You are on page 1of 9

1.

Đánh giá pháp luật hành chính trong xu hướng chuyển đổi; Đề xuất giải
pháp hoàn thiện pháp luật hành chính trong xu hướng chuyển đổi.
Cùng với quá trình hội nhập và toàn cầu hóa, quản lý hành chính trong thời kỳ này
cần vận hành theo phương thức quản lý hành chính mới. Bên cạnh việc bảo đảm
xây dựng nền hành chính phục vụ người dân, quản lý hành chính trong thời kỳ hội
nhập và toàn cầu hóa phải đảm bảo các yêu cầu, nguyên tắc chung của hội nhập
toàn cầu. Nền hành chính cần phải thay đổi phương thức quản lý và phục vụ, đảm
bảo các nguyên tắc vận hành phù hợp với các chuẩn mực trong khu vực và quốc
tế.
Xu hướng chung của các quốc gia là chuyển đổi nền hành chính cai trị sang nền
hành chính phục vụ, thay đổi cách thức quản lý hành chính nhà nước từ “truyền
thống” sang cách “quản lý mới”. Quản lý hành chính nhà nước mới lấy nguyện
vọng cơ bản của quần chúng nhân dân làm mục tiêu hoạt động và mọi hoạt động
luôn hướng đến phục vụ lợi ích cơ bản của đại đa số nhân dân. Quản lý hành chính
nhà nước mới hướng đến sự thay đổi mối quan hệ giữa nhà nước với người dân,
chuyển đổi từ phương thức “cai trị” sang phương thức “phục vụ”, nghĩa là xây
dựng nền hành chính phục vụ, trong đó Nhà nước phải quan tâm đến nhu cầu,
mong muốn của người dân để không ngừng cải thiện, nâng cao chất lượng các
dịch vụ công cho người dân, tổ chức. Chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức về sự
phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước là một tiêu chí để xây dựng nền hành
chính phục vụ.
Cải cách hành chính ở nước ta đã đạt những kết quả bước đầu quan trọng, góp
phần vào thành tựu chung của đất nước. Hệ thống thể chế, luật pháp tiếp tục được
đổi mới và hoàn thiện, hình thành dần cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, đảm bảo ngày càng tốt hơn quyền dân chủ của nhân dân. Chức năng,
nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước
được điều chỉnh, sắp xếp phù hợp hơn, quản lí nhà nước ngày càng tốt hơn trong
điều kiện mới. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính
nhà nước có bước được nâng lên, đáp ứng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ. Thể chế,
pháp luật về quản lí tài chính công được tích cực xây dựng và từng bước hoàn
thiện. Thủ tục hành chính và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước có
bước đổi mới, hiệu lực, hiệu quả, kỉ luật, kỉ cương được tăng cường hơn.
Tuy nhiên, nền hành chính nhà nước vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Hệ thống
thể chế, pháp luật, nhất là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
vẫn còn nhiều bất cập, vướng mắc. Chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan trong
hệ thống hành chính nhà nước chưa đủ rõ, còn trùng lặp và chưa bao quát hết các
lĩnh vực quản lí nhà nước; cơ cấu tổ chức bộ máy còn cồng kềnh, chưa phù hợp.
Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng kịp yêu cầu; tình trạng quan
liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng. Thể chế, luật pháp về quản lí tài
chính công tuy có nhiều đổi mới, nhưng còn bất cập. Thủ tục hành chính còn
nhiều vướng mắc, gây phiền hà cho tổ chức và công dân; kỉ luật, kỉ cương cán bộ,
công chức chưa nghiêm; hiệu lực, hiệu quả của quản lí nhà nước còn nhiều yếu
kém.
Nguyên nhân chủ yếu của các hạn chế, yếu kém là :
- Chủ trương và nhận thức về một số vấn đề lớn, quan trọng trong sự nghiệp đổi
mới nói chung và cải cách hành chính nói riêng còn lúng túng, chưa đủ rõ.
- Sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ đảng trong việc thực hiện cải cách hành
chính và thủ tục hành chính còn thiếu thống nhất, chưa kiên quyết; chưa gắn kết
đồng bộ giữa cải cách hành chính với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với hệ thống chính trị và cải cách lập pháp, cải cách tư pháp, làm cho cải cách
hành chính chậm và hiệu quả thấp.
- Sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ và chính quyền các cấp đối với việc triển
khai thực hiện các nhiệm vụ cải cách hành chính còn thiếu kiên quyết và chưa
được tập trung cao; kỉ luật, kỉ cương trong cải cách hành chính chưa nghiêm; trách
nhiệm và quyền hạn của người đứng đầu chưa được quy định rõ.
Đổi mới và hoàn thiện pháp luật hành chính là một trong những nhiệm vụ trọng
tâm mà Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra trong những năm qua. Nhà nước ta cần tập
trung hoàn thiện pháp luật hành chính với những nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về tổ chức bộ máy hành chính nhà nước và đội ngũ
cán bộ, công chức, đảm bảo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu
của hội nhập và toàn cầu hóa.
Hoàn thiện pháp luật về tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức cần tập
trung vào những nội dung cơ bản sau:
- Pháp luật về phân cấp quản lý giữa trung ương và địa phương, trong đó xác định
rõ mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương; giữa các
cơ quan quản lý ngành ở trung ương với các cơ quan ở địa phương.
- Quy định rõ về ủy quyền, giao quyền trong các cơ quan hành chính nhà nước
- Hoàn thiện pháp luật về tuyển dụng và sử dụng công chức để đảm bảo tinh giản
đội ngũ công chức hiện nay, hướng tới mục tiêu xây dựng đội ngũ công chức hành
chính chuyên nghiệp, nâng cao trách nhiệm của đội ngũ công chức trong thực thi
nhiệm vụ, công vụ.
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về thủ tục hành chính.
Cải cách thủ tục hành chính phải bảo đảm tạo thuận lợi nhất cho người dân, doanh
nghiệp và góp phần tích cực chống quan liêu, phòng và chống tham nhũng, lãng
phí. - Xây dựng khung pháp luật chung về thủ tục hành chính.
- Đẩy mạnh hoạt động kiểm soát thủ tục hành chính nhằm loại bỏ kịp thời các thủ
tục hành chính gây khó khăn, phiền hà cho người dân và doanh nghiệp.
- Tăng cường ứng dụng khoa học, công nghệ vào thực hiện thủ tục hành chính
nhằm giảm bớt chi phí và thời gian thực hiện thủ tục hành chính, tăng cường tính
liên thông trong thực hiện thủ tục hành chính giữa các cơ quan, các ngành, giữa
trung ương với địa phương.
Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về dịch vụ công.
Các cơ quan hành chính nhà nước cần tập trung vào chức năng quản lý và giảm
bớt các hoạt động cung cấp dịch vụ công trực tiếp. Pháp luật hiện hành về cung
cấp dịch vụ công chưa được quy định đồng bộ, thống nhất.
Thứ tư, hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm giải trình, đảm bảo tính công
khai, minh bạch của bộ máy hành chính.
Để đảm bảo hạn chế việc lạm quyền, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, cần hoàn thiện trách nhiệm giải trình và yêu cầu công khai, minh bạch
thông qua những nội dung cụ thể sau:
- Hoàn thiện pháp luật về bảo đảm nghĩa vụ giải trình của các cơ quan hành chính
nhà nước và cán bộ, công chức khi thực thi công vụ, trong đó quy định rõ các
trường hợp phải giải trình, đối thoại với người dân, doanh nghiệp.
- Quy định các nghĩa vụ công khai, minh bạch thông tin thông qua việc bảo đảm
quyền được tiếp cận thông tin của các cá nhân, tổ chức.
Thứ năm, hoàn thiện pháp luật hành chính nhằm đảm bảo sự tham gia của người
dân vào quản lý hành chính nhà nước. Gồm những nội dung sau:
- Các hình thức và cách thức tham gia của người dân vào quản lý hành chính nhà
nước: cụ thể là quy định các hình thức như đối thoại, giải trình, đóng góp ý kiến
của người dân trong quá trình xây dựng và ban hành các chính sách, quyết định.
- Hoàn thiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở, khiếu nại, tố cáo để đảm bảo người dân
có thể tham gia hiệu quả, thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo trên thực tiễn.
Như vậy, pháp luật hành chính trong thời kỳ hội nhập và toàn cầu hóa cần được
hoàn thiện dựa trên những tiêu chuẩn, học thuyết về quản lý hành chính mới mà
các quốc gia trên thế giới đang thực hiện; đồng thời phải phù hợp truyền thống dân
tộc, đặc điểm thể chế chính trị của Việt Nam Mặc dù Nhà nước ta đã và đang xây
dựng một hệ thống pháp luật hành chính để điều chỉnh các nội dung cơ bản của
quản lý hành chính nhà nước, tuy nhiên, vẫn còn tồn tại các khoảng trống pháp lý
như thiếu các luật về thủ tục hành chính, luật về dịch vụ công, cũng như hạn chế
trong hệ thống các quy định hiện hành ở mỗi lĩnh vực, nội dung cụ thể. Việc hoàn
thiện pháp luật hành chính, xây dựng Chính phủ kiến tạo ở Việt Nam không chỉ
đặt trong bối cảnh nghiên cứu những vấn đề còn tồn tại của pháp luật trong nước
mà còn đặt trong bối cảnh của pháp luật quốc tế, có nghĩa là xây dựng một hệ
thống pháp luật hành chính phù hợp với chuẩn mực quốc tế, đáp ứng yêu cầu của
hội nhập và toàn cầu hóa.
2. Giải thích, vận dụng kiến thức pháp luật hành chính trong xu hướng
chuyển đổi để giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực tiễn.
Thi hành pháp luật nói chung và thi hành pháp luật hành chính nói riêng là hoạt
động được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt chú trọng. Pháp luật hành chính tác động
trực diện đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, là công cụ quản lý đa
dạng ngành, lĩnh vực trong xã hội. Thi hành pháp luật hành chính là một hoạt động
phức tạp, do vậy, trong phạm vi nghiên cứu của bài viết, chúng tôi chỉ lựa chọn và
tiếp cận một số nội dung chính yếu, chủ chốt của thi hành pháp luật hành chính ở
Việt Nam. Cụ thể:

Thứ nhất, thi hành pháp luật hành chính trong giải quyết thủ tục hành chính

- Cơ quan hành chính nhà nước, công dân, tổ chức, doanh nghiệp thực hiện nghĩa
vụ tích cực theo những quy định của pháp luật. Thi hành pháp luật hành chính
trong giải quyết thủ tục hành chính ở nước ta những năm qua về cơ bản đạt được
yêu cầu cải cách thủ tục hành chính do Nhà nước đề ra.

- Về phía cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức có thẩm quyền trong giải quyết thủ
tục hành chính đã chủ động thi hành pháp luật hành chính. Đặc biệt là thực hiện
nghiêm chỉnh những nghĩa vụ pháp luật quy định trong giải quyết thủ tục hành
chính. Đáng chú ý, việc thi hành pháp luật hành chính qua giải quyết thủ tục hành
chính tại một số tỉnh, thành phố của Việt Nam đạt hiệu quả cao, tăng cường niềm
tin của nhân dân vào bộ máy hành chính.

- Không chỉ có sự cải thiện tích cực về phương thức giải quyết thủ tục hành chính,
thái độ của cán bộ, công chức trong thi hành pháp luật hành chính tại cơ quan
công quyền cũng có sự chuyển biến rõ rệt so với trước đây.

- Về phía công dân, cá nhân, tổ chức, những năm qua, về cơ bản sự hài lòng của
người dân Việt Nam đối với quá trình giải quyết thủ tục hành chính được nâng lên.
Nhiều nhóm thủ tục hành chính cho phép người dân thực hiện đăng ký qua mạng,
tiếp nhận thông qua đường bưu điện hoặc chỉ cần đến bộ phận một cửa, một cửa
liên thông của chính quyền. Việc thực hiện những nghĩa vụ có liên quan khi tham
gia quan hệ pháp luật hành chính được đơn giản hoá, tiết kiệm cả về thời gian, sức
lực và chi phí.

- Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả khả quan đã đạt được, thi hành pháp luật
hành chính trong giải quyết thủ tục hành chính ở một số địa phương, bộ ngành vẫn
còn nhiều hạn chế. Đạo đức trong thi hành công vụ của một bộ phận cán bộ, công
chức còn hạn chế mà biểu hiện là sự quan liêu, hách dịch, cửa quyền. Cán bộ,
công chức chưa ý thức được bản thân “là công bộc của dân” như lời huấn thị của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chính sự nhũng nhiễu, hách dịch của chủ thể giải quyết
thủ tục hành chính là yếu tố trực tiếp tác động vào hiệu quả thi hành pháp luật
hành chính.
- Ngoài ra, thủ tục hành chính trong một số ngành, lĩnh vực còn rườm rà, thiếu
minh bạch, thái độ của công chức chưa đúng mực, thiếu khách quan, đang khiến
cho doanh nghiệp tốn nhiều chi phí, gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh.
Công dân, tổ chức, doanh nghiệp mặc dù luôn chủ động, tích cực thực hiện nghĩa
vụ khi tham gia quan hệ pháp luật hành chính nhưng chính những rào cản nói trên
đã và đang làm giảm đi hiệu quả thi hành pháp luật hành chính.

Thứ hai, thi hành pháp luật hành chính trong hoạt động thực thi công vụ của cán
bộ, công chức là người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong bộ máy nhà nước

- Thực tiễn đã chứng minh rằng, đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước là nhân tố
tác động trực tiếp đến hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước nói chung và quản lý
hành chính nhà nước nói riêng. Đây là chủ thể được trao quyền sử dụng quyền lực
nhà nước trong thực thi công vụ để quản lý xã hội. Giữ vị trí, vai trò quan trọng
nhất, quyết định hướng phát triển, quá trình vận hành của cơ quan, tổ chức, đơn vị
chính là người đứng đầu. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, Đảng và
Nhà nước ta đặc biệt coi trọng việc thiết lập hành lang pháp lý quy định cụ thể
quyền, đặc biệt là nghĩa vụ người đứng đầu cần phải thực hiện trong thi hành công
vụ. Điều 10, Luật Cán bộ, công chức năm 2008 khẳng định: Ngoài việc thực hiện
quy định tại Điều 8 và Điều 9 của Luật này, cán bộ, công chức là người đứng đầu
cơ quan, tổ chức, đơn vị còn phải thực hiện các nghĩa vụ sau đây: Chỉ đạo tổ chức
thực hiện nhiệm vụ được giao và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của cơ
quan, tổ chức, đơn vị; Kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn việc thi hành công vụ của cán
bộ, công chức; Tổ chức thực hiện các biện pháp phòng, chống quan liêu, tham
nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và chịu trách nhiệm về việc để xảy ra
quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong cơ quan, tổ chức, đơn vị….

- Về trách nhiệm thi hành nghĩa vụ quản lý nguồn tài chính, nhân lực, vật lực của
cơ quan, tổ chức, đơn vị: Những năm vừa qua, về cơ bản người đứng đầu cơ quan,
tổ chức, đơn vị trong bộ máy nhà nước ở Việt Nam có nhận thức đúng đắn, thi
hành đúng quy định về tiết kiệm, phòng, chống thất thoát, lãng phí ngân sách nhà
nước. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có sự nghiêm túc, chủ động sử
dụng, đặc biệt đối với những tài sản có giá trị lớn.

- Tuy vậy, bên cạnh những kết quả đáng ghi nhận của người đứng đầu cơ quan,
đơn vị, tổ chức trong bộ máy nhà nước trong thi hành pháp luật hành chính về
quản lý có hiệu quả việc sử dụng nguồn tài chính, vật lực, nhân lực vào hoạt động
công vụ vẫn còn tồn tại một số hạn chế, bất cập nhất định. Uỷ ban Tài chính -
Ngân sách của Quốc hội trong báo cáo thẩm tra về thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí của các bộ, ngành, địa phương chỉ rõ: Trong quản lý và sử dụng vốn và tài sản
Nhà nước của doanh nghiệp Nhà nước có chuyển biến, song chưa đáp ứng yêu cầu
tái cơ cấu. Báo cáo thẩm tra cũng điểm danh một số dự án đầu tư của doanh
nghiệp Nhà nước trong giai đoạn trước không đạt hiệu quả kinh tế, không có khả
năng thu hồi vốn, gây lãng phí, thất thoát lớn tài sản Nhà nước chưa được khắc
phục. 12 dự án đầu tư của các doanh nghiệp thuộc ngành công thương với số vốn
trên 60.000 tỷ đồng, gồm Vinashin, Giấy Phương Nam, Xơ sợi Đình Vũ, các dự
án nhiên liệu sinh học, nhà máy đạm Ninh Bình, nhà máy đạm Hà Bắc, nhà máy
bột giấy Phương Nam, nhà máy gang thép Thái Nguyên...

-Đặc biệt, sai phạm trong quản lý và sử dụng nguồn tài chính, vật lực của người
đứng đầu Tập đoàn Dầu khí Quốc gia, Tổng công ty Cổ phần Xây lắp Dầu khí
Việt Nam dẫn đến sự thất thoát một số lượng lớn ngân sách nhà nước đã phản ánh
nhiều hạn chế, bất cập trong việc thi hành nghĩa vụ người đứng đầu cơ quan nhà
nước. Hạn chế, bất cập này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có sự thiếu
hoàn thiện của hành lang pháp lý, chế tài xử phạt đối với sai phạm chưa đủ nặng,
hoặc còn có thể là “lợi ích nhóm” của một bộ phận người đứng đầu cơ quan, tổ
chức, đơn vị trong khu vực công.

- Người đứng đầu còn phải thực thi nghĩa vụ trong chức năng quản lý ngành, lĩnh
vực được giao. Tổ chức, điều hành cơ quan, tổ chức, đơn vị thực hiện đúng chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn, có chất lượng và đúng thời hạn được giao; quyết định
chủ trương, giải pháp cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ và chịu trách nhiệm về
quyết định đó.

- Tuy vậy, việc thi hành nghĩa vụ này hiện nay ở Việt Nam còn nhiều điểm hạn
chế, dẫn đến hệ lụy có sự “đùn đẩy trách nhiệm” giữa các cơ quan, đơn vị, cá nhân
khi để xảy ra sai phạm. Rõ ràng, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy
ra sai phạm phải nhận trách nhiệm đầu tiên và lớn nhất. Điển hình có thể dẫn
chứng ví dụ về xử lý các điểm nóng BOT ở một số địa phương hiện nay. Theo quy
định hiện hành, một dự án BOT trải qua rất nhiều quy trình và không thể không có
sự tham gia ý kiến của các bộ, ngành, như Bộ Giao thông vận tải, Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, chính quyền địa phương hoặc các nhà đầu tư, sau đó đệ trình Chính phủ.
Quy trình chặt chẽ và đầy đủ là vậy, song BOT vẫn đang trở thành “điểm nóng” ở
nhiều địa phương về sự bất cập trong thu phí của các trạm, ảnh hưởng đến quyền
và lợi ích của công dân, doanh nghiệp. Chính quy trình chặt chẽ và sự tham gia
của nhiều cơ quan, bộ, ban ngành, địa phương có thể trở thành rào cản trong việc
phân định trách nhiệm, đặc biệt là trách nhiệm của người đứng đầu ngành, lĩnh
vực, địa phương khi ký quyết định phê duyệt cuối cùng nếu dự án, kế hoạch có sai
phạm.

- Thứ ba, thi hành pháp luật hành chính trong việc thực hiện giải quyết khiếu nại,
tố cáo của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền

- Quyền khiếu nại, quyền tố cáo là những quyền cơ bản của công dân, được Hiến
pháp, pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện. Điều 30, Hiến pháp 2013 quy định
rõ: Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Việc tiếp
tục ghi nhận và khẳng định tầm quan trọng quyền khiếu nại, tố cáo của công dân
trong Hiến pháp 2013 đã tạo cơ sở pháp lý cho công dân thực hiện quyền cơ bản
của mình. Và thông qua việc thực hiện quyền này, công dân đã góp phần tích cực
vào hoạt động quản lý nhà nước và xã hội, đồng thời bảo vệ quyền lợi chính đáng
của mình.

- Ngoài ra, việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo còn là phương thức giám sát của
nhân dân đối với Nhà nước và cán bộ, công chức trong thực thi công vụ. Khi các
đơn khiếu nại, tố cáo của công dân, tổ chức chuyển đến cho cơ quan nhà nước là
kênh thông tin giúp phát hiện về những vi phạm pháp luật, xâm hại đến lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Qua đó, các cơ quan nhà
nước, người có thẩm quyền thanh, kiểm tra lại hoạt động, hành vi của các cơ quan
và các cán bộ, công chức, kịp thời chấn chỉnh, xử lý sai phạm. Giải quyết khiếu
nại, tố cáo là hoạt động thi hành pháp luật hành chính, gắn với nghĩa vụ của cơ
quan, cá nhân có thẩm quyền.

- Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo ở Việt Nam thời gian qua, nhìn chung đã
đạt được những kết quả nhất định, góp phần khôi phục lại những quyền và lợi ích
chính đáng của công dân; kịp thời phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm pháp
luật nhằm giữ gìn kỷ cương, trật tự tại cơ sở, tạo lòng tin của người dân vào chính
quyền và cơ quan quản lý nhà nước nơi mình đang sinh sống và lao động, động
viên nhân dân tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước, thúc đẩy mọi người hoàn
thành tốt các nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội.

- Mặc dù vậy, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn
chế, bất cập. Trong những năm gần đây, nhiều nơi số lượng đơn thư khiếu nại, tố
cáo gia tăng, thậm chí có nơi tình hình khiếu nại, tố cáo diễn biến hết sức phức
tạp, làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự tại địa phương. Các vụ việc khiếu nại, tố
cáo phức tạp, đông người chủ yếu thuộc lĩnh vực đất đai. Đáng chú ý là một số thế
lực đã lợi dụng tình hình khiếu nại, tố cáo để lôi kéo, kích động công dân tụ tập
đông người hoặc có hành vi quá khích làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự và tác
động tiêu cực vào tâm lý của cán bộ, nhân dân.

- Hạn chế trong thi hành pháp luật hành chính về giải quyết khiếu nại, tố cáo xuất
phát từ một số nguyên nhân cơ chế, chính sách pháp luật chưa được hoàn thiện
hoặc thiếu đồng bộ, việc ban hành văn bản hướng dẫn thi hành chậm, còn nhiều
quy định chưa phù hợp với thực tiễn nhưng chậm được bổ sung, sửa đổi (đặc biệt
trong một số lĩnh vực nhạy cảm như đất đai). Bên cạnh đó, trách nhiệm của thủ
trưởng cơ quan hành chính tại một số nơi chưa cao, chưa làm tròn trách nhiệm tiếp
công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; đội ngũ cán bộ, công chức làm nhiệm vụ
này còn hạn chế cả về năng lực và ý thức trách nhiệm, nhất là kỹ năng tiếp công
dân.

* Giải pháp tăng cường hiệu quả thi hành pháp luật hành chính ở Việt Nam
trong thời gian tới:
Xuất phát từ những phân tích thực trạng nêu trên, tác giả đề xuất một số giải pháp
góp phần khắc phục hạn chế, khó khăn, qua đó tăng cường hiệu quả thi hành pháp
luật hành chính ở Việt Nam thời gian tới. Cụ thể:

- Một là, đẩy mạnh, tăng cường hơn nữa việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói
chung và pháp luật hành chính nói riêng. Thực tế thì, hành lang pháp lý đóng vai
trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển ổn định, trật tự của xã hội. Hoạt động
quản lý hành chính diễn ra thường xuyên, liên tục, tác động trực diện tới quyền,
lợi ích hợp pháp của đa dạng các chủ thể trong xã hội. Vậy nên, để công tác thi
hành pháp luật hành chính đạt hiệu quả, trước tiên cần hoàn thiện pháp luật hành
chính. Đặc biệt, chú trọng công tác xây dựng, thẩm định văn bản pháp luật hành
chính phù hợp với bối cảnh mới của đất nước, không làm cản trở hoạt động bình
thường của các chủ thể trong xã hội. Thời gian vừa qua, xảy ra không ít trường
hợp văn bản pháp luật, trong đó có văn bản pháp luật hành chính vừa ban hành đã
“chết yểu”. Hạn chế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, song tác giả cho rằng
một trong số những nguyên nhân chủ yếu là sự thiếu hiệu quả trong thẩm định văn
bản pháp luật trước khi ban hành.

- Hai là, đẩy mạnh rà soát, khắc phục triệt để sự chồng chéo, mâu thuẫn, rườm rà
của hệ thống thủ tục hành chính. Để có thể hiện thực hóa pháp luật hành chính trên
thực tế, phải xây dựng và triển khai các thủ tục hành chính. Đây là trình tự, các
bước thực hiện pháp luật hành chính, bảo đảm sự thống nhất, thông suốt, liên tục
trong quản lý. Tuy nhiên, thời gian qua, hệ thống thủ tục hành chính ở nước ta còn
một số bất cập, hạn chế, đặt ra vấn đề đòi hỏi các cơ quan chức năng cần nghiêm
túc, khẩn trương rà soát, khắc phục sự chồng chéo, mâu thuẫn, hạn chế tối đa sự
rườm rà của hệ thống thủ tục hành chính. Bên cạnh đó, cải thiện năng lực phục vụ,
cung ứng dịch vụ công của cơ quan nhà nước đối với công dân, tổ chức, doanh
nghiệp. Thay đổi quan niệm trong lãnh đạo, quản lý, cần quán triệt nhận thức đối
với cán bộ, công chức, viên chức phải lấy dân làm gốc, coi người dân là khách
hàng của cơ quan công quyền.

- Ba là, đổi mới phương pháp, cách thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật hành
chính đối với công dân, tổ chức, doanh nghiệp trong xã hội. Thi hành pháp luật nói
chung và thi hành pháp luật hành chính nói riêng chỉ có thể đạt hiệu quả khi công
dân, tổ chức, doanh nghiệp trong xã hội hiểu biết pháp luật. Để có thể nâng cao
hiểu biết của nhóm đối tượng này về pháp luật hành chính tất yếu phải chú trọng
đổi mới phương pháp, cách thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật hành chính.
Phương pháp, cách thức tuyên truyền cần đơn giản, dễ hiểu, ứng dụng tối đa thành
tựu khoa học, công nghệ trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Ngoài
ra, các cơ quan chức năng cần chủ động, kịp thời tiếp nhận góp ý, lắng nghe ý kiến
phản hồi để nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật hành chính trên thực tế. Qua đó,
xây dựng, củng cố hơn nữa niềm tin của nhân dân đối với tổ chức và hoạt động
của bộ máy công quyền trong thi hành pháp luật hành chính.
- Bốn là, xử lý kịp thời, nghiêm minh những sai phạm trong thi hành pháp luật
hành chính. Sai phạm trong bất cứ công tác thi hành pháp luật nào cũng đều có
ảnh hưởng đến tính ổn định, hiệu quả trong hoạt động quản lý xã hội. Pháp luật
hành chính là ngành luật có sự tác động mạnh mẽ, liên tục và thường xuyên đối
với vận động, phát triển của xã hội. Do đó, mọi sai phạm đều sẽ gây ảnh hưởng,
thậm chí tác động trực diện đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức,
làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào bộ máy nhà nước. Chính vì vậy, đối với
những sai phạm trong thi hành pháp luật hành chính, các cơ quan chức năng cần
thẳng thắn nhìn nhận, có biện pháp, chế tài xử lý nghiêm minh, kịp thời. Cùng với
đó, không ngừng tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức,
đơn vị trong giải quyết vấn đề liên quan đến công tác quản lý hành chính nhà
nước.

You might also like