You are on page 1of 7

Chương 1.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước dân chủ


Tư tưởng của Hồ Chí Minh về Nhà nước dân chủ chủ yếu là phản ánh và điều
chỉnh từ chủ nghĩa Mác-Lênin, được áp dụng vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.
Hồ Chí Minh cho rằng, trong một Nhà nước dân chủ, quyền lực phải nằm trong tay
nhân dân, được nhân dân lựa chọn và giám sát. Mục tiêu chính của Nhà nước dân
chủ là đảm bảo quyền tự do, bình đẳng và tiến bộ của nhân dân, đặc biệt là những
người nghèo và bị áp bức.
Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh về việc hoạt động của Nhà nước dân chủ phải tuân
theo nguyên tắc dân chủ. Điều này bao gồm việc tôn trọng quyền tự do ngôn luận,
tự do hội họp và tự do báo chí của nhân dân, cùng với việc thiết lập các cơ chế
giám sát và kiểm soát quyền lực của Nhà nước.
Hồ Chí Minh cũng quan tâm đến việc xây dựng một hệ thống pháp luật để bảo vệ
quyền lợi của nhân dân và duy trì trật tự an ninh trong xã hội. Ông tin rằng pháp
luật phải được xây dựng và thực hiện dựa trên lợi ích của nhân dân, đặc biệt là
những người yếu thế.
Với triết lý về Nhà nước dân chủ, Hồ Chí Minh tin rằng đây là nền tảng để đạt
được công bằng, tiến bộ và phát triển bền vững cho xã hội. Người đã áp dụng triết
lý này vào chính sách và hoạt động của Đảng và Nhà nước Việt Nam, đặc biệt là
trong giai đoạn đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.
1.1Bản chất giai cấp của nhà nước:
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước là một cơ quan quản lý và điều hành của
xã hội, có chức năng bảo vệ quyền lợi và lợi ích của nhân dân và giúp đất nước
phát triển. Về bản chất, Nhà nước không phải là một giai cấp, mà là một cơ quan
đại diện cho các giai cấp trong xã hội, phục vụ lợi ích chung của toàn bộ nhân dân.
Nhà nước ở đâu và bao giờ cũng mang bản chất của một giai cấp nhất định. Theo
quan điểm của Hồ Chí Minh, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
một nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân. Bản chất giai cấp công nhân của
Nhà nước Việt Nam được thể hiện trên các phương diện:
-Một là “Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo”. Hiến pháp năm 1959 khẳng định:
“Nhà nước của ta là Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công
nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”. “Ngay trong quan điểm về nhà nước dân
chủ, nhà nước do nhân dân là người chủ nắm chính quyền, Hồ Chí Minh đã nhấn
mạnh nòng cốt của nhân dân là liên minh công – nông – trí, do giai cấp công nhân
mà đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”1.
-Hai là, bản chất giai cấp của nhà nước ta thể hiện ở tính định hướng xã hội chủ
nghĩa của sự phát triển đất nước. Điều này đã được thể hiện trong quan điểm của
Hồ Chí Minh ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà mới ra đời. Bản chất
giai cấp của Nhà nước Việt Nam là Nhà nước dân chủ nhân dân, có tính chất xã
hội chủ nghĩa, tư tưởng mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã thừa hưởng và phát triển.
Đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là mục tiêu cách mạng
nhất quán của Hồ Chí Minh.
-Ba là, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước thể hiện ở nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ. Theo đó, Nhà nước tập trung
quyền lực, nhưng lại phải tuân thủ nguyên tắc dân chủ, đảm bảo quyền lợi và lợi
ích của người lao động Cụ thể, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đề cập,
nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động của Nhà nước được thể hiện ở ba
nguyên tắc cơ bản sau: tập trung quyền lực: Nhà nước cần tập trung quyền lực để
có thể thực hiện các chính sách phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ an ninh quốc
phòng và quyền lợi của nhân dân; tôn trọng dân chủ: Nhà nước phải tôn trọng dân
chủ, đảm bảo quyền lợi của người dân, đồng thời tạo điều kiện để họ tham gia tích
cực vào các hoạt động của Nhà nước; đoàn kết lực lượng nhân dân: Nhà nước cần
đoàn kết lực lượng nhân dân, đặc biệt là các lực lượng lao động, để có thể thực
hiện các chính sách và nhiệm vụ của Nhà nước.
Hồ Chí Minh cho rằng, trong một xã hội có các giai cấp khác nhau, các giai cấp
này sẽ có những lợi ích và quan điểm khác nhau, và do đó, tương ứng với đó, Nhà
nước sẽ phải bảo vệ lợi ích chung của toàn bộ xã hội. Trong khi đó, các giai cấp
cần phải hoạt động và hợp tác với nhau để đạt được mục tiêu chung của xã hội.
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh rằng Nhà nước phải đảm bảo quyền lợi
và tiếng nói cho những người nghèo và bị bức bách, bảo vệ các lợi ích của giai cấp
lao động và những người làm công. Ngoài ra, Nhà nước cũng phải phát triển các
chính sách và biện pháp nhằm giảm bớt sự chênh lệch giữa các giai cấp trong xã
hội.
Với tư tưởng này, Hồ Chí Minh đã đưa ra các chính sách và biện pháp cụ thể để
bảo vệ quyền lợi của các giai cấp lao động và đem lại sự công bằng, tiến bộ cho đất

1
Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 142
nước. Trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, Hồ Chí
Minh và Đảng cộng sản Việt Nam đã áp dụng tư tưởng này vào hoạt động của
mình, và đã đạt được nhiều thành công trong việc xây dựng một xã hội dân chủ,
công bằng và tiến bộ.
1.2. Nhà nước của Nhân dân
Tư tưởng Hồ Chí Minh coi Nhà nước của Nhân dân là một cơ quan quản lý và điều
hành của xã hội, phục vụ cho lợi ích của toàn bộ nhân dân. Ông cho rằng, Nhà
nước của Nhân dân phải được xây dựng dựa trên các nguyên tắc dân chủ, tự do,
bình đẳng và vì lợi ích của nhân dân. Người khẳng định: “Trong nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa của chúng ta, tất cả quyền lực đều là của nhân dân” 2. Hồ Chí
Minh coi đây là một tầm nhìn lớn lao và là mục tiêu của đấu tranh của nhân dân
Việt Nam. Người luôn khuyến khích nhân dân tham gia vào các hoạt động của Nhà
nước để đảm bảo quyền lợi và lợi ích của toàn bộ xã hội. Để thực hiện mục tiêu
này, ông đã đưa ra nhiều chính sách và biện pháp để đảm bảo quyền lợi và lợi ích
của các tầng lớp nhân dân.
Trong nhà nước dân chủ, nhân dân thực thi quyền lực thông qua hai hình thức là
dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp. Dân chủ trực tiếp là một hình thức tổ chức
và thực hiện quyền lực chính trị bằng cách cho toàn bộ người dân tham gia vào quá
trình ra quyết định, thường thông qua các cuộc trưng cầu ý dân, hội thảo, đại hội,
tán gẫu cộng đồng, hoặc các hình thức khác mà cho phép mọi người cùng tham gia
đưa ra quyết định về các vấn đề quan trọng của đất nước. Đây là hình thức mà Hồ
Chí Minh luôn coi trọng và tạo mọi điều kiện thuận lợi để thực hiện hình thức dân
chủ trực tiếp vì đây là hình thức dân chủ hoàn bị nhất.
Song song với hình thức dân chủ trực tiếp, hình thức dân chủ gián tiếp là một hình
thức tổ chức và thực hiện quyền lực chính trị thông qua đại diện được bầu cử của
người dân. Trong hình thức này, người dân không trực tiếp tham gia quyết định các
vấn đề quan trọng của đất nước mà thường bầu cử các đại biểu để đại diện cho
mình trong việc tham gia các quyết định quan trọng. Trong đó, hình thức dân chủ
gián tiếp:
-“Quyền lực của nhà nước là “thừa ủy quyền” của nhân dân” 3. Nhà nước chỉ có
quyền lực khi được nhân dân ủy thác và cho phép. Tự bản thân nhà nước không có
quyền lực và chỉ hoạt động dưới sự kiểm soát và giám sát của nhân dân. Hồ Chí
Minh cho rằng, quyền lực của Nhà nước là phụ thuộc hoàn toàn vào sự ủy thác của
2
Hồ Chí Minh Toàn tập t.8, Nxb Chính trị Quốc gia, tr.262
3
Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 146
nhân dân, bởi vì nhân dân là người sở hữu quyền lực tối cao và quyền lực của nhà
nước chỉ là một phương tiện để bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của nhân dân. Do đó,
quyền lực của nhà nước phải được sử dụng một cách chính đáng và hiệu quả, phải
phục vụ cho lợi ích chung của nhân dân, đảm bảo quyền lợi của tất cả các tầng lớp
trong xã hội và phải được thực hiện dưới sự giám sát và kiểm soát của nhân dân.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân là chủ nhân của quyền lực và nhà nước
phải luôn đứng trên cơ sở của sự thống nhất với nhân dân, đồng thời phải thường
xuyên lắng nghe và tiếp thu ý kiến của nhân dân để phục vụ cho lợi ích của toàn bộ
xã hội.
-“Nhân dân có quyền kiểm soát, phê bình nhà nước, có quyền miễn những đại biểu
mà họ đã lựa chọn, bầu ra và có quyền giải tán những thiết chế quyền lực mà họ đã
lập nên” 4. Nhân dân cũng có quyền miễn nhiệm những đại biểu mà họ đã bầu ra
nếu những đại biểu này không thực hiện đúng nhiệm vụ của mình và không phục
vụ cho lợi ích của nhân dân. Điều này cho thấy rằng, trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
quyền lực của Nhà nước không phải là vô điều kiện và bất khả xâm phạm, mà phải
tuân thủ nguyên tắc dân chủ và được thực hiện trên cơ sở sự ủy thác của nhân dân.
Nhân dân có quyền tham gia vào các quyết định của nhà nước, có quyền bầu cử, có
quyền giám sát, phê bình và yêu cầu nhà nước phải thực hiện đúng nhiệm vụ của
mình. Điều này cho thấy sự đoàn kết giữa Nhà nước và nhân dân trong Tư tưởng
Hồ Chí Minh, trong đó, Nhà nước phải luôn đứng trên cơ sở sự thống nhất với
nhân dân, phục vụ cho lợi ích chung của nhân dân, đảm bảo quyền lợi của tất cả
các tầng lớp trong xã hội và phải được thực hiện dưới sự giám sát và kiểm soát của
nhân dân.
-“Luật pháp dân chủ và là công cụ quyền lực của nhân dân” 5. Trong tư tưởng Hồ
Chí Minh, luật pháp dân chủ được coi là công cụ quyền lực của nhân dân, được lập
ra và thực thi để đảm bảo quyền lợi và lợi ích của nhân dân. Luật pháp dân chủ là
một hệ thống các quy tắc và nguyên tắc pháp lý được lập ra để giữ cho quyền lực
của nhà nước và các cơ quan của nó trong giới hạn, bảo vệ quyền lợi và lợi ích của
nhân dân. Luật pháp dân chủ được xây dựng trên cơ sở tôn trọng nhân quyền, bảo
vệ quyền tự do và chủ quyền của nhân dân. Nó bao gồm các quy định về tự do
ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, quyền tư pháp, và các quyền cơ bản khác
của công dân. Luật pháp dân chủ được xây dựng trên cơ sở sự đồng thuận của các
thành viên trong xã hội và được thực thi bởi nhà nước, các cơ quan chức năng và
toàn thể nhân dân.Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, luật pháp dân chủ không
4
Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 147
5
Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 147
chỉ đảm bảo quyền lợi và lợi ích của nhân dân mà còn là công cụ để kiểm soát
quyền lực của nhà nước và các cơ quan của nó. Luật pháp dân chủ đóng vai trò
quan trọng trong việc đảm bảo sự công bằng, trật tự, an toàn và phát triển của đất
nước.
Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc xây
dựng Nhà nước của Nhân dân. Ông cho rằng Đảng phải là nhà lãnh đạo của Nhà
nước và phải thường xuyên liên kết chặt chẽ với nhân dân để đưa ra những quyết
định đúng đắn và phù hợp với thực tế.
Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng khuyến khích sự tham gia tích cực của các tầng lớp
nhân dân vào việc xây dựng và phát triển đất nước. Ông cho rằng mỗi công dân
đều có trách nhiệm và nghĩa vụ với sự phát triển của đất nước, và đó là một trong
những điều kiện cơ bản để xây dựng một Nhà nước của Nhân dân đúng nghĩa.
Với tư tưởng này, Hồ Chí Minh đã xây dựng nền tảng cho một Nhà nước dân chủ,
nhân dân là chủ và là người quản lý chính của Nhà nước, giúp đất nước Việt Nam
đạt được nhiều thành tựu trong việc giải phóng dân tộc và xây dựng một xã hội
công bằng, dân chủ và tiến bộ.
1.3. Nhà nước do Nhân dân
“Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước do nhân dân trước hết là nhà nước do
nhân dân lập nên sau thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhân dân “cử ra”, “tổ chức nên” nhà nước
dựa trên nền tảng pháp lý của một chế độ dân chủ và theo các trình tự dân chủ với
các quyền bầu cử, phúc quyết,...”6
Nhà nước do nhân dân còn có nghĩa “dân làm chủ”. Hồ Chí Minh khẳng định rõ:
“Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ” 7. Nếu “dân là
chủ” xác định vị thế của nhân dân đối với quyền lực nhà nước, thì “dân làm chủ”
nhấn mạnh quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân với tư cách là người chủ. Theo
quan điểm của Hồ Chí Minh, “nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ
làm tròn bổn phận công dân, giữ đúng đạo đức công dân 8”. Nhân dân làm chủ thì
phải tuân theo pháp luật của Nhà nước, tuân theo kỷ luật lao động, giữ gìn trật tự
6
Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 148
7
Hồ Chí Minh Toàn tập t.9, Nxb Chính trị Quốc gia, tr.258

8
Hồ Chí Minh Toàn tập t.9, Nxb Chính trị Quốc gia, tr.258
chung, đóng góp (nộp thuế) đúng kỳ, đúng số để xây dựng lợi ích chung, hăng hái
tham gia công việc chung, bảo vệ tài sản công cộng, bảo vệ Tổ quốc,...
“Trong nhà nước do nhân dân làm chủ, nhà nước phải tạo mọi điều kiện để nhân
dân được thực thi những quyền mà Hiến pháp và pháp luật đã quy định, hưởng
dụng đầy đủ quyền lợi và làm tròn nghĩa vụ làm chủ của mình. Hồ Chí Minh yêu
cầu cán bộ, đảng viên phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.
Nhà nước do nhân dân cần coi trọng việc giáo dục nhân dân, đồng thời nhân dân
cũng phải tự giác phấn đấu để có đủ năng lực thực hiện quyền dân chủ của mình.
Hồ Chí Minh nói: “Chúng ta là những người lao động làm chủ nước nhà. Muốn
làm chủ được tốt, phải có năng lực làm chủ 9”. Nhà nước do nhân dân không chỉ
tuyên bố quyền làm chủ của nhân dân, cũng không chỉ đưa nhân dân tham gia công
việc nhà nước, mà còn chuẩn bị và động viên nhân dân chuẩn bị tốt năng lực làm
chủ, quan điểm đó thể hiện tư tưởng dân chủ triệt để của Hồ Chí Minh khi nói về
nhà nước do nhân dân.”10
1.4. Nhà nước vì Nhân dân
“Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân,
không có đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Hồ Chí Minh
là một vị Chủ tịch vì dân và Người yêu cầu các cơ quan nhà nước, các cán bộ nhà
nước đều phải vì nhân dân phục vụ. Người nói: "Các công việc của Chính phủ làm
phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người. Cho
nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy.
Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh 11”.
Theo Hồ Chí Minh, thước đo một Nhà nước vì dân là phải được lòng dân. Hồ Chí
Minh đặt vấn đề với cán bộ Nhà nước phải “làm sao cho được lòng dân, dân tin,
dân mến, dân yêu”, đồng thời chỉ rõ: “muốn được dân yêu, muốn được lòng dân,
trước hết phải yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân trên hết thảy, phải có một tinh
thần chí công vô tư”12. Trong Nhà nước vì dân, cán bộ vừa là đày tớ, nhưng đồng
thời phải vừa là người lãnh đạo nhân dân. Hai đòi hỏi này tưởng chừng như mâu
thuẫn, nhưng đó là những phẩm chất cần có ở người cán bộ nhà nước vì dân. Là
đày tớ thì phải trung thành, tận tuỵ, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, lo trước
thiên hạ, vui sau thiên hạ. Là người lãnh đạo thì phải có trí tuệ hơn người, minh

9
Hồ Chí Minh Toàn tập t.12, Nxb Chính trị Quốc gia, tr.527
10
Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 149
11
Hồ Chí Minh Toàn tập t.4, Nxb Chính trị Quốc gia, tr.21
12
Hồ Chí Minh Toàn tập t.4, Nxb Chính trị Quốc gia, tr.52
mẫn, sáng suốt, nhìn xa trông rộng, gần gũi nhân dân, trọng dụng hiền tài. Như
vậy, để làm người thay mặt nhân dân phải gồm đủ cả đức và tài, phải vừa hiền lại
vừa minh. Phải như thế thì mới có thể “chẳng những làm những việc trực tiếp có
lợi cho dân, mà cũng có khi làm những việc mới xem qua như là hại đến dân 13”,
nhưng thực chất là vì lợi ích toàn cục, vì lợi ích lâu dài của nhân dân.

13
Hồ Chí Minh Toàn tập t.5, Nxb Chính trị Quốc gia, tr.285

You might also like