You are on page 1of 21

UBND TỈNH QUẢNG NAM CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

SỞ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT Độc lập - Tự do - Hạnh phúc


Số: /BC - SNN&PTNT Quảng Nam, ngày tháng 5 năm 2021

BÁO CÁO
CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÌNH HÌNH KINH TẾ HỢP TÁC,
HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP ĐẾN NĂM 2020; MỘT SỐ NHIỆM VỤ,
GIẢI PHÁP TRỌNG TÂM TRONG THỜI GIAN ĐẾN

I. CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ HỢP TÁC, HỢP


TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP (HTX NN)
1. Công tác chỉ đạo, điều hành
Từ khi chuyển đổi mô hình hoạt động theo quy định của Luật HTX năm
2012, chính quyền các cấp đã cơ bản triển khai và ban hành nhiều văn bản hướng
dẫn giúp cho các HTX NN hoạt động ngày càng hiệu quả và thuận lợi trong việc
tiếp cận được các cơ chế, chính sách hỗ trợ của Trung ương, tỉnh cũng như trong
việc xây dựng các chương trình, kế hoạch phát triển hằng năm và cả giai đoạn. Đã
thành lập Ban chỉ đạo đổi mới HTX cấp tỉnh và huyện.
Kịp thời chỉ đạo triển khai thực hiện có hiệu quả Quyết định 2261/QĐ-TTg
ngày 15/12/2014 của TT Chính Phủ về phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển
HTX giai đoạn 2016-2020 và bổ sung thêm các chính sách bảo hiểm xã hội, hỗ trợ
liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của HTX đối với nông nghiệp; Quyết định
số 1231/QĐ-BNN-KTHT ngày 09/4/2018 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và
PTNT về phê duyệt kế hoạch triển khai thí điểm mô hình đưa cán bộ trẻ tốt nghiệp
Đại học, Cao đẳng về làm việc có thời hạn ở HTX NN; Chỉ thị số 33-CT/TU ngày
20/12/2013 của Tỉnh ủy Quảng Nam về việc đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung
ương 5 (khóa IX) về tiếp tục đổi mới, phát triển nâng cao kinh tế tập thể tỉnh đến
năm 2020; Quyết định 46/2014/QĐ-UBND ngày 24/12/2014 của UBND tỉnh về
ban hành một số chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển HTX trên địa bàn tỉnh
theo Nghị quyết số 124/NQ-HĐN ngày 11/7/2014 của HĐND tỉnh; Kế hoạch
3973/KH-UBND ngày 16/7/2020 của UBND tỉnh về triển khai thực hiện Kế hoạch
số 314-KH/TU ngày 18/5/2020 về triển khai thực hiện Kết luận 54-KL/TW ngày
07/8/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết TW 7 khóa X về nông
nghiệp, nông dân, nông thôn...
Ngoài ra, lồng ghép triển khai có hiệu quả các cơ chế, chính sách khác có
liên quan để các HTX NN tham gia như: Nghị quyết số 45/2018/NQ-HĐND ngày
06/12/2018 của HĐND tỉnh và Quyết định số 331/QĐ-UBND ngày 30/01/2019
của UBND tỉnh về triển khai thực hiện Nghị quyết số 45/2018/NQ-HĐND ngày
06/12/2018 của HĐND tỉnh về cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu
tư vào nông nghiệp, nông thôn; Quyết định số 1599/QĐ-UBND ngày 22/5/2018
Phê duyệt Đề án "Chương trình Mỗi xã một sản phẩm tỉnh, giai đoạn 2018-2020,
định hướng đến năm 2030" (gọi tắt là Chương trình OCOP và hiện nay là Nghị
quyết số 07/2021/NQ-HĐND ngày 13/01/2021 của HĐND tỉnh và Quyết định số
524/QDD-UBDN ngày 25/02/2021 của UBND tỉnh về cơ chế, chính sách hỗ trợ
Chương trình OCOP trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021-2025); Nghị quyết số
02/2019/NQ-HĐND của HĐND tỉnh và Quyết định số 2868/QĐ-UBND 10/9/2019
của UBND tỉnh quy định một số cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển hoạt động
Khoa học và Công nghệ trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2019-2025; Nghị quyết số
17/2019/NQ-HĐND ngày 17/12/2019 của HĐND tỉnh và Quyết định số 291/QĐ-
UBND ngày 22/01/2020 của UBND tỉnh về triển khai thực hiện Nghị quyết số
17/2019/NQ-HĐND ngày 17/12/2019 của HĐND tỉnh về chính sách khuyến khích
phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp trên
địa bàn tỉnh…
Bộ máy quản lý nhà nước các cấp cơ bản đảm bảo theo quy định tại Quyết
định 2047/QĐ-UBND ngày 24/6/2019 của UBND tỉnh: Trong đó, Sở Nông nghiệp
và PTNT phân công 01 Phó Giám đốc phụ trách, đồng thời giao nhiệm vụ theo dõi,
hướng dẫn lĩnh vực này cho Chi cục Phát triển nông thôn. Chi cục Phát triển nông
thôn đã phân công 01 Phó Chi cục trưởng và 02 cán bộ chuyên trách. Ở cấp huyện,
thị xã, thành phố: Phòng Nông nghiệp và PTNT (Phòng Kinh tế) phân công 01 phó
phòng phụ trách và 01 chuyên viên kiêm nhiệm theo dõi.
Công tác thông tin, báo cáo, kiểm tra, hướng dẫn, tổng kết được thực hiện
thường xuyên, liên tục nhằm giúp đỡ các địa phương, HTX kịp thời tháo gỡ những
khó khăn, vướng mắc hoặc tham mưu, phản ánh lên cơ quan cấp trên để giải quyết.
Hằng năm, thông qua Hội nghị tổng kết sản xuất nông nghiệp, Hội nghị đánh giá
tình hình phát triển HTX NN trên địa bàn tỉnh, Sở Nông nghiệp và PTNT, Phòng
NN cấp huyện đều đánh giá và xác định phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát
triển trong thời gian tới và ít nhất 1- 2 lần/năm kiểm tra thực tế tại các địa phương
về tình hình hoạt động, công tác quản lý nhà nước ở cơ sở về KTTT. Thường
xuyên tổ chức đối thoại, gặp gỡ, có địa phương hằng tháng tổ chức giao ban với
các HTX NN (như Phòng Nông nghiệp huyện Đại Lộc?)1.
2. Công tác thông tin, tuyên truyền; bồi dưỡng, tập huấn
Công tác thông tin, tuyên truyền được thực hiện thường xuyên, liên tục với
những hình thức phù hợp nhằm triển khai, hướng dẫn những quy định mới của
Luật HTX năm 2012, các Nghị định, Nghị quyết, Chỉ thị, Kế hoạch và cơ chế
chính sách phát triển kinh tế tập thể đến cán bộ quản lý nhà nước, các thành viên
HTX và nhân dân. Đồng thời, giới thiệu những mô hình mới, cách làm hiệu quả,
những địa phương thực hiện có hiệu quả về đổi mới, phát triển kinh tế tập thể...

1
Tháng 6/2019 Tham mưu tổ chức Tọa đàm về phát triển HTX NN trên địa bàn tỉnh do đồng chí Lê Trí
Thanh – PCT UBND tỉnh chủ trì, qua đó nắm bắt được thông tin, tình hình phát triển của các HTX NN, những khó
khăn, vướng mắc và xác định những giải pháp để hỗ trợ, thúc đẩy phát triển trong thời gian đến (với hơn 30 HTX,
Doanh nghiệp tham gia).
Công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nâng cao năng lực HTX được thực hiện
thường xuyên, liên tục. Phối hợp chặt chẽ với Sở Kế hoạch và Đầu tư, Liên minh
HTX, Trường Quản lý cán bộ nông nghiệp và PTNT II thuộc Bộ Nông nghiệp và
PTNT... tổ chức tốt các lớp đào tạo, tập huấn; mỗi năm ít nhất là 03 đợt nhằm nâng
cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ quản lý nhà nước cấp cơ sở và cán
bộ HTX NN. Công tác tư vấn hỗ trợ thành lập mới THT, HTX, hỗ trợ lập phương
án sản xuất kinh doanh được quan tâm....
3. Kết quả triển khai các Chương trình, Kế hoạch phát triển hợp tác xã,
liên hiệp hợp tác xã nông nghiệp
3.1. Kế hoạch số 2895/KH-UBND ngày 12/6/2017 của UBND tỉnh Quảng
Nam triển khai thực hiện phong trào thi “Đổi mới, phát triển các HTX nông nghiệp
theo Luật Hợp tác xã năm 2012 góp phần thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp
và xây dựng nông thôn mới”
Sau khi Kế hoạch được ban hành, hằng năm, Sở Nông nghiệp và PTNT đều
lồng ghép, tham mưu cho Tỉnh ủy, UBND tỉnh ban hành các Chương trình, Đề án,
kế hoạch và thường xuyên phát động sâu rộng phong trào thi đua trong đổi mới,
phát triển KTT, HTX NN trên toàn tỉnh; giao nhiệm vụ cụ thể đến các sở, ngành
liên quan và địa phương trong đó chú trọng đến việc khuyến khích thành lập mới,
củng cố phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động. Phối hợp chặt chẽ với Sở Kế
hoạch và Đầu tư, Ban Tuyên Giáo tỉnh ủy, Liên Minh HTX tỉnh... đẩy mạnh công
tác thông tin, tuyên truyền; tổ chức tốt các lớp tập huấn, các cuộc thi tìm hiểu pháp
luật về HTX, tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác xã… Định kỳ kiểm tra, sơ kết để
tập trung tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc và phổ biến, nhân rộng các điển
hình tiên tiến. Qua đó, đã góp phần nâng cao nhận thức, đẩy mạnh hơn nữa phong
trào thi đua của những cơ quan, đơn vị và cán bộ, đảng viên đặc biệt là những cán
bộ có trách nhiệm trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức triển khai các chủ trương,
chính sách về phát triển kinh tế tập thể và thành viên, người lao động trong các tổ
hợp tác, hợp tác xã. Một số địa phương đã ban hành Nghị quyết chuyên đề về phát
triển kinh tế tập thể, giao chỉ tiêu thành lập mới HTX một cách cụ thể và lấy đó
làm cơ sở, tiêu chí đánh giá, xếp loại cán bộ công chức cuối năm.
Qua quá trình theo dõi, Sở đã đề xuất Bộ Nông nghiệp và PTNT tuyên dương
khen thưởng HTX NN.... đã có thành tích trong thực hiện phong trào “Đổi mới,
phát triển HTX NN theo Luật HTX năm 2012” trong năm 2020.
3.2. Kết quả công tác xử lý dứt điểm các HTXNN yếu kém, ngừng hoạt
động lâu ngày theo Công văn số 946/UBND-KTN ngày 25/02/2019 của UBND
tỉnh Quảng Nam (Công văn số 946/UBND-KTN)
Thực hiện chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp và PTNT tại Công văn số 8108/BNN-
KTHT ngày 17/10/2018 về xử lý dứt điểm HTX NN yếu kém đã ngừng hoạt động
lâu ngày, Sở Nông nghiệp và PTNT đã tham mưu UBND tỉnh ban hành Công văn
số 946/UBND-KTN chỉ đạo các địa phương, Sở, ngành liên quan rà soát, xây dựng
kế hoạch xử lý dứt điểm các HTX NN yếu kém ngừng hoạt động lâu ngày. Thường
xuyên đôn đốc, phối hợp, hướng dẫn và hỗ trợ địa phương trong quá trình thực
hiện.
Đối với cấp huyện đã xây dựng kế hoạch cụ thể, thành lập tổ công tác, tổ chức
rà soát, xác định danh sách thuộc đối tượng giải thể, củng cố và triển khai các giải
pháp để thực hiện. Qua 03 năm, toàn tỉnh đã giải thể được 23 HTX NN yếu kém
ngừng hoạt động lâu ngày. Tuy nhiên, quá trình củng cố, giải thể ở địa phương,
cũng như các HTX NN ngừng hoạt động lâu ngày gặp không ít khó khăn, vướng
mắc; các thành viên HTX không phối hợp nhất là những thành viên phụ trách công
tác quản lý, kế toán; nhiều thành viên đã chết hoặc đau ốm nặng; một số HTX
không xác định được công nợ...
3.3. Kết quả triển khai Kế hoạch số 2548/KH-UBND ngày 09/5/2019 của
UBND tỉnh về Phát triển hợp tác xã, liên hiệp HTX NN hoạt động có hiệu quả gắn
với liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, ứng dụng công nghệ cao
đến năm 2020, định hướng đến năm 2025 trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
- Đến cuối năm 2020, toàn tỉnh có 209 HTX NN được đánh giá xếp loại
trung bình trở lên (trong tổng số 240/373 HTX NN tham gia đánh giá, xếp loại),
đạt tỷ lệ 87,08% trong tổng số HTX NN tham gia đánh giá và 56,03% trong tổng
số HTX NN. So với mục tiêu đề ra, vượt 09 HTN NN.
- Các HTX NN hoạt động trung bình, yếu kém được tập trung chỉ đạo để tái
cấu trúc hoạt động; bộ máy quản lý được thay đổi và củng cố, chất lượng xã viên
được nâng cao; phương án sản xuất kinh doanh được điều chỉnh... nhằm phấn đấu
đạt tiêu chí hoạt động hiệu quả.
- Đến nay, toàn tỉnh đã giải thể được 23 HTX NN yếu kém ngừng hoạt động
lâu ngày và còn khoảng 42 HTX NN yếu kém ngừng hoạt động được các địa
phương tiếp tục chỉ đạo tái cấu trúc (nếu còn khả năng phát triển sản xuất) hoặc
giải thể (nếu không đảm bảo điều kiện để tiếp tục hoạt động).
- Đã có 129 HTX NN tham gia hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm nông nghiệp, trong đó số lượng chuỗi liên kết phần lớn tập trung tại các
huyện đồng bằng, trung du, đối với các huyện miền núi cao từ 1-4 chuỗi/huyện. So
với mục tiêu mỗi cấp huyện cần chủ động xây dựng từ 2 - 3 mô hình (liên kết sản
xuất theo chuỗi giá trị) thì đã vượt mục tiêu đề ra. Tuy nhiên, để đảm bảo hoạt
động hiệu quả, thật sự là những điển hình, điểm sáng của loại hình kinh tế hợp tác
kiểu mới thì kết quả chưa cao, vì hầu hết các mô hình trên đều mới thành lập và
chủ yếu được hình thành từ nguồn ngân sách hỗ trợ của nhà nước.
- Có 47 HTX NN ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất và kinh doanh, đạt
tỷ lệ 12,6%, so với mục tiêu đề ra thấp hơn 0,4%; nhìn chung công nghệ được áp
dụng trong các HTX NN còn ở mức thấp, phần lớn tập trung ở kỹ thuật canh tác,
nuôi trồng (như Công nghệ tưới phun, tưới nhỏ giọt, công nghệ nhà kính, nhà lưới,
nhà màng có hệ thống điều kiển bán tự động, tự động, cơ giới hóa trong sản xuất,
thu hoạch sản phẩm nông sản...)
- Đã có 58/171 chủ thể là các HTX nông nghiệp tham gia, chiếm tỷ lệ 33,9%
với 69 sản phẩm được công nhận từ 3-4 sao (trong đó số HTX nông nghiệp đạt 4
sao là 11/26 sản phẩm đạt 4 sao, tỷ lệ 42,3%). Nhiều HTX nông nghiệp là chủ thể
của 2-3 sản phẩm OCOP như HTX Nông nghiệp Ái Nghĩa có 02 sản phẩm đạt 03
sao (Gạo an toàn Ái Nghĩa, Bánh tráng Đại Lộc), HTX dịch vụ nông nghiệp và
KTTH Nhật Linh có 01 sản phẩm đạt 3 sao (Hương trầm Tiên Phước) và 01 sản
phẩm đạt 4 sao (Rượu Lòn Bon Tiên Phước), HTX nông nghiệp DLDV Đại Bình
là chủ thể của 03 sản phẩm 3 sao (Bưởi trụ Đại Bình, Dầu mè đen Đại Bình,
Hương trầm Đại Bình – Quảng Nam)....và nhiều HTX nông nghiệp là chủ thể của
những sản phẩm tiêu biểu, đặc hữu địa phương như HTX NN và Dược liệu Tây
Giang (Măng Điền trúc sấy khô, 3 sao), HTX Dược liệu Đức Huy Tây Giang (Cao
Đảng Sâm, 4 sao), HTX Nông Lâm nghiệp Thiên Bình (Huyện Tây Giang, Cao Ba
Kích, 4 sao), HTX nước mắm Tam Thanh (Tam Kỳ, Nước mắm Tam Thanh, 3
sao)... Việc tham gia chương trình đã giúp cho các HTX NN nâng cao được chất
lượng sản phẩm, gia tăng rõ rệt về mặt giá trị; có nhãn hiệu, thương hiệu và đã tập
trung hơn vào công tác quảng bá, xúc tiến thương mại; máy móc trang thiết bị hiện
đại được đầu tư... Điều này đã góp phần quan trọng trong việc giải quyết khó khăn
về đầu ra cho sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ; đồng thời tạo thêm việc làm
cho lao động nông thôn và mang lại doanh thu, lợi nhuận cao hơn. So với mục tiêu
đề ra vượt 18 HTX NN.
- Đã thành lập mới 123 HTX NN, nâng tổng số HTX NN toàn tỉnh lên 373
HTN NN, so với mục tiêu đề ra tăng 39 HTX NN.
3.4. Tình hình thực hiện Tiêu chí 13 trong Bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng
nông thôn mới:
Có 113 xã đạt tiêu chí tổ chức sản xuất/113 xã được công nhận đạt chuẩn
NTM. Các HTX đóng vai trò hết sức quan trọng, không chỉ tạo ra việc làm, nâng
cao thu nhập cho nông dân mà còn góp phần làm thay đổi căn bản diện mạo nông
thôn, góp phần thúc đẩy quá trình xây dựng nông thôn mới. Với yêu cầu tái cơ cấu
sản xuất nông nghiệp, các HTX đã có bước phát triển mới về số lượng, hiệu quả;
hoạt động được nâng cao với đủ các loại hình dịch vụ thúc đẩy phát triển ở khu
vực nông thôn; thay đổi cách nghĩ, cách làm cho bà con nông dân, ứng dụng các
tiến bộ khoa học kỹ thuật và nhất là đã tích cực tham gia sản xuất liên kết chuỗi giá
trị gắn với sản phẩm chủ lực của địa phương, Chương trình Mỗi xã một sản phẩm
nhằm bảo đảm đầu ra ổn định cho nông sản.
4. Kết quả thực hiện một số cơ chế, chính sách hỗ trợ HTX NN:
- Về tuyên truyền, phổ biến pháp luật: Thường xuyên tổ chức tuyên truyền,
phổ biến, quán triệt các nội dung quy định mới của Luật HTX năm 2012, các Nghị
định, Nghị quyết, Chỉ thị, Kế hoạch và cơ chế chính sách phát triển kinh tế tập thể
của trung ương, tỉnh cho cán bộ, thành viên HTX, cán bộ quản lý nhà nước trong
lĩnh vực kinh tế tập thể và nhân dân thông qua nhiều hình thức như tổ chức các lớp
tập huấn, hội nghị tuyên truyền, phát hành tài liệu, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu
pháp luật về HTX trên các phương tiện truyền thông; đồng thời, giới thiệu những
mô hình mới, cách làm hiệu quả về phát triển kinh tế tập thể, những địa phương
thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ đổi mới, phát triển kinh tế tập thể.
- Chính sách phát triển nguồn nhân lực:
+ Đào tạo, tập huấn cho cán bộ HTX: Từ nguồn kinh phí của Trung ương và
tỉnh, Sở đã tổ chức 11 lớp tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ chủ chốt các
HTX NN trên địa bàn tỉnh với 765 lượt người tham dự, tổng kinh phí thực hiện
trên 1.477 triệu đồng với nhiều nội dung phong phú nhằm nâng cao kỹ năng lãnh
đạo, chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ HTX NN như: Triển khai Luật HTX năm
2012, hướng dẫn sửa đổi, bổ sung Điều lệ HTX, tập huấn chương trình lập dự án
để vay vốn tín dụng nông thôn, quản lý tài chính HTX theo Luật năm 2012, xây
dựng phương án sản xuất kinh doanh và tái cơ cấu HTX nông nghiệp, chính sách
thuế, nghiệp vụ kế toán, kỹ năng bán hàng, nghiệp vụ kiểm tra dành cho ban kiểm
soát; tập huấn bồi dưỡng kiến thức cho sáng lập viên HTX. Đặc biệt, trong năm
2020 đã phối hợp với Trường Cán bộ quản lý Nông nghiệp và PTNT II TP HCM
đào tạo Giám đốc HTX NN cho 30 học viên là Giám đốc, cán bộ quy hoạch giám
đốc HTX NN, thời gian đào tạo 42 ngày học tập trung, kết thúc khóa học học viên
được cấp Bằng Tốt nghiệp,và hỗ trợ kinh phí.
+ Triển khai thí điểm mô hình đưa cán bộ trẻ tốt nghiệp đại học, cao đẳng về
làm việc có thời hạn ở HTX NN theo Quyết định số 1231/QĐ-BNN-KTHT ngày
09/4/2018 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT: Năm 2018 đã hỗ trợ 555 triệu
đồng cho công tác tăng cường nguồn nhân lực đối với HTX (mức hỗ trợ 111 triệu
đồng/01HTXNN/1 địa phương: hỗ trợ mỗi HTXNN 01 lao động theo mức lương
tối thiểu vùng, thời hạn hỗ trợ tối đa không quá 36 tháng).
- Chính sách hỗ trợ đầu tư hạ tầng: Hỗ trợ phát triển kết cấu hạ tầng cho 97
danh mục công trình cho 65 HTX NN với tổng kinh phí trên 57,1 tỷ đồng từ (trong
đó 3,2 tỷ đồng từ kinh phí sự nghiệp của CTMT tái cơ cấu kinh tế nông nghiệp và
phòng chống giảm nhẹ thiên tai, ổn định đời sống dân cư và 53,9 tỷ đồng nguồn
Chương trình MTQG XDNTM) theo Quyết định số 2261/QĐ-TTg ngày 15/12/2014
của Thủ tướng Chính phủ.
- Chính sách khoa học - công nghệ và xúc tiến thương mại
Lồng ghép, tuyên truyền Nghị quyết số 02/2019/NQ-HĐND ngày 12/7/2019
của HĐND tỉnh và Quyết định số 2868/QĐ-UBND 10/9/2019 của UBND tỉnh quy
định một số cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển hoạt động Khoa học và Công nghệ
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2019-2025, Quyết định số 15/2018/QĐ-
UBND ngày 05/12/2018 về ban hành Quy định về quy chế quản lý kinh phí
khuyến công và mức chi cho các hoạt động khuyến công trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam đến các HTX NN. Từ năm 2018 đến 2020, đã có 13 HTX NN được hỗ trợ với
tổng kinh phí 1.020 triệu đồng. Ngoài ra, một số HTX NN được ngân sách hỗ trợ
tham gia các hội chợ thương mại trong và ngoài tỉnh, các phiên chợ hàng Việt để
giao lưu, trao đổi, quảng bá sản phẩm và tìm kiếm thị trường tiêu thụ mới, nhất là
chương trình OCOP, khởi nghiệp sáng tạo.
* Chính sách hỗ trợ, ưu đãi khác
- Hợp tác, liên kết sản xuất gắn tiêu thụ nông sản theo Nghị quyết
17/2019/NQ-HĐND ngày 12/12/2019 của HĐND tỉnh: Năm 2020, UBND tỉnh đã
phân bổ 31 tỷ đồng (gồm 15 tỷ vốn sự nghiệp và 16 tỷ vốn đầu tư) để hỗ trợ thực
hiện cơ chế này; hiện nay các địa phương đã xác định danh mục, đối tượng thực
hiện, trong đó có HTX NN. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện Chương trình
MTQG xây dựng NTM, hằng năm từ nguồn ngân sách TW, tỉnh, huyện bố trí, các
HTX NN cũng có cơ hội để tiếp cận. Nhìn chung việc thực hiện chính sách này đã
tạo điều kiện giúp HTXNN nâng cao hiệu quả sản xuất và tiêu thụ nông sản, tăng
khoảng 17 - 25% so với sản xuất và tiêu thụ không có liên kết; người dân tham gia
vào liên kết được nâng cao thu nhập.
- Việc tiếp cận Quỹ Hỗ trợ phát triển hợp tác xã: Đến nay đã cho 297
HTX,THT trên địa bàn tỉnh vay với lãi suất ưu đãi 5,13%/năm (285 dự án cho vay
đầu tư và 39 dự án hỗ trợ có hoàn lại vốn gốc), trong đó có 113 HTX với số tiền là
79.285 triệu đồng và 184 THT với số tiền 78.350 triệu đồng (số liệu 5 năm).
- Hỗ trợ thành lập mới: Sau khi các HTX đủ điều kiện được Phòng Tài chính
– Kế hoạch cấp huyện cấp giấy phép đăng kí kinh doanh, thì tiếp tục hoàn chỉnh hồ
sơ theo quy định để đề nghị Liên minh HTX tỉnh hỗ trợ tiền thành lập mới, với
mức 15 triệu đồng/HTX.
II. TÌNH HÌNH KINH TẾ HỢP TÁC, HTX NN
1. Tình hình Hợp tác xã nông nghiệp:
Toàn tỉnh có khoảng 347 HTX NN, so với năm 2016 tăng 225 HTX (trong
đó có 40 HTX yếu kém, ngừng hoạt động, số HTX đã chuyển đổi theo Luật HTX
năm 2012 là 98 HTX), tập trung chủ yếu vào các dịch vụ như: Thủy lợi, liên kết
sản xuất giống, cơ giới hóa làm đất, thu hoạch, cung ứng vật tư nông nghiệp, chăn
nuôi, một số HTX thực hiện thi công các công trình hạ tầng sản xuất nông nghiệp
như thủy lợi, GTNĐ...
Tổng số thành viên là 90.848 người, tăng 1.606 người so với năm 2016; tổng
số lao động làm việc thường xuyên trong hợp tác xã là 3.982 người, trong đó số lao
động thường xuyên là thành viên HTX là 1.172 người.
Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ của HTX năm 2020:
- Tổng số vốn hoạt động, giá trị tài sản của HTX là 1.210.181 triệu đồng,
tăng 297.546 triệu đồng so với thời điểm 2016.
- Doanh thu bình quân của một hợp tác xã ước đạt khoảng 8.023 triệu
đồng/HTX (trong đó doanh thu đối với thành viên khoảng 4.420 triệu đồng/HTX);
tăng 3.026 triệu đồng so với năm 2016.
- Lãi bình quân của một hợp tác xã khoảng 98 triệu đồng/HTX, so với năm
2016 tăng 43 triệu đồng.
- Thu nhập trung bình của lao động làm việc thường xuyên trong một hợp tác
xã 30 triệu đồng/năm, so với năm 2016 tăng 9 triệu đồng.
Trong những năm qua, HTX NN trên địa bàn tỉnh có những chuyển biến tích
cực, ngày càng thể hiện được vai trò hỗ trợ kinh tế hộ phát triển, khả năng “tập
hợp” và dần trở thành tổ chức “đại diện” có uy tín cho người nông dân trong sản
xuất, tiêu thụ sản phẩm; góp phần quan trọng trong việc giảm nghèo, nâng cao thu
nhập người dân và xây dựng thành công nông thôn mới.
Số lượng HTX NN thành lập không ngừng tăng qua các năm với nhiều mô
hình mới, cách làm hiệu quả. Nhiều HTX NN tiếp tục được kiện toàn, củng cố lại
bộ máy hoạt động, quản lý để phù hợp hơn với tình hình mới, chất lượng thành
viên được nâng lên, nổi bậc nhất là mô hình HTX NN do thanh niên trẻ khởi
nghiệp. Nội dung hoạt động của các HTX NN được mở rộng với quy mô ngày
càng lớn, dịch vụ đa dạng, đáp ứng nhu cầu của các thành viên và nông dân. Đặc
biệt, hiện nay với yêu cầu tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp, toàn tỉnh đã có 129
HTX NN tham gia hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông
nghiệp và 58 HTX đã là chủ thể của 69 sản phẩm OCOP của tỉnh đạt từ 3 - 4 sao;
43 HTX ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất và kinh doanh. Nhiều HTX NN có
lãi khá và đã bắt đầu trích lập được các quỹ theo quy định, nhất là quỹ đầu tư phát
triển để mở rộng liên kết, liên doanh trong sản xuất.
Năng lực nội tại của HTX từng bước được nâng lên, nguồn vốn hoạt động
của HTX ngày càng tăng, ngoài vốn điều lệ, các HTX còn tích cực huy động từ
nhiều nguồn lực khác nhau nhằm tăng cường khả năng tài chính của mình để tổ
chức sản xuất kinh doanh như thu hút nguồn đầu tư từ các tổ chức phi chính phủ,
tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi của nhà nước, liên doanh liên kết với các doanh
nghiệp… Đội ngũ cán bộ quản lý điều hành của HTX từng bước được củng cố và
lớn mạnh. Ngoài việc đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ, các HTX cũng mạnh dạn cử
cán bộ, thành viên có nhu cầu về làm việc tại HTX đi học các lớp cao đẳng, đại
học. Bên cạnh đó, những năm qua nhà nước có nhiều chính sách ưu đãi thu hút cán
cán bộ có trình độ đại học về làm việc tại HTX và đào tạo cán bộ cho HTX. Vì
vậy, chất lượng nguồn nhân lực của HTX không ngừng được tăng lên và từng bước
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong xu thế mới.
Hiện nay có một số HTX NN với những mô hình mới, cách làm hiệu quả
như: HTX Nông nghiệp 1 Điện Phước, thị xã Điện Bàn với mô hình xây dựng
chuỗi giá trị sản xuất lúa giống; HTX Nấm Nhì Tây, huyện Hiệp Đức với mô hình
trồng nấm và chế biến các loại nấm; HTX NN Duy Đại Sơn, huyện Duy xuyên với
mô hình xây dựng chuỗi giá trị heo sạch; HTX NN Rau sạch Trường Xuân, thành
phố Tam Kỳ với mô hình trồng rau hữu cơ; HTX NN Ái Nghĩa, huyện Đại Lộc với
mô hình sản xuất gạo an toàn và bánh tráng,…
1.5. Kết quả đánh giá phân loại HTX NN năm 2020:
(Đánh giá theo Thông tư số 09/2017/TT-BNNPTNT ngày 17/4/2017 của Bộ
Nông nghiệp và PTNT về Hướng dẫn phân loại và đánh giá hợp tác xã trong lĩnh
vực nông nghiệp):
- Tổng số HTX NN trên toàn tỉnh đến năm 2020: 373 HTX.
- Tổng số HTX NN tham gia đánh giá, xếp loại là 240 HTX, tỷ lệ 64,34%,
trong đó:
+ HTX NN xếp loại tốt: 51 HTX, tỷ lệ 21,25%;
+ HTX NN xếp loại khá: 54 HTX, tỷ lệ 22,50%;
+ HTX NN xếp loại trung bình: 104 HTX, tỷ lệ 43,33%;
+ HTX NN xếp yếu: 31 HTX, tỷ lệ 12,92%;
- HTX NN không đánh giá xếp loại năm 2020: 133 HTX, trong đó:
+ HTX NN mới thành lập chưa đủ 01 năm: 54 HTX, tỷ lệ 40,60%;
+ HTX NN ngừng hoạt động: 20 HTX, tỷ lệ 15,04%;
+ HTX NN hoạt động nhưng không báo cáo xếp loại: 59 HTX, tỷ lệ 44,36%.
2. Tình hình hoạt động của Tổ hợp tác:
Hiện có khoảng 500 Tổ hợp tác hoạt động trên lĩnh vực nông nghiệp, so với
thời điểm năm 2016, giảm 70 THT; tổng số thành viên ước khoảng 2.195 thành
viên (so với thời điểm 31/12/2016 giảm 89 thành viên).
Tổng số vốn hoạt động, giá trị tài sản của THT trong nông nghiệp ước
khoảng trên 100 tỷ đồng, so với thời điểm 31/12/2016 tăng 23 tỷ đồng. Doanh thu
bình quân của THT ước đạt khoảng 480 triệu đồng/năm/THT; lãi bình quân
khoảng 65 triệu đồng/năm/THT; thu nhập bình quân của thành viên, lao động của
THT khoảng 35 triệu đồng/năm; so với thời điểm 31/12/2016 tăng 15 triệu đồng;
số lượng THT hoạt động hiệu quả 96; số THT trong nông nghiệp phát triển thành
hợp tác xã là 20 THT.
Hình thức THT đã thu hút được sự chú ý của nhiều hộ nông dân. Mô hình
này phù hợp với yêu cầu phát triển đa ngành nghề trong nông nghiệp, nông thôn;
phù hợp với việc tổ chức sản xuất trên từng cây trồng, con vật nuôi; cơ bản đáp
ứng nhu cầu hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất kinh doanh; tương trợ nhau về
vốn; tiêu thụ sản phẩm; tận dụng các nguồn lực đất đai, nguyên liệu, lao động hiện
có và tiếp cận được sự hỗ trợ từ các cơ chế, chính sách của Đảng, Nhà nước và các
tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước...
Các THT thành lập mới cơ bản xuất phát từ thực tế của người dân, nhận
được sự quan tâm, tạo điều kiện của chính quyền địa phương và đang dần đi vào
hoạt động ổn định. Nhiều THT hoạt động tương đối tốt, quản lý chặt chẽ từ khâu
góp vốn đến hoạt động sản xuất kinh doanh và đã phát triển thành HTX hoạt động
có hiệu quả. Tùy thuộc vào tình hình của từng địa phương mà ở đó phong trào
cũng như khả năng phát triển của THT có sự khác nhau: Các THT ở khu vực đồng
bằng chú trọng đến việc hợp tác, liên kết tổ chức sản xuất kinh doanh nhằm mang
lại thu nhập cho các thành viên; đối với các huyện miền núi, hình thức này đã có
nhưng chưa nhiều, đa số các THT góp công sức thực hiện công tác sản xuất và
hoạt động mang tính thời vụ.
III. Đánh giá chung:
3.1. Thành tựu, vị trí, vai trò của KTTT trong phát triển kinh tế - xã hội
So với những năm trước, HTX NN trên địa bàn tỉnh đã thay đổi với một diện
mạo mới, các hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng đa dạng. Nếu như trước
đây các HTX chỉ làm các dịch vụ như thủy lợi, bảo vệ thực vật, thu hoạch… thì
hiện nay các HTX đã vươn xa hơn, tập trung đầu tư máy móc, thiết bị để tổ chức
sản xuất lúa giống, mở rộng thêm các ngành nghề phi nông nghiệp để phát triển
sản xuất kinh doanh, tăng thu nhập và tạo dựng niềm tin với xã hội về mô hình
HTX.
Các cấp ủy đảng và chính quyền đã có sự nhận thức cụ thể hơn, hiểu rõ về
bản chất, vai trò của HTX NN, một số địa phương đã ban hành Nghị quyết chuyên
đề về phát triển kinh tế tập thể, giao chỉ tiêu thành lập mới HTX một cách cụ thể
và lấy đó làm cơ sở, tiêu chí đánh giá, xếp loại cán bộ công chức cuối năm.
Các HTX NN đã dần xác lập được vị trí, vai trò của mình trong xã hội và thu
hút được lực lượng trẻ có trình độ, tâm huyết tham gia; nhạy bén hơn trong việc
tiếp cận với những cơ chế quản lý mới, thích ứng với thị trường; đồng thời có đóng
góp quan trọng trong chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới,
giảm nghèo, thực hiện chương trình OCOP, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị….
3.2. Tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình quản lý, phát triển và hoạt
động của kinh tế tập thể, HTX NN vẫn có một số tồn tại, hạn chế như sau:
3.2.1. Đối với công tác quản lý nhà nước
- Công tác quản lý nhà nước đối với HTX, liên hiệp HTX quy định tại Điều
60 Luật HTX năm 2012, được cụ thể hóa ở Điều 28, 29, 30 của Nghị định số
193/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 của Chính phủ; tuy nhiên, việc triển khai thực
hiện của các Sở, ban, ngành liên quan và các phòng chức năng cấp huyện có lúc
chưa đồng bộ, còn bỏ trống nhiệm vụ.
- Kinh tế hợp tác, HTX NN phát triển không đồng đều giữa các địa phương
trên địa bàn tỉnh và trong giữa các ngành, lĩnh vực; một số vùng, địa phương ở
miền núi, ven biển có nhiều tiềm năng, thế mạnh nhưng sự chỉ đạo, hướng dẫn
thành lập, củng cố, chuyển đổi phát triển còn hạn chế, chưa được quan tâm.
- Công tác quản lý nhà nước về giải thể HTX NN thiếu tập trung, nhiều nơi
có hiện tượng chạy theo thành tích, đối phó để đạt tiêu chí 13 của Bộ tiêu chí quốc
gia xây dựng nông thôn mới trong vấn đề thành lập mới các HTX; công tác quản lý
tình hình hoạt động của HTX NN, nhất là các HTX NN mới thành lập ở nhiều địa
phương còn chưa kịp thời, có nơi không nắm được các thông tin liên quan đến
HTX như tình trạng hoạt động, nội dung hoạt động...
- Công tác đôn đốc, hướng dẫn việc thực hiện Luật HTX, chấp hành chế độ
thông tin báo cáo của các HTX NN gặp rất nhiều khó khăn; một số HTX NN không
phối hợp trong việc cung cấp thông tin (Điện thoại không liên lạc được hoặc đôn
đốc nhiều lần nhưng vẫn không báo cáo) trong khi hiện nay vẫn chưa có chế tài cụ
thể cho vấn đề này.
3.2.2. Về cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển, các văn bản hướng dẫn
triển khai thực hiện
a) Về cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển
- Các chính sách hỗ trợ HTX NN tuy nhiều nhưng chưa đủ mạnh, thiếu
những cơ chế, chính sách mang tính đột phá, phù hợp với đặc thù của HTX NN để
tạo động lực thúc đẩy phát triển, ví dụ như chưa có cơ chế hỗ trợ, thúc đẩy các
HTX NN do thanh niên trẻ có trình độ sáng lập hoặc hỗ trợ cho các HTX NN đi
đầu trong việc ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ mới, cơ chế hỗ
trợ riêng cho các HTX NN chuyển đổi...
- Tiến độ ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật cũng như các cơ
chế chính sách hỗ trợ phát triển HTX còn chậm. Một số cơ chế chính sách ở Trung
ương ban hành, nhưng việc triển khai thực hiện chính sách còn quá chậm, chưa có
sự hướng dẫn triển khai thực hiện một cách đồng bộ, cụ thể Quyết định 2261-
QĐ/TTg của Thủ tướng Chính phủ.
b) Trong việc thực hiện Luật HTX 2012 và các văn bản hướng dẫn triển
khai thực hiện
- Việc đánh giá xếp loại HTX NN tồn tại 02 chế độ đánh giá: (1) thực hiện
theo Thông tư 01/2020/TT-BKHĐT ngày 19/02/2020 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
về Hướng dẫn phân loại và đánh giá HTX; (2) Thông tư số 09/2017/TT-BNNPTNT
ngày 17/4/2017 của Bộ Nông nghiệp và PTNT về hướng dẫn phân loại và đánh giá
HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Do đó, cùng một lúc HTX NN phải
thực hiện 02 hồ sơ để phục vụ yêu cầu công tác quản lý nhà nước của Phòng Tài
chính – Kế hoạch và Phòng Nông nghiệp và PTNT.
- Các HTX NN phải đồng thời hạch toán hai chế độ kế toán, trong đó đa số
thực hiện chế độ kế toán dành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa để phục vụ báo cáo
thuế. Vì, giữa Bộ Tài chính và Tổng Cục thuế chưa thống nhất về chế độ kế toán
(trong quá trình quyết toán tài chính HTX) áp dụng cho các HTX NN. Theo quy
định của Bộ Tài chính chế độ kế toán áp dụng cho các HTX được thực hiện theo
Thông tư số 24/2017/TT-BTC ngày 28/3/2017 hướng dẫn chế độ kế toán Hợp tác
xã, Liên hiệp hợp tác xã áp dụng đối với tất cả các Hợp tác xã hoạt động trong mọi
lĩnh vực, mọi ngành nghề hoạt động sản xuất, kinh doanh; nhưng đối với báo cáo
thuế HTX lại thực hiện quy chế độ kế toán dành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Chưa có quy định cụ thể để xác định HTX NN. Các HTX thành lập có
quyền đăng ký nhiều ngành nghề hoạt động khác nhau, trong đó có cả lĩnh vực
nông nghiệp và phi nông nghiệp, tuy nhiên trong quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh có thể chưa phát triển các hoạt động sản xuất liên quan đến lĩnh vực nông
nghiệp. Do vậy, gặp rất nhiều khó khăn trong công tác quản lý.
- Quy định về chế độ thông tin báo cáo giữa Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu
tư và Bộ NN&PTNT không thống nhất, nhiều mốc thời gian2 trong khi đó nội
dung, chất lượng báo cáo hoàn toàn thuộc vào việc chấp hành của các HTX.
- Việc triển khai thực hiện Thông tư 06/2019/TT-BNNPTNT ngày
19/7/2019 của Bộ Nông nghiệp và PTNT quy định hoạt động đặc thù, chế độ báo
cáo của HTX NN và trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước các cấp đối với
HTX NN gặp khó khăn: Do Thông tư này chỉ xác định một nhóm HTX NN trong
tổng thể HTX NN. Nội dung Thông tư có quy định cụ thể trách nhiệm của các
HTX NN đặc thù tại Điều 4 nhưng về phía Nhà nước thì chưa có cơ chế, chính
sách "đặc thù" nào hỗ trợ cho các đối tượng trên.

2
Được thực hiện theo Khoản 10, Điều 9, Luật HTX 2012; Điều 23, Nghị định 193/2013/NĐ-CP; Điều 25,
Thông tư 03/2014/TT-BKHĐT ngày 26/5/2014 của Bộ Kế hoạch - Đầu tư; Điểm b, mục 1, Điều 6 Thông tư
06/2019/TT-BNNPTNT ngày 19/7/2019 của Bộ NN&PTNT quy định thực hiện chế độ báo cáo tình hình hoạt động
của HTX, LHHTX, HTX NN đặc thù theo quy định của Chính phủ và gần đây nhất là Công văn số 237/KTHT-
HTTT ngày 04/5/2021 của Cục Kinh tế hợp tác và PTNT về việc báo cáo số liệu định kỳ lĩnh vực kinh tế hợp tác
(Số liệu tháng: Cấp huyện cập nhật trước ngày 25 hằng tháng (để trước ngày 02 tháng sau cấp tỉnh cập nhật số
liệu báo Cục Kinh tế và Hợp tác); Số liệu 6 tháng: Cấp huyện cập nhật trước ngày 25 tháng 6 (để trước ngày 30/6
cấp tỉnh cập nhật số liệu báo Cục Kinh tế và Hợp tác); Số liệu năm: cấp huyện cập nhật trước ngày 25 tháng 12 (để
trước ngày 31/12 cấp tỉnh cập nhật số liệu báo Cục Kinh tế và Hợp tác).
3.2.3. Những tồn tại trong nội tại của kinh tế hợp tác, HTX NN
a) Đối với HTX NN
- Một số HTX NN hiện nay tuy đã chuyển đổi hoạt động theo Luật HTX
năm 2012 nhưng phương thức hoạt động vẫn theo mô hình hợp tác xã kiểu cũ; còn
lúng túng trong định hướng hoạt động, trong đầu tư phát triển sản xuất - kinh
doanh; tổ chức bộ máy, con người làm việc còn những hạn chế nhất định.
- Một số HTX NN được hình thành nhưng hoạt động không theo Luật HTX
năm 2012; một số nơi HTX được thành lập song lại sớm rơi vào tình trạng ngừng
hoạt động hoặc không còn hoạt động.
- Đa số các HTX NN hiện nay mới chỉ tập trung hoạt động đối với các dịch
vụ đầu vào cho sản xuất nông nghiệp, mà chưa quan tâm đến dịch vụ đầu ra, số
hợp tác xã thực hiện việc bao tiêu nông sản cho nông dân còn ít; thiếu sự liên kết
chặt chẽ giữa hợp tác xã với thành viên, chưa tạo sự hấp dẫn đối với các doanh
nghiệp tham gia liên kết, hợp tác đầu tư, dẫn đến hiệu quả hoạt động còn hạn chế,
lợi ích mang lại cho thành viên chưa cao, nên người nông dân chưa thật sự gắn bó,
mặn mà với HTX NN.
- Việc hình thành các chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm giữa nông
dân - các tổ chức đại diện nông dân - các doanh nghiệp còn hạn chế, thiếu đa dạng,
nội dung liên kết chủ yếu tập trung trong việc sản xuất lúa giống, lúa lai và một số
liên kết về sản xuất rau, đậu. Các liên kết mới đa số chỉ mới bắt đầu triển khai và
chủ yếu dựa trên nguồn lực hỗ trợ từ phía Nhà nước.
- Việc ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất – kinh doanh còn hạn chế,
quy mô, mức độ áp dụng chưa cao do đó sản phẩm tạo ra chưa có tính đột phá,
hiệu quả cao.
- Còn nhiều HTX chưa chấp hành chế độ thông tin, báo cáo (báo cáo đầy đủ,
chính xác bằng văn bản) về tình hình hoạt động của HTX với cơ quan đăng ký
(vào ngày 15/01 hằng năm).
b) Đối với THT
Số lượng THT tiêu biểu hoạt động hiệu quả còn quá ít; chất lượng, hiệu quả
hoạt động và lợi ích đem lại cho thành viên còn thấp, chưa có sự gắn kết giữa các
THT với nhau hay giữa THT với HTX; hoạt động của các THT chưa hình thành
được các chuỗi liên kết sản xuất hàng hóa và tiêu thụ sản phẩm, sự đa dạng ngành
nghề trong các THT chưa nhiều.
4. Nguyên nhân
4.1. Nguyên nhân khách quan
- Nhiều văn bản có sự chồng chéo trong công tác quản lý nhà nước về kinh
tế tập thể giữa các cơ quan Trung ương với nhau; giữa các cơ quan ở tỉnh, nhất là ở
cấp huyện còn bất cập dẫn đến việc triển khai thực hiện gặp một số khó khăn.
- Công tác tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, cơ chế chính sách chưa
được thường xuyên, còn mang tính pha đợt.
- Hiện nay, trong Đề án vị trí việc làm của cấp huyện không bố trí cán bộ
chuyên trách hoặc kiêm nhiệm ở Phòng Nông nghiệp và PTNT (Phòng Kinh tế) để
thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về HTX NN theo quy định tại
Thông tư liên tịch số 14/2015/TTLT-BNNPTNT-BNV ngày 25/3/2015 của Bộ
Nông nghiệp và PTNT, Bộ Nội vụ Hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn về nông nghiệp và phát triển nông thôn
thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện. Do vậy, công tác quản lý nhà nước về lĩnh kinh
tế tập thể, HTX NN cấp huyện đang gặp nhiều khó khăn.
- Xã hội có sự nhìn nhận chưa toàn diện, tích cực về lĩnh vực kinh tế hợp tác.
- Các HTX chưa chủ động hợp tác, liên kết lại với nhau (ở cùng lĩnh vực
hoạt động hình thành nên các liên hiệp HTX) nhằm tăng quy mô thành viên, quy
mô vốn, hỗ trợ nhau về năng lực quản lý - điều hành để thích ứng tốt hơn với thị
trường và tăng cường khả năng cạnh tranh.
4.2. Nguyên nhân chủ quan
- Năng lực nội tại của một số HTX NN chưa thật sự vững mạnh, đội ngũ cán
bộ tuy có sự thay đổi nhưng chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Một số HTX NN chưa năng động, nhạy bén trong phát triển kinh doanh, chưa
mạnh dạn thực hiện liên doanh liên kết, mở thêm ngành nghề mới, chất lượng các
dịch vụ chưa cao. Tư tưởng trông chờ vào sự hỗ trợ, đầu tư từ phía nhà nước vẫn
còn khá phổ biến.
- Số thành viên HTX NN tuy đông nhưng đa phần cao tuổi nên việc đóng
góp, xây dựng có hạn chế (thành viên từ HTX cũ chuyển đổi sang). Đa số người
dân, do thói quen sản xuất nhỏ lẻ nên khi tham gia vào HTX chưa thực sự mạnh
dạn trong việc đầu tư, góp vốn, đóng góp công sức.
- Cấp ủy đảng và chính quyền ở một số địa phương, nhất là cấp xã còn chưa
chú trọng đến lĩnh vực kinh tế tập thể, chưa có sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát để triển
khai thực hiện. Tình trạng cấp ủy cơ sở và chính quyền thiếu quan tâm, định hướng
nhằm tạo điều kiện cho HTX NN phát triển, có nơi can thiệp quá sâu vào hoạt
động nội bộ của HTX NN. Nhận thức của một số cán bộ, đảng viên về kinh tế tập
thể, HTX nói chung, HTX NN nói riêng theo Luật HTX năm 2012 có nơi còn chưa
đầy đủ.
- Công tác tư vấn, hỗ trợ phát triển hợp tác xã triển khai chưa đồng đều giữa
các địa phương trong tỉnh, nhất là các huyện miền núi.
- Chưa có giải pháp chế tài hiệu quả đối với các HTX không chấp hành đảm
bảo chế độ thông tin, báo cáo theo quy định.
- Công tác động viên, khen thưởng các HTX, cán bộ có thành tích tốt chưa
kịp thời, thường xuyên.
IV. MỤC TIÊU
4.1. Mục tiêu tổng quát
- Tiếp tục củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của THT, HTX NN gắn với
xây dựng nông thôn mới và tái cơ cấu ngành nông nghiệp.
- Xây dựng và phát triển mô hình KTTT, HTX NN nhanh và bền vững; phát
huy hiệu quả trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế và cải thiện đời sống thành
viên; phát triển thành viên thông qua thu hút ngày càng nhiều người dân, hộ kinh tế
cá thể và tổ chức tham gia KTTT, HTX NN.
- Tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ vào xây dựng và phát triển sản
phẩm, hàng hóa có giá trị gia tăng cao và sản phẩm từ truyền thống thông qua mô
hình hợp tác kiểu mới.
4.2. Các mục tiêu cụ thể
- Tổng số HTX nông nghiệp: 400 HTX
- Tổng số thành viên HTX 91.600 thành viên.
- Tổng số lao động làm việc trong HTX nông nghiệp trên 4.000.
- Doanh thu bình quân của một HTX: 11 tỷ đồng/năm.
- Thu nhập bình quân của thành viên một HTX: 80 triệu đồng/thành viên/năm.
- Phấn đấu đến năm 2025 nâng tỷ lệ số HTX NN hoạt động có hiệu quả trên
địa bàn tỉnh đạt tỷ lệ 80% so với tổng số HTX NN.
- Tiếp tục tái cấu trúc lại các HTX NN hoạt trung bình, yếu kém để đạt tiêu
chí hoạt động hiệu quả.
- Mỗi cấp huyện cần chủ động xây dựng từ 2 - 3 mô hình HTX NN/năm
(liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị) hoạt động hiệu quả.
- Thực hiện việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao để đến năm 2025 có ít
nhất 40% HTX ứng dụng công nghệ cao trong lĩnh vực nông nghiệp.
- Phát triển mới ít nhất 100 hợp tác xã nông nghiệp, trong đó tối thiểu có 50
hợp tác xã tham gia chương trình OCOP.
4.3. Mục tiêu cụ thể năm 2021
- Tổng số HTX nông nghiệp: 360 HTX
- Tổng số thành viên HTX 91.000 thành viên.
- Tổng số lao động làm việc trong HTX nông nghiệp trên 4.400 người.
- Doanh thu bình quân của một HTX: 8,5 tỷ đồng/HTX/năm.
- Thu nhập bình quân của lao động thường xuyên trong HTX: 40 triệu
đồng/thành viên/năm.
- Tỷ lệ số HTX NN hoạt động có hiệu quả trên địa bàn tỉnh đạt tỷ lệ trên
50% so với tổng số HTX NN.
- Tiếp tục tái cấu trúc lại các HTX NN hoạt trung bình, yếu kém để đạt tiêu
chí hoạt động hiệu quả.
- Mỗi cấp huyện xây dựng ít nhất 01 mô hình HTX NN (liên kết sản xuất
theo chuỗi giá trị) hoạt động hiệu quả.
- Thực hiện việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao với khoảng 20% HTX
NN; 20 HTX tham gia chương trình OCOP.
V. MỘT SỐ NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP TRỌNG TÂM ĐỂ THÚC
ĐẨY PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỢP TÁC, HTXNN GIAI ĐOẠN 2021-2025
5.1. Giải pháp về nâng cao nhận thức
Tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về quan điểm, đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về kinh tế hợp tác mà
nòng cốt là HTX NN đến các cấp, các ngành, các địa phương và tầng lớp nhân dân.
Tăng cường sự phối hợp giữa các ngành, địa phương và các cơ quan truyền thông
trong công tác tuyên truyền; đồng thời đổi mới, đa dạng hóa các hình thức, nội
dung phải thiết thực và phù hợp với từng đối tượng. Chú trọng phổ biến các mô
hình mới, điển hình tiên tiến, hiệu quả cao để phát triển và nhân rộng ra các ngành,
địa phương trong tỉnh. Đưa nội dung về kinh tế hợp tác, HTX vào nghị quyết và
chương trình công tác của các cấp để thống nhất trong chỉ đạo.
5.2. Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực HTX và cán bộ tham
gia quản lý nhà nước
Tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho các cán
bộ chủ chốt, cán bộ quy hoạch vị trí Giám đốc, cán bộ kế toán... của HTX NN.
Đồng thời, thu hút những người có trình độ chuyên môn giỏi, đạo đức tốt về làm
cán bộ chủ chốt tại các HTX để tham gia hoạt động quản lý, điều hành và hỗ trợ
HTX phát triển. Bên cạnh đó, không ngừng nâng cao chất lượng công tác đào tạo
trên cở sở thu hút đội ngũ giảng viên có chất lượng tốt, giàu kinh nghiệm thực tế;
đổi mới hoạt động đào tạo chuyển từ lý thuyết sang thực tế tại các mô hình làm ăn
có hiệu quả trên cả nước để trực tiếp học tập. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại; tăng
cường hợp tác, liên kết giữa doanh nghiệp với HTX để mở rộng thị trường tiêu thụ
và giao lưu, tìm hiểu nâng cao trình độ quản lý, quản trị HTX theo hướng hiện đại,
hiệu quả…
Ngoài ra, tăng cường đào tạo, tập huấn cho cán bộ làm công tác quản lý nhà
nước, các đoàn thể tham gia tuyên truyền, vận động về kinh tế hợp tác, HTX NN.
Tăng cường sự phối hợp giữa Sở, ngành, các tổ chức đoàn thể chính trị... trong
công tác quản lý và hỗ trợ nguồn lực để kinh tế hợp tác, HTX phát triển; đặc biệt là
việc tập trung nguồn lực xây dựng mô hình HTX kiểu mới phù hợp với điều kiện,
nhu cầu thực tiễn.
5.3. Giải pháp về hoàn thiện cơ cấu tổ chức cơ quan quản lý nhà nước
Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, phát huy vai trò của
MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc phát triển HTX. Kiện toàn, tổ
chức bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế tập thể theo Thông tư Liên tịch số
21/2015/TTLT-BKHĐT-BNV ngày 11/12/2015 của Liên Bộ Kế hoạch và Đầu tư
và Bộ Nội vụ. Thực hiện tốt Chỉ thị số 12/CT-TTg ngày 22/5/2018 của Thủ tướng
Chính phủ về việc tiếp tục tăng cường công tác triển khai thi hành Luật HTX năm
2012; Quyết định 2047/QĐ-UBND ngày 24/6/2019 của UBND tỉnh về quy chế
phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong quản lý nhà nước đối với HTX, Liên
HTX, quỹ tín dụng nhân dân và Tổ hợp tác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
Cấp ủy, chính quyền địa phương phát huy hơn nữa vai trò, trách nhiệm của
mình trong chỉ đạo phát triển kinh tế hợp tác, HTX NN. Cụ thể hóa chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước bằng các văn bản chỉ đạo sát với
tình hình thực tiễn địa phương. Tiếp tục kiện toàn, nâng cao năng lực của bộ phận
tham mưu giúp việc để đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới. Thường
xuyên liên hệ, nắm bắt tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, trên cơ sở đó có
các giải pháp kịp thời để giúp cho THT, HTX NN phát triển hiệu quả, bền vững.
Định kỳ sơ kết, tổng kết đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết, Luật HTX,
các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với kinh tế hợp tác, HTX
NN. Phối hợp thực hiện thanh tra, kiểm tra thường xuyên, định kỳ và có chế tài
nghiêm xử lý đối với những hành vi vi phạm Luật HTX 2012.
5.4. Đẩy mạnh đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của THT, HTX NN
Trong bối cảnh cuộc cách mạng Công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ, khu
vực kinh tế tập thể, hợp tác xã có nhiều cơ hội phát triển, song cũng đối diện với
nhiều thách thức, đòi hỏi Nhà nước cũng như cộng đồng HTX NN phải có tư duy
mới, cách nhìn nhận mới và có các giải pháp nhằm phát triển một cách bền vững
để tự thích ứng với những cơ chế thị trường. Chủ động rà soát, củng cố nhân sự,
thành viên và phương án sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động.
Mạnh dạn ứng dụng những tiến bộ của khoa học kỹ thuật, công nghệ mới vào sản
xuất kinh doanh; nghiên cứu, học tập những mô hình mới, cách làm hiệu quả để
tiếp cận. Tăng cường liên doanh, liên kết giữa các THT, HTX NN với nhau, với
các doanh nghiệp và nhân dân trong sản xuất, tiêu thụ. Chú trọng sản xuất những
sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch, thân thiện với môi
trường... và gắn với phát triển du lịch sinh thái. Ngoài ra, tích cực quảng bá, giới
thiệu hình ảnh, sản phẩm của HTX NN trên Website của Liên minh HTX tỉnh, sàn
thương mại điện tử (Cổng OCOP HTX NN)...
Cơ quan quản lý nhà nước triển khai và nhân rộng có hiệu quả các mô hình
HTX kiểu mới, tiêu biểu, hoạt động hiệu quả trên địa bàn toàn tỉnh theo Quyết định
167/QĐ-TTg ngày 03/02/2021 của Thủ tường Chính phủ. Theo dõi xuyên suốt quá
trình hoạt động và thông qua các phong trào thi đua để phát hiện, bồi dưỡng, nhân
rộng những mô hình mới, cách làm hiệu quả. Thực hiện tốt công tác đánh giá và có
các hình thức tôn vinh, khen thưởng kịp thời nhằm khích lệ các THT, HTX NN
vươn lên.
5.5. Tập trung nguồn lực từ ngân sách nhà nước và thị trường để hỗ trợ
khu vực kinh tế hợp tác, HTX NN phát triển
Tập trung triển khai thực hiện và lồng ghép có hiệu quả các nguồn lực hỗ trợ
cho khu vực kinh tế hợp tác, HTX NN, các cơ chế, chính sách đã được ban hành
nhất là cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển HTX NN giai đoạn 2021-2025 được
HĐND tỉnh ban hành trong thời gian tới. Ưu tiên nguồn lực cho những HTX NN
có tham gia liên kết sản xuất gắn với chuỗi giá trị sản phẩm và chấp hành đảm bảo
các qui định của Luật HTX 2012, nhất là chế đột thông tin, báo cáo theo quy định.
Đồng thời, tích cực tìm kiếm, kêu gọi các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế
khác liên doanh, liên kết với khu vực kinh tế hợp tác, đầu tư đổi mới công nghệ,
thiết bị sản xuất, ứng dụng và chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào HTX
để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, hạ giá thành sản
phẩm và nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường.
5.6. Một số giải pháp khác
- Triển khai thực hiện hiệu quả các văn bản chỉ đạo của Trung ương, tỉnh về
lĩnh vực kinh tế hợp tác, HTX NN.
- Thường xuyên phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan để nắm bắt thông
tin, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các HTX, THT trong lĩnh vực
nông nghiệp; tạo mọi điều kiện thuận lợi và hỗ trợ cho HTX, THT trong lĩnh vực
nông nghiệp thành lập và phát triển. Đồng thời rà soát, hướng dẫn, hỗ trợ cho các
HTX NN hoạt động yếu kém, ngừng hoạt động để củng hoặc giải thể. Việc vận
động thành lập phải thực chất, đi từ nhu cầu của các thành viên HTX, tránh thành
lập theo kiểu thành tích.
- Việc hỗ trợ các cơ chế, chính sách cho các HTX phải chặt chẽ, trong quá
trình hỗ trợ thường xuyên kiểm tra, đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn vốn và phổ
biến, nhân rộng khi đạt kết quả tốt.
- Đối với những cơ quan, đơn vị, HTX không chấp hành chế độ thông tin, báo
cáo theo quy định đề nghị các cơ quan, đơn vị, địa phương lập danh sách theo dõi,
tổ chức làm việc trực tiếp với HTX và có hạn chế trong việc tiếp cận các nguồn lực
hỗ trợ.
- Tiếp tục hỗ trợ, tạo điều kiện cho các THT, HTX NN tham gia trực vào
Chương trình MTQG xây dựng NTM; phát huy được vai trò của mình trong phát
triển kinh tế hộ nhằm góp phần nâng cao thu nhập cho người dân nông thôn.
- Kịp thời động viên, khen thưởng những cá nhân, đơn vị, HTX, THT có
thành tích trong phong trào đổi mới, sáng tạo về công tác quản lý, phát triển kinh tế
tập thể, HTX NN.
VI. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
Nhằm giúp kinh tế hợp tác, HTX NN phát triển bền vững trong thời gian
đến, kính đề nghị một số nội dung sau:
6.1. Đối với Trung ương, các Bộ, ngành liên quan
- Tiếp tục chỉ đạo các cơ quan truyền thông tăng cường công tác tuyên
truyền về vị trí, vai trò của kinh tế tập thể đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Tiếp tục bố trí nguồn kinh phí để hỗ trợ cho lĩnh vực kinh tế hợp tác, HTX
NN như: Tuyên truyền, đào tạo nâng cao năng lực, hỗ trợ cơ sở hạ tầng, khoa học
công nghệ, xúc tiến thương mại…
- Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, thành viên HTX; đẩy
mạnh công tác thi đua, khen tưởng để khích lệ, động viên kịp thời những cá nhân,
tập thể, đơn vị có thành tích xuất sắc trong phong trào đổi mới, phát triển KTTT,
HTX NN.
- Bộ Nông nghiệp và PTNT nghiên cứu ban hành văn bản quy định tiêu chí
cụ thể để xác định HTX thuộc lĩnh vực nông nghiệp; vì hiện nay, tình trạng một số
HTX nông lâm ngư nghiệp được phép đăng ký kinh doanh nhiều ngành nghề, lĩnh
vực khác nhau nhưng khi hoạt động HTX chủ yếu tổ chức sản xuất, kinh doanh các
dịch vụ phi nông nghiệp, còn dịch vụ phục vụ nông nghiệp không triển khai nhằm
mục đích hưởng cơ chế, chính sách ưu tiên cho HTX nông nghiệp.
- Bộ Tài chính hoặc Bộ Kế hoạch và Đầu tư sớm ban hành văn bản hướng
dẫn Hồ sơ, thủ tục hỗ trợ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng HTX NN do HTX nông
nghiệp làm chủ đầu tư (nguồn vốn Tái cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phòng chống
giảm nhẹ thiên tai và ổn định đời sống dân cư; Chương trình MTQG xây dựng
NTM).
- Bộ Tài chính nên thống nhất về chế độ kế toán áp dụng cho các HTX để
thuận tiện trong quá trình quyết toán tài chính HTX (Theo quy định của Bộ Tài
chính chế độ kế toán áp dụng cho các HTX theo Thông tư số 24/2017/TT-BTC
ngày 28/3/2017 hướng dẫn chế độ kế toán Hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã áp
dụng đối với tất cả các Hợp tác xã hoạt động trong mọi lĩnh vực, mọi ngành nghề
hoạt động sản xuất, kinh doanh; nhưng đối với báo cáo thuế HTX thực hiện quy
chế độ kế toán dành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Vì vậy, các HTX phải đồng
thời hoạch toán hai chế độ, có HTX chỉ làm theo báo cáo thuế).
- Thống nhất việc đánh giá, xếp loại HTX NN nhằm tạo điều kiện thuận lợi
cho các HTX NN trong quá trình hoạt động.
- Hiện nay, Quảng Nam đã đưa nội dung “Chấp hành chế độ thông tin báo
cáo” vào điều kiện đủ để tiếp cận các cơ chế, chính sách hỗ trợ HTX nói chung và
HTX NN nói riêng. Tuy nhiên, về mặt Luật, Thông tư kính đề nghị Cục Kinh tế hợp
tác và PTNT tham mưu Bộ Nông nghiệp và PTNT đề xuất Chính phủ có chế tài cụ
thể cho vấn đề này.
- Có cơ chế đặc thù cho các HTX NN đặc thù theo quy định tại Thông tư
06/2019/TT-BNNPTNT ngày 19/7/2019 của Bộ Nông nghiệp và PTNT quy định
hoạt động đặc thù, chế độ báo cáo của HTX NN.
6.2. Đối với cấp tỉnh
- Sớm ban hành cơ chế hỗ trợ, khuyến khích để đẩy mạnh phát triển KTTT,
HTX NN.
- Chỉ đạo các ngành, địa phương quan tâm tháo gỡ vướng mắc đẩy, nhanh
tiến độ thực hiện việc cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
HTX NN để HTX đảm bảo đủ điều kiện được hỗ trợ đầu tư kết cấu hạ tầng.
- Chỉ đạo các Sở, Ngành, liên quan, nhất là cấp huyện tăng cường công tác
quản lý nhà nước về kinh tế hợp tác nói chung, HTX NN nói riêng; chỉ đạo UBND
cấp huyện kịp thời tổ chức rà soát, đánh giá, nắm tình hình hoạt động của HTX,
HTX NN, nhất là đối với các HTX NN thành lập mới; tổ chức xây dựng phương
án/kế hoạch giải thể hoặc chuyển đổi hoạt động đối với các HTX NN hoạt động
yếu kém, không hoạt động.
- Tiếp tục quan tâm bố trí nguồn kinh phí để các cấp thực hiện tốt công tác
tuyên truyền, đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao nhận thức, kỹ năng, nghiệp vụ
quản lý của các HTX trên địa bàn.
6.3. Đối với cấp huyện
- Tăng cường công tác quản lý nhà nước về HTX, THT; tiếp tục thông tin,
tuyên truyền đẩy mạnh phát triển KTTT; xây dựng kế hoạch, định hướng phát triển
kinh tế tập thể, HTX NN phù hợp với đặc điểm, điều kiện địa phương trong giai
đoạn đến và hằng năm; hướng dẫn, tạo điều kiện thuận lợi cho các THT, HTX phát
triển theo hướng liên doanh, liên kết và tham gia vào chương trình OCOP.
- Ưu tiên bố trí cán bộ chuyên trách hoặc kiêm nhiệm ở Phòng Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn/Phòng Kinh tế để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ quản
lý nhà nước về HTXNN theo quy định tại Thông tư liên tịch số 14/2015/TTLT-
BNNPTNT-BNV ngày 25/3/2015 của Liên Bộ Nông nghiệp và PTNT, Bộ Nội vụ.
- Triển khai thực hiện tốt Công văn số 946/UBND-KTN ngày 25/02/2019
của UBND tỉnh Quảng Nam về việc xử lý dứt điểm hợp tác xã nông nghiệp yếu
kém, ngừng hoạt động lâu ngày.
- Đảm bảo chế độ thông tin, báo cáo định kỳ và đột xuất đảm bảo theo nội
dung và thời gian quy định.
Trên đây là Báo cáo tình hình phát triển kinh hợp tác, hợp tác xã nông nghiệp
trên địa bàn tỉnh; một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm trong thời gian đến./.

Nơi nhận: KT. GIÁM ĐỐC


- UBND tỉnh(b/c); PHÓ GIÁM ĐỐC
- Sở Kế hoạch và đầu tư (b/c);
- Lưu: VT.

Ngô Tấn

You might also like