You are on page 1of 12

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐẠI NAM

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÁO CÁO THUYẾT TRÌNH MÔN HỌC


CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Nhóm sinh viên: Nguyễn Thị Mỹ Hạnh 1575020061


Trương Thị Khánh Huyền 1575020078
Trần Bình Chương 1575020030
Phạm Ngọc Toản 1575020190
Lớp: Dược 15-03
GV hướng dẫn: Phan Thị Hoàng Mai

Hà Nội, tháng 10 năm 2022


2

BIÊN BẢN LÀM VIỆC NHÓM


Nội dung: Anh chị Hãy trình bày đặc điểm và định hướng xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam? Mô hình nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam có gì khác biệt về cách thức tổ chức quyền lực?
Thời gian thuyết trình: Ngày.10... tháng.10... năm 2022
TT Họ và tên Nhiệm vụ Tự GV nhận xét Điểm
đánh mức độ hoàn
giá thành
1 Nguyễn Thị Mỹ Tiểu luận Tốt
Hạnh
2 Trương Thị Khánh Nội dung + slide Tốt
Huyền
3 Trần Bình Chương Slide Tốt
4 Phạm Ngọc Toản Thuyết trình Tốt
5
6
3

MỞ ĐẦU
Việc xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã trở thành nhiệm vụ cấp thiết và vô cùng quan trọng trong công
cuộc đổi mới toàn diện đất nước nói chung cũng như đổi mới hệ thống chính trị xã
hội củ nghĩa nói riêng. Trải qua các hội nghị và các kỳ Đại hội Đảng, nhận thức
của Đảng ta về nhà nước pháp quyền XHCN và việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN ngày càng được bổ sung và có những bước phát triển lý luận về xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, trong đó vừa làm sâu
sắc thêm những quan điểm, tư tương đã được thể hiện nhất quán trong các văn kiện
trước đó của Đảng.
Tuy nhiên, việc nhìn nhận thực tế chưa bao giờ là quá muộn trong việc xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Việc nêu được thực tiễn nhằm chỉ ra các lỗ
hổng và đồng thời đưa ra các giải pháp để ngày mộ hoàn thiện việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền. Chính vì vậy, nhóm em đã lựa chọn nghiên cứu về “ Thực trạng
trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam”.

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ SỰ ĐẶC BIỆT VỀ CÁCH TỔ


CHỨC TRONG VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN
VIỆT NAM
Hiện nay, việt nam đã có đủ các tiền đề về kinh tế, chính trị, xã hội để từng bước
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền Việt Nam
của dân, do dân, vì dân, có sắc thái riêng, phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị,
xã hội, truyền thống, văn hóa của Việt Nam. Cần nhận thức rằng việc xây dựng
nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là quá trình lâu dài, phải được tiến hành từng
bước, chia thành nhiều giai đoạn, đặt dưới sự lánh đạo của đảng. Mỗi giai đoạn
tương ứng với một mức độ phát triển của xã hội và của nhà nước. Xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng cần quán triệt những vấn đề có tính nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng phù hợp với những điều kiện cụ thể của
đất nước để tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Đảng đã xác định lấy
đổi mới kinh tế làm trọng tâm, xác định đúng mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị cũng như các lĩnh vực khác. Nhà nước ta đã từng bước được kiện
4

toàn, từ cơ cấu tổ chức đến cơ chế hoạt động trên các lĩnh vực tam pháp. Quản lý
nhà nước bằng pháp luật được tăng cường, dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy
trên nhiều lĩnh vực, trước hết là về kinh tế, ổn định chính trị được giữ vững. Có thể
nhận thấy sự thay đổi và phát triển của quá trình phấn đấu xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên những mặt sau.
2.1. Về tổ chức của bộ máy nhà nước
2.1.1. Những thành tựu đạt được
Bộ máy nhà nước đã được tổ chức lại theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sự phân công giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước nhằm bảo đảm cho mỗi cơ
quan nhà nước thi hành có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình,
không phải là sự phân chia, cắt khúc, đối lập nhau giữa các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp mà ở đây có sự phối hợp, hỗ trợ nhau tạo thành sức mạnh tổng
hợp của quyền lực nhà nước. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Chính
phủ đã được xác định rõ thêm. Cải cách hành chính đã bước đầu được tiến hành
đồng bộ trên các lĩnh vực: cải cách tổ chức bộ máy, cải cách thể chế và cải cách
thủ tục hành chính và cụ thể là:
-Các quy định của hiến pháp và pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước đã có
những điều chỉnh để làm rõ hơn, minh bạch hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của từng cơ quan.
-Quốc hội được xác định là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan
quyền lực của nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghãi Việt nam,
thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước
và giám sát tối cao đối với hoạt động của nhà nước.
- Chính phủ không chỉ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, cơ quan
chấp hành của quốc hội mà còn là cơ quan thực hiện quyền hành pháp.
-Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghãi
Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công
tố và kiểm sát hành động tư pháp.
2.1.2. Một số hạn chế về tổ chức bộ máy nhà nước
5

Có thể nhận thấy bên cạnh những thành tựu và ưu điểm, việc tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước hiệu lực và hiệu quả chưa cao. Việc phân định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước còn chưa thật rõ ràng, chồng
chéo về nhiệm vụ và quyền hạn.
Trước hết là tổ chức, bộ máy của một số bộ phận trong các cơ quan của
Quốc hội chưa được sắp xếp hợp lý. Hoạt động lập pháp của Quốc hội còn có phần
hạn chế: chương trình xây dựng luật, pháp lệnh chưa thật phù hợp, luật ban hành
còn chậm, chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội chủ yếu
bằng luật; kỹ thuật lập pháp vẫn là khâu yếu, luật ban hành thiếu đồng bộ, chậm đi
vào cuộc sống, một số luật ban hành chưa phát huy hết tác dụng, chất lượng chưa
cao, chưa phù hợp với thực tiễn cuộc sống, còn phải sửa đổi, bổ sung nhiều lần.
Tổ chức bộ máy nhà nước của các cơ quan nhà nước vẫn còn mộ số điểm bất
cập, hạn chế. Ví dụ: Số lượng các ủy ban quốc hội còn ít, chưa đủ để đảm bảo tính
chuyên môn hóa trong hoạt động xây dựng pháp luật, giám sát; còn sự chồng chéo
chức năng, nhiệm vụ giữa 1 số bộ, cơ quan ngang bộ…
Cải cách hành chính, cải cách tư pháp còn chậm. Trong cải cách hành chính
chưa đảm bảo đồng bộ giữa cải cách thể chế, bộ máy hành chính đội ngũ cán bộ,
công chức và chế độ tài chính công.
2.2. Về hệ thống pháp luật
2.2.1. Những thành tựu đạt được
Trong hơn 20 năm đổi mới, có những tiến bộ đáng kể trong chất lượng về
nội dung của các văn bản quy phạm pháp luật. Nhìn chung, các văn bản quy phạm
pháp luật ở nước ta đang dần dần tiếp cận gần hơn với những tiêu chí của một văn
bản quy phạm pháp luật “tốt” - văn bản “chứa đựng đúng đắn, khách quan các giá
trị chính trị – kinh tế – xã hội ở trong nước, đồng thời chứa đựng các giá trị nhân
loại được thừa nhận chung”. Về mặt nội dung có thể thấy đường lối, chính sách đổi
mới của Đảng được thể chế hoá trong các văn bản pháp luật. Các đạo luật, pháp
lệnh ngày càng thể hiện sâu sắc ý chí, nguyện vọng của nhân dân lao động. Bên
cạnh đó, các đạo luật, pháp lệnh có sự kế thừa và phát triển các giá trị tiến bộ của
nhân loại được thừa nhận chung trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng
pháp luật phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của nước ta.
6

- Hệ thống pháp luật được hoàn thiện cả về nội dung và hình thức, cả về số
lượng và chất lượng văn bản quy phạm pháp luật.
- Việc ban hành và thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật đã góp phần
tác động tích cực đến sự phát triển mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội của đất
nước, phục vụ kịp thời yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của nhân dân, xây dựng và hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phục vụ có hiệu quả
công cuộc đổi mới của đất nước.
2.2.2. Một số hạn chế của hệ thống pháp luật
Nhìn chung hệ thống pháp luật vẫn nhiều yếu kém và bất cập. Hệ thống pháp luật
còn chưa theo kịp và chưa đáp ứng đầy đủ cho yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước; hệ thống các cơ quan thi hành và bảo vệ pháp luật, đặc biệt là các cơ
quan tư pháp chưa đủ mạnh; ý thức sống và làm việc theo pháp luật của cán bộ và
nhân dân còn nhiều hạn chế.
Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa xây dựng được chiến lược xây dựng và
hoàn thiện pháp luật của Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Còn nhiều hạn chế về tính khách quan, tính khả thi, tính minh bạch của pháp
luật. Ngoài ra, một số đạo luật, pháp lệnh còn chứa đựng yếu tố mâu thuẫn, chồng
chéo trong bản thân từng đạo luật, pháp lệnh và mâu thuẫn với hệ thống pháp luật.
Hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ, chất lượng chưa cao,
chưa ổn định; tính toàn diện, thống nhất, khả thi còn nhiều hạn chế; chưa đảm bảo
tính công khai, minh bạch; cơ chế xây dựng, sửa đổi bổ sung pháp luật còn 1 số bất
cập.
Các thiết chế bảo đảm thi hành pháp luật còn thiếu và yếu; năng lực phân
tích chính sách, đánh giá tác động của văn bản pháp luật của các cơ quan, cán bộ,
công chức, còn yếu; ý thức pháp luật chưa cao, việc thi hành pháp luật chưa
nghiêm.
2.3. Dân chủ hoá đời sống xã hội
2.3.1. Những thành tựu đạt được
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rõ sự cần thiết phải thực hiện dân chủ
trong việc xây dựng Nhà nước Việt Nam: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi
7

ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công cuộc đổi mới là trách
nhiệm của dân...Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn
thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên”. Trong Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã
khẳng định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và do nhân dân làm chủ”. Dân chủ
không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực của sự phát triển đất nước, là nhân tố
thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; bởi lẽ, thực hiện tốt dân chủ sẽ phát
huy được sức mạnh của quần chúng nhân dân với vai trò “chủ thể chân chính sáng
tạo ra lịch sử”. Đồng thời phát huy dân chủ đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về
nhà nước cụ thể:
- Quyền lực nhà nước được đã được xác lập, thực hiện trên cơ sở ý chí của
nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân
- Các cơ quan nhà nước đã xây dựng nhiều cơ chế cụ thể để nhân dân thực
hiện trên thực tế quyền giám sát của mình đối với hoạt động của cơ quan, cán bộ,
công chức nhà nước. Quy chế giám sát và phản biện của xã hội của Mặt trận Tổ
quốc- tổ chức chính trị- xã hội rộng rãi của nhân dân, đã được ban hành và đang
triển khai thực hiện.
-Các hình thwucs dân chủ trực tiếp, quyền làm chủ thông qua các cơ quan
đại diện cũng được thực hiện một cách thực chất và hiệu quả hơn.
-Quốc hội, Hội đồng nhân dân thwucj quyền hơn, ngày càng thẻ hiện là cơ
quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, thwucj hiện quyết định các
vấn dề quan trọng của đất nước, địa phương và giám sát hoạt động của các cơ quan
nhà nước khác.
- Cùng với việc mở rộng dân chủ, nhà nước ta đã kiên quyết đấu tranh chống
lại tình trạng dân chủ cực đoan, vô chính phủ, lợi dụng dân chủ để kích động, gây
rối, bảo đảm ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, phe phán và nghiêm trị những
hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, những hành vi lợi dụng dân chủ làm
tổn hại đến lợi ích quốc gia, gây mất an ninh, trật tự an toàn xã hội.
2.3.2. Một số điểm hạn chế của việc dân chủ hóa
Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu, tuy nhiên trong đời sống xã hội, có tình
trạng vừa thiếu dân chủ, vừa thiếu kỷ cương. Quyền làm chủ của nhân dân chưa
8

được tôn trọng và phát huy đầy đủ. Trong xã hội còn không ít hiện tượng mất dân
chủ, dân chủ hình thức, có nơi còn diễn ra rất nghiêm trọng. Ở nhiều nơi, pháp luật
quy định một số quyền của công dân nhưng không được tôn trọng, nhiều khiếu
nại, kiến nghị của người dân chưa được giải quyết, thậm chí vẫn còn tình trạng bắt
oan, xử oan người vô tội. Mặt khác, trật tự xã hội còn nhiều mặt yếu kém, hiện
tượng coi thường không chấp hành kỷ cương, pháp luật còn nhiều. Cơ chế pháp
luật bảo đảm dân chủ hoá tuy đã có tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều vấn đề còn thiếu
sót và chưa cụ thể. Việc thực hiện các hình thức dân chủ trực tiếp và hình thức dân
chủ đại diện hiệu quả chưa cao, có nội dung thực hiện ccòn chỉ mang tính hình
thức.
2.4. Về hoàn thiện mối quan hệ giữa nhà nước và công dân
2.4.1. Những thành tựu đạt được
-Sau nhiều kỳ đại hội, lý luận về mối quan hệ Đảng lãnh đạo, nhân dân làm
chủ, Nhà nước quản lý đã trở thành hệ thống quan điểm của Đảng trong thời kỳ đổi
mới. Phát tốt mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân, Thực tiễn Việt Nam qua
các năm đổi mới cho thấy ý chí và quyền lực của nhân dân được thể hiện trong
pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật, trong thể chế dân chủ của đất nước. Nhân
dân thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua nhà nước, thông qua các cuộc
bầu cử đại biểu Quốc hội, bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Vì vậy nhà
nước phải có trách nhiệm bảo đảm để mọi công dân thực hiện tốt các quyền cơ bản
của mình.
-Về sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa xã
hội: Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước là vấn đề rất cơ bản bảo đảm
chính quyền của nhân dân. Trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng đã đề ra
những quan điểm, phương hướng, nội dung cơ bản nhằm xây dựng, hoàn thiện tổ
chức bộ máy nhà nước đáp ứng yêu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghãi, dề
ra định hướng chính trị đúng đắn cho hoạt động của Nhà nước; lãnh đạo hoạt động
bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp đảm bảo thật sự phát huy quyền làm
chủ nhân dân trong việc lựa chọn các đại biểu xứng đáng vào các cơ quan này.
2.4.2. Một số hạn chế
Tuy nhiên, trong vấn đề tạo lập mối quan hệ bình đẳng giữa Nhà nước với công
dân vẫn đang tồn tại không ít khó khăn cả về chủ quan và khách quan. Về chủ
9

quan, chúng ta còn chưa xây dựng hoàn thiện hệ thống lý luận về NNPQ XHCN
nói chung và lý luận về mối quan hệ bình đẳng giữa NNVCD nói riêng, vì vậy, hệ
thống pháp luật cũng còn nhiều hạn chế như đã nói ở phần trên. Trong quan hệ
giữa các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước với Nhân dân khi giải
quyết công việc liên quan đến QCD thường thiếu sự bình đẳng.
Mặt khác, khi Nhà nước, các cơ quan nhà nước buộc công dân phải thực hiện
đầy đủ nghĩa vụ, trách nhiệm của mình, thì ngược lại, trong nhiều trường hợp, Nhà
nước, cơ quan nhà nước lại thiếu hoặc gần như vô trách nhiệm mà trách nhiệm,
nghĩa vụ đó đã được pháp luật quy định. Trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt với sự
phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, việc giải quyết mối quan hệ bình
đẳng giữa NNVCD đang nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp hơn. Chẳng hạn, quá trình
giải phóng mặt bằng, thu hồi, đền bù quyền sử dụng đất, vấn đề môi trường… đang
diễn ra rất phức tạp. Đây là nội dung cần giải quyết triệt để trong mối quan hệ giữa
Nhà nước – Doanh nghiệp – Công dân, nhưng trên thực tế, pháp luật đã không theo
kịp sự phát triển kinh tế – xã hội, đôi khi còn lạc hậu.
Về khách quan, sự phát triển kinh tế – xã hội còn thấp, tàn dư tư tưởng phong
kiến vẫn tồn tại chi phối trong một bộ phận không nhỏ của xã hội… Điều đó sẽ ảnh
hưởng đến việc thực hiện quyền lực nhà nước, từ xây dựng, ban hành các quy định
pháp luật đến thái độ, trách nhiệm của cán bộ, công chức trong giải quyết các công
việc của Nhân dân, mà một trong những biểu hiện đó là hiện tượng cửa quyền,
hách dịch, vô trách nhiệm. Do đó, hoàn thiện mối quan hệ bình đẳng giữa NNVN
D trong bối cảnh xây dựng NNPQ, hội nhập quốc tế là nhu cầu cấp bách hiện nay.
Có thể nói, quyền làm chủ của Nhân dân chưa được bảo đảm và phát huy đầy đủ.
Tình trạng dân chủ hình thức vẫn chưa được khắc phục triệt để, nạn tham nhũng,
lãng phí và quan liêu còn nghiêm trọng.
2.5 Sự đặc biệt về cách tổ chức mô hình nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa
Các cơ quan trong bộ máy nhà nước có thể được phân loại theo nhiều cách khác
nhau dựa vào các tiêu chí khác nhau. Sau đây là một số cách phân loại cơ quan
trong bộ máy nhà nước.
- Căn cứ vào thẩm quyền theo phạm vi lãnh thổ, các cơ quan nhà nước được chia
thành cơ quan trung ương và cơ quan địa phương. Cơ quan trung ương là cơ quan
có thẩm quyền hoạt động trên toàn lãnh thổ, cơ quan địa phương là cơ quan có
thẩm quyền hoạt động chỉ trong phạm vi địa phương.
10

- Căn cứ vào chức năng, các cơ quan nhà nước được chia thành cơ quan lập pháp
(có chức năng xây dựng pháp luật); cơ quan hành pháp (có chức năng tổ chức thực
hiện pháp luật); cơ quan tư pháp (có chức năng bảo vệ pháp luật).
- Căn cứ vào thời gian hoạt động, các cơ quan nhà nước được chia thành cơ quan
thường xuyên và cơ quan lâm thời. Cơ quan thường xuyên là cơ quan được thành
lập để thực hiện những công việc thường xuyên của nhà nước, tồn tại thường
xuyên trong bộ máy nhà nước. Cơ quan lâm thời là cơ quan được thành lập để thực
hiện những công việc có tính chất nhất thời của nhà nước, sau khi thực hiện xong
công việc đó nó sẽ tự giải tán, ví dụ, ủy ban sửa đổi Hiến pháp, các cơ quan bầu cử
ở nước ta...
- Căn cứ vào con đường hình thành, tính chất, chức năng, các cơ quan nhà nước
được chia thành cơ quan quyền lực nhà nước, cơ quan quản lí nhà nước, cơ quan
xét xử, cơ quan kiểm sát. Cơ quan quyền lực nhà nước là cơ quan do nhân dân bầu
ra, đại diện nhân dân để thực thi quyền lực nhà nước; cơ quan quản lí nhà nước là
cơ quan được hình thành từ cơ quan quyền lực nhà nước, thực hiện chức năng quản
lí, điều hành công việc hàng ngày của đất nước trong các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, văn hoá, xã hội, quốc phòng an ninh, đối ngoại; cơ quan xét xử có chức năng
xét xử các vụ án; cơ quan kiểm sát có chức năng kiểm tra, giám sát việc thực hiện
pháp luật, thay mặt nhà nước thực hiện quyền công tố. Hiện nay ở Việt Nam, cơ
quan này chì có chức năng kiểm tra, giám sát các hoạt động tư pháp và thực hành
quyền công tố.
Mỗi cách tiếp cận trên đều có ý nghĩa khoa học nhất định làm cơ sở để xem xét
và giải quyết những vấn đề về bộ máy nhà nước. Ngoài các cách phân loại trên,
còn có nhiều cách khác để phân loại các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Tuy
nhiên, việc phân loại các cơ quan trong bộ máy nhà nước nhiều khi chỉ có ý nghĩa
tương đối, nhiều trường hợp nó chỉ có ý nghĩa trong một phạm vi nhất định.
Nhìn chung, trong bộ máy nhà nước đều bao gồm khá nhiều cơ quan nhà nước.
Mỗi cơ quan nhà nước là một yếu tố, một đơn vị cấu thành bộ máy nhà nước, vì
thế, nếu xem xét nhà nước như một cơ thể sống thì mỗi cơ quan nhà nước chính là
những bộ phận cơ bản cấu thành nên cơ thể sống đó. Mỗi bộ phận trên cơ thể sống
đều có chức năng, nhiệm vụ riêng song lại có liên hệ mật thiết với các bộ phận
khác để bảo đảm sự tồn tại và phát triển của cơ thể đó. Giữa các cơ quan trong bộ
máy nhà nước luôn có sự liên kết chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau tạo
11

nên một thể thống nhất, trong đó mỗi cơ quan nhà nước được xem như là một mắt
xích của hệ thống đó.

Mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được xây dựng, hoàn thiện qua
nhiều thời kỳ với đặc điểm, tính chất đặc thù Việt Nam, từng bước tiếp cận chuẩn
mực, tinh hoa nhân loại. Quá trình đó có nhiều giai đoạn chuyển đổi, từ Nhà nước
chuyên chính vô sản sang nhà nước Nhà nước có tính pháp quyền, đề cao vai trò
của Hiến pháp và pháp luật. Những quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng
và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, tiếp tục được
thể chế hóa trong Hiến pháp 1992, Hiến pháp sửa đổi năm 2001 và Hiến pháp
2013, cũng như các văn bản pháp luật của Nhà nước và được triển khai thực hiện
trên thực tế. Việc đổi mới được dựa trên ba trụ cột cơ bản là:
-Xây dựng và hoàn thiện một Nhà nước pháp quyền hiện đại được đổi mới cả
chất và lượng
-Tạo dựng môi trường phát triển đầy đủ một nền kinh tế thị trường hiện đại, hội
nhập sâu rộng với quốc tế
-Thiết lập một xã hội dân chủ phát triển ở trình độ cao hơn, trong đó thượng tôn
pháp luật, phù hợp với đặc điểm, điều kiện của đất nước là nguyên tắc chủ đạo, chi
phối các mối quan hệ xã hội, xử lý hài hòa mối quan hệ giữa Nhà nước với thị
trường và xã hội.
Bộ máy nhà nước dần được được hoàn thiện theo hướng tinh gọn, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả hơn, cơ chế vận hành có nhiều thay đổi so với trước đây, mối
12

quan hệ giữa Quốc hội, chính phủ, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức xã hội thích ứng
dần với xây dựng Nhà nước pháp quyền. Quốc hội có nhiều đổi mới trong tổ chức
và hoạt động; chính phủ được sắp xếp lại các đầu mối, tập trung làm tốt chức năng
quản lý vĩ mô. Vai trò Nhà nước kiến tạo phát triển theo hướng:
-Đủ năng lực đóng vai trò hướng dẫn, giảm bớt việc tham gia trực tiếp vào hoạt
động phát triển kinh tế và xã hội,
- Nhà nước được cải cách về tổ chức, cơ chế hoạt động theo hướng quản trị hiện
đại, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và địa
phương chuyển mạnh sang phân cấp, phân quyền. Sự phân công, phối hợp và
kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trong thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp ngày càng rành mạnh hơn. Tính công khai, minh bạch và trách
nhiệm giải trình ngày càng rõ hơn.

KẾT LUẬN

Quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang phải
đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Yêu cầu đặt ra là Đảng phải luôn đảm
bảo được tính chính đáng trong cầm quyền của mình thể hiện uy tín, sự tin tưởng,
sự cuốn hút của Đảng đối với Nhân dân; tính hiệu quả trong lãnh đạo phát triển
kinh tế, văn hoá, xã hội, đáp ứng yêu cầu, lợi ích của Nhân dân. Do đó, việc thực
vận dụng lý luận về Nhà nước vô sản là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa to lớn đối
với công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Mô hình Nhà nước pháp quyền Xã Hội Chủ Nghĩa ở Việt Nam đã và đang từng
bước đảm bảo những quyền, những lợi ích chính đáng cho nhân dân. Tuy nhiên
mô hình nhà nước pháp quyền của nước ta vẫn còn một số hạn chế. Nhưng với sự
kiên trì và cầu tiến, nhà nước pháp quyền sẽ luôn luôn đổi mới và hoàn thiện hơn
trong tương lai.

You might also like