You are on page 1of 10

Quyền làm chủ của nhân dân

(theo Hiến pháp 2013)


Nhóm: Giác ngộ
1. Nguyễn Thị Quỳnh Liên
2. Chu Ngọc Mai
Gồm các phần:
1. Khái niệm quyền làm chủ
2. Phân tích dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.Thực trạng Pl
và hiệu quả thi hành dân chủ ở nước ta hiện nay
3.Quan điểm của Đảng về quyền làm chủ của nhân dân
4. Một số vấn đề lý luận về quyền làm chủ của nhân dân
5. Giải pháp hoàn thiện PL và nâng cao hiệu quả thi hành PL vè
dân chủ trực tiếp. Kết luận chung
1. Khái niệm quyền làm chủ của nhân dân

• “Quyền làm chủ của nhân dân” là một khái niệm rất cụ thể, nội hàm rất rõ
ràng, quyền làm chủ là làm chủ chính quyền nhà nước, quyền tham gia vào
các công việc của nhà nước, quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước,
nhân dân làm chủ vận mệnh của bản thân, làm chủ vận mệnh của đất nước.
2.1 Phân tích dân chủ trực tiếp và dân chủ đại
diện
• Dân chủ được thực hiện dưới hai hình thức cơ bản là dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.

• Dân chủ trực tiếp là hình thức mà qua đó nhân dân bằng hành vi của mình trực tiếp thực hiện quyền làm chủ nhà nước và xã hội.

• Nhân dân tham gia thành lập bộ máy nhà nước thông qua bầu cử và ứng cử. Thông qua bầu cử và ứng cử, nhân dân tự lựa chọn người xứng đáng
nhất để thay mặt mình giải quyết và quản lý công việc nhà nước và xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc
dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác việc nước, việc nhà… Do tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội; Quốc hội sẽ cử ra Chính
phủ. Chính phủ đó thực sự là Chính phủ của nhân dân”.

• Nhân dân biểu quyết khi nhà nước trưng cầu ý kiến. Nhân dân bỏ phiếu thể hiện ý chí của mình đồng ý hay không đồng ý đối với một vấn đề chính trị,
xã hội, pháp lý quan trọng của đất nước hay địa phương, hoặc việc xây dựng, thông qua hiến pháp mới hay hiến pháp sửa đổi. Các vấn đề được đem ra
trưng cầu ý dân có thể được quy định cụ thể trong hiến pháp, hoặc do cơ quan lập pháp, thành viên cơ quan lập pháp, cử tri yêu cầu. Tùy theo quy định của
hiến pháp hoặc pháp luật quốc gia, kết quả trưng cầu ý dân có thể có hiệu lực ràng buộc về mặt pháp lý hoặc có giá trị tham khảo.

• Nhân dân tham gia quản lý nhà nước. Nhân dân tham gia quản lý nhà nước bằng các phương thức như nhân dân tham gia thảo luận và góp ý kiến xây
dựng chính sách, pháp luật của nhà nước. Ví dụ: Soạn thảo Hiến pháp năm 1959. Ban soạn thảo Hiến pháp năm 1959 đã tổ chức hai đợt lấy ý kiến nhân dân với thời gian 4 tháng, 10 điểm
đóng góp lớn được Ban sửa đổi Hiếp pháp tiếp thu, chỉnh sửa, ngoài ra những ý kiến đóng góp về những vấn dề chi tiết khác thuộc phạm vi lập pháp, liên quan đến hoạt động của các cơ quan nhà
nước được chuyển đến các cơ quan phụ trách để nghiên cứu tiếp thu.

• Nhân dân bãi miễn đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND. Nhân dân không những bầu ra những đại biểu của mình mà còn có quyền bãi miễn đại biểu đó
khi họ không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.

• Nhân dân giám sát hoạt động của nhà nước, cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước. Nhân dân giám sát để đảm bảo các cơ quan nhà nước,
cán bộ công chức nhà nước thực hiện đúng quyền hạn do nhân dân ủy thác không lạm quyền, chuyên quyền, lộng quyền.
2.1 Phân tích dân chủ trực tiếp và dân chủ đại
diện
• Hình thức dân chủ đại diện là hình thức tham gia quản lý nhà nước thông qua các đại diện được bầu cử; thay mặt cho cử tri trong việc thực
hiện các chức năng hoạch định chính sách, quản lý nhà nước và xã hội.

• Dân chủ đại diện là hình thức phổ biến trên thế giới hiện nay, dân chủ đại diện là việc thực hiện quyền lực của nhân dân thông qua nhà

nước, vì vậy luôn gắn với một chế độ nhà nước nhất định .
• Ở Việt Nam, dân chủ đại diện với chế chế độ “dân ủy” đã được khẳng định trong Hiến pháp năm 1946 và được tiếp tục được khẳng dịnh
trong tất cả các bản Hiến pháp sau này. Điều 6 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực
tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”. Như vậy, hình thức
dân chủ đại diện ở nước ta được thực hiện thông qua Quốc hội và HĐND các cấp. Ngoài ra, nhân dân còn làm chủ thông qua các tổ chức
chính trị - xã hội, các hội nghề nghiệp của nhân dân được lập nên theo nguyên tắc tự nguyện. Vấn đề dân chủ đại diện, khoản 1 Điều 79
Hiến pháp năm 2013 đã quy định rất rõ: “Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân ở đơn vị bầu cử ra
mình và của Nhân dân cả nước”.

• Dân chủ đại diện giúp truyền đạt các ý nguyện của công dân thông qua các hình thức cơ quan dân cử, các đại biểu được người dân bầu
chọn, qua đó cho phép sự điều tiết xã hội được quy về một mối, giúp nhà nước quản lý xã hội một cách đồng bộ, thống nhất, phản ứng kịp
thời và có hiệu quả trước biến động của xã hội. Dân chủ đại diện cũng tồn tại hạn chế, người dân thực hiện quyền lực và quyền làm chủ của
mình chủ yếu thông qua người đại diện hay dân chủ đại diện. Tiếng nói của người dân phải thông qua nhiều nấc trung gian như đại biểu
HĐND các cấp, cán bộ lãnh đạo các tổ chức chính trị-xã hội… Do đó, hình thức dân chủ dại diện phụ thuộc rất nhiều vào trình độ nhận
thức, phẩm chất, năng lực của người đại diện.
2.2 Thực trạng PL và hiệu quả thi hành PL về dân chủ ở nước ta hiện nay
Thành tựu:

• Quyền làm chủ của người dân Việt Nam đang được thực thi ngày càng rộng rãi trên tất cả các lĩnh vực từ chính trị đến kinh tế, văn hóa, tư
tưởng.

• - Về chính trị: Người dân Việt Nam đã và đang được Đảng, Nhà nước tạo mọi điều kiện để thực hiện quyền làm chủ về chính trị, đó là
quyền bầu cử, ứng cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp; quyền giám sát, phản biện xã hội; quyền khiếu nại, tố cáo; quyền
được tham gia đóng góp ý kiến vào các công việc trọng đại của đất nước...
• - Về chính trị: Người dân Việt Nam đã và đang được Đảng, Nhà nước tạo mọi điều kiện để thực hiện quyền làm chủ về chính trị, đó là
quyền bầu cử, ứng cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp; quyền giám sát, phản biện xã hội; quyền khiếu nại, tố cáo; quyền
được tham gia đóng góp ý kiến vào các công việc trọng đại của đất nước...
• - Về kinh tế: Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã đưa lại cho người dân ngày càng nhiều quyền dân chủ trong lĩnh vực
kinh tế. Với chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, đa dạng hóa các hình thức sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối sản phẩm,
người dân Việt Nam được tự do lựa chọn tham gia vào các thành phần kinh tế phù hợp với điều kiện của bản thân, tự do sản xuất và kinh
doanh theo pháp luật
• - Về văn hóa, tư tưởng: Từ khi đổi mới đến nay, việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng thật sự được coi
trọng và đã có những thay đổi căn bản. Người dân Việt Nam hiện nay được bảo đảm những quyền tự do căn bản về văn hóa, tư tưởng, như
tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng; tự do ngôn luận, tự do báo chí; tự do hội họp, tự do đi lại, học hành, chữa bệnh, tự do sinh hoạt văn
hóa, tinh thần lành mạnh; tự do phát huy những nét văn hóa truyền thống của dân tộc mình... Đây chính là cơ sở để xây dựng một nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Hạn chế:
• Tuy nhiên, một số chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước còn chưa phù hợp với nguyện vọng của đông đảo người dân lao động,
một số chính sách đưa ra nhưng chưa được thực hiện nghiêm túc, cơ chế giám sát việc thực thi chính sách, pháp luật còn lỏng lẻo. Vẫn còn
biểu hiện của cơ chế “xin – cho”, bao cấp, độc quyền, lợi ích nhóm. Trình độ văn hóa, hiểu biết về chính sách, pháp luật của một bộ phận
nhân dân còn hạn chế nên họ không quan tâm hoặc không đủ khả năng thực hiện quyền làm chủ của mình.
3. Quan điểm của Đảng về quyền làm chủ của ND
Trong Văn kiện Đại hội lần thứ XI, Đảng ta đã khẳng định một số nội dung chính sau đây:

• Thứ nhất, chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng là một chế độ mang bản chất dân chủ. Trong chế độ đó, “tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân, mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân”.
• Thứ hai, dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta cũng đã khẳng định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là
một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ”. Trong Văn kiện này, giá trị “dân chủ” được
nhấn mạnh và đưa lên trước giá trị “công bằng” và điều đó cho thấy Đảng ta đã xác định rõ vị trí quan trọng của việc thực hiện dân chủ
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, coi đây là điều kiện tiên quyết, cơ sở thiết yếu để xây dựng xã hội công bằng, văn minh. Dân
chủ không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực của sự phát triển đất nước, là nhân tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; bởi
lẽ, thực hiện tốt dân chủ sẽ phát huy được sức mạnh của quần chúng nhân dân với vai trò “chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử”.
• Thứ ba, phải có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Việc xây dựng dân chủ không phải chỉ dừng lại ở những
khẩu hiệu mang tính hình thức, mà cần phải hoàn thiện cơ chế dân chủ thực sự cụ thể để thông qua đó người dân có thể thực hiện những
quyền làm chủ của mình trên cơ sở của pháp luật.
• Thứ tư, phát huy dân chủ phải đi liền với tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương xã hội. Dân chủ
không đồng nghĩa với vô chính phủ. Thực hiện dân chủ rộng rãi với đông đảo quần chúng nhân dân, nhưng phải đảm bảo kỷ cương,
phép nước. Có thể nói, chế độ dân chủ mà chúng ta đang xây dựng mang bản chất chính trị của giai cấp công nhân, do giai cấp công
nhân lãnh đạo thông qua chính đảng của nó là Đảng Cộng sản, đó là một nền dân chủ mang tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu
sắc đúng như quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
• Trong tư duy lý luận của Đảng ta, vấn đề không dừng lại ở quan niệm về dân chủ và nhận thức về vai trò của dân chủ, mà điều quan
trọng hơn là việc thực hành dân chủ, nghĩa là phải tạo được bước chuyển căn bản từ nhận thức đến hành động. Để đạt được mục tiêu
xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã xác định rõ: “Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo dân chủ
được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế
hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm”. Phương thức thực hiện dân chủ là: “Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt
động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện”
• Trong thực hành dân chủ, Đảng ta luôn nhấn mạnh mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa Nhà nước với nhân dân, đảm bảo thực hiện đầy
đủ các quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân.
4. Một số vấn đề lý luận về quyền làm chủ của nhân dân

• Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm Thường thức chính trị (1953) Bác đã viết “dân chủ tức là dân là chủ”, người chỉ rõ “Ở nước ta
chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm chủ... Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi
hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ”. Như vậy thông qua quan điểm rất ngắn gọn về dân chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên hai nội
dung quan trọng của “dân chủ”. Thứ nhất, dân chủ tồn tại với tư cách là quyền của nhân dân, quyền được làm chủ chính quyền, làm chủ nhà
nước, làm chủ chế độ, quyền lựa chọn, xây dựng nên cơ quan dân cử. Thứ hai, dân chủ là một chế độ chính trị, một hình thức nhà nước
khi có sự tham gia của tất cả quần chúng nhân dân trong việc xây dựng, điều hành hoạt động của nhà nước, nhà nước đại diện cho quyền và
lợi ích hợp pháp của nhân dân.
• Giữa “dân chủ” và “quyền làm chủ của nhân dân” có nhiều nội dung tương đồng thậm chí được sử dụng thay thế cho nhau, song về mặt
nội hàm cần làm rõ ý nghĩa của khái niệm “quyền làm chủ của nhân dân” từ đó có cách sử dụng chuẩn xác. Dân chủ là một khái niệm rất
rộng, vừa để chỉ một quyền của công dân, vừa chỉ một thể chế chính trị, vừa mang ý nghĩa xã hội, văn hóa, dân chủ trong đời sống chính trị,
dân chủ trong đời sống kinh tế, văn hóa xã hội. “Quyền làm chủ của nhân dân” là một khái niệm rất cụ thể, nội hàm rất rõ ràng, quyền làm
chủ là làm chủ chính quyền nhà nước, quyền tham gia vào các công việc của nhà nước, quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước, nhân
dân làm chủ vận mệnh của bản thân, làm chủ vận mệnh của đất nước. “Quyền làm chủ của nhân dân” là một khái niệm gắn liền với sự ra đời
của nhà nước dân chủ nhân dân.
• Trong thời kỳ phong kiến và thực dân đế quốc, nhân dân ta không có quyền làm chủ, số phận, địa vị chính trị của nhân dân là con số
không, nhân dân chịu sự áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến, nhân dân không có quyền lực chính trị, chịu kiếp sống nô lệ, quyền lực
nhà nước, chính quyền nhà nước lúc này là chính quyền của giai cấp thống trị, chính quyền của số ít. Khi nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa ra đời, nhân dân thực sự có quyền làm chủ, trực tiếp xây dựng nên chính quyền các cấp, bầu ra đại biểu đại diện cho quyền và lợi ích của
chính mình, nhà nước là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Quyền làm chủ của nhân dân tiếp tục được khẳng định qua các bản Hiến pháp
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Khoản 2, Điều 2 Hiến pháp 2013 quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân
dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức”. Hiến pháp 2013 nhấn mạnh hai nội dung quan trọng: thứ nhất, nhà nước ta do nhân dân làm chủ; thứ hai, với việc thừa nhận
tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, Hiến pháp đã nhấn mạnh vị trí của nhân dân là người nắm giữ quyền lực nhà nước.
• Hiện nay, cùng với sự mở rộng dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân không chỉ được nhắc đến trong lĩnh vực chính trị mà còn ở nhiều
các lĩnh vực khác, trong đó có quyền làm chủ của nhân dân gắn với hoạt động quản lý nhà nước. Điều 28, Hiến pháp 2013 quy định:“ 1.
Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở,
địa phương và cả nước. 2. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp
5. Giải pháp hoàn thiện PL và nâng cao hiệu quả thi hành PL vè dân chủ trực tiếp.
Kết luận chung
• Về phương hướng, Đảng ta đã xác định cần phải “tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; mọi đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân”.Về nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, thứ
nhất, “cán bộ, công chức phải hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, tôn trọng nhân dân, tận
tụy phục vụ nhân dân”. Thứ hai, “nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, năng lực làm chủ,
tham gia quản lý xã hội của nhân dân”. Thứ ba, “có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện trên thực tế
quyền làm chủ trực tiếp” theo đúng phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Thứ tư,
“phát huy dân chủ, đề cao trách nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ cương xã hội; phê phán và nghiêm trị
những hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an
ninh, trật tự, an toàn xã hội; chống tập trung quan liêu, khắc phục dân chủ hình thức”. Việc phát huy
dân chủ đòi hỏi phải đi liền với việc đề cao trách nhiệm công dân và bảo đảm giữ vững kỷ luật, kỷ
cương xã hội. Thứ năm, thực hành dân chủ, xét đến cùng, là nhằm bảo đảm các quyền và lợi ích chính
đáng của con người. Vì vậy, Đảng ta đã nhấn mạnh cần “quan tâm hơn nữa việc chăm lo hạnh phúc và
sự phát triển tự do, toàn diện của con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người, tôn trọng
và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam ký kết”.
• Tóm lại phát huy quyền làm chủ của nhân dân nói chung, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong
quản lý nhà nước nói riêng đã trở thành một nội dung bắt buộc, được thừa nhận và đảm bảo thực hiện,
được quy định rõ ràng, cụ thể trong các văn bản pháp luật. Có thể nói, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân trong quản lý nhà nước vừa củng cố, mở rộng quyền dân chủ của nhân dân vừa góp phần to lớn vào
quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Cảm ơn cô và các bạn đã lắng
nghe

You might also like