You are on page 1of 18

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.

HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

KHOA LƯU TRỮ HỌC – QUẢN TRỊ VĂN PHÒNG

 
 

 
MÔN : QUẢN LÝ CÔNG
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
 NHỮNG THÁCH THỨC CỦA QUẢN LÝ CÔNG TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY

Họ và tên sinh viên                :    Trương Khánh Linh

MSSV                            :    2156230045

Giảng viên hướng dẫn  :        ThS. Trần Bá Hùng

   Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 6 tháng 1 năm 2023


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................1

PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ QUẢN LÝ CÔNG

I. Khái niệm..................................................................................2

II. Đặc điểm của quản lý công.......................................................................7

III. Vai trò của quản lý công

CHƯƠNG 2: NHỮNG THÁCH THỨC TRONG QUẢN LÝ CÔNG HIỆN


NAY

I. Sự phát triển mạnh mẽ của đời sống kinh tế - xã


hội .....................................................12

II. Xu hướng dân chủ


hóa ....................................................................................................15

III. Xu hướng toàn cầu


hóa......................................................................................................16

IV. Cách mạng công nghiệp


4.0...........................................................................................17

CHƯƠNG 3. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP.......................28

KẾT LUẬN................................................................................................ 31

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................. 32


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU

Hiện nay, Việt Nam đang tiến hành công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, quá trình toàn cầu hoá và
phát triển ý thức dân chủ. Cùng với đó, Việt Nam còn đang trong quá trình hội nhập
quốc tế. Tuy nhiên, khi đất nước từng bước hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới,
nền hành chính nước nhà bắt đầu đứng trước những khó khăn, thử thách. CCHC đã và
đang được tiến hành nhưng vẫn chưa tạo ra được những chuyển biến lớn. Trong khi
đó, tăng trưởng kinh tế thế giới đang chịu nhiều tác động tiêu cực của đại dịch Covid-
19 thì xung đột Nga - Ukraine đã giáng thêm một đòn cho kinh tế toàn cầu. Là nước
có độ mở kinh tế cao (hơn 200%) và đang hội nhập sâu vào kinh tế thế giới, Việt Nam
khó tránh khỏi những ảnh hưởng từ cuộc xung đột Nga – Ukraine và nhưng biến động
của thế giới. Mặc dù tác động trực tiếp không lớn, song ảnh hưởng rủi ro gián tiếp rất
đáng quan tâm. Trước những khó khăn thách thức lớn, nền QLC ở Việt Nam cần nắm
bắt được tình hình để điều chỉnh cho phù hợp với bối cảnh, cũng như khai thác hết
những thế mạnh để tiếp tục đà phát triển vươn mình ra thế giới và đạt được những
thành tựu to lớn hơn nữa.
CHƯƠNG 1 : KHÁI QUÁT VỀ QUẢN LÝ CÔNG

I. Khái niệm quản lý công

Quản lý công là một khái niệm rất rộng và bao hàm nhiều lĩnh vực. Nhìn chung, quản
lý công có thể được coi là hoạt động quản lý được thực hiện trong quản lý hành chính
nhà nước, bao gồm các hoạt động thu thập phân tích xử lý các số liệu thống kê của
nhà nước giám sát quỹ hành chính Quốc gia, theo dõi sự phát triển và thi hành các
chính sách của nhà nước. Người thực hiện quản lý công là cán bộ, công chức làm việc
trong bộ máy Nhà nước có thẩm quyền quản lý công.

Ngoài ra, chúng ta có thể hiểu quản lý công là cách tiếp cận mới đối với hành chính
công, chú trọng đến tính hiệu quả của bộ máy nhà nước thông qua việc áp dụng các
phương pháp quản lý hiện đại nhằm đạt được mục tiêu. Quản lý công là hoạt động
quản lý, điều hành của các chủ thể trong khu vực công nhằm đạt được các mục tiêu
của khu vực công.

II. Đặc điểm của quản lý công


1. QLC là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước

   Tính quyền lực nhà nước là đặc điểm cơ bản nhất để thông qua đó phân biệt được
hoạt động quản lý công với các hoạt động quản lý mang tính xã hội khác. Quyền lực
nhà nước trong quản lý công trước hết thể hiện ở việc các chủ thể có thẩm quyền thể
hiện ý chí nhà nước thông qua phương tiện nhất định, tính quyền lực. Các chủ thể
quản lý thể hiện ý chí của mình dưới dạng các chủ trương, chính sách pháp luật nhằm
định hướng cho hoạt động xây dựng và áp dụng pháp luật thông qua việc ban hành
văn bản; dưới dạng quy phạm pháp luật nhằm cụ thể hóa các quy phạm pháp luật của
cơ quan quyền lực nhà nước thành những quy định chi tiết để triển khai thực hiện
trong thực tiễn; dưới dạng mệnh lệnh cá biệt nhằm áp dụng pháp luật vào thực tiễn,
trực tiếp thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ quản lý.

   Bên cạnh đó, quyền lực nhà nước còn thể hiện trong việc các chủ thể có thẩm quyền
tiến hành những hoạt động cần thiết để bảo đảm thực hiện ý chí nhà nước, như các
biện pháp về tổ chức, về kinh tế, tuyên truyền giáo dục, thuyết phục cưỡng
chế,...Chính những biện pháp này là sự thể hiện tập trung và rõ nét của sức mạnh được
bảo đảm thực hiện nhà nước, một bộ phận tạo nên quyền lực nhà nước, nhờ đó ý chí
của chủ thể quản lý. Hoạt động quản lý công luôn mang tính quyền lực nhà nước và
được đảm bảo bằng sức mạnh của nhà nước.

2. QLC là hoạt động mang tính chấp hành và điều hành của nhà nước

   Tính chấp hành và điều hành của hoạt động quản lý nhà nước thể hiện trong việc
những hoạt động này được tiến hành trên cơ sở pháp luật và nhằm mục đích thực hiện
pháp luật, cho dù đó là hoạt động chủ động sáng tạo của chủ thể quản lý thì cũng
không được vượt quá khuôn khổ pháp luật, điều hành cấp dưới, trực tiếp áp dụng pháp
luật hoặc tổ chức những hoạt động thực tiễn..., trên cơ sở quy định pháp luật nhằm
hiện thực hóa pháp luật. Điều này được thể hiện trong việc mọi hoạt động quản lý
hành chính nhà nước đều phải được tiến hành trên cơ sở pháp luật và để thực hiện
pháp luật. Tính chấp hành thể hiện ngay từ mục đích của quá trình quản lý đó là đảm
bảo cho các văn bản pháp luật do cơ quan quyền lực nhà nước ban hành được thực
hiện trên thực tế.

   Bên cạnh đó, tính điều hành được thể hiện thông qua chủ thể quản lý phải tiến hành
hoạt động tổ chức và chỉ đạo trực tiếp đối với các đối tượng quản lý thuộc quyền theo
một quy trình thống nhất; tổ chức để mọi đối tượng có liên quan thực hiện pháp luật
nhằm thực hiện hóa quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ quản lý. Như vậy,
trong mỗi hoạt động quản lý hành chính nhà nước, tính chấp hành và tính điều hành
luôn đan xen, song song tồn tại, tạo nên sự đặc thù của hoạt động quản lý nhà nước.
Có thể nói sự kết hợp giữa chấp hành và điều hành đã tạo thành một chỉnh thể thống
nhất trong nội dung của hoạt động quản lý công.

3. QLC là một hoạt động có tính thống nhất, được tổ chức chặt chẽ và liên tục 
Vấn đề căn bản được đặt ra trong việc tổ chức bộ máy trong cơ quan quản lý công là
xác định hợp lý thẩm quyền của mỗi cấp quản lý, vừa tránh sự chồng chéo chức năng,
vừa không bỏ lọt những lĩnh vực cần quản lý, vừa bảo đảm sự điều hành xuyên suốt,
vừa tạo ra được sự chủ động, sáng tạo của mỗi cấp quản lý. Hệ thống cơ quan quản lý
công được liên kết chặt chẽ, thống nhất từ trung ương đến địa phương, nghĩa là cấp
dưới phục tùng cấp trên, thực hiện mệnh lệnh và chịu sự kiểm tra thường xuyên của
cấp trên; đồng thời, cấp trên cũng phải lắng nghe ý kiến của cấp dưới, cấp dưới có
quyền chủ động sáng tạo, tổ chức thực hiện pháp luật phù hợp. Nhờ đó hoạt động của
bộ máy được chỉ đạo, điều hành một cách thống nhất, bảo đảm lợi ích chung của cả
nước, bảo đảm sự liên kết, phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan.
Trong quản lý công luôn cần có tính liên tục, kịp thời và linh hoạt để đáp ứng sự
vận động không ngừng của đời sống xã hội. Chính điểm đặc thù này được coi là một
cơ sở quan trọng trong việc xác lập quy định về tổ chức và hoạt động, quy chế công
chức,...; tạo ra bộ máy hành chính gọn lẹ, linh hoạt, sáng tạo, quyết đoán, có trách
nhiệm và chịu trách nhiệm đối với hoạt động của mình.
4. Hoạt động quản lý công là hoạt động mang tính chủ động và sáng tạo
Dựa vào đặc điểm, tình hình, điều kiện, các yếu tố xoay quanh từng trường hợp cụ thể
mà các chủ thể quản lý hành chính nhà nước có thể đề ra những chủ trương, biện
pháp, phong cách quản lý thích hợp. Ngoài ra, tính chủ động sáng tạo còn thể hiện rõ
nét trong hoạt động xây dựng, ban hành văn bản pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý nhà
nước. Đồng thời, đòi hỏi chủ thể quản lý cần phải linh động, sáng tạo, phong phú, áp
dụng được các biện pháp giải quyết tình huống phát sinh một cách hiệu quả nhất. Tuy
nhiên việc chủ động và sáng tạo không được làm trái, vượt ra ngoài phạm vi pháp luật.
5. QLC có mục tiêu chiến lược và có kế hoạch
Trong quản lý, việc đề ra mục tiêu được coi là chức năng đầu tiên và cơ bản. Mục tiêu
quản lý là căn cứ để các chủ thể quản lý đưa ra những tác động thích hợp cùng với
những hình thức và phương pháp phù hợp. Để đạt được mục tiêu các cơ quan quản lý
cần phải xây dựng nên được những đường lối, kế hoạch dài hạn, trung hạn, ngắn hạn
và tổ chức thực hiện. Để QLC tốt, Đảng và Nhà nước đã ban hành hiến pháp, các bộ
luật, chủ trương rõ ràng và định hướng cụ thể, điều đó thể hiện việc QLC của nước ta
đang đi đúng mục tiêu đề ra và chỉ cần chinh phục thành công những thách thức khó
khăn, chúng ta sẽ như đang lướt trên đầu ngọn sóng và cứ thế tiến về phía trước.
III. Vai trò quản lý công
Quản lý công có vai trò rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia
và của nhà nước, cụ thể được thể hiện như sau:
Thứ nhất, các cơ quan trong quản lý công định hướng, điều chỉnh các mối quan hệ xã
hội, hướng dẫn và điều hành các hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước nhằm đạt
mục tiêu tới mức tối đa và hiệu suất cao nhất.
Thứ hai, quản lý công duy trì và thúc đẩy phát triển xã hội, phát triển nguồn tài
nguyên và hạn chế những sự xuống cấp của môi trường. Quản lý công luôn có trách
nhiệm duy trì và tạo lập những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các yếu tố cấu
thành xã hội: duy trì và phát triển các nguồn tài nguyên, kiến tạo các nguồn lực vật
chất, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính, phát triển các nguồn lực của con
người, khắc phục những thất bại, những sai sót thị trường gây ra,...
Thứ ba, quản lý công đảm bảo cung cấp dịch vụ công xã và đồng hành cùng quá trình
phát triển của xã hội trong quá trình hình thành thói quen dân chủ hóa của người dân.
Cùng với sự phát triển của xã hội và quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội thì vai trò
này càng trở nên quan trọng và mở rộng. Vì suy cho cùng, quản lý công thiết lập nhằm
phục vụ lợi ích của nhân dân với tư cách là chủ thể của xã hội, là chủ thể của quyền
lực nhà nước.

CHƯƠNG II : NHỮNG THÁCH THỨC TRONG QUẢN LÝ CÔNG HIỆN NAY

I. Sự phát triển mạnh mẽ của đời sống kinh tế - xã hội


Với ảnh hưởng không nhỏ về đại dịch COVID vừa qua cùng với những biến động thế
giới, cuộc xung đột giữa Nga - Ukraina đã giáng những đòn khá gay gắt vào nền kinh
tế thế giới, đặc biệt đối với Việt Nam- một nước đang trên đà hội nhập và phát triển.
Xung đột Nga - Ukraine kèm theo đó là các biện pháp trừng phạt kinh tế mạnh của
phương Tây cũng như những phản ứng của Nga đã gây ra tác động tiêu cực toàn diện
và sâu sắc đến kinh tế thế giới, Việt Nam cũng không ngoại lệ. Cả Nga và Ukraine
đều là những đối tác thương mại truyền thống và quan trọng của Việt Nam tại khu vực
Á - Âu. Do đó, sự đứt gãy chuỗi cung ứng sẽ tác động đến cả những thị trường liên
đới khác, liên quan đến các giao dịch thanh toán với các doanh nghiệp. Nhiều doanh
nghiệp xuất khẩu của Việt Nam đã bị ngừng trệ đơn hàng, đứt gãy nguồn cung nguyên
vật liệu, chậm trễ trong các biện pháp thanh toán.
Giá phân bón, vật tư hàng hóa nông nghiệp luôn là "nỗi ám ảnh" với nông dân Việt
Nam. Năm 2021, giá phân bón sản xuất trong nước và giá nhập khẩu đã tăng khoảng
60 - 80%. Giá thức ăn chăn nuôi cũng tăng, trong khi giá các sản phẩm đầu ra bấp
bênh tạo thêm khó khăn kép cho nông dân. Nga là nhà sản xuất phân bón hàng đầu thế
giới, là quốc gia sản xuất lớn về phân urê và kali khi xung đột xảy ra, cổ phiếu phân
bón trên sàn chứng khoán Việt Nam tăng vọt. Sự đứt gãy trong cung ứng các thành
phần của phân bón khiến giá bán các hàng hóa nông nghiệp tăng lên.
Giá dầu cao khiến chi phí hậu cần và vận chuyển tăng. Giá dầu tăng cao đồng nghĩa
gia tăng chi phí cho hầu hết ngành sản xuất, áp lực lạm phát với kinh tế toàn cầu càng
lớn hơn. Việt Nam nhập khẩu ròng giá trị dầu mỏ và các sản phẩm từ dầu với gần 6 tỷ
USD trung bình mỗi năm  trong giai đoạn 2017 - 2021. Khi giá dầu tăng cao, giá trị
nhập khẩu ròng cũng sẽ tăng theo khiến tăng chi phí vận chuyển, buộc các doanh
nghiệp nhập khẩu đầu vào của Việt Nam phải dừng giao dịch với Nga và chuyển sang
tìm các nhà cung ứng từ Úc, Nam Mỹ và châu Phi. Tình trạng này sẽ gây thiếu hụt,
chậm trễ và tăng chi phí trong dây chuyền sản xuất nhiều ngành công nghiệp. Thêm
nữa, việc cấm vận hàng không cũng sẽ dẫn đến các hãng hàng không phải chọn đường
bay dài hơn, chi phí tăng, áp lực gia tăng chi phí hậu cần logistics lên hệ thống vận
chuyển toàn cầu.
Vận tải hành khách còn gặp nhiều khó khăn khi nhu cầu đi lại của người dân giảm
mạnh cùng với dịch Covid-19 vẫn tiếp tục lây lan trong cộng đồng khiến nhiều người
lo ngại việc ra ngoài và tiếp xúc với đám đông. Nhận định về những thách thức phải
đối mặt khi phục hồi và phát triển du lịch bền vững trong tương lai, Phó Tổng cục
trưởng Hà Văn Siêu cho rằng: “Hiện nay, việc thiếu hụt lao động trong ngành Du lịch
rất đáng lo ngại khi có đến 60-70% lực lượng lao động bị mất việc làm hoặc chuyển
nghề khác do ảnh hưởng của dịch Covid-19. Sẽ cần rất nhiều chi phí đào tạo cho lực
lượng lao động mới và khó có thể đáp ứng được trong một thời gian ngắn nếu du lịch
hoạt động trở lại’’.
Những rào cản, giải quyết bài toán kinh tế, ngoại giao và trả lời cho những câu hỏi đặt
ra về đảm bảo an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống toàn dân là những thách thức
của QLC đang chờ được giải quyết một cách triệt để.
2.2. Xu hướng dân chủ hóa
Trong tiến trình đổi mới, Đảng ta đã nhận thức ngày càng rõ vai trò của dân chủ và đã
tập trung xây dựng thiết chế, hoàn thiện thể chế, đổi mới cơ chế và chính sách để bảo
đảm ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân. Quá trình dân chủ hóa các lĩnh
vực của đời sống xã hội đã tạo ra động lực to lớn cho sự nghiệp đổi mới. Tuy vậy, nó
vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn; nhận thức về vấn đề dân chủ và phát huy dân
chủ trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền vẫn còn nhiều vấn đề chưa được
giải đáp một cách thấu đáo...Thực tế đó đòi hỏi Đảng phải tiếp tục bổ sung những
nhận thức mới, đề ra những giải pháp để thúc đẩy nhanh hơn nữa quá trình dân chủ
hóa ở nước ta.
Trong lĩnh vực chính trị, các căn bệnh chuyên quyền, độc đoán, dân chủ hình thức hay
dân chủ cực đoan, tức dân chủ không đi đôi với kỷ cương, phép nước vẫn tồn tại ở
mọi cấp, nhưng trầm trọng nhất là ở cấp cơ sở. Do bộ máy hành chính còn rất cồng
kềnh và không phân rõ chức năng, nhiệm vụ nên cán bộ dễ “tranh công, đổ tội”. Thủ
tục hành chính còn rườm rà gây phiền hà cho nhân dân và doanh nghiệp. Chức năng
giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức quần chúng còn mờ nhạt.
Các khâu trong công tác cán bộ chưa được minh bạch hóa nên hiện tượng “chạy chức,
chạy quyền, chạy quy hoạch, chạy luân chuyển” vẫn phổ biến. Do chưa có cơ chế
kiểm soát quyền lực nên không ít cán bộ đã biến quyền dân trao thành quyền lực cá
nhân.
 Trong lĩnh vực kinh tế, những thông tin về quy hoạch đất đai, đấu thầu dự án... còn
thiếu sự minh bạch. Tình trạng “sân sau” của quan chức khá phổ biến và điều này làm
cho nền kinh tế phát triển một cách “méo mó”, thiếu bình đẳng. Các vụ khiếu kiện của
dân (phần lớn liên quan đến việc đền bù  đất đai trong quá trình đô thị hóa) chậm được
giải quyết. Tham nhũng chính là sự vi phạm dân chủ trắng trợn khi của cải của nhân
dân đã bị một số cá nhân có chức quyền chiếm đoạt nhưng đến nay, hiện tượng này
vẫn rất trầm trọng và ngày càng tinh vi. Sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, đặc
biệt là kinh tế tư nhân, trên thực tế vẫn chưa được đảm bảo; mức sống của nhân dân ở
vùng nông thôn và vùng sâu, vùng xa còn nhiều chênh lệch so với ở thành phố.
Trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, sự xâm hại bản quyền tác giả còn phổ biến, dịch vụ y
tế, giáo dục, đặc biệt là công tác thi cử còn để xảy ra những hiện tượng tiêu cực, gây
dư luận xấu trong xã hội; công tác an ninh và an sinh xã hội chưa được đảm bảo tốt...
Như vậy, giữa nhận thức về dân chủ và các chế định luật pháp, giữa luật pháp và sự
thực thi luật pháp vẫn còn khoảng cách khá lớn.

Trong Đảng và Nhà nước Việt Nam, vẫn còn tệ gia trưởng, độc đoán, dân chủ hình
thức, đồng thời vô tổ chức, vô kỷ luật. Nhiều việc đưa ra tập thể cấp Ủy bàn bạc,
nhưng chỉ cốt để hợp thức hóa ý đồ của cá nhân người đứng đầu. Công tác kiểm tra,
giám sát của Đảng còn nhiều hạn chế, đặc biệt là chưa thực hành đầy đủ dân chủ trong
công tác này. Hầu hết các vụ tham nhũng, tiêu cực không phải do cấp Ủy, tổ chức
Đảng, cơ quan kiểm tra phát hiện được mà chủ yếu do nhân dân phát hiện, tố cáo hoặc
báo chí nêu. Nhà nước còn chậm thể chế hóa các chủ trương của Đảng về dân chủ
thành pháp luật, quy chế, nên các chủ trương của Đảng đi vào cuộc sống rất chậm làm
ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước.
Nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn nhiều hạn
chế, nên thiếu trách nhiệm trong việc triển khai thực hiện dân chủ ở cơ sở. Nhiều chủ
trương về thực hành dân chủ trong xã hội chưa được thể chế hóa, nên chủ trương thì
đúng và hay, nhưng thực tế thực hành dân chủ trong xã hội chưa tốt, quyền làm chủ
của nhân dân chưa được tôn trọng và phát huy đầy đủ, thậm chí quyền làm chủ của
nhân dân ở một số nơi, trên một vài lĩnh vực còn bị vi phạm. Việc giải quyết yêu cầu
phát huy dân chủ, tự do ngôn luận, lắng nghe các ý kiến khác biệt, tư duy phản biện
trong xã hội với việc giữ vững kỷ luật, kỷ cương, phép nước còn nhiều bất cập. Chưa
có cơ chế bảo đảm để nhân dân thực hiện vai trò chủ thể của quyền lực, trên thực tế,
quyền lực vẫn thuộc về các cơ quan nhà nước. Việc nhân dân giám sát chính quyền
cũng chưa có cơ chế rõ ràng, trên thực tế, việc giám sát này còn rất mờ nhạt.
Tuy đơn vị sự nghiệp công lập và doanh nghiệp nhà nước đã đưa ra nhiều giải pháp
dân chủ để quản lý, song những thứ đó chỉ thuộc về lý thuyết bởi những cơ quan đó
chưa thật sự đáp ứng được những yêu cầu, nguyện vọng của những người đóng góp.
Để đất nước có thể phát triển đúng với các tiềm năng trên cơ sở hội nhập ngày càng
chủ động và tích cực hơn với thế giới, thì dân chủ phải được phát huy mạnh mẽ hơn
nữa, trước hết là dân chủ ở trong Đảng và tiếp đó là dân chủ trong toàn bộ đời sống xã
hội. Ngày nay, dân chủ cần được đối xử như một phương thức cơ bản, quan trọng nhất
để tạo động lực thúc đẩy sự phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
2.3. Xu hướng toàn cầu hóa

Toàn cầu hóa kinh tế là một nội dung trọng tâm, quan trọng và xuyên suốt trong
công cuộc đổi mới kinh tế của Việt Nam. Quá trình này đã và đang mở ra nhiều cơ
hội, cũng như nhiều thách thức đối với cộng đồng doanh nghiệp và cả nền kinh tế.
Việc hội nhập kinh tế toàn cầu thể hiện sự thích ứng của nền kinh tế quốc gia với xu
thế của thế giới là không thể chậm trễ. Vai trò Nhà nước là vô cùng quan trọng để
định hướng các chính sách phát triển kinh tế nhằm phân tích và đánh giá đúng đắn bối
cảnh quốc tế và xu hướng tự do hóa thương mại, từ đó nhận diện các cơ hội và thách
thức đối với nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh thực thi các hiệp định thương mại tự
do.

Thông qua WTO các nước phát triển không sẵn lòng tiêu thụ hàng hóa xuất khẩu của
các nước đang phát triển, với các điều kiện cao về lao động, vệ sinh môi trường đã
làm rào cản đối với các nước đang phát triển tham gia vào quá trình toàn cầu hóa. Các
doanh nghiệp công và đơn vị sự nghiệp công lập đứng trước thách thức to lớn về yêu
cầu cao của thị trường quốc tế.

Các hàng hóa do doanh nghiệp nhà nước ta xuất khẩu thường có hàm lượng công
nghệ thấp, giá thành rẻ và thường phải nhập thiết bị công nghệ giá cao nên dẫn đến
thâm hụt ngoại thương cao. Trong quá trình đón nhận vốn viện trợ, đầu tư hợp tác, các
nhà quản lý công do thiếu kinh nghiệm tổ chức quản lý, hệ thống luật pháp chưa hoàn
thiện và không quản lý được tham nhũng, các dự án đầu tư kém hiệu quả dẫn đến nợ
nước ngoài càng gia tăng.
Các yếu tố của môi trường chính trị quốc tế đã tác động trực tiếp đến hệ thống chính
trị trong một quốc gia, buộc các nước phải thay đổi thể chế pháp luật trong nước sao
cho phù hợp với quốc tế và phải được quốc tế thừa nhận. Ngoài ra còn kéo theo những
ảnh hưởng gián tiếp khác như là thông qua sự thay đổi nhận thức của công dân về các
mối quan hệ cơ bản với nhà nước, chính đảng từ việc so sánh nội tình chính trị của các
quốc gia khác.
Bên cạnh việc toàn cầu hóa kinh tế thì toàn cầu hóa cũng mang theo văn hóa nước
ngoài du nhập vào Việt Nam. Có những văn hóa văn minh tốt đẹp mà người Việt Nam
nên học hỏi, nhưng Việt Nam nên thận trọng về việc toàn cầu hóa ảnh hưởng tới bản
sắc văn hóa dân tộc, làm mai một, xói mòn giá trị truyền thống văn hóa địa phương.
Điều này đòi hỏi Đảng và nhà nước phải có những biện pháp phù hợp để gìn giữ bản
sắc dân tộc Việt Nam.
Như vậy, dưới sự tác động tiêu cực và tích cực của toàn cầu hóa, các hoạt động quản
lý trong khu vực công hiện nay có những thay đổi rõ rệt trong các bộ luật đến những
biến chuyển của thế giới quan, ý thức chính trị - pháp lý của công dân và cả đội ngũ
công chức. Ở góc độ này, môi trường chính trị quốc tế đang ngày càng hòa lẫn với
môi trường chính trị trong nước, xóa dần ranh giới và ảnh hưởng ngày một sâu sắc
hơn đến hoạt động quản lý trong khu vực công.

2.4. Cách mạng công nghiệp 4.0


Không thể phủ nhận những thuận lợi và cơ hội do cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ tư mang lại, tuy nhiên cũng cần thật tỉnh táo nhận thấy những thách thức đằng sau
để có những giải pháp khắc phục, thích nghi kịp thời.
Câu hỏi đặt ra là nền tảng công nghệ mà Việt Nam đang có là gì và chúng ta có đón
bắt được luồng gió mới từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hay không? Có thể thấy,
thời gian qua, những thiết bị tối tân, tiên tiến như trí tuệ nhân tạo, công nghệ in 3D,
công nghệ robot; vật liệu mới như nano đã xuất hiện tại Việt Nam. Tuy nhiên, chúng
ta có mỗi thứ một ít mà không thứ nào đạt đến mức nắm bắt thực sự công nghệ 4.0.
Và những khó khăn thì rất rõ ràng :
Thứ nhất, nền sản xuất công nghiệp của Việt Nam phần lớn còn đang chưa hoàn thành
trạng thái 2.0, tức vẫn ở trạng thái chuyển đổi - người điều khiển máy đơn dùng và
chưa có trí tuệ nhân tạo. Trong khi đó ở một số hoạt động lại có những hệ máy tiến lên
3.0 nhưng không phải do chủ động về công nghệ mà do sự du nhập trong toàn cầu hóa
và tính bắt buộc phải có, dẫn dắt theo dây chuyền sản xuất của thế giới. Nền sản xuất
trở nên phân mảnh, đứt gãy và tạo sản phẩm đầu ra nhiều khiếm khuyết để rồi hàng
hóa không có sức cạnh tranh.
Thứ hai, hầu như trong mọi ngành nghề, chúng ta sẽ vấp phải lựa chọn cực khó về
thay đổi phương thức làm việc và trang thiết bị đi theo. Chúng ta buộc phải qua 3.0
trước với đặc trưng là xử lý công việc theo một hệ máy, kết nối với trái tim là một
máy chủ được người điều khiển. Nhưng ngặt nỗi đây là việc quá khó, bởi lẽ sự khấp
khểnh trong quy trình quản trị xã hội và DN. Trường hợp lạc quan nhất, nếu chúng ta
đạt ngưỡng 3.0 so với trí tuệ nhân tạo chủ động của kỷ 4.0 thì thua rất xa, vì thế cạnh
tranh tổng thể các mặt so với thế giới sẽ yếu.
Thứ ba, Việt Nam lâu nay trông chờ vào dòng vốn FDI với sự dịch chuyển công nghệ,
vốn, và quản trị hiện đại. Tuy nhiên, hầu hết các ngành nghề thu hút FDI là thâm dụng
lao động, tài nguyên và chi phí rẻ như chi phí nhân công và ưu đãi thuế, đất đai. Bước
lên 4.0, xu hướng các dòng vốn FDI sẽ quay đầu chảy về chính quốc để tận dụng sức
mạnh của cách mạng 4.0 tại đó tốt hơn. Thế mạnh “nguồn nhân lực giá rẻ” rất có thể
trở thành gánh nặng xã hội khi người lao động không có đủ sức cạnh tranh với những
cỗ máy ngày càng thông minh và chi phí cực rẻ (nhiều dự báo có tới 86% lao động dệt
may có thể mất việc vì cách mạng công nghiệp 4.0). Hố sâu ngăn cách giàu nghèo
trong xã hội ngày càng trở nên trầm trọng khi lực lượng lao động được phân định lạnh
lùng lao động tri thức và lao động cơ bắp.
Thách thức trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế. Cách mạng công
nghiệp 4.0 đã gây ra sức ép lớn về nguồn lực công bao gồm: đội ngũ cán bộ, nguồn
lực tài chính, công sản; các điều kiện vật chất, kỹ thuật đảm bảo thực thi công việc
hiệu quả. Trong đó, nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng nhất. Để bắt kịp với xu
thế hiện đại của cách mạng công nghiệp 4.0, yêu cầu trình độ học vấn và trình độ
chuyên môn, nghề nghiệp của nguồn nhân lực cần phải được nâng cao. Tuy nhiên, có
thể nhận thấy, năng lực của các cán bộ, công chức, viên chức trong khu vực công hiện
nay chưa thực sự được đảm bảo, thậm chí năng lực của nguồn nhân lực còn không đáp
ứng được nhu cầu thay đổi của cuộc cách mạng dẫn đến tổn thất. Bên cạnh đó, sự phát
triển của cách mạng công nghiệp 4.0 với những trang thiết bị, máy móc hiện đại cũng
có thể thay thế một vài vị trí có nhân lực trước đây. Nếu như năng lực của một công
chức không đảm bảo và vị trí đó có thể thay thế bằng máy móc, thiết bị nhân tạo thì
các nguồn nhân lực sẽ bị thay thế. Điều này dẫn đến tình trạng thất nghiệp của các
công chức ngày càng gia tăng.
Ngoài ra, cách mạng công nghiệp 4.0 còn đem lại những khó khăn, thách thức khác về
tính bảo mật, đảm bảo an toàn, an ninh thông tin, an ninh mạng trong hoạt động quản
lý công. Việc xây dựng các cơ sở dữ liệu quốc gia, hạ tầng công nghệ thông tin nền
tảng phục vụ phát triển Chính phủ điện tử còn chậm; an toàn, an ninh thông tin thấp;
ứng dụng công nghệ thông tin được triển khai chưa hiệu quả, việc giải quyết thủ tục
hành chính và xử lý hồ sơ công việc còn phụ thuộc nhiều vào giấy tờ, thủ công; tỷ lệ
sử dụng dịch vụ công trực tuyến còn rất thấp.
Không chỉ vậy, khi phát triển cách mạng công nghiệp 4.0, xu hướng hội nhập, toàn
cầu hoá ngày càng mở rộng. Hệ thống phân phối hàng hoá nội địa Việt Nam sẽ phải
cạnh tranh gay gắt, khốc liệt đối với hàng hoá nước ngoài như việc: nâng cao chất
lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm, cải tiến mẫu mã,... Trong điều kiện kinh tế
mở, phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi sự đồng bộ về hệ thống thể chế kinh tế, thể chế hành
chính phù hợp với thông lệ chung của thế giới. Có thể thấy, hiện nay trong thời đại
công nghiệp 4.0, thời đại đổi mới và hội nhập, nếu như Việt Nam không đổi mới bộ
máy, cải cách thủ tục hành chính nhanh gọn và hiệu quả thì Việt Nam sẽ mất nhiều
đối tác quan trọng. Trong khi thời đại công nghệ số, bộ máy hành chính còn ì ạch,
không giải quyết gọn gàng, triệt để các thủ tục hành chính cho tư nhân nước ngoài
kinh doanh, đầu tư thì chúng ta dễ dàng đánh mất cơ hội phát triển đất nước, dẫn đến
nhiều bất ổn cho xã hội.
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã tác động rất lớn đến hoạt động quản lý công,
không chỉ đem lại những thời cơ mà còn tạo ra không ít thách thức đòi hỏi các nhà
quản lý công phải không ngừng nỗ lực, cải cách, đưa ra giải pháp kịp thời để thích
ứng với điều kiện của nước ta và biến thách thức trở thành bước phát triển đột phá cho
quản lý công.
CHƯƠNG 3 : MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
1. Sự phát triển mạnh mẽ của đời sống kinh tế - xã hội
1.1. Kinh tế
Cơ quan nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập cần xây dựng các giải pháp quản lý
nội bộ để tiết kiệm chi phí, tăng thu nhập cho người lao động. Ngăn chặn tình trạng
tăng giá bất hợp lý. Tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận vốn, đồng thời cải
thiện môi trường đầu tư kinh doanh, hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển giao lưu với
nước ngoài,...
Việt Nam hiện đã tham gia ký kết 15 FTA, đang đàm phán 2 FTA khác và có quan
hệ với rất nhiều nước, xung đột Nga - Ukraine xảy ra thì rủi ro là điều không tránh
khỏi. Tuy nhiên, Việt Nam cần tạo ra những cơ hội để phát triển, đẩy mạnh khai thác
hiệu quả các FTA đã ký với các quốc gia, đặc biệt là FTA với Liên minh kinh tế Á -
Âu như FTA Việt Nam - EU (EVFTA); FTA với các nước khu vực châu Á - Thái
Bình Dương. Doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội chuyển đổi, tìm kiếm các thị trường
mới. Đây là thời điểm tốt để Việt Nam tăng cường xuất khẩu gạo, các loại nông phẩm
lương thực sang thị trường EU vốn có nhu cầu cao, mỗi năm nhập khoảng 160 tỷ
USD, xuất khẩu nhiều nông sản và thực phẩm quan trọng cho thế giới như lúa gạo, cà
phê, hạt điều, hạt tiêu, ca cao, khoai mì, tôm, cá tra, trái cây… Giá gạo và nông phẩm
tăng có lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu lúa gạo và nông phẩm của Việt Nam, càng
có cơ hội củng cố vị thế của Việt Nam là nhà cung cấp hàng hóa hàng đầu cho khách
hàng.
Các doanh nghiệp nhà nước cần liên kết chặt chẽ với nhau, tạo điều kiện thuận lợi
cho các doanh nghiệp tư nhân, trong đó các doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia vào
chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị. Thực hiện chủ trương cơ cấu lại với mục đích nâng cao
hiệu quả để doanh nghiệp nhà nước giữ vững vai trò then chốt, dẫn dắt trong nền kinh
tế. Tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả. thực hiện chính sách tiền
tệ linh hoạt, an toàn, thận trọng, chính sách tài khóa mở rộng hợp lý, bảo đảm hiệu
quả, quản lý chặt chẽ giá cả, thị trường,...
1.2. Xã hội
Khuyến khích cơ quan nhà nước và các đơn vị sự nghiệp công lập xã hội hoá việc
cung cấp dịch vụ công, huy động khu vực tư nhân tham gia cung cấp một số dịch vụ
công cho xã hội như y tế, giáo dục, cấp thoát nước... trên cơ sở tuân thủ các tiêu
chuẩn, quy chuẩn do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định. Toàn diện và đồng
bộ hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập, bảo đảm tinh gọn, có cơ cấu hợp lý, có
năng lực tự chủ, quản trị tiên tiến, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; giữ vai trò chủ đạo,
then chốt trong thị trường dịch vụ sự nghiệp công; cung ứng dịch vụ sự nghiệp công
cơ bản, thiết yếu có chất lượng ngày càng cao. Doanh nghiệp nhà nước là lực lượng
vật chất và công cụ quan trọng để Nhà nước giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường
xanh, bảo đảm ổn định chính trị-xã hội. Sự tồn tại của doanh nghiệp nhà nước với việc
sử dụng nhiều lao động, tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập sẽ góp phần giảm bớt
khoảng cách phân hóa xã hội. Mặt khác, doanh nghiệp nhà nước có thể thực hiện các
quyền, nghĩa vụ bảo hiểm cho người lao động tốt hơn các thành phần kinh tế khác.
Việc đầu tư phát triển các doanh nghiệp nhà nước có vai trò quyết định, bảo đảm các
nhu cầu cung cấp dịch vụ công cộng thiết yếu cho đời sống dân cư vùng sâu, vùng xa
mà đầu tư tư nhân chưa vươn tới, không có khả năng, hoặc không lựa chọn...
Chính phủ thúc đẩy việc đưa ra các chính sách tiền tệ, tài khóa, an sinh xã hội nhằm
hỗ trợ doanh nghiệp và người dân vượt qua giai đoạn khó khăn nhất của cú sốc
COVID-19. Các gói hỗ trợ cho các chủ thể trong nền kinh tế đang được triển khai và
chưa thể đánh giá đầy đủ hiệu quả ngay được. Mục tiêu vừa phát triển kinh tế, vừa
phòng chống dịch tốt đang trở nên khó khăn, thách thức hơn bao giờ hết. Tuy nhiên,
mục tiêu này không phải là bất khả thi với sự quyết tâm của Chính phủ, sự vào cuộc
của các bộ, ban, ngành, địa phương và sự chung tay, góp sức của toàn thể người dân
cả nước trong cuộc chiến chống sự lây lan của vi-rút SARS-CoV-2.
2. Xu hướng dân chủ hoá
Đối với cơ quan nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập, thực hiện và phát huy dân
chủ là nhiệm vụ rất quan trọng. Cần phải phát huy trách nhiệm cụ thể trong việc thực
hiện dân chủ của cán bộ, công chức, viên chức. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo
dục, nâng cao nhận thức, trình độ hiểu biết của cán bộ, nhân dân về dân chủ, nắm
vững quy chế dân chủ ở cơ sở và các quy chế gắn với từng cơ quan, đơn vị xã, phường
cụ thể. Đồng thời, cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế, thiết chế bảo đảm dân
chủ trong đường lối, chính sách, chủ trương, pháp luật. Trong doanh nghiệp nhà nước,
cần bổ sung quy định việc thực hiện dân chủ ở doanh nghiệp nhà nước, nhất là người
lao động được tham gia ý kiến, bàn bạc, quyết định, kiểm tra nhằm tạo cơ sở pháp lý
cho người lao động thực hiện quyền làm chủ một cách thực chất, có hiệu quả.
Đẩy mạnh thực hiện dân chủ ở cơ sở là bước tiến mở rộng dân chủ trực tiếp, nâng cao
chất lượng dân chủ đại diện, đưa phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra” vào cuộc sống ở cơ sở. Xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở đã góp
phần tích cực thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững an ninh, trật tự ở
cơ sở, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
và chất lượng đảng viên; không ngừng nâng cao năng lực quản lý, điều hành của các
cơ quan nhà nước và trách nhiệm đội ngũ cán bộ, công chức; góp phần đổi mới
phương thức hoạt động và nâng cao vai trò, uy tín của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
các đoàn thể nhân dân.
3. Xu hướng quốc tế hoá
Đối với Việt Nam, vấn đề tham gia hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu là chủ trương
lớn của Đảng, Nhà nước trong việc mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, nâng cao vị thế
của Việt Nam trên trường quốc tế.Vấn đề đặt ra là các cơ quan nhà nước, doanh
nghiệp nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập cần phải tiếp thu tri thức một cách chọn
lọc và hiệu quả; áp dụng các thành tựu khoa học vào máy móc, công nghệ, đường
chuyền sản xuất nhằm nâng cao chất lượng mặt hàng hoá, sản phẩm trong thị trường
xuất nhập khẩu và trách thâm hụt ngoại thương cao. Nâng cao trình độ chuyên môn,
công tác tổ chức của cán bộ, công chức, viên chức, người quản lý và người lao động.
Mặc dù, các quan điểm toàn cầu hóa vẫn còn nhiều tranh luận đối lập nhau, nhưng
toàn cầu hóa kinh tế vẫn là xu hướng trên thế giới. Đây chính là thời cơ để Việt Nam
có thể nghiên cứu, đánh giá và vận dụng để có những hành động cụ thể nhằm bắt kịp
các nước có nền khoa học, kinh tế phát triển.

Trong lĩnh vực về kinh tế- chính trị quốc tế, Nhà nước cần có cơ chế chính sách tốt để
tập hợp được các cơ quan và các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực này, để họ có thể dành
nhiều tâm huyết đóng góp kiến thức chuyên môn của mình. Vấn đề đặt ra là cần phải
có cơ quan nghiên cứu có quyền hạn và trách nhiệm đầy đủ trong nghiên cứu kinh tế
nói chung, vấn đề toàn cầu hóa kinh tế nói riêng.

Một quốc gia có thể hưởng lợi nhiều hơn từ toàn cầu hóa kinh tế bằng cách tăng
thương mại quốc tế và đầu tư nước ngoài, bằng cách giảm rào cản nhập khẩu và cải
thiện chính sách thuế… Do đó, các nhà hoạch định chính sách cần xây dựng các chính
sách để giảm tác động tiêu cực của tiến trình toàn cầu hóa theo hướng phù hợp với lợi
ích chung giữa các nước với nhau.

Về chính sách hội nhập kinh tế, một quốc gia có thể hưởng lợi nhiều hơn từ toàn cầu
hóa kinh tế bằng cách tăng thương mại quốc tế và đầu tư nước ngoài, bằng cách giảm
rào cản nhập khẩu và cải thiện chính sách thuế… Do đó, các nhà hoạch định chính
sách cần xây dựng các chính sách để giảm tác động tiêu cực của tiến trình toàn cầu
hóa theo hướng phù hợp với lợi ích chung giữa các nước với nhau.

Đặc biệt cần phải kết hợp giữa bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, các giá trị
truyền thống với việc tiếp thu có chọn lọc những giá trị tinh hoa văn hóa của nhân
loại, kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại.
4. Cách mạng công nghiệp 4.0
Chính phủ cần tiên phong công bố và phổ biến chiến lược, chính sách quốc gia về
cách mạng 4.0 và sử dụng công cụ chính sách để kích ứng sự thay đổi mạnh mẽ ở các
DN. Khoa học công nghệ cần phải thực sự là “quốc sách hàng đầu” định hướng
nghiên cứu vào và phục vụ cách mạng công nghiệp 4.0 chứ không phải như cách hiện
nay ví như là dự kiến phân bổ một ngân sách ít ỏi khoảng 2%, phân bổ thực tế đâu đó
khoảng 1,5% tổng chi ngân sách và cuối năm là lại chi không hết với các lý do muôn
năm cũ. Các nhà khoa học, nhân tài công nghệ cần được tập trung, nghiên cứu trong
một số tổ hợp khoa học công nghệ trọng điểm quốc gia, vừa nghiên cứu, vừa sản xuất
kinh doanh và chỉ tập trung vào các công nghệ cốt lõi chính của 4.0 như khoa học vật
liệu, trí tuệ nhân tạo, robot…
Cần xác định đặc trưng cách mạng 4.0 cho Việt Nam là “thông minh” đồng thời ưu
tiên các tiềm năng quốc gia như nông nghiệp, giáo dục, y tế, du lịch, môi trường …
Chẳng hạn, du lịch phải gắn kết công nghệ số để bán và vận hành các chuỗi dịch vụ;
để giới thiệu, quảng bá ra thế giới... rồi y tế thông minh, giao thông thông minh và đô
thị thông minh…
Nền kinh tế Việt Nam cần một số điều chỉnh như sửa lại cơ cấu, thể chế thị trường
và hệ thống tài chính. Chiến lược chung là hướng vào dịch vụ, thậm chí chủ đạo hơn
công nghiệp. Đó là dịch vụ du lịch, logistic, tài chính, bảo hiểm chú trọng mở ra toàn
cầu và hoạt động trên lĩnh vực bán lẻ và hệ thống kinh tế chia sẻ.
Để mọi lĩnh vực, ngành nghề trong nước đều xác định rõ trọng điểm đầu tư và mục
tiêu phát triển nguồn nhân lực công nghệ (có tri thức công nghệ, có khả năng làm chủ
công nghệ, có thể thực hiện các hoạt động trong môi trường công nghệ cao). Ở một số
lĩnh vực mà thế giới đã tiến rất xa như tài chính, ngân hàng, năng lượng, giao thông
vận tải,… Chính phủ nên hỗ trợ đi tắt đón đầu, đầu tư tiếp cận thẳng công nghệ 4.0
thay vì để các cơ quan, DN tự mày mò, nghiên cứu.
Quy mô cách mạng công nghiệp 4.0 diễn ra trên nhiều lĩnh vực, buộc các cơ quan
nhà nước, doanh nghiệp nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập thúc đẩy nhanh chóng
quá trình chuyển đổi sổ và ứng dụng công nghệ thông tin có hiệu quả. Nghị quyết số
52- NQ/TW ngày 27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cách
mạng công nghiệp lần thứ tư đã nhấn mạnh yêu cầu trên là cấp bách. Cơ quan nhà
nước và đơn vị sự nghiệp công lập trước hết cần phải chuyển đổi nhận thức, tái cấu
trúc quy trình nghiệp vụ, cơ cấu tổ chức và chuyển đổi các mối quan hệ từ môi trường
truyền thống sang môi trường số. Cơ quan nhà nước từ đó thúc đẩy đổi mới, cải cách
hành chính, nâng cao dịch vụ công nhằm triển khai Chính phủ điện tử thực sự hiệu
quả và độ bảo mật, an ninh thông tin cao.
Cách mạng công nghiệp còn là cuộc cách mạng về thể chế. Thể chế cần phải cải
thiện và điều chỉnh linh hoạt để chấp nhận những cái mới: công nghệ mới, sản phẩm
mới, dịch vụ mới, mô hình mới; đảm bảo sự đồng bộ về hệ thống thể chế kinh tế, thể
chế hành chính phù hợp với thông lệ chung của toàn cầu. Cần phải đảm bảo việc làm
cho người lao động trong quá trình chuyển đổi số. Tuyên truyền, nâng cao công tác tổ
chức, trình độ chuyên môn của các cán bộ, công chức, viên chức về sự chuyển đổi số.
Doanh nghiệp nhà nước cần có văn bản pháp lý, chiến lược, mục tiêu cụ thể trong
việc thúc đẩy khoa học, công nghệ. Cần hoàn thiện thể chế, hỗ trợ doanh nghiệp triển
khai các dự án đổi mới công nghệ, đổi mới sáng tạo. Nâng cao trình độ năng lực và
công nghệ nhằm cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm; giảm dần công nghệ
thấp và công nghệ trung bình.
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, khó lường hiện nay,
công cuộc đổi mới, cải cách mở cửa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước bước
vào giai đoạn mới các vấn đề như sự phát triển mạnh mẽ của đời sống kinh tế - xã hội;
xu hướng dân chủ hóa; xu hướng quốc tế hóa; cách mạng công nghiệp 4.0... là những
vấn đề đang được chú trọng và cần được lưu tâm trong thời điểm hiện tại và tương lai.
Có thể thấy những ảnh hưởng từ bối cảnh đã tác động mạnh mẽ đến quản lý công. Nó
vừa là thời cơ vừa là thách thức yêu cầu Đảng và nhà nước ta phải có những giải pháp
xử lý, quyết định sao cho phù hợp. Đồng thời, một số đề xuất, kiến nghị được nêu ra ở
trên sẽ giúp nâng cao, phát triển hiệu quả quản lý công nhằm bắt kịp với xu hướng
mới của thời đại và bối cảnh hiện nay.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Minh Phong, Dấu ấn tích cực trên hành trình đổi mới và hội nhập
quốc tế của Việt Nam, baochinhphu.vn/dau-an-tich-cuc-tren-hanh-trinh-
doi-moi-va-hoi-nhap-quoc-te-cua-viet-nam-102220110083625022.htm;
2. Nguyễn Mại, Chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch - vấn đề của Việt Nam,
vietnamfinance.vn/chu-nghia-bao-ho-mau-dich-van-de-cua-viet-nam-
20180504224208703.htm;
3. Cường Ngô (2022), Xung đột Nga - Ukraine gây tăng giá xăng dầu, thiết
bị y tế đến tiêu dùng, Báo Lao Động, https://laodong.vn/ 
4. Minh Sơn (2022), “Cơn bão” giá hàng hóa và những rủi ro tới kinh tế
Việt Nam - https://vnexpress.net/ 
5. https://thuvienso.quochoi.vn/bitstream/11742/20478/1/8.pdf?
fbclid=IwAR3BDNH4OEgpwG0VGhJy-
MssdhiAai466lnSPckcWfdM8ixQwApKRIVVzV4
6. https://www.quanlynhanuoc.vn/2021/10/20/quan-tri-cong-trong-boi-canh-
moi-xu-huong-va-thach-thuc/?
fbclid=IwAR0BWEmKnjusKbKSDqXeuqLZB-QdpM6n0JplGQ

You might also like