You are on page 1of 18

TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG ĐOÀN

BÁO CÁO TỐT NGHIỆP

ĐỀ TÀI: VAI TRÒ CỦA TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN TRONG VIỆC


ĐẠI DIỆN BẢO VỆ QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP, CHÍNH ĐÁNG
CỦA ĐOÀN VIÊN VÀ NGƯỜI LAO ĐỘNG

Học viên: Trần Vũ Minh Hương


Lớp: Lý luận và nghiệp vụ Công đoàn K260
Đơn vị công tác: LĐLĐ quận Gò Vấp,
TP. Hồ Chí Minh

TP. Hồ Chí Minh, tháng 02/2023


MỤC LỤC

2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

- Người lao động: NLĐ


- Đoàn viên công đoàn: ĐVCĐ
- Thỏa ước lao động tập thể: TƯLĐTT

3
MỞ ĐẦU:

1. Tính cấp thiết của đề tài


Điều lệ Công đoàn Việt Nam quy định, Công đoàn Việt Nam (nay là
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của
giai cấp công nhân, cán bộ, công chức, viên chức, công nhân và những người lao
động khác (gọi chung là người lao động) tự nguyện lập ra nhằm mục đích tập
hợp, đoàn kết lực lượng, xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam lớn mạnh.
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam có chức năng: đại diện bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý
Nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt
động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp; tuyên truyền, vận
động người lao động học tập nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành
pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa…
Nhìn chung, trong thời gian qua, phong trào công nhân và hoạt động công
đoàn Việt Nam đạt được những kết quả quan trọng. Công đoàn các cấp đã chú
trọng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, thực hiện tốt vai trò đại diện,
chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; đẩy
mạnh công tác tuyên truyền, vận động; phát động rộng rãi các phong trào thi đua
yêu nước, khơi dậy động lực của người lao động, góp phần tăng năng suất lao
động, phát triển kinh tế - xã hội; tích cực tham gia xây dựng chính sách, pháp
luật, giám sát và phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh; làm tốt vai trò cầu nối giữa Đảng, Nhà
nước với người lao động…
Trong bối cảnh hiện nay, để tổ chức công đoàn thực sự là sự là một tổ
chức chính trị - xã hội rộng lớn, tổ chức đại diện và bảo vệ quyền lợi cho người
lao động đòi hỏi tổ chức công đoàn không ngừng đổi mới, thay đổi nội dung và
phương thức hoạt động, chuyển biến tư duy và nhận thức cho phù hợp với vai
trò lịch sử của tổ chức công đoàn trong giai đoạn mới - đặc biệt khi các Hiệp
định thương mại tự do đã và sẽ có hiệu lực trong thời gian tới.
Căn cứ vào cơ sở thực tiễn được đề cập phía trên, tác giả lựa chọn đề tài
nghiên cứu: “Vai trò của tổ chức Công đoàn trong việc đại diện bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên và người lao động”.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đánh giá đúng thực trạng thực hiện vai trò của tổ chức công đoàn trong
việc đại diện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên và người
lao động. Làm cơ sở khoa học để đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
đại diện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên và người lao
động.
3. Nhiệm vụ của đề tài
Đề tài tìm ra giải pháp nâng cao vai trò của tổ chức Công đoàn trong việc
đại diện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên và người lao
động.

4
NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VAI TRÒ CỦA TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN

1.1. Cơ sở lý luận về việc xác định vai trò của tổ chức Công đoàn
trong việc đại diện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn
viên và người lao động:
“Tổ chức công hội trước là để cho công nhân đi lại với nhau cho có cảm
tình; hai là để nghiên cứu với nhau; ba là để sửa sang cách sinh hoạt của công
nhân cho khá hơn bây giờ; bốn là để giữ gìn lợi quyền cho công nhân; nǎm là để
giúp cho quốc dân, giúp cho thế giới” (Đường Kách mệnh - Hồ Chí Minh).
Ngày 28 tháng 7 năm 1929, Hội nghị đại biểu Công hội Đỏ Bắc Kỳ lần thứ nhất
họp tại trụ sở của Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ (số 15 Hàng Nón, Hà Nội). Hội
nghị đã nhất trí thông qua chương trình, điều lệ và phương hướng hoạt động của
Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ và bầu ra Ban Chấp hành lâm thời do đồng chí
Nguyễn Đức Cảnh phụ trách. Đại hội quyết định xuất bản Báo Lao động làm cơ
quan thông tin, tuyên truyền và tạp chí “Công hội Đỏ” làm cơ quan lý luận
truyền bá quan điểm, chủ trương của Công hội Đỏ trong giai cấp công nhân
(Năm 1983, Đại hội V Công đoàn Việt Nam quyết định lấy ngày 28/7/1929 làm
ngày thành lập Công đoàn Việt Nam).
Có thể nói, Công đoàn Việt Nam là tổ chức có địa vị pháp lý sớm nhất khi
nhà nước dân chủ được thành lập chưa đầy 2 năm. Ngày 02/3/1947 Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 29 về quyền của những người làm công tương tự
như Luật lao động ngày nay và đã dành một chương với 22 điều quy định người
lao động có quyền có tổ chức công đoàn để bảo vệ quyền lợi của mình, công
đoàn có tư cách pháp nhân. Sau đó, ngày 05/11/1957 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
ký Sắc lệnh số 108 ban hành Luật công đoàn do Quốc hội Khóa I thông qua.
Đây là chỗ dựa pháp lý đầu tiên để phát huy vai trò của tổ chức Công đoàn trong
chế độ mới, mà sau đó được văn kiện cơ bản của Đảng và của Nhà nước (Hiến
pháp, Bộ luật Lao động, Luật Công đoàn mới) kế tục và phát triển.
Tại Điều 10, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công đoàn Việt Nam là tổ
chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động được thành
lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước,
quản lý kinh tế - xã hội; tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ
quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến
quyền, nghĩa vụ của người lao động; tuyên truyền, vận động người lao động học
tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc”. Trải qua nhiều lần tổ chức lấy ý kiến góp ý từ nhiều cấp và
thực hiện việc sửa đổi, bổ sung thì Hiến pháp Việt Nam vẫn luôn ghi nhận vị trí,
vai trò của tổ chức Công đoàn Việt Nam, đặc biệt là chức năng chăm lo vào bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động.

5
Trải qua nhiều thăng trầm lịch sử, song dù ở bất kỳ hoàn cảnh, thời kỳ nào
của đất nước, Công đoàn Việt Nam luôn thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ
“đại diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính
đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội;
tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức,
đơn vị, doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người
lao động; tuyên truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ
năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Trong
tình hình hiện nay, khi nền kinh tế hội nhập quốc tế, các doanh nghiệp ngày
càng mở rộng và phát triển, mối quan hệ lao động giữa chủ và thợ ngày càng trở
lên gay gắt và phức tạp. Trước trách nhiệm với người lao động, nhiệm vụ của tổ
chức Công đoàn không thể dàn trải như giai đoạn đầu của nền kinh tế thị trường
mà phải tập trung vào những nhiệm vụ trọng tâm nhất nhằm xây dựng mối quan
hệ lao động hài hoà trong doanh nghiệp. Vì vậy lúc này chức năng đại diện, bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động phải được đặt lên
hàng đầu và được coi là chức năng trung tâm, chức năng quan trọng nhất trong
ba chức năng của tổ chức Công đoàn.
1.2. Quyền và trách nhiệm của tổ chức Công đoàn trong việc đại diện
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động
Điều 10 Mục 1 Luật Công đoàn năm 2012 quy định về Quyền và trách
nhiệm của Công đoàn trong việc đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của người lao động và Nghị định 43/2013/NĐ-CP quy định chi tiết
thi hành Điều 10 của Luật Công đoàn năm 2012, Công đoàn có quyền và trách
nhiệm cụ thể như sau:
1.2.1. Hướng dẫn, tư vấn cho NLĐ về quyền, nghĩa vụ của NLĐ khi
giao kết, thực hiện hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc với đơn vị sử dụng
lao động.
Công đoàn cơ sở tại đơn vị sử dụng lao động có quyền, trách nhiệm
hướng dẫn, tư vấn cho NLĐ về các vấn đề:
- Hình thức, nguyên tắc, loại hợp đồng, nội dung hợp đồng, quyền và
nghĩa vụ của các bên về cung cấp thong tin, thời gian thử việc, thời gian tập sự
và những vấn đề liên quan khi giao kết hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc.
- Nghĩa vụ thực hiện công việc theo hợp đồng, trình tự, thủ tục, quyền và
nghĩa vụ của các bên trong trường hợp chuyển người lao động làm công việc
khác, các trường hợp tạm hoãn, nhận lại người lao động hết thời gian tạm hoãn
thực hiện hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc;
- Trình tự, thủ tục và các chế độ, chính sách đối với người lao động khi
phát sinh sửa đổi, bổ sung, chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc.
1.2.2. Đại diện cho tập thể NLĐ thương lượng, ký kết và giám sát việc
thực hiện TƯLĐTT.

6
Công đoàn cơ sở tại doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức sử dụng lao động làm
việc theo hợp đồng lao động có quyền, trách nhiệm sau đây:
- Thu thập thông tin, tập hợp kiến nghị, đề xuất nội dung có liên quan đến
lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; yêu cầu người sử dụng lao
động thương lượng tập thể trong doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức;
- Đại diện tập thể người lao động thương lượng, ký kết thỏa ước lao động
tập thể; sửa đổi, bổ sung, kéo dài thời hạn của thỏa ước lao động tập thể theo
quy định của pháp luật về lao động;
- Phổ biến thỏa ước lao động tập thể đến người lao động; giám sát thực
hiện thỏa ước lao động tập thể trong doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức; yêu cầu
người sử dụng lao động thi hành đúng thỏa ước lao động tập thể; yêu cầu giải
quyết tranh chấp lao động tập thể khi người sử dụng lao động thực hiện không
đầy đủ hoặc vi phạm thỏa ước lao động tập thể theo quy định của pháp luật về
lao động. (Điều 4 Nghị định 43/2013/NĐ-CP).
1.2.3. Tham gia với đơn vị sử dụng lao động xây dựng và giám sát việc
thực hiện thang, bảng lương, định mức lao động, quy chế trả lương, quy chế
thưởng, nội quy lao động.
Để thực hiện quyền và trách nhiệm trên, điều 5 Nghị định 43/2013/NĐ-
CP quy đinh: Công đoàn cơ sở tại đơn vị sử dụng lao động có quyền, trách
nhiệm sau:
- Tổ chức lấy ý kiến, tổng hợp ý kiến của người lao động, tham gia bằng
văn bản với người sử dụng lao động trong việc xây dựng, ban hành, sửa đổi, bổ
sung thang lương, bảng lương, định mức lao động, quy chế trả lương, quy chế
thưởng, nội quy lao động theo quy định của pháp luật về lao động;
- Tổ chức giám sát việc thực hiện thang lương, bảng lương, định mức lao
động, quy chế trả lương, quy chế thưởng, nội quy lao động; kiến nghị với người
sử dụng lao động nội dung sửa đổi, bổ sung thang lương, bảng lương, định mức
lao động, quy chế trả lương, quy chế thưởng, nội quy lao động.
1.2.4. Đối thoại với đơn vị sử dụng lao động để giải quyết các vấn đề
liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của NLĐ.
Công đoàn cơ sở tại đơn vị sử dụng lao động có quyền, trách nhiệm sau:
- Thu thập thông tin, tập hợp kiến nghị, đề xuất nội dung có liên quan đến
lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; yêu cầu người sử dụng lao
động tổ chức đối thoại tại nơi làm việc theo quy định của pháp luật về lao động;
- Tiến hành đối thoại định kỳ hoặc đột xuất với người sử dụng lao động;
phối hợp cùng người sử dụng lao động tổchức Hội nghị người lao động, Hội
nghị cán bộ công chức theo quy định của pháp luật;
- Giám sát việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị người lao động, Nghị
quyết Hội nghị cán bộ công chức, các thỏa thuận đạt được qua đối thoại tại nơi
làm việc và quy chế dân chủ ở cơ sở theo quy định của pháp luật.
7
1.2.5. Tổ chức hoạt động tư vấn pháp luật cho NLĐ.
Công đoàn các cấp có quyền, trách nhiệm tổ chức hoạt động tư vấn cho
người lao động các nội dung quy định của pháp luật về lao động, pháp luật về
công chức, viên chức, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, công đoàn và pháp luật
khác có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động
thông qua hoạt động của các cấp công đoàn.
1.2.6. Tham gia với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết
tranh chấp lao động
- Công đoàn cơ sở có quyền yêu cầu bằng văn bản đối với cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động bảo đảm đúng trình
tự, thủ tục theo quy định của pháp luật.
- Công đoàn cơ sở có trách nhiệm sau đây:
+ Hướng dẫn, hỗ trợ người lao động giải quyết tranh chấp lao động cá
nhân khi người lao động yêu cầu; đại diện cho người lao động tham gia quá
trình giải quyết tranh chấp lao động cá nhân khi được người lao động ủy quyền;
+ Tham gia phiên họp giải quyết tranh chấp lao động cá nhân của hòa giải
viên lao động theo yêu cầu.
- Công đoàn cấp trên có trách nhiệm sau đây:
+ Tham gia với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc giải
quyết tranh chấp lao động tập thể theo quy định của pháp luật về lao động;
+ Hỗ trợ công đoàn cơ sở hướng dẫn, hỗ trợ người lao động giải quyết
tranh chấp lao động cá nhân khi người lao động yêu cầu; đại diện cho người lao
động tham gia quá trình giải quyết tranh chấp lao động cá nhân khi được người
lao động ủy quyền;
+ Tham gia phiên họp giải quyết tranh chấp lao động cá nhân của hòa giải
viên lao động theo yêu cầu.
1.2.7. Kiến nghị với tổ chức, cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét,
giải quyết khi quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của tập thể NLĐ hoặc của
NLĐ bị xâm phạm.
- Công đoàn cơ sở tại doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức sử dụng lao động
làm việc theo hợp đồng lao động có quyền, trách nhiệm sau đây:
+ Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và công đoàn cấp trên
xem xét, giải quyết khi quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của tập thể lao động
hoặc của người lao động bị xâm phạm;
+ Tiến hành thương lượng với người sử dụng lao động để giải quyết khi
quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của tập thể lao động bị xâm phạm theo yêu
cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và công đoàn cấp trên; thực hiện giải
quyết tranh chấp lao động tập thể theo quy định của pháp luật về lao động.

8
- Công đoàn cơ sở tại cơ quan, đơn vị hành chính, sự nghiệp có quyền,
trách nhiệm sau đây:
+ Kiến nghị với người đứng đầu cơ quan, đơn vị xem xét, giải quyết khi
quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của tập thể lao động hoặc của người lao
động bị xâm phạm;
+ Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và công đoàn cấp trên
xem xét, giải quyết khi không chấp nhận quyết định của người đứng đầu cơ
quan, đơn vị hoặc hết thời hạn quy định mà người đứng đầu cơ quan, đơn vị
chưa giải quyết yêu cầu về quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của tập thể lao
động.
1.2.8. Đại diện cho tập thể NLĐ khởi kiện tại Toà án khi quyền, lợi ích
hợp pháp, chính đáng của tập thể NLĐ bị xâm phạm; đại diện cho NLĐ khởi
kiện tại Toà án khi quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ bị xâm
phạm và được NLĐ uỷ quyền.
Công đoàn cơ sở tại đơn vị sử dụng lao động có quyền, trách nhiệm sau:
- Đại diện cho tập thể người lao động khởi kiện tại Tòa án khi quyền, lợi
ích hợp pháp, chính đáng của tập thể lao động bị xâm phạm theo quy định của
pháp luật;
- Đại diện cho người lao động khởi kiện ra Tòa án nếu được người lao
động ủy quyền để giải quyết tranh chấp lao động cá nhân theo quy định của
pháp luật.
1.2.9. Đại diện cho tập thể NLĐ tham gia tố tụng trong vụ án lao động,
hành chính, phá sản doanh nghiệp để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính
đáng của tập thể NLĐ và NLĐ.
Công đoàn cơ sở tại đơn vị sử dụng lao động có quyền, trách nhiệm sau:
- Đại diện cho tập thể người lao động tham gia tố tụng trong các vụ án lao
động, hành chính, phá sản theo quy định của pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp, chính đáng của tập thể người lao động;
- Đại diện cho người lao động tham gia tố tụng nếu được người lao động
ủy quyền để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động
trong các vụ án lao động, hành chính, phá sản theo quy định của pháp luật.
1.2.10. Tổ chức và lãnh đạo đình công theo quy định của pháp luật
Công đoàn cơ sở tại doanh nghiệp, cơ quan tổ chức sử dụng lao động làm
việc theo hợp đồng lao động có quyền, trách nhiệm sau đây:
- Lấy ý kiến của tập thể lao động để đình công theo quy định của pháp
luật về lao động;
- Ra quyết định đình công và thông báo thời điểm bắt đầu đình công;
- Rút quyết định đình công nếu chưa đình công;

9
- Tiến hành đình công theo quy định của pháp luật về lao động;
- Thực hiện quy định về không được đình công, hoãn, ngừng đình công
theo quy định của pháp luật về lao động;
- Yêu cầu Tòa án tuyên bố cuộc đình công là hợp pháp theo quy định của
pháp luật.

10
Chương 2: THỰC TIỄN VAI TRÒ CỦA CÔNG ĐOÀN TRONG VIỆC
BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CHÍNH ĐÁNG CỦA ĐOÀN
VIÊN, NGƯỜI LAO ĐỘNG HIỆN NAY

2.1. Trong việc kiểm tra, giám sát thi hành các quy định của pháp
luật lao động
Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng xuất phát từ chức năng bảo
vệ lợi ích người lao động. Khi tham gia, phối hợp thanh tra, kiểm tra, giám sát
việc thực hiện các chế độ, chính sách và pháp luật đối với người lao động, Công
đoàn có quyền: yêu cầu cơ quan, doanh nghiệp cung cấp thông tin, tài liệu và
giải trình những vấn đề có liên quan; Kiến nghị biện pháp sửa chữa thiếu sót,
ngăn ngừa vi phạm, khắc phục hậu quả và xử lý hành vi vi phạm pháp luật.
Thực tế cho thấy thông qua công tác kiểm tra, giám sát, các doanh nghiệp
về cơ bản đã có ý thức trong việc chấp hành pháp luật lao động, như việc ký kết
hợp đồng lao động, ký thoả ước lao động tập thể, tham gia bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động, thực hiện quy định về việc
áp dụng mức lương tối thiểu theo quy định của Nhà nước, lập bảng lương,
thưởng và chi trả, thực hiện chi trả cho người lao động đúng thời hạn…Công tác
an toàn vệ sinh lao động ở doanh nghiệp đã được quan tâm với việc thành lập
hội đồng bảo hộ lao động, xây dựng kế hoạch bảo hộ hàng năm và xây dựng
mạng lưới an toàn vệ sinh lao động…
Tuy nhiên công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật lao động cho người
lao động nhất là các doanh nghiệp mới thành lập, chủ sử dụng lao động chưa
thực sự quan tâm tới việc trang bị các kiến thức pháp luật cho người lao động
khi tham gia quan hệ lao động mà chủ yếu phổ biến các quy định về quy chế,
nội quy hoạt động của đơn vị, thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi, mức tiền
lương, tiền công thoả thuận khi người lao động vào làm việc…Do đó hầu hết
người lao động chưa nắm bắt hết được các quy định về quyền lợi và nghĩa vụ
của mình khi tham gia quan hệ lao động được quy định cụ thể trong Bộ luật Lao
động.
Trong công tác tuyển dụng lao động, nhiều doanh nghiệp lựa chọn
phương thức tuyển dụng lao động chưa có trình độ chuyên môn rồi tổ chức đào
tạo bằng hình thức kèm cặp tại chỗ để tiết kiệm chi phí trả lương và các nghĩa vụ
khác như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế…Việc báo cáo định kỳ tình hình sử
dụng lao động, chấm dứt hợp đồng lao động cho cơ quan quản lý nhà nước theo
quy định chưa được các doanh nghiệp, đơn vị chấp hành nghiêm túc. Người lao
động chưa gắn bó với doanh nghiệp do chạy theo quyền lợi trước mắt. Do đó,
dẫn đến việc một số doanh nghiệp làm sai quy định như việc thoả thuận thu tiền
“đặt cọc” khi ký hợp đồng lao động để giữ chân người lao động, nếu người lao
động đã được đào tạo tại doanh nghiệp mà tự ý bỏ việc thì không được lấy lại số
tiền đó…

11
Tình trạng làm thêm giờ liên tục, số giờ làm thêm quá 200 giờ/năm phổ
biến ở các doanh nghiệp sử dụng lao động thời vụ, lao động với hợp đồng ngắn.
Tình trạng nợ đọng, không đóng hoặc trốn đóng bảo hiểm xã hội còn diễn ra khá
phổ biến.
Về nội dung các hợp đồng lao động ở các doanh nghiệp, đặc biệt là các
doanh nghiệp ngoài nhà nước chưa đúng theo quy định của pháp luật, nhiều nội
dung hợp đồng còn để trống như chế độ nâng lương, bảo hiểm xã hội hoặc chỉ
ghi chung chung là theo quy chế của đơn vị, theo quy định của Nhà nước…
Riêng vấn đề tiền lương do các doanh nghiệp xác định đây là một biện pháp
cạnh tranh để thu hút và giữ chân người lao động có tay nghề, kinh nghiệm nên
các doanh nghiệp thực hiện khá tốt. Tuy nhiên ở một số doanh nghiệp, chủ yếu
là khối doanh nghiệp ngoài nhà nước, việc chi trả lương cho người lao động còn
thấp, không tương xứng với trình độ, tay nghề, công sức lao động và thu nhập
của doanh nghiệp.
Thông qua kiểm tra, giám sát, Công đoàn đã phát hiện nhiều biểu hiện,
hành vi vi phạm pháp luật, kịp thời uốn nắn, nhắc nhở và kiến nghị với cơ quan
có thẩm quyền xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật; phát hiện nhiều bất
hợp lý, những khó khăn, vướng mắc trong việc thi hành pháp luật, chế độ, chính
sách để từ đó kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền kịp hời khắc phục
và hoàn thiện. Kết quả thực hiện quyền kiểm tra, giám sát của Công đoàn theo
Luật Công đoàn đã góp phần tích cực vào việc thực hiện chức năng đại diện bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng cho người lao động của tổ chức công
đoàn.

2.2. Trong việc thương lượng ký kết thoả ước lao động tập thể
Thoả ước lao động tập thể có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền
và lợi ích của người lao động trong quan hệ lao động. Việc pháp luật lao động
trao cho Công đoàn cơ sở quyền thương lượng, ký kết và giám sát việc thực hiện
thoả ước lao động tập thể nhằm tạo điều kiện cho tổ chức công đoàn bảo vệ
người lao động và tham gia có hiệu quả vào việc quản lý doanh nghiệp, điều hoà
mối quan hệ lao động, phòng ngừa và hạn chế tranh chấp lao động.
Với chức năng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, tổ
chức công đoàn lãnh đạo, tổ chức, vận động, tập hợp người lao động tham gia
quá trình thương lượng và đại diện tập thể người lao động trực tiếp thương
lượng, ký kết thoả ước lao động tập thể. Thông qua việc thương lượng và ký kết
thoả ước, Công đoàn tạo sự tin tưởng, gắn bó của người lao động với tổ chức
công đoàn. Trong thời gian qua, tổ chức công đoàn đã đẩy mạnh vai trò của
mình trong việc thương lượng, ký kết thoả ước lao động tập thể trong các loại
hình doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp đã thấy được ý nghĩa quan trọng của
thoả ước lao động tập thể nên đã chú trọng tới việc thương lượng, một số doanh
nghiệp có khi phải thương lượng nhiều lần mới đạt được sự thoả thuận. Nhiều
thoả ước lao động tập thể đã có những thảo thuận cụ thể về tiền lương, tiền
12
thưởng và phụ cấp lương; định mức lao động, an toàn vệ sinh lao động; nâng
cao chất lượng bữa ăn giữa ca; nâng lương, thưởng tết, trợ cấp đi lại, hiếu hỷ,
thời giờ nghỉ ngơi…cho người lao động.
Trong quá trình đàm phán, ký kết thoả ước lao động tập thể, kỹ năng của
cán bộ công đoàn còn hạn chế. Cán bộ công đoàn cơ sở chưa hiểu biết chính
sách pháp luật nhất là Luật Lao động. Kỹ năng đàm phán, thương lượng của cán
bộ công đoàn còn kém, chưa đáp ứng được nhu cầu đặt ra. Nhiều thoả ước lao
động tập thể rập khuôn theo bộ luật Lao động, không đem lại kết quả có lợi hơn
cho người lao động. Nhiều doanh nghiệp ký kết thoả ước lao động tập thể chỉ
nhằm mục đích tránh sự rắc rối của cơ quan cấp trên trong quá trình kiểm tra
chứ không xuất phát từ việc bảo đảm quyền lợi cho người lao động.

2.3. Trong việc tham gia vào hoạt động quản lý, sử dụng lao động
Công đoàn phát huy đầy đủ tác dụng bảo hộ quyền lao động của người lao
động, tránh và giảm thất nghiệp xuống mức thấp nhất. Đối với việc cắt giảm lao
động có tính kinh tế của đơn vị sử dụng lao động, Công đoàn giám sát chặt chẽ,
nghiêm khắc chấm dứt tình trạng sử dụng lao động theo kiểu tuỳ ý cắt giảm
người; bảo đảm đời sống cơ bản cho công nhân lao động - lao động dôi dư của
doanh nghiệp. Đối với người lao động bị giảm biên chế, Công đoàn phải đốc
thúc đơn vị sử dụng lao động bồi thường kinh tế theo luật định.
Công đoàn sử dụng tốt các giải pháp chống thất nghiệp. Công đoàn giúp
đỡ lãnh đạo doanh nghiệp triển khai nhiều loại hình kinh doanh, đổi mới kỹ
thuật, không ngừng nâng cao hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp, để đạt được
mục đích giảm số công nhân không có việc làm đến mức thấp nhất. Công đoàn
phát động người lao động khai thác đầy đủ tiềm lực của doanh nghiệp, nâng cao
hiệu quả doanh nghiệp, tăng cường khả năng giải quyết nội bộ số người dư thừa
của doanh nghiệp
Công đoàn sử dụng các trường dạy nghề, trường kỹ thuật, làm tốt công tác
giáo dục, bồi dưỡng người lao động, xây dựng chương trình giáo dục nghề
nghiệp thích hợp với điều chỉnh kết cấu việc làm. Nắm vững nguyên tắc học để
hành, căn cứ vào kế hoạch phát triển của sản xuất công nghiệp địa phương, kết
cấu kỹ thuật và nhu cầu của đơn vị sử dụng lao động để điều chỉnh, xác định
phương hướng đào tạo, bồi dưỡng không ngừng nâng cao khả năng tìm lại việc
làm.
Công đoàn hướng dẫn người lao động thay đổi quan niệm chọn nghề.
Thay đổi quan niệm về việc làm là khâu quan trọng thúc đẩy tìm lại việc làm
của người thôi việc và người thất nghiệp. Do đó, Công đoàn tuyên truyền, giáo
dục cho người lao động, hướng dẫn họ thay đổi quan niệm, xây dựng quan điểm
việc làm thích hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Công
đoàn giúp đỡ người lao động xây dựng quan niệm mới về tự lập nghiệp, tự chọn
nghề. Đồng thời giáo dục người lao động không ngừng nâng cao trình độ, năng

13
lực tham gia giải quyết việc làm. Đối với người lao động thôi việc, Công đoàn
khuyến khích họ điều chỉnh tâm lý, xây dựng lòng tin, kết hợp nguyện vọng
chọn nghề với khả năng thực tế, nỗ lực nắm chắc cơ hội tìm lại việc làm.
Từ những hoạt động trong tham gia giải quyết việc làm của tổ chức công
đoàn, đã đem lại kết qủa khả quan: mỗi năm có khoảng 2 triệu lao động được
tạo việc làm, tỷ lệ công nhân, lao động thất nghiệp, thiếu việc làm giảm dần.
Công nhân lao động có nhiều cơ hội hơn trong việc tìm và lựa chọn việc làm
phù hợp với năng lực của bản thân.

2.4. Công đoàn vận động người lao động thực hiện tốt công tác an
toàn vệ sinh lao động tại nơi làm việc
Hiện nay, người sử dụng lao động và người lao động đã từng bước nâng
cao nhận thức, trách nhiệm của mình trong đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động,
nhưng trên thực tế, tai nạn lao động xảy ra đáng lo ngại, tai nạn chết người có xu
hướng gia tăng. Một số cơ sở cố tình vi phạm các quy định của pháp luật về bảo
hộ lao động, công nhân làm việc trong điều kiện mất an toàn dẫn đến tai nạn lao
động và bệnh nghề nghiệp. Mặt khác, môi trường lao động bị ô nhiễm nghiêm
trọng, nồng độ các chất độc hại, các yếu tố nguy hiểm rất cao vượt quá giới hạn
cho phép nhiều lần mà chưa được cơ quan nhà nước giải quyết. Ở các doanh
nghiệp hầu hết người lao động không được khám sức khoẻ định kỳ và không
được hưởng chế độ độc hại theo quy định của luật Lao động.
Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến việc chậm cải thiện điều
kiện lao động của các doanh nghiệp là do nguồn kinh phí hạn hẹp, sản xuất chưa
ổn định nên chưa mạnh dạn đầu tư các dây chuyền sản xuất mới. Ngoài ra do
nhu cầu tìm kiếm việc làm nên nhiều người dù biết đó là môi trường độc hại,
nguy hiểm nhưng họ vẫn làm. Một nguyên nhân khác là do việc xử lý không
nghiêm các vụ tai nạn và việc quản lý nhà nước về an toàn, vệ sinh lao động còn
một số tồn tại cũng góp phần làm tăng các vụ tai nạn lao động.
Với chức năng tham gia quản lý về an toàn, vệ sinh lao động để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, những năm qua tổ chức
công đoàn đã có tác động tích cực đối với vấn đề này, góp phần đáng kể vào
việc từng bước đưa an toàn, vệ sinh lao động vào nề nếp, trở thành yếu tố không
thể thiếu trong hoạt động sản xuất kinh doanh ở mỗi doanh nghiệp.
Công đoàn thường xuyên tuyền truyền, phổ biến, quán triệt nội dung về
công tác an toàn, vệ sinh lao động cho cán bộ công đoàn các cấp, nhất là công
đoàn trong doanh nghiệp, để từ đó có sự nhận thức sâu sắc hơn, trách nhiệm hơn
với công tác này. Chủ động phối hợp với các doanh nghiệp, người lao động để
xây dựng các phong trào “xanh, sạch, đẹp, bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động”
nơi làm việc, phong trào sáng kiến cải thiện điều kiện lao động, các phong trào
giảm thiểu tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, xây dựng văn hoá an toàn nơi
làm việc.

14
2.5. Công đoàn với vấn đề kỷ luật lao động và xử lý kỷ luật lao động
Dù việc xử lý kỷ luật lao động đã được pháp luật quy định chặt chẽ và
trong những quy định này Công đoàn luôn giữ vai trò là đại diện cho lợi ích hợp
pháp của người lao động khi tham gia quan hệ lao động. Nhưng trên thực tế,
công đoàn trong các doanh nghiệp do nghiệp vụ yếu kém, hoạt động chỉ mang
tính hình thức, hầu hết cán bộ công đoàn vừa tham gia lao động, vừa hoạt động
công đoàn nên chưa thực hiện được vai trò bảo vệ người lao động bởi cán bộ
công đoàn cùng công nhân lao động vốn đã ở vị thế yếu hơn so với người sử
dụng lao động.
Chính vì điều này, vấn đề xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động
trong các doanh nghiệp thường trái với những quy định của pháp luật. Đáng lưu
ý là khi xử lý kỷ luật lao động, danh dự, nhân phẩm của người lao động nhất là
lao động nữ thường bị xúc phạm. Bên cạnh đó hình thức phạt tiền dù không
được luật Lao động quy định nhưng đây lại là hình thức phạt rất phổ biến trong
các doanh nghiệp.
Tình hình vi phạm luật Lao động, luật Công đoàn , đối xử thô bạo, xúc
phạm nhân phẩm công nhân lao động, cắt hợp đồng, sa thải công nhân nhất là
cán bộ công đoàn vẫn diễn ra nhưng chưa có một cơ chế bảo vệ họ thực sự nên
nhiều người tuy có tâm huyết, nhiệt tình cũng không muốn làm cán bộ công
đoàn. Đội ngũ cán bộ công đoàn mà trước hết là Ban chấp hành, Chủ tịch công
đoàn cơ sở chưa được đào tạo, bồi dưỡng một cách đầy đủ, thường xuyên về
nghiệp vụ công tác công đoàn nên chất lượng hoạt động công đoàn cơ sở còn
yếu.

2.6. Trong việc tổ chức và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho
người lao động
Công đoàn phối hợp cùng người sử dụng lao động quyết định việc sử
dụng quỹ phúc lợi với nguyên tắc công bằng, dân chủ, giúp đỡ người lao động
giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong cuộc sống.
Công đoàn ở nhiều doanh nghiệp cũng chủ động tham gia cùng người sử
dụng lao động tích cực đầu tư xây dựng và trang bị cơ sở vật chất: nhà văn hoá,
thư viện, phòng đọc, nhà thi đấu, nhà ăn tập thể, khu vui chơi, khuôn viên văn
hoá, nhà trẻ, dịch vụ thương mại…cho người lao động.
Bằng những hành động thiết thực, nhiều tổ chức công đoàn ở doanh
nghiệp còn duy trì đều đặn việc gặp gỡ, động viên, khen thưởng con của người
lao động có thành tích trong học tập và tổ chức các buổi lễ động viên tinh thần
trong các dịp quốc tế thiếu nhi, tết trung thu.
Để nâng cao đời sống văn hoá tinh thần cho người lao động, nhiều công
đoàn đã phối hợp với người sử dụng lao động tổ chức cho người lao động đi

15
tham quan, nghỉ mát, giao lưu, học hỏi kinh nghiệm và tổ chức các cuộc nói
chuyện chuyên đề nhằm nâng cao kiến thức văn hoá, xã hội, pháp luật…cho
người lao động.
Công đoàn cũng tổ chức nhiều hoạt động như hội nghị, hội thảo, mít
tinh…và đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục đối với người lao động trong
công tác phòng chống tội phạm, đặc biệt là phòng chống tệ nạn xã hội.
2.7. Vai trò của Công đoàn trong giải quyết tranh chấp lao động và
đình công
Với chức năng đại diện và bảo vệ quyền lợi cho người lao động, trong
thời gian qua, Công đoàn đã có vai trò khá tích cực trong tham gia vào quá trình
giải quyết tranh chấp lao động, tích cực tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp
luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người lao động giúp người lao động
nâng cáo ý thức tổ chức, hiểu biết pháp luật đặc biệt là pháp luật lao động. Khi
các cuộc tranh chấp lao động xảy ra, công đoàn luôn bám sát quy định của pháp
luật lao động, thoả ước lao động tập thể của doanh nghiệp để kiến nghị biện
pháp giải quyết, nhằm bảo vệ quyền lợi của người lao động. Không chỉ tham gia
giải quyết tranh chấp lao động, Công đoàn còn đứng ra khởi kiện, yêu cầu Toà
án giải quyết tranh chấp lao động. Tuy nhiên sự tham gia của công đoàn các cấp
trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động còn rất hạn chế, đặc biệt là công
đoàn cơ sở. Hoạt động của công đoàn cơ sở còn rất mờ nhạt, chủ yếu tập trung
vào phát triển các phong trào thi đua, các hoạt động văn hoá văn nghệ mà chưa
làm tốt vai trò là người bảo vệ quyền lợi của người lao động.
Pháp luật lao động thừa nhận quyền đình công của người lao động thông
qua sự tổ chức của công đoàn cơ sở. Đây là vai trò to lớn của Công đoàn bởi vì
Công đoàn phải làm sao đảm bảo cho tập thể lao động thực hiện được quyền
đình công hợp pháp, đồng thời hạn chế những cuộc đình công bất hợp pháp,
tránh gây mất ổn định trong quan hệ lao động và trật tự an toàn xã hội.
Thực tế cho thấy, dù đình công là vũ khí cuối cùng của người lao động để
bảo vệ lợi ích của mình và cũng là quyền hành động của tập thể lao động trong
quan hệ lao động. Thế nhưng hầu hết các cuộc đình công ở nước ta xảy ra trong
thời gian qua đều không đúng với trình tự pháp luật. Các cuộc đình công thường
mang tính tự phát không có sự tham gia hướng dẫn của công đoàn cơ sở. Nhiều
vụ tranh chấp dẫn đến đình công đều không thông qua thương lượng và hoà giải.
Hiện tượng này một phần do công nhân lao động chưa hiểu biết những quy định
của luật lao động về đình công, hoặc tại doanh nghiệp xảy ra đình công chưa có
tổ chức công đoàn hoặc có công đoàn nhưng cán bộ công đoàn không đủ năng
lực, trình độ pháp lý giải quyết các vụ tranh chấp lao động.

2.8. Công đoàn trong thực hiện cơ chế ba bên.


Cơ chế ba bên là cơ chế hợp tác và chia sẻ trách nhiệm giữa Nhà nước,
người sử dụng lao động và người lao động (thông qua các cơ quan, tổ chức đại
16
diện chính thức của mỗi bên) để cùng nhau giải quyết những vấn đề phát sinh
trong lĩnh vực lao động – xã hội vì một nền kinh tế thịnh vượng và vì một xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Từ khi thành lập đến nay, Công đoàn Việt Nam luôn nỗ lực trong việc
thực hiện chức năng đại diện, bảo vệ người lao động và các chức năng khác của
mình. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc Công đoàn Việt Nam là tổ chức duy
nhất đại diện cho người lao động tham gia cơ chế ba bên tính đến nay. Tuy
nhiên một khó khăn, thách thức vô cùng to lớn đối với tổ chức công đoàn liệu có
thể đổi mới toàn diện, vượt qua chính mình, tự khẳng định mình là tổ chức đại
điện bảo vệ người lao động không thể thay thế được không khi mà Việt Nam gia
nhập, ký kết các hiệp định thương mại quốc tế…từ đó cho phép thành lập các tổ
chức đại diện khác cho người lao động; khi mà công đoàn các cấp, nhất là công
đoàn cơ sở đang rất lúng túng trong việc thực hiện vai trò đại diện của mình đối
với người lao động ở khu vực kinh tế tư nhân và có vốn đầu tư nước ngoài.
Trong từng thời kỳ cách mạng, Đảng ta luôn có những định hướng, lãnh
đạo kịp thời đối với tổ chức và hoạt động công đoàn và thực tiễn lịch sử 92 năm
qua đã chứng minh Công đoàn Việt Nam luôn trung thành với mục tiêu, lý
tưởng của Đảng, lợi ích của dân tộc và của công nhân, viên chức, lao động.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, Công đoàn luôn thực
hiện tốt chức năng, nhiệm vụ mà Đảng giao phó.
Trước yêu cầu hội nhập quốc tế của đất nước và cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, đặt ra cho tổ chức Công đoàn là phải đổi mới, phải bảo đảm
sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của Đảng, phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc
tế. Ngày 12/6/2021, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 02-NQ/TW về “Đổi
mới tổ chức hoạt động công đoàn trong tình hình mới”. Nghị quyết ra đời thể
hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, là động lực quan trọng để tổ chức Công
không ngừng đổi mới, xứng đáng niềm tin của đoàn viên và người lao động,
đồng thời nhận diện những khó khăn, thách thức phải đối diện, để từ đó ý thức
sâu sắc hơn nhiệm vụ của tổ chức Công đoàn trong giai đoạn hiện nay.
Những năm qua, mặc dù phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức,
Công đoàn Việt Nam đã trưởng thành về mọi mặt, có những đóng góp xứng
đáng vào thắng lợi vĩ đại của cách mạng, góp phần xây dựng giai cấp công nhân
Việt Nam ngày càng lớn mạnh. Tổ chức công đoàn được củng cố, phát triển cả
về số lượng và chất lượng. Hoạt động công đoàn được đổi mới, ngày càng đi
vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả hơn, từng bước đáp ứng được yêu cầu,
nguyện vọng của đoàn viên và người lao động, hướng mạnh về cơ sở, thực hiện
ngày càng tốt hơn chức năng chăm lo, đại diện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
chính đáng của đoàn viên và người lao động, tập hợp đông đảo người lao động
trong các thành phần kinh tế gia nhập tổ chức công đoàn, phát động các phong
trào thi đua yêu nước tạo được động lực mạnh mẽ thúc đẩy đoàn viên hăng say
lao động, cống hiến. Công đoàn đã làm tốt vai trò cầu nối giữa Đảng, Nhà nước
với công nhân, người lao động, tích cực tham gia xây dựng Đảng, hệ thống
chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Qua đó, góp phần giữ vững ổn định
17
chính trị, quốc phòng an ninh và phát triển kinh tế xã hội, xây dựng đảng, chính
quyền trong sạch, vững mạnh. Vai trò, vị thế của tổ chức công đoàn ngày càng
được khẳng định.
Quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng của đất nước đem lại nhiều cơ hội,
thuận lợi cũng như khó khăn, thách thức cho công đoàn, đó là: Việc thực thi các
cam kết về lao động, công đoàn theo các Hiệp định thương mại thế hệ mới, sự
phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng lần thứ tư đòi hỏi trình độ tay nghề, ý
thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp của đội ngũ công nhân lao động
phải ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ mới, trong khi đó chất lượng công nhân
lao động tỉnh ta còn nhiều hạn chế; quan hệ lao động ngày càng phức tạp; việc
làm, đời sống, thu nhập của một bộ phận người lao động còn khó khăn; việc
thực hiện chế độ, chính sách pháp luật cho người lao động còn nhiều vấn đề bức
xúc... Tổ chức và hoạt động của Công đoàn còn một số hạn chế, yếu kém, chưa
đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới: Công tác phát triển đoàn viên, thành
lập công đoàn cơ sở chưa tương xứng với tốc độ phát triển của doanh nghiệp,
người lao động; chất lượng đoàn viên chưa cao; hoạt động công đoàn chưa gắn
với đặc điểm, nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của đoàn viên, người lao động
và tình hình quan hệ lao động. Công tác tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán
bộ công đoàn còn bất cập...
Quán triệt tinh thần Nghị quyết số 02-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Đổi
mới tổ chức hoạt động công đoàn trong tình hình mới”, các cấp công đoàn thời
gian tới cần tập trung đổi mới, nâng cao vị thế vai trò của mình trong việc đại
diện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của đoàn viên, người lao động.

18

You might also like