You are on page 1of 12

Bài 3: VAI TRÒ, CHỨC NĂNG CỦA NHÀ NƯỚC TRONG QUẢN LÝ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM


1. VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG QUẢN LÝ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
1.1. Cơ sở khoa học của việc xác lập vai trò Nhà nước trong quản lý nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Ngay từ khi nhà nước mới ra đời đã thực hiện vai trò và chức năng quản lý, lúc đầu là
quản lý xã hội, quản lý hành chính, đảm bảo trật tự trị an, dần dần mở rộng sang lĩnh vực
quản lý kinh tế. Cùng với sự phát triển về quy mô và trình độ của nền kinh tế, vai trò quản lý
kinh tế của nhà nước ngày càng tăng lên. Việc xác lập vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế
thị trường dựa trên mối quan hệ giữa 3 chủ thể quan trọng là: nhà nước – thị trường – doanh
nghiệp, mỗi chủ thể đều có chức năng, nhiệm vụ cụ thể, từ đó xác lập vai trò của mỗi chủ thể
đặt trong mối quan hệ với các chủ thể khác.
Nhà nước có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường, nhưng không có nghĩa
là Nhà nước làm tất cả và Nhà nước cũng không thể tự làm tất cả. Nhà nước chủ yếu tạo các
điều kiện, môi trường thuận lợi cho các chủ thể kinh tế hoạt động; khuyến khích các doanh
nghiệp và người dân phát triển sản xuất, kinh doanh; định hướng; kiểm tra, kiểm soát hoạt
động của các chủ thể kinh tế; bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế...
Trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, ở các quốc gia khác nhau và ở các giai
đoạn phát triển khác nhau, vai trò quản lý kinh tế của nhà nước cũng khác nhau. Ngày nay
người ta đều nhận thức rằng vai trò của nhà nước trong quản lý kinh tế ngày càng tăng lên,
thậm chí có thể khẳng định: một quốc gia phát triển hay suy tàn, suy đến cùng là do quản lý
của Nhà nước.
Ở các nước xã hội chủ nghĩa kiểu cũ trước đây, với cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập
trung, đã quá nhấn mạnh, thậm chí tuyệt đối hóa vai trò của nhà nước, tất cả mọi hoạt động
kinh tế đều do nhà nước quyết định, tẩy chay và kỳ thị thị trường.
Trong giai đoạn hiện nay, mặc dù các quốc gia trên thế giới có những chế độ chính trị
khác nhau, nhưng trong quản lý nền kinh tế đều có những điểm chung là phát triển nền kinh tế
thị trường nhiều thành phần, nhiều loại hình sản xuất kinh doanh đa dạng với cơ chế thị
trường vận hành khách quan, đồng thời ngày càng coi trọng vai trò quản lý, điều tiết của nhà
nước.
Sự khác nhau trong quản lý kinh tế của Nhà nước, một mặt do bản chất của chế độ
chính trị - xã hội quy định, mặt khác ở liều lượng, tính chất tác động của nhà nước khi thực
hiện vai trò, chức năng quản lý về kinh tế của mình.
1.2. Vai trò của nhà nước trong quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
Vai trò của Nhà nước trong quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta trước hết cũng giống như các Nhà nước khác thể hiện ở việc thực hiện các
mục tiêu quản lý kinh tế vĩ mô, mà cơ bản và khái quát nhất là bảo đảm sự phát triển ổn định;
thực hiện công bằng; tăng trưởng nhanh và bền vững của toàn bộ nền kinh tế.
Ngoài vai trò chung như các nước khác trong quản lý nền kinh tế thị trường, do tính
chất đặc thù của nước ta, Nhà nước còn thể hiện vai trò quan trọng trên các nội dung sau:
+ Nhà nước quyết định sự thành công hay không thành công của sự nghiệp đổi mới,
chuyển từ nền kinh tế kế hoạch, chỉ huy tập trung sang phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hiểu là một
kiểu tổ chức nền kinh tế của một xã hội đặc biệt, xã hội đang ở trong thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội với xuất phát điểm thấp. Do đó, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa chịu tác động bởi hai hệ thống: (1) quy luật kinh tế của nền kinh tế thị trường; và (2)
đặc thù của định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

1
phát triển theo hướng nuôi dưỡng và tạo điều kiện để các nhân tố mới XHCN ngày một lớn
mạnh và phát triển. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một nền kinh tế thị
trường mới, có tổ chức, có kế hoạch đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự quản lý
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Do đó, nó phát huy ưu thế của cả hai thể chế là kế hoạch và
thị trường nhằm phục vụ mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đặc
biệt, tiến hành thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và công nghiệp hoá rút
ngắn, đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại trong thế kỷ XXI.
+ Nhà nước quyết định tốc độ nhanh hay chậm của quá trình đổi mới. Phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN là nội dung cơ bản của công cuộc đổi mới ở nước ta,
nhưng đồng thời cũng là một quá trình khó khăn, phức tạp vì phải đổi mới cả cơ cấu kinh tế,
cơ chế quản lý, tổ chức bộ máy quản lý và con người, đổi mới tư duy, phong cách và lối sống
cũ đã ăn sâu vào từng con người, trong quá trình đó Nhà nước có vai trò quyết định.
+ Nhà nước quyết định sự định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phát triển một cách tự phát, mà
phát triển trong quá trình nhận thức, phấn đấu rất cao của toàn xã hội dưới sự lãnh đạo của
Đảng, quản lý của Nhà nước, đó là quá trình chuyển đổi đặc biệt, chưa từng có trong lịch sử.
Một mặt đó là quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch chỉ huy tập trung, (kỳ thị, tẩy chay
thị trường) sang nền kinh tế thị trường; mặt khác là quá trình phát triển theo xu hướng xã hội
chủ nghĩa.
Trong quá trình đổi mới, vai trò quản lý kinh tế của nhà nước không hề bị suy giảm
mà ngày càng tăng lên.
Để nhận thức đầy đủ hơn vai trò Nhà nước của ta hiện nay, cần thấy rõ vai trò của
Nhà nước ta trên hai phương diện, hai tư cách khác nhau trong quản lý nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Một là, với tư cách là bộ máy hành chính, Nhà nước phải quản lý toàn diện tất cả mọi
mặt của đời sống kinh tế và xã hội như: văn hóa, giáo dục, y tế, chính trị, quân sự, đối
ngoại...,trong đó quản lý kinh tế là trọng tâm. Lúc này Nhà nước sử dụng pháp luật, chính
sách, các công cụ quan trọng khác để quản lý nền kinh tế. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế kể cả doanh nghiệp nhà nước hoạt động bình đẳng trước pháp luật.
Hai là, Nhà nước của ta đại diện cho sở hữu toàn dân, thực hiện quyền sở hữu đối với
tài sản công như: tài nguyên, đất đai, vùng trời, vùng biển, nguồn lực dự trữ, các tập đoàn,
tổng công ty nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước... Lúc này Nhà nước đóng vai trò như
chủ sở hữu, chủ đầu tư tham gia hoạt động trong nền kinh tế thị trường như một chủ thể kinh
tế lớn.
Với tư cách là bộ máy hành chính, nếu Nhà nước không hoàn thành tốt chức năng,
nhiệm vụ của mình thì toàn bộ nền kinh tế thị trường sẽ không phát triển được, thậm chí còn
trở thành yếu tố cản trở sự phát triển, càng không thể định hướng xã hội chủ nghĩa của nền
kinh tế thị trường.
Với tư cách là đại diện cho sở hữu toàn dân, Nhà nước quản lý một lượng rất lớn tài
sản quốc gia, nếu quản lý không tốt sẽ gây lãng phí, thất thoát lớn, vừa thiệt hại về kinh tế,
vừa làm suy giảm hiệu lực quản lý của nhà nước, nghiêm trọng hơn nữa là giảm lòng tin của
nhân dân vào Nhà nước.
Hiện nay, quản lý nền kinh tế thị trường của Nhà nước ta đã có những thành công trên
cả hai phương diện, nhưng cũng đang còn nhiều hạn chế yếu kém, đặc biêt là những hạn chế,
yếu kém trong quản lý tài sản công, trong quản lý các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, gây ra
nhiều hậu quả xấu cả trong kinh tế và xã hội.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vận hành trong mối quan hệ: nhà
nước – thị trường – doanh nghiệp, mỗi bộ phận, mỗi chủ thể đều có chức năng, nhiệm vụ cụ
thể và phải thực hiện tốt các chức năng đó, trong đó Nhà nước với các chức năng quan trọng,
quyết định toàn bộ sự vận động của nền kinh tế.

2
Vai trò của nhà nước trong quản lý kinh tế trong bước chuyển đổi sang phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hết sức quan trọng và nặng nề,
vừa phải tiến hành đổi mới cách thức điều hành nền kinh tế từ cơ chế cũ sang cách thức điều
hành, quản lý theo cơ chế mới, vừa phải thiết lập mối quan hệ hợp lý giữa nhà nước - thị
trường - doanh nghiệp. Nhà nước phải liên tục hoàn thiện phương pháp, công cụ và kỹ thuật
điều hành nền kinh tế thị trường đang hình thành lại đặt trong điều kiện mới của hội nhập
quốc tế và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời phải đảm bảo định hướng xã
hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường. Một mô hình kinh tế chưa từng có tiền lệ trong lịch
sử.
2. CHỨC NĂNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
2.1. Nhận thức chung về chức năng quản lý nhà nước về kinh tế trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Chức năng quản lý nhà nước về kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa do bản chất của nhà nước, do yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội và do
tình hình kinh tế - xã hội của từng giai đoạn lịch sử quy định.
Chức năng quản lý nhà nước về kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là căn cứ để xác định các nhiệm vụ cụ thể, là cơ sở khách quan để xây dựng hệ
thống bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế và bố trí cán bộ, công chức quản lý nhà nước về
kinh tế cho phù hợp.
Chức năng cũng là căn cứ để đánh giá, khen thưởng, kỷ luật các tổ chức và cá nhân
cán bộ, công chức trong hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế. Chức năng quyết định
vị trí, mối quan hệ của mỗi tổ chức và cá nhân cán bộ, công chức trong hệ thống bộ máy quản
lý nhà nước về kinh tế.
Nội dung cụ thể của các chức năng quản lý nhà nước về kinh tế trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa không cố định mà có vận động, phát triển cho phù hợp
với mục tiêu, yêu cầu của các giai đoạn. Trong những điều kiện cụ thể, do mục tiêu và những
điều kiện kinh tế - xã hội thay đổi thì vai trò và thứ tự ưu tiên của các chức năng có thể có sự
thay đổi nhất định, tuy nhiên tên gọi của các chức năng ít thay đổi.
2.2. Những chức năng của quản lý nhà nước về kinh tế trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã nhấn mạnh các chức năng quản lý nhà
nước về kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là: "Nhà nước tạo
môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát
triển; bằng chiến lược, kế hoạch và chính sách kết hợp với sử dụng lực lượng vật chất của nhà
nước để định hướng phát triển kinh tế - xã hội, khai thác hợp lý các nguồn lực của đất nước,
bảo đảm cân đối vĩ mô nền kinh tế, điều tiết thu nhập; kiểm tra, kiểm soát mọi hoạt động kinh
doanh theo quy định của pháp luật".
Trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng cũng khẳng định: “Nhà nước quản lý điều hành
nền kinh tế bằng pháp luật, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết trên cơ sở tôn trọng
các quy luật thị trường”.
2.2.1. Tạo lập môi trường và điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế hoạt động
Các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế chỉ có thể hoạt động tốt khi có môi trường
thuận lợi. Bằng quyền lực và sức mạnh kinh tế của mình, Nhà nước có trách nhiệm chính
trong việc xây dựng và bảo đảm môi trường thuận lợi, bình đẳng cho hoạt động sản xuất, kinh
doanh, đồng thời còn bảo đảm môi trường phù hợp cho chính cơ chế mới đang hình thành,
phát triển và phát huy tác dụng. Có nhiều loại môi trường, trong đó bao gồm các môi trường
chính như:

3
Một là, xây dựng môi trường chính trị ổn định, thật sự phát huy các nguồn lực và sức
sáng tạo của nhân dân của các doanh nghiệp. Xây dựng hệ thống pháp luật ổn định, thuận lợi,
phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, thực thi pháp luật
phải nghiêm minh, tạo lập môi trường văn hóa pháp luật cho mọi công dân, mọi tổ chức...
Hai là, xây dựng và hoàn thiện kết cấu hạ tầng cho nền kinh tế vận động và phát triển
thuận lợi. Hệ thống kết cấu hạ tầng có ý nghĩa sống còn với nền kinh tế, bao gồm nhiều loại
như: hệ thống giao thông, đường bộ, đường sắt, đường không, sân bay, bến cảng, điện; nước,
kết cấu hạ tầng văn hóa, xã hội, kết cấu hạ tầng thông tin....
Ba là, xây dựng môi trường văn hóa xã hội phù hợp với nền kinh tế thị trường, xã hội
ngày càng tôn trọng và tôn vinh nghề kinh doanh và người kinh doanh.
Bốn là, bảo đảm môi trường an ninh trật tự, kỷ luật, kỷ cương, mọi cá nhân và tổ chức
đều phải tuân thủ pháp luật. Nhà nước phải bảo vệ những doanh nghiệp và doanh nhân hoạt
động đúng luật pháp.
Năm là, xây dựng và hoàn thiện môi trường thông tin. Nhà nước phải là trung tâm
cung cấp thông tin tin cậy nhất cho các doanh nghiệp một cách thường xuyên, kịp thời và
chính xác...
Với chức năng này, nhà nước có vai trò như một bà đỡ giúp cho các cơ sở sản xuất
kinh doanh phát triển, đồng thời bảo đảm các điều kiện tự do, bình đẳng trong kinh doanh.
Nói cách khác, nhà nước có chức năng tạo ra các dịch vụ công về môi trường chính trị, pháp
lý, an ninh, thủ tục quản lý, điều kiện kinh doanh, thông tin, an toàn xã hội....
2.2.2. Định hướng, hướng dẫn sự vận động, phát triển của toàn bộ nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa,
nhà kinh doanh và các tổ chức kinh tế được tự chủ kinh doanh nhưng không thể nắm được hết
tình hình và xu hướng vận động của thị trường, do đó thường chạy theo thị trường một cách bị
động, dễ gây ra thua lỗ, thất bại và đổ vỡ, gây thiệt hại chung cho nền kinh tế. Hơn nữa, nhà
nước còn phải định hướng nền kinh tế phát triển theo quỹ đạo và mục tiêu kinh tế – xã hội đã
được Đảng và Nhà nước định ra cho mỗi giai đoạn. Do đó, nhà nước có chức năng định
hướng phát triển kinh tế và hướng dẫn các nhà kinh doanh, các tổ chức kinh tế hoạt động
hướng đích theo các mục tiêu chung của đất nước. Nhà nước định hướng và hướng dẫn bằng
các công cụ như chiến lược, quy hoạch, chính sách, kế hoạch, thông tin và các nguồn lực của
nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để thực hiện chức năng
định hướng, hướng dẫn, Nhà nước không can thiệp thô bạo bằng mênh lệnh hành chính vào
nền kinh tế thị trường mà chủ yếu sử dụng cách thức và phương pháp tác động gián tiếp, theo
các nguyên tắc của thị trường. Cách thức tác động gián tiếp mang tính chất mềm dẻo, uyển
chuyển, vừa bảo đảm tính tự chủ của các chủ thể kinh tế, vừa thực hiện mục tiêu chung.
2.2.3. Tổ chức thực hiện, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế và bảo hộ cho các chủ
thể kinh doanh đúng pháp luật
Nhà nước phải sắp xếp, tổ chức lại các ngành, các lĩnh vực, các vùng kinh tế quan
trọng, trong đó có sắp xếp, củng cố lại các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, các doanh nghiệp
nhà nước, tổ chức các khu công nghiệp, khu chế xuất... Đây là những công việc nhằm tạo cơ
cấu kinh tế hợp lý.
Nhà nước phải bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế thị trường như cân đối tổng
cung - tổng cầu, cân đối xuất khẩu – nhập khẩu, cân đối thu - chi ngân sách...bảo đảm ổn định
kinh tế vĩ mô của nền kinh tế thị trường.
Nhà nước phải bảo hộ và bảo vệ cho các chủ thể kinh doanh đúng pháp luật, can thiệp
vào nền kinh tế thị trường khi có những biến động lớn như khủng hoảng, suy thoái kinh tế ....

4
Nhà nước có trách nhiệm tổ chức, sắp xếp lại các cơ quan quản lý của nhà nước về
kinh tế từ trung ương đến cơ sở, đổi mới thể chế và thủ tục hành chính, đào tạo và đào tạo lại,
sắp xếp đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước và quản lý doanh nghiệp nhà nước, thiết
lập mối quan hệ kinh tế với các nước và các tổ chức quốc tế...
2.2.4. Điều tiết hoạt động của toàn bộ nền kinh tế
Trong khi điều hành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước vừa phải
tuân thủ và vận dụng các quy luật khách quan của thị trường, phát huy mặt tích cực, hạn chế
những tiêu cực của thị trường, vừa điều tiết sự hoạt động của thị trường theo định hướng của
nhà nước, đảm bảo cho kinh tế phát triển ổn định, công bằng và có hiệu quả. Để điều tiết, Nhà
nước phải sử dụng các chính sách, các công cụ như: tài chính, tiền tệ, thuế, tín dụng, lãi
suất...,các nguồn lực mạnh để điều tiết nền kinh tế thị trường.
2.2.5. Kiểm tra, kiểm soát và xử lý các vi phạm của các chủ thể tham gia thị trường
Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát và xử lý vi phạm nhằm thiết lập trật
tự, kỷ cương trong hoạt động kinh tế, phát hiện và ngăn ngừa các hiện tượng vi phạm pháp
luật, sai phạm chính sách, bảo vệ tài sản quốc gia và lợi ích của nhân dân, góp phần tăng
trưởng kinh tế và từng bước thực hiện công bằng xã hội.
Kiểm tra, kiểm soát luôn luôn là hoạt động quan trọng của Nhà nước, ở nước ta trong
điều kiện nền kinh tế thị trường mới phát triển, thậm chí còn sơ khai, tình trạng rối loạn, tự
phát, vô tổ chức và các hiện tượng tiêu cực còn khá phổ biến, có nơi, có lúc rất trầm trọng và
phức tạp, càng cần phải đề cao chức năng của Nhà nước kiểm tra, kiểm soát, xử lý vi phạm
đối với các chủ thể kinh tế tham gia thị trường, đồng thời cũng kiểm tra, kiểm soát, xử lý vi
phạm của chính các cơ quan và các cán bộ, công chức quản lý kinh tế của Nhà nước.
3. HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
3.1. Khái quát những thành công và hạn chế của quản lý nhà nước về kinh tế
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
3.1.1. Những thành công chính
Trong công cuộc đổi mới, Nhà nước ta đã phát huy vai trò, trách nhiệm trong quản lý
kinh tế - xã hội, tiến hành đổi mới toàn diện và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đưa
nước ta ra khỏi nước có thu nhập thấp, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, hoàn thiện cơ chế,
chính sách quản lý kinh tế vĩ mô và điều hành, xử lý các tình huống hết sức phức tạp có kết
quả tốt. Nhà nước đã đổi mới hệ thống kinh tế nhà nước, đổi mới hệ thống tổ chức bộ máy
quản lý nhà nước về kinh tế, đổi mới và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà
nước về kinh tế phù hợp với cơ chế mới....
Có thể khái quát những thành công chính như sau:
Thứ nhất, xây dựng hệ thống pháp luật, chính sách phù hợp, tạo điều kiện, môi trường
thuận lợi cho nền kinh tế thị trường phát triển.
Trong những năm qua nhiều văn bản pháp luật và dưới luật đã được ban hành, ngày
càng phù hợp với cơ chế thị trường và chuẩn mực quốc tế: Luật Đầu tư nước ngoài (1987),
Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân (1990), Luật Doanh nghiệp nhà nước (1995) và
Luật Hợp tác xã (1996) đã tạo khung khổ pháp luật cơ bản cho các loại hình doanh nghiệp
trong nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động, hạn chế từng bươc sự can thiệp của Nhà nước
vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp (chung) (2005),
Luật đầu tư (chung), thay thế cho Luật đầu tư nước ngoài và Luật khuyến khích đầu tư trong
nước, có hiệu lực từ 1/7/2006, đã tạo một “sân chơi” bình đẳng, tạo môi trường kinh doanh
thuận lợi cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Hàng loạt các văn bản pháp luật đó được

5
ban hành và kịp thời bổ sung, điều chỉnh phù hợp với luật pháp quốc tế đó tạo ra môi trường
kinh doanh mới, phù hợp. Hàng loạt các văn bản pháp luật liên quan đến các hoạt động của
doanh nghiệp như: quyền sở hữu tài sản, quyền và nghĩa vụ huy động và sử dụng các nguồn
lực; quan hệ giữa các chủ thể; các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh; thể thức hoạt động
của doanh nghiệp... cũng lần lượt được ban hành, hoàn thiện đã góp phần quan trọng vào việc
tạo lập môi trường kinh doanh và phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần ở nước ta.
Đồng thời, chủ trương “bình đẳng giữa các thành phần kinh tế” từng bước được thực hiện
trong thực tế đã góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Khung khổ pháp luật mới đã tạo dựng hành lang pháp lý cho việc thực hiện quyền tự do
kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế thị trường. Tất cả những yếu tố đó đã tạo điều
kiện cho các thành phần kinh tế ngoài nhà nước phát triển mạnh, nhân dân mạnh dạn bỏ vốn
kinh doanh, đầu tư phát triển kinh tế của toàn xã hội ngày càng tăng lên. Liên tục từ năm 2004
đến 2010 tổng đầu tư toàn xã hội luôn đạt trên 40 % GDP.
Số lao động làm việc trong khu vực kinh tế nhà nước những năm qua cũng giảm dần
về tỷ trọng, năm 2000 lao động trong khu vực kinh tế nhà nước chiếm 11,7 %, năm 2010 còn
10,4 %, trong khi lao động trong khu vực kinh tế ngoài nhà nước vẫn giữ tỷ trọng 86 - 87 %,
lao động trong khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng từ 1% năm 2000 lên 3,5% năm
2010. Mỗi năm ở Việt Nam tăng thêm khoảng 1 triệu lao động mới, chủ yếu được thu hút vào
khu vực kinh tế ngoài nhà nước.
  Thứ hai, đã phát huy vai trò tích cực của các chủ thể kinh tế.
Cùng với quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các
doanh nghiệp nhà nước đã được đổi mới mạnh mẽ theo hướng tách bạch rõ hơn quyền đại
diện chủ sở hữu của nhà nước với quyền quản lý kinh doanh của doanh nghiệp. Nhà nước
không can thiệp bằng hành chính vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, từng bước xoá
bỏ chế độ cơ quan chủ quản, đẩy mạnh cổ phần hoá và đa dạng hoá sở hữu các doanh nghiệp
nhà nước.
Các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài nhà nước, đặc biệt là doanh
nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã và đang đóng góp tích cực vào sự
phát triển kinh tế của đất nước. Hiện nay tốc độ tăng trưởng của kinh tế tư nhân đang dẫn đầu,
thành phần kinh tế này đã đóng góp hơn 40% cho tổng sản phẩm trong nước, tạo ra nhiều việc
làm cho người lao động, góp phần giữ vững ổn định xã hội.
Các tổ chức xã hội nghề nghiệp không ngừng phát triển và ngày càng phát huy vai trò
quan trọng của mình trong nền kinh tế, tham gia điều chỉnh các chủ thể kinh tế hoạt động
trong tổ chức, tham gia tích cực vào hoạt động cung cấp dịch vụ công và thay thế các cơ quan
nhà nước trong việc đảm bảo một số dịch vụ công cộng có hiệu quả.
Bộ máy quản lý nhà nước đã và đang được điều chỉnh theo hướng tinh giản, chức năng
quản lý nhà nước về kinh tế cũng được nhận thức lại đúng đắn hơn, đổi mới cả trong nhận
thức và thực hiện phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà
nước về kinh tế cũng đã từng bước được xây dựng lại, nâng cao hơn về chất lượng, về trình
độ, năng lực và phẩm chất.
Thứ ba, cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa đã
hình thành, phát huy tác dụng.
Những năm qua, cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường ở nước ta đã có những bước
chuyển đổi rất căn bản, cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được xác lập, vận
hành và phát huy tác dụng, đang từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển ngày càng cao của nền
kinh tế. Việt Nam là một trong số các quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và liên tục

6
nhiều năm, ngay trong năm 2009, thời kỳ khủng hoảng kinh tế thế giới rất nặng nề, Việt Nam
vẫn đạt tốc độ tăng trưởng 5,2 %.
Thứ tư, hệ thống thị trường ngày càng phát triển, hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng.
Hệ thống thị trường ở nước ta đã và đang phát triển ngày càng cao hơn so với những
năm trước đây cả về quy mô cũng như tính đồng bộ của thị trường. Thị trường trong nước
thống nhất, gắn với thị trường thế giới.
Quá trình tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã mang lại
những kết quả quan trọng, trong đó phải kể đến hoạt động xuất khẩu và thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài. Hơn hai mươi năm qua kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam có tốc độ tăng
trưởng cao, liên tục nhiều năm. Cơ cấu hoạt động ngoại thương cũng đã thay đổi theo hướng
tích cực hơn.
Năm 2005, Việt Nam có 7 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, năm
2006 đã có 9 mặt hàng, năm 2007 có 10 mặt hàng, năm 2008 có 11, năm 2010 có 16, năm
2011 có 23 mặt hàng, trong đó có 14 mặt hàng xuất khẩu đạt trên 2 tỷ USD. Một số sản phẩm
xuất khẩu của Việt Nam có thứ hạng cao so với thế giới.
Mức độ hội nhập về thương mại quốc tế của Việt Nam còn thể hiện ở vị thế tương
quan các nhóm khách hàng mà Việt Nam có quan hệ. Từ chỗ 80% kim ngạch buôn bán được
thực hiện với các nước xã hội chủ nghĩa cũ, Việt Nam đã nhanh chóng mở rộng quan hệ với
nhiều nước thuộc nhiều chế độ chính trị khác nhau theo nguyên tắc cùng có lợi và tôn trọng
độc lập tự chủ của nhau. Sau khi Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực, quan
hệ thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã tăng lên nhanh chóng, Hoa Kỳ trở thành thị trường xuất
khẩu lớn nhất của Việt Nam. Ngoài các đối tác chủ lực, Việt Nam tiếp tục khai thác và giữ thị
trường truyền thống ở Liên bang Nga, các nước SNG, các nước Đông Âu...,tích cực xúc tiến
mở cửa thị trường châu Phi, các nước Mỹ La tinh.
Do những qui định thông thoáng, sau khi Luật Đầu tư nước ngoài ra đời, lượng đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam đã không ngừng tăng lên qua các năm, đóng góp quan trọng vào sự
tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Cùng với việc mở cửa thị trường đầu tư trực tiếp, quá trình
hội nhập của kinh tế Việt Nam còn thể hiện thu hút ngày càng nhiều hơn các hình thức ODA.
Nguồn vốn ODA đã hỗ trợ Việt Nam phát triển kết cấu hạ tầng, giao thông vận tải, giáo dục,
môi trường và nâng cao chất lượng sống của dân cư. Nhiều dự án ODA góp phần chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, tạo điều kiện phát triển bền vững cũng như nâng cao năng lực quản lý của đất
nước.
3.1.2. Những hạn chế, yếu kém
Có thể khẳng định mọi thành công của nền kinh tế đều là kết quả lãnh đạo đúng đắn
của Đảng, quản lý của Nhà nước, mọi hạn chế, yếu kém của nền kinh tế cũng do những hạn
chế, bất cập trong lãnh đạo của Đảng, trong quản lý của Nhà nước. Đảng ta cũng nhận thức
rất rõ vấn đề đó. Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng
định: "Tư duy phát triển kinh tế -xã hội và phương thức lãnh đạo của Đảng chậm đổi mới,
chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển đất nước; bệnh thành tích còn nặng; hệ thống pháp luật
còn nhiều bất cập, việc thực thi chưa nghiêm, quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém; tổ chức
bộ máy cồng kềnh, một bộ phận cán bộ, công chức yếu cả về năng lực và phẩm chất”1.
Có thể khái quát những hạn chế, yếu kém trong quản lý nhà nước về kinh tế ở nước
trên một số nội dung sau:
Thứ nhất, quản lý nhà nước chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ mới, chưa phát
huy đầy đủ những mặt tích cực và hạn chế tính tự phát, tiêu cực của kinh tế thị trường. Chưa

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.94

7
giải quyết tốt mối quan hệ nhà nước – thị trường – doanh nghiệp. Quản lý nhà nước chưa trở
thành nhân tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Nếu đi sâu phân tích mỗi loại thị trường đều thấy
rất rõ sự phát triển thiếu đồng bộ, yếu kém, thị trường còn tiềm ẩn quá nhiều bất trắc như: thị
trường bất động sản, thị trường sức lao động, thị trường tài chính…. Nhận thức, quan điểm
của chúng ta về phát triển các loại thị trường cũng rất thận trọng, thị trường bất động sản, thị
trường sức lao động, những năm gần đây mới chính thức được thừa nhận. Hàng hóa xuất khẩu
của Việt Nam vẫn nặng về nguyên liệu thô, sơ chế và hàng gia công nên giá trị gia tăng thu từ
xuất khẩu chưa cao. Năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp.
Thực tế cho thấy, thị trường càng non yếu, ở trình độ phát triển càng thấp, càng nhiều rủi ro,
bất trắc, thậm chí còn chứa đựng cả những yếu tố “dã man, tàn bạo” của thị trường.
Thứ hai, hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách chưa đồng bộ và thiếu nhất quán, thực
hiện chưa nghiêm. Hệ thống luật pháp chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, nhiều văn bản pháp luật quan trọng còn
thiếu hoặc chưa đầy đủ, đặc biệt là hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến đất đai, đến điều
chỉnh hành vi cạnh tranh của các doanh nghiệp. Ý thức chấp hành pháp luật, văn hóa pháp
luật của công dân và tổ chức rất yếu kém. Kết cấu hạ tầng còn quá yếu kém, chưa đáp ứng
được yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường cũng như sự phát triển của đất nước. Văn
kiện Đại hội XI của Đảng đã nêu: “Hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập, việc thực thi chưa
nghiêm; quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém’’.
Thứ ba, cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa đã
hình thành nhưng chưa đồng bộ, quản lý các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, giá cả, kế hoạch
hóa, thương mại, phân phối thu nhập, đất đai, vốn và tài sản nhà nước chưa tốt và chậm đổi
mới, tiêu cực, tham nhũng, lãng phí còn lớn và ngày càng phức tạp.
Có thể thấy rõ ảnh hưởng của cơ chế quản lý cũ còn tồn tại và tái hiện dưới các hình
thức khác nhau khá nặng. Sự tham gia giám sát của các cơ quan dân cử, của các tổ chức chính
trị - xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp, của cộng đồng và nhân dân về hoạt động quản lý
nhà nước còn nhiều bất cập. Nhiều lúc Nhà nước còn can thiệp sâu vào các hoạt động của thị
trường, của doanh nghiệp. Trong khi đó, nhiều chức năng chính của nhà nước lại thực hiện
chưa tốt. Cung cấp hàng hoá và dịch vụ công còn thiếu và yếu, kiểm tra, kiểm soát, xử lý vi
phạm chưa nghiêm. Hội nghị TW6 (khóa X) cũng đã nhấn mạnh: “Vai trò tham gia hoạch
định chính sách, thực hiện và giám sát thực hiện chính sách của các cơ quan dân cử, Mặt trận
Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp còn yếu.”
Thứ tư, tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế còn nặng nề và còn nhiều vướng
mắc; tình trạng quan liêu, phân tán cục bộ, vô cảm với dân còn nghiêm trọng; đội ngũ cán bộ,
công chức quản lý nhà nước về kinh tế đông nhưng không mạnh, tình trạng  không làm tốt
chức trách của mình khá phổ biến, hiện tượng tham nhũng, tiêu cực có xu hướng ngày càng
tăng và phức tạp. Chất lượng nguồn nhân lực thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của
đất nước. Từ Hội nghị TW 6 Khóa X Đảng ta đã nhấn mạnh: “Vấn đề sở hữu, quản lý và phân
phối trong các doanh nghiệp nhà nước chưa giải quyết tốt…,Doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế khác còn bị phân biệt đối xử…,Cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành của bộ máy nhà
nước còn nhiều bất cập, hiệu lực, hiệu quả quản lý còn thấp. Cải cách hành chính chưa đạt
được mục tiêu, yêu cầu đề ra. Tệ tham nhũng, quan liêu, lãng phí vẫn nghiêm trọng ”.
Thứ năm, quản lý tài sản công nói chung, quản lý các tập đoàn, tổng công ty nhà nước
và các doanh nghiệp nhà nước nói riêng còn quá nhiều bất cập, thậm chí yếu kém, gây lãng
phí, thất thoát rất lớn, để lại những hậu quả rất nặng nề về kinh tế và xã hội.
Đại hội XI của Đảng cũng đã khẳng định: “Thể chế kinh tế thị trường, chất lượng
nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển”. Tất cả những
hạn chế, yếu kém đó đang làm suy giảm nghiêm trọng lòng tin của nhân dân vào Đảng, vào
Nhà nước, vào chế độ, thậm chí đe dọa sự tồn vong của chế độ.

8
Nguyên nhân của những hạn chế trên đây có nhiều, trong đó có cả những nguyên
nhân khách quan như: nước ta đang trong quá trình đổi mới phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là công việc mới mẻ, chưa từng có tiền lệ trong lịch sử, nhưng
chủ yếu do các nguyên nhân chủ quan. Đại hội XI của Đảng đã nêu các nguyên nhân hạn chế,
yếu kém sau đây:
- Tư duy phát triển kinh tế - xã hội và phương thức lãnh đạo của Đảng chậm đổi mới
- Bệnh thành tích còn nặng
- Hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập, thực thi chưa nghiêm
- Quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém
- Tổ chức bộ máy cồng kềnh, một bộ phận cán bộ, công chức yếu cả về năng lực và
phẩm chất
- Tổ chức thực hiện kém hiệu quả
- Chưa tạo được chuyển biến mạnh trong việc giải quyết những khâu đột phá, then
chốt và những vấn đề xã hội bức xúc
- Quyền làm chủ của nhân dân chưa được phát huy đầy đủ
- Kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm
- Tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng, chưa được đẩy lùi.
3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ THỰC HIỆN TỐT CÁC CHỨC NĂNG QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ KINH TẾ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY
3.2.1. Nhận thức lại các chức năng quản lý nhà nước về kinh tế, thực hiện tốt việc
phân công, phân cấp trong thực hiện các chức năng
- Tiếp tục nhận thức rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh tế trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phân biệt rõ và đặt trong mối quan hệ với các chức năng
của thị trường, chức năng của doanh nghiệp.
- Nhà nước tập trung thực hiện tốt các chức năng đã xác định, bảo đảm các điều kiện
cho toàn bộ nền kinh tế thị trường hoạt động thuận lợi.
- Nhà nước không can thiệp thô bạo bằng mệnh lệnh hành chính vào hoạt động của thị
trường và hoạt động của các doanh nghiệp.
- Phân công, phân cấp và phối hợp tốt việc thực hiện các chức năng của các cơ quan
quản lý nhà nước thuộc các ngành, các cấp từ trung ương đến cơ sở, gắn quyền hạn với trách
nhiệm, lợi ích...,hạn chế sự chồng chéo trong hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước về
kinh tế.
3.2.2. Xử lý tốt mối quan hệ giữa sự lãnh đạo của Đảng với quản lý Nhà nước về
kinh tế, giữa quản lý của Nhà nước với quản lý kinh doanh của doanh nghiệp
- Cần nhận thức và phân biệt rõ chức năng lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý
nhà nước về kinh tế. Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định: “Đảng
lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng
công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động
gương mẫu của đảng viên”. Đảng lãnh đạo kinh tế bằng đường lối, chính sách, bằng phương
pháp giáo dục, thuyết phục, nêu gương...,còn Nhà nước thể chế hóa đường lối, chính sách của
Đảng thành pháp luật, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng và thực hiện thể chế
mới về kinh tế, tiến hành quản lý, điều hành nền kinh tế bằng tổng hợp các phương pháp quản
lý, trong đó có cả những biện pháp gián tiếp, khuyến khích sự tự nguyện, tự giác, kết hợp với
những biện pháp bắt buộc, cưỡng chế. Thông qua Nhà nước, Đảng đưa đường lối, chính sách
của Đảng vào cuộc sống. Đảng phải tăng cường lãnh đạo Nhà nước nhưng không làm thay
Nhà nước mà tạo điều kiện để phát huy tính chủ động và nâng cao hiệu quả quản lý, điều
hành của Nhà nước.

9
- Nhà nước có chức năng và trách nhiệm quản lý đối với tất cả các doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế, không can thiệp trực tiếp vào hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp. Riêng đối với doanh nghiệp có vốn của Nhà nước, tùy theo sự phân cấp và ủy quyền
của Chính phủ mà các Bộ, cơ quan Chính phủ và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố có
trách nhiệm đại diện chủ sở hữu Nhà nước đối với các doanh nghiệp trên một số chức năng
nhất định nhưng phải tôn trọng quyền tự chủ, tự do kinh doanh của doanh nghiệp, không can
thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- Tiếp tục hoàn thiện khung khổ pháp luật và thực thi pháp luật, nhất là những vấn đề
liên quan đến sở hữu, quyền tự do kinh doanh, liên quan đến cạnh tranh của các doanh
nghiệp...,cần được thể hiện rõ trong luật. Sớm hoàn chỉnh pháp luật và những quy định về sử
dụng đất đai, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, ngăn chặn
và chấm dứt tình trạng sử dụng lãng phí, thất thoát, tiêu cực, tham nhũng trong lĩnh vực này.
Việc thực thi pháp luật phải thật kiên quyết và nghiêm minh, cả trên phương diện chấp hành
pháp luật và kiểm tra, kiểm soát, xử lý sai phạm, bảo vệ pháp luật, nâng cao văn hóa pháp luật
của mỗi tổ chức và của từng người dân.
3.2.3. Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý nhà nước về kinh tế
Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản của quản lý nhà nước về kinh tế, hiện nay
nguyên tắc này được thể hiện trên hai nội dung chủ yếu sau đây:
- Nâng cao hiệu lực quản lý thống nhất của Nhà nước trung ương đi đôi với phân cấp
quản lý cho địa phương. Để thực hiện nguyên tắc này, Nhà nước trung ương tập trung quản lý
ở tầm chiến lược, tầm vĩ mô bao gồm việc hoạch định chiến lược, chính sách quốc gia,
chương trình, quy hoạch, kế hoạch, các chính sách kinh tế lớn có tác dụng chung cho toàn bộ
nền kinh tế, coi trọng phát triển kinh tế vùng.
- Tăng cường phối hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ. Các ngành trung ương có
trách nhiệm quản lý theo ngành trên phạm vi cả nước bao gồm tất cả các thành phần kinh tế,
chính quyền địa phương có trách nhiệm quản lý toàn bộ hoạt động kinh tế - xã hội trên phạm
vi lãnh thổ, kể cả kiểm tra kiểm soát việc chấp hành pháp luật đối với các cơ quan và tổ chức
thuộc ngành Trung ương hoạt động trên địa bàn lãnh thổ, đảm bảo sự phối hợp có hiệu quả và
thông suốt.
3.2.4. Tập trung mọi nguồn lực thực hiện tốt ba khâu đột phá chiến lược: xây dựng
hệ thống kết cấu hạ tầng; hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
- Đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm đã được Đại hội XI của Đảng xác định,
nhằm trực tiếp giải quyết ba điểm nghẽn, cản trở sự phát triển kinh tế của đất nước.
- Để thực hiện được những nội dung này đòi hỏi nhiều biện pháp cụ thể, đồng bộ, liên
quan đến tấc cả các cấp, các ngành trong hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế. Trước
mắt cần tập trung nguồn lực phát triển nâng cấp một bước quan trọng hệ thống giao thông
trọng điểm của quốc gia bao gồm cả đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không...
- Sắp xếp và chấn chỉnh tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế, đảm bảo cho bộ
máy tinh gọn, đủ khả năng quản lý và xử lý tốt các vấn đề nẩy sinh trong nền kinh tế thị
trường, tập trung vào quản lý kinh tế vĩ mô, xóa bỏ chế độ chủ quản đối với doanh nghiệp nhà
nước.
- Cải cách thủ tục hành chính cả về quy chế và tổ chức thực hiện, giảm đến mức tối đa
các thủ tục hành chính và tình trạng quan liêu, phiền hà đối với nhân dân và các doanh
nghiệp. Cải cách nền hành chính là yêu cầu của nhiều quốc gia, nhưng đối với nước ta hiện
nay đây là một nhiệm vụ hết sức cấp bách nhằm xây dựng một Nhà nước thực sự của dân, do
dân, vì dân, có khả năng quản lý nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế
thị trường và hội nhập quốc tế.

10
- Nâng cao một bước chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, tiến tới cải cách toàn diện,
triệt để hệ thống giáo dục, đào tạo theo hướng hiện đại đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế

11
3.2.5. Tiếp tục đẩy mạnh quá trình sắp xếp, cổ phần hoá và đổi mới doanh nghiệp
nhà nước, trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước
Nhà nước một mặt phải đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh và tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận và sử dụng các nguồn lực trong kinh doanh có hiệu
quả, mặt khác với tư cách là đại diện chủ sở hữu, Nhà nước phải tập trung cao độ và quyết liệt
cho việc sắp xếp lại, cổ phần hóa, nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà
nước mà trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, các ngân hàng thương mại của nhà
nước.
Thay đổi nhận thức, quan niệm về doanh nghiệp tư nhân và giới doanh nhân, tạo các
điều kiện, cơ hội thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tiếp cận các
nguồn lực để phát triển kinh doanh, không phân biệt đối xử với các thành phần kinh tế trên
thực tế, xoá bỏ hình thức cơ quan chủ quản.
3.2.6. Hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế, xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức quản lý nhà nước về kinh tế, kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng
Quan liêu, tham nhũng, lãng phí đi liền với nhau, là căn bệnh vốn có của nhà nước nói
chung. Riêng ở nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao
cấp chưa hoàn toàn bị xóa bỏ, cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước ra đời chưa đồng
bộ là điều kiện tốt cho tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí phát triển, vừa cản trở sự phát triển
của đất nước, vừa làm mất uy tín và làm suy yếu hiệu lực quản lý của nhà nước. Đấu tranh
xóa bỏ quan liêu, tham nhũng phải gắn liền với hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước và xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh tế. Đây là nhiệm vụ vừa cơ bản, lâu
dài, vừa là nhiệm vụ to lớn, rất cấp bách trước mắt của toàn Đảng, toàn dân ta. Văn kiện Đại
hội XI của Đảng đã nhấn mạnh: “Thực hiện kiên trì, kiên quyết, có hiệu quả cuộc đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ rất quan trọng, vừa cấp bách, vừa lâu dài của
công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước.
Phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân trong hoạt động kinh tế và tham gia
quản lý kinh tế, trong việc phát hiện, tố cáo, đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng.

CÂU HỎI:
1. Phân tích sự khác nhau trong vai trò là bộ máy hành chính và vai trò là đại diện chủ
sở hữu đối với tài sản công trong quản lý nhà nước về kinh tế hiện nay của Việt Nam.
2. Phân tích các chức năng chủ yếu của quản lý nhà nước về kinh tế trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

12

You might also like