7/2020,
đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định nhằm tăng cường công tác quản lý thuế, nâng cao
hiệu quả thu NSNN.
+ Ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi hành Luật Quản lý thuế và các quy định pháp
luật thuế khác.
- Tăng cường công tác quản lý thuế:
+ Ứng dụng công nghệ thông tin:
● Hệ thống quản lý thuế điện tử được triển khai rộng rãi, giúp nâng cao hiệu quả quản
lý thuế, giảm thiểu thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho người nộp thuế.
● Hệ thống hóa đơn điện tử được triển khai bắt buộc từ năm 2022, giúp tăng cường
quản lý việc kê khai, nộp thuế.
+ Nâng cao chất lượng công tác thanh tra, kiểm tra thuế:
● Tăng cường thanh tra, kiểm tra thuế đối với các tổ chức, cá nhân có nguy cơ cao vi
phạm pháp luật thuế.
● Áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm pháp luật thuế nghiêm minh, kịp thời.
+ Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật thuế:
● Nâng cao hiểu biết của người dân và doanh nghiệp về nghĩa vụ nộp thuế.
● Tạo môi trường chấp hành pháp luật thuế ngày càng tốt hơn.