You are on page 1of 11

Thực trạng pháp luật về đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay và đề xuất hoàn thiện

12/05/2016
Qua hơn 70 năm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật XHCN ở Việt Nam, trong các quy định về
công chức, công vụ nước ta có nhiều quy phạm pháp luật ghi nhận những giá trị, những chuẩn mực đạo đức
công chức (ĐĐCC). Các quy định của pháp luật về công chức công vụ đều được xây dựng trên cơ sở những
chuẩn mực đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Vì vậy, có thể khẳng định, pháp luật vừa là công cụ
hữu hiệu trong việc bảo tồn những giá trị đạo đức truyền thống, vừa góp phần bồi đắp nên những chuẩn
mực giá trị mới, trong đó có ĐĐCC.
Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về ĐĐCC ở Việt Nam gắn liền với quá trình phát
triển của pháp luật Việt Nam nói chung. Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật
về ĐĐCC gắn với các thời ky phát triển của cách mạng Việt Nam và sự ra đời của các bản Hiến
pháp.
1. Thực trạng pháp luật về đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến đạo đức công chức hiện nay.
Xây dựng đội ngũ công chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây
dựng và phát triển đất  nước luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Xây dựng đội ngũ công
chức đáp ứng sự nghiệp đổi mới, tận tụy với nhân dân có ý nghĩa quyết định đối với việc xây
dựng, hoàn thiện bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng xác định: “Về đội ngũ cán bộ, công chức hành
chính: Xây dựng và ban hành văn bản pháp quy về chế độ công vụ và công chức. Định rõ nghĩa
vụ, trách nhiệm, thẩm quyền, quyền lợi và kỷ luật công chức hành chính. Quy định các chế độ
đào tạo, tuyển dụng, sử dụng công chức. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước vừa có
trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp cao, vừa giác ngộ về chính trị, có tinh thần trách
nhiệm, tận tụy, công tâm, vừa có đạo đức liêm khiết khi thi hành công vụ”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục chỉ rõ: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức trong sạch, có năng lực. Hoàn thiện chế độ công vụ, quy chế cán bộ, công chức. Đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức, trước hết là cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, về đường lối, chính
sách, về kiến thức và kỹ năng quản lý hành chính nhà nước. Sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công
chức theo đúng chức danh, tiêu chuẩn. Định kỳ kiểm tra, đánh giá chất lượng cán bộ, công chức,
kịp thời thay thế những cán bộ, công chức yếu kém và thoái hóa”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng xác định những yêu cầu đối với công tác xây
dựng đội ngũ công chức, trong đó nhấn mạnh nội dung về ĐĐCC đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới đất nước giai đoạn hiện nay: Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có
năng lực đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và
thẩm quyền của mỗi cán bộ, công chức; tăng cường tính công khai, minh bạch, trách nhiệm của
hoạt động công vụ. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về bản lĩnh chính trị,
phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý nhà nước. Có chính sách đãi
ngộ, động viên, khuyến khích cán bộ, công chức hoàn thành nhiệm vụ và có cơ chế loại bỏ, bãi
miễn những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với nhân dân”.
Nâng cao ĐĐCC không chỉ là công tác tuyên truyền, giáo dục đạo đức đối với công chức mà cần
kết hợp với việc phát huy vai trò điều chỉnh của pháp luật về ĐĐCC. Pháp luật về ĐĐCC phải
được coi là một trong những bảo đảm pháp luật để nâng cao ĐĐCC trong điều kiện đổi mới đất
nước ta hiện nay.
Thể chế hóa những chủ trương trên của Đảng, những năm qua nhà nước Việt Nam đã ban hành
nhiều văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) liên quan đến ĐĐCC, trong đó Hiến pháp năm
1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) là cơ sở pháp lý quan trọng nhất cho việc ban hành các
VBQPPL về ĐĐCC. Bên cạnh Hiến pháp, đáng chú ý có Luật Cán bộ, công chức năm 2008, Luật
Phòng, chống tham nhũng năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2007), Luật Thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí năm 2005. Các VBQPPL dưới luật như: Quyết định số 129/2007/QĐ-TTg ngày
02/8/2007 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế văn hóa công sở tại các cơ quan hành
chính nhà nước; Quyết định số 03/2007/QĐ-BNV ngày 26/20/2007 của Bộ Nội vụ về việc ban
hành quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong bộ máy chính quyền địa
phương; Nghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày 15/3/2010 của Chính phủ quy định về tuyển dụng,
sử dụng và quản lý công chức; Nghị định số 34/2011/NĐ-CP ngày 17/5/2011 của Chính phủ quy
định về xử lý kỷ luật đối với công chức; Quyết định số 64/2007/QĐ-TTg  ngày 105/2007 của Thủ
tướng Chính phủ ban hành Quy chế về việc tặng quà, nhận quà tặng và nộp lại quà tặng của cơ
quan, tổ chức, đơn vị có sử dụng ngân sách nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức…và
một số văn bản pháp luật khác quy định quy tắc ứng xử của công chức trong thực thi công vụ.
Các VBQPPL nêu trên đã tạo cơ sở pháp lý khá đầy đủ cho việc điều chỉnh hành vi ứng xử của
công chức trong thực thi công vụ và là cơ sở cho việc đánh giá công chức, góp phần không nhỏ
vào việc xây dựng đội ngũ công chức trong điều kiện đổi mới ở nước ta hiện nay.
Thứ hai, thực trạng các quy định của pháp luật về đạo đức, công chức
Nghiên cứu những văn bản pháp luật liên quan đến ĐĐCC hiện hành cho thấy nội dung các quy
định của pháp luật tập trung điều chỉnh nhứng vấn đề sau:
Lần đầu tiên trong pháp luật Việt Nam, trên cơ sở quy định của Hiến pháp về ĐĐCC đưa ra định
nghĩa về “Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức” ở cấp độ luật.
Luật Phòng, chống tham nhũng được ban hành không chỉ quy định về hành vi tham nhũng, các
biện pháp phòng, chống tham nhũng mà còn có nhiều quy định chứa đựng nội dung đạo đức
công vụ. Vì không chỉ Việt Nam mà nhiều nước trên thế giới đều coi hành vi tham nhũng của
công chức là hành vi vi phạm nghiêm trọng ĐĐCC. Các nỗ lực phòng ngừa, chống và đẩy lùi
tham nhũng cũng chính là các nỗ lực đề cao chuẩn mực ĐĐCC trong hoạt động công vụ nhằm
xây dựng đội ngũ công chức có năng lực và phẩm chất phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân.
Điều 36 Luật Phòng, chống tham nhũng quy định: “Quy tắc ứng xử là các chuẩn mực xử sự của
cán bộ, công chức, viên chức trong thi hành nhiệm vụ, công vụ và trong quan hệ xã hội, bao gồm
những việc phải làm hoặc không được làm, phù hợp với đặc thù công việc của từng nhóm cán
bộ, công chức, viên chức và từng lĩnh vực hoạt động công vụ, nhằm bảo đảm sự liêm chính và
trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức”. Điều 42 quy định: “Quy tắc đạo đức nghề nghiệp
là chuẩn mực xử sự phù hợp với đặc thù của từng nghề bảo đảm sự liêm chính, trung thực và
trách nhiệm trong việc hành nghề”.
Luật Cán bộ, công chức năm 2008 được coi là nền tảng pháp lý trong lĩnh vực này đã xác định
một trong những tiêu chí quan trọng bậc nhất của công chức là phải có phẩm chất đạo đức.
Với yêu cầu xây dựng đội ngũ công chức đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước. Trên
cơ sở kế thừa các quy định của pháp luật về ĐĐCC các giai đoạn trước, Điều 8 Luật Cán bộ,
công chức năm 2008 tiếp tục cụ thể hóa thành các quy định về nghĩa vụ đối với công chức và
những yêu cầu đối với công chức trong thực thi công vụ.
Các chuẩn mực đạo đức dưới dạng nghĩa vụ tiếp tục được khẳng định:
“1. Trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; bảo vệ danh
dự Tổ quốc và lợi ích quốc gia.
2. Tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân.
3. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân.
4. Chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước”.
Điểm mới của Luật Cán bộ, công chức năm 2008 là lần đầu tiên đã giành hai mục trong Chương I
quy định về ĐĐCC, trong đó quy định mang tính nguyên tắc về ĐĐCC: “Cán bộ, công chức phải
thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong hoạt động công vụ”(Điều 15).
Từ quy định mang tính nguyên tắc trên, các quy định về ĐĐCC xác định các chuẩn mực mang
tính nghĩa vụ phải thực hiện đối với công chức trong mối quan hệ ở công sở, mối quan hệ với
nhân dân trong thực thi công vụ:
“1. Trong giao tiếp công sở, cán bộ, công chức phải có thái độ lịch sự, tôn trọng đồng nghiệp;
ngôn ngữ giao tiếp phải chuẩn mực, rõ ràng, mạch lạc.
2. Cán bộ, công chức phải lắng nghe ý kiến của đồng nghiệp; công bằng, vô tư, khách quan khi
nhận xét, đánh giá; thực hiện dân chủ và đoàn kết nội bộ.
3. Khi thi hành công vụ, cán bộ, công chứ phải mang phù hiệu hoặc thẻ công chức; có tác phong
lịch sự; giữ gìn uy tín, danh dự cho cơ quan, tổ chức, đơn vị và đồng nghiệp” (Điều 16).
“1. Cán bộ, công chức phải gần gũi với nhân dân; có tác phong, thái độ lịch sự, nghiêm túc,
khiêm tốn; ngôn ngữ giao tiếp phải chuẩn mực, rõ ràng, mạch lạc.
2. Cán bộ, công chức không được hách dịch, cửa quyền, gây khó khăn, phiền hà cho nhân dân
khi thi hành công vụ” (Điều 17).
Điều 18 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định những việc công chức không được làm liên
quan đến đạo đức công vụ như sau:
“1. Trốn tránh trách nhiệm, thoái thác nhiệm vụ được giao; gây bè phái, mất đoàn kết; tự ý bỏ
việc hoặc tham gia đình công.
2. Sử dụng tài sản của Nhà nước và của nhân dân trái pháp luật.
3. Lợi dụng, lạm dụng nhiệm vụ, quyền hạn; sử dụng thông tin liên quan đến công vụ để vụ lợi.
4. Phân biệt, đối xử dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo dưới mọi hình
thức”.
Những quy định về ĐĐCC trong Luật Phòng, chống tham nhũng  cho thấy thái độ của nhà nước,
của nhân dân đối với việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng là những vi phạm của những
người trong bộ máy công quyền, lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thực thi công vụ để tư lợi.
Hành vi tham nhũng được coi là hành vi vi phạm ĐĐCC một cách nghiêm trọng nhất và vẫn có
những biện pháp xử lý tương xứng nhằm nâng cao ĐĐCC trong thi hành công vụ. Một trong
những giải pháp trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng được đưa ra là đề cao liêm chính
trong thực thi công vụ của công chức và xử lý nghiêm minh những vi phạm đạo đức trong thực
thi công vụ.
Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí không chỉ quy định các biện pháp thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí, các biện pháp xử lý đối với những vi phạm, mà còn quy định về yêu cầu đạo đức
đối với công chức trong việc sử dụng, quản lý tài sản công. Ý thức bảo vệ của công, sử dụng có
hiệu quả tài sản và thực hiện nghiêm chỉnh việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí là một trong
những tiêu chuẩn ĐĐCC được Luật quy định.
Bên cạnh những văn bản dưới luật quy định về ĐĐCC, các văn bản quy phạm dưới luật tiếp tục
cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, luật về ĐĐCC, trong đó đáng chú ý là các quy định của
Quyết định số 129/2007/QĐ-TTg và các quy định trong Quyết định số 129/2007/QĐ-TTg và các
quy định trong Quyết định số 03/2007/QĐ-BNV. Các VBQPPL này đều quy định về ĐĐCC, điều
chỉnh hành vi ứng xử của công chức.
Quyết định số 129/2007/QĐ-TTg quy định: Trong giao tiếp và ứng xử, cán bộ, công chức, viên
chức phải có thái độ lịch sự, tôn trọng. Ngôn ngữ giao tiếp phải rõ ràng, mạch lạc; không nói tục,
nói tiếng lóng, quát nạt. Đặc biệt trong giao tiếp và ứng xử với nhân dân, cán bộ, công chức phải
nhã nhặn, lắng nghe ý kiến, giải thích, hướng dẫn rõ ràng, cụ thể, không được có thái độ hách
dịch, nhũng nhiễu, gây khó khăn, phiền hà khi thực hiện nhiệm vụ.
Quyết định số 03/2007/QĐ-BNV xác định rõ tại Điều 3 về mục đích quy định Quy tắc ứng xử của
cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong bộ máy chính quyền địa phương nhằm:
“1. Quy định các chuẩn mực xử sự của cán bộ, công chức, viên chức khi thi hành nhiệm vụ, công
vụ và trong quan hệ xã hội. bao gồm những việc phải làm  hoặc không được làm nhằm đảm bảo
sự liêm chính và trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức.
2. Thực hiện công khai các hoạt động nhiệm vụ, công vụ và quan hệ xã hội của cán bộ, công
chức, viên chức vi phạm các chuẩn mực xử sự trong thi hành nhiệm vụ, công vụ và trong quan
hệ xã hội, đồng thời là căn cứ để nhân dân giám sát việc chấp hành các quy định pháp luật của
cán bộ, công chức, viên chức”.
Ngoài ra cũng có nhiều VBQPPL dưới luật khác cũng gián tiếp điều chỉnh ĐĐCC thông qua việc
quy định tiêu chuẩn để đánh giá công chức như Nghị định số 24/2010/NĐ-CP tiếp tục kế thừa
những quy định về tiêu chuẩn đạo đức trong tuyển dụng, sử dụng và đặc biệt là đánh giá công
chức.
2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay.
Trong điều kiện tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước ta hiện nay, một trong 5 mục
tiêu của chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2011 – 2020 tiếp tục được xác định
là: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực và trình độ, đáp
ứng yêu cầu phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước”. Lần đầu tiên trong chương trình
tổng thể cải cách hành chính đưa ra mức chỉ số hài lòng của cá nhân, tổ chức đối với sự phục vụ
của cơ quan hành chính nhà nước, của đội ngũ công chức hành chính nhà nước đạt mức 80%
vào năm 2020. Để thực hiện được mục tiêu đó, hoàn thiện pháp luật  về đạo đức công vụ là một
quá trình đòi hỏi có những bước đi thích hợp gắn với chương trình tổng thể cải cách hành chính
giai đoạn 2011 – 2020, đồng thời phù hợp với định hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật đến
năm 2020 theo tinh thần Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm
2020, trong đó xác định rõ: “Ban hành Luật về công chức, công vụ; xác định rõ cơ quan, công
chức nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật cho phép. Xây dựng tiêu chuẩn đạo đức nghề
nghiệp cho từng loại cán bộ, công chức và hệ thống tiêu chuẩn đánh giá, khen thưởng, kỷ luật đối
với cán bộ, công chức”. Với yêu cầu đó, pháp luật về ĐĐCC hiện hành cần được hoàn thiện trên
cơ sở thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
2.1. Ban hành Luật Đạo đức công chức
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay, việc đề cao giá trị
của Hiến pháp, luật được coi là vấn đề mang tính nguyên tắc nhằm bảo đảm tinh thần thượng
tôn pháp luật trong đời sống xã hội. Thực trạng pháp luật về ĐĐCC cho thấy, ngoài những quy
định chung mang tính nguyên tắc được quy định trong Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật
Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật Cán bộ, công chứng và một số văn bản quy định về
nhiệm vụ, quyền hạn của người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong việc quản lý đội ngũ công chức
thuộc quyền thì hầu hết các quy định của pháp luật về ĐĐCC hiện hành đều được quy định tại
các văn bản dưới luật, cụ thể là Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức ban hành kèm
theo Quyết định của cơ quan, tổ chức ở trung ương và địa phương trong phạm vi thẩm quyền
được pháp luật quy định. Các văn bản quy định về ĐĐCC được ban hành ở những thời điểm
khác nhau kể cả 3 văn bản luật nêu trên.
Việc ban hành Luật Đạo đức công chức sẽ đáp ứng được yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN ở nước ta hiện nay. Mặt khác, khắc phục được tình trạng quy định về ĐĐCC tản
mạn trong các VBQPPL dưới luật dẫn đến việc hiệu quả tổ chức thực hiện các quy định của
pháp luật về ĐĐCC còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách hành chính hiện nay.
Có thể đưa ra lộ trình hoàn thiện pháp luật về đạo đức công chức trong thời gian tới như sau:
Thứ nhất, tiến hành rà soát, đánh giá các VBQPPL đơn hành về ĐĐCC trong giai đoạn chuẩn bị
ban hành Luật Đạo đức công chức.
Như đã phân tích ở trên, các VBQPPL về ĐĐCC hiện hành ở nước ta được ban hành vào nhiều
thời điểm khác nhau, trong các quy định của nhiều loại VBQPPL khác nhau và tập trung chủ yếu
trong quyết định của các bộ, ngành nên có giá trị pháp lý không cao. Việc ban hành các VBQPPL
đơn hành về ĐĐCC từ trung ương tới địa phương không thể tránh khỏi những mâu thuẫn về nội
dung các quy định, tính thống nhất không cao. Chính vì vậy, khi chưa ban hành Luật Đạo đức
công chức, việc trước hết cần phải tiến hành là rà soát, tập hợp các VBQPPL về ĐĐCC để có cơ
sở đánh giá toàn bộ các VBQPPL về ĐĐCC hiện hành nhằm phát hiện những mâu thuẫn, chồng
chéo, những quy định không thống nhất, từ đó nghiên cứu đề xuất những quy định cần thiết phải
được ban hành trong điều kiện đẩy mạnh cải cách hành chính. Việc tập hợp, rà soát, đánh giá
các VBQPPL về ĐĐCC hiện hành là cơ sở cho việc đánh giá sự tác động, vai trò, hiệu lực của
các VBQPPL về ĐĐCC đối với việc xây dựng và kiện toàn đội ngũ công chức ở nước ta hiện
nay.
Trong công tác pháp điển hóa, đây là hoạt động pháp điển hóa hình thức được nhiều nước trên
thế giới áp dụng, trong đó có Việt Nam.
Thứ hai, cùng với công tác pháp điển hóa hình thức như đã đề xuất ở trên, thì cần thiết phải
pháp điển hóa nội dung. Đó là sớm ban hành Luật Đạo đức công chức trên cơ sở kế thừa và
phát triển các quy định của pháp luật về ĐĐCC hiện hành theo yêu cầu của sự nghiệp đổi mới ở
nước ta hiện nay. Về hình thức, Luật Đạo đức công chức tuân thủ các quy định của Luật Ban
hành VBQPPL hiện hành, trong đó Luật Đạo đức công chức bao gồm các chương, mục điều,
khoản.
Nội dung Luật Đạo đức công chức cần tập trung vào các vấn đề cụ thể sau:
Một là, xác định rõ mục đích của Luật Đạo đức công chức là nhằm bảo đảm thực hiện những
chuẩn mực tối thiểu quy định hành vi công chức, đồng thời xác định rõ các giá trị ĐĐCC mà công
chức mong muốn đạt được.
Hai là, xây dựng nguyên tắc ĐĐCC theo yêu cầu cải cách hành chính
Ba là, xây dựng các quy định về chuẩn mực xử sự đối với công chức
Bốn là, quy định về trách nhiệm của công chức và của cơ quan, tổ chức, đơn vị đối với việc thực
hiện pháp luật về đạo đức công chức.
Năm là, quy định về công khai nội dung chuẩn mực đạo đức công chức được pháp luật ghi nhận
Sáu là, quy định về giám sát, kiểm tra đối với công chức.
2.2. Ban hành quy tắc ứng xử  mẫu của công chức, trên cơ sở đó, các cơ quan ban hành
Quy tắc ứng xử của công chức cho từng ngành nghề, chức danh công chức cụ thể.
Đánh giá thực trạng pháp luật về ĐĐCC cho thấy, việc ban hành Quy tắc ứng xử của công chức
của các cơ quan từ trung ương tới địa phương trong những năm qua có sự vận dụng rất khác
nhau trên cơ sở triển khai thực hiện các quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng. Khi Luật
Cán bộ, công chức và các văn bản pháp luật về ĐĐCC đơn hành khác được ban hành, có hiệu
lực trên thực tế thì các quy định cụ thể về ĐĐCC trong Quy tắc ứng xử vẫn không có sự bổ sung,
sửa đổi kịp thời. Trên cơ sở những quy định về chuẩn mực đạo đức ghi nhận trong Luật Đạo đức
công chức, cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào đặc điểm, đặc thù nghề nghiệp cụ thể hóa thành
Bộ quy tắc ứng xử của công chức đối với từng ngành nghề, chức danh công chức cụ thể. Kinh
nghiệm của các nước thành viên tổ chức OECD trong xây dựng pháp luật về ĐĐCC cho thấy,
ngoài những tiêu chuẩn chung áp dụng cho tất cả các công chức, các nước vẫn sử dụng thêm
các hướng dẫn bổ sung đối với từng nhóm hoặc từng ngành nghề cụ thể. Các nước thành viên
đặc biệt tập trung các các lĩnh vực như luật pháp, thuế, hải quan cũng như cảnh sát, quốc phòng.
Nội dung quy tắc ứng xử mẫu của công chức cần làm rõ các quy định về ứng xử theo các nhóm
quan hệ trong hoạt động công vụ và phục vụ hoạt động công vụ bao gồm: (1) Các quy định về
ứng xử của công chức nơi công sở; (2) Các quy định về ứng xử của công chức trong quan hệ
với cấp trên, cấp dưới và đồng nghiệp; (3) Các quy định về ứng xử của công chức trong quan hệ
giải quyết công việc với công dân, tổ chức của công dân; (4) Các quy định về ứng xử của công
chức trong quan hệ xã hội.
2.3. Hoàn thiện hệ thống pháp luật có liên quan đến đạo đức công chức
Pháp luật về ĐĐCC là một bộ phận của hệ thống pháp luật về công chức, công vụ, một bộ phận
của pháp luật công. Vì vậy, trên thực tế bên cạnh các VBQPPL quy định và điều chỉnh trực tiếp
về ĐĐCC thì còn rất nhiều VBQPPL khác cũng gián tiếp điều chỉnh về vấn đề này như đã phân
tích ở trên. Để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, khả thi của pháp luật về ĐĐCC, thì bên cạnh
việc nghiên cứu ban hành Luật Đạo đức công chức, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật
có liên quan tới ĐĐCC, tạo cơ sở pháp lý vững chắc trong việc xây dựng đội ngũ công chức vừa
hồng vừa chuyên đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Trong đó, nghiên cứu hoàn thiện các quy định liên quan tới ĐĐCC trong Luật Phòng, chống tham
nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm chống lãng phí, Luật Cán bộ, công chức, các văn bản luật này
được coi là những yếu tố rất cơ bản của thể chế về công chức, công vụ. Tiêu chuẩn ĐĐCC như
“cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, công chức là “công bộc” của nhân dân được ghi nhận và
bảo đảm thực hiện trên thực tế thông qua việc xây dựng và tổ chức thực hiện các quy định của
pháp luật về phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và các quy định về
công chức, công vụ một cách đồng bộ. Vì vậy cần nghiên cứu hoàn thiện các quy định của pháp
luật có liên quan tới ĐĐCC với những nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, đối với các quy định liên quan tới ĐĐCC trong Luật Phòng, chống tham nhũng và các
văn bản hướng dẫn thi hành về vấn đề quà biếu, nhận quà biếu và kê khai thu nhập.
Trên cơ sở quy định mang tính nguyên tắc chung về quà biếu và nhận quà biếu tại Điều 40 Luật
Phòng, chống tham nhũng, các quy định về quà biếu và nhận quà biếu đã được quy định trong
Quy chế về việc tặng quà, nhận quà tặng và nộp lại quà tặng của cơ quan, tổ chức, đơn vị có sử
dụng ngân sách nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức ban hành theo Quyết định số
64/2007/QĐ-TTg, các quy định đối với công chức cần thiết được kế thừa và phát triển nhằm bảo
đảm tính liêm chính là một trong những chuẩn mực đạo đức hết sức quan trọng trong hoạt động
công vụ của công chức.
Thứ hai, hoàn thiện các quy định của Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí về trách nhiệm và
ý thức trong sử dụng tài sản, công sản. Bảo đảm tính đồng bộ trong các quy định về thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí. Nghiên cứu xây dựng các quy chế quy định về việc chi tiêu theo dự
toán đang còn nhiều bất cập dẫn tới vi phạm về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí của công
chức trong thi hành nhiệm vụ, công vụ.
  Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí nhằm tạo cơ
sở pháp lý vững chắc cho công chức thực hiện đức tính “cần, kiệm” là một trong những chuẩn
mực đạo đức hết sức quan trọng đối với công chức.
Thứ ba, trên cơ sở các quy định của Luật Cán bộ, công chức tiếp tục hoàn thiện các quy định
của Luật theo đúng yêu cầu xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ công chức đáp ứng yêu
cầu cải cách hành chính giai đoạn 2011 – 2020. Luật Đạo đức công chức sẽ đảm bảo tính khả thi
khi nội dung các quy định về ĐĐCC phù hợp và tương thích với các quy định về tiêu chuẩn tuyển
dụng, sử dụng, quản lý, đánh giá công chức trong Luật Cán bộ, công chức một cách đồng bộ.
Nghiên cứu hoàn thiện các quy định về công chức tập trung vào các vấn đề sau:
Một là, xây dựng, bổ sung và hoàn thiện các VBQPPL về chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ của
công chức, kể cả công chức lãnh đạo, quản lý gắn với vị trí việc làm. Việc tuyển dụng và bố trí
công việc đối với công chức theo vị trí việc làm sẽ là cơ sở để cơ quan sử dụng, quản lý công
chức có căn cứ đánh giá một cách chính xác, khách quan, công bằng đối với công chức.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện và cụ thể hóa các quy định của Luật Cán bộ, công chức về tuyển dụng,
bố trí, phân công nhiệm vụ phù hợp với năng lực, sở trường của công chức được trúng tuyển.
Cụ thể hóa các quy định về thi tuyển công chức theo nguyên tắc cạnh tranh, thi tuyển cạnh tranh
để bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo, quản lý từ cấp vụ trưởng và tương đương (ở trung ương),
giám đốc sở và tương đương (địa phương).
Ba là, hoàn thiện các quy định của pháp luật về đánh giá công chức trên cơ sở kết quả thực hiện
nhiệm vụ được giao, quy định cụ thể việc bãi miễn những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi
phạm kỷ luật, mất uy tín với nhân dân. Quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của công chức
tương ứng với trách nhiệm và có chế tài nghiêm đối với hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm kỷ
luật, vi phạm ĐĐCC.
Bốn là, nghiên cứu bổ sung các quy định cụ thể về hoạt động công vụ trong đó quy định cụ thể
quyền và nghĩa vụ của công chức trong hoạt động công vụ. Luật Cán bộ, công chức hiện hành
chỉ có khoảng 10% các điều luật quy định về hoạt động công vụ. Đây được coi là một trong
những cơ sở quan trọng đối với việc đánh giá ĐĐCC. Vì vậy, hoàn thiện pháp luật về ĐĐCC
không thể tách rời với việc đề xuất các giải pháp đồng bộ để hoàn thiện các quy định của pháp
luật có liên quan tới ĐĐCC ở nước ta giai đoạn hiện nay.
Nâng cao đạo đức công vụ của đội ngũ công chức hiện nay
(LLCT) - Tại Đại hội XI, Đảng xác định một trong ba nội dung lớn để xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam là “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch,
có năng lực đáp ứng yêu cầu của tình hình mới...Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức cả về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực công tác”. Kiên quyết
“loại bỏ, bãi miễn những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy
tín với nhân dân”(1).
Hiện nay, như Hội nghị Trung ương 4 khóa XI đánh giá, bên cạnh đa số cán bộ, đảng viên, công
chức có ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, có ý thức phục vụ
nhân dân, được nhân dân tin tưởng, thì vẫn còn “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên,
trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng,
sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị,
cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc”(2).
Để tạo chuyển biến mạnh mẽ trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, để có được
đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ mới,
cần tập trung nâng cao đạo đức cách mạng, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức
nước ta hiện nay.
Một trong những đặc trưng của hoạt động công vụ là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước
(gắn với nhà nước hoặc nhân danh nhà nước) do các công chức, viên chức nhà nước tiến hành
theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, phục vụ lợi
ích nhà nước và xã hội(3). Do đó, trong nhiều trường hợp, nếu lương tâm không sáng, trách
nhiệm không cao sẽ dẫn đến lạm quyền, gây tổn hại cho dân, cho nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh
từng nói: “những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng
cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân” (4). Vì vậy, nâng cao đạo
đức công vụ không chỉ là công việc thường xuyên của bản thân đội ngũ công chức mà còn là
trách nhiệm của các chủ thể quản lý công chức.
Về bản chất, đạo đức công vụ là đạo đức thực thi công vụ của công chức, bao gồm hệ thống
nguyên tắc, chuẩn mực dùng để điều chỉnh mối quan hệ giữa đội ngũ công chức với tổ chức,
công dân, thể hiện ở lương tâm và trách nhiệm vì lợi ích chung, ý thức việc cần phải làm và
mong muốn được làm vì lợi ích chung đó.
Đạo đức công vụ được xem xét từ hai góc độ: Thứ nhất là góc độ của tồn tại người.Đó là đạo
đức của bản thân người công chức. Nói cách khác chủ thể đạo đức công vụ là người công chức.
Với tư cách là công dân, người công chức phải mang trong mình những nguyên tắc, chuẩn mực,
giá trị đạo đức xã hội mà trong đó họ sống, hoạt động. Thứ hai là góc độ đạo đức nghề nghiệp.
Với tư cách là công chức, họ phải tuân thủ những nguyên tắc, chuẩn mực quy định cách ứng xử
của người công chức trong hoạt động thực thi công vụ mà không bao giờ được vi phạm đạo đức
của nghề công chức. Ph.Ăngghen từng viết rằng: “Trong thực tế, mỗi giai cấp và ngay cả mỗi
nghề nghiệp đều có đạo đức riêng của mình”(5).
Đạo đức công vụ không chỉ dừng lại ở sự nhận thức mà cần phải được pháp điển hóa trong nền
công vụ. Nếu thiếu sự pháp điển hóa này thì những nguyên tắc, chuẩn mực, giá trị đạo đức cũng
chỉ là những lời giáo huấn chung chung, không có sức sống trong thực tế. Bởi lẽ như Ph.Ăngghen
từng nói, người ta sẵn sàng vi phạm đạo đức nghề nghiệp, “mỗi khi thấy có thể vi phạm mà
không bị trừng phạt”(6). Nếu như sức mạnh của pháp luật là sự cưỡng chế, bắt buộc thì sức mạnh
của đạo đức là niềm tin cá nhân, là truyền thống dân tộc, là sức mạnh của dư luận xã hội. Chính
vì vậy, nâng cao nhận thức đạo đức, biến nhận thức đạo đức thành hành vi đạo đức, thành thực
tiễn đạo đức là việc làm hết sức cần thiết trong đời sống xã hội nói chung và đội ngũ công chức
nói riêng.
Do đó, nâng cao đạo đức công vụ là quá trình tác động tích cực, có mục đích của các chủ thể tới
đối tượng với nội dung, hình thức và phương pháp thích hợp nhằm làm biến đổi đời sống đạo
đức của đội ngũ công chức theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn về mặt nhân cách của họ.
Nâng cao đạo đạo đức công vụ cho đội ngũ công chức nước ta hiện nay là nâng cao lòng yêu
nghề, tinh thần tận tụy với công việc; nâng cao thái độ tôn trọng nhân dân, tận tâm phục vụ
nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; là thực hành cần,
kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư trong hoạt động công vụ; là nâng cao chủ nghĩa tập thể, tinh
thần hợp tác, tôn trọng pháp luật, tôn trọng đồng nghiệp trong thực thi công vụ.
Trong hai thành tố cơ bản cấu thành nhân cách con người nói chung, người công chức nói
riênglà phẩm chất vànăng lực, hay nói cách khác nhân cách là sự thống nhất giữa phẩm chất đạo
đức và năng lực chuyên môn, trong đó phẩm chất đạo đứcđược coi là gốc, nền tảng của nhân
cách hay còn gọi là hạt nhân cơ bản của nhân cách con người. Do đó, cùng với việc nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nâng cao năng lực thích ứng với xã hội của công chức (năng lực
xã hội hóa; năng lực chủ thể hóa; năng lực hành động) v.v. thì nâng cao đạo đức công vụ cho
công chức có tầm quan trọng đặc biệt.  Điều đó được cắt nghĩa bởi mấy lý do chính sau đây:
Thứ nhất, xuất phát từ vai trò, vị trí của đội ngũ công chức trong sự nghiệp cách mạng của
Đảng, của dân tộc. Nghiên cứu lý luận, khái quát thực tiễn cách mạng nước Nga, V.I. Lênin đã
rút ra một kết luận có ý nghĩa phương pháp luận hết sức sâu sắc, rằng: “trong lịch sử chưa hề có
một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của
mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo
phong trào”(7). Trung thành với những chỉ dẫn của V.Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình
lãnh đạo cách mạng Việt Nam luôn luôn quan niệm “Cán bộ là cái gốc của công việc” (8); “muôn
việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém” (9), cán bộ là cái dây chuyền của bộ
máy, nếu dây chuyền không tốt hoặc không chạy thì động cơ dù tốt mấy, bộ máy cũng bị tê liệt.
Trong đội ngũ công chức, có một bộ phận không nhỏ là đảng viên, là cán bộ lãnh đạo, quản lý,
là người tham gia hoạch định chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; đồng
thời là người đưa các chủ trương, chính sách đó đến với nhân dân; vận động, tổ chức nhân dân
thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng, đưa đất nước phát triển không
ngừng. Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII Về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nướccủa Đảng ta khẳng định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại
của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt
trong công tác xây dựng Đảng”(10).
Là “công bộc” của nhân dân, đội ngũ công chức có vai trò quan trọng trong việc xây dựng và
phát triển đất nước; trong việc bảo vệ pháp luật và công lý, bảo vệ các quyền tự do dân chủ,
quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm trật tự xã hội, chống lại các
hành vi vi phạm pháp luật, tùy tiện, vô nguyên tắc. Ngay trong Bộ quy tắc ứng xử quốc tế dành
cho công chức, Liên Hợp quốc đã đề ra 3 nguyên tắc chung, trong đó nguyên tắc thứ ba quy
định: trong thực thi công vụ, người công chức phải chú tâm, công bằng, không thiên vị, đặc biệt
trong quan hệ với nhân dân. Công chức không được lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để
đối xử ưu tiên cho một nhóm người hoặc một cá nhân nào, và cũng không được đối xử phân biệt
với một nhóm người hoặc một cá nhân khác(11). Ngoài ra, đội ngũ công chức còn là người đóng
vai trò tiên phong trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng và các tiêu cực khác để làm
cho bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả hơn.
Thứ hai,xuất phát từ thực trạng đạo đức của đội ngũ công chức nước ta hiện nay.  Đánh giá một
cách khách quan, đại bộ phận công chức nước ta hiện nay có ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm
chất chính trị, đạo đức, lối sống; có thái độ tôn trọng nhân dân, tận tâm phục vụ nhân dân, lắng
nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, được nhân dân tin
tưởng; thực hiện tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “anh em viên chức bây giờ cần có bốn đức
tính là cần, kiệm, liêm, chính” (12) trong hoạt động công vụ; luôn luôn nêu cao tinh thần trách
nhiệm, ý thức tập thể; có lòng yêu nghề, tận tụy với công việc; tôn trọng đồng nghiệp, hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao.
Bên cạnh những ưu điểm cần được khẳng định, góp phần quan trọng vào thắng lợi to lớn có ý
nghĩa lịch sử trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hiện nay - như đánh giá của Đảng ta
tại Đại hội XI - vẫn còn “một bộ phận cán bộ, công chức yếu cả về năng lực và phẩm chất ...
quyền làm chủ của nhân dân chưa được phát huy đầy đủ; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm; tham
nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng, chưa được đẩy lùi”(13).
Tại cuộc họp thứ nhất Ban chỉ đạo Đề án đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức, Phó Thủ
tướng Nguyễn Xuân Phúc chỉ rõ:“Chúng ta hiện đang có 2,8 triệu công chức, nhưng thực sự 2,8
triệu công chức ấy có cống hiến hết mình hay không?... Trong bộ máy chúng ta có tới 30% số
công chức không có cũng được, bởi họ làm việc theo kiểu sáng cắp ô đi, tối cắp về, không mang
lại bất cứ thứ hiệu quả công việc nào” (14). Đây là một thực tế cần được tháo gỡ càng sớm càng
tốt để đội ngũ công chức thực sự trở thành “công bộc” của dân, chăm lo phục vụ nhân dân, bảo
đảm quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của mọi người dân.
Thứ ba,xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ mới. Sự nghiệp đổi mới đã thu được những thắng lợi vô
cùng to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Bên cạnh những thành tựu to lớn, công cuộc CNH, HĐH còn
không ít khó khăn, thách thức, tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội và đe dọa
chủ quyền quốc gia. Trong đó, thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực bao gồm
kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển đất nước hiện nay.
Bước vào thời kỳ mới trong bối cảnh thế giới đang thay đổi nhanh chóng, phức tạp, khó lường,
những tác động tích cực và tiêu cực, thuận lợi và khó khăn, cơ hội và thách thức, v.v. đan xen
hết sức phức tạp, nhiệm vụ chính trị mới lại rất nặng nề, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải đào
tạo được một lực lượng lao động có chất lượng cao; xây dựng cho bằng được đội ngũ công chức
ngang tầm, toàn tâm, toàn ý phục vụ sự nghiệp cách mạng càng trở nên cấp bách...
C. Mác đã sớm khẳng định: “Trong tất cả những công cụ sản xuất, thì lực lượng sản xuất hùng
mạnh nhất là bản thân giai cấp cách mạng. Sự tổ chức của những phần tử cách mạng thành giai
cấp giả định sự tồn tại của tất cả những lực lượng sản xuất có thể nảy sinh ra trong lòng xã hội
cũ”(15).
V.I. Lênin chỉ rõ: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao
động”(16). Xuất phát từ những luận điểm gốc của các nhà kinh điển mácxít, Đảng ta lựa chọn một
trong ba khâu đột phá để thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 là “phát
triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới
căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với
phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ”(17).
Để góp phần nâng cao đạo đức công vụ cho đội ngũ công chức hiện nay, trước mắt cần thực
hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau đây:
Thứ nhất,phát huy hơn nữa vai trò của các cấp ủy đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã
hội trong việc nâng cao đạo đức công vụ cho đội ngũ công chức. Hiện nay, nhiều nước trên thế
giới rất coi trọng hệ thống quản lý đạo đức công vụ, trong đó chú trọng khung pháp lývà khung
tổ chức(hệ thống tổ chức chuyên trách hay kiêm nhiệm từ trung ương đến địa phương để quản
lý về đạo đức công vụ). Mỹ có Cơ quan đạo đức chính phủ , với khoảng 70 nhân viên, trong đó
có 15 luật sư, ngân sách hằng năm là 12 triệu USD và công chức hành pháp Hoa Kỳ phải tuân
theo 14 nguyên tắc hành vi đạo đức(18). Việt Nam chưa có hệ thống quản lý chuyên biệt này
nhưng hệ thống chính trị đã và đang tích cực góp phần tham gia vào việc nâng cao đạo đức công
vụ cho đội ngũ công chức. Vai trò này của các chủ thể cần được phát huy và có hiệu quả hơn
nữa.
Thứ hai,đổi mới công tác đánh giá công chức dựa trên một hệ giá trị chuẩn mực làm tiêu chí,
tránh đánh giá một cách hình thức, tùy tiện, cảm tính.
Hiện nay, việc đánh giá cán bộ, công chức của nước ta chủ yếu dựa vào Điều 28 trong Luật cán
bộ, công chức. Tuy nhiên, những nội dung này cũng cần được cụ thể hóa để phù hợp với ngạch
công chức cũng như ngạch của ngành chuyên môn mà công chức đảm nhiệm.
Cùng với chủ trương“Hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi
trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất,
tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật; đề cao tinh thần yêu
nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình, với gia đình,
cộng đồng, xã hội và đất nước”( 19), thiết nghĩ chúng ta cần chú ý đến việc hoàn thiện các chuẩn
mực giá trị đạo đức cán bộ, công chức trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế,
nhằm cụ thể hóa nguyên tắc đạo đức công vụ. Lấy đó làm hệ quy chiếu để nâng cao hiệu quả
hoạt động công vụ của công chức.
Thứ ba,phát huy hơn nữa tính tích cực, chủ động, tinh thần tiên phong, gương mẫu của đội ngũ
công chức trong thực thi công vụ. Vận động là một quá trình tự thân, những nhân tố tác động từ
bên ngoài để nâng cao đạo đức công vụ cho công chức là hết sức quan trọng. Tuy nhiên nhân tố
quyết định quá trình ấy phải là nhân tố bên trong, từ chủ thể đạo đức (đối tượng được nâng cao)
chứ không phải là chủ thể nâng cao. Bởi lẽ, đạo đức cách mạng của đội ngũ công chức “không
phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố.
Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”(20).
Nâng cao đạo đức công vụ cho công chức là công việc thường xuyên, lâu dài, đòi hỏi sự tham gia
tích cực không chỉ của đội ngũ công chức mà còn của các cấp, các ngành cũng như của toàn thể
nhân dân. Với sự quan tâm của các cấp ủy đảng, chính quyền cũng như toàn xã hội, đạo đức
công vụ của đội ngũ công chức nước ta sẽ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới mà cách mạng đặt ra.

You might also like