You are on page 1of 20

CHƯƠNG .

TỔNG QUAN VỀ NGHỀ LUẬT VÀ ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ LUẬT


1.1. Tổng quan về nghề luật
Đối với sinh viên khi bước chân vào ngưỡng cữa Trường Đại học Luật hoặc ngôi
trường nào có đào tạo chuyên ngành Luật thì chúng ta đều băn khoăn rằng: “Liệu
chúng ta có lựa chọn đúng hướng đi tương lai của mình? Chúng ta có đủ khả
năng, phẩm chất và kỹ năng để có thể học tập và rèn luyện trở thành một con
người tương lai như mong muốn?”. Hầu hết chúng ta đều kỳ vọng hoặc mong
muốn rằng khi theo đuổi nghề luật thì chúng ta sẽ có những hiểu biết nhất định và
có những kỹ năng cần thiết để sau này có thể vận dụng trong cuộc sống, có thể
thực hiện pháp luật và áp dụng pháp luật trong thực tiễn để bảo vệ chính bản
thân, gia đình mình và có thể giúp đỡ những người kém hiểu biết hơn hoặc yếu
thế hơn trong xã hội.
Để trả lời cho những câu hỏi đó, người học cần có những kiến thức tổng quan về
nghề luật, nhận thức được tôn chỉ, mục đích hay sứ mệnh của nghề luật, các yêu
cầu cần thiết về đạo đức nghề cũng như xu hướng đào tạo nghề trong xã hội hiện
tại cũng như xu thế phát triển của nghề luật trong tương lai.
1.1.1. Tôn chỉ, mục đích, sứ mệnh của nghề luật:
Nghề luật là một nghề mang tính đặc thù và đặc biệt. Mỗi một hành vi, quyết định
của người hành nghề luật có thể liên quan đến tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm và tài sản của các cá nhân, tổ chức trong xã hội. Hiểu theo nghĩa
chung nhất, nghề luật là một khái niệm mang tính tương đối, thường được sử
dụng như một danh từ chung dùng để chỉ nghề nghiệp của những người có bằng
cấp hoặc kiến thức pháp luật nhất định, đang thực hiện các công việc liên quan
đến các mặt khác nhau của đời sống pháp lý tại các cơ quan khác nhau nhhhư các
cơ quan công quyền (như cơ quan công an, cơ quan điều tra, tòa án, viện kiểm
sát, cơ quan thi hành án) và một số tổ chức bổ trợ tư pháp như Luật sư, cơ quan
công chứng, Thừa phát lại v.v.. Đôi khi trong hoạt động ở một số bộ phận các cơ
quan hành chính nhà nước như bộ phận pháp chế, thanh tra hoặc trong các tổ
chức chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước cũng đòi hỏi những vị trí cần những
kiến thức chuyên môn về nghề luật. Do đó, việc nhận thức đúng tôn chỉ, mục đích
và sứ mệnh của nghề Luật sẽ góp phần định hướng tư tưởng, nhân cách, thái độ
chính trị và tinh thần trách nhiệm cho đội ngũ sinh viên ngay khi ngồi trên ghế nhà
trường cũng như sau khi bước chân vào đời, tự mình chịu trách nhiệm về mọi
hành vi của bản thân trong cộng đồng xã hội và pháp luật của Nhà nước.
Sứ mệnh cao cả của Nghề luật là sứ mệnh bảo vệ quyền con người, quyền công
dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức, cơ quan, bảo vệ
sự độc lập của nền tư pháp, góp phần bảo vệ công lý, công bằng xã hội, phát triển
kinh tế - xã hội và xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam Xã hội chủ nghĩa. Hầu
hết những người hành nghề luật cho dù ở các chức danh tư pháp nòa, cho dù có
sự khác nhau về vị trí công việc, chức năng như thế nào thì việc thực thi đều
hướng tới mục đích là bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của
tập thể, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự, nhân phẩm của công
dân, giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nâng cao ý thức pháp luật, tôn
trọng quy tắc của cuộc sống xã hội, ngăn chặn và hạn chế các vi phạm pháp luật
và góp phần tham gia đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Có thể nói nghề
luật là một trong những nghề có sự kiểm soát cao trong hoạt động nghề nghiệp.
Những người hành nghề luật thường xuyên sử dụng các quy định pháp luật làm
công cụ, phương tiện để giải quyết những vấn đề pháp lý phát sinh trong đời sống
xã hội. Họ luôn phải đặt mình trong khuôn khổ hoạt động nghề nghiệp và chịu sự
chi phối và điều chỉnh bởi pháp luật. Do đó, ngoài việc tuân thủ đầy đủ khung
pháp luật chung thì người hành nghề luật còn phải đảm bảo thực hiện đầy đủ
những quy định nghiêm ngặt của pháp luật về ngành nghề mà mình tham gia và
chịu sự chi phối và điều chỉnh bởi các quy tắc đạo đức và ứng xử nghề chuyên
biệt. Do đó, nghề luật không chỉ hoạt động dựa trên pháp luật làm chuẩn mực mà
còn dựa trên các quy chế trách nhiệm nghề nghiệp (còn được xây dựng dưới dạng
là Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp) làm nền tảng đạo đức. Đây là một
trong những đặc điểm để phân biệt nghề luật với những nghề khác đang tồn tại
trong xã hội (ví dụ so sánh với người bác sĩ trong hoạt động khám chữa bệnh cũng
có quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp nhưng hoạt động chính dựa trên kiến
thức y học và kỹ năng chẩn bệnh và điều trị). Tuy nhiên với mỗi người hành nghề
luật khác nhau thì pháp luật được sử dụng, áp dụng trong hoạt động nghề nghiệp
ở từng mức độ khác nhau và quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp cũng khác
nhau. Điều này cũng phản ánh rõ nét qua tôn chỉ, mục đích và sứ mệnh của các
ngành, nghề khác nhau. Chúng ta có thể tham khảo một số ngành nghề như: Đối
với lực lượng vũ trang nhân dân chủ yếu dựa vào 6 Điều Bác Hồ dạy. Đối với thẩm
phán và cán bộ ngành Tòa án nhân dân, pháp luật được sử dụng là chuẩn mực, là
thước đo để xác định tính đúng/sai của một tranh chấp, xác định hành vi nào có
tội hay không có tội. Cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân phải thực sự “
Phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư”, thực hiện đúng chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ,
công vụ của cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật; Nghiêm chỉnh chấp
hành và thực hiện đúng các quy chế, quy định làm việc và nội quy của cơ quan,
không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện để năng cao năng lực, phẩm chất chính
trị, đạo đức nghề nghiệp, ứng xử có văn hóa để hoàn thành nhiệm vụ, công vụ
được giao. Đối với cán bộ ngành kiểm sát, thì Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan
thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam nên tôn chỉ của Viện kiểm sát nhân dân là nhiệm vụ bảo vệ
Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất; thông qua chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của
Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của
cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi
tiếp nhận và giải quyết tố cáo, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt
quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án,
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp
khác theo quy định của pháp luật. Đối với luật sư, pháp luật được sử dụng để
hướng các chủ thể trong xã hội (là khách hàng của luật sư) đi đúng “hành lang
pháp lý” dành cho mình để đạt được mục tiêu hay kỳ vọng của bản thân, tránh
những rủi ro pháp lý từ sự thiếu hiểu biết pháp luật, góp phần bảo vệ pháp chế
XHCN. Tôn chỉ, mục đích của Liên đoàn Luật sư Việt Nam quy định tại Điều 1
Quyết định 1573/ QĐ- BTP năm 2015 phê duyệt Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt
Nam do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành quy định cụ thể: “Liên đoàn Luật sư Việt
Nam đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các luật sư, Đoàn Luật sư là
thành viên của Liên đoàn; thực hiện chế độ tự quản của tổ chức luật sư trong
phạm vi cả nước nhằm xây dựng các giá trị chuẩn mực của luật sư Việt Nam, phát
triển đội ngũ luuật sư có phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn đáp ứng yêu
cầu của xã hội và yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam, góp phần bảo vệ công lý, quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công
dân, phát triển kinh tế, xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Liên đoàn
Luật sư Việt Nam mở rộng quan hệ với các tổ chức luật sư trên thế giới, tham gia
các tổ chức quốc tế có hoạt động phù hợp với tôn chỉ, mục đích của Liên đoàn
Luật sư Việt Namn nhằm mục đích tăng cường hợp tác nghề nghiệp giữa đội ngũ
luật sư các nước và góp phần xây dựng, phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa
các dân tộc, các quốc gia trên thế giới theo quy định của pháp luật”.
Đối với Công chứng viên, pháp luật giúp hoạt động công chứng bảo đảm tính an
toàn pháp lý, ngăn ngừa tranh chấp, giảm thiểu rủi ro cho các hợp đồng, giao
dịch, qua đó bảo vệ quyền, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
cá nhân, tổ chức. Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng quy định các chuẩn
mực đạo đức, hành vi ứng xử của công chứng viên trong hành nghề công chứng,
là cơ sở để công chứng viên tự giác rèn luyện, tu dưỡng đạo đức trong hành nghề
và trong đời sống xã hội nhằm nâng cao trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng
viên, nâng cao uy tín của công chứng viên, góp phần tôn vinh nghề công chứng
trong xã hội v.v…
1.1.2. Xu hướng đào tạo nghề luật: Đặt ra và chứng minh cho người học xu
hướng đào tạo nghề luật
Tùy thuộc vào điều kiện thực tế và thế mạnh của mỗi quốc gia mà các nước có
quy trình đào tạo luật phù hợp với quốc gia mình. Điểm chung về quá trình đào
tạo ở các nước trên thế giới đó là để sinh viên có thể hành nghề luật trong các
lĩnh vực khác nhau thì họ đều phải hoàn thành hai giai đoạn đào tạo: Giai đoan
đào tạo Luật và giai đoạn đào tạo nghề luật.
Giai đoạn đào tạo Luật chủ yếu trang bị cho sinh viên các kiến thức pháp luật cơ
bản, tổng hợp, với mục đích cung cấp kiến thức toàn diện cho sinh viên. Trong đó
sinh viên phải học các môn học mang tính chất cơ sở về khoa học luật như: lịch sử
các học thuyết pháp luật, lịch sử pháp luật, triết học, pháp luật đại cương, logic
học …và các môn học mang tính chất bắt buộc như luật hiến pháp, luật dân sự,
luật hình sự, luật hành chính, luật tố tụng dân sự… Thông thường sinh viên luật tại
các nước theo hệ thống Civil Law (như Pháp và Đức…) đều phải trải qua 4 năm
đào tạo cơ bản tại khoa luật của các trường đại học. Trong 4 năm này thì sinh viên
cần phải thi kết thúc chương trình đào tạo để có thể nhận được tấm bằng cử
nhân Luật.
Giai đoạn đào tạo nghề Luật đòi hỏi sinh viên đó phải kết thúc giai đoạn đầu và
đạt chuẩn để tham gia vào giai đoạn đào tạo nghề Luật và khi kết thúc họ phải đạt
các chứng chỉ hành nghề cần thiết. Giai đoạn này sẽ tập trung vào việc thực tập
tại các tổ chức hàng nghề luật thực tế, cơ hội để sinh viên cọ xát với thực tiễn và
rèn luyện các kỹ năng nghề cần thiết theo nhu cầu.
Tham khảo một chương trình đào tạo của Pháp, sau 4 năm học luật muốn trở
thành thẩm phán hoặc công tố viên thì phải học qua Trường Thẩm phán quốc gia
ở Boxdoeux trong vòng 31 tháng và trải qua một thời gian thực tập cần thiết, học
viên tốt nghiệp được bổ nhiệm làm thẩm phán hoặc công tố viên; những người
muốn trở thành thẩm phán tại toà án hành chính thì phải học tại học viện hành
chính quốc gia, riêng có một điểm đặc biệt thẩm phán toà án thương mại lại được
cử ra từ các thương nhân có uy tín và kinh nghiệm. Trong khi đó để trở thành luật
sư học viên phải hoàn thành khoá học 12 tháng ở trung tâm đào tạo luật sư và
phải là thành viên của Hiệp hội luật sư địa phương, trải qua giai đoạn thực tập từ
2 đến 5 năm. Nghề luật sư ở Pháp được coi là một nghề tự do, độc quyền trong
trợ giúp và có quyền đại diện cho các bên trong các hoạt động tố tụng tại Tòa án.
Còn tại Đức, việc đào tạo luật và nghề luật của Đức cũng có nét đặc trưng riêng,
nhìn chung ở Đức không có mô hình đào tạo nghề luật như ở Pháp, bậc đại học
kéo dài 4 năm và kết thúc bằng kỳ thi quốc gia thứ nhất, sau khi có chứng chỉ phải
trải qua 3 năm thực tập, trong đó phải có 18 tháng học kỹ năng (chuẩn bị hồ sơ,
tiếp xúc với khách hàng, tranh tụng…), 6 tháng thực tập tại toà án, sáu tháng thực
tập tại văn phòng luật sư và 6 tháng dành cho kỳ thi quốc gia lần hai. Người tốt
nghiệp sau kỳ thi quốc gia lần hai mới có bằng chính thức và có thể hành nghề
luật. Như vậy, người muốn trở thành thẩm phán thi xong ra thực tập có thể được
bổ nhiệm chứ không phải học như ở Pháp. Còn người muốn trở thành luật sư
cũng không phải học để lấy bằng luật sư vì nghề luật sư ở Đức được coi là nghề
phục vụ công lý, không được tự ý thoả thuận, luật sư chỉ được lấy thù lao theo qui
định không giống như ở Pháp là một nghề tự do phục vụ cho khách hàng, có thoả
thuận thù lao với khách hàng. Luật sư có thể chuyên sâu vào một lĩnh vực nếu đã
có chứng chỉ chuyên ngành, đã hành nghề 2 năm và chỉ được chuyên sâu tối đa
không quá 5 lĩnh vực (1)
Đối với các nước theo hệ thống Common Law (như Anh hoặc Mỹ) có xu hướng kết
hợp giữa đào tạo lý thuyết và đào tạo nghề trong chương trình đào tạo tại trường
luật để sinh viên sau khi tốt nghiệp chỉ cần qua thời gian tập sự ngắn đã có thể
làm việc được. Vì thế, ở các trường luật đều dạy giống nhau trong năm đầu tiên
với các khóa học về tài sản, hợp đồng, các vụ án dân sự, trình tự thủ tục, luật hình
sự và tất cả được dạy chủ yếu theo phương pháp giảng tích cực (đối thoại với sinh
viên) và phương pháp tình huống (case study). Theo yêu cầu của giảng viên, sinh
viên phải đọc tài liệu trước khi đến lớp, bao gồm: các bản án (case method), các
văn bản pháp luật, học thuyết pháp lý liên quan, một số bài viết về kinh tế và xã
hội học (modified case method). Trong hầu hết các giờ học, người ta sử dụng
phương pháp Socratic (Socrate method), theo đó sinh viên làm việc theo nhóm
dưới sự chỉ đạo của giáo sư, trình bày về những gì họ đã học. Giáo sư sẽ đặt câu
hỏi cho các học viên, thay đổi tình tiết các vụ việc…Đối với sinh viên từ năm thứ
ba trong trường luật có thể áp dụng phương pháp thực hành trực tiếp (clinical
method), theo đó một sinh viên tham gia tư vấn và đại diện cho khách hàng thực
sự trong khuôn khổ trợ giúp tư pháp dưới sự theo dõi của luật sư – đồng thời là
giáo sư. Các trường luật hướng tới việc đào tạo những con người có khả năng tư
duy, có trình độ lý luận, có năng lực làm việc độc lập. Sinh viên phải nỗ lực trong
nghiên cứu, tìm tòi, phân tích các văn bản luật cũng như tình tiết vụ việc cụ thể để
có thể đưa ra các quan điểm, ý kiến và cách lập luận thuyết phục nhất. Giáo dục
pháp luật ở Mỹ có truyền thống đào tạo sinh viên luật suy nghĩ và hành động như
những luật sư ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Hầu hết các trường luật
ở Mỹ đều kết luận rằng việc kết hợp các giảng viên chính thức (đa số đều có kinh
nghiệm trong nghề luật trước khi tham gia giảng dạy luật) và những thẩm phán có
kinh nghiệm tham gia giảng dạy là phù hợp nhất để đào tạo nghề cho các cử nhân
tương lai. Tuy nhiên để trở thành những người hành nghề luật chuyên sâu vẫn đòi
hỏi giai đoạn đào tạo nghề luật và có chứng chỉ, bằng cấp phù hợp khi hành nghề.
Xu hướng đào tạo nghề luật do Nhật Bản là nước áp dụng chế độ tam quyền phân
lập, gồm quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Ba quyền này can
thiệp và tác động lẫn nhau nhằm giữ cân bằng, tránh sự lạm quyền giữa ba hệ
thống cơ quan. Vì vậy, các chức danh tư pháp ở Nhật Bản là thẩm phán, kiểm sát
viên và luật sư được công nhận như một thế chân kiềng, kiềm chế và kiểm soát
lẫn nhau. Bởi lẽ đó, ở Nhật Bản có câu “Nâng đỡ chế độ tư pháp là ba chức danh:
thẩm phán, kiểm sát viên và luật sư”nên họ phải đượ đào tạo như nhau, có nền
tảng hiểu biết và lập luận như nhau về cùng một vấn đề trong thực tiễn. Nếu
trước đây, để trở thành người có chức danh tư pháp ở Nhật Bản phải qua khoá
đào tạo tại Học Viện Tư pháp Nhật Bản. Sau đó, việc đào tạo thẩm phán và kiểm
sát viên được đào tạo theo chương trình riêng, đào tạo luật sư được đào tạo theo
chương trình riêng. Việc thi tuyển những chức danh này cũng được tổ chức theo
những chương trình riêng thì gần đây, các chức danh này không chỉ dự kỳ thi tư
pháp quốc gia mà còn được đào tạo một chương trình chung giống nhau. Đây là
kết quả quá trình nước Nhật nhận thức rằng để nâng cao chất lượng tư pháp,
phải nâng cao một cách đồng đều chất lượng của tất cả các chức danh tư pháp
mà không phải chỉ là thẩm phán hay kiểm sát viên. Thậm chí quan điểm thi tuyển
cũng rất “thoáng”, xuất phát từ quan điểm: nước Nhật cần người tài thực sự để
có thể thực hiện tốt quyền tư pháp. Mà người tài thì có thể do được đào tạo, học
hành, nhưng có thể là bằng con đường tự học, tự trưởng thành của người đó. Do
đó, người dự thi cần phải nộp đơn và đây là điều kiện duy nhất của người dự
tuyển, không có thêm điều kiện nào khác, thậm chí không giới hạn về độ tuổi
cũng như bằng cấp chuyên môn. Bất kể ai cho rằng mình có thể thi đậu kỳ thi tư
pháp quốc gia đều có quyền dự thi. Đặc điểm chung của chương trình đào tạo các
chức danh tư pháp ở Nhật Bản là một chương trình đào tạo chung. Trong suốt
quá trình học, học viên sẽ chưa biết mình sau khi tốt nghiệp sẽ là thẩm phán, luật
sư hay kiểm sát viên. Tất cả các kỹ năng của cả 3 chức danh đều được học như
sau. Quy định này xuất phát từ quan niệm cho rằng, để nền tư pháp phát triển,
trình độ và năng lực của ba chức danh tư pháp là thẩm phán, kiểm sát viên, luật
sự phải đồng đều, phải được đào tạo trong một điều kiện như nhau, hiểu như
nhau về cùng một vấn đề dự trên cùng nền tảng lý luận và thực tiễn. Nước Nhật
quan niệm đây là những người sẽ góp phần bảo vệ nền công lý, bảo vệ sự ổn định
của xã hội, sự phát triển của đất nước, vì vậy những học viên của Học viện tư
pháp được coi là những công chức dự bị nên học viên tư pháp được nhận lương
từ Nhà nước. Bắt đầu từ 2006 trở lại đây, nước Nhật bắt đầu áp dụng điều kiện
dự thi bắt buộc người dự thi phải có bằng cao học luật. Để có bằng cao học luật
(thời gian học 2 năm), cần phải có bằng đại học luật hoặc một bằng đại học khác.
Thực hiện kế hoạch cải cách này, bắt đầu từ tháng 4 năm 2004, nước Nhật sẽ có
những Law School (trường luật) đầu tiên đào tạo cao học luật. Hai năm sau, năm
2006, nước Nhật bắt đầu có những Master luật đầu tiên dự kỳ thi tư pháp quốc
gia.
Ở Việt Nam hiện có 76 cơ sở giáo dục, đào tạo luật tồn tại dưới nhiều mô hình
khác nhau bao gồm các học viện, các trường đại học, khoa luật trong trường đại
học. Mỗi cơ sở lại đề ra cho mình những sứ mệnh riêng.
Trường Đại học Luật Hà Nội là trường định hướng nghiên cứu; có sứ mạng cung
cấp nguồn nhân lực pháp luật chất lượng cao cho đất nước, cung cấp các sản
phẩm khoa học và dịch vụ pháp luật chất lượng cao cho đất nước, cung cấp các
sản phẩm khoa học và dịch vụ pháp lý chất lượng cao cho Nhà nước, xã hội và
người dân, tham gia tích cực trong công tác xây dựng pháp luật và chính sách,
phản biện xã hội, góp phần thực hiện nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh định hướng trở thành một trong những
trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học pháp lý có uy tín trong cả nước và
trong khu vực, nhằm cung cấp nguồn lực có trình độ đại học và sau đại học trong
lĩnh vực pháp lý cho các đại phương và các bộ ngành; góp phần giải quyết các vấn
đề quan trọng trong khoa học pháp lý của cả nước nói chung và các tỉnh phía Nam
nói riêng. Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao về pháp luật theo định hướng
chuyên gia, lãnh đạo quản lý có tầm chiến lược và khả năng thích ứng cao cho
Nhà nước, các tổ chức và xã hội ,đóng góp thiết thực cho sự nghiệp xây dựng và
phát triển đất nước; Sáng tạo, truyền bá tri thức; nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu
khoa học ứng dụng về Luật; tư vấn, phản biện và cung cấp dịch vụ pháp luật có giá
trị cao cho Nhà nước, tổ chức, xã hội và công dân.
Trường Đại học Luật - Đại học Huế là cơ sở đào tạo đại học, sau đại học về lĩnh
vực pháp luật, nghiên cứu khoa học, chuyền giao công nghệ và khoa học xã hội-
nhân văn; tổ chức các dịch vụ pháp lý; cung cấp nguồn nhân lực, sản phẩm khoa
học dịch vụ pháp lý có chất lượng cao đáp ứng nhu càu phát triển kinh tế- xã hội
của khu vự miền Trung Tây Nguyên và cả nước.
Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội có sứ mệnh đào tạo nguồn nhân lực có chất
lượng cao cho ngành Kiểm Sát, góp phần bổ sung nguồn nhân lực cho xã hội, đáp
ứng yêu cầu cải cách tư pháp, yêu cầu đẩy mạnh công nhiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và hội nhập quốc tế.
Học viện Tòa án có sứ mệnh đào tạo, bồi dưỡng nhân lực chất lượng cao cho
ngành Tòa án;đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu cải cách tư
pháp,nhu cầu phát triển và hội nhập quốc tế sâu sắc của đất nước. Thúc đấy sự
phát triển và tiến bộ xã hội thông qua nghiên cứu, đào tạo và cung ứng dịch vụ
chất lượng cao trong lĩnh vực kinh tế, luật và quản lý. Cung cấp nguồn nhân lực
pháp luật và dịch vụ pháp lý chất lượng cao cho các cơ quan nhà nước, các doanh
nghiệp và toàn xã hội . Tuyên truyền phổ biến và giáo dục pháp luật, trang bị kiến
thức cơ bản về pháp luật, bồi dưỡng năng lực ứng phó với các vấn đề mà xã hội
hiện đại đang phải đối mặt trong xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa hiện nay. Từ
đó góp phần thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ của Chiến lược cải cách
tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Nhìn chung mục tiêu và xu hướng đào tạo của các cơ sử giao dục tại Việt Nam đều
định hướng đào tạo nên những cử nhân Luật có phẩm chất chính trị và đạo đức
nghề nghiệp tốt, được trang bị những kiến thức cơ bản về pháp luật, thực tiễn
pháp lý và những kiến thức về chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội có liên quan đến
lĩnh vực pháp luật, bước đầu có định hướng chuyên sâu và rèn luyện kỹ năng thực
hành, có thể giải quyết được một số vấn đề trong lĩnh vực pháp luật có thể làm
việc trong cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị- xã hội khác, các văn phòng
luật sư, các trung tâm tư vấn pháp luật; làm chuyên gia pháp lý doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế. Như vậy, cho dù mô hình đào tạo nào thì đích đến
cuối cùng là tạo ra những sản phẩm “vừa hồng, vừa chuyên” nghĩa là một sinh
viên với một bằng cấp chuyên môn đạt chuẩn và lập trường chính trị vững vàng, là
nguồn cho các nhu cầu về nhân lực trong các ngành nghề tư pháp hoặc hành nghề
luật. Sản phẩm đào tạo phải là sự kết hợp nhuần nuyễn giữa “lý thuyết và thực
hành”, giữa “học tập gắn liền với thực tiễn” để các sinh viên khi ra trường phải có
đủ những kỹ năng tối thiểu trong hoạt động hành nghề Luật.
1.1.3. Đạo đức nghề luật:
(Khái niệm, đặc điểm, vai trò của đạo đức nghề luật. Làm rõ những chuẩn mực
đạo đức cơ bản nhất của một người hành nghề luật. Giới thiệu qua mà không cần
chi tiết chuẩn mực đạo đức cơ bản nhất của một người hành nghề luật. Giới thiệu
qua mà không cần chi tiết chuẩn mực đạo đức của từng ngành nghề)
Đạo đức là chuẩn mực xã hội điều chỉnh hành vi của con người trong quan hệ với
người khác và cộng đồng (dân tộc, quốc gia, giai cấp, gia đình và xã hội). Mỗi giai
cấp, dân tộc đều có những chuẩn mực phù hợp với giai cấp, dân tộc mình và quan
niệm về đạo đức cũng phát triển và thay đổi cùng với các giai đoạn lịch sử. Thông
thường, người ta căn cứ vào các chuẩn mực đó mà đánh giá hành vi của mỗi cá
nhân, mỗi thành viên của xã hội theo quan niệm về thiện và ác, về những điều
được làm hoặc không được làm vì vi phạm đạo đức và những gì mà mỗi người
phải làm, hợp với đạo đức xã hội. Khác với pháp luật, đạo đức không được ghi
nhận thành văn bản quy phạm có tính bắt buộc nhưng trên thực tế hầu hết mọi
người đều tự giác thực hiện theo sự thôi thúc của lương tâm, lòng tự trọng và sự
kiểm soát của dư luận xã hội. Nói cách khác, đạo đức xã hội là những tiêu chuẩn,
nguyên tắc được xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ giữa con người với
nhau và đối với cộng đồng xã hội. Đạo đức xã hội là tập hợp những quan niệm
nhằm hướng con người đến Chân – Thiện – Mỹ. Tuy nhiên, vấn đề đạo đức cũng
phụ thuộc vào quan điểm cá nhân và không có tính cưỡng chế mạnh mẽ như
pháp luật nên khi các cá nhân đưa ra quyết định vẫn mang tính chủ quan dù vẫn
phải cân nhắc trên nền tảng đạo đức xã hội nhất định. Trong những tình huống,
những hoàn cảnh, những trường hợp nhất định đòi hỏi chủ thể phải có lựa chọn
nên hay không nên thực hiện một hành vi theo quan niệm đạo đức của bản thân
là đúng hoặc sai và dựa trên quan niệm đạo đức của cộng đồng hoặc của cả xã hội
là đúng hay không đúng để đưa ra giải pháp nhất định hoặc phương án nào đó.
Đôi khi những lựa chọn hành vi này có thể không sai về mặt pháp lý (do pháp luật
chưa điều chỉnh hoặc không điều chỉnh) nhưng rõ ràng ở góc nhìn xã hội là có vấn
đề, thậm chí là phản cảm. (ví dụ: đi đường gặp người bị tai nạn thì số đông làm lơ,
bỏ mặc nạn nhân, không trực tiếp sơ cấp cứu vì sợ liên lụy, sợ bị công an hỏi, bị
người nhà nạn nhân đuổi đánh v.v..; ở sân bay thấy cụ già xách nặng hoặc phụ nữ
có thai, kèm con nhỏ nhưng “tay xách nách mang” cũng không dám cầm đồ đạc
giúp vì sợ liên quan đến tội phạm v.v..).
Đạo đức nghề luật là một loại hình đạo đức nghề nghiệp. Đây là những quan niệm
đạo đức được hình thành trên cơ sở hoat động nghề nghiệp của một nhóm người
hành nghề luật như Thẩm phán, Luật sư, Kiểm sát viên, Công chứng viên v.v... Do
đó, đạo đức nghề luật trước hết phải mang đầy đủ các yếu tố của đạo đức xã hội,
không được trái với đạo đức xã hội. Bên cạnh đó, đạo đức nghề luật còn bao hàm
những yếu tố để giúp người hành nghề luật đạt được chuẩn mưc của nghề đó là
sự công bằng, bình đẳng và “tinh thần thượng tôn pháp luât” để bảo vệ một trật
tự, một “hình mẫu” do luật định. Như vậy, thông qua hoạt động nghề nghiệp của
mình, bằng các tác nghiệp theo những chuẩn hành vi nhất định (thường được xây
dựng bằng Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp), người hành nghề luật
hướng đến cái đúng, cái thiện, cái đẹp, sự bình đẳng và công bằng để định hướng
hành vi tác nghiệp.
Những người hành nghề luật làm ở những vị trí khác nhau, thậm chí có lúc đối lập
nhau trong hệ thống tư pháp (ví dụ vai trò của Điều tra viên, Kiểm sát viên và Luật
sư trong vụ án hình sự), do đó rất khó có thể đồng nhất các nguyên tắc và các
chuẩn mực đạo đức của những người làm những công việc khác nhau, đảm nhận
những vị trí và trọng trách khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết các chức danh công việc
trong hệ thống tư pháp đều dựa trên những chuẩn mực đạo đức cơ bản nhất của
một người hành nghề luật, đó là:
1. Những phẩm chất đạo đức tốt đẹp mà một công dân xã hội pháp quyền cần
phải có;
2. Bản lĩnh và tự tôn nghề nghiệp
3. Tinh thần trách nhiệm, hợp tác trong hoạt động nghề nghiệp
4. Lòng nhân ái, tình yêu thương con người
Đạo đức nghề nghiệp giữ môt vai trò to lớn, ảnh hưởng mạnh mẽ không chỉ với
những người hành nghề luật mà còn tác động và chi phối đển toàn xã hội thông
qua các hoạt động nghề nghiệp quan trọng và sâu rộng, cụ thể là:
1. Góp phần xây dựng hệ tư tưởng và định hướng hành vi của người hành nghề
luật
Đạo đức nghề luật chính là sự bổ sung vào các quy phạm đạo đức xã hội và quy
phạm pháp luật của Nhà nước ban hành để làm nên một con người “vừa hồng,
vừa chuyên” và hoàn thiện hơn. Khi đã hình thành những chuẩn mực đạo đức
nghề nghiệp thì người hành nghề luật luôn đề cao tinh thần “thượng tôn pháp
luật”, tự giác hình thành ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm trong
hoạt động nghề nghiệp; luôn tu dưỡng, rèn luyện đạo đức nghề nghiệp, chấp
hành và thực hiện nghiêm chỉnh các quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp. Khi
đưa ra một giải pháp hoặc phương án nào đó, họ luôn “soi” vào các chuẩn đạo
đức nghề nghiệp và lựa chọn các quy tắc ứng xử phù hợp nhất và mang tính
‘người” nhất.
2. Góp phần bảo đảm chất lượng và hiệu quả của người hành nghề luật và của
cả hệ thống tư pháp;
Đạo đức nghề luật đóng vai trò nền tảng, là những quy phạm tiền đề và cơ bản, là
xuất phát điểm để điều chỉnh hành vi của người hành nghề luật, có tác dụng
khuyến khích người hành nghề luật làm việc tận tâm, làm việc có lợi cho người
khác, cho nhiều người. Do đó, đạo đức nghề luật có sức mạnh của riêng nó, đó là
sự tác động mạnh mẽ đến lương tâm, danh dự và trách nhiệm của người hành
nghề luật, thôi thúc họ làm việc hăng say và tận tâm, nhiệt tình vì tự tôn nghề
nghiệp, khẳng định bản lĩnh (hoặc thương hiệu), trau giồi kỹ năng để góp phần
bảo đảm chất lượng và hiệu quả của người hành nghề luật.
Chất lượng và hiệu qủa của hoạt động tư pháp thường được phản ánh qua nhiều
hệ đo lường như số lượng vụ án được thống kê theo từng tiêu chí cụ thể, số
lượng tội phạm bị trừng phạt v.v.. những cũng có thể thông qua sự đánh giá mức
độ hài lòng của người dân, của khách hàng với chất lượng dịch vụ pháp lý của Luật
sư, của Công chứng viên v.v.. nên thông qua việc xây dựng đạo đức nghề luật
cũng góp phần quan trọng trong việc bảo đảm chất lượng và hiệu quả của toàn hệ
thống tư pháp.
3. Vai trò bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác trong xã hội.
Những người hành nghề luật thường liên quan đến các lĩnh vực pháp luật, bằng
kiến thức pháp luật, kỹ năng hành nghề của cá nhân, họ sẽ thực hiện công việc
hoặc các dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của khách hàng hoặc cung cấp các hoạt
động hỗ trợ pháp lý miễn phí nhưng tựu trung lại đều tập trung vào các hoat động
như: tư vấn pháp luật, soạn thảo văn bản, tổ chức đàm phán, thương lượng về
các vấn đề pháp luật và có thể đại diện cho thân chủ hoặc bảo vệ quyền lợi của
thân chủ trước tòa án trong quá trình tiến hành tố tụng.
Trong xã hội, làm nghề gì cũng cần cái đức, cái tâm, cần những quy tắc ứng xử,
đặc biệt là những quy tắc đạo đức nghề nghiệp liên quan đến pháp luật như thẩm
phán, kiểm sát viên, luật sư, công chứng viên – những nghề nghiệp được ví như
nắm trong tay sinh mệnh chính trị của người khác… Một khi họ không nằm lòng
những quy tắc đạo đức nghề nghiệp của mình thì việc “sảy chân” là hoàn toàn dễ
hiểu. Do đó khi xem xét chuẩn Đạo đức nghề luật cần có sự đánh giá, so sánh ở
các vị trí công việc khác nhau trong hệ thống tư pháp.
Chuẩn mực đạo đức của người Công an cách mạng thống nhất với chuẩn mực đạo
đức của người đảng viên cộng sản, người cán bộ, công chức của Nhà nước, đồng
thời thể hiện đặc điểm riêng của công tác Công an. CAND là lực lượng có nhiệm
vụ cao cả, nặng nề là bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ Đảng, Nhà nước và cuộc
sống bình yên của nhân dân, chống các thế lực phản động, thù địch và các loại tội
phạm, giữ gìn an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội. Nhiệm vụ đó không chỉ là
bảo vệ mà còn có ý nghĩa xây dựng xã hội mới, tạo dựng đời sống xã hội tốt đẹp.
Vì thế 6 Điều Bác Hồ dạy đối với người Công an cách mạng chính lý nền tảng đạo
đức xây dựng tư cách của người chiến sĩ công an là:
▪ Đối với tự mình phải : Cần, Kiệm, Liêm, Chính
▪ Đối với đồng sự phải : Thân Ái Giúp Đỡ
▪ Đối với Chính phủ phải : Tuyệt Đối Trung Thành
▪ Đối với nhân dân phải : Kính Trọng Lễ Phép
▪ Đối với công việc phải : Tận Tụy
▪ Đối với địch phải : Cương Quyết, Khôn Khéo".
 (Trích Thư gửi đồng chí Giám đốc Công an Khu XII của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày
11/3/1948).
Ngoài ra chiến sĩ lực lượng vũ trang đều phải tuân thủ 5 lời thề danh dự của Công
an nhân dân Việt Nam và thực hiện đúng 10 điều Kỷ luật của Công an nhân dân
Việt Nam;
Các cán bộ Tòa án thì xây dựng đạo đức của nghề theo Quy tắc ứng xử của cán
bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban
hành theo Quyết định số 1253/2008/QĐ- TANDTC ngày 18/9/2008 và theo Quyết
định số 87/ QĐ-HĐTC ngày 04/7/2018 của Hội đồng tuyến chọn giám sát Thấm
phán quốc gia ban hành Bộ Quy tắc Đạo đức và ứng xử của Thẩm phán.
Ngành kiểm sát nhân dân thì rèn luyện đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của cán
bộ kiểm sát theo đúng Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân số 63/2014/QH13,
đặc biệt nêu rõ tại Điều 59 về Trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức và
người lao động khác của Viện kiểm sát nhân dân
1. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
2. Bồi thường, bồi hoàn thiệt hại gây ra khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo
quy định của pháp luật.
3. Giữ bí mật nhà nước và bí mật công tác.
4. Tôn trọng và chịu sự giám sát của nhân dân.
5. Nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật, quy định của Viện kiểm sát
nhân dân; tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật.
6. Thường xuyên học tập, nghiên cứu, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.

Công chứng là một nghề cao quý, bởi hoạt động công chứng bảo đảm tính an toàn
pháp lý, ngăn ngừa tranh chấp, giảm thiểu rủi ro cho các hợp đồng, giao dịch, qua
đó bảo vệ quyền, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức.
Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng quy định các chuẩn mực đạo đức, hành vi
ứng xử của công chứng viên trong hành nghề công chứng, là cơ sở để công chứng
viên tự giác rèn luyện, tu dưỡng đạo đức trong hành nghề và trong đời sống xã
hội nhằm nâng cao trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên, nâng cao uy tín
của công chứng viên, góp phần tôn vinh nghề công chứng trong xã hội. Đội ngũ
Công chứng viên luôn thực hiện theo đúng Quy tắc Đạo đức hành nghề công
chứng quy định tại Thông tư số 11/2012/TT-BTP do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban
hành ngày 30/10/2012;

Trước đây Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam đầu tiên
được Hội đồng Luật sư toàn quốc thông qua và ban hành kèm theo Quyết định số
68/QĐ-HĐLSTQ ngày 20/7/2011 của Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam. Sau gần
9 năm triển khai thực hiện và qua 2 năm nghiên cứu soạn thảo, chỉnh lý, với nhiều
lần tổ chức hội thảo, tọa đàm lấy ý kiến của các luật sư, các ủy viên Ban Thường
vụ Liên đoàn và Ủy viên Hội đồng luật sư toàn quốc, ngày 13/12/2019 Bộ Quy tắc
Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam đã được Hội đồng Luật sư toàn
quốc thông qua và ban hành theo Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ.
Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam năm 2019 gồm Lời
nói đầu, 06 Chương và 32 Quy tắc, có hiệu lực kể từ ngày được Chủ tịch Liên đoàn
Luật sư Việt Nam thay mặt Hội đồng Luật sư toàn quốc ký ban hành và thay thế
Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam được Hộ i đồng Luật sư
toàn quốc ban hành ngày 20 tháng 7 năm 2011. Đạo đức nghề nghiệp của luật sư
bao gồm các qui định chung về đạo đức của người luật sư trong các mối quan hệ
giữa luật sư với khách hàng, mối quan hệ giữa luật sư với đồng nghiệp và mối
quan hệ giữa luật sư với các cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan nhà nước khác.
Mỗi luật sư phải ý thức được sứ mệnh của mình, biết giữ gìn phẩm chất và danh
dự nghề nghiệp, phải tạo niềm tin và nhận được sự kính trọng từ khách hàng, từ
đó tôn vinh nghề luật sư
Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam đã góp phần củng cố
và hoàn thiện các giá trị chuẩn mực về đạo đức và định hướng hành vi ứng xử
nghề nghiệp của luật sư, là thước đo phẩm chất đạo đức và trách nhiệm nghề
nghiệp của luật sư, tạo cơ sở để luật sư tự giác rèn luyện, tu dưỡng đạo đức trong
hành nghề và sinh hoạt đời sống, giữ gìn phẩm giá, uy tín của mỗi cá nhân luật sư
nói riêng và góp phần nâng cao vị thế, uy tín của đội ngũ luật sư nói chung.Đồng
thời, Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam còn là mộ t trong
những công cụ chủ yếu để Liên đoàn Luật sư Việt Nam, các Đoàn luật sư thực hiện
chức năng tự quản, là cơ sở để giải quyết khiếu nại, tố cáo, xem xét khen thưởng,
xử lý kỷ luật luật sư.
Ngoài ra, khi nghiên cứu các văn bản pháp luật hiện hành liên qua đến cán bộ,
công chức, viên chức, đặc biệt là những người hành nghề chuyên nghiệp thì vấn
đề “đạo đức công vụ”, “đạo đức nghề nghiệp”, “đạo đức hành nghề” luôn luôn
được đề cao, coi đây là một yêu cầu bắt buộc trong hoạt động công vụ, nghề
nghiệp. Đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thì trong một số luật chuyên
ngành đã có các quy định về vấn đề này. Đối với nhiều lĩnh vực, ngành nghề cụ
thể thì các luật, thông tư, quy chế và các văn bản khác quy định về đạo đức hành
nghề, đạo đức nghề nghiệp, về ứng xử, giao tiếp trong hành nghề, về quy tắc đạo
đức và ứng xử nghề nghiệp. Các văn bản này do các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành hoặc các hội nghề nghiệp tự ban hành hoặc hội nghề nghiệp phối
hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, có thể tham thảo theo link
dưới đây:
https://baodatviet.vn/dien-dan-tri-thuc/phap-luat-da-quy-dinh-gi-ve-dao-duc-
nghe-nghiep-3387062
1.2. Định hướng nghề luật
1.2.1. Định hướng nghề luật là gì?
Sẽ ra sao nếu bạn không có định hướng nghề nghiệp? Nếu không có lối
đi, không có định hướng được nghề nghiệp mình đang hoặc sẽ theo đuổi, bạn sẽ rơi
vào trạng thái như đi ra chợ mà không biết để làm gì, sẽ là một sự phí phạm về thời
gian như bạn đi mà không có đích đến, vô định trong tương lai.
Tôi từng có một người bạn với sở thích nhảy việc, anh ta thay tới 05 cơ quan
khác nhau khác nhau chỉ trong vòng 04 năm. Lý do của anh ta đưa ra rất đơn giản
“chán thì nghỉ, chẳng có lý do gì”. Thế rồi tôi hỏi lại “vậy định hướng nghề nghiệp
của cậu là gì? Những công việc cậu từng làm liệu có đúng với nghề nghiệp cậu
chọn?”. Lúc này người bạn của tôi dừng lại, anh bắt đầu suy nghĩ về những mơ
ước của mình và rồi sau đó không lâu, anh ta tìm được một công việc đủ hấp dẫn
để níu kéo anh ta lâu dài và cơ hội thăng tiến nghề nghiệp và tôi nói với anh ta
“bạn hãy nghiệm quy luật của sự xếp hàng” nếu bạn cứ nhảy mãi từ hàng này sang
hàng khác thì không bao giờ đến lượt bạn cả. Bạn thấy gì trong câu chuyện này?
Nếu công việc bạn đang làm khiến bạn mệt mỏi, không thấy thoải mái, hãy xem lại
định hướng nghề nghiệp của mình, liệu công việc này có đúng với nghề nghiệp
cùng con đường bạn đang muốn đi? Biết được định hướng nghề nghiệp cho bản
thân là điều rất quan trọng – Định hướng nghề nghiệp là ngọn đèn chỉ lối cho mỗi
người, nếu bạn chọn đúng ngành nghề - tương lai bạn sẽ tươi sáng.
Theo nhu cầu phát triển của xã hội, mỗi nhóm ngành lại có một hướng
đi riêng nhằm đáp ứng nhu cầu của cuộc sống. Nghề luật trong tương lai sẽ giúp
bạn định hướng con đường sự nghiệp sau này nếu lựa chọn ngành luật, ngành luật
kinh tế.
Đa số khi người ta suy nghĩ về các lựa chọn nghề nghiệp thuộc ngành luật,
công việc nảy ra đầu tiên trong đầu có lẽ là nói trước công chúng trong phòng phán
xử, giữ vị trí như thẩm phán hay luật sư xét xử. Tuy nhiên, cũng có công việc
ngành luật hiếm khi phải nói trước công chúng và không yêu cầu xuất hiện trên
tòa, như luật sư làm trong văn phòng giao dịch với công việc đàm phám các hợp
đồng kinh doanh, viết hợp đồng và điền giấy tờ pháp lý. Trường luật thu hút cả
người hướng nội (thường thích công việc đọc hiểu và viết luật) và người hướng
ngoại (thường có hứng thú với các khó khăn trên tòa),” theo Ian Pisarcik – luật sư
kiêm sinh viên tại University of Pittsburgh School of Law đã có đóng góp lớn đối
với trang web tư vấn pháp lý Enjuris.com. “May mắn thay, cả người hướng nội và
hướng ngoại đều có thể kiếm được việc trong ngành luật. Ví dụ, những người
hướng ngoại có thể thấy bản thân mình làm việc tại các văn phòng tố tụng, trong
khi nhóm còn lại thường thích luật giao dịch hơn” 1. Vì vậy, bạn có thể an tâm rằng

1 http://sansangduhoc.vn/tin-tuc/cac-j-d-tuong-lai-can-biet-nhung-gi-ve-nganh-luat.html
bạn sẽ có cơ hội lựa chọn được rất nhiều công việc đa dạng liên quan đến pháp luật
sau khi tốt nghiệp.
Theo tinh thần Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc
tế, Việt Nam tiếp tục chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, trong đó hội nhập kinh
tế quốc tế giữ vai trò trọng tâm. Khi nền kinh tế nước ta hội nhập sâu rộng với nền
kinh tế thế giới, các doanh nghiệp trong nước sẽ đứng trước nhiều cơ hội và thách
thức mới, lúc này đòi hỏi các doanh nghiệp phải có những bước chuyển mình
mạnh mẽ. Trong đó, việc nắm rõ “bộ khung” pháp luật là một trong những yếu tố
quan trọng tạo ra lợi thế cạnh tranh lành mạnh.
Theo báo cáo của Trung tâm dự báo nguồn nhân lực, trong năm 2020, đất
nước cần khoảng 13.000 luật sư, 2.300 thẩm phán, 2.000 công chứng viên, 3.000
chấp hành viên, 300 thẩm tra viên thi hành án dân sự và thừa phát lại… Đó là chưa
kể nhu cầu cán bộ pháp luật ở các Bộ, ngành, địa phương. Tuy nhiên trên thực tế,
hiện nay mỗi năm, nước ta chỉ đào tạo ra khoảng 3.500 – 4.000 cử nhân luật. 2 Con
số trên còn tăng lên gấp nhiều lần khi tính đến lượng công chức làm việc tại các
bộ, ban ngành và doanh nghiệp. Vì vậy, ngành Luật, ngành Luật kinh tế đang được
xếp vào nhóm các ngành “khát” nhân lực của cả nước.
Với định hướng nghề luật nếu các bạn “chuẩn đạo đức, giỏi pháp luật, thạo
kỹ năng thì sáng tương lai”. Cho nên ngay bây giờ định hướng nghề luật thành
công trước hết các bạn phải trang bị cho mình theo công thức: Trang bị kiến thức
luật vững + Thực hành, tích lũy các kỹ năng mềm (thuyết phục, thương lượng,
tranh luận, đàm phán…) + Thông thạo Anh ngữ + Học hỏi suốt đời (tự học, tự
trang bị kiến thức) + Đầu tư kiến thức chuyên ngành trong lĩnh vực mình muốn
theo đuổi (ví dụ tư vấn pháp lý cho doanh nghiệp bất động sản thì hiểu nghiệp vụ
kinh doanh của doanh nghiệp bất động sản, cho ngân hàng thì phải biết các
nghiệp vụ trong ngân hàng, trong doanh nghiệp bảo hiểm thì phải biết nghiệp vụ
bảo hiểm…).
1.2.2. Định hướng nghề luật đối với ngành luật học
Ngành luật cơ hội để tự khẳng định bản thân – không bao giờ lo thất
nghiệp.
Pháp luật ảnh hưởng đến tất cả mọi mặt trong đời sống xã hội, từ việc mua
bán tài sản đến giải quyết các mâu thuẫn phát sinh, tranh chấp. Am hiểu và vận
dụng pháp luật vào đời sống là một công việc không hề đơn giản với tất cả mọi
người bởi luật pháp là một lĩnh vực chuyên ngành không ai đều có thể tiếp cận
2 http://dec.neu.edu.vn/viet-nam-dang-rat-khat-nhan-luc-nganh-luat-kinh-te/
được. Bên cạnh đó, mọi hoạt động của một xã hội văn minh đều được quản lý
trong khuôn khổ luật lệ nhất định nên Luật có thể xem là ngành học nền tảng cho
các lĩnh vực khác trong đời sống. Như vậy, có thể thấy học ngành luật sẽ cho bạn
nhiều cơ hội phát triển sự nghiệp tương lai.
Trường Đại học luật, Đại học Huế đào tạo ngành luật gắn với thực tiễn. Là
một trường đại học đào tạo Luật có chất lượng nằm trong top đầu trong hệ thống
giáo dục pháp luật ở Việt Nam, Trường có chương trình đào tạo ngành Luật theo
hướng đẩy mạnh tính ứng dụng thực tiễn. Người học thường xuyên thực hành, xử
lý tình huống pháp luật thông qua phương pháp giáo dục “mô phỏng” như phiên
tòa giả định; tham dự và tập sự tại các phiên tòa, văn phòng luật sư; tham gia Câu
lạc bộ Pháp luật, sự kiện “Ngày hội Pháp luật”, tư vấn pháp luật cộng đồng, hỗ trợ
pháp lý cho người nghèo, các đối tượng yếu thế, các cuộc thi tìm hiểu pháp luật và
các cuộc thi về quản lý doanh nghiệp, đầu tư tài chính để phát triển toàn diện kỹ
năng chuyên môn. Đó chính là sự chuẩn bị chu đáo để các Cử nhân Luật tương lai
có thể vận dụng chính xác, nhuần nhuyễn, linh hoạt các quy định pháp luật cũng
như thủ tục tố tụng và giải quyết tranh chấp phát sinh trong quá trình hoạt động của
các văn phòng, cơ quan, doanh nghiệp... đáp ứng yêu cầu về dịch vụ pháp lý ngày
càng đa dạng của các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức trong và ngoài nước.
Ngành luật với việc trang bị cho các bạn kiến thức nền tảng về pháp luật trên
mọi lình vực: dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, đất đai, môi trường, tài chính,
ngân hàng, thương mại, bảo hiểm, hành chính, tư pháp... cùng với đó các kỷ năng
mềm như kỷ năng tranh tụng, kỷ năng lập luận, kỷ năng làm việc nhóm, kỷ năng
hòa giải,... sẽ cung cấp cho bạn, định hướng nghề nghiệp rộng mở đó là chuyên
viên tư vấn pháp luật tại các doanh nghiệp; chuyên viên thực hiện dịch vụ pháp lý
tại các tổ chức dịch vụ pháp luật, văn phòng luật sư; chuyên viên lập pháp, hành
pháp, tư pháp trong các cơ quan nhà nước hoặc nghiên cứu, giảng dạy về pháp luật
tại các cơ sở giáo dục.
Đây là một nghề nghiệp giàu triển vọng với nhiều đãi ngộ đặc biệt, và một
tương lai rộng mở.
1.2.3. Định hướng nghề luật đối với ngành luật kinh tế
Ngành Luật kinh tế nền tảng của sự phát triển bền vững.
Trong xu thế hội nhập, nền kinh tế Việt Nam đang có sự phát triển đa dạng,
phức tạp của các loại hình doanh nghiệp và các hình thức kinh doanh. Theo đó,
ngành Luật kinh tế trở thành một ngành nghề quan trọng, gắn liền với thiên chức
định hướng, dẫn dắt và đảm bảo cho xã hội một môi trường kinh doanh công bằng,
lý tưởng. Bên cạnh đó, với sự phát triển kinh tế - xã hội, mở rộng giao thương quốc
tế, rủi ro về pháp lý trong kinh doanh ngày càng lớn nếu các doanh nghiệp không
biết cách phòng ngừa. Để có thể tiên liệu và phòng tránh rủi ro pháp lý không phải
ai cũng làm được mà cần có một đội ngũ những người am hiểu pháp luật. Vì vậy,
ngày nay, rất nhiều các doanh nghiệp có hẳn một phòng/ban pháp chế để tư vấn,
kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp trong khuôn khổ pháp luật, tránh những sai
phạm có thể xảy ra.
Ngành Luật kinh tế là ngành nghiên cứu và vận dụng những quy phạm pháp
luật do nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình hoạt
động kinh doanh và quản lý kinh tế. Với ngành học này, người học được đào tạo
kiến thức về pháp luật, kiến thức pháp luật về kinh tế, thực tiễn pháp luật trong
kinh doanh cũng như khả năng nghiên cứu và xử lý những vấn đề pháp lý đặt ra
trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong lãnh thổ và ngoài lãnh thổ
Việt nam.
Người học ngành Luật kinh tế không chỉ được đào tạo bài bản kiến thức về
hệ thống pháp luật quốc gia, kỹ năng xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật mà còn được chú trọng trang bị những kỹ năng mềm cần thiết như: kỹ
năng giao tiếp, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng đàm phán, kỹ năng tư duy, kỹ năng
giải quyết vấn đề và ra quyết định, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng tổ chức công
việc, kỹ năng giải quyết mâu thuẫn,…
Trong bối cảnh nền kinh tế đất nước ta đang chuyển mình mạnh mẽ và
hội nhập quốc tế như hiện nay, nhu cầu nguồn nhân lực ngành luật nói chung
và Luật kinh tế nói riêng là cần thiết hơn bao giờ hết.  Người học theo học
ngành Luật kinh tế, ngoài cơ hội làm việc trong các cơ quan pháp luật của nhà
nước, cơ hội trở thành các chuyên gia pháp lý cho các công ty, tập đoàn trong nước
và doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam là rất lớn. Ngoài các doanh nghiệp,
người học cũng có thể tham gia đội ngũ pháp chế trong các ngân hàng thương mại,
công ty chứng khoán, công ty tài chính... Hoạt động của ngân hàng, các công ty tài
chính thường gắn liền với hợp đồng, đầu tư,.. nên tiềm ẩn nhiều rủi ro. Vì vậy luôn
cần những đội ngũ pháp chế để rà soát hợp đồng, đảm bảo hợp đồng không bị vô
hiệu, bảo đảm những hoạt động của mình không vi phạm pháp luật. Không những
thế, các tổ chức này thường có các phòng/ban khác ngoài pháp chế mà phải dùng
đến nhân sự ngành Luật như: đầu tư, doanh nghiệp, thu hồi nợ, đấu giá, tố tụng…
Muốn làm được điều đó, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải có đội ngũ chuyên gia
pháp lý, luật sư chuyên ngành về Luật kinh tế để tư vấn đường lối chính sách cho
doanh nghiệp. Giúp cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra
thuận lợi.
Bên cạnh đó, trong thời đại đồng tiền không nằm yên trong két sắt, trong tài
khoản ở ngân hàng, trong ATM mà luôn được tận dụng cho những cơ hội đầu tư
vào cổ phiếu, trái phiếu, những chiến lược kinh doanh táo bạo như hiện nay, các
Cử nhân Luật kinh tế có cơ hội trở thành những chuyên gia tư vấn tài chính chuyên
cung cấp cho khách hàng những quyết định đầu tư tài chính đúng đắn, sáng suốt.
Nhân lực ngành Luật kinh tế ngày càng thiếu
Theo số liệu từ cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp (Bộ Kế
hoạch và Đầu tư), tính đến ngày 31/12/2019, cả nước có 758.610 doanh nghiệp
đang hoạt động3 và chắc chắn rằng không một doanh nghiệp nào có thể thiếu vắng
đi sự hỗ trợ pháp lý trong việc kinh doanh và điều hành. Cùng với đó, hòa mình
vào “thế giới phẳng”, mở cửa hội nhập với những tổ chức thương mại trên thế giới:
WTO, CPTPP, EVFVA cũng như nhiều tổ chức kinh tế khác trong khu vực và trên
thế giới, kinh tế nước ta đang ngày càng khởi sắc với sự phát triển không ngừng
của các doanh nghiệp nội địa bên cạnh các tổ chức, doanh nghiệp và tập đoàn có
vốn đầu tư nước ngoài. Hành lang pháp lý và các vấn đề liên quan đến chính sách
về kinh tế phải được đảm bảo, bất cứ doanh nghiệp, tổ chức nào cũng cần nắm rõ
pháp chế để triển khai các hoạt động kinh doanh. Ngành Luật kinh tế theo đó trở
thành một ngành nghề không thể thiếu của xã hội hiện đại, ngày càng góp phần
khẳng định sự mạnh mẽ và bền vững của từng doanh nghiệp nói riêng và của nền
kinh tế nói chung.
Để định hướng tốt cho nghề luật trong tương lai của bản thân điều tiên
quyết để làm nên thành công đó là niềm đam mê, sự kiên trì, tinh thần học hỏi,
làm việc hết công suất và lòng yêu nghề. Tất cả mọi thứ sẽ giúp bạn thành công và
thăng tiến nhanh chóng trong tương lai với tấm bằng cử nhân luật, cử nhân luật
kinh tế mà bạn đã dày công đạt được! Đừng bao giờ bỏ cuộc bạn nhé!

3 https://gso.gov.vn/default.aspx?tabid=382&idmid=2&ItemID=19594

You might also like