Professional Documents
Culture Documents
HỒ CHÍ MINH
MÔN : QUẢN LÝ CÔNG
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
NHỮNG THÁCH THỨC CỦA QUẢN LÝ CÔNG TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY
MSSV : 2156230045
LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................1
I. Khái niệm..................................................................................2
KẾT LUẬN................................................................................................ 31
Hiện nay, Việt Nam đang tiến hành công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, quá trình toàn cầu hoá và
phát triển ý thức dân chủ. Cùng với đó, Việt Nam còn đang trong quá trình hội nhập
quốc tế. Tuy nhiên, khi đất nước từng bước hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới,
nền hành chính nước nhà bắt đầu đứng trước những khó khăn, thử thách. CCHC đã và
đang được tiến hành nhưng vẫn chưa tạo ra được những chuyển biến lớn. Trong khi
đó, tăng trưởng kinh tế thế giới đang chịu nhiều tác động tiêu cực của đại dịch Covid-
19 thì xung đột Nga - Ukraine đã giáng thêm một đòn cho kinh tế toàn cầu. Là nước
có độ mở kinh tế cao (hơn 200%) và đang hội nhập sâu vào kinh tế thế giới, Việt Nam
khó tránh khỏi những ảnh hưởng từ cuộc xung đột Nga – Ukraine và nhưng biến động
của thế giới. Mặc dù tác động trực tiếp không lớn, song ảnh hưởng rủi ro gián tiếp rất
đáng quan tâm. Trước những khó khăn thách thức lớn, nền QLC ở Việt Nam cần nắm
bắt được tình hình để điều chỉnh cho phù hợp với bối cảnh, cũng như khai thác hết
những thế mạnh để tiếp tục đà phát triển vươn mình ra thế giới và đạt được những
thành tựu to lớn hơn nữa.
CHƯƠNG 1 : KHÁI QUÁT VỀ QUẢN LÝ CÔNG
Quản lý công là một khái niệm rất rộng và bao hàm nhiều lĩnh vực. Nhìn chung, quản
lý công có thể được coi là hoạt động quản lý được thực hiện trong quản lý hành chính
nhà nước, bao gồm các hoạt động thu thập phân tích xử lý các số liệu thống kê của
nhà nước giám sát quỹ hành chính Quốc gia, theo dõi sự phát triển và thi hành các
chính sách của nhà nước. Người thực hiện quản lý công là cán bộ, công chức làm việc
trong bộ máy Nhà nước có thẩm quyền quản lý công.
Ngoài ra, chúng ta có thể hiểu quản lý công là cách tiếp cận mới đối với hành chính
công, chú trọng đến tính hiệu quả của bộ máy nhà nước thông qua việc áp dụng các
phương pháp quản lý hiện đại nhằm đạt được mục tiêu. Quản lý công là hoạt động
quản lý, điều hành của các chủ thể trong khu vực công nhằm đạt được các mục tiêu
của khu vực công.
Tính quyền lực nhà nước là đặc điểm cơ bản nhất để thông qua đó phân biệt được
hoạt động quản lý công với các hoạt động quản lý mang tính xã hội khác. Quyền lực
nhà nước trong quản lý công trước hết thể hiện ở việc các chủ thể có thẩm quyền thể
hiện ý chí nhà nước thông qua phương tiện nhất định, tính quyền lực. Các chủ thể
quản lý thể hiện ý chí của mình dưới dạng các chủ trương, chính sách pháp luật nhằm
định hướng cho hoạt động xây dựng và áp dụng pháp luật thông qua việc ban hành
văn bản; dưới dạng quy phạm pháp luật nhằm cụ thể hóa các quy phạm pháp luật của
cơ quan quyền lực nhà nước thành những quy định chi tiết để triển khai thực hiện
trong thực tiễn; dưới dạng mệnh lệnh cá biệt nhằm áp dụng pháp luật vào thực tiễn,
trực tiếp thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ quản lý.
Bên cạnh đó, quyền lực nhà nước còn thể hiện trong việc các chủ thể có thẩm quyền
tiến hành những hoạt động cần thiết để bảo đảm thực hiện ý chí nhà nước, như các
biện pháp về tổ chức, về kinh tế, tuyên truyền giáo dục, thuyết phục cưỡng
chế,...Chính những biện pháp này là sự thể hiện tập trung và rõ nét của sức mạnh được
bảo đảm thực hiện nhà nước, một bộ phận tạo nên quyền lực nhà nước, nhờ đó ý chí
của chủ thể quản lý. Hoạt động quản lý công luôn mang tính quyền lực nhà nước và
được đảm bảo bằng sức mạnh của nhà nước.
2. QLC là hoạt động mang tính chấp hành và điều hành của nhà nước
Tính chấp hành và điều hành của hoạt động quản lý nhà nước thể hiện trong việc
những hoạt động này được tiến hành trên cơ sở pháp luật và nhằm mục đích thực hiện
pháp luật, cho dù đó là hoạt động chủ động sáng tạo của chủ thể quản lý thì cũng
không được vượt quá khuôn khổ pháp luật, điều hành cấp dưới, trực tiếp áp dụng pháp
luật hoặc tổ chức những hoạt động thực tiễn..., trên cơ sở quy định pháp luật nhằm
hiện thực hóa pháp luật. Điều này được thể hiện trong việc mọi hoạt động quản lý
hành chính nhà nước đều phải được tiến hành trên cơ sở pháp luật và để thực hiện
pháp luật. Tính chấp hành thể hiện ngay từ mục đích của quá trình quản lý đó là đảm
bảo cho các văn bản pháp luật do cơ quan quyền lực nhà nước ban hành được thực
hiện trên thực tế.
Bên cạnh đó, tính điều hành được thể hiện thông qua chủ thể quản lý phải tiến hành
hoạt động tổ chức và chỉ đạo trực tiếp đối với các đối tượng quản lý thuộc quyền theo
một quy trình thống nhất; tổ chức để mọi đối tượng có liên quan thực hiện pháp luật
nhằm thực hiện hóa quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ quản lý. Như vậy,
trong mỗi hoạt động quản lý hành chính nhà nước, tính chấp hành và tính điều hành
luôn đan xen, song song tồn tại, tạo nên sự đặc thù của hoạt động quản lý nhà nước.
Có thể nói sự kết hợp giữa chấp hành và điều hành đã tạo thành một chỉnh thể thống
nhất trong nội dung của hoạt động quản lý công.
3. QLC là một hoạt động có tính thống nhất, được tổ chức chặt chẽ và liên tục
Vấn đề căn bản được đặt ra trong việc tổ chức bộ máy trong cơ quan quản lý công là
xác định hợp lý thẩm quyền của mỗi cấp quản lý, vừa tránh sự chồng chéo chức năng,
vừa không bỏ lọt những lĩnh vực cần quản lý, vừa bảo đảm sự điều hành xuyên suốt,
vừa tạo ra được sự chủ động, sáng tạo của mỗi cấp quản lý. Hệ thống cơ quan quản lý
công được liên kết chặt chẽ, thống nhất từ trung ương đến địa phương, nghĩa là cấp
dưới phục tùng cấp trên, thực hiện mệnh lệnh và chịu sự kiểm tra thường xuyên của
cấp trên; đồng thời, cấp trên cũng phải lắng nghe ý kiến của cấp dưới, cấp dưới có
quyền chủ động sáng tạo, tổ chức thực hiện pháp luật phù hợp. Nhờ đó hoạt động của
bộ máy được chỉ đạo, điều hành một cách thống nhất, bảo đảm lợi ích chung của cả
nước, bảo đảm sự liên kết, phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan.
Trong quản lý công luôn cần có tính liên tục, kịp thời và linh hoạt để đáp ứng sự
vận động không ngừng của đời sống xã hội. Chính điểm đặc thù này được coi là một
cơ sở quan trọng trong việc xác lập quy định về tổ chức và hoạt động, quy chế công
chức,...; tạo ra bộ máy hành chính gọn lẹ, linh hoạt, sáng tạo, quyết đoán, có trách
nhiệm và chịu trách nhiệm đối với hoạt động của mình.
4. Hoạt động quản lý công là hoạt động mang tính chủ động và sáng tạo
Dựa vào đặc điểm, tình hình, điều kiện, các yếu tố xoay quanh từng trường hợp cụ thể
mà các chủ thể quản lý hành chính nhà nước có thể đề ra những chủ trương, biện
pháp, phong cách quản lý thích hợp. Ngoài ra, tính chủ động sáng tạo còn thể hiện rõ
nét trong hoạt động xây dựng, ban hành văn bản pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý nhà
nước. Đồng thời, đòi hỏi chủ thể quản lý cần phải linh động, sáng tạo, phong phú, áp
dụng được các biện pháp giải quyết tình huống phát sinh một cách hiệu quả nhất. Tuy
nhiên việc chủ động và sáng tạo không được làm trái, vượt ra ngoài phạm vi pháp luật.
5. QLC có mục tiêu chiến lược và có kế hoạch
Trong quản lý, việc đề ra mục tiêu được coi là chức năng đầu tiên và cơ bản. Mục tiêu
quản lý là căn cứ để các chủ thể quản lý đưa ra những tác động thích hợp cùng với
những hình thức và phương pháp phù hợp. Để đạt được mục tiêu các cơ quan quản lý
cần phải xây dựng nên được những đường lối, kế hoạch dài hạn, trung hạn, ngắn hạn
và tổ chức thực hiện. Để QLC tốt, Đảng và Nhà nước đã ban hành hiến pháp, các bộ
luật, chủ trương rõ ràng và định hướng cụ thể, điều đó thể hiện việc QLC của nước ta
đang đi đúng mục tiêu đề ra và chỉ cần chinh phục thành công những thách thức khó
khăn, chúng ta sẽ như đang lướt trên đầu ngọn sóng và cứ thế tiến về phía trước.
III. Vai trò quản lý công
Quản lý công có vai trò rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia
và của nhà nước, cụ thể được thể hiện như sau:
Thứ nhất, các cơ quan trong quản lý công định hướng, điều chỉnh các mối quan hệ xã
hội, hướng dẫn và điều hành các hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước nhằm đạt
mục tiêu tới mức tối đa và hiệu suất cao nhất.
Thứ hai, quản lý công duy trì và thúc đẩy phát triển xã hội, phát triển nguồn tài
nguyên và hạn chế những sự xuống cấp của môi trường. Quản lý công luôn có trách
nhiệm duy trì và tạo lập những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các yếu tố cấu
thành xã hội: duy trì và phát triển các nguồn tài nguyên, kiến tạo các nguồn lực vật
chất, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính, phát triển các nguồn lực của con
người, khắc phục những thất bại, những sai sót thị trường gây ra,...
Thứ ba, quản lý công đảm bảo cung cấp dịch vụ công xã và đồng hành cùng quá trình
phát triển của xã hội trong quá trình hình thành thói quen dân chủ hóa của người dân.
Cùng với sự phát triển của xã hội và quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội thì vai trò
này càng trở nên quan trọng và mở rộng. Vì suy cho cùng, quản lý công thiết lập nhằm
phục vụ lợi ích của nhân dân với tư cách là chủ thể của xã hội, là chủ thể của quyền
lực nhà nước.
Trong Đảng và Nhà nước Việt Nam, vẫn còn tệ gia trưởng, độc đoán, dân chủ hình
thức, đồng thời vô tổ chức, vô kỷ luật. Nhiều việc đưa ra tập thể cấp Ủy bàn bạc,
nhưng chỉ cốt để hợp thức hóa ý đồ của cá nhân người đứng đầu. Công tác kiểm tra,
giám sát của Đảng còn nhiều hạn chế, đặc biệt là chưa thực hành đầy đủ dân chủ trong
công tác này. Hầu hết các vụ tham nhũng, tiêu cực không phải do cấp Ủy, tổ chức
Đảng, cơ quan kiểm tra phát hiện được mà chủ yếu do nhân dân phát hiện, tố cáo hoặc
báo chí nêu. Nhà nước còn chậm thể chế hóa các chủ trương của Đảng về dân chủ
thành pháp luật, quy chế, nên các chủ trương của Đảng đi vào cuộc sống rất chậm làm
ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước.
Nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn nhiều hạn
chế, nên thiếu trách nhiệm trong việc triển khai thực hiện dân chủ ở cơ sở. Nhiều chủ
trương về thực hành dân chủ trong xã hội chưa được thể chế hóa, nên chủ trương thì
đúng và hay, nhưng thực tế thực hành dân chủ trong xã hội chưa tốt, quyền làm chủ
của nhân dân chưa được tôn trọng và phát huy đầy đủ, thậm chí quyền làm chủ của
nhân dân ở một số nơi, trên một vài lĩnh vực còn bị vi phạm. Việc giải quyết yêu cầu
phát huy dân chủ, tự do ngôn luận, lắng nghe các ý kiến khác biệt, tư duy phản biện
trong xã hội với việc giữ vững kỷ luật, kỷ cương, phép nước còn nhiều bất cập. Chưa
có cơ chế bảo đảm để nhân dân thực hiện vai trò chủ thể của quyền lực, trên thực tế,
quyền lực vẫn thuộc về các cơ quan nhà nước. Việc nhân dân giám sát chính quyền
cũng chưa có cơ chế rõ ràng, trên thực tế, việc giám sát này còn rất mờ nhạt.
Tuy đơn vị sự nghiệp công lập và doanh nghiệp nhà nước đã đưa ra nhiều giải pháp
dân chủ để quản lý, song những thứ đó chỉ thuộc về lý thuyết bởi những cơ quan đó
chưa thật sự đáp ứng được những yêu cầu, nguyện vọng của những người đóng góp.
Để đất nước có thể phát triển đúng với các tiềm năng trên cơ sở hội nhập ngày càng
chủ động và tích cực hơn với thế giới, thì dân chủ phải được phát huy mạnh mẽ hơn
nữa, trước hết là dân chủ ở trong Đảng và tiếp đó là dân chủ trong toàn bộ đời sống xã
hội. Ngày nay, dân chủ cần được đối xử như một phương thức cơ bản, quan trọng nhất
để tạo động lực thúc đẩy sự phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
2.3. Xu hướng toàn cầu hóa
Toàn cầu hóa kinh tế là một nội dung trọng tâm, quan trọng và xuyên suốt trong
công cuộc đổi mới kinh tế của Việt Nam. Quá trình này đã và đang mở ra nhiều cơ
hội, cũng như nhiều thách thức đối với cộng đồng doanh nghiệp và cả nền kinh tế.
Việc hội nhập kinh tế toàn cầu thể hiện sự thích ứng của nền kinh tế quốc gia với xu
thế của thế giới là không thể chậm trễ. Vai trò Nhà nước là vô cùng quan trọng để
định hướng các chính sách phát triển kinh tế nhằm phân tích và đánh giá đúng đắn bối
cảnh quốc tế và xu hướng tự do hóa thương mại, từ đó nhận diện các cơ hội và thách
thức đối với nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh thực thi các hiệp định thương mại tự
do.
Thông qua WTO các nước phát triển không sẵn lòng tiêu thụ hàng hóa xuất khẩu của
các nước đang phát triển, với các điều kiện cao về lao động, vệ sinh môi trường đã
làm rào cản đối với các nước đang phát triển tham gia vào quá trình toàn cầu hóa. Các
doanh nghiệp công và đơn vị sự nghiệp công lập đứng trước thách thức to lớn về yêu
cầu cao của thị trường quốc tế.
Các hàng hóa do doanh nghiệp nhà nước ta xuất khẩu thường có hàm lượng công
nghệ thấp, giá thành rẻ và thường phải nhập thiết bị công nghệ giá cao nên dẫn đến
thâm hụt ngoại thương cao. Trong quá trình đón nhận vốn viện trợ, đầu tư hợp tác, các
nhà quản lý công do thiếu kinh nghiệm tổ chức quản lý, hệ thống luật pháp chưa hoàn
thiện và không quản lý được tham nhũng, các dự án đầu tư kém hiệu quả dẫn đến nợ
nước ngoài càng gia tăng.
Các yếu tố của môi trường chính trị quốc tế đã tác động trực tiếp đến hệ thống chính
trị trong một quốc gia, buộc các nước phải thay đổi thể chế pháp luật trong nước sao
cho phù hợp với quốc tế và phải được quốc tế thừa nhận. Ngoài ra còn kéo theo những
ảnh hưởng gián tiếp khác như là thông qua sự thay đổi nhận thức của công dân về các
mối quan hệ cơ bản với nhà nước, chính đảng từ việc so sánh nội tình chính trị của các
quốc gia khác.
Bên cạnh việc toàn cầu hóa kinh tế thì toàn cầu hóa cũng mang theo văn hóa nước
ngoài du nhập vào Việt Nam. Có những văn hóa văn minh tốt đẹp mà người Việt Nam
nên học hỏi, nhưng Việt Nam nên thận trọng về việc toàn cầu hóa ảnh hưởng tới bản
sắc văn hóa dân tộc, làm mai một, xói mòn giá trị truyền thống văn hóa địa phương.
Điều này đòi hỏi Đảng và nhà nước phải có những biện pháp phù hợp để gìn giữ bản
sắc dân tộc Việt Nam.
Như vậy, dưới sự tác động tiêu cực và tích cực của toàn cầu hóa, các hoạt động quản
lý trong khu vực công hiện nay có những thay đổi rõ rệt trong các bộ luật đến những
biến chuyển của thế giới quan, ý thức chính trị - pháp lý của công dân và cả đội ngũ
công chức. Ở góc độ này, môi trường chính trị quốc tế đang ngày càng hòa lẫn với
môi trường chính trị trong nước, xóa dần ranh giới và ảnh hưởng ngày một sâu sắc
hơn đến hoạt động quản lý trong khu vực công.
Trong lĩnh vực về kinh tế- chính trị quốc tế, Nhà nước cần có cơ chế chính sách tốt để
tập hợp được các cơ quan và các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực này, để họ có thể dành
nhiều tâm huyết đóng góp kiến thức chuyên môn của mình. Vấn đề đặt ra là cần phải
có cơ quan nghiên cứu có quyền hạn và trách nhiệm đầy đủ trong nghiên cứu kinh tế
nói chung, vấn đề toàn cầu hóa kinh tế nói riêng.
Một quốc gia có thể hưởng lợi nhiều hơn từ toàn cầu hóa kinh tế bằng cách tăng
thương mại quốc tế và đầu tư nước ngoài, bằng cách giảm rào cản nhập khẩu và cải
thiện chính sách thuế… Do đó, các nhà hoạch định chính sách cần xây dựng các chính
sách để giảm tác động tiêu cực của tiến trình toàn cầu hóa theo hướng phù hợp với lợi
ích chung giữa các nước với nhau.
Về chính sách hội nhập kinh tế, một quốc gia có thể hưởng lợi nhiều hơn từ toàn cầu
hóa kinh tế bằng cách tăng thương mại quốc tế và đầu tư nước ngoài, bằng cách giảm
rào cản nhập khẩu và cải thiện chính sách thuế… Do đó, các nhà hoạch định chính
sách cần xây dựng các chính sách để giảm tác động tiêu cực của tiến trình toàn cầu
hóa theo hướng phù hợp với lợi ích chung giữa các nước với nhau.
Đặc biệt cần phải kết hợp giữa bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, các giá trị
truyền thống với việc tiếp thu có chọn lọc những giá trị tinh hoa văn hóa của nhân
loại, kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại.
4. Cách mạng công nghiệp 4.0
Chính phủ cần tiên phong công bố và phổ biến chiến lược, chính sách quốc gia về
cách mạng 4.0 và sử dụng công cụ chính sách để kích ứng sự thay đổi mạnh mẽ ở các
DN. Khoa học công nghệ cần phải thực sự là “quốc sách hàng đầu” định hướng
nghiên cứu vào và phục vụ cách mạng công nghiệp 4.0 chứ không phải như cách hiện
nay ví như là dự kiến phân bổ một ngân sách ít ỏi khoảng 2%, phân bổ thực tế đâu đó
khoảng 1,5% tổng chi ngân sách và cuối năm là lại chi không hết với các lý do muôn
năm cũ. Các nhà khoa học, nhân tài công nghệ cần được tập trung, nghiên cứu trong
một số tổ hợp khoa học công nghệ trọng điểm quốc gia, vừa nghiên cứu, vừa sản xuất
kinh doanh và chỉ tập trung vào các công nghệ cốt lõi chính của 4.0 như khoa học vật
liệu, trí tuệ nhân tạo, robot…
Cần xác định đặc trưng cách mạng 4.0 cho Việt Nam là “thông minh” đồng thời ưu
tiên các tiềm năng quốc gia như nông nghiệp, giáo dục, y tế, du lịch, môi trường …
Chẳng hạn, du lịch phải gắn kết công nghệ số để bán và vận hành các chuỗi dịch vụ;
để giới thiệu, quảng bá ra thế giới... rồi y tế thông minh, giao thông thông minh và đô
thị thông minh…
Nền kinh tế Việt Nam cần một số điều chỉnh như sửa lại cơ cấu, thể chế thị trường
và hệ thống tài chính. Chiến lược chung là hướng vào dịch vụ, thậm chí chủ đạo hơn
công nghiệp. Đó là dịch vụ du lịch, logistic, tài chính, bảo hiểm chú trọng mở ra toàn
cầu và hoạt động trên lĩnh vực bán lẻ và hệ thống kinh tế chia sẻ.
Để mọi lĩnh vực, ngành nghề trong nước đều xác định rõ trọng điểm đầu tư và mục
tiêu phát triển nguồn nhân lực công nghệ (có tri thức công nghệ, có khả năng làm chủ
công nghệ, có thể thực hiện các hoạt động trong môi trường công nghệ cao). Ở một số
lĩnh vực mà thế giới đã tiến rất xa như tài chính, ngân hàng, năng lượng, giao thông
vận tải,… Chính phủ nên hỗ trợ đi tắt đón đầu, đầu tư tiếp cận thẳng công nghệ 4.0
thay vì để các cơ quan, DN tự mày mò, nghiên cứu.
Quy mô cách mạng công nghiệp 4.0 diễn ra trên nhiều lĩnh vực, buộc các cơ quan
nhà nước, doanh nghiệp nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập thúc đẩy nhanh chóng
quá trình chuyển đổi sổ và ứng dụng công nghệ thông tin có hiệu quả. Nghị quyết số
52- NQ/TW ngày 27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cách
mạng công nghiệp lần thứ tư đã nhấn mạnh yêu cầu trên là cấp bách. Cơ quan nhà
nước và đơn vị sự nghiệp công lập trước hết cần phải chuyển đổi nhận thức, tái cấu
trúc quy trình nghiệp vụ, cơ cấu tổ chức và chuyển đổi các mối quan hệ từ môi trường
truyền thống sang môi trường số. Cơ quan nhà nước từ đó thúc đẩy đổi mới, cải cách
hành chính, nâng cao dịch vụ công nhằm triển khai Chính phủ điện tử thực sự hiệu
quả và độ bảo mật, an ninh thông tin cao.
Cách mạng công nghiệp còn là cuộc cách mạng về thể chế. Thể chế cần phải cải
thiện và điều chỉnh linh hoạt để chấp nhận những cái mới: công nghệ mới, sản phẩm
mới, dịch vụ mới, mô hình mới; đảm bảo sự đồng bộ về hệ thống thể chế kinh tế, thể
chế hành chính phù hợp với thông lệ chung của toàn cầu. Cần phải đảm bảo việc làm
cho người lao động trong quá trình chuyển đổi số. Tuyên truyền, nâng cao công tác tổ
chức, trình độ chuyên môn của các cán bộ, công chức, viên chức về sự chuyển đổi số.
Doanh nghiệp nhà nước cần có văn bản pháp lý, chiến lược, mục tiêu cụ thể trong
việc thúc đẩy khoa học, công nghệ. Cần hoàn thiện thể chế, hỗ trợ doanh nghiệp triển
khai các dự án đổi mới công nghệ, đổi mới sáng tạo. Nâng cao trình độ năng lực và
công nghệ nhằm cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm; giảm dần công nghệ
thấp và công nghệ trung bình.
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, khó lường hiện nay,
công cuộc đổi mới, cải cách mở cửa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước bước
vào giai đoạn mới các vấn đề như sự phát triển mạnh mẽ của đời sống kinh tế - xã hội;
xu hướng dân chủ hóa; xu hướng quốc tế hóa; cách mạng công nghiệp 4.0... là những
vấn đề đang được chú trọng và cần được lưu tâm trong thời điểm hiện tại và tương lai.
Có thể thấy những ảnh hưởng từ bối cảnh đã tác động mạnh mẽ đến quản lý công. Nó
vừa là thời cơ vừa là thách thức yêu cầu Đảng và nhà nước ta phải có những giải pháp
xử lý, quyết định sao cho phù hợp. Đồng thời, một số đề xuất, kiến nghị được nêu ra ở
trên sẽ giúp nâng cao, phát triển hiệu quả quản lý công nhằm bắt kịp với xu hướng
mới của thời đại và bối cảnh hiện nay.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Minh Phong, Dấu ấn tích cực trên hành trình đổi mới và hội nhập
quốc tế của Việt Nam, baochinhphu.vn/dau-an-tich-cuc-tren-hanh-trinh-
doi-moi-va-hoi-nhap-quoc-te-cua-viet-nam-102220110083625022.htm;
2. Nguyễn Mại, Chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch - vấn đề của Việt Nam,
vietnamfinance.vn/chu-nghia-bao-ho-mau-dich-van-de-cua-viet-nam-
20180504224208703.htm;
3. Cường Ngô (2022), Xung đột Nga - Ukraine gây tăng giá xăng dầu, thiết
bị y tế đến tiêu dùng, Báo Lao Động, https://laodong.vn/
4. Minh Sơn (2022), “Cơn bão” giá hàng hóa và những rủi ro tới kinh tế
Việt Nam - https://vnexpress.net/
5. https://thuvienso.quochoi.vn/bitstream/11742/20478/1/8.pdf?
fbclid=IwAR3BDNH4OEgpwG0VGhJy-
MssdhiAai466lnSPckcWfdM8ixQwApKRIVVzV4
6. https://www.quanlynhanuoc.vn/2021/10/20/quan-tri-cong-trong-boi-canh-
moi-xu-huong-va-thach-thuc/?
fbclid=IwAR0BWEmKnjusKbKSDqXeuqLZB-QdpM6n0JplGQ