Professional Documents
Culture Documents
Sơ đồ 1: Chuỗi giá trị của ngành Chế biến thủy hải sản
Như vậy, đối với cụm ngành Chế biến thủy hải sản thì sản phẩm cuối cùng là thủy hải sản chế biến (có thể là
sống hoặc chín). Ví dụ như: các loại sản phẩm thủy hải sản đóng hộp, thủy hải sản khô tẩm ướp gia vị, thủy
hải sản sống chỉ qua sơ chế rồi cất đông, …
3.2.1 Yếu tố cấu thành cụm ngành
Các DN sản xuất sản phẩm cuối
Với lợi thế và tiềm năng lớn về phát triển thủy sản nên tại Quảng Trị có nhiều DN sản xuất nhỏ lẻ về ngành
công nghiệp chế biến thủy hải sản. Nhưng trong đó, có một DN lớn là Công ty TNHH Ngọc Tuấn SURIMI
với các sản phẩm đạt tiêu chuẩn xuất khẩu qua EU và Trung Quốc; và một số DN: Công ty TNHH MTV
Phương Oanh General, Bảo Trâm QT đáp ứng tiêu chuẩn xuất qua Trung Quốc.
Các ngành khâu trước – khâu sau
- DN sản xuất thức ăn thủy sản: ở Việt Nam hiện nay, 80% thị phần của mặt hàng này được chiếm bởi các
DN nước ngoài;
- Con giống đây là khâu đầu tiên, quan trọng.
- DN sản xuất thuốc thủy sản;
- Nuôi trồng thủy sản: năm 2019, sản lượng khai thác là 27.362 tấn;
- Khai thác thủy sản: năm 2019, sản lượng nuôi trồng là 8.667 tấn.
Các DN cung ứng chuyên biệt
- DN sản xuất lưới đánh bắt thủy hải sản: có nhưng manh mún, nhỏ lẻ, chưa phát triển mạnh, người dân tại
tỉnh có xu hướng tự đan.
- DN đóng tàu, phương tiện đánh bắt: tỉnh Quảng Trị có công ty lớn là công ty TNHH đóng tàu Cửa Việt.
- Kho lạnh, nước đá bảo quản: ở Quảng Trị có khá nhiều cơ sở, tập trung ở 1 số địa điểm (Cửa Việt, Gio
Việt, Cửa Tùng, …)
Các đơn vị cung cấp dịch vụ
- Đơn vị cung cấp dịch vụ vận tải;
- Đơn vị nghiên cứu, cung cấp giải pháp xử lí chất thải rắn, nước thải, mùi.
Các ngành khác có chia sẻ về hoạt động sản xuất, công nghệ và quan hệ khách hàng
- Ngành muối: diện tích muối của Quảng Trị nhỏ. Trong khi đó, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh là 3 tỉnh
thuộc khu vực BTB là 1 trong những nơi có diện tích sản xuất muối lớn nhất cả nước.
Các định chế tài chính: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (AGRIBANK),
Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Quảng Trị là những định chế tài chính nổi bật trong việc tung các gói tín
dụng hỗ trợ người dân và doanh nghiệp trong các ngành khai thác, sản xuất, chế biến thủy hải sản.
Cơ sở hạ tầng: tuy có nhiều lợi thế khi nằm trên nhiều tuyến đường huyết mạch, nhưng logistics còn
yếu, chưa đồng bộ và đáp ứng được nhu cầu.
Sơ đồ 2: Sơ đồ cụm ngành chế biến thủy hải sản
3.2.2 Phân tích mô hình kim cương cụm ngành
Các yếu tố đầu vào sẵn có
Các điều kiện đầu vào bao gồm: tài nguyên thiên nhiên, vốn, con người, chính sách, công nghệ- kỹ thuật, …
tác động đến năng lực sáng tạo và năng suất lao động.
Tài nguyên thiên nhiên: Quảng Trị là tỉnh có đường bờ biển dài gần 80 km lại nằm gần ở cửa ngõ Vịnh Bắc
Bộ, cùng với có nhiều ngư trường rộng trên 8.400 km2 nên trữ lượng hải sản dồi dào với 60.000 tấn/năm
- Vốn: Tổng mức đầu tư đóng mới, nâng cấp tàu cá theo nghị định 67/ NĐ- CP đạt 550 tỷ đồng, trong đó đã
giải ngân được 430 tỷ đồng. Năm 2018 tỉnh đã hỗ trợ 37 tỷ đồng cho 461 chuyến biển xa bờ, dành gần 17 tỷ
đồng hỗ trợ ngư dân mua các loại bảo hiển, chi phí vận chuyển hàng hóa cho tàu cá, chi phí đào tạo kỹ thuật
vận hành tàu cá đóng bằng nguyên liệu mới, kỹ thuật khai thác và bảo quản hải sản, chi phí duy tu và sửa
chữa tàu cá.
- Con người: Toàn tỉnh có trên 15.934 lao động hoạt động thủy sản, trong đó có trên 7000 lao động trên
biển, có kinh nghiệm, thuận lợi cho việc phát triển kinh tế biển cũng như đảm bảo an ninh quốc phòng biển.
Hằng năm, các ngành chức năng tổ chức 2-3 lớp đào tạo thuyền trưởng và máy trưởng cho ngư dân, nhất là
loại tàu vỏ thép công suất trên 400 CV. Bên cạnh đó, có đến 2600 ngư dân tham gia tổ, đội sản xuất trên
biển, mô hình này giúp ngư dân vươn khơi khai thác hải sản, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau hiệu quả hơn.
- Chính sách: Nhiều chủ trương, chính sách phát triển thủy sản của chính phủ được triển khia thực hiện, đại
hiệu quả cao, tạo tâm lý phấn khởi cho bà con ngư dân. Như là, Quyết định 48/ QĐ – TTg của thủ tướng
chính phủ về một số chính sách khuyến khích khai thác hải sản ở vùng biển xa và Nghị định 67/ NĐ-CP của
Chính phủ về một số chính sách phát triển thủy sản. Tỉnh Quảng Trị còn đặc biệt quan tâm đến công tác
tuyên truyền biển đảo, đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo cũng như nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
về lĩnh vực thủy sản.
- Cơ sở vật chất- công nghệ, kỹ thuật: Tổng số tàu cá tại Quảng Trị là 2.311 chiếc, với tổng công suất
118.8206 CV, trong đó số tàu, trong đó tàu xa bờ từ 90CV trở lên là 221 chiếc, số tàu cá dưới 30CV giảm
dần và không phát triển, góp phần giảm áp lực nguồn lợi, môi trường thủy sản vùng bờ. Quảng Trị đang
được đẩy mạnh theo hướng khai thác hải sản xa bờ, tăng cường phát triển mô hình tổ, đội hợp tác sản xuất
trên biển, tạo sự liên kết. Đồng thời đầu tư đồng bộ trang bị ngư lưới cụ, thiết bị hàng hải, ứng dụng định vị,
dò cá tầm ngang thế hệ mới trong sản xuất, hướng dẫn chuyển giao ứng dụng khoa học kỹ thuật vào khai
thác thủy sản. Ứng dụng công nghệ PU Foam trong hầm lạnh bảo quản sản phẩm trên tàu cá đã góp phần
nâng cao chất lượng sản phẩm sau thu hoạch và thu nhập của ngư dân.
Dịch vụ hậu cần nghề cá từng bước được phát triển, cảng cá, bến cá, khu neo đậu trú bão của tàu cá ngày
càng hoàn thiện, hiện nay vùng biển của tỉnh đã hình thành 3 trung tâm nghề cá lớn là Cửa Tùng, Cửa Việt
và Cồn Cỏ. Hai cơ sở đóng mới và sửa chữa tàu thuyền là Công ty TNHH Đóng tàu Cửa Việt và công ty
TNHH đóng tàu Triệu An.
Bối cảnh chiến lược và cạnh tranh
Sự cạnh tranh quyết liệt giữa số lượng lớn các doanh nghiệp cùng ngành giữa các tỉnh thành với nhau. Các
doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thủy sản đa dạng hóa các sản phẩm thủy sản chế biến sẵn bảo quản đông
lạnh, sản phẩm thủy sản đóng hộp và đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường nhập khẩu vẫn đang bị ảnh
hưởng bởi dịch bệnh. Nhiều Doanh nghiệp ngoài những dây chuyền sản xuất, máy móc hiện đại để sản xuất
thủy hải sản chế biến xuất khẩu thì trong đó các doanh nghiệp hiện nay còn đầu tư sản xuất sản phẩm thủy
sản chế biến phổ thông, dành cho bữa ăn hàng ngày của mọi gia đình Việt vào dịp cuối tuần hay ngày lễ, tết
(kể đến như mắm kho, gói lẩu hải sản, bánh hấp há cảo, …). Đây là yếu tố mới cho thấy các doanh nghiệp
chế biến thủy sản đầu tư mạnh để đa dạng hóa các sản phẩm cùng cấp cho người tiêu dùng ở thị trường nội
địa. Quảng Trị từng bước nỗ lực trở thành tỉnh mạnh về biển. Nhiều chủ trương, chính sách phát triển thủy
sản của Chính phủ được tỉnh triển khai thực hiện, đạt hiệu quả cao. Cảng cá, bến cá, khu neo đậu trú bão của
tàu cá ngày càng hoàn thiện hơn. Cơ quan ban ngành tỉnh đặc biệt quan tâm đến chất lượng của tàu, vì vậy
tàu vỏ thép tại tỉnh Quảng Trị có chất lượng đảm bảo tốt do trong quá trình từ làm hợp đồng, đóng tàu, mua
máy, lắp máy đến khi bàn giao đều có sự giám sát kỹ càng của chủ tàu, đơn vị cho vay bốn và các cơ quan
quản lý chất lượng. Theo thống kê, toàn tỉnh có 24 tàu cá đóng mới và 81 tàu nâng cấp được các ngân hàng
xem xét thẩm định hồ sơ và ký kết hợp đồng vay vốn theo nghị đinh 67. Các tàu hầu hết được đóng mới và
sửa chữa tại những nơi có uy tín, kinh nghiệm như Công ty TNHH đóng tàu Cửa Việt, Cty TNHH đóng tàu
Triệu An. Quảng Trị đã hình thành 3 trung tâm nghề cá lớn của tỉnh là Cửa Tùng, Cửa Việt và đảo Cồn Cỏ
nhất là về khía cạnh chế biến thủy sản xuất khẩu.
Tuy nhiên hiện nay Quảng Trị chỉ đang dừng lại ở mức chủ yếu là khai thác rồi xuất khẩu, chưa có nhiều sản
lượng từ nuôi trồng, chế biến rồi xuất khẩu trong chuỗi giá trị của cụm ngành. Với tỷ lệ trên lệch khá cao
ước tính 9 tháng đầu năm 2020, số lượng khai thác đạt 22.298 tấn gấp gần 18 lần so với khác thác nuôi
trồng.
Về rào cản thương mại của ngành, hiện nay ngành thủy sản là một trong những ngành mũi nhọn nhưng khó
có thể gia nhập thị trường châu Âu, hiện nay ngành thuyr hải sản Việt Nam phải nỗ lực vượt qua hàng loạt
những khó khăn hiện đang phải đối mặt như gỡ bỏ thẻ vàng về khai thác hải sản bất hợp pháp, lấy lại uy tín
khi bị tố sử dụng trẻ em để khai thác hải sản. Những rào cản gia nhập ngành cao vì nhìn chung Quảng Trị
tuy có nhiều điều kiện tự nhiên nhưng nơi đây là một trong những tỉnh thường xuyên gánh chịu những thiên
tai nên tỷ lệ đầu tư nước ngoài hay các doanh nghiệp trong nước đầu tư tại tỉnh khá khiêm tốn so với các
tỉnh trong khu vực và trên cả nước. Tỷ trọng vốn khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm có 1,71%.
Điều kiện về nhu cầu
Nhu cầu thủy hải sản tại nhiều thị trường vẫn còn nhiều tiềm năng, theo đánh giá FAO thì nhu cầu tiêu thụ
thủy sản của thế giới hàng năm tiếp tục tăng do dân số tăng và tiêu dùng bình quân đầu người tăng. Thị
trường tiêu thụ của nước ta ngày càng được mở rộng và ngày càng có chỗ đứng quan trọng ở những thị
trường lớn như Mỹ, Nhật, EU, … chiếm đến 50-60% giá trị xuất khẩu.
Thị trường tiêu thụ trong nước gần đây được các doanh nghiệp tập trung quan tâm nhiều hơn. Theo cục chế
biến và phát triển thị trường nông sản, sản lượng sản phẩm hải sản tiêu thụ nội địa năm 2017 đạt 548,16
ngàn tấn với tổng giá trị trên 4,8 tỷ đồng. Thống kê giai đoạn 2013- 2017, tổng sản lượng thủy sản chế biến
tiêu thụ nội địa tăng 478.000 tấn lên 548.000 tấn, tổng giá trị tăng từ 13.146 tỷ đồng lên 20.321 tỷ đồng, tốc
độ tăng trưởng bình quân giai đoạn này là 5,5%/ năm và giá trị đạt 13%.
Xét theo cơ cấu sản phẩm thì thủy sản đông lạnh là nhóm sản phẩm quan trọng nhất chiếm 36.7%, tiếp theo
đó là nước mắm, mực khô, cá khô, tôm khô, mắm các loại, đồ hộp, …
Trong khi tiêu thụ thủy sản bình quân theo đầu người của Việt Nam tăng bình quân 5%/năm trong giai đoạn
1990-2010, từ năm 2001 đến nay sản phẩm thủy sản qua chế biến tiêu thụ nội địa mỗi năm tăng trưởng bình
quân về lượng 10,5%, giá trị tăng 20,1%, năm 2019 mức tiêu thụ hải sản của người Việt là khoảng 38k đến
40kg/người/năm, dự báo mức tiêu thụ thủy sản vào năm 2020 này là 44kg/người.
Nhiều doanh nghiệp đang ngày càng chú trọng nhiều hơn vào thị trường nội địa bằng việc liên tục khảo sát
tìm hiểu thị hiếu người tiêu dùng và cho ra những sản phẩm phù hợp hơn với nhu cầu người tiêu thụ. Với
gần 100 triệu dân, lượng tiêu thụ và giá trị tiêu thụ thủy hải sản của thị trường nội địa không kém so với
những thị trường xuất khẩu thủy sản truyền thống. Theo khảo sát của Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy
sản Việt Nam, giá trị tiêu thụ sản phẩm thủy sản của thị trường nội địa mỗi năm lên đến 22.000 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, xuất hiện nhu cầu nội đia mới thông qua sự phát triển của các kênh bán lẻ hiện đại cùng với
nhịp sống tất bật, điều này làm cho nhiều gia đình Việt chọn thực phẩm chế biến sẵn, trong đó có nhóm thủy
hải sản. Theo cục chế biến và phát triển thị trường nông sản thì sản lượng các sản phẩm thủy sản chế biến
kinh doanh nội địa hiện nay đạt khoảng 600.000 tấn/ năm, gồm thủy sản đông lạnh, nước mắm, mực khô, cá
khô, tôm khô, …
Khó khăn người dân vẫn còn giữ tâm lý chuộng hàng ngoại nhiều, điều đó dẫn đến việc hải sản ngoại ồ ạt
vào chợ, siêu thị tại nước ta. Mặc dù chất lượng cũng không chênh lệch quá nhiều bằng hải sản nội nhưng do
tâm lý sính ngoại, cho rằng hải sản ngoại nhập an toàn nên hải sản ngoại vẫn thu hút khách. Lượng thủy hải
sản mà Việt Nam nhập khẩu ngày càng tăng, cả về số lựng và chùng loại, mức tăng trung bình từ 15% -
40%. Các thị trường mà nước ta có kim ngạch nhập khẩu lớn như Nhật Bản 23.5%, Na Uy 22%, Hoa Kỳ
63.5%,…Các loại thủy hải sản có thể kể đến như tôm hùm Na Uy và Canada, cá tuyết, cá hồi Đan Mạch, cua
hoàng đế Nhật Bản.
Các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan
Doanh nghiệp sản xuất sản phẩm cuối cùng: Nghề làm nước mắm ở Quảng Trị: một trong những tỉnh có
truyền thống từ lâu trong việc làm nước mắm, làng nghề nước mắm Mỹ Thủy ở Quảng Trị vẫn là nơi có sức
sống bền bỉ và ngày càng được nhiều nhà tiêu dùng ưa chuộng khi hiện nay có nhiều nhãn hiệu nước mắm
công nghiệp trên thị trường. Từ chỗ nước mắm chỉ cung cấp chủ yếu cho khách hàng trong tỉnh thì hiện tại
nước mắm Mỹ Thủy đã dần vươn xa khắp nơi trong nước, trong đó chiếm phần nhiều ở TPHCM, Hà Nội,
Đà Nẵng, … Sản lượng bình quân mỗi năm đạt từ 600.000 lít– 700.000 lít mang lại giá trị sản xuất 2 tỷ
đồng.
Quảng Trị hiện còn phát triển nghề làm cá cơm khô, đây là một nghề truyền thống tại xã Gio Việt, sản lượng
sản xuất không kịp so với nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước. Thông thường với một tấn cá cơm
đem đi hấp chin với khoảng 2- 2,5 tạ muối, rồi được đem đi phơi khô. Theo thống kê, địabàn xã Gio Việt có
79 hộ sản xuất cá khô, bình quân mỗi hộ sản xuất được từ 5 tạ - 1 tấn/ngày, mỗi ngày làng nghề sản xuất
được trên dưới 50 tấn cá khô xuất bán cho thị trường. Với giá cả trên thị trường, cá cơm khô được thu mua
với giá 50 triệu đồng/tấn. Hiện nay, để phát triển làng nghề truyền thống, Ủy ban nhân dân xã Gio Việt tạo
mọi điều kiện cho các hộ dân sản xuất cá cơm được tiếp cận với nguồn vốn ưu đãi để mở rộng sản xuất, phối
hợp các Sở tổ chức các lớp huấn luyện, các tiến bộ khoa học- kỹ thuật và công nghệ trong sản xuất.
Doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi thủy sản: Trong nuôi trồng thủy sản, thức ăn thường chiếm khoảng
50 – 80% chi phí giá thành sản phẩm. Hiện nước ta có khoảng 130 nhà máy sản xuất thức ăn thủy sản với
sản lượng là 3,77 triệu tấn, đáp ứng được 85,6% nhu cầu trong nước. Tỉ lệ thức ăn nhập khẩu của nước ta
ngày càng giảm dần. Quảng Trị có một số công ty sản xuất thức ăn chăn nuôi thủy sản nổi bật như Tổng
Công ty Thương mại Quảng trị, Công ty CP thức ăn chăn nuối KHATOCO, Công ty CP Liên doanh thức ăn
chăn nuôi Việt Thái.
Nguồn con giống trong hoạt động của ngành thủy sản đóng vai tò rất quan trọng. Đây là khâu đầu tiên trong
chuỗi giá trị, khả năng ảnh hướng đến các khâu còn lại trong chuỗi sản xuất nhưng thực tế hiện nay chất
lương nguồn con giống thủy sản ở Việt Nam khá thấp. Nuôi trồng thủy sản giống tại Quảng Trị. Năm 2020,
Quảng Trị dự kiến nuôi 400 ha tôm sú, tôm thẻ chân trắng 600 ha, cá nước ngọt 2.200 ha. Sản lượng ước
tính là 6.000 tấn tôm (1000 tấn tôm sú, 5000 tấn TTCT), cua nuôi 40 tấn, cá nước ngọt đạt 3.500 tấn. Tỉnh
còn tập trung sản xuất giống với 40 triệu P15 tôm sú (nhu cầu thả nuôi trong tỉnh đạt khoảng 120 triệu P15),
TTCT là 1,5 tỷ P15, các loại giống cá nước ngọt là 150 triệu con, cua giống 50 vạn con. Bên cạnh thì tỉnh
cũng xây thêm nhà nước tôm giống Uni-president Quảng Trị để tạo điều kiện thuận lợi cho người nuôi, giảm
được chi phí, vận chuyển nhanh.
Xưởng đóng tàu thuyền: Theo như năm 2018, số lượng đóng mới và mua ngoại tỉnh 11 chiếc và nâng cấp 11
chiếc tàu trên 90 CV. Tổng số tàu thuyền toàn tỉnh có 2.317 chiếc, với tổng công suất đạt được 123.944 CV,
tàu cá có công suất trên 90CV là 229 chiếc. Các loại tàu khai khai thác khác như lưới rê các loại có 1.774
chiếc, lưới vây có 128 chiếc, nghề cầu 35 chiếc. Công tác duy tu, bảo dưỡng tàu cá được chú trọng và tháo
gỡ những thủ tục chồng chéo, tạo thuận lợi cho ngư dân duy tu sửa chữa tàu cá. Quảng Trị có 2 công ty đóng
tàu lớn là Công ty TNHH đóng tàu Cửa Việt, Cty TNHH đóng tàu Triệu An.
Các cơ sở hỗ trợ như kho lạnh thì trên địa bàn hiện có nhiều kho lạnh, kho trữ đông để bảo quản thủy hải
sản, đa số là kho bảo quản của từng hộ dân, riêng lẻ với nhau. Mức sản lượng cá bảo quản tại các kho này là
khác nhau có hộ nhỏ thì có kho bảo quản ở mức 50kg, những hộ nhiều thì có thể trữ lên đến khoảng 100 tấn
cá. Ngoài ra, Quảng Trị đang tập trung nâng cao công tác bảo quản thủy sản khi các tàu đánh bắt Ứng dụng
công nghệ PU Foam trong hầm lạnh bảo quản sản phẩm trên tàu cá đã góp phần nâng cao chất lượng sản
phẩm sau thu hoạch và thu nhập của ngư dân. Khi áp dụng hệ thống làm lạnh, lượng nước đá mang theo trên
mỗi chuyến đánh bắt cũng giảm 40%, tăng được diện tích, không gian chứa thủy hải sản. Kéo dài được thời
gian đánh bắt lượng tôm, cá vẫn tươi ngon khi về đất liền.
Doanh nghiệp sản xuất công cụ đánh bắt thủy hải sản có nhưng manh mún nhỏ lẻ, chưa phát triển mạnh
thành một doanh nghiệp chuyên sản xuất các công cụ đánh bắt. Người dân trong tỉnh có xu hướng tự đang
những công cụ để đánh bắt.
Những dịch vụ hỗ trợ cho ngành chế biến thủy hải sản ở Quảng Trị là khá khả quan, khi tỉnh liên tục dành sự
quan tâm đến ngành, đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng và dịch vụ hậu cần nghề cá, nhất là hệ thống cảng cá,
các khu neo đậu Cửa Tùng, Cửa Việt,… Cơ sở đóng thuyền phục vụ nhu cầu khai thác khác nhau.
Ngành phụ trợ muối của tỉnh hiện còn rất hạn chế so với một số tỉnh khác trong khu vực Bắc Trung Bộ.
Diện tích khai thác muối của tỉnh Quảng Trị nhỏ, trong khi đó, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh - ba tỉnh
thuộc khu vực Bắc Trung Bộ là một trong những nơi có diện tích sản xuất muối lớn nhất cả nước.
Có thể liên kết hợp với các địa phương khác không? Và mỗi địa phương đóng vai trò gì? Có
nên kết hợp không? (nếu không thì vì sao không cần kết hợp, không nên kết hợp?)
Về những điều kiện tự nhiên để phát triển ngành công nghiệp chế biến thủy hải sản, thì các tỉnh ở khu vực
Bắc Trung Bộ có điều kiện gần như giống nhau, chỉ có điều khác nhau về trữ lượng. Nên sẽ khó khăn trong
việc xác định vai trò cụ thể của từng tỉnh trong liên kết. Cùng với đó, bản thân các tỉnh ở Bắc Trung Bộ cũng
được đánh giá là chưa tự khai thác được hết những tiềm năng của mình.
Do đó, việc cùng liên kết để phát triển ngành công nghiệp chế biến thủy hải sản giữa các tỉnh trong khu vực
Bắc Trung Bộ cần được nghiên cứu sâu hơn để xác định vai trò cụ thể của mỗi tỉnh trong liên kết, sẽ tốt hơn
nếu như các tỉnh trong khu vực này có các điều kiện thuận lợi khác nhau, và những điều này có thể hỗ trợ
giúp nhau cùng phát triển.
Ngoài ra, cụm ngành công nghiệp chế biến thủy hải sản của tỉnh nói riêng cũng như Bắc Trung Bộ nói
chung gần như chưa được hình thành và tập trung quy hoạch theo phương hướng chủ trương của tỉnh. Vì
vậy người dân và doanh nghiệp khai thác, sản xuất, chế biến theo bản năng, còn manh mún, nhỏ lẻ. Đặc biệt
là các sản phẩm để xuất đi chưa tạo ra được giá trị gia tăng cao. Khi chưa tạo được nền móng vững chắc để
tạo ra động lực thúc đẩy từ chính bên trong của tỉnh thì việc liên kết sẽ gặp nhiều khó khăn. Chưa kể đến,
muốn liên kết thì phải đồng bộ hệ thống giao thông vận tải giữa các tỉnh để dễ dàng vận chuyển trong chuỗi
liên kết. Mà hiện nay kết nối kết cấu hạ tầng giao thông vùng chỉ chủ yếu là vận tải đường bộ, đảm nhận vận
chuyển hàng hóa và hành khách còn các phương thức vận tải đường biển, đường sắt, đường thủy nội địa còn
rất hạn chế.
Bị đánh giá là tỉnh yếu nhất trong khu vực Bắc Trung Bộ, nhưng do Quảng Trị vẫn chưa thực sự sử dụng
được hiệu quả nguồn lực của mình cùng với việc nằm trong vùng luôn trực tiếp hứng chịu nhiều ảnh hưởng
nặng nề của thiên tai hơn các tỉnh còn lại trong khu vực. Bên cạnh đó, những tỉnh tiếp giáp trực tiếp với
Quảng Trị thì có xu hướng tập trung phát triển ngành khác so với định hướng phát triển của Quảng Trị, còn
Quảng Bình tỉnh này định hướng phát triển khai thác tiềm năng, thế mạnh di sản của tỉnh, nên tỉnh này định
hướng phát triển ngành du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn trong tỉnh.
Và vì chưa hình thành chủ trương xác định đây là 1 cụm ngành trọng tâm trong khu vực Bắc Trung Bộ, nên
các tỉnh sẽ chưa thực sự tập trung nghiên cứu thế mạnh của mình là gì. Khi liên kết sẽ dẫn đến mâu thuẫn,
xung đột lợi ích giữa các tỉnh trong liên kết...Việc liên kết có thể sẽ được cân nhắc trong tương lai, khi cụm
ngành này ở tỉnh Quảng Trị nói riêng và các tỉnh BTB nói chung đã được phát triển đến giai đoạn ổn định.
QUẢNG BÌNH
3. Năng lực cạnh tranh cụm ngành du lịch
1. Sơ đồ cụm ngành du lịch tỉnh Quảng Bình
QUẢNG NAM
CHƯƠNG 3: PHÂN TÍCH LỚP VI MÔ
3.1 Phân tích theo mô hình kim cương:
Các điều kiện nhân tố đầu vào:
- Vị trí địa lý thuận lợi: nằm trong vùng trọng điểm kinh tế Miền Trung, phía bắc giáp thành phố Đà Nẵng,
phía nam giáp khu kinh tế Dung Quất, có sân bay, cảng biển, đường Xuyên Á nên rất thuận lợi cho việc giao
lưu phát triển kinh tế - xã hội và có tầm quan trọng trong an ninh, quốc phòng.
- Cơ sở hạ tầng: nằm trên trục đường giao thông chính nối từ Bắc vào Nam, có đường quốc lộ và đường sắt
xuyên Việt chạy qua, nằm giữa 2 sân bay quốc tế lớn của Miền Trung là sân bay Đà Nẵng và sân bay Chu
Lai, thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hóa và đi du lịch.
- Có tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên nhân văn, tài nguyên văn hóa với 307 di tích lịch sử,
văn hoá, cách mạng, danh thắng (trong đó 48 di tích quốc gia, 256 di tích cấp tỉnh, hai di sản văn hoá thế
giới – di tích quốc gia đặc biệt là Phố cổ Hội An và Khu Đền tháp Mỹ Sơn, Khu Dự trữ sinh quyển thế giới
Cù lao Chàm, những bãi biển đẹp, hoang sơ, thơ mộng, các di sản vật thể, phi vật thể đa dạng khác và các
loại hình văn hoá đặc sắc.
- Các đặc sản nổi tiếng như quế Trà My, tiêu Tiên Phước, lòn bon Đại Lộc, yến sào Hội An...;
- Có bề dày phát triển lịch sử khá lâu đời: Tính đến nay có 23 di tích được Bộ văn hóa- thông tin xếp hạng,
hơn 100 di tích khác đã được đưa vào danh mục các di tích đề nghị được xếp hạng
- Các làng nghề truyền thống: làng gốm Thanh Hà, làng nghề làm đèn lồng Hội An, làng rau Trà Quế, làng
nghề làm mộc Kim Bồng,..; lễ hội văn hoá dân gian đã hiện diện trên mảnh đất Quảng Nam trên 500 năm.
- Công tác quy hoạch, đầu tư, giải phóng mặt bằng các dự án du lịch còn chậm.
Các điều kiện cầu:
-Lượng khác du lịch trong và ngoài nước ngày một tăng. Tổng lượt khách tham quan, lưu trú du lịch tại
Quảng Nam năm 2019 ước đạt 7.668.000 lượt khách, tăng 17,61% so với cùng kỳ năm 2018; trong đó:
khách quốc tế ước đạt 4.579.000 lượt khách, tăng 20,50% so với cùng kỳ năm 2018; khách nội địa ước đạt
3.089.000 lượt khách, tăng 13,57% so với cùng kỳ năm 2018. Doanh thu từ tham quan, lưu trú du lịch năm
2019 của Quảng Nam ước đạt 6.000 tỷ đồng, tăng 27,66% so với cùng kỳ năm 2018. Thu nhập xã hội từ du
lịch ước đạt 14.000 tỷ đồng.
- Nhu cầu về dịch vụ, cơ sở vật chất của khách ngày càng khắt khe.
Bối cảnh cho chiến lược và cạnh tranh:
- Cạnh tranh với các công ty du lịch với nhau trong địa phận Quảng Nam
- Canh tranh với các dịch vụ du lịch của các thành phố khác như Đà Nẵng, Thừa Thiên – Huế,...
- Nguồn vốn để đầu tư, đẩy mạnh chất lượng cơ sở hạ tầng, dịch vụ còn hạn hẹp
Các ngành hỗ trợ và liên quan:
-Liên kết các cụm ngành của những nơi lân cận để cùng phát triển như dịch vụ nhà ở, khách sạn, các nhà
hàng ẩm thực, các công ty vận chuyển hành khách du lịch,...
Điển hình như dịch vụ lưu trú: tính đến tháng 3.2018 trên địa bàn tỉnh có 570 cơ sở lưu trú du lịch đang hoạt
động với khoảng 11.000 phòng. Trong đó gồm 174 khách sạn (6 khách sạn 5 sao, 20 khách sạn 4 sao, 20
khách sạn 3 sao, 36 khách sạn 2 sao, 41 khách sạn 1 sao, 10 khách sạn đạt tiêu chuẩn, 41 khách sạn chưa xếp
hạng), tổng cộng 8.504 phòng; 145 biệt thự du lịch (1.359 phòng); 250 homestay (1.000 phòng). Hơn 90%
cơ sở phân bố tại Hội An, còn lại chủ yếu tại Tam Kỳ, Núi Thành, Điện Bàn, Thăng Bình. Tốc độ tăng bình
quân cơ sở lưu trú giai đoạn 2015 - 2017 khoảng 32,36%; số phòng lưu trú đạt 23,5%; thu hút khoảng 9.100
lao động (trong tổng số 13.000 lao động trong ngành du lịch). Dự báo đến năm 2020 sẽ có khoảng 30 cơ sở
lưu trú du lịch mới đi vào hoạt động với khoảng 2.000 phòng, nâng tổng số phòng lưu trú trên địa bàn tỉnh
lên khoảng 13.000 phòng.
3.2 Sơ đồ cụm ngành du lịch ở Quảng Nam
3.3 Trình độ phát triển cụm ngành:
Bối cảnh ngành du lịch ở Quảng Nam:
- Năm 2017, tổng lượt khách tham quan lưu trú năm 2017 ước tính đạt 5,35 triệu lượt khách, gấp 2,54 lần so
với năm 2007-2017.
- Toàn tỉnh sử dụng khoảng 13 nghìn lao động ngành du lịch, tăng gấp 2,6 lần so với năm 2007. Tốc độ tăng
bình quân về lao động giai đoạn 2007 – 2017 ước đạt là 10,03%/năm.
- Thu nhập xã hội từ du lịch năm 2017 ước tính đạt 9.200 tỷ đồng, tăng 5,7 lần so với năm 2007. Tốc độ
tăng bình quân thu nhập xã hội từ du lịch giai đoạn 2007 – 2017 ước tính đạt là 19,34%/năm.
- Riêng năm 2019 đạt 7,79 triệu lượt khách, tăng 19,48% so với cùng kỳ năm 2018 (khách quốc tế đạt gần
4,7 triệu lượt, tăng 22,79% so với cùng kỳ).
- Doanh thu từ tham quan, lưu trú du lịch năm 2019 đạt 6.200 tỷ đồng, thu nhập xã hội đạt 14.570 tỷ đồng,
đóng góp của du lịch vào GRDP trong năm 2019 ước đạt 7,1%, bước đầu “tiệm cận” dần với tiêu chí của
ngành kinh tế mũi nhọn (10%)
4. Phân tích nền kinh tế mũi nhọn ở Quảng Nam
Quảng Nam là một vùng đất giàu về truyền thống văn hóa để du khách khám phá với các sản phẩm du lịch
văn hóa nổi bật, di sản văn hóa thế giới Phố cổ Hội An, Khu đền tháp Mỹ Sơn, khu dự trữ sinh quyển thế
giới Cù Lao Chàm, những bãi biển đẹp, hoang sơ, thơ mộng, các di sản vật thể, phi vật thể đa dạng khác và
các loại hình văn hoá đặc sắc.
Trong những năm gần đây, Quảng Nam đã có bước phát triển đột phá và trở thành một tỉnh phát triển khá
của Việt Nam. Ngành du dịch, dịch vụ đang phát triển tốt với hệ thống khách sạn, khu nghỉ dưỡng, khu vui
chơi, giải trí, các điểm đến có chất lượng cao, hàng năm đón khoảng 4 triệu lượt khách, trong đó 50% là
khách quốc tế.
Hội An một đô thị cổ, di sản văn hoá là điểm đến độc đáo với nhiều danh hiệu được bình chọn của truyền
thông và du khách quốc tế. Nhiều điểm du lịch sinh thái, cộng đồng được du khách chọn lựa. Gần đây, nhiều
doanh nghiệp đã chọn Tỉnh Quảng Nam đầu tư phát triển du lịch, dịch vụ như Khu nghỉ dưỡng Nam Hội
An, Khu phức hợp du lịch nghỉ dưỡng Vinpearl Quảng Nam, Dự án Khu đô thị du lịch Điện Dương, Điện
Bàn, tổ hợp dự án khu vui chơi giải trí, khu nghỉ dưỡng, khu đô thị tại vùng Đông của tỉnh… các dự án này
góp phần quan trọng cho sự phát triển bền vững của Quảng Nam, đưa Quảng Nam trở thành một trong
những trung tâm du lịch của cả nước và khu vực.
Đối với ngành du lịch dịch vụ, Quảng Nam xác định đó là nền kinh tế mũi nhọn trên cơ phát huy lợi thế
tiềm năng thiên nhiên ưu đãi, điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý, giao thông, hạ tầng cùng 2 Di sản văn hóa
thế giới Hội An và Mỹ Sơn, du lịch biển đảo với những sản phẩm du lịch Đêm phố cổ”, “Phố đi bộ”, "Sông
xưa thuyền cổ”, “Đêm Cù Lao Chàm” cùng các hoạt động biểu diễn nghệ thuật cổ truyền... Những lợi thế
trên cùng với con người Quảng Nam thân thiện, mến khách, biết bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá và thiên
nhiên, Quảng Nam sẽ sớm đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Quảng Nam đang tích cực triển khai các giải pháp về đầu tư cơ sở hạ tầng để đảm bảo các điều kiện
phục vụ cho du lịch. Nâng cấp cảng biển có thể đón khách du lịch tàu biển quốc tế và mở rộng du lịch bằng
đường thuỷ qua các đảo, đầu tư hạ tầng cảng hàng không sân bay Chu Lai, mạng lưới giao thông kết nối các
tỉnh trong khu vực và quốc tế; Thu hút đầu tư du lịch vào vùng biển, đảo cũng như có chính sách thu hút đầu
tư khai thác du lịch vùng núi và vùng dân tộc thiểu số.
Với ưu thế là một vùng đất có tiềm năng du lịch sinh thái gắn với phát triển nông, lâm nghiệp, dược liệu.
Quảng Nam tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, tạo thuận lợi cho
các doanh nghiệp, đầu tư vào Quảng Nam; Đầu tư đào tạo nguồn nhân lực du lịch, tạo ra một lực lượng lao
động chất lượng, làm tốt công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá, xây dựng môi trường văn hoá lành
mạnh để phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh, bền vững, thân thiện với môi trường.
Quảng Nam đang tập trung công tác quảng bá, xúc tiến du lịch bằng nhiều hình thức, làm cho hình ảnh
về du lịch Quảng Nam được đến với nhiều du khách trong nước và quốc tế. Gắn các sự kiện văn hoá, thể
thao với quảng bá du lịch. Đa dạng hoá sản phẩm du lịch, gắn du lịch với văn hoá và cộng đồng, hướng đến
Quảng Nam trở thành một địa điểm nghỉ dưỡng, một địa bàn nghiên cứu và trải nghiệm văn hoá giàu bản
sắc.
Tiềm năng phát triển du lịch Quảng Nam rất lớn. Đây là cơ hội để kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh
vực này. Tỉnh Quảng Nam đang tạo ra sự thay đổi để phục vụ du khách, đồng hành cùng doanh nghiệp bằng
những cải cách tích cực.
- Thương số vị trí của ngành du lịch:
LiK=32.000 người
LiN=1,3 triệu người
LK=883,4 nghìn người
LN=54.282,5 nghìn người
LQi= 1.508
=> Mật độ tập trung ngành du lịch ở QN cao gấp 1,5 lần so với cả nước.
3.5 Xác định cụm ngành du lịch Huế - Đà Nẵng – Quảng Nam
Khu vực Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam là khu vực có vị trí địa lý nằm trên tuyến du lịch miền Trung –
Tây Nguyên, nơi tập trung 6 di tích được thế giới công nhận. Để khai thác tiềm năng du lịch, nơi hội tụ các
di sản văn hóa và thắng cảnh thiên nhiên thuận lợi cho sự phát triển du lịch văn hóa di sản và du lịch sinh
thái, chính quyền địa phương và các doanh nghiệp nhận thức lợi ích và nhu cầu liên kết để cung cấp sản
phẩm du lịch đa dạng, hoàn chỉnh nhằm gia tăng giá trị cho khách hàng, lợi nhuận cho doanh nghiệp, và
nguồn thu ngân sách cho khu vực. Nằm ở vị trí trung tâm của miền Trung, ngành du lịch Huế - Đà Nẵng -
Quảng Nam giữ vai trò quan trọng đối với kinh tế và phát triển du lịch của cả nước, là điểm kết nối quan
trọng và là động lực phát triển liên kết du lịch giữa các vùng. Phố cổ Hội An cách Đà Nẵng 30km, cách Huế
khoảng 126km, thuận tiện đi lại bằng ô tô, xe buýt di chuyển giữa các điểm du lịch của 3 địa phương.
1. Du lịch Thừa Thiên Huế: Du lịch văn hoá được coi là thế mạnh lâu dài của ngành du lịch, Quần thể
di tích Cố đô Huế đặc biệt các công trình trong Hoàng Thành, các lăng tẩm đã được chú trọng trùng tu, tôn
tạo và khai thác có hiệu quả phục vụ du khách trong và ngoài nước. Nhã nhạc cung đình đã được UNESCO
công nhận là di sản văn hóa phi vật thể nhân loại. Với 02 di sản được UNESCO công nhận là tiền đề để thu
hút du khách trong và ngoài nước.
Về du lịch sinh thái: việc khai thác các tài nguyên du lịch tự nhiên, du lịch sinh thái cũng bắt đầu được chú
trọng. Các bãi biển Thuận An, Lăng Cô, Vườn Quốc Gia Bạch Mã, nước khoáng nóng Thanh Tân, Mỹ An,
các điểm du lịch sinh thái ở các huyện cũng được đầu tư và đưa vào khai thác, thu hút được ngày càng đông
khách đến nghỉ vào các ngày cuối tuần, góp phần mở rộng dần các tuyến điểm du lịch ra ngoại vi thành phố
Huế, giảm sức ép về mật độ khách du lịch ở khu vực trung tâm.
2. Du lịch Đà Nẵng: Đà Nẵng là thành phố lớn của khu vực miền Trung, có lợi thế về vị trí địa lý, giao
thông liên lạc, đặc biệt là cảng biển và sân bay quốc tế; với nguồn tài nguyên du lịch biển và là trung
tâm của con đường di sản văn hóa thế giới.
Biển Đà Nẵng, ở miền Trung Việt Nam, được tạp chí Forbes bình chọn là một trong những bãi biển đẹp nhất
trên thế giới. Biển Đà Nẵng cũng được hưởng lợi do nằm ở trung tâm của bốn địa danh di sản thế giới: Cố
đô Huế, Nhã nhạc cung đình, Phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn, và Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng.
Các điểm thu hút này hình thành và phát triển thành “Con đường di sản thế giới”. Hiện tại Đà Nẵng có 10
khu, điểm du lịch đón tiếp và phục vụ khách du lịch như: Khu danh thắng Ngũ Hành Sơn, Bà Nà-Suối Mơ,
Sơn Trà, Suối Lương, Suối Hoa, Bãi Biển Đà Nẵng, Cổ viện Chàm, Đèo Hải Vân, Bảo tàng Đà Nẵng, Bảo
tàng Hồ Chí Minh.
3. Du lịch Quảng Nam: Quảng Nam là một vùng đất được thiên nhiên ưu ái và ban tặng cho rất nhiều
tài nguyên du lịch tự nhiên độc đáo và hấp dẫn, bên cạnh đó tài nguyên du lịch nhân văn ở Quảng
Nam cũng rất nhiều và hai trong số đó đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.
Phố cổ Hội An được UNESCO đưa vào danh sách di sản văn văn hóa thế giới vào năm 1999. Hội An thuộc
tỉnh Quảng Nam, cách Đà Nẵng 30 km. Kiến trúc cổ Hội An là sự kết hợp phong cách truyền thống của Việt
Nam, Nhật và Trung Hoa.
Thánh đại Mỹ Sơn là quần thể tháp Champa của Việt Nam, cách Đà Nẵng 70 km. Các đền tháp được vua
Champa xây dựng từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ 13. Thánh địa Mỹ Sơn là một trường hợp của sự kết hợp văn
hóa kiến trúc Hindu của Ấn Độ với văn hóa Đông Nam Á.
Du lịch sinh thái ở Quảng Nam rất đa dạng bao gồm du lịch biển, và du lịch sinh thái. Các điểm du lịch đặc
trưng như: Bãi biển Cửa Đại nằm cách đô thị cổ Hội An 5 km về phía đông. Cù Lao Chàm là quần đảo nằm
ngoài khơi đô thị cổ.
Hội An. Suối Tiên thích hợp với các loại hình du lịch: dã ngoại, leo núi, săn bắn. Suối nước nóng Tây Viên
là mạch nguồn nước khoáng lộ thiên có nhiệt độ khoảng 87 độ C. Hồ Phú Ninh là một tiểu vùng khí hậu có
cảnh quan hài hoà, có hệ động thực vật phong phú, có nguồn nước khoáng. Hồ Khe Tân có 12 đảo lớn nhỏ
cảnh quan hữu tình, hệ động thực vật rất phong phú, đa dạng; rất thích hợp với du lịch sinh thái, có thể tổ
chức các dịch vụ du thuyền, lướt ván, câu cá, leo núi.
Các làng nghề: Các làng nghề ở Quảng Nam bao gồm: Làng mộc Kim Bồng, Làng Gốm Thanh Hà, Làng
nghề yến Thanh Châu, Làng nghề đúc đồng Phước Kiều, Làng nghề dâu tằm Duy Trinh, Làng gốm sứ La
Tháp.
Một số ưu đãi Nhà nước nên áp dụng cho doanh nghiệp du lịch:
+ Cần điều chỉnh giảm tiền thuê đất cho doanh nghiệp kinh doanh khách sạn, nhà hàng, khu vui chơi giải trí,
điểm tham quan.
+ Giảm tiền thuế thu nhập doanh nghiệp cho doanh nghiệp kinh doanh khách sạn đạt từ 5 sao trở lên.
- Nâng cấp cụm ngành, tăng cường liên kết và hợp tác trong cụm ngành du lịch:
+ Ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại phục vụ quản lý và phát triển du lịch
+ Đầu tư hình thành khu dịch vụ du lịch phức hợp, có quy mô lớn; hệ thống cửa hàng miễn thuế, trung tâm
mua sắm phục vụ khách du lịch.
Kết luận: Ngành du lịch ba khu vực Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam nói riêng và Việt Nam nói chung phải
nâng cao hơn nữa những sự liên kết hợp tác với nhau để tạo ra những sản phẩm, dịch vụ du lịch liên hoàn,
chất lượng hơn nhằm nâng cao sự thoả mãn của khách hàng.
Vì vậy, để phát triển ngành du lịch trở thành một trong những ngành mũi nhọn của địa phương đòi hỏi phải
có sự hợp tác, liên kết với nhau cùng phát triển. Các doanh nghiệp nhận thức lợi ích từ sự liên kết và hợp
tác, liên kết mạng sản xuất được hình thành dựa trên sự hợp tác và lợi ích mang lại từ sự chia sẻ tri thức và
đổi mới.
HÀ GIANG
LỰA CHỌN NGÀNH MŨI NHỌN ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TỈNH HÀ GIANG:
Từ những tiềm năng và lợi thế, tỉnh Hà Giang đã xác định mục tiêu đưa ngành du lịch trở thành ngành kinh
tế mũi nhọn và xây dựng Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn trở thành trung tâm du lịch
Quốc gia. Những địa danh du lịch nổi tiếng của Hà Giang có thể kể đến như: Khu du lịch Núi Đôi huyện
Quản Bạ, đỉnh Mã Pì Lèng bên dòng sông Nho Quế huyện Mèo Vạc; Quần thể Ruộng Bậc thang huyện
Hoàng Su Phì; Cột cờ Lũng Cú, Phố cổ, Quần thể Di tích Nhà Vương huyện Đồng Văn…Từ thực tiễn cho
thấy, trong những năm qua, ngành Du lịch của Hà Giang đã có những bước phát triển vượt bậc; du lịch của
Hà Giang đã và đang thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và là nền tảng quan trọng trong phát triển
kinh tế – xã hội và thúc đẩy quá trình xóa đói, giảm nghèo trên địa bàn của tỉnh.
3. Phân tích năng lực cạnh tranh vi mô
1. Phân tích theo mô hình kim cương
1. Các điều kiện nhân tố đầu vào
Vị trí địa lý thuân lợi: Hà Giang là một tỉnh thuộc vùng núi phía Bắc Việt Nam. Tỉnh Hà Giang phía đông
giáp tỉnh Cao Bằng, phía tây giáp tỉnh Yên Bái và Lào Cai, phía nam giáp tỉnh Tuyên Quang. Về phía bắc,
Hà Giang giáp châu tự trị dân tộc Choang và Miêu Văn Sơn thuộc tỉnh Vân Nam và địa cấp thị Bách Sắc
thuộc tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc. Việc giáp ranh với nhiều tỉnh, địa phương tạo điều kiện thuận lợi
cho Hà Giang giao lưu, phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, với điều kiện tự nhiên, địa hình nhiều núi đá
cao, sông suối, cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ còn giữ được vẻ nguyên sơ, khí hậu 4 mùa với những đặc sắc
riêng, các phẩm vật văn hóa địa phương đặc sắc của 19 dân tộc anh em, mang lại lợi thế du lịch lớn nhất cho
Hà Giang là du lịch trải nghiệm, mạo hiểm, sinh thái, du lịch văn hóa và di tích lịch sử như Hồ Noong, Núi
đôi Quản Bạ, Rừng thông Yên Minh, Động Lùng Khúy, Thung lũng Sủng Là, Cao nguyên đá Đồng Văn,
Đèo Mã Pí Lèng
Về cơ sở hạ tầng: Toàn tỉnh hiện cũng đã phát triển được 216 cơ sở lưu trú, trong đó 01 khách sạn 3 sao , 18
khách sạn 2 sao, 42 khách sạn 1 sao, 134 nhà nghỉ, 21 homestay. Hiện tại có 02 cơ sở quy mô 4 sao đang
được xây dựng. Với các trục giao thông quan trọng như tuyến Quốc lộ 4C, Quốc lộ 2, Quốc lộ 279 và các
tuyến Tỉnh lộ 177, 178, 183... đã hình thành nên 5 tuyến du lịch chính của tỉnh là: Hà Giang - Hà Nội - các
tỉnh phía Nam; Hà Giang - Lào Cai - Yên Bái và các tỉnh phía Tây Bắc; Hà Giang - Cao Bằng và các tỉnh
phía Đông Bắc; Hà Giang - Vân Nam - Trung Quốc; Hà Giang đi các huyện vùng cao núi đá phía Bắc
Có tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên: Tài nguyên khoáng sản đa dạng, sơ bộ đã xác định 176 mỏ, 29 loại
quặng khác nhau, đá vôi, đá xây dựng hàng tỷ tấn...Hiện một số khoáng sản đã được khai thác như quặng
fenspat, quặng antimon, quặng sắt, chi kẽm phục vụ phát triển kinh tế góp phần hình thành các khu công
nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động. Đá xây dựng, làm vật liệu xây dựng chưa được đánh
giá đầy đủ để khai thác.
Có tiềm năng phát triển du lịch cả tự nhiên và truyền thống văn hóa: Công viên địa chất toàn cầu cao
nguyên đá đồng văn, cột cờ địa đầu đất nước Lũng Cú, cảnh đẹp quốc gia Hoàng Sù Phì...Truyền thống văn
hóa của 22 dân tộc đa dạng và đặc sắc…
Những làng nghề truyền thống: nghề dệt vải lanh ở Quản bạn, Đồng Văn, Mèo Vạc, Nghề làm giấy bản của
người Dao ở Bắc Quang, nghề chạm bạc của người Dao ở Xín Mần hay nghề làm khèn của người Mông ở
Mèo Vạc,…
Những di tích lịch sử: Dinh Thự họ Vương – dinh thự vua Mèo, Căng Bắc Mê,…
Nguồn nhân lực: Năm 2005, ở Hà Giang, thành phố có 613 lao động trong ngành du lịch, năm 2015 con số
này là 1.314 lao động và nay có trên 1.600 lao động. Hiện nay (2017), ngành du lịch Hà Giang đang có
khoảng 371 người tham gia hoạt động tại trên 100 cơ sở lưu trú, số người qua đào tạo trình độ chỉ chiếm
40%, tương ứng với khoảng trên 150 người. Thực tế, số lao động trong ngành du lịch tăng qua từng năm,
song chất lượng chuyên môn chưa được cải thiện; số người có trình độ đại học, trên đại học chỉ dao động ở
mức 8,64% (năm 2005) đến 12,8% (năm 2015) và đạt gần 20% ở thời điểm hiện tại. Bên cạnh đó, tốc độ
tăng trưởng lao động giai đoạn 2005 – 2018 chỉ 7,13%; chất lượng nguồn nhân lực phục vụ DL còn thấp;
đội ngũ cán bộ quản lý, hướng dẫn viên thiếu và yếu về tính chuyên nghiệp. Hơn nữa, tỷ lệ lao động chưa
qua đào tạo nghiệp vụ còn cao, trình độ nghiệp vụ sơ cấp chiếm số lượng lớn và ngoại ngữ để giao tiếp với
du khách nước ngoài ở mức khiêm tốn…
2. Các điều kiện cầu
Lượng khách: Những năm qua, lĩnh vực du lịch của tỉnh Hà Giang đã có sự phát triển mạnh mẽ, nếu như
năm 2012, lượng du khách đến Hà Giang chỉ đạt khoảng 100 nghìn lượt người thì sau 5 năm (năm 2017) đã
gấp 10 lần với 1 triệu lượt khách. Năm 2018, khách du lịch đến Hà Giang ước đạt trên 1,136 triệu lượt, trong
đó khách quốc tế là trên 273 nghìn lượt, khách nội địa trên 863 nghìn lượt, tổng thu từ khách du lịch đạt trên
1 nghìn tỷ đồng
+ Theo số liệu của Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch, năm 2019 lượng khách du lịch đến Hà Giang đạt trên
1,4 triệu người; trong đó khách quốc tế 225.131 lượt, khách nội địa 1.177.235 lượt; doanh thu đạt 1.500 tỷ
đồng. Chỉ riêng trong tháng 1.2020, Hà Giang đã đón 132.145 lượt người; doanh thu từ dịch vụ, du lịch ước
đạt 140 tỷ đồng, tăng gần 52.000 lượt và tăng 68,5 tỷ đồng so với cùng kỳ năm 2019. Khách du lịch thường
đến Hà Giang đông nhất vào các mùa, như mùa hoa Tam giác mạch, mùa lúa chín, mùa hoa đào, hoa lê, hoa
mận….
3. Các bối cảnh cho chiến lược và cạnh tranh
Vốn đầu tư: Trong năm 2019: có 6 dự án được đầu tư với số vốn hơn 4 triệu USD. Tính từ năm 2004 đến hết
năm 2016, trên địa bàn tỉnh Hà Giang có 57 tổ chức phi Chính phủ nước ngoài như Plan, Caritas/Thụy Sỹ,
AAV, Vision Care/Hàn Quốc, FFI, Tổ chức trẻ em Rồng xanh... triển khai 98 chương trình, dự án với tổng
số tiền giải ngân trên 19 triệu USD ở các lĩnh vực y tế, giáo dục, phát triển KT-XH, tài nguyên môi trường,
văn hóa, xây dựng năng lực tổ chức và hỗ trợ tư pháp. Từ năm 2016 đến nay, Hà Giang cấp mới Giấy chứng
nhận đăng ký đầu tư cho 51 dự án trong nước, với tổng số vốn trên 4 nghìn tỷ đồng; trong đó, có 3 dự án
FDI, tổng số vốn đăng ký đầu tư trên 102 tỷ đồng.
+ Vingroup - nhà đầu tư lớn cũng đã đặt chân đến Hà Giang, đang được kỳ vọng tạo ra diện mạo mới cho đô
thị miền núi với các dự án dự kiến sẽ triển khai như: Trung tâm thương mại, khách sạn và nhà ở thương mại
Shop House đã được UBND tỉnh phê duyệt chủ trương đầu tư; Dự án Công viên nước Hà Phương đã được
Tập đoàn khảo sát toàn bộ diện tích trong phạm vi công viên và các vị trí đất lân cận. Mới đây nhất, Tập
đoàn Banyan Tree, nhà đầu tư hàng đầu khu vực châu Á -Thái Bình Dương trong lĩnh vực phát triển, quản lý
khách sạn, khu nghỉ dưỡng, Spa cao cấp đã hoàn thành việc khảo sát đầu tư tại tỉnh
+ Cùng với việc triển khai các giải pháp về quảng bá, xúc tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch; thì
yếu tố cơ sở hạ tầng cũng được cấp ủy, chính quyền huyện Quản Bạ hết sức quan tâm và chú trọng. Huyện
đã kêu gọi, thu hút đầu tư từ các nguồn vốn bên ngoài, bố trí nguồn ngân sách của huyện để nâng cấp hệ
thống động Lùng Khúy với tổng kinh phí trên 9 tỷ đồng; kêu gọi xã hội hóa đầu tư xây dựng đền Bình An tại
thôn Lùng Thàng, xã Quyết Tiến với tổng kinh phí trên 4 tỷ đồng; tăng cường quản lý, khai thác hiệu quả
các điểm du lịch như: Thạch Sơn Thần, điểm dừng chân Cổng trời, Núi Đôi, Làng Văn hóa du lịch cộng
đồng Nặm Đăm, xã Quản Bạ; làng nghề thêu dệt vải lanh dân tộc Mông tại các xã: Cán Tỷ, Lùng Tám. Bên
cạnh đó, huyện Quản Bạ tiếp tục đẩy mạnh thu hút đầu tư, tạo cơ chế thông thoáng cho các doanh nghiệp, tổ
chức, cá nhân đến đầu tư vào các loại hình phát triển du lịch như: Thủ tục cho thuê đất, giao đất; miễn, giảm
tiền thuê đất công theo đúng các quy định hiện hành của Nhà nước... để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà
đầu tư tiềm năng đến đầu tư cơ sở hạ tầng về khu nghỉ dưỡng, khách sạn, nhà hàng, khu vui chơi giải trí, sản
phẩm du lịch, dịch vụ.
Tổng quan PCI: Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Hà Giang xếp loại khá thấp so với cả nước, càng
những năm trở lại đây có xu hướng tiếp tục giảm (xếp thứ 60 trong năm 2019). Tuy nhiên, trong năm 2019,
Hà Giang có sự chuyển biến tích cực trong lĩnh vực tiếp cận đất đai, tính minh bạch, cạnh tranh bình đẳng
và đào tạo lao động so với năm 2018. Tiêu chí “Dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp” vẫn bị đánh giá thấp (từ 7.31
điểm năm 2018 còn 5.81 điểm trong năm 2019)
Bối cảnh cạnh tranh của cụm ngành:
Đa phần các doanh nghiệp kinh doanh du lịch tại địa phương có quy mô nhỏ và trung bình, cung cấp những
sản phẩm và dịch vụ du lịch tượng tự so với các doanh nghiệp khác ở những tỉnh gần đó, do đó, việc các
doanh nghiệp này thu hút khách hàng thông qua cạnh tranh về giá là điều tất yếu
Đối với các doanh nghiệp lưu trú. Việc hạ giá quá mức để thu hút khách hàng đã diễn ra trong nhiều năm trở
lại đây, kể cả một số khách sạn từ 3 đến 4 sao. Nguyên nhân cơ bản là có khá nhiều doanh nghiệp lưu trú
trên địa bàn của ba địa phương, trong khi phải chịu nhiều áp lực từ tỷ lệ khách du lịch lưu trú ngày càng sụt
giảm và sự ép giá của các doanh nghiệp lữ hành.
Cơ sở lưu trú, khách sạn, nhà hàng chưa đáp ứng nhu cầu, kém tính cạnh tranh, việc liên kết phát triển du
lịch chưa được quan tâm,... Bên cạnh đó công tác quảng bá và xúc tiến du lịch còn nhiều khó khăn, các
doanh nghiệp chưa mạnh dạn trong đầu tư phát triển du lịch
Tình hình hợp tác, liên kết của các doanh nghiệp kinh doanh du lịch:
Hà Giang đã chú trọng liên kết vùng với 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng, 6 tỉnh Việt Bắc, đặc biệt là với các tỉnh
thành phát triển du lịch trong cả nước như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Huế, thành phố Hồ
Chí Minh, Cần Thơ. Ký kết hợp tác phát triển du lịch với hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây Trung Quốc.
=> Dù cạnh tranh vẫn còn quyết liệt, nhưng gần đây các doanh nghiệp bắt đầu liên kết lại để cùng hỗ trợ,
phát triển hoạt động kinh doanh. Rất nhiều doanh nghiệp được khảo sát có hợp tác với các đơn vị khác kinh
doanh cùng lĩnh vực, phạm vị hợp tác không chỉ với các doanh nghiệp tại ba địa phương mà còn từ các khu
vực khác, như các tỉnh trong khu vực tây bắc, bên cạnh đó còn có thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Tuy
nhiên, hình thức liên kết qua hợp đồng còn mang tính tự phát, chủ yếu để giải quyết hỗ trợ các nhu cầu trước
mắt như thiếu hụt nhân lực, phòng lưu trú về mùa cao điểm hay các đơn vị kinh doanh vận chuyển hỗ trợ
nhau về nguồn khách.
4. Các ngành hỗ trợ và liên quan
Dịch vụ lưu trú: Theo báo cáo tổng kết hoạt động du lịch của ba địa phương, tính đến năm 2018, toàn tỉnh hà
giang hiện cũng đã phát triển được 216 cơ sở lưu trú, trong đó 01 khách sạn 3 sao , 18 khách sạn 2 sao, 42
khách sạn 1 sao, 134 nhà nghỉ, 21 homestay. Hiện tại có 02 cơ sở quy mô 4 sao đang được xây dựng. Trong
khi đó, Lào Cai, toàn tỉnh đã có 1.207 cơ sở lưu trú (989 khách sạn và nhà nghỉ, 207 homestay). Tương tự,
có 1 khách sạn đạt tiêu chuẩn 3 sao, 8 cơ sở đạt tiêu chuẩn 2 sao và 1 sao; 223 khách sạn, nhà nghỉ,
homestay. Nhìn chung, đa phần các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực lưu trú và ăn uống ở các địa
phương hoạt động với quy mô nhỏ.
Dịch vụ lữ hành: Phần lớn các đơn vị lữ hành này hoạt động với quy mô nhỏ, năng lực còn hạn chế nên chất
lượng cung cấp dịch vụ còn thấp.
Dịch vụ vui chơi giải trí, mua sắm, quà lưu niệm: Ba địa phương dù nổi tiếng với nhiều làng nghề truyền
thống với đa dạng các loại sản phẩm, nhưng những mặt hàng lưu niệm và quà tặng vẫn còn đơn điệu, chưa
hình thành được các sản phẩm đặc trưng của từng địa phương hay các chương trình liên kết, quảng bá sản
phẩm du lịch cho du khách. Các hoạt động vui chơi giải trí mang tính văn hóa, vùng miền, với những đặc
trưng riêng của các dân tộc miền núi phía Bắc, tuy nhiên chưa được quảng bá rộng rãi đến du khách
Lễ hội và ẩm thực: Ba địa phương là trung tâm của các lễ hội được tổ chức đan xen hàng năm. Hà Giang có
chợ tình Khâu Vai, lễ hội nhảy lửa, Gầu Tào thu hút lượng khách đặc biệt lớn trong năm. Các lễ hội diễn ra
hằng năm, tuy nhiên mang tính nhỏ lẻ và tự phát trong vùng chứ chưa được quảng bá rộng rãi. Bên cạnh đó,
ẩm thực cũng là một trong những điểm thu hút khách du lịch tại địa phương
Phương tiện vận tải: Hệ thống vận tải (đường bộ, đường thủy, đường sắt và hàng không) cơ bản đáp ứng
nhu cầu du khách và khá đa dạng. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có phương tiện vận tải công cộng để tham
quan các điểm du lịch kết nối cả ba địa phương, khi phần lớn các tuyến xe bus chỉ khai thác trong phạm vi
nội thành với chất lượng còn kém cũng như tần suất hoạt động thấp.
Thời gian gần đây, các địa phương đã có sự cải thiện và nâng cấp hệ thống giao thông vận tải, đáp ứng nhu
cầu du lịch của du khách. Tại Hà Giang, phát triển, mở rộng các trục giao thông quan trọng như tuyến Quốc
lộ 4C, Quốc lộ 2, Quốc lộ 279 và các tuyến Tỉnh lộ 177, 178, 183.
Phương tiện truyền thông: Bên cạnh các phương tiện truyền thông quen thuộc như báo, tạp chí, ấn phẩm du
lịch, tivi… hay tổ chức hội chợ, xúc tiến du lịch, các địa phương cũng bắt đầu ứng dụng công nghệ trong
truyền thông, quảng bá qua các ứng dụng điện thoại hay các trang mạng xã hội như Facebook, Instagram…
và bước đầu đạt được những dấu hiệu tích cực.
Hạ tầng kỹ thuật (thông tin liên lạc, Internet,…) và dịch vụ tài chính, bảo hiểm: Hệ thống hạ tầng kỹ thuật
cơ bản đáp ứng nhu cầu phục vụ du lịch. Việc lắp đặt các hệ thống điện đường, nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ
thuật giúp cho sự thoải mái của du khách khi đến địa phương càng được nâng cao. Các hoạt động tài chính,
ngân hàng và bảo hiểm cơ bản đáp ứng nhu cầu của khách du lịch.
5. Vai trò của cơ quan quản lý nhà nước; Hiệp hội du lịch, hội ngành du lịch; Chính phủ và các tổ chức
quốc tế
Cơ quan quản lý nhà nước: Chính quyền địa phương đóng vai trò quan trọng trong việc tác động đến NLCT
của cụm ngành du lịch. Các cơ quan chính quyền địa phương đang ngày một quan tâm hơn nữa đến sự phát
triển của ngành du lịch như tiến hành kêu gọi đầu tư cơ sở hạ tầng, kỹ thuật vào địa phương, hỗ trợ các
doanh nghiệp lữ hành cũng như đơn vị cư trú, kích cầu du lịch,… Những hoạt động lễ hội, văn hóa ẩm thực
được hỗ trợ quảng bá, đầu tư để phát triển. Những dự án quy hoạch, xây dựng khu du lịch cũng được tham
mưu và triển khai thực hiện. Tuy nhiên, tại ba địa phương, nhiều quy hoạch, đề án du lịch chưa thật sự tốt
với nhiều nội dung chồng chéo, chưa đồng bộ. Công tác quy hoạch du lịch không chỉ thiếu chất lượng mà
còn theo tư duy lối mòn, nghĩa là chỉ quy hoạch cho mỗi địa phương mà thiếu quy hoạch chung cho cả vùng.
Ngoài ra, hoạt động liên kết vẫn còn mang tính hình thức, gặp nhiều khó khăn trong huy động nguồn lực, thị
trường khách hướng đến còn mâu thuẫn, thiếu sự tham gia từ phía doanh nghiệp.
Hiệp hội du lịch, hội ngành du lịch (hội khách sạn, lữ hành): Vai trò của hiệp hội là khá mờ nhạt, dẫn đến
tình trạng các doanh nghiệp vẫn còn cạnh tranh lẫn nhau, chưa liên kết để cùng phát triển. Tỷ lệ tham gia
hiệp hội, hội ngành du lịch vẫn còn rất thấp tại các địa phương. Một phần e ngại phải đóng các khoản phí, lệ
phí trong khi chưa chắc được đảm bảo quyền lợi, một phần do các đơn vị kinh doanh du lịch chưa biết có
các hiệp hội, hội ngành trên địa bàn, hay không có ý định tham gia.Chương trình liên kết hiệp hội vẫn nặng
tính hình thức, chưa tạo ra bước đột phá trong liên kết phát triển du lịch, thiếu cơ chế ràng buộc, cơ chế đóng
góp kinh phí để tổ chức các hoạt động mang tính liên vùng, vì vậy ảnh hưởng đến hiệu quả của một số hoạt
động. Các tỉnh chưa xây dựng quy chế quản lý các hoạt động du lịch chung giữa các thành viên
Chính phủ và các tổ chức quốc tế: Việc thừa hưởng các di sản văn hóa thế giới, Hà Giang nhận được nhiều
quan tâm từ các chính phủ, tổ chức quốc tế trong hỗ trợ trùng tu di tích.
2. Sơ đồ cụm ngành ở Hà Giang
Không có tính cạnh Có tính cạnh tranh Có tính cạnh tranh cao
tranh
Các dịch vụ hỗ trợ và liên quan
Dịch vụ lưu trú và ăn uống: các cơ sở lưu trú và ăn uống tại Thừa Thiên Huế chủ yếu là các doanh nghiệp
nhỏ. Mặc dù khách du lịch đến Thừa Thiên Huế gia tăng trong 5 năm trở lại đây, tuy nhiên, công suất sửa
dụng phòng chỉ ở mức 55%, thấp hơn công suất sử dụng phòng bình quân cả nước là 61,9%. Bên cạnh đó,
thời gian lưu trú qua đêm trung bình tại Thừa Thiên Huế chỉ đạt 2.4 đêm (cả khách nội địa và quốc tế), vì
khách chủ yếu thường chỉ tham quan (chủ yếu là Thành phố Huế) trong ngày, sau đó sẽ đến 2 địa phương là
Quảng Nam và Đà Nẵng.
Dịch vụ lữ hành: tính đến 15/05/2020, tỉnh Thừa Thiên Huế có 78 đơn vị lữ hành với 35 đơn vị lữ hành quốc
tế, 15 chi nhánh và văn phòng đại diện, 23 đơn vị lữ hành nội địa và 5 văn phòng, đại lý du lịch. Tuy nhiên
đa phần các doanh nghiệp lữ hành địa phương có quy mô nhỏ, tập trung khai thác mảng du lịch di sản trong
nội đô Thành phố Huế, cạnh tranh chủ yếu về giá và ít đưa ra các sản phẩm du lịch mới lạ, hấp dẫn. Trên
thực tế, lượng khách theo tour đến Thừa Thiên Huế chủ yếu là của các công ty lữ hành lớn trong và ngoài
nước, du khách chỉ ghé Thừa Thiên Huế trong một thời gian khá ngắn sau đó di chuyển đến Hội An, Đà
Nẵng,…
Địa phương chỉ có một số quán bar, phòng trà,… với quy mô nhỏ tại trung tâm thành phố Huế, chủ yếu để
đáp ứng nhu cầu của giới trẻ địa phương và một phần đối với khách du lịch.
Lễ hội và ẩm thực: thừa hưởng một nền văn hóa lâu đời, Thừa Thiên Huế đã hình thành nhiều lễ hội với 93
lễ hội tiêu biểu được tổ chức định kỳ. Ngoài các lễ hội cung đình phản ánh lễ nghi sinh hoạt của triều
Nguyễn, nơi đây còn tập trung nhiều lễ hội dân gian truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc hấp
dẫn khách du lịch. Ẩm thực là yếu tố không thể thiếu đối với trải nghiệm của du khách, với những món ăn
phong phú từ món ăn cầu kỳ chốn cung đình đến món ăn dân giã.
Đồ lưu niệm: Thừa Thiên Huế có khá nhiều đặc sản địa phương, nhưng đồ lưu niệm và quà tặng du lịch vẫn
còn khác đơn điệu, thiếu các sản phẩm đặc trưng. Khách đến thường được giới thiệu mua nón lá, tranh thêu
và một vài đặc sản ẩm thực như mè xửng, các loại mắm, hạt sen,… Việc kiểm soát giá cả và chất lượng các
sản phẩm chưa được tiến hành tốt, điển hình là hiện tượng chặt chém du khách tại Chợ Đông Ba và các địa
điểm tham quan du lịch diễn ra khá thường xuyên.
Phương tiện truyền thông: Huế đã xây dựng các trang web, xuất bản các tập san, tạp chí để phục vụ cho
công tác truyền thông và quảng bá du lịch. Ngoài ra, địa phương phối hợp với một số đơn vị truyền hình của
VTV và công ty giải trí sản xuất các chương trình phóng sự về du lịch Thừa Thiên Huế. Bên cạnh đó việc
các địa danh (Kinh thành Huế, Lăng Cô,…), các món ăn đặc sản (bún bò Huế, cơm hến,…) thường xuất
hiện trong các trang web và tạp chí du lịch nổi tiếng thế giới là thuận lợi trong hoạt động truyền thông mà
không phải địa phương nào cũng có được.
Phương tiện vận tải: khá đa dạng và đáp ứng nhu cầu đi lại cơ bản của khách du lịch (xích lô, xe buýt, xe
khách, xe ôm, du lịch trên sông,…). Tuy nhiên sự hạn chế về số tuyến xe buýt gây nên bất lợi cho du khách
khi tham quan các điểm đến du lịch ngoài phạm vi Thành phố Huế.
Dịch vụ y tế: vì là trung tâm y tế chuyên sâu của cả nước và khu vực miền Trung – Tây Nguyên, với các cơ
sở y tế nòng cốt như Bệnh viện Trung Ương Huế, Đại học Y Dược Huế và Trung tâm Kiểm nghiệm dược
phẩm, hóa mỹ phẩm Trung Ương nên địa phương hoàn toàn đáp ứng nhu cầu chữa bệnh từ cơ bản đến công
nghệ cao cho người dân và khách du lịch.
Dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm: hầu hết các ngân hàng, công ty tài chính và bảo hiểm lớn tại Việt
Nam đều có chi nhành tại tỉnh. Tuy nhiên, phần lớn các chi nhánh đều tập trung tại Thành phố Huế, mật độ
ATM trên địa bàn tỉnh còn thưa và khá ít.
An ninh, dịch vụ bảo vệ: đảm bảo khá tốt môi trường du lịch an toàn cho du khách, dù vậy, vẫn còn xuất
hiện tình trạng móc túi, ăn xin và lừa đảo du khách, đặc biệt vào mùa có du khách đông.
Thông tin liên lạc, Internet: hạ tầng thông tin liên lạc và Internet được đầu tư đầy đủ, đáp ứng được như cầu
của người dân. Hầu hết các khách sạn, nhà hàng, nhà nghỉ đều có wifi phụv ụ du khách. Dịch vụ wifi miễn
phí dành cho du khách đã có tại một số khu vực trung tâm thành phố, mặc dù thường xuyên chập chờn, thiếu
ổn định.
Các thể chế hỗ trợ:
Các cơ quan quản lý nhà nước: Sở Du lịch tỉnh Thừa Thiên Huế đóng vai trò chính trong việc quản lý các
hoạt động du lịch tại địa phương. Bên cạnh đó, Trung tâm Xúc tiến đầu tư Thương mại và Du lịch và Trung
tâm Thông tin xúc tiến du lịch đóng vai trò trong việc triển khai các chương trình quảng bá, xúc tiến du lịch.
Hệ thống giáo dục và đào tạo: có hệ thống giáo dục đào tạo trong lĩnh vực du lịch khá tốt so với các địa
phương lần cận. Trong đó, trường Cao đẳng Du lịch Huế và Khoa Du lịch trực thuộc Đại học Huế đóng vai
trò quan trọng trong việc đào tạo đội ngũ lao động chất lượng cao.
Chính phủ và các tổ chức quốc tế: giai đoạn 1992-2014, chỉ riêng Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã
kêu gọi được sự tài trợ của các chỉnh phủ và tổ chức quốc tế cho 42 dự án, với tổng ngân sách tài trợ đạt gần
8 triệu USD. Trong thời gian gần đây, sự hỗ trợ chủ yếu đến từ các tổ chức như EU, Tổ chức phát triển Hà
Lan, UNESCO,… Đa phần các dự án đều hướng đến việc phát triển du lịch bền vững, có trách nhiệm với
môi trường và cộng đồng, thực hiện đào tạo và dạy nghề du lịch, hỗ trợ chính sách và tăng cường thể chế,…
Hiệp hội du lịch tỉnh Thừa Thiên Huế: được thành lập vào ngày 08/01/2016 theo quyết định 21/QĐ-UBND,
dưới sự hợp nhất của hiệp hội du lịch và hiệp hội khách sạn.Mặc dù là tổ chức đóng vai trờ điều phối hoạt
động, làm cầu nối giữa các cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp du lịch nhưng vai trò của hiệp hội
khá mờ nhạt. Hiệp hội chưa kiểm soát được tình trạng cạnh tranh bằng cách hạ giá, bất chấp chất lượng dịch
vụ của một số cơ sở lưu trú và lữ hành.
Chương 4: Cụm ngành du lịch ba địa phương: Thừa Thiên Huế - Đà Nẵng – Quảng Nam.
4.1. Nguồn gốc hình thành và sự phát triển cụm ngành
Thừa Thiên Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam là ba địa phương nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung,
có nhiều tiềm năng và đặc điểm tương đồng để phát triển thành cụm ngành du lịch, đặc biệt là du lịch di sản
văn hóa, du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng. Mặc dù du lịch của ba địa phương luôn được xem là ngành kinh tế
mũi nhọn, được thể hiện rõ trong quy hoạch tổng thể phát triển du lịch của mỗi địa phương và định hướng
của Chính phủ, nhưng kết quả phát triển du lịch của ba địa phương trong những năm qua còn khá khiêm tốn
so với kỳ vọng.
4.2. Bối cảnh và hiện trạng cụm ngành
Một trong những nhiệm vụ được đề ra tại Quyết định số 32/QĐ-TTg ngày 13/01/2015 của Thủ tướng Chính
phủ là phát triển cụm du lịch Đà Nẵng - Thừa Thiên Huế - Quảng Nam thành cụm sản phẩm du lịch nghỉ
dưỡng biển gắn với vui chơi giải trí, tham quan thắng cảnh, tìm hiểu di sản văn hóa. Trong bối cảnh du lịch
được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn, kết quả phát triển du lịch của ba địa phương đang có nhiều dấu
hiệu chững lại. Theo báo cáo tổng kết hoạt động du lịch của ba địa phương, giai đoạn 2014 – 2018, tỷ trọng
lượng khách đến ba địa phương so với cả nước giảm từ 21% xuống còn 19% (tương ứng 18,43 triệu khách
vào năm 2018), tỷ trọng doanh thu du lịch so với cả nước giảm từ 6% xuống còn 5% (tương ứng 33.160 tỷ
VNĐ vào năm 2018). Không những vậy, tỷ lệ lượng khách lưu trú có xu hướng giảm, thời gian lưu trú trung
bình của du khách ngắn và công suất sử dụng phòng thấp hơn mức bình quân chung cả nước.
4.3. Phân tích năng lực cạnh tranh cụm ngành du lịch ba địa phương
1. Các điều kiện nhân tố đầu vào
Nguồn tài nguyên du lịch: Lợi thế du lịch lớn nhất của ba địa phương là du lịch di sản, văn hóa và di tích
lịch sử. Tiêu biểu là kiến trúc công trình cổ kính của Phố cổ Hội An, thánh địa Mỹ Sơn hay quần thể di tích
Cố đô và nhã nhạc cung đình Huế. Ngoài ra, Thừa Thiên Huế và Quảng Nam nằm trên con đường di sản
miền Trung. Bên cạnh đó, Chùa Linh Ứng danh thắng Ngũ Hành Sơn tại Đà Nẵng cũng góp phần trong việc
phát triển du lịch văn hóa, tâm linh.
Ba địa phương còn có lợi thế trong du lịch biển, đảo và đầm phá. Với Quảng Nam là biển An Bằng, Cửa Đại
và thắng cảnh Cù Lao Chàm; trong khi đó, Thừa Thiên Huế quy tụ nhiều bãi biển như Cảnh Dương, Thuận
An hay Lăng Cô. Lợi thế lớn nhất về loại hình này thuộc về Đà Nẵng, được mệnh danh là thành phố biển
với bãi biển Mỹ Khê, bán đảo Sơn Trà, Bắc Mỹ An, Phạm Văn Đồng, Non Nước. Hệ thống biển, đảo kết
hợp với khu vực đầm phá Tam Giang - Cầu Hai rộng lớn (tại Thừa Thiên Huế) đem lại lợi thế cạnh tranh lớn
trong phát triển du lịch.
Tiếp đến, du lịch sinh thái, làng nghề và du lịch trải nghiệm. Có thể kể đến suối Voi, thác Mơ, thác trượt
Thủy Điện… ở Thừa Thiên Huế hay suối Lương, suối Hoa, suối Ngầm Đôi, suối khoáng nóng Thần Tài tại
Đà Nẵng cùng với suối Tiên ở Quảng Nam. Vườn quốc gia Bạch Mã với hệ sinh thái tự nhiên đa dạng, hay
các khu bảo tồn thiên nhiên như Bà Nà - Núi Chúa, Sơn Trà, Sông Thanh cũng là những địa điểm du lịch
sinh thái đặc sắc hấp dẫn du khách. Đối với làng nghề, Đà Nẵng nổi tiếng với làng đá mỹ nghệ Non Nước,
làng nước mắm Nam Ô và thường kết hợp với các làng nghề của Quảng Nam như gốm Thanh Hà, mộc Kim
Bồng, lồng đèn Hội An, cùng với 88 làng nghề tại Thừa Thiên Huế tạo nên sự đa dạng cho loại hình du lịch
này.
Nguồn nhân lực: Lực lượng lao động tại ba địa phương cơ bản được đáp ứng nhu cầu trong ngành du lịch
hiện nay. Tuy nhiên, mức tăng trưởng trung bình 10% trong giai đoạn 2014 – 2018 chưa tương xứng với sự
phát triển của ngành du lịch. Bên cạnh đó, chất lượng lao động chỉ đáp ứng ở mức nhân viên hay quản lý
tầm trung, nguồn lao động chất lượng cao cho các vị trí lãnh đạo vẫn còn thiếu và yếu.
Ngoài ra, tính đến cuối năm 2018, số lượng hướng dẫn viên (HDV) được cấp thẻ có sự chênh lệch giữa các
địa phương, trong khi tại Đà Nẵng có đến 4.099 HDV với 1.244 HDV nội địa và 2.855 HDV quốc tế (Sở Du
lịch thành phố Đà Nẵng, 2018), thì Thừa Thiên Huế có 1.753 người được cấp, trong đó có 1.193 HDV quốc
tế (Sở Du lịch tỉnh Thừa Thiên Huế, 2018). Con số này của Quảng Nam lại khá khiêm tốn, chỉ 278 thẻ HDV
được cấp, với 210 thẻ HDV quốc tế (Sở Du lịch thành phố Quảng Nam, 2018), trong khi thực tế số du khách
quốc tế đến đây vượt trội hơn nhiều so với Thừa Thiên Huế.
Cơ sở hạ tầng: Ba địa phương đều có cơ sở hạ tầng cơ bản đáp ứng được nhu cầu phát triển du lịch tại địa
phương. Đặc biệt, Đà Nẵng có vị trí rất lợi thế (cách phố cổ Hội An hơn 30 phút ô tô, cách trung tâm thành
phố Huế hơn 2 giờ ô tô), là điểm kết nối các địa phương. Cả ba địa phương đều có sân bay, tuy nhiên, chỉ có
sân bay Đà Nẵng khai thác hiệu quả với tần suất 328 chuyến (nội địa và quốc tế) một tuần, trong khi sân bay
Phú Bài ở Thừa Thiên Huế và sân bay Chu Lai tại Quảng Nam luôn hoạt động dưới công suất trong thời
gian dài. Theo kết quả chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2019, Đà Nẵng được đánh giá cao
trong việc đầu tư hạ tầng kỹ thuật cơ bản, xếp thứ 8 so với các địa phương trên cả nước. Trong khi đó, hệ
thống CSHT ở Thừa Thiên Huế và Quảng Nam lần lượt xếp thứ 15 và 24.
Nhìn chung, hệ thống CSHT của ba địa phương đã được cải thiện nhiều trong thời gian qua, tuy nhiên, việc
kết nối và liên kết hạ tầng giữa các địa phương chưa thật sự tốt. Sự nôn nóng trong tận dụng nguồn vốn ngân
sách để đầu tư CSHT nên địa phương nào cũng có cảng biển, cảng du lịch, đầu tư, nâng cấp sân bay hay
đường ven biển dẫn đến tình trạng phân bổ nguồn lực chưa hợp lý, thừa thiếu công suất ở mỗi địa phương,
cản trở khả năng hợp tác, kết nối hạ tầng phục vụ du lịch.
2. Các điều kiện cầu
Giai đoạn 2013 - 2018, tổng lượt khách của cả 3 địa phương tăng trên 2,01 lần, lên mức 18,43 triệu lượt vào
năm 2018. Tuy nhiên, tỷ trọng du khách đến ba địa phương so với cả nước giảm từ 21% xuống 19% trong
giai đoạn này, điều này cho thấy sự phát triển lượng khách đến của Thừa Thiên Huế - Đà Nẵng - Quảng
Nam đang thấp hơn so với mức chung của cả nước.
Bên cạnh lượng khách trong nước tăng nhanh, tốc độ tăng trưởng khách quốc tế tại Đà Nẵng giai đoạn 2014
- 2018 cũng rất ấn tượng, trung bình đạt 30%/năm, trong khi đó, con số này tương ứng tại Huế và Quảng
Nam chỉ là 17% và 19%.
Tuy nhiên, phần lớn lượng khách quốc tế đến Đà Nẵng từ thị trường Đông Bắc Á như Hàn Quốc, Trung
Quốc và Nhật Bản để tham quan, nghỉ dưỡng (biển), khá khác biệt với thị trường khách cao cấp từ Châu Âu
mà Quảng Nam và Huế hướng tới. Về lâu dài, việc lượng khách phổ thông đến từ Châu Á tăng lên sẽ ảnh
hưởng tiêu cực đến phân khúc thị trường cao cấp của Huế và Quảng Nam. Không những thế, các địa phương
cũng nên lưu ý vấn đề tăng trưởng nóng đối với lượng khách Hàn Quốc và Trung Quốc vốn hay thay đổi địa
điểm, quốc gia để tham quan, du lịch khi lượt khách từ các quốc gia này có dấu hiệu giảm trong năm 2018.
Một trong những yếu tố thu hút khách tham quan du lịch nhằm tăng thời gian lưu trú tại mỗi địa phương là
các hoạt động trải nghiệm, ẩm thực, mua sắm và vui chơi giải trí về đêm. Tuy nhiên, cả Huế và Quảng Nam
đều chưa đáp ứng được nhu cầu này. Trong khi đó, dù có được CSHT tốt hơn, nhiều tụ điểm vui chơi về
đêm và trung tâm giải trí, mua sắm hơn so với hai địa phương còn lại, Đà Nẵng vẫn còn thiếu các chương
trình, tụ điểm đặc sắc để thu hút du khách.
3. Bối cảnh cho chiến lược và cạnh tranh
Vốn đầu tư cho du lịch: Vốn đầu tư cho lĩnh vực du lịch tại Thừa Thiên Huế và Quảng Nam hạn chế hơn
nhiều so với Đà Nẵng, điển hình là vui chơi giải trí, dịch vụ lưu trú và ăn uống. Theo niên giám thống kê của
ba địa phương, tổng vốn đầu tư thực hiện (tính theo giá so sánh 2010) trên địa bàn ba địa phương trong giai
đoạn 2013 - 2017 khoảng 262.155 tỷ đồng, trong đó, Đà Nẵng chiếm 47,31%, Thừa Thiên Huế và Quảng
Nam lần lượt chiếm 23,49% và 29,20%. Vốn FDI đầu tư vào các địa phương cũng có sự chênh lệch đáng kể.
Theo báo cáo về tình hình đầu tư FDI trên địa bàn của các Sở kế hoạch và Đầu tư tại ba địa phương, tính đến
năm 2017, ba địa phương thu hút được 42 dự án (đang hoạt động hoặc đang triển khai) với tổng vốn đăng ký
khoảng 2,94 tỷ USD, trong đó, Thừa Thiên Huế chiếm 52,6%, Đà Nẵng chiếm 43,74% và Quảng Nam chỉ
vỏn vẹn với 3,66%.
Tổng quan PCI: Giai đoạn 2012 – 2019, Đà Nẵng luôn nằm trong tốp đầu cả nước về chỉ số PCI. Trong khi
đó, Quảng Nam đang có những chuyển biến tích cực trong việc tạo ra môi trường cạnh tranh hấp dẫn, từ vị
trí thứ 27 năm 2013 lên vị trí thứ 6 năm 2019. Còn lại, chỉ số PCI của Thừa Thiên Huế chỉ ở nhóm trung
bình so với cả nước trong cùng kỳ giai đoạn.
Bối cảnh cạnh tranh của cụm ngành du lịch ba địa phương: Đa phần các doanh nghiệp kinh doanh du
lịch tại ba địa phương có quy mô nhỏ và trung bình, cung cấp những sản phẩm và dịch vụ du lịch tượng tự
so với các doanh nghiệp khác, do đó, việc các doanh nghiệp này thu hút khách hàng thông qua cạnh tranh về
giá là điều tất yếu.
Tại Thừa Thiên Huế, các công ty lữ hành nhỏ phát triển nhanh và cạnh tranh tour với giá thấp. Tại Đà Nẵng,
nhiều doanh nghiệp kinh doanh lữ hành không hoạt động theo đúng quy định pháp luật và cạnh tranh gay gắt
về giá khi lượng khách du lịch quốc tế từ Trung Quốc và Hàn Quốc tăng đột biến trong thời gian gần đây.
Đối với các doanh nghiệp lưu trú. Việc hạ giá quá mức để thu hút khách hàng đã diễn ra trong nhiều năm trở
lại đây, kể cả một số khách sạn từ 3 đến 4 sao. Nguyên nhân cơ bản là có khá nhiều doanh nghiệp lưu trú
trên địa bàn của ba địa phương, trong khi phải chịu nhiều áp lực từ tỷ lệ khách du lịch lưu trú ngày càng sụt
giảm và sự ép giá của các doanh nghiệp lữ hành.
Để hạn chế việc phá giá, ép giá của các doanh nghiệp du lịch, Hiệp hội Du lịch của các địa phương đã quản
lý bằng cách buộc các hội viên cam kết mức giá sàn đối với các dịch vụ du lịch cụ thể. Tuy nhiên, do không
có chế tài để xử lý, nên hiện tượng này vẫn diễn ra tại các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn.
Tình hình hợp tác, liên kết của các doanh nghiệp kinh doanh du lịch: Dù cạnh tranh vẫn còn quyết liệt,
nhưng gần đây các doanh nghiệp bắt đầu liên kết lại để cùng hỗ trợ, phát triển hoạt động kinh doanh. Tuy
nhiên, hình thức liên kết qua hợp đồng còn mang tính tự phát, chủ yếu để giải quyết hỗ trợ các nhu cầu trước
mắt như thiếu hụt nhân lực, phòng lưu trú về mùa cao điểm hay các đơn vị kinh doanh vận chuyển hỗ trợ
nhau về nguồn khách.
4. Các ngành hỗ trợ và liên quan
Dịch vụ lưu trú: Theo báo cáo tổng kết hoạt động du lịch của ba địa phương, tính đến năm 2017, với tổng
cơ sở lưu trú là 1.983 gồm 58.716 phòng ở 3 địa phương, Đà Nẵng dẫn đầu cả về số cơ sở lưu trú cũng như
số phòng (chiếm lần lượt 40% và 60,7%), đặc biệt có đến 79 khách sạn từ 4 - 5 sao tại Đà Nẵng. Trong khi
đó, Thừa Thiên Huế chỉ có số cơ sở xếp hạng sao chiếm 23% tại địa phương và chỉ 5% số khách sạn đạt 3
sao trở lên (28 khách sạn). Tương tự, Quảng Nam chỉ có khoảng 7% cơ sở lưu trú từ 3 - 5 sao. Nhìn chung,
ngoại trừ một số cơ sở kinh doanh cao cấp tập trung tại Đà Nẵng, đa phần các doanh nghiệp kinh doanh
trong lĩnh vực lưu trú và ăn uống ở các địa phương hoạt động với quy mô nhỏ.
Dịch vụ lữ hành: Theo báo cáo tổng kết hoạt động du lịch của ba địa phương, tính đến năm 2019, có
khoảng 506 đơn vị kinh doanh lữ hành tại ba địa phương với phần lớn đến từ Đà Nẵng (khoảng 65%), hai
địa phương còn lại có số lượng tương đương nhau chiếm 17% và 18%. Tương tự như các cơ sở kinh doanh
lưu trú và ăn uống, phần lớn các đơn vị lữ hành này hoạt động với quy mô nhỏ, năng lực còn hạn chế nên
chất lượng cung cấp dịch vụ còn thấp.
Dịch vụ vui chơi giải trí, mua sắm, quà lưu niệm: Ngoại trừ Đà Nẵng với nhiều địa điểm giải trí như quán
bar, các trung tâm mua sắm cao cấp, chương trình biểu diễn nghệ thuật, ngắm cảnh hay ẩm thực về đêm thì
các hoạt động này ở hai địa phương còn lại vẫn rất khiêm tốn. Bên cạnh đó, dù nổi tiếng với nhiều làng nghề
truyền thống với đa dạng các loại sản phẩm, nhưng những mặt hàng lưu niệm và quà tặng vẫn còn đơn điệu,
chưa hình thành được các sản phẩm đặc trưng của từng địa phương hay các chương trình liên kết, quảng bá
sản phẩm du lịch cho du khách.
Lễ hội và ẩm thực: Ba địa phương là trung tâm của các lễ hội được tổ chức đan xen hàng năm. Thừa Thiên
Huế là Festival nghề truyền thống thu hút lượng khách đặc biệt lớn trong năm. Quảng Nam nổi tiếng với
nhiều chương trình lễ hội như Hội thi hợp xướng quốc tế hay các lễ hội Quảng Nam - hành trình Di sản và
Festival Di sản Quảng Nam. Đà Nẵng với lễ hội du lịch biển, chương trình Điểm hẹn mùa hè hay cuộc thi
bắn pháo hoa quốc tế hàng năm thu hút một lượng khách rất lớn. Bên cạnh đó, việc thưởng thức ẩm thực xứ
Huế (hơn 1.700 món ăn), Quảng Nam và ẩm thực đường phố Đà Nẵng là một trong những yêu cầu quan
trọng nhất và nằm trong các hoạt động mà du khách thường tham gia khi đến ba địa phương (ERST, 2015).
Phương tiện vận tải: Hệ thống vận tải (đường bộ, đường thủy, đường sắt và hàng không) cơ bản đáp ứng
nhu cầu du khách và khá đa dạng. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có phương tiện vận tải công cộng để tham
quan các điểm du lịch kết nối cả ba địa phương, khi phần lớn các tuyến xe bus chỉ khai thác trong phạm vi
nội thành với chất lượng còn kém cũng như tần suất hoạt động thấp.
Phương tiện truyền thông: Bên cạnh các phương tiện truyền thông quen thuộc như báo, tạp chí, ấn phẩm
du lịch, tivi… hay tổ chức hội chợ, xúc tiến du lịch, các địa phương cũng bắt đầu ứng dụng công nghệ trong
truyền thông, quảng bá qua các ứng dụng điện thoại (Đà Nẵng đã triển khai) hay các trang mạng xã hội như
Facebook, Instagram… và bước đầu đạt được những dấu hiệu tích cực.
Hạ tầng kỹ thuật (thông tin liên lạc, Internet,…) và dịch vụ tài chính, bảo hiểm: Hệ thống hạ tầng kỹ
thuật cơ bản đáp ứng nhu cầu phục vụ du lịch. Việc miễn phí wifi toàn thành phố ở Đà Nẵng và Hội An tạo
thuận lợi cho du khách trong việc truy cập internet. Các hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm cơ bản
đáp ứng nhu cầu của khách du lịch.
Dịch vụ y tế: Du khách có thể yên tâm với hệ thống bệnh viện, cơ sở y tế khá đầy đủ và hiện đại, đặc biệt
Thừa Thiên Huế và Đà Nẵng là những trung tâm y tế lớn của cả nước, nơi hội tụ nhiều bác sĩ chuyên khoa
xuất sắc. Bên cạnh đó, với nguồn suối nước nóng như các điểm du lịch Mỹ An, Thanh Tân (Thừa Thiên
Huế) hay suối nước nóng núi Thần Tài, Phước Nhơn (Đà Nẵng), các địa phương này có thể phát triển loại
hình dịch vụ mới, du lịch kết hợp với nghĩ dưỡng, chữa bệnh.
5. Vai trò của cơ quan quản lý nhà nước; Hiệp hội du lịch, hội ngành du lịch; Chính phủ và các tổ chức
quốc tế
Cơ quan quản lý nhà nước: Chính quyền địa phương đóng vai trò quan trọng trong việc tác động đến
NLCT của cụm ngành du lịch. Tuy nhiên, tại ba địa phương, nhiều quy hoạch, đề án du lịch chưa thật sự tốt
với nhiều nội dung chồng chéo, chưa đồng bộ. Công tác quy hoạch du lịch không chỉ thiếu chất lượng mà
còn theo tư duy lối mòn, nghĩa là chỉ quy hoạch cho mỗi địa phương mà thiếu quy hoạch chung cho cả vùng.
Ngoài ra, hoạt động liên kết vẫn còn mang tính hình thức, gặp nhiều khó khăn trong huy động nguồn lực, thị
trường khách hướng đến còn mâu thuẫn, thiếu sự tham gia từ phía doanh nghiệp.
Hiệp hội du lịch, hội ngành du lịch (hội khách sạn, lữ hành): Vai trò của hiệp hội là khá mờ nhạt, dẫn đến
tình trạng các doanh nghiệp vẫn còn cạnh tranh lẫn nhau, chưa liên kết để cùng phát triển. Tỷ lệ tham gia
hiệp hội, hội ngành du lịch vẫn còn rất thấp tại các địa phương. Một phần e ngại phải đóng các khoản phí, lệ
phí trong khi chưa chắc được đảm bảo quyền lợi, một phần do các đơn vị kinh doanh du lịch chưa biết có
các hiệp hội, hội ngành trên địa bàn, hay không có ý định tham gia.
Chính phủ và các tổ chức quốc tế: Việc thừa hưởng các di sản văn hóa thế giới, Quảng Nam và Huế nhận
được nhiều quan tâm từ các chính phủ, tổ chức quốc tế trong hỗ trợ trùng tu di tích. Từ năm 1992 - 2014,
Huế đã nhận được 42 dự án tài trợ với tổng vốn khoảng 8 triệu USD. Với Hội An là 12 dự án trong giai đoạn
2012 – 2015. Những hỗ trợ này đến từ các quốc gia như Pháp, Đức, Luxembour hay từ các tổ chức quốc tế
như UNESCO, ILO, JICA, ABD, FIDR…
4. Đánh giá năng lực cạnh tranh cụm ngành du lịch ba địa phương
Dựa vào điều kiện tự nhiên sẵn có và điều kiện cầu của khách du lịch, Thừa Thiên Huế - Đà Nẵng - Quảng
Nam hội tụ đầy đủ tiềm năng để phát triển cụm ngành du lịch với sự đa dạng của các hoạt động, sản phẩm
du lịch, từ các tour tham quan di sản văn hóa, di tích lịch sử đến các hoạt động nghỉ dưỡng, tắm biển, ăn
uống và mua sắm. Mỗi nét đặc trưng của từng địa phương tạo ra cho du khách nhiều sự lựa chọn.
Tuy vậy, bên cạnh một vài kết quả đạt được như lượng du khách, doanh thu từ du lịch tăng lên thời gian qua,
cụm ngành du lịch ba địa phương chưa thật sự phát huy hết tiềm năng vốn có. Sự hạn chế này xuất phát từ
các nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, mức độ liên kết du lịch giữa ba địa phương kém. Hiện nay, Thừa Thiên Huế - Đà Nẵng - Quảng
Nam đã thành lập liên kết theo hình thức tuần tự mỗi địa phương sẽ là trưởng nhóm trong một năm. Tuy
nhiên, sự cạnh tranh đang lấn át sự hợp tác giữa các địa phương trong việc thu hút khách du lịch. Các hội
thảo, hội nghị về liên kết du lịch giữa ba địa phương thực hiện hằng năm chỉ mang tính chất hình thức, thiếu
sự gắn kết và chưa thật sự thu hút được sự quan tâm của các doanh nghiệp du lịch có quy mô lớn. Ba địa
phương chưa có trang web chung để thực hiện các hoạt động xúc tiến, các thông tin ấn phẩm giới thiệu du
lịch các địa phương tại các chương trình quảng bá còn rời rạc, chưa thống nhất logo và slogan du lịch. Gần
đây nhất, ba địa phương đã ký kết biên bản thỏa thuận sử dụng chung thương hiệu điểm đến với tên gọi là
“The Essence of Vietnam – Tinh hoa Việt Nam”, nhưng vẫn chưa triển khai các chương trình kèm theo để
quảng bá thương hiệu.
Thứ hai, chính quyền địa phương chưa thật sự có những hỗ trợ hiệu quả nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
cụm ngành. Với sự đa dạng về tài nguyên, loại hình du lịch, việc phối hợp giữa chính quyền với doanh
nghiệp nhằm định hướng sản phẩm, chương trình du lịch chủ đạo của từng địa phương và cho cả vùng rất
quan trọng để cải thiện NLCT của ngành. Các cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp chưa có sự liên
kết chặt chẽ, các chương trình quảng bá xúc tiến thiếu hiệu quả và lan tỏa. Việc doanh nghiệp đánh giá thấp
hoạt động hợp tác, tính minh bạch, cạnh tranh công bằng hay chi phí không chính thức vẫn còn cao cho thấy
môi trường kinh doanh tại các địa phương chưa thật sự hiệu quả. Ngoài ra, các liên kết du lịch của những
doanh nghiệp chỉ mang tính chất tạm thời trong một số hoạt động ngắn hạn, sự cạnh tranh về giá (đặc biệt là
nhóm dịch vụ lưu trú dưới 3 sao) khiến chất lượng sản phẩm du lịch đi xuống.
Thứ ba, quy hoạch phát triển du lịch dàn trải. Nhiều đề án, quy hoạch phát triển du lịch được ban hành
nhưng chủ yếu vẫn theo tư duy cục bộ, phát triển cho từng địa phương, chưa đề xuất được các sản phẩm chủ
lực để phát triển cũng như các phương án hợp tác, liên kết vùng. Không chỉ vậy, các đề án, quy hoạch của
mỗi địa phương vẫn còn dàn trải với nhiều đề xuất mâu thuẫn, chồng chéo, gây khó khăn trong việc triển
khai, thực hiện.
Thứ tư, hạn chế về số lượng lẫn chất lượng nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực du lịch ba địa phương chỉ đáp
ứng được nhu cầu cơ bản, nhân lực cấp quản lý và chất lượng cao cực kỳ thiếu hụt, trong khi đó, hệ thống
giáo dục và đào tạo tại địa phương vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp. Ngoại ngữ là một
vấn đề hạn chế của lượng lớn sinh viên du lịch tại ba địa phương. Ngoài tiếng Anh, các ngôn ngữ khác như
tiếng Trung, Hàn, Thái, Nga... không được xem xét đào tạo, mặc dù hiện này có đến hơn 130 chuyến bay từ
Trung Quốc đến Đà Nẵng mỗi tuần. Ngày cũng càng có nhiều khách du lịch đến từ Hàn Quốc, Nhật Bản và
Nga, nhưng hiện đang thiếu nghiêm trọng đội ngũ nhân viên nói các ngôn ngữ này trong ngành du lịch của
vùng (ERST, 2015).
Thứ năm, các sản phẩm du lịch rất đơn điệu và nhàm chán, đặc biệt là hoạt động vui chơi giải trí. Phần lớn
dựa vào khai thác hệ thống di sản, tài nguyên có sẵn. Tương tự, ba địa phương còn thiếu vắng các tụ điểm
giải trí về đêm nên chưa thu hút khách du lịch lưu trú, đặc biệt là Thừa Thiên Huế và Quảng Nam. Bên cạnh
đó, với 88 làng nghề truyền thống tại Thừa Thiên Huế và 61 làng nghề truyền thống tại Quảng Nam, việc
ngành du lịch của vùng vẫn chưa có những sản phẩm lưu niệm mang tính đặc trưng là một điều hạn chế.
5. Khuyến nghị chính sách
Thừa Thiên Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam có lợi thế rất lớn để phát triển thành một cụm ngành du lịch hấp
dẫn. Tuy nhiên, sự phát triển cụm ngành du lịch ba địa phương gặp phải nhiều cản trở, xuất phát từ các
nguyên nhân như đã phân tích. Những trục trặc trên nhiều khía cạnh trong quá trình phát triển cụm ngành du
lịch ba địa phương đòi hỏi chính quyền các địa phương cùng các bên liên quan cần thực hiện hiệu quả các
giải pháp để tạo động lực cho sự phát triển bền vững của cụm ngành.
Đối với vấn đề liên kết, hợp tác phát triển du lịch giữa chính quyền ba địa phương: Không chỉ dừng lại
mức độ liên kết với các hoạt động xúc tiến, quảng bá, ba địa phương có thể nâng cao chất lượng quản lý các
hoạt động du lịch với mức độ cam kết cao hơn, không phải như từng địa phương riêng lẻ mà cùng xem xét
thành lập, hoạt động như một thể chế riêng hỗ trợ cho ngành du lịch. Việc tập trung nguồn lực tổ chức các
hoạt động xúc tiến chung cho cả vùng sẽ giải quyết tình trạng nguồn kinh phí dành cho hoạt động quảng bá
du lịch khác nhau giữa các địa phương.
Đối với vấn đề liên kết và nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh trong phát triển du lịch: Việc đảm
bảo tính minh bạch, hiệu quả, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh, công bằng và cải thiện môi trường đầu tư
thông qua đấu thầu công khai, tiếp cận thông tin bình đẳng, cấp giấy phép (đầu tư, kinh doanh, xây dựng…)
nhanh chóng, không gây nhũng nhiễu… sẽ lấy lại niềm tin, cải thiện mối quan hệ với doanh nghiệp. Bên
cạnh đó, các địa phương cần đổi mới tư duy chiến lược của các cấp lãnh đạo tỉnh, xây dựng đội ngũ cán bộ
có năng lực, trách nhiệm và tinh thần cải cách đổi mới.
Đối với quy hoạch phát triển du lịch: Ba địa phương cần tập trung quy hoạch vào các hoạt động, sản phẩm
du lịch chính cùng các sản phẩm phụ trợ theo mức độ ưu tiên khác nhau, tránh đầu tư dàn trải cho các loại
hình du lịch. Nên lập quy hoạch du lịch chung cho cả vùng dựa trên thế mạnh và lợi thế du lịch sẵn có của
từng địa phương. Ba địa phương có thể nghiên cứu để liên kết du lịch theo các loại hình như sau: (i) Di sản
văn hóa, bao gồm: Quần thể Di tích Cố đô Huế, Lăng tẩm và đền điện bên sông Hương (Thừa Thiên Huế);
Núi Ngũ Hành Sơn, Bãi biển Mỹ Khê và Phạm Văn Đồng (Đà Nẵng); Bãi biển Cửa Đại và An Bằng, Cù
Lao Chàm (Quảng Nam); (iii) Thiên nhiên, sinh thái và du lịch cộng đồng, bao gồm: Suối nước nóng Thanh
Tân và Mỹ An, Vườn quốc gia Bạch Mã,..
Đối với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: Chính quyền phải tích cực kết nối, phối hợp với các
trường đại học, tổ chức đào tạo trong nước và quốc tế hay các doanh nghiệp có kinh nghiệm trong công tác
đào tạo nhân lực nhằm tạo cơ hội học tập cũng như trao đổi kinh nghiệm trong phạm vi địa phương hay cả
vùng. Ngoài ra, ba địa phương có thể nghiên cứu để thành lập một trung tâm đào tạo trực tuyến (Open
Digital Platform) với sự tham gia của cơ quan nhà nước, doanh nghiệp du lịch và công nghệ, các trường đại
học, tổ chức đào tạo và sinh viên, người lao động nhằm góp phần thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực phục
vụ du lịch.
Đối với việc đa dạng hóa và nâng cao các sản phẩm du lịch: Các hoạt động du lịch di sản có thể được các
địa phương tham khảo mô hình Tử Cấm Thành của Trung Quốc hay cố đô Kyoto ở Nhật Bản với các hoạt
động tạo dựng, tái hiện các hình ảnh đời sống, sinh hoạt ngày xưa, đưa du khách đến với các trải nghiệm
mới mẻ và thú vị hơn. Hệ thống quà tặng, quà lưu niệm, nhất là sản phẩm từ các làng nghề truyền thống cần
được chính quyền địa phương quan tâm, đặc biệt trong vai trò hỗ trợ nguồn lực phát triển, các hoạt động
quảng bá sản phẩm hay cam kết hỗ trợ đầu ra.
CÀ MAU
II. NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA TỈNH CÀ MAU
1. Giáo dục và y tế:
1. Giáo dục:
Tỷ lệ đi học đúng tuổi và tốt nghiệp THPT ngày càng tăng, từ 91.89% (2015-2016) đến 98,06% (2016-
2017). Hiện cả tỉnh có 28 trường THPT được phân bố đều trên địa bàn các xã, huyện kịp thời đáp ứng đủ
nhu cầu về giáo dục của tỉnh. Hiện nay toàn tỉnh Cà Mau có 2 trường Đại học và 4 trường Cao đẳng.
Danh sách các trường Đại học, Cao đẳng ở Cà Mau:
ĐH Tôn Đức Thắng (phân hiệu Cà Mau)
ĐH Bình Dương (phân hiệu Cà Mau)
Cao đẳng Sư phạm Cà mau
Cao đẳng Y tế Cà Mau
Cao đẳng Cộng đồng Cà Mau
Cao đẳng nghề Việt Nam - Hàn Quốc Cà Mau
1.2 Y Tế:
Có 549 cán bộ dược, trong đó lĩnh vực bệnh viện là cao nhất (61,6%), kế đó dự phòng (16,2%), các trạm y
tế xã (15,5%), đào tạo (4,2%) và thấp nhất là lĩnh vực quản lý (2,6%). Số lượng cán bộ này cao hơn so với
số lượng cán bộ dược trung bình tại cơ quan nhà nước/tỉnh của vùng Đồng bằng sông Cửu Long có 350 cán
bộ.
Cơ sở hạ tầng:
Cà Mau đặc biệt tăng cường đầu tư các công trình trọng điểm trong thời gian qua.
Về mặt giao thông đường bộ có các công trình:
Cà Mau đi Cần Thơ, tuyến QL1 và tuyến Cà Mau – Phụng Hiệp, Cần Thơ, rút ngắn khoảng cách từ Cà
Mau đi Cần Thơ đi 40km và giảm thời gian vận chuyện 1 giờ.
Tuyến QL1 từ Cà Mau – Năm Căn dài hơn 51km đến điểm cuối là Khu du lịch Đất Mũi, tạo điều kiện cho
phát triển VH-DL của Đất Mũi Cà Mau.
Về mặt năng lượng:
Khu Kinh Tế Năm Căn cùng với Khu Liên Hợp Khí-Điện-Đạm với 2 nhà máy điện, công suất đạt
1500mw và 1 nhà máy đạt công suất 800 ngàn tấn/năm. Các công trình năng lượng này đóng vai trò đặc biệt
quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển KT-XH của tỉnh Cà Mau. Hệ thống mạng lưới điện Quốc gia đã
đến 100% số xã trong tỉnh, tỷ lệ hộ sử dụng điện là 97,5% tổng số hộ trên toàn địa bàn.
3. Bộ máy chính trị và quản lí nhà nước:
Tổng số cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Cà Mau là 25.889 (tính đến ngày 01/01/2017), trong đó có: 09
Tiến sĩ (chiếm 0,03%), 596 Thạc sĩ (chiếm 2,30 %)...
Chỉ số PCI của tỉnh đạt 64,1 xếp hạng 45 cả nước. Chỉ số PAPI trong năm 2019 của tỉnh đạt tổng 43,09
xếp hạng 35, giảm 1.71 điểm so với năm 2018. Trong đó, tham gia của người dân ở cấp cơ sở đạt 4.41; công
khai, minh bạch 5.25; trách nhiệm giải trình với người dân 5.26; kiểm soát tham nhũng trong khu vực công
đạt 7,42; thủ tục hành chính công 7,58; cung ứng dịch vụ công 7.07; quản trị môi trường 4.01; quản trị điện
tử chỉ đạt 2.09.
4. Chính sách ngân sách và đầu tư công:
Năm 2019, tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh là 5.654 tỷ đồng, đạt 123,7% dự toán, vượt 1.084 tỷ đồng.
Trong đó, thu nội địa 5.634 tỷ đồng, đạt 124,6% dự toán, bằng 120,2% so với cùng kỳ năm trước, vượt
1.115 tỷ đồng; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu 19 tỷ đồng, đạt 39,8%, bằng 68,5% so với cùng kỳ năm
2018. Có 12/17 nguồn thu đạt và vượt dự toán như: doanh nghiệp nhà nước Trung ương đạt 136,5%, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 677,5%, hoạt động xổ số đạt 146,9%... Nhiều đơn vị thu đạt và vượt dự
toán, tiêu biểu là các huyện: Trần Văn Thời, Cái Nước, U Minh, Đầm Dơi.
Trong năm 2019, tổng chi ngân sách tỉnh 9.263 tỷ đồng, đạt 95,5% dư toán. Cụ thể, có một số khoản chi
lớn như: chi đầu tư phát triển 1.358 tỷ đồng, đạt 78,1%; chi thường xuyên 6.354 tỷ đồng, đạt 106,5%. Ngoài
ra, tỉnh còn thực hiện chi từ nguồn hỗ trợ các chương trình mục tiêu Quốc gia 1.155.178 tỷ đồng, đạt 79,7%
kế hoạch.
Tính riêng trong năm 2020, tổng vốn đầu tư công đạt 2500 tỷ đồng, bằng 61,4% kế hoạch vốn. Nhóm có tỷ
lệ giải ngân cao nhất là vốn ngân sách tập trung do tỉnh đạt 78,5%, vốn cân đối huyện đạt 74,2%...Nếu phân
theo chủ đầu tư, Cà Mau có 21/29 đơn vị có tỷ lệ giải ngân đạt từ 50-100%, trong đó 12/29 đơn vị đạt 70%
giải ngân.
5. Thương số vị trí (LQ):
So sánh giữa các ngành: Thương số vị trí của ngành Nông, lâm nghiệp và thủy sản tại tỉnh Cà Mau có giá
trị lớn hơn 1 nên mức độ tập trung lao động ở ngành này ở mức cao hơn bình quân cả nước qua đó có thể
thấy ngày này tại địa bàn tỉnh có mức độ thu hút lao động cao. Lao động nông nghiệp, nông thôn của Cà
Mau tập trung chủ yếu vào trồng trọt và nuôi trồng thủy sản bởi vì nơi đây có điều kiện tự nhiên thuận lợi để
phát triển ngành trồng trọt và nuôi trồng thủy sản bên cạnh đó nhờ vào thị trường xuất khẩu ngày càng được
mở rộng. Đó là cơ hội để ngành này ngày càng phát triển giúp thu hút nhiều lao động hơn.
So sánh với các ngành: Lực lượng lao động trong ngành Công nghiệp và xây dựng so với lực lượng lao
động trên toàn tỉnh Cà Mau chiếm khoảng 20% vào năm 2017 và thương số vị trí của ngành nhỏ hơn 1
(0.78) nên mức độ tập trung của ngành này vẫn thấp hơn mức bình quân của cả nước. Cho thấy ngành này
chưa thu hút được phần lớn lao động ở đại phương.
So sánh giữa các ngành: Ngành Dịch vụ tại tỉnh Cà Mau có thương số vị trí nhỏ hơn 1 (0.65) nên mức độ
tập trung lao động của ngành này so với bình quân của của nước thấp. Qua đó cho thấy ngành này còn khá là
nước chưa thu hút được nhiều lao động ở nơi đây.
Qua chỉ số thương số vị trí của các ngành ở tỉnh Cà Mau cho thấy mức độ tập trung lao đông của địa
phương chủ yếu tập trung nhiều vào ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản. Cùng với các điều kiện tự nhiên
thuận lợi và việc mở rộng thị trường xuất khẩu với các hiệp định mới về kinh tế thuận lợi để phát triển
ngành nuôi trồng thủy sản đặc biệt là tôm ở tỉnh Cà Mau. Bên cạnh đó cùng với các điều kiện thuận lợi khác
và sự kết hợp với các địa phương lân cận để giúp Cà Mau có thể trở thành cụm ngành về nuôi tôm.
III. CỤM NGÀNH NUÔI TÔM CÀ MAU
1. Các điều kiện nhân tố đầu vào:
1. Điều kiện tự nhiên:
Cà Mau là tỉnh cực Nam của tổ quốc, với lợi thế 3 mặt tiếp giáp biển, có hơn 80 cửa sông lớn, nhỏ thông
ra biển, tạo điều kiện lý tưởng cho phát triển thủy sản, đặc biệt là nghề nuôi tôm. Ngoài ra nguồn nước mặt
là nước lợ, nước mặn (đây là nguồn nước được đưa vào từ biển, hoặc pha trộn với nguồn nước mưa) chiếm
phần lớn nguồn nước mặt của tỉnh và thích hợp cho phát triển nuôi trồng thủy sản.
Về mặt địa hình, Cà Mau là vùng đồng bằng, có nhiều sông rạch, có địa hình thấp, bằng phẳng và thường
xuyên bị ngập nước. Độ cao bình quân 0,5m đến 1,5m so với mặt nước biển. Hướng địa hình nghiêng dần từ
bắc xuống nam, từ đông bắc xuống tây nam. Những vùng trũng cục bộ Thới Bình, Cà Mau nối với Phước
Long, Hồng Dân, Giá Rai (Bạc Liêu) thuộc vùng trũng trung tâm Bán đảo Cà Mau có quan hệ địa hình lòng
sông cổ. Những ô trũng U Minh, Trần Văn Thời là những vùng “trũng treo” nội địa được giới hạn bởi đê tự
nhiên của hệ thống các con sông Ông Đốc, Cái Tàu, sông Trẹm và gờ đất cao ven biển Tây. Vùng trũng treo
này quanh năm đọng nước và trở thành đầm lầy. Phần lớn đất đai ở Cà Mau là vùng đất trẻ do phù sa bồi
lắng, tích tụ qua nhiều năm tạo thành, rất màu mỡ và thích hợp cho việc nuôi trồng thủy sản, trồng lúa, trồng
rừng ngập mặn, ngập lợ…
Toàn tỉnh có diện tích nuôi trồng thủy sản (NTTS) trên 300.000 ha, trong đó diện tích nuôi tôm khoảng
278.000 ha, chiếm khoảng 90% tổng diện tích NTTS của tình và gần 40% diện tích nuôi tôm cả nước. Sản
lượng tôm nuôi tăng bình quân hàng năm từ 9-10%, riêng năm 2018 sản lượng tôm nuôi của tỉnh đạt trên
175.000 tấn, trong đó sản lượng tôm sú chiếm tỷ trọng trên 80%. Trong đó phát triển nhiều loại hình nuôi
tôm như: Nuôi siêu thâm canh (ứng dụng công nghệ cao) diện tích 2.020 ha; nuôi thâm canh diện tích
10.290 ha; nuôi quảng canh cải tiến diện tích gần 130.157 ha; diện tích còn lại nuôi tôm quảng canh truyền
thống. Đến cuối năm 2019, sản lượng đạt trên 190.000 tấn và năng suất bình quân gần 680kg/ha/năm, kim
ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD/năm.
2. Lao động:
Cà Mau là tỉnh nông nghiệp thuần thúy, để hỗ trợ tái cơ cấu nông nghiệp, phát triển kinh tế thế mạnh của
địa phương, thời gian qua tỉnh đã chú trọng tới công tác dạy nghề cho lao động nông thôn. Để thực hiện Đề
án 1956, tỉnh Cà Mau đã ban hành danh mục ngành nghề đào tạo cho lao động nông thôn trên địa bàn gồm
75 nghề mang tính đặc thù của từng huyện, thành phố thuộc tỉnh, theo từng lĩnh vực. Sau 10 năm (2010 –
2020) năm thực hiện đề án, công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh Cà Mau đã đạt
được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Kết quả hỗ trợ cho lao động nông thôn học nghề trong giai đoạn 2010 -
2020 là 370.831 người, trong đó hỗ trợ đào tạo nghề theo quyết định 1956 là 110.779 người; Số lao động sau
học nghề có việc làm mới hoặc làm nghề cũ nhưng có năng suất, thu nhập cao hơn đạt 80%. Trong giai đoạn
2021 - 2025, Cà Mau đưa ra mục tiêu đào tạo nghề cho lao động nông thôn là 140.000 người. Trong đó, đào
tạo trình độ cao đẳng, trung cấp là 13.425 người, sơ cấp và các chương trình đào tạo nghề khác là hơn
126.500 người, ưu tiên đào tạo nghề cho lao động nông thôn diện chính sách.
Trên địa bàn tỉnh Cà Mau có 5 trường đại học và cao đẳng như Trường Cao đẳng cộng đồng Cà Mau,
trường Cao đẳng sư phạm Cà Mau, trường Cao Đẳng y tế Cà Mau, phân hiệu Đại Học Bình Dương tại Cà
Mau, Đại học Tôn Đức Thắng cơ sở Cà Mau trong đó nguồn cung cấp nhân lực đã qua đào tạo là từ trường
Cao đẳng Cộng đông Cà Mau, ngành Nuôi trồng thủy sản nước mặn, nước lợ; Trường Cao đẳng nghề Việt –
Hàn, ngành chế biến và bảo quản thủy sản. Ngoài ra, còn có Phân viện nghiên cứu thủy sản nam Sông Hậu
có chức năng nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, đào tạo, tập huấn, hợp tác quốc tế, tư vấn, sản
xuất kinh doanh và dịch vụ về nuôi trồng thủy sản, khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản nội địa và ven
biển các tỉnh Nam sông Hậu.
3. Cơ sở hạ tầng:
Hiện nay, tại một số vùng nuôi trồng thủy sản (NTTS) ở các địa phương trong tỉnh, cơ sở hạ tầng đã được
đầu tư nâng cấp, sửa chữa, từng bước đáp ứng nhu cầu phát triển NTTS. Tuy nhiên, việc đầu tư mới chỉ tập
trung ở các công trình hạ tầng đầu mối, khu nuôi tôm công nghiệp; còn ở nhiều vùng NTTS khác, cơ sở hạ
tầng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất, dẫn đến hiệu quả kinh tế chưa cao. Mặc dù tỉnh Cà Mau cũng
có các tuyến đường liên kết với các vùng khác nhưng thực tế thì hiệu quả liên kết còn yếu kém và còn nhiều
hạn chế.
Hệ thống thủy lợi Cà Mau hiện có khoảng 540 km đê biển, đê sông; 1.740 km kênh có bề mặt rộng từ 10
m trở lên và hàng nghìn km kênh nội đồng; gần 400 cống đập vừa và nhỏ... với tổng vốn đầu tư trên một
nghìn tỷ đồng.
Ngoài ra, Trung ương còn đầu tư trên địa bàn tỉnh Cà Mau hàng trăm tỷ đồng xây dựng nhiều công trình
đê biển Tây, cống đập thủy lợi lớn, trong đó có Âu thuyền Tắc Thủ.
Hệ thống các công trình này đang phát huy công năng vừa phòng, chống lụt bão, ngăn mặn triều cường
xâm thực, vừa giữ ngọt, tiêu thoát nước cho hơn 250 nghìn ha sản xuất lúa và diện tích rừng tràm U Minh hạ
thuộc các huyện Thới Bình, U Minh và Trần Văn Thời.
Tuy nhiên, trên thực tế, hệ thống thủy lợi của Cà Mau vẫn còn nhỏ bé, manh mún tạm bợ, thiếu đồng bộ và
kém hiệu quả; tính an toàn không cao, thường dễ gây sự cố bị tràn bờ, xoáy lở, gây nhiễm mặn và ngập úng;
hằng năm rất tốn kém trong duy tu, sửa chữa, nạo vét...
2. Bối cạnh cho chiến lược và cạnh tranh:
1. Cơ chế:
Theo Kế hoạch 60/KH-UBND “HÀNH ĐỘNG PHÁT TRIỂN NGÀNH TÔM TỈNH CÀ MAU ĐẾN
NĂM 2025” Cà Mau đã định hướng phát triển nuôi tôm siêu thâm canh, thâm canh (tôm chân trắng) ở
những khu vực có điều kiện tự nhiên thuận lợi, hệ thống cơ sở hạ tầng được đầu tư đồng bộ để sản xuất tạo
khối lượng sản phẩm lớn. Phát triển nuôi tôm sinh thái (tôm sú) quy mô lớn, trong vùng quy hoạch để tạo
sản phẩm giá trị cao cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu. Sản phẩm tôm của Việt Nam đã có
mặt trên thị trường hơn 60 quốc gia, vùng lãnh thổ. Về năng suất nuôi tôm Việt Nam tuy chưa thể so với
một số nước: Ecuador, Ấn Độ, nhưng về chất lượng tôm thì đã khẳng định được vị thế trên thị trường thế
giới. Thương hiệu tôm Việt Nam đang dần được xây dựng vững chắc nhờ điểm nhấn “tôm sinh thái”.
Để có thể cạnh tranh với những thương hiệu khác UBND tỉnh Cà Mau đã có các kiến nghị như:
+ Đầu tư có trọng tâm, trọng điểm và theo thứ tự ưu tiên để đảm bảo sử dụng hiệu quả nhất nguồn vốn; đa
dạng hóa hình thức đầu tư và thu hút nguồn vốn từ nhiều thành phần kinh tế, đặc biệt là doanh nghiệp vào
phát triển ngành tôm của tỉnh.
+ Đưa khoa học công nghệ vào sản xuất để nâng cao năng suất, tạo ra sản phẩm có chất lượng cao (tôm
sinh thái, hữu cơ, có chứng nhận v.v..), giảm giá thành sản xuất để tăng khả năng cạnh tranh tiêu thụ sản
phẩm, hướng tới không sử dụng hóa chất, kháng sinh ở tất cả các phương thức nuôi và các khâu trong chuỗi
sản xuất, tiêu thụ sản phẩm.
+ Phát triển sản xuất gắn với mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm; xây dựng thương hiệu sản phẩm tôm
Cà Mau đa dạng, đặc sắc trên thị trường thế giới và trong nước.
Theo các chuyên gia kinh tế, Cà Mau là tỉnh có nhiều thế mạnh trong nuôi trồng thủy sản. Để đạt mục tiêu
xuất khẩu 2,1 tỉ USD vào sau năm 2021 thì cần có sự thay đổi mạnh mẽ từ công tác quản lý ngành đến tổ
chức sản xuất, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, hình thành chuỗi giá trị con tôm… Trong đó, cần lấy
công nghệ cao làm phương châm phát triển bền vững, giúp người nuôi tôm tiếp cận, ứng dụng được các tiến
bộ khoa học một cách hiệu quả và bền vững nhất như: Nuôi tôm theo công nghệ Biofloc, Công nghệ CP,
công nghệ Biofloc kết hợp tuần hoàn nước, nuôi tôm 02 giai đoạn, 03 giai đoạn… Mật độ nuôi từ 200 – 300
con/m2, ao nuôi chủ yếu được thiết kế theo 02 dạng trong nhà kính và ngoài trời và được lót bạt toàn bộ hệ
thống ao nuôi. Chính vì vậy, Cà Mau đang tập trung thực hiện hiệu quả đề án “Nâng cao năng suất, chất
lượng, hiệu quả và phát triển bền vững nghề nuôi tôm đến năm 2020, định hướng đến năm 2030”, theo đó,
ngành nông nghiệp tỉnh Cà Mau đã triển khai giải pháp khuyến khích phát triển sản xuất, chế biến, tiêu thụ,
giảm tổn thất sau thu hoạch trong nuôi tôm. Theo đề án, Cà Mau đặt mục tiêu đến năm 2020 diện tích nuôi
tôm toàn tỉnh là 280.000 ha. Tổng sản lượng đạt 280.000 tấn, kim ngạch xuất khẩu 2 tỷ USD. Đến năm
2030, diện tích nuôi tôm không mở rộng mà chỉ ổn định ở mức 280.000 ha nhưng sản lượng tăng từ 280.000
tấn năm 2020 lên 415.000 tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 3 tỷ USD.
Để hoàn thành mục tiêu trên, Cà Mau đang chú trọng đào tạo nghề đối với lao động nông thôn, cán bộ
khoa học, cán bộ quản lý, cán bộ khuyến ngư các cấp, ưu tiên đào tạo chuyên ngành công nghệ sinh học,
ngành ứng dụng công nghệ cao. Địa phương này cũng thực hiện giao đất, mặt nước cho các thành phần kinh
tế sử dụng vào mục đích nuôi tôm ổn định, lâu dài; chuyển đổi diện tích đất sản xuất 1 vụ lúa, 1 vụ tôm kém
hiệu quả do ảnh hưởng của xâm nhập mặn, đất lâm nghiệp ven sông trồng rừng kém hiệu quả sang nuôi tôm.
2. Cạnh tranh:
Tôm Việt đã tham gia thương trường thế giới trên 40 năm, nhưng việc xây dựng thương hiệu tôm Việt đến
nay chưa có sự tiến triển mạnh. Theo đánh giá của Tổng cục Thủy sản, ngành tôm của nước ta chưa phát
huy hết tiềm lực và thế mạnh, đồng thời chưa tạo được lợi thế cạnh tranh so các đối thủ trên thế giới như: Ấn
Độ, Thái-lan, Ecuador, Indonesia…Nhìn vào số liệu, có thể thấy được trong những năm gần đây ngành tôm
Việt Nam đã tập trung chạy theo sản lượng nhưng không tăng được về giá trị. Cụ thể, sản lượng tôm thẻ
chân trắng lớn nhưng giá trị chỉ bằng một phần ba so với tôm sú. Ngay thời điểm từ đầu năm đến nay giá
tôm sú loại 30 con/kg dao động khoảng 250.000 đến 300.000 đồng/kg; nhưng tôm thẻ loại 100 con/kg chỉ
khoảng 80.000 đồng/kg.
3. Đảm bảo chất lượng và an toàn thực phẩm:
Do các doanh nghiệp tôm là hội viên của VASEP đóng góp khoảng 90% xuất khẩu tôm từ Việt Nam, do
đó VASEP thông qua Ủy ban Tôm đã hợp tác với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Cục Quản Lý
Chất Lượng Nông Lâm Sản & Thủy Sản (NAFIQAD) để giải quyết các vấn đề của ngành bao gồm đảm bảo
chất lượng, vệ sinh an toàn và tuân thủ các quy tắc, quy định của pháp luật Việt Nam và thị trường nước
ngoài.
Nhờ sự phối hợp giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, NAFIQAD và VASEP trong việc đảm bảo
chất lượng, vệ sinh an toàn và việc tuân thủ các quy tắc, quy định của pháp luật Việt Nam và thị trường
nước ngoài và các chứng nhận cập nhật và tuân thủ nâng cao của Luật Lao động, Luật An toàn thực phẩm và
các quy định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, các công ty tôm đang áp dụng các biện pháp
thực hành tốt trong cả trang trại và nhà máy chế biến các sản phẩm thủy sản trong đó có tôm. Ngoài ra, mỗi
năm, các công ty phải được kiểm tra bởi các cơ quan kiểm tra độc lập, tổ chức chứng nhận quốc tế và cơ
quan chức năng Việt Nam.
Việc tuân thủ ASC, Global GAP và các tiêu chuẩn quốc tế khác chứng tỏ rằng người nuôi và doanh nghiệp
chế biến tôm Việt Nam không được phép sử dụng kháng sinh và các hóa chất không cần thiết trong chuỗi
sản xuất của họ. Quan trọng nhất, chính quyền Việt Nam hiện có các quy định và chương trình kiểm soát
chặt chẽ việc sử dụng hóa chất và kháng sinh trong nuôi trồng và chế biến thủy sản. Tổng cục Thủy sản (D-
Fish) và cơ quan quản lý nuôi trồng tại địa phương thường xuyên hướng dẫn và kiểm tra việc sử dụng kháng
sinh và phát triển ngành tôm theo hướng liên kết chuỗi (với hợp đồng chặt chẽ, sản xuất có kiểm soát.,
Không sử dụng hoặc hạn chế sử dụng kháng sinh, ổn định tiêu thụ sản phẩm...), nuôi tôm có chứng nhận.
4. Bảo hiểm tôm:
Triển khai theo quyết định 315/QĐ-TTg ngày 01/03/2011 của Thủ tướng Chính phủ, rủi ro trong việc nuôi
tôm được bảo hiểm gồm có:
+ Thiên tai: bão, lũ, lụt, hạn hán, rét đậm, rét hại, sương giá, xâm nhập mặn, sóng thần, giông, lốc xoáy
theo công bố thiên tai của cơ quan chức năng có thẩm quyền
+ Đối với Tôm sú: bệnh đốm trắng, bệnh đầu vàng, bệnh hoại tử cơ quan tạo máu và cơ quan biểu mô
(IHHNV); hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính (AHPNS);
+ Đối với Tôm chân trắng: bệnh đốm trắng, bệnh đầu vàng, bệnh hoại tử cơ quan tạo máu và cơ quan biểu
mô (IHHNV), bệnh hoại tử cơ hay bệnh đục cơ do vi rút (IMNV); hội chứng Taura, hội chứng hoại tử gan
tụy cấp tính (AHPNS).
3. Các điều kiện cầu:
1. Thị trường:
Thị trường xuất khẩu của tôm Cà Mau đang dần được mở rộng ở nhiều quốc gia trên thế giới và Hoa Kỳ là
một trong những thị trường xuất khẩu hàng đầu của tỉnh. Cùng với đó là Nhật Bản, Trung Quốc và mới đây
là Châu Âu.
Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), kim ngạch xuất khẩu tôm Việt Nam
vào thị trường châu Âu đã tăng mạnh ở mức 2 con số, sau khi Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và
Liên minh châu Âu chính thức có hiệu lực từ ngày 1/8/2020. Từ đầu tháng 8 đến nay, xuất khẩu thủy sản có
số lượng đơn hàng tăng khoảng 10% so với tháng 7/2020. Trong đó mặt hàng tăng tập trung nhiều vào tôm
và mực…EU hiện là thị trường tiêu thụ tôm lớn thứ 4 của Việt Nam, sau Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc. EU
chiếm đến 13,3% tổng giá trị của xuất khẩu tôm nước ta.
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho rằng, xuất khẩu tôm thời điểm đầu năm
chựng lại do ảnh hưởng dịch Covid-19, tuy nhiên theo dự báo sẽ phục hồi sau đó và tăng tốc vào thời điểm
cuối năm 2020. VASEP phân tích, xuất khẩu tôm sang EU năm 2019 dù có giảm; song cần thấy rằng Hiệp
định EVFTA có hiệu lực vào tháng 8-2020, khi đó thuế nhập khẩu hầu hết tôm nguyên liệu vào EU được
giảm từ mức thuế cơ bản 12-20% xuống 0% ngay khi hiệp định có hiệu lực; thuế nhập khẩu tôm chế biến
cũng về 0% sau 7 năm kể từ khi hiệp định có hiệu lực. Lợi thế là khu vực EU thu nhập đầu người cao, sản
phẩm càng nhiều tiện ích càng được ưa chuộng, phân khúc thị trường rộng nên đủ để các doanh nghiệp Việt
Nam lựa chọn hệ thống phân phối. Từ đó, dự báo xuất khẩu tôm sang EU tới đây sẽ khả quan nhờ ưu đãi
thuế quan và chúng ta có khả năng cạnh tranh tốt hơn so với Ấn Độ, Thái Lan và Indonesia. Dự kiến năm
2020, xuất khẩu tôm của Việt Nam vào EU tăng khoảng 15%, đạt 800 triệu USD.
2. Nhà phân phối:
Trên địa bàn tỉnh Cà Mau có 1022 công ty chế biến và phân phối thủy sản và có các lớn như: Công Ty CP
Chế Biến Thủy Sản Và XNK Cà Mau, Công Ty CP XNK Thủy Sản Năm Căn, Công Ty Cổ Phần Thủy Sản
Cà Mau, Công Ty CP Chế Biến Thủy Sản XNK Hòa Trung, Công Ty CP Thương Mại XNK Thủy Sản
Thanh Đoàn, Công Ty CP Chế Biến Thủy Sản XK Minh Hải,…
4. Các ngành hỗ trợ và liên quan:
4.1. Cung cấp con giống:
Hiện địa phương có 874 cơ sở sản xuất giống tôm sú và 1 cơ sở sản xuất giống tôm thẻ chân trắng với sản
lượng 9 - 10 tỷ con giống tôm sú/năm, đáp ứng được 50% nhu cầu, còn lại là phải nhập từ bên ngoài.
Nguồn cung cấp con giống được phối hợp với tỉnh Bạc Liêu, một tỉnh thuộc bán đảo Cà Mau, vừa phê
duyệt đề án xây dựng tỉnh này thành trung tâm ngành công nghiệp tôm cả nước, với vốn đầu tư hơn 3.000 tỷ
đồng. Bạc Liêu đặt ra trong năm 2020 có vùng sản xuất giống thủy sản ứng dụng công nghệ cao từ 32 - 35 tỷ
con giống và đến năm 2025 là từ 40 - 45 tỷ con giống, đảm bảo chất lượng đạt 90%, đáp ứng nhu cầu giống
tôm nuôi của tỉnh và xuất sang các tỉnh lận cận. Bạc Liêu có khoảng 20% số trại với quy mô sản xuất lớn
luôn tiên phong ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, sử dụng nguồn tôm bố mẹ đã qua kiểm
dịch được nhập khẩu từ nước ngoài nên đặt năng suất cao, khả năng cung ứng ra thị trường 10 – 12 tỷ
post/năm với chất lượng tôm tốt. Cụ thể, Công ty TNHH Tôm giống số 1 với diện tích hồ ương hơn 4.000
m3, mỗi năm cung ứng hơn 3 tỷ post; DNTN Kim Sa với diện tích hồ ương hơn 5.000 m 3 mỗi năm cung ứng
khoảng 4 tỷ post...
4.2. Ngành chế biến, bảo quản:
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có hơn 20 công ty đang hoạt động trong lĩnh vực chế biến và kinh doanh thủy
hải sản. Trong đó, có 4 công ty đạt top 10 công ty dẫn đầu ngành thủy hải sản Việt Nam vào năm 2019 là
Công ty CP tập đoàn Thủy hải sản Minh Phú, Công ty CP chế biến thủy sản và xuất nhập khẩu Cà Mau,
Công ty TNHH kinh doanh chế biến thủy sản và XNK Quốc Việt và Công ty TNHH chế biến thủy sản Minh
Quý.
Mặt khác, Cà Mau kết hợp với tỉnh Sóc Trăng trong việc chế biến tôm khi tỉnh này có vị trí giao thương
thuận lợi cùng nằm trên bán đảo Cà Mau. Hơn nữa, Sóc Trăng có nhiều doanh nghiệp chế biến tôm lớn và
trình độ cao của cả nước như Stapimex, Cleanfood, Taika, Út Xi, Khánh Sủng, Thái Tân, Thái Hoà…
4.3. Vận chuyển và logistics
Hiện tại ở Cà Mau có cảng biển Năm Căn nằm ở Khóm Hàng Vịnh, Thị trấn Năm Căn, Huyện Năm Căn,
Tỉnh Cà Mau. Công năng khai thác cảng là Cầu cảng Tổng hợp (Hàng rời, hàng khô...) diện tích bến cảng là
7,7ha và năng lực thông qua của bến cảng là 500.000 (Tấn/năm). Về thông số kỹ thuật tàu vào cảng lớn nhất
là 5000DWT, kích thước chiều dài cầu cảng 100m.
Theo quy hoạch đến năm 2020 và định hướng 2030 được phê duyệt, tỉnh Cà Mau sẽ có 2 cảng biển lớn
gồm Cảng Năm Căn và Cảng biển tổng hợp Hòn Khoai. Theo quy hoạch chi tiết nhóm cảng biển Đồng bằng
sông Cửu Long đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, bến Cảng Hòn Khoai thuộc cảng biển Cà Mau
được quy hoạch là cảng tổng hợp, chuyên dùng, là khu bến tiềm năng phát triển có điều kiện, phụ thuộc vào
nhu cầu và năng lực của nhà đầu tư. UBND tỉnh Cà Mau kiến nghị Bộ Giao thông vận tải xem xét, điều
chỉnh quy hoạch bến cảng Hòn Khoai là bến cảng tổng hợp, container, chuyên dùng với quy mô đáp ứng cho
tàu trọng tải đến 250.000 tấn cập bến. Ngoài ra, với điều kiện địa lý tự nhiên thuận lợi và tiềm năng phát
triển cảng biển nước sâu; đồng thời, để thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế biển,
đảo gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền vùng biển. Vì vậy, cần xem xét Dự án Cảng
Hòn Khoai là dự án trọng điểm quốc gia ưu tiên mời gọi đầu tư. Dự kiến trong tương lai Cảng biển Hòn
Khoai có năng lực vận tải 800 triệu tấn hàng hóa mỗi năm. Đưa cảng Hòn Khoai trở thành cảng biển lớn
nhất Việt Nam, trở thành mắt xích chính, mở ra cổng kết nói quan trọng trong chuỗi phân phối hàng hóa,
dịch vụ toàn cầu.
Theo quy hoạch được phê duyệt thì Cảng biển Năm Căn là cảng tổng hợp địa phương (loại II), gồm các
bến cảng Năm Căn trên sông Cái Lớn cho tàu trọng tải đến 5.000 tấn và nghiên cứu “Phát triển cảng biển
cho tàu trọng tải lớn tại khu vực đảo Hòn Khoai phù hợp với nhu cầu và năng lực của nhà đầu tư”. Tuy
nhiên, thực trạng thiếu nguồn hàng và nhà đầu tư khiến cho cảng biển trở nên đìu hiu.
Đa phần các công ty hoạt động trong lĩnh vực chế biến và kinh doanh thủy sản đều có kho lưu trữ, kho
động lạnh… Một số có hệ thống vận chuyển riêng. Tuy nhiên, ngành vận chuyển hàng hóa, container vẫn rất
phát triển, trên địa bàn tỉnh hiện có hơn 50 công ty hoạt động trong lĩnh vực vận chuyển, cả đường bộ và
đường thủy.
4.4. Thức ăn thủy sản và Thuốc thú y thủy sản
Với diện tích nuôi trồng thủy sản lớn nên nhu cầu sử dụng thức ăn thủy cũng rất lớn. Mỗi năm tỉnh cần
khoảng 200000 tấn thức ăn thủy sản để phục vụ sản xuất cho bà con nông dân. Trên địa bàn tỉnh hiện nay có
khoảng 30 công ty và doanh nghiệp sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thuỷ sản chưa được phân vào đâu.
Ngoài ra, nhà máy thức ăn thủy sản C.P Cà Mau vừa được khởi công xây đựng vào sáng ngày 04/11/2020
Giống với nhu cầu thức ăn chăn nuôi thủy sản. Thuốc thú y thủy sản là một sản phẩn cần nguồn cung rất
lớn. Đây là thị trường màu mỡ và thu hút rất nhiều doanh nghiệp tham gia tiêu biểu như: Thủy sản Chánh
Hùng, Thủy sản Tuấn Ngọc. Tuy nhiên, cũng vì màu mỡ nên sản phẩm thuốc thú y “dỏm” là một vấn đề mà
tỉnh Cà Mau đang lưu tâm.
4.5. Ngân hàng
Theo thống kê của tổ chức quốc tế về Bảo tồn thiên nhiên (WWF) Việt Nam, đến tháng 12/2018 trong 30
tổ hợp tác và HTX nuôi thủy sản có 79 liên kết được hình thành. Tuy vậy chỉ có 32,9% số liên kết đầu vào
này có giao dịch. Điều này rõ ràng cho thấy việc thúc đẩy các liên hết hoạt động và duy trì các liên kết là
một thách thức lớn và cần nỗ lực hơn nữa của các bên.
Bám sát các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và Chính phủ nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
vùng ĐBSCL, trong 6 tháng đầu năm 2013, NHNN đã có nhiều giải pháp tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ thị
trường, đặc biệt là đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn cả nước nói chung và khu vực ĐBSCL nói riêng.
Theo đó, Ngân Hàng Nông Nghiệp đã liên tục điều chỉnh giảm lãi suất huy động, từ đó giảm lãi suất cho vay
đối với doanh nghiệp; Tiếp tục gia hạn thêm 01 năm (đến hết 31/12/2013) cho phép tổ chức tín dụng
(TCTD) được cho vay bằng ngoại tệ đối với các doanh nghiệp trong nước có nhu cầu ngoại tệ nhập khẩu
hàng hóa để sản xuất kinh doanh mà có đủ nguồn thu ngoại tệ để trả nợ, nhằm giảm chi phí đầu vào cho các
doanh nghiệp xuất khẩu; Cho phép các TCTD thực hiện xem xét cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho khách
hàng;Hỗ trợ các ngân hàng thương mại có tỷ trọng cho vay nông nghiệp, nông thôn lớn (từ 40% trở lên),
thông qua hình thức tái cấp vốn và giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với ngân hàng nhằm mở rộng nguồn vốn
cho vay và có điều kiện hạ lãi suất huy động đầu vào, từ đó hạ lãi suất cho vay đối với lĩnh vực nông nghiệp,
nông thôn.
5. Nhà nước:
Ngày 7 tháng 7 năm 2014, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 67/2014/NĐ-CP về một số chính sách phát
triển thủy sản.
Nghị định nêu 6 chính sách:
1. Chính sách đầu tư: Ngân sách trung ương đầu tư 100% kinh phí xây dựng cảng cá loại I, đầu tư 100%
kinh phí xây dựng hạ tầng vùng nuôi trồng thủy sản tập trung trên biển…
2. Chính sách tín dụng: Chủ tàu được vay vốn ngân hàng thương mại tối đa 95% tổng giá trị đầu tư đóng
mới với lãi suất 7%/năm, trong đó chủ tàu trả 1%/năm, ngân sách nhà nước cấp bù 6%/năm (đóng tàu vỏ
thép). Có cơ chế xử lý rủi ro. Có chính sách cho vay vốn lưu động (lãi suất cho vay là 7%/năm trong năm
đầu tính từ ngày ký kết vay).
3. Chính sách bảo hiểm: hỗ trợ hàng năm kinh phí mua bảo hiểm thân tàu, trang thiết bị, ngư cụ trên mỗi tàu
(bảo hiểm mọi rủi ro) với mức 90% kinh phí mua bảo hiểm đối với tàu có tổng công suất máy chính từ
400CV trở lên…
4. Chính sách ưu đãi thuế: Miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước sử dụng cho hoạt động nuôi trồng thủy, hải sản
của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân; miễn thuế môn bài đối với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nuôi trồng, đánh
bắt thủy, hải sản và dịch vụ hậu cần nghề cá…
5. Hỗ trợ 100% chi phí đào tạo hướng dẫn thuyền viên vận hành tàu vỏ thép, tàu vỏ vật liệu mới; hướng dẫn
kỹ thuật khai thác, bảo quản sản phẩm theo công nghệ mới đối với tàu có tổng công suất máy chính từ
400CV trở lên.
6. Hỗ trợ chi phí vận chuyển hàng hóa từ đất liền ra tàu khai thác hải sản xa bờ và vận chuyển sản phẩm hải
sản khai thác xa bờ về đất liền cho các tàu dịch vụ hậu cần khai thác hải sản xa bờ có tổng công suất máy
chính từ 400CV trở lên: Mức hỗ trợ 40 triệu đồng/chuyến biển đối với tàu có tổng công suất máy chính từ
400CV đến 800CV; từ 60 triệu đồng/chuyến biển đối với tàu có tổng công suất máy chính từ 800CV trở lên;
hỗ trợ tối đa 10 chuyến biển/năm.
UBND tỉnh yêu cầu Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn rà soát, đánh giá tình hình, kết quả thực hiện
các giải pháp phát triển sản xuất đã được UBND tỉnh đề ra; rà soát, điều chỉnh, bổ sung các quy định về điều
kiện, quy trình nuôi tôm thâm canh, siêu thâm canh cho phù hợp với tình hình thực tế; yêu cầu các doanh
nghiệp hợp đồng cung ứng giống, thức ăn, vật tư đầu vào (Công ty CP, Việt- Úc, Việt Mỹ, Trúc Anh…) cho
hộ nuôi tôm cam kết hướng dẫn cho nhân dân thực hiện đúng quy trình xây dựng ao đầm theo mô hình của
đơn vị đã đăng ký và được Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chấp nhận nhằm đảm bảo xử lý nước
thải, chất thải khi nuôi tôm, đảm bảo không ô nhiễm môi trường, đảm bảo an toàn về điện.
Sở Tài nguyên và Môi trường rà soát các quy định, chế tài xử lý đối với các hành vi vi phạm về môi trường
trong hoạt động nuôi tôm, phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn bổ sung vào văn bản hướng
dẫn các huyện thực hiện
Sở Công Thương phối hợp với Công ty Điện lực Cà Mau rà soát các quy định của ngành điện có liên quan
đến hoạt động sản xuất (về áp giá điện sản xuất, về quy định ký quỹ, về lắp đặt thiết bị hạ thế, về an toàn sử
dụng điện…), các chế tài xử lý đối các hành vi vi phạm để tuyên truyền cho nhân dân biết thực hiện; phối
hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn bổ sung vào văn bản hướng dẫn các địa phương thực hiện.
Giao Chủ tịch, Phó Chủ tịch phụ trách lĩnh vực sản xuất của các huyện, thành phố Cà Mau khẩn trương
thành lập các tổ công tác kiểm tra tình hình chỉ đạo sản xuất của chính quyền cấp xã, kịp thời chấn chỉnh
những hạn chế, tồn tại, đảm bảo thực hiện có hiệu quả các biện pháp chỉ đạo sản xuất UBND tỉnh đã đề ra.
Trong đó chú ý kiểm tra, khắc phục những hộ đang nuôi tôm nhưng chưa đủ điều kiện, cò xả thải ra bên
ngoài; tuyên truyền cho nhân dân biết, thực hiện quy định phải đăng ký với chính quyền địa phương khi có
kế hoạch đầu tư nuôi thâm canh, siêu thâm canh, khảo sát, hướng dẫn các hộ đăng ký nuôi xây dựng ao đầm
đúng quy định; kiểm tra, chỉ đạo khắc phục việc sử dụng điện không đảm bảo an toàn; rà soát thiết bị thi
công xây dựng ao nuôi tôm trên địa bàn để có kế hoạch đáp ứng nhu cầu sắp tới…
LÀO CAI
CHƯƠNG 3. PHÂN TÍCH NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA TỈNH LÀO CAI
3.1. Năng lực cạnh tranh vĩ mô
3.1.1. Hạ tầng xã hội và bộ máy chính trị/ quản lý Nhà nước
Hạ tầng y tế:
- Ngành Y tế Lào Cai đã tập trung thực hiện tốt đề án bệnh viện vệ tinh, cán bộ được đào tạo, trang thiết bị
được tỉnh đầu tư. Bệnh viện tuyến tỉnh đã phát triển được trên 340 kỹ thuật vượt tuyến, các huyện cũng có
gần 1.000 kỹ thuật vượt tuyến.
- Tập trung đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và trang thiết bị y tế, các bệnh viện tỉnh được cải tạo, mở rộng,
nâng cấp; xây dựng mới bệnh viện đa khoa tỉnh 500 giường; đầu tư xây dựng giai đoạn 2 các bệnh viện
huyện; 100% PKĐKKV được kiên cố hoá. Cơ sở vật chất và trang thiết bị khối y tế dự phòng từng bước
được ưu tiên đầu tư. Củng cố y tế xã, 100% số xã có trạm y tế và 92,3% thôn bản có nhân viên y tế hoạt
động; có 126 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế xã, đạt 128,5% kế hoạch. Chính sách xã hội hóa
lĩnh vực y tế đạt hiệu quả, tạo thêm nguồn lực cho công tác y tế.
- Phát triển y dược học cổ truyền, thực hiện kết hợp đông tây y trong khám chữa bệnh. Phát triển hệ thống
cung ứng thuốc vật tư y tế, đảm bảo nhu cầu thuốc cho phòng bệnh và chữa bệnh. Mở rộng bảo hiểm y tế, tỷ
lệ người có thẻ bảo hiểm y tế chiếm 90,91% dân số. Dịch vụ y tế gần dân hơn, chất lượng ngày càng cao;
đối tượng chính sách, người nghèo và trẻ em dưới 6 tuổi được quan tâm; số lần khám chữa bệnh bình quân
đạt cao, năm 2010 đạt 2,6 lần/người/năm. Nâng cao y đức, tinh thần phục vụ nhân dân có chuyển biến tích
cực.
Hạ tầng giáo dục:
- Giai đoạn 2016 - 2020 đã đầu tư trên 1.600 tỷ đồng xây dựng cơ sở vật chất trường, lớp học (tỉ lệ phòng
học kiên cố đạt 73,5%, không còn phòng học tạm); hoàn thành mục tiêu xây dựng nhà công vụ giáo viên và
nhà ở cho học sinh bán trú, nhà vệ sinh, nhà ăn, bếp... 100% cơ sở giáo dục đã có nhà lớp học kiên cố tại
trường chính; cơ bản đủ phòng học để học 2 buổi/ngày. Môi trường, cảnh quan trường, lớp xanh, sạch, đẹp,
văn minh, từng bước hiện đại.
- Công tác xây dựng trường học đạt chuẩn quốc gia đạt kết quả tốt. Toàn tỉnh hiện có 376/602 trường học
đạt chuẩn quốc gia (chiếm 62,5%).
- Công nghệ thông tin được ứng dụng để nâng cao chất lượng quản lý, chỉ đạo, điều hành, đổi mới nội dung,
phương pháp dạy học, kiểm tra, đánh giá. Tăng cường trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ ứng dụng
công nghệ thông tin. Hiện nay, 100% cơ sở giáo dục đã kết nối mạng Internet phục vụ giảng dạy và học tập;
69,1% cơ sở giáo dục xây dựng website và hoạt động thường xuyên, hiệu quả; 100% trường phổ thông triển
khai hồ sơ điện tử (học bạ, sổ điểm); một số cơ sở giáo dục ứng dụng để tổ chức kiểm tra, đánh giá học sinh
trên máy vi tính.
- Hệ thống giáo dục chuyên nghiệp: Lào cai có 1 trường chuyên nghiệp phân hiệu đại học Thái Nguyên, 14
trường trung tâm giáo dục nghề nghiệp: trong đó 1 cao đẳng, 1 trung cấp, 12 trung tâm giáo dục nghề
nghiệp( 11 trường công lập, 1 trường tư thục), 4 cơ sở khác có đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp.
Phân hiệu đại học Thái Nguyên có đội ngũ cán bộ giảng dạy, các nhà khoa học có uy tín từ Đại học Thái
Nguyên và chuyên gia nước ngoài tham gia trực tiếp giảng dạy, nghiên cứu với 4 chuyên ngành đào tạo bậc
đại học (Khoa học Cây trồng; Chăn nuôi- Thú y; Quản lý Tài nguyên - Môi trường và Du lịch học).
Bộ máy chính trị và quản Lý:
- Bộ máy Chính trị, tỉnh Lào Cai có 164 đơn vị (143 xã, 12 phường, 09 thị trấn), trong đó số lượng đơn vị
hành chính cấp xã đạt cả 02 tiêu chuẩn về diện tích tự nhiên, quy mô dân số 23 đơn vị (gồm 17 xã, 02
phường và 04 thị trấn). Số lượng đơn vị hành chính cấp xã chưa đạt tiêu chuẩn về diện tích tự nhiên, quy mô
dân số 141 đơn vị (gồm 126 xã, 10 phường và 05 thị trấn). Trong đó số đơn vị hành chính cấp xã có 02 tiêu
chuẩn về diện tích tự nhiên, quy mô dân số chưa đạt 50% có 17 đơn vị (gồm 16 xã và 01 phường). Sau khi
thực hiện sắp xếp, toàn tỉnh có 152 đơn vị (127 xã, 16 phường, 09 thị trấn), giảm 12 đơn vị (giảm 16 xã và
tăng 04 phường). Đến nay các đơn vị hành chính cấp xã trên địa bàn tỉnh đều có đủ 2 tiêu chuẩn về diện tích
và dân số trên 50% quy định.
- UBND tỉnh đã kiện toàn 100% các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh. Thành lập mới Chi cục Giám
định xây dựng (Sở Xây dựng), Chi cục Quản lý đất đai (trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường). Kiện toàn
26 cơ quan, đơn vị, gồm 11 chi cục thuộc các ngành và 15 cơ quan chuyên môn cấp tỉnh; rà soát, sắp xếp,
kiện toàn 90 ban chỉ đạo, tổ chức phối hợp liên ngành cấp tỉnh, đã sắp xếp, kiện toàn lại, giảm 51 ban chỉ
đạo, tổ chức phối hợp liên ngành (giải thể 38, tổ chức lại 23 thành 10 ban chỉ đạo, tổ chức phối hợp liên
ngành). Hợp nhất Sở Giao thông Vận tải và Sở Xây dựng.
3.1.2. Các chính sách về ngân sách và đầu tư công.
Thu ngân sách:
- Ngân sách các cấp sử dụng 50% tăng thu ngân sách địa phương không kể số tăng thu tiền sử dụng đất (cả
trong dự toán và tổ chức thực hiện).
- Thực hiện tiết kiệm 10% số chi thường xuyên (trừ các khoản lương và có tính chất lương). UBND các cấp
khi giao dự toán chi thường xuyên cho các cơ quan, đơn vị phải xác định cụ thể và giữ lại ngân sách cùng
cấp số tiền tiết kiệm 10% để thực hiện cải cách tiền lương.
- 40% số thu được để lại theo chế độ năm 2015; riêng ngành y tế là 35%, sau khi trừ chi phí thuốc, máu, dịch
truyền, hóa chất, vật tư thay thế, vật tư tiêu hao, kinh phí chi trả phụ cấp thường trực, phụ cấp phẫu thuật,
thủ thuật và một phần tiền lương nếu đã kết cấu vào giá dịch vụ khám, chữa bệnh.
Số thu được để lại theo chế độ của các cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp không được trừ chi phí trực
tiếp phục vụ cho công tác thu. Trong trường hợp số thu này là thu từ các công việc, dịch vụ do Nhà nước
đầu tư hoặc từ các công việc, dịch vụ thuộc đặc quyền của Nhà nước và đã được ngân sách nhà nước đảm
bảo chi phí cho hoạt động thu. Số thu được để lại theo chế độ được trừ chi phí trực tiếp phục vụ cho công tác
thu trong trường hợp số thu này là thu từ các công việc, dịch vụ do Nhà nước đầu tư hoặc từ các công việc,
dịch vụ thuộc đặc quyền của Nhà nước, nhưng chưa được ngân sách nhà nước đảm bảo chi phí hoạt động
thu.
Đầu tư công:
Tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội năm 2019 theo giá hiện hành đạt 21.915,676 tỷ đồng, tăng 5,7% so
với năm 2018 và bằng 42,65% GRDP, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước đạt 4.984,507 tỷ đồng (chiếm
22,75% tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội), giảm 48,11%; khu vực ngoài nhà nước 16.892,36 tỷ đồng
(chiếm 77,07%), tăng 53,04%. Trong đó đầu tư công chủ yếu:
Chi bồi thường, tái định cư và san tạo mặt bằng các điểm trường thuộc chương trình kiên cố hóa trường lớp
học;
Đầu tư xây dựng các công trình thuộc sự nghiệp giáo dục - đào tạo và dạy nghề, trong đó ưu tiên đầu tư
các công trình lớp học, phòng học mầm non;
Đầu tư xây dựng các công trình thuộc sự nghiệp y tế;
Đầu tư xây dựng các công trình phúc lợi xã hội khác. Trong đó: bố trí tối thiểu 70% đầu tư cho giáo dục -
đào tạo, dạy nghề và y tế; số còn lại mới bố trí các công trình phúc lợi xã hội khác.
Vốn khu vực đầu tư FDI:
Về thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài, trong năm 2019 tỉnh Lào Cai có 01 dự án FDI được cấp mới
Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Lũy kế đến thời điểm hiện tại, Lào Cai có 20 dự án FDI còn hiệu lực với
tổng vốn đăng ký đạt 546,295 triệu USD. Trong năm 2019, tổng vốn đăng ký đầu tư các dự án FDI tăng
thêm đạt 7,465 triệu USD, tương đương khoảng 172,1 tỷ đồng, gồm: 01 dự án đầu tư FDI cấp mới với tổng
vốn đầu tư 0,865 triệu USD; 01 dự án FDI điều chỉnh tăng vốn đầu tư với tổng mức đầu tư tăng thêm 6,6
triệu USD (gồm: dự án Nhà máy thủy điện Séo Chông Hô của Công ty TNHH đầu tư điện lực Việt Trung;
dự án Khu du lịch sinh thái Sa Pa của Công ty TNHH Topas Ecolodge).
3.1.3. Chính sách kinh tế vĩ mô của Lào Cai.
Chính sách tài khoá:
- Thuế thu nhập doanh nghiệp: Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 4 năm kể từ năm đầu tiên có thu nhập chịu
thuế từ dự án đầu tư; giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp trong 9 năm tiếp theo. Mức thuế suất thông
thường áp dụng là 10%.
- Chuyển lỗ: Doanh nghiệp có lỗ được chuyển lỗ sang năm sau; số lỗ này được trừ vào thu nhập tính thuế.
Thời gian được chuyển lỗ không quá 5 năm, kể từ năm tiếp theo năm phát sinh lỗ.
- Thuế thu nhập cá nhân: Thuế suất thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ kinh doanh, từ tiền lương, tiền
công được áp dụng theo biểu thuế lũy tiến từng phần.
- Giải phóng mặt bằng: Các cơ quan chức năng liên quan sẽ hỗ trợ Nhà đầu tư triển khai các bước theo quy
định để giải phóng mặt bằng (GPMB), tạo mặt bằng sạch cho Nhà đầu tư. Nhà đầu tư chịu hoàn toàn các chi
phí đền bù GPMB chi trả cho nhân dân. Sở Tài nguyên và Môi trường, UBND huyện sẽ bố trí khu vực tái
định cư để Nhà đầu tư thực hiện quy trình tái định cư cho nhân dân được GPMB.
- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: Miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định
của dự án đầu tư vào lĩnh vực được ưu đãi về thuế nhập khẩu quy định tại Phụ lục 1 ban hành kèm theo Nghị
định 87/2010/NĐ-CP.
- Thuế suất: Thuế suất đối với hàng hóa xuất khẩu được quy định cụ thể cho từng mặt hàng tại Biểu thuế
xuất khẩu.
- Hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn: Hỗ trợ đầu tư cơ sở chăn nuôi gia súc; hỗ trợ đầu
tư sản xuất sản phẩm trồng trọt.
- Hỗ trợ doanh nghiệp về lao động: Hỗ trợ doanh nghiệp tuyển dụng lao động; hỗ trợ doanh nghiệp kết nối
đào tạo lao động theo nhu cầu.
Chính sách tiền tệ:
- Thực hiện chính sách tiền tệ, linh hoạt gắn với chính sách tài khóa chặt chẽ theo chỉ đạo của Chính phủ
nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng hợp lý. Đẩy mạnh thực hiện ba trọng
tâm tái cơ cấu nền kinh tế (tái cơ cấu đầu tư công; tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng và tái cơ cấu
doanh nghiệp nhà nước).
- Năm 2019, hệ thống ngân hàng Lào Cai đã bám sát chủ trương, các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ
của NHNN Việt Nam, mục tiêu phát triển KT – XH của tỉnh. Các ngân hàng tập trung huy động vốn, đẩy
mạnh thực hiện tốt các hoạt động tín dụng thanh toán, ngoại hối, đảm bảo an toàn hiệu quả, chủ động đáp
ứng nhu cầu vốn cho các thành phần kinh tế, cho vay xóa đói giảm nghèo. Đồng thời, các ngân hàng cũng
đã phối hợp với các doanh nghiệp, khách hàng, đẩy mạnh chương trình kết nối ngân hàng – doanh nghiệp,
thực hiện nghiêm túc quy định về lãi suất nhất là lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên. Tăng cường
đầu tư cơ sở vật chất máy móc thiết bị, công nghệ, cung ứng các sản phẩm dịch vụ, tiện ích ngân hàng hiện
đại cho doanh nghiệp và khách hàng phát triển sản xuất kinh doanh, đảm bảo an sinh xã hội, phục vụ đắc lực
cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
- Tín dụng được kiểm soát chặt chẽ, tăng trưởng 9% so với năm 2018, trong đó vốn được phân bổ tập trung
vào các lĩnh vực kinh tế, đáp ứng kịp thời nhu cầu về vốn cho sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng, góp phần hạn
chế tín dụng đen trên địa bàn. Hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt tiếp tục chuyển biến tích cực, các
hình thức thanh toán hiện đại được áp dụng rộng rãi, số lượng và giá trị giao dịch tăng.
- Tổng nguồn vốn đến hết tháng 12/2019 đạt trên 48,3 nghìn tỷ đồng, tăng 8,68% so với 31/12/2018. Tổng
dư nợ đến 31/12/2019 đạt trên 45,9 nghìn tỷ đồng. Cơ cấu tín dụng tiếp tục có sự điều chỉnh tích cực theo
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh, tập trung vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên. Đến
hết 31/12/2019, tín dụng đối với lĩnh vực nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm 10,3% , dư nợ ngành công
nghiệp – xây dựng chiếm 43,6%, dư nợ ngành thương mại dịch vụ chiếm 46,1% tổng dư nợ. Chất lượng tín
dụng được đảm bảo, tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng thương mại là 1,05%. Các ngân hàng, quỹ tín dụng nhân
dân trên địa bàn tích cực tiến hành xử lý, thu hồi nợ xấu, theo đó đã xử lý được 155 tỷ đồng nợ xấu xác định
theo Nghị quyết 42.
- Trong năm 2019, công tác điều hòa tiền mặt, đảm bảo an toàn kho quỹ, quản lý kinh doanh ngoại hối,
thanh toán không dùng tiền mặt; công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát ngân hàng được tăng cường; công
tác an sinh xã hội được đẩy mạnh.
- Ngành ngân hàng đặt mục tiêu đến hết năm 2020, tổng nguồn vốn huy động của toàn hệ thống ngân hàng
đạt trên 53 nghìn tỷ đồng, tăng 10% so với 2019. Tỷ lệ nợ xấu dưới 2%.
Chính sách cơ cấu ngành:
- Về nông nghiệp:
+ Tính đến 15/10/2020, toàn tỉnh đã gieo cấy được 23.919 ha diện tích lúa mùa, tăng 1,63% so với cùng kỳ
năm 2019 (+383 ha). Hiện nay cây lúa mùa ở vùng cao đã cơ bản thu hoạch xong, vùng thấp trà sớm bắt đầu
thu hoạch, tính đến nay đã thu hoạch được 18.779,9 ha đạt 79,2% diện tích gieo trồng. Tuy nhiên, do thời
tiết diễn biến phức tạp, nắng mưa thất thường nên tình hình sâu bệnh hại trên lúa mùa xuất hiện, một số sâu
bệnh gây hại như: bệnh đạo ôn lá, đạo ôn cổ bông, bệnh khô vằn, sâu cuốn lá nhỏ, rầy nâu - rầy lưng trắng,...
vẫn xảy ra. Các cơ quan chức năng đã chỉ đạo cơ quan chuyên môn và địa phương hướng dẫn nhân dân phun
thuốc phòng trừ các diện tích đã nhiễm nên không có ảnh hưởng đến năng suất lúa.
+ Trong tháng tình hình chăn nuôi tương đối ổn định, không có dịch bệnh lớn xảy ra. Dự ước đàn trâu hiện
có là 122,107 nghìn con so với cùng kỳ năm trước giảm 3,88% (-4,924 nghìn con). Đàn bò dự ước 20,264
nghìn con so cùng kỳ năm trước tăng 1,46% (+292 con). Đàn lợn hiện có 324,438 nghìn con so với cùng kỳ
năm trước giảm 1,53% (-5,035 nghìn con). Đàn lợn giảm ở hầu hết các huyện, thành phố do ảnh hưởng của
dịch tả lợn Châu Phi, người dân không đầu tư vào chăn nuôi lợn. Đàn gia cầm ước tính 6.410 nghìn con so
với cùng kỳ năm trước tăng 45,02% (+1.990 nghìn con). Trong đó đàn gà ước tính là 5.750 nghìn con so
cùng kỳ năm trước tăng 44,54% (+1.772 nghìn con).
+ Đặc biệt, tại Lào Cai phong trào xây dựng nông thôn mới tiếp tục được nhân dân hưởng ứng tích cực, nổi
bật là phong trào làm đường giao thông nông thôn (GTNT), trong tháng toàn tỉnh đã thi công được trên 40
km đường GTNT.
- Về công nghiệp:
+ Do ảnh hưởng của dịch Covid-19 nên chỉ số sản xuất ngành công nghiệp tháng 10/2020 chỉ tăng 5,69% so
với cùng kỳ năm trước. Tính chung 10 tháng, chỉ số sản xuất ngành công nghiệp tăng 13,26%, trong đó công
nghiệp khai khoáng tăng 7,22%. Đến nay dịch bệnh được kiểm soát tốt, các lĩnh vực phát triển kinh tế đã
bước vào trạng thái hoạt động bình thường, tuy nhiên sản xuất công nghiệp 10 tháng mặc dù có tăng nhưng
vẫn tăng thấp hơn so với cùng kỳ năm trước.
+ Chỉ số sản xuất công nghiệp dự ước tháng 10/2020 tăng 5,69% so với tháng trước và tăng 9,04% so với
cùng kỳ năm trước. Trong đó: ngành sản xuất và phân phối điện tăng mạnh nhất với mức 18,2%; khai
khoáng tăng 1,09%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,31%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải
tăng 6,67%.
+ Tính chung 10 tháng năm 2020, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 13,26% so với cùng kỳ năm 2019, thấp
hơn mức tăng 19,27% của năm 2019 so với cùng kỳ.Chỉ số sản xuất công nghiệp 10 tháng năm 2020 tăng
thấp hơn mức tăng của năm 2019 so với cùng kỳ chủ yếu là do chỉ số sản xuất của ngành công nghiệp khai
khoáng tăng 7,22% (thấp hơn mức tăng của năm 2019 là 14,41%). Trong các ngành công nghiệp, ngành
khai khoáng tăng 7.22%, đóng góp 2,49% điểm phần trăm; ngành chế biến, chế tạo tăng 15,35% đóng góp
5,49 điểm phần trăm; ngành sản xuất, phân phối điện tăng 18,93%, đóng góp 5,18 điểm phần trăm; ngành
cung cấp nước và xử lý nước thải, rác thải tăng 5,72%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm vào mức tăng chung.
-Về thương mại, dịch vụ :
+ Tính chung 10 tháng năm 2020, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt
17.249,702 tỷ đồng, giảm 0,35% so với cùng kỳ năm trước. Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ
hàng hóa ước tính đạt 13.818,708 tỷ đồng, chiếm 80,11% tổng mức và tăng 3,82% so với cùng kỳ năm
trước, trong đó một số ngành hàng tăng cao: Lương thực, thực phẩm tăng 6,44%; may mặc tăng 10,57%; đồ
dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình tăng 7,04%; vật phẩm văn hóa, giáo dục tăng 25,82%; gỗ và vật liệu
xây dựng tăng 3%; ô tô các loại tăng 4,51%; phương tiện đi lại tăng 2,83; nhiên liệu khác tăng 2,25%; đá
quý, kim loại quý tăng 4,18%;...riêng xăng dầu các loại giảm 9,7%. Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước
tính đạt 1.815,291 tỷ đồng, chiếm 10,52% tổng mức và đạt 83,79% so với cùng kỳ năm trước, giảm ở cả
dịch vụ lưu trú và ăn uống. Lượt khách do cơ sở lưu trú phục vụ đạt 1.329,836 nghìn lượt khách, so với cùng
kỳ năm trước đạt 85,48% (-225,876 nghìn lượt khách), ngày khách phục vụ ước đạt 1.249,574 nghìn ngày
khách đạt 78,91% (-333,885 nghìn ngày khách).
3.2. Năng lực cạnh tranh vi mô.
3.2.1. Chất lượng môi trường kinh doanh.
Những năm gần đây, quy mô nhân lực của tỉnh Lào Cai có xu hướng gia tăng cả về số lượng và tỷ trọng
trong cơ cấu lực lượng lao động cả nước. Mặc dù tỷ trọng lao động so với cả nước là nhỏ, song đã có sự gia
tăng qua các năm. Bên cạnh đó, Lào Cai đang tiếp tục phấn đấu nâng cao chất lượng nguồn lao động. Giai
đoạn từ năm 2016 đến tháng 8/2019, toàn tỉnh Lào Cai đã đào tạo nghề cho hơn 56.600 lao động; trong đó
có gần 33.400 lao động dân tộc thiểu số (chiếm 59%), nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề của tỉnh từ
43,1% năm 2015 lên 51,68% năm 2019.
Về cơ chế, chính sách: ngoài các văn bản quy định của Trung ương, tỉnh Lào Cai có cơ chế, chính sách ưu
đãi đặc thù trong giai đoạn, phù hợp với điều kiện thực tế khi các doanh nghiệp, nhà đầu tư trong nước và
nước ngoài đến đầu tư kinh doanh, sản xuất trên địa bàn tỉnh như chính sách khuyến khích phát triển sản
xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh; chính sách khuyến khích phát triển kinh tế lâm nghiệp, phát triển rừng
sản xuất; chính sách khuyến công; chính sách ưu đãi đầu tư tại Khu Kinh tế cửa khẩu Lào Cai; Quy định
một số điểm thực hiện hoạt động đầu tư trên địa bàn tỉnh Lào Cai. Ngoài ra, trong các dự án, trường hợp cụ
thể, tỉnh cũng đã có những cơ chế phù hợp khác như ưu đãi về đất đai, tiền thuê đất, hỗ trợ kinh phí giải
phóng mặt bằng, san tạo mặt bằng, ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp... để hỗ trợ các nhà đầu tư triển
khai các dự án đầu tư đảm bảo tiến độ cam kết, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
Về cải cách thủ tục hành chính: Tiếp tục áp dụng có hiệu quả cơ chế một cửa, một cửa liên thông, gắn với
ứng dụng công nghệ thông tin; công khai các thủ tục hành chính, rà soát loại bỏ các thủ tục hành chính rườm
rà, gây phiền hà cho doanh nghiệp, người dân.
Về thiết lập các kênh đối thoại với doanh nghiệp, nhà đầu tư: Tỉnh đã thành lập Tổ tiếp nhận thông tin
và hỗ trợ doanh nghiệp về thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư trên địa bàn để tiếp nhận và tham mưu
giải quyết những vướng mắc, kiến nghị của cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp về các vấn đề liên quan đến
đầu tư, sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh nhằm tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư để thu hút nguồn lực
cho đầu tư, kinh doanh và du lịch trên địa bàn. Thường niên hàng năm tổ chức các cuộc gặp gỡ doanh
nghiệp để Tỉnh trao đổi, đối thoại trực tiếp với cộng đồng doanh nghiệp, nhà đầu tư.
Về thúc đẩy cải cách từ cơ sở: Xây dựng và công bố công khai Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp huyện,
thành phố (DCI) – là tỉnh đầu tiên và duy nhất của cả nước tiên phong thực hiện xếp hạng, đánh giá và công
bố chỉ số này. Qua các năm thí điểm triển khai, đã tạo tác động tích cực đến việc cải thiện, thúc đẩy năng lực
giải quyết các vấn đề liên quan đến doanh nghiệp tại cơ sở, nhất là lĩnh vực đền bù GPMB, thực hiện các thủ
tục hành chính …
Tại tỉnh Lào Cai hiện nay có 17 chi nhánh ngân hàng thương mại đang hoạt động. Hệ thống các ngân hàng
trên địa bàn đã hỗ trợ cho 355 khách hàng vay vốn bị ảnh hưởng của dịch Covid-19, với tổng dư nợ được hỗ
trợ là 1.816 tỷ đồng; trong đó, dư nợ được miễn giảm lãi vay là 794 tỷ đồng và 102 khách hàng được hưởng
hỗ trợ 842 triệu đồng. Có 128 khách hàng được ngân hàng giãn nợ, với tổng số tiền là 603 tỷ đồng; 125
khách hàng bị ảnh hưởng dịch Covid-19 được vay mới 419 tỷ đồng. Trong thời gian tới, hệ thống các ngân
hàng ở Lào Cai tiếp tục thực hiện các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, HTX, chủ hộ kinh doanh cá thể cơ cấu
lại thời hạn trả nợ; miễn giảm lãi vay, phí dịch vụ; chủ động tiết giảm chi phí hoạt động để có thêm nguồn
kinh phí hỗ trợ cho khách hàng, khắc phục khó khăn do dịch Covid-19 gây ra, ổn định và phát triển sản xuất,
kinh doanh ở địa phương.
3.2.2. Độ tinh thông trong hoạt động và chiến lược doanh nghiệp.
Ta có thể thấy Lào Cai có đầy đủ các loại hình doanh nghiệp nhưng chiếm số lượng lớn áp đảo là các doanh
nghiệp ngoài nhà nước với 96,96% cho thấy sự phát triển kinh tế đa dạng.
3.2.3. Trình độ phát triển cụm ngành.
3.2.3.1. Các yếu tố cấu thành cụm ngành
Các doanh nghiệp cung ứng chuyên biệt:
- Mô hình du lịch cộng đồng thực chất là lấy không gian sống và bản sắc văn hóa của đồng bào các dân tộc
thiểu số làm trung tâm để phát triển du lịch vốn đã xuất hiện từ khá lâu, nhưng chưa bao giờ nở rộ và được
hoạch định bài bản như hiện nay. Bản làng vùng cao giờ không còn heo hút, khách du lịch có thể đến đây,
ăn ở, sinh hoạt cùng với đồng bào, tìm hiểu phong tục tập quán, trải nghiệm những không gian sống hoàn
toàn mới mẻ. Trên 200 homestay tại khắp các địa bàn như Tả Phìn, Tả Van, Y Tý… giờ đã xuất hiện trong
các sách, tạp chí hướng dẫn du lịch, một phần hành trang không thể thiếu của mỗi du khách khi đến với Lào
Cai.
- Tại huyện Bảo Yên, với chủ trương phát triển du lịch, dịch vụ gắn với tạo cơ hội việc làm, giúp cho người
dân sở tại được hưởng lợi, địa phương này cũng đang tiến hành nhiều giải pháp phù hợp. Trong đó, cùng với
phát huy lợi thế của loại hình du lịch tâm linh, Bảo Yên tiến hành quy hoạch du lịch Nghĩa Đô gắn với bảo
tồn, quảng bá các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào, phục vụ phát triển du lịch cộng đồng. Ông
Dương Đức Huy, Bí thư Huyện ủy Bảo Yên cho biết: "Bên cạnh du lịch tâm linh, chúng tôi đang quảng bá,
ra nghị quyết về phát triển du lịch cộng đồng, trong đó trọng tâm là du lịch Nghĩa Đô. Với 34 nhà có thể đón
khách cộng với du lịch sinh thái quế, chúng tôi đang thu hút khách du lịch đến Bảo Yên và mang lại số thu
khá lớn, đáp ứng yêu cầu phát triển và giúp bà con chuyển đổi cơ cấu kinh tế".
- Du lịch nông nghiệp là điểm sáng mới. Thông qua các sản phẩm nông nghiệp, sản vật đặc thù địa phương,
như: Dệt thổ cẩm, chạm khắc bạc, mây tre đan, nấu rượu, hay mở rộng các vùng cây ăn loại quả ôn đới…
Những sản vật, làng nghề không những là địa chỉ lựa chọn thú vị trong hành trình tham quan, trải nghiệm
của khách du lịch, mà còn trở thành sản phẩm, mang lại thu nhập tốt cho người dân sở tại. Bởi vậy, trong
định hướng phát triển kinh tế, xã hội tại một số địa phương có lợi thế, du lịch nông nghiệp được xác định là
mũi nhọn.
=> Tuy nhiên những sản phẩm du lịch nông nghiệp cũng bộc lộ hạn chế, hầu hết các hoạt động du lịch nông
nghiệp của tỉnh vẫn mang tính tự phát, nhỏ lẻ, sản phẩm chưa thật sự hấp dẫn. Phần lớn sản phẩm mới chỉ
đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ ngơi, ăn uống, trải nghiệm của du khách ở mức đơn giản mà chưa tận
dụng được hết lợi thế để thu hút khách cũng như tăng khả năng chi tiêu từ khách qua khai thác các dịch vụ
bổ trợ khác. Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất phụ trợ tại nhiều điểm Du lịch nông nghiệp cũng
chưa được đầu tư hoàn chỉnh.
Hình 3. Sơ đồ cụm ngành du lịch tỉnh Lào Cai
3.2.3.2. Mô hình kim cương
Những điều kiện nhân tố đầu vào:
- Nguồn tài nguyên du lịch:
Lào Cai là tỉnh có nguồn tài nguyên du lịch phong phú, đa dạng, mang những nét đặc trưng độc đáo như: có
đỉnh Phan xi păng cao nhất Đông Dương; một số nơi khí hậu quanh năm mát mẻ như Bắc Hà, Sapa; có bãi
đá cổ huyền bí; có các di tích lịch sử được xếp hạng; có 25 dân tộc anh em cùng sinh sống với những nét văn
hóa đặc trưng từ chữ viết, trang phục, kiểu dáng nhà ở, văn hóa ẩm thực, tâm linh… Tỉnh Lào Cai có vai trò
là một trung tâm du lịch tiểu vùng miền núi tây Bắc và cũng là tỉnh biên giới cửa ngõ, tiếp giáp với tỉnh Vân
Nam– một tỉnh du lịch đầy tiềm năng của Trung Quốc, đây là một trong những điều kiện thuận lợi để Lào
Cai phát triển kinh tế du lịch. Từ những lợi thế về địa lý, tài nguyên du lịch đã giúp cho Lào Cai phát triển
nhiều loại hình du lịch như: Du lịch Văn hóa, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái, du lịch tham quan, du
lịch thể thao, du lịch nghiên cứu khoa học.
- Nguồn nhân lực:
Giai đoạn 2016 - 2020, Lào Cai đã phối hợp với các địa phương, các cơ sở đào tạo trong và ngoài tỉnh tổ
chức các hoạt động hướng nghiệp, đào tạo và bồi dưỡng mới, đào tạo lại hơn 4.000 lao động, nâng tổng số
lao động du lịch đã qua đào tạo lên hơn 14.000 người.
Thống kê của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai cho thấy: Năm 2018, từ du lịch, dịch vụ, Lào
Cai đã tạo việc làm cho trên 22.000 lao động, trong đó, gần 10.000 lao động có việc làm trực tiếp và gần
13.000 lao động gián tiếp. Đến năm 2019, con số này tăng lên khoảng trên 25.000 người.
- Cơ sở hạ tầng:
Bằng các nguồn vốn như chương trình mục tiêu quốc gia, vốn ODA (WB, ADB), vốn ngân sách Trung
ương, nhiều dự án giao thông quan trọng đã được triển khai tại Sa Pa như tuyến đường tránh Quốc lộ 4D,
nâng cấp Tỉnh lộ 152, tuyến đường Sa Pả - Tả Phìn - Bản Khoang… góp phần hoàn thiện hệ thống giao
thông trên địa bàn.
Hệ thống cơ sở hạ tầng, giao thông phục vụ du lịch tiếp tục được đầu tư, trọng tâm là các tuyến được thuộc
huyện Sa Pa, Bắc Hà, kết nối với đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai.
Những điều kiện về nhu cầu:
- Nhu cầu về du lịch tại Lào Cai ngày càng phát triển, số lượng khách du lịch đến Lào Cai, đặc biệt là ở
SaPa ngày càng tăng. Năm 2019, tổng lượng khách đến Lào Cai đạt 5,1 triệu lượt, tăng 20,3% so với năm
2018, doanh thu từ du lịch đạt hơn 19.203 tỷ đồng tăng 43% so với cùng kỳ, tăng gấp 30,1 lần so với năm
2008 (434 tỷ đồng). Tổng thu từ khách du lịch tăng do số lượng khách du lịch đến Lào Cai tăng đồng thời
mức chi tiêu bình quân cũng như số ngày lưu trú bình quân của khách tăng qua các năm. Tốc độ tăng trưởng
bình quân của ngành du lịch trong giai đoạn 2006-2015 đạt gần 35%, giai đoạn 2015-2019 là 26,7 %. Mức
chi tiêu bình quân của khách du lịch đến Lào Cai năm 2019 là: 1.503.000 đồng; Số ngày lưu trú bình quân
2,1 ngày. Kết quả đó có đóng góp không nhỏ của việc ứng dụng công nghệ thông tin, phát triển hệ thống du
lịch thông minh.
- Năm 2018, bộ 3 sản phẩm du lịch thông minh, gồm Cổng thông tin du lịch thông minh, Ứng dụng du lịch
trên thiết bị thông minh (App) và Phần mềm quản lý lưu trú trực tuyến đã chính thức được đưa vào sử dụng.
- “Lao Cai tourism”, “Sapa tourism” là 2 ứng dụng du lịch thông minh kết nối du khách - doanh nghiệp -
chính quyền được phát triển trên nền tảng di động Android và IOS bằng ngôn ngữ tiếng Anh và tiếng Việt
giúp du khách tìm kiếm thông tin, đặt phòng, tour trực tuyến, trải nghiệm du lịch qua các công nghệ hiện
đại. Hiện tại, ứng dụng đã có hàng nghìn đơn vị liên kết, hàng chục nghìn lượt tải, sử dụng. Ứng dụng du
lịch thông minh này được nhiều du khách đánh giá cao trong bối cảnh công nghệ thông tin ngày càng phát
triển. Anh Đỗ Lực, du khách đến từ Hà Nội cho biết: Trước khi đi du lịch tại Lào Cai, vợ chồng tôi đã lên
mạng internet tham khảo và rất bất ngờ khi Lào Cai có ứng dụng du lịch “Lao Cai tourism” trên nền tảng di
động. Sau khi tải về điện thoại, tôi có thể tham khảo thông tin các địa điểm tham quan để lên kế hoạch cho
lộ trình của mình. Ngoài ra, ứng dụng cũng giúp đặt tour, phòng nghỉ rất tiện lợi. Tuy nhiên, tốc độ phản hồi
của ứng dụng còn chậm, tôi hy vọng Lào Cai tiếp tục hoàn thiện ứng dụng này để giúp du khách có trải
nghiệm hoàn hảo hơn.
Phân tích bối cảnh cho chiến lược cạnh tranh ngành du lịch:
- Nguồn vốn đầu tư cho du lịch:
Giai đoạn 2017 – 2020, tỉnh Lào cai đã kêu gọi, thu hút đầu tư vào 42 dự án với tổng số vốn khoảng trên 43
nghìn tỷ đồng. Nhiều cơ sở vật chất, kỹ thuật chất lượng cao phục vụ du lịch được đầu tư và đưa vào khai
thác đã tác động mẽ đến việc hoàn thành vượt mức mục tiêu đề án phát triển du lịch của Đảng bộ tỉnh đề ra.
Lào Cai cũng là địa phương đứng đầu khu vực Tây Bắc về lượng khách và doanh thu du lịch trong 3 tháng
đầu năm 2019.
Về định hướng đầu tư giai đoạn tới, Lào Cai sẽ tiếp tục ưu tiên thu hút các dự án phát triển tại các địa
phương có nhiều tiềm năng, thế mạnh, là trọng điểm du lịch của tỉnh như: Sapa, Bắc Hà, Bát Xát, thành phố
Lào Cai. Tập trung ưu tiên, thu hút phát triển hạ tầng cấp thiết để xây dựng Sapa xứng với vị thế khu du lịch
quốc gia, hướng tới tầm cỡ quốc tế.
- Tổng quan PCI:
- Vị trí của Lào Cai so với cả nước năm 2019
+ Năm 2019 chỉ số năng lực cạnh tranh của tỉnh Lào Cai là 65,56 xếp thứ 25 trên cả nước giảm 13 bậc so
với năm 2018.
+ Trong 10 chỉ số thành phần chỉ có 4 chỉ số là tăng điểm so với năm 2018 là : Tiếp cận đất đai tăng 1,12;
Tính minh bạch tăng 1,04; Tính năng động tăng 0,36; Đào tạo lao động tăng 0,89. Và 6 chỉ số giảm đó là
Gia nhập thị trường giảm 0,77; Chi phí thời gian giảm 1,59; Chi phí không chính thức giảm 0,65; Cạnh tranh
bình đẳng giảm 0,27; Dịch vụ hỗ trợ Doanh nghiệp giảm 0,48; Thiết chế pháp lý giảm 1,49.Do đó, để có thể
tăng thứ hạng PCI năm 2020 vào nhóm rất tốt hoặc trở lại nhóm tốt, Lào Cai cần có các giải pháp cải thiện
tổng điểm PCI đạt ở mức trên 70 điểm. Trong đó, cần khắc phục để tăng điểm mạnh ở 06 chỉ số đã bị giảm
điểm năm 2019 (so với 2018) và duy trì mức tăng điểm của 04 chỉ số còn lại. Đặc biệt, cần quan tâm cải
thiện triệt để đối với các chỉ số “Gia nhập thị trường”, “Chi phí thời gian”, “Đào tạo lao động” và “Thiết chế
pháp lý và an ninh trật tự”.
Vị trí của Lào Cai với các tỉnh Miền núi phía Bắc.
Năm 2018 PCI của Lào Cai là 64,63 xếp thứ nhất so với các tỉnh Miền núi phía Bắc. Đến năm 2019 PCI của
Lào Cai (65,56%) xuống vị trí thứ hai đứng sau Thái Nguyên( 67,71%).
Các ngành công nghiệp phụ trợ có liên quan.
Tính đến năm 2017, trên địa bàn tỉnh Lào Cai có là 773 cơ sở lưu trú du lịch với trên 11.500 buồng, trong đó
có 01 khách sạn 5 sao, 05 khách sạn 4 sao, 09 khách sạn 3 sao, 48 khách sạn 2 sao, 120 khách sạn 1 sao, 535
nhà nghỉ du lịch và 189 Homestay, công xuất sử dụng phòng bình quân đạt khoảng 65% đã góp phần nâng
cao năng lực đón tiếp khách du lịch lưu trú của địa phương.
Sự ra đời của các khách sạn cao cấp thời gian qua đã cho thấy sự tăng trưởng của dịch vụ lưu trú trong lĩnh
vực du lịch, đáp ứng ngày càng tốt hơn chất lượng phục vụ khách du lịch đến tham quan lưu trú, nghỉ dưỡng
tại Lào Cai.Hoạt động kinh doanh cơ sở lưu trú đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển du lịch Lào Cai
bởi đây là điều tạo ấn tượng tốt đẹp ban đầu đối với du khách, một trong những cơ sở quan trọng quyết định
sự thành công của chuyến đi. Do đó, việc quan tâm nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng, chất lượng dịch vụ
của các cơ sở lưu trú là yếu tố cần thiết để nâng cao hiệu quả kinh tế, đáp ứng nhu cầu của du khách, đồng
thời góp phần quảng bá, giới thiệu với du khách về tiềm năng du lịch, nét đẹp văn hoá truyền thống của con
người và mảnh đất Lào Cai.
3.2.3.3. Lợi thế phát triển cụm ngành
Các chính sách hỗ trợ phát triển du lịch của tỉnh Lào Cai
Ngành văn hóa - thể thao và du lịch tỉnh Lào Cai đã đưa ra nhiều giải pháp nhằm phát huy hơn nữa tiềm
năng lợi thế du lịch. Theo đó tỉnh tăng cường năng lực quản lý du lịch cho các điểm du lịch trọng điểm như
Sa Pa, Bắc Hà và từng bước xây dựng năng lực quản lý tại các điểm du lịch ở Bát Xát, Simacai, Y Tý; đẩy
mạnh phát triển du lịch cộng đồng; phát huy tối ưu lợi thế về vị trí địa lý, đa dạng hóa các loại sản phẩm tour
để mở rộng thị trường trong nước và quốc tế... Lào Cai có cơ chế chính sách thu hút đầu tư theo 3 nội dung:
Hạ tầng - sản phẩm - cơ sở lưu trú và dịch vụ.
Để hỗ trợ các tổ chức, cá nhân thực hiện những chương trình, dự án phát triển du lịch; khai thác tiềm năng,
thế mạnh về phát triển du lịch tỉnh Lào Cai phù hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Lào Cai
giai đoạn 2015 - 2020, tầm nhìn 2030, UBND tỉnh Lào Cai vừa quyết định thành lập Quỹ Hỗ trợ phát triển
du lịch tỉnh Lào Cai. Quỹ Hỗ trợ phát triển du lịch tỉnh có nhiệm vụ tiếp nhận và quản lý tài sản được tài trợ,
viện trợ theo ủy quyền từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để tạo nguồn vốn của quỹ. Nguồn vốn
của quỹ sẽ sử dụng để hỗ trợ, tài trợ cho các đối tượng, chương trình, dự án phục vụ phát triển du lịch phù
hợp với tôn chỉ, mục đích của quỹ; tổ chức xét chọn và thẩm định dự án, dự toán kinh phí thực hiện các
nhiệm vụ xúc tiến du lịch để cho vay. Đến nay, đã vận động nguồn tài trợ Quỹ phát triển du lịch với tổng số
tiền hơn 8,3 tỷ đồng.
Vốn đầu tư cho ngành du lịch
Tỉnh đã chú trọng trong công tác đầu tư phát triển du lịch bằng cách thu hút các nhà đầu tư, tiếp nhận các dự
án tài trợ nước ngoài. Số vốn đầu tư vào lĩnh vực lưu trú, nhà hàng trên địa bàn tỉnh trong giai đoạn 2006-
2010 đạt trên 10.000 tỷ đồng, giai đoạn 2010-2015 đạt 10.415 tỷ đồng. Giai đoạn 2010-2015 đã thu hút trên
20 dự án đầu tư quy mô lớn vào hệ thống khách sạn, khu nghỉ dưỡng cao cấp của các tập đoàn, tổng công ty
lớn đầu tư vào Lào Cai. Trong đó điển hình nhất là dự án xây dựng cáp treo Fansipan với vốn đầu tư là
4.400 tỉ đồng của tập đoàn Sun Group.
Trong vòng 3 năm 2016-2019, tỉnh đã thu hút được trên 30 dự án đầu tư quy mô lớn vào hệ thống khách sạn,
khu nghỉ dưỡng cao cấp của các tập đoàn, tổng công ty lớn đầu tư vào Lào Cai, với tổng nguồn vốn thu hút
đầu tư toàn xã hội về du lịch đạt gần 30.000 tỷ đồng. Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch ngày càng đáp
ứng nhu cầu của khách du lịch. Hệ thống các cơ sở kinh doanh lưu trú trên địa bàn tỉnh tăng cả về quy mô và
chất lượng. Cùng với đó là hệ thống nhà hàng, các sơ sở vui chơi giải trí, trung tâm thương mại... được đầu
tư phục vụ nhu cầu đa dạng của khách du lịch.
Ngành dịch vụ nói chung hỗ trợ cho ngành du lịch phát triển, góp phần đẩy mạnh sự phát triển cụm
ngành du lịch ở Lào Cai
Nhiều dự án Khu du lịch nghỉ dưỡng, Khu du lịch sinh thái, Du lịch cộng đồng, Khu dịch vụ vui chơi giải trí
hiện đại đã và đang chuẩn bị đi vào hoạt động, góp phần nâng số lượng các cơ sở lưu trú, du lịch nghỉ dưỡng
trên địa bàn tỉnh tăng gấp đôi so với năm 2015 (1.300 cơ sở): Khu vui chơi giải trí cáp treo Fansipan; Khu
sinh thái Topas; các khách sạn tiêu chuẩn 5 sao (Acord, Silk Path, Pao’s Sa Pa). Các dự án đang triển khai
như: Công viên văn hóa Sa Pa, Khu vui chơi giải trí Bản Qua (Bát Xát), Khu du lịch Đồi con gái (Sa
Pa),... Hệ thống nhà hàng, cơ sở phục vụ ăn uống…tại các khu, điểm du lịch trên địa bàn tỉnh cũng được
hình thành, phát triển tương đối mạnh mẽ, đa dạng. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu
dùng tăng (bảng 3) song song với tổng doanh thu từ du lịch ( đạt gần 20 tỷ đồng năm 2019) cho thấy đây là
một trong những nguyên nhân góp phần thúc đẩy phát triển du lịch tại tỉnh Lào Cai.
3.3. Phân tích năng lực cạnh tranh của cụm ngành du lịch Lào Cai – Ninh Bình
Và mới đây Sở Du lịch tỉnh Ninh Bình chủ trì, phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai
tổ chức hội nghị quảng bá, xúc tiến du lịch Ninh Bình tại thành phố Lào Cai.
+ Lợi thế của Ninh Bình là sản phẩm du lịch rất đa dạng, đặc biệt về cảnh quan hang động, du lịch văn hóa
lịch sử với nhiều khu di tích cấp quốc gia, các lễ hội, làng nghề, ẩm thực đặc sắc. Là tỉnh du lịch trọng điểm,
Ninh Bình nằm trong vùng tứ giác du lịch của miền Bắc, với những điểm đến nổi tiếng như: Tam Cốc-Bích
Động, Tràng An-Di sản Văn hóa và Thiên nhiên thế giới, Cố đô Hoa Lư, Nhà thờ đá Phát Diệm, chùa Bái
Đính…Đặc biệt, Ninh Bình đã phát triển nhiều sản phẩm du lịch mới hấp dẫn, tạo điều kiện thu hút ngày
càng nhiều du khách trong và ngoài nước đến thăm quan, chiêm bái.
+ Lợi thế của Lào Cai là: phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ, bản sắc văn hóa các dân tộc, phong tục tập quán,
tri thức bản địa phong phú của đồng bào các dân tộc, những danh lam thắng cảnh nổi tiếng như Fansipan
nóc nhà Đông Dương, Sa Pa, cao nguyên trắng Bắc Hà, mùa vàng Y Tý…
-> Tạo liên kết phát triển du lịch Lào Cai-Ninh Bình, nhằm kết nối, xúc tiến quảng bá, thành lập các đoàn
Famtrip và xây dựng các sản phẩm du lịch mới, điểm đến mới… để khai thác tiềm năng, thế mạnh du lịch
của các địa phương.
3.3.1. Những điều kiện nhân tố đầu vào
Nguồn tài nguyên du lịch:
Ninh Bình: có 1.499 di tích lịch sử văn hóa, trong đó có 79 di tích được xếp hạng cấp quốc gia, 235 di tích
xếp hạng cấp tỉnh, điển hình như đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng ở xã Gia Phương, động Hoa Lư, đền thờ
Trương Hán Siêu, đền thờ Nguyễn Công Trứ, chùa Địch Lộng, chùa Non Nước, phòng tuyến Tam Điệp -
Biện Sơn...... những khu du lịch của Ninh Bình hầu hết có sự kết hợp giữa tài nguyên thiên nhiên và tài
nguyên nhân văn như: Cố đô Hoa Lư, Tam Cốc Bích Động, rừng Cúc Phương, nhà thờ đá Phát Diệm... Đây
là đặc điểm thuận lợi cho việc hình thành những khu du lịch trọng điểm, có sức hấp dẫn thu hút du khách
trong và ngoài nước.
Lào Cai: Lào Cai là tỉnh có nguồn tài nguyên du lịch phong phú, đa dạng, mang những nét đặc trưng độc
đáo như: có đỉnh Phan xi păng cao nhất Đông Dương; một số nơi khí hậu quanh năm mát mẻ như Bắc Hà,
Sapa; có bãi đá cổ huyền bí; có các di tích lịch sử được xếp hạng; có 25 dân tộc anh em cùng sinh sống với
những nét văn hóa đặc trưng từ chữ viết, trang phục, kiểu dáng nhà ở, văn hóa ẩm thực, tâm linh… Tỉnh Lào
Cai có vai trò là một trung tâm du lịch tiểu vùng miền núi tây Bắc và cũng là tỉnh biên giới cửa ngõ, tiếp
giáp với tỉnh Vân Nam– một tỉnh du lịch đầy tiềm năng của Trung Quốc, đây là một trong những điều kiện
thuận lợi để Lào Cai phát triển kinh tế du lịch. Từ những lợi thế về địa lý, tài nguyên du lịch đã giúp cho Lào
Cai phát triển nhiều loại hình du lịch như: Du lịch Văn hóa, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái, du lịch
tham quan, du lịch thể thao, du lịch nghiên cứu khoa học.
Nguồn nhân lực:
Ninh Bình: là một tỉnh giàu tiềm năng du lịch và đang là điểm sáng về phát triển du lịch trong thời gian gần
đây. Song song với việc mở rộng quy mô, lượng khách du lịch tăng, một trong những hướng phát triển du
lịch của Ninh Bình trong thời gian tới là nâng cao chất lượng du lịch, hướng đến việc nâng cao giá trị sản
phẩm du lịch. Để làm được điều này việc phát triển nguồn nhân lực du lịch, trong đó phải kể đến đào tạo,
bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch tại chỗ là một trong những điều kiện không thể thiếu: 400 học viên là
người chèo đò, bán hàng… làm dịch vụ tại Khu du lịch sinh thái Tràng An được bồi dưỡng nâng cao “Năng
lực kinh doanh du lịch cộng đồng dân cư”.
Ninh Bình đang nằm trong tốp 5 các địa phương hấp dẫn nhiều khách du lịch nhất tại Việt Nam. Đến hết
tháng 10-2019, trên địa bàn Ninh Bình có 420 doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh lưu trú (với 5.713 phòng
nghỉ), 18 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành, 10 tổ chức doanh nghiệp quản lý các khu, điểm du lịch và hàng
trăm cá nhân, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ ăn uống…, thu hút, tạo việc làm khoảng 18 nghìn nhân lực
trực tiếp và gián tiếp. Sự tăng trưởng nhanh của du lịch đòi hỏi ngành du lịch Ninh Bình phải có sự chuẩn bị
về mặt nhân lực, nhất là trong những năm gần đây.
Hiện tại, ngày càng có nhiều doanh nghiệp áp dụng mô hình quản trị nguồn nhân lực tiên tiến, làm tốt các
khâu tuyển chọn, đào tạo bồi dưỡng, sử dụng nguồn nhân lực. Có thể kể đến lớp bồi dưỡng nâng cao kiến
thức du lịch cộng đồng cho 150 học viên là người chụp ảnh, lái xe điện, hướng dẫn viên khu du lịch tâm linh
núi chùa Bái Đính; lớp kỹ năng ứng xử, văn minh du lịch cho 150 người chèo đò, bán hàng tại xã Gia Vân;
lớp bồi dưỡng nâng cao năng lực kinh doanh du lịch cộng đồng dân cư cho 400 học viên là người chèo đò,
bán hàng… làm dịch vụ tại Khu du lịch sinh thái Tràng An; lớp bồi dưỡng Nghiệp vụ quản lý cơ sở lưu trú
du lịch cho 120 học viên của các cơ sở lưu trú trên địa bàn; lớp nâng cao năng lực quản lý nhà nước cho gần
100 học viên là chuyên viên Phòng Văn hóa, Thông tin huyện, thành phố, các doanh nghiệp du lịch, cán bộ
quản lý tại khu, điểm du lịch trên địa bàn toàn tỉnh; lớp tập huấn nghiệp vụ cho 30 thuyết minh viên…
Lào Cai: Giai đoạn 2016 - 2020, Lào Cai đã phối hợp với các địa phương, các cơ sở đào tạo trong và ngoài
tỉnh tổ chức các hoạt động hướng nghiệp, đào tạo và bồi dưỡng mới, đào tạo lại hơn 4.000 lao động, nâng
tổng số lao động du lịch đã qua đào tạo lên hơn 14.000 người.
Thống kê của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai cho thấy: Năm 2018, từ du lịch, dịch vụ, Lào
Cai đã tạo việc làm cho trên 22.000 lao động, trong đó , gần
10.000 lao động có việc làm trực tiếp và gần 13.000 lao động gián tiếp. Đến năm 2019, con số này tăng lên
khoảng trên 25.000 người.
Cơ sở hạ tầng:
Ninh Bình: Để phát huy tiềm năng thế mạnh về du lịch, thời gian qua tỉnh đã tập trung đầu tư kinh phí, nâng
cấp hạ tầng du lịch, nhờ vậy cơ sở hạ tầng phục vụ các hoạt động du lịch của tỉnh từng bước đồng bộ, hệ
thống giao thông kết nối các tuyến, điểm du lịch được hoàn thiện và thường xuyên được bảo trì, nâng cấp
tạo điều kiện thuận lợi phục vụ khách du lịch nhất là ở các khu du lịch trọng điểm như: Khu du lịch Tam
Cốc - Bích Động, Khu du lịch sinh thái Tràng An, Khu di tích lịch sử văn hóa Cố đô Hoa Lư, Khu du lịch
tâm linh chùa Bái Đính, Khu du lịch sinh thái Vân Long... Những năm gần đây không còn xảy ra tình trạng
tắc nghẽn lâu vào mùa cao điểm, các phương tiện tham gia vận chuyển khách (thuyền và xe điện) đã được
tăng cường cả về số lượng và chất lượng, thực hiện việc chuyên chở khách theo đúng quy định, đảm bảo an
toàn.
Tỉnh đã khuyến khích các nhà đầu tư, đầu tư bằng nguồn vốn ngoài ngân sách vào lĩnh vực dịch vụ du lịch
và cấp giấy chứng nhận đầu tư cho 36 dự án đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, với tổng mức đầu tư
16.212 tỷ đồng, trong đó có nhiều dự án đi vào hoạt động phục vụ khách du lịch có hiệu quả, tiêu biểu như:
Emeralda resort, khách sạn Ninh Bình Legend, Hoàng Sơn Peace, The Reed, Hidden Charm, Bái Đính;…
các cơ sở dịch vụ vui chơi giải trí, mua sắm như: Sân golf Hoàng Gia, Sân golf Tràng An, siêu thị Big C..;
nhiều khu, điểm du lịch đã hoàn thiện đi vào hoạt động thu hút một lượng khách đến Ninh Bình như: KDL
sinh thái Tràng An, KDL tâm linh chùa Bái Đính…
Bên cạnh đó tỉnh cũng quan tâm phát triển sản phẩm du lịch Ninh Bình đang nỗ lực đầu tư phát triển du lịch
theo hướng đa dạng hóa gắn với nâng cao chất lượng các sản phẩm du lịch. Đến nay, một số loại hình du
lịch đã khai thác và phát triển như: du lịch tham quan danh lam thắng cảnh, du lịch sinh thái, du lịch văn hóa
tâm linh, du lịch nghỉ dưỡng, thể thao...
Lào Cai: Bằng các nguồn vốn như chương trình mục tiêu quốc gia, vốn ODA (WB, ADB), vốn ngân sách
Trung ương, nhiều dự án giao thông quan trọng đã được triển khai tại Sa Pa như tuyến đường tránh Quốc lộ
4D, nâng cấp Tỉnh lộ 152, tuyến đường Sa Pả - Tả Phìn - Bản Khoang… góp phần hoàn thiện hệ thống giao
thông trên địa bàn.
Hệ thống cơ sở hạ tầng, giao thông phục vụ du lịch tiếp tục được đầu tư, trọng tâm là các tuyến được thuộc
huyện Sa Pa, Bắc Hà, kết nối với đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai.
3.3.2. Những điều kiện về nhu cầu
Ninh Bình: Khách du lịch đến Ninh Bình tăng nhanh, giai đoạn 2010 - 2019 tăng trưởng bình quân về lượt
khách là 11%/năm, doanh thu tăng 23,6%/năm. Năm 2018, toàn tỉnh đón gần 7,4 triệu lượt khách, trong đó
khách nội địa là 6,5 triệu lượt khách, khách quốc tế là 876.000 lượt khách. Doanh thu du lịch đạt trên 3.200
tỷ đồng. Năm 2019, toàn tỉnh ước đón 7.650.000 lượt khách tham quan, tăng 3,4% so với năm 2018; Trong
đó: khách quốc tế ước 910.000 lượt khách, tăng 3,8% so với năm 2018; Doanh thu ước đạt 3.600 tỷ đồng,
tăng 12,5% so với cùng kỳ năm 2018.
Lào Cai: Nhu cầu về du lịch tại Lào Cai ngày càng phát triển, số lượng khách du lịch đến Lào Cai, đặc biệt
là ở SaPa ngày càng tăng. Năm 2019, tổng lượng khách đến Lào Cai đạt 5,1 triệu lượt, tăng 20,3% so với
năm 2018, doanh thu từ du lịch đạt hơn 19.203 tỷ đồng tăng 43% so với cùng kỳ.
Tổng thu từ khách du lịch tăng do số lượng khách du lịch đến Lào Cai tăng đồng thời mức chi tiêu bình quân
cũng như số ngày lưu trú bình quân của khách tăng qua các năm. Tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành
du lịch trong giai đoạn 2006-2015 đạt gần 35%, giai đoạn 2015-2019 là 26,7 %. Mức chi tiêu bình quân của
khách du lịch đến Lào Cai năm 2019 là: 1.503.000 đồng; Số ngày lưu trú bình quân 2,1 ngày. Kết quả đó có
đóng góp không nhỏ của việc ứng dụng công nghệ thông tin, phát triển hệ thống du lịch thông minh.
Năm 2018, bộ 3 sản phẩm du lịch thông minh, gồm Cổng thông tin du lịch thông minh, Ứng dụng du lịch
trên thiết bị thông minh (App) và Phần mềm quản lý lưu trú trực tuyến đã chính thức được đưa vào sử dụng.
3.3.3. Bối cảnh cho chiến lược cạnh tranh
Đa phần các doanh nghiệp kinh doanh du lịch tại hai tỉnh có quy mô nhỏ và trung bình, cung cấp những sản
phẩm và dịch vụ du lịch giống nhau, do đó, việc các doanh nghiệp này thu hút khách hàng thông qua cạnh
tranh về giá là điều tất yếu. Doanh nghiệp du lịch trên địa bàn tỉnh hiện nay hoạt động hết sức rời rạc, chưa
có sự gắn kết, hỗ trợ lẫn nhau. Do đó, cần phải tìm ra điểm chung, cần có tiếng nói chung để cùng thúc đẩy
phát triển. Bên cạnh đó, cần xem lại tình trạng hoạt động lữ hành tự do như hiện nay.
Vốn đầu tư cho du lịch: Trong 5 năm, toàn tỉnh Ninh Bình đã thu hút 33 dự án của các tổ chức, cá nhân đầu
tư vào lĩnh vực du lịch với số vốn đăng ký trên 12.568 tỷ đồng. Bên cạnh đó, giai đoạn 2017 – 2020, tỉnh
Lào cai đã kêu gọi, thu hút đầu tư vào 42 dự án với tổng số vốn khoảng trên 43 nghìn tỷ đồng.
Tổng quan PCI:
+ Năm 2019 chỉ số năng lực cạnh tranh của tỉnh Lào Cai là 65,56 xếp thứ 25 trên cả nước giảm 13 bậc so
với năm 2018. Năm 2018 PCI của Lào Cai là 64,63 xếp thứ nhất so với các tỉnh Miền núi phía Bắc. Đến
năm 2019 PCI của Lào Cai (65,56%) xuống vị trí thứ hai đứng sau Thái Nguyên( 67,71%).
+ Năm 2019 chỉ số năng lực cạnh tranh của tỉnh Ninh Bình xếp thứ 39 trên cả nước giảm 10 bậc so với năm
2018.
3.3.4. Các ngành hỗ trợ liên quan
Dịch vụ lưu trú, lữ hành: Tính đến năm 2017, trên địa bàn tỉnh Lào Cai có là 773 cơ sở lưu trú du lịch với
trên 11.500 buồng, trong đó có 01 khách sạn 5 sao, 05 khách sạn 4 sao, 09 khách sạn 3 sao, 48 khách sạn 2
sao, 120 khách sạn 1 sao, 535 nhà nghỉ du lịch và 189 Homestay, công xuất sử dụng phòng bình quân đạt
khoảng 65% đã góp phần nâng cao năng lực đón tiếp khách du lịch lưu trú của địa phương. Đến nay, Ninh
Bình có trên 400 cơ sở lưu trú nhà hàng, khách sạn phục vụ du lịch, trong đó có 41 khách sạn từ 1-2 sao, 4
khách sạn từ 3-4 sao đã được công nhận, phần lớn các khách sạn có quy mô từ 20 phòng trở lên và đều có
dịch vụ ăn uống. Nhìn chung, để đáp ứng nhu cầu của du khách, các cơ sở kinh doanh lưu trú, dịch vụ ăn
uống không ngừng đổi mới về cơ sở vật chất, cũng như trang thiết bị hiện đại và đồng bộ.
Dịch vụ vui chơi, giải trí, mua sắm quà lưu niệm: Lào Cai và Ninh Bình đều có rất nhiều cảnh đẹp, văn
hóa đặc trưng bên cạnh đó cũng không ít điểm để vui chơi, giải trí. Như con phố giải trí, mua sắm “gây sốt”
tại thành phố Lào Cai. Đây không chỉ là một khu đô thị thể thao tầm cỡ với thiết kế tân cổ điển sang trọng,
FLC Olympia Lao Cai còn được định vị để trở thành nơi vui chơi, giải trí mua sắm hàng đầu tại thành phố
Lào Cai. Ngoài ra, còn có chợ Du lịch Lào Cai - tổ hợp chợ kết hợp trung tâm thương mại và vui chơi, giải
trí quy mô lớn tại khu vực biên giới miền núi phía Bắc. Tuy nhiên dù nổi tiếng với nhiều làng nghề truyền
thống với đa dạng các loại sản phẩm, nhưng những mặt hàng lưu niệm và quà tặng vẫn còn đơn điệu, chưa
hình thành được các sản phẩm đặc trưng của từng địa phương để quảng bá sản phẩm du lịch cho du khách.
Các sự kiện, lễ hội: Hai địa phương là trung tâm của các lễ hội được tổ chức đan xen hàng năm. Ninh Bình
cũng là tỉnh có nhiều tiềm năng. Theo thống kê, cả tỉnh có 74 lễ hội truyền thống và nhiều hội làng mang
đậm yếu tố dân gian, đậm đà văn hóa vùng đất châu thổ sông Hồng. Những lễ hội lớn như lễ hội chùa Bái
Đình, lễ hội Trường Yên,.. Về Lào Cai có khoảng 20 lễ hội, trong đó có nhiều lễ hội truyền thống đặc sắc,
hấp dẫn khách du lịch như: Lễ hội bảo vệ rừng của dân tộc Nùng, Lễ hội “Gặt Tu Tu” của dân tộc Hà Nhì tại
Y Tý (Bát Xát), Hội cốm của dân tộc Tày (Bảo Yên) Lễ tết “Nhảy” của người Dao đỏ ở Tả Phìn,.. festival
tại Sa Pa, Bắc Hà và các khu vực khác.
Phương tiện vận tải: Hệ thống vận tải (đường bộ, đường thủy, đường sắt và hàng không) cơ bản đáp ứng
nhu cầu du khách và khá đa dạng.
Phương tiện truyền thông: Bên cạnh các phương tiện truyền thông quen thuộc như báo, tạp chí, ấn phẩm du
lịch, tivi… hay tổ chức hội chợ, xúc tiến du lịch, các địa phương cũng bắt đầu ứng dụng công nghệ trong
truyền thông, quảng bá qua các ứng dụng, trang web, các trang mạng xã hội. Bên cạnh đó còn xuất bản các
ấn phẩm giới thiệu, quảng bá du lịch.
3.3.5 Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cụm ngành du lịch Lào Cai – Ninh Bình
Để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành du lịch Lào Cai - Ninh Bình trong thời gian tới, cần đẩy mạnh
thực hiện những giải pháp trọng tâm sau:
Tiếp tục phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, hạ tầng dịch vụ du lịch, đặc biệt là các cơ sở lưu trú, cơ sở
vui chơi giải trí, trung tâm tổ chức sự kiện, trung tâm mua sắm. Phát triển các khu nghỉ dưỡng cao cấp, có
thương hiệu và sức cạnh tranh quốc tế tại các khu du lịch trọng điểm. Phát triển các loại hình lưu trú đa dạng
từ khu nghỉ dưỡng đẳng cấp, khách sạn hạng sao, nhà nghỉ du lịch, biệt thự du lịch, căn hộ du lịch,
homestay,… đáp ứng nhu cầu của từng đối tượng khách. Khuyến khích phát triển các cơ sở lưu trú, công
trình du lịch gần gũi thiên nhiên, thân thiện môi trường.
Tích cực tạo lập môi trường du lịch an toàn, thân thiện, văn minh: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng
cao ý thức của cộng đồng dân cư tại các khu, điểm du lịch, xây dựng môi trường du lịch văn minh, thâm
thiện, hiếu khách. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về du lịch, kiểm soát tốt an ninh trật tự tại
các khu, điểm du lịch, phòng ngừa các loại hình tội phạm lừa đảo, cướp giật, chèo kéo, cò mồi, đảm bảo an
toàn về tài sản, sức khỏe và tính mạng cho khách du lịch.
Phát triển nguồn nhân lực du lịch cả về chất và lượng: Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo tại
các cơ sở đào tạo về du lịch phù hợp với nhu cầu tuyển dụng và sử dụng lao động ngành du lịch trong thời
kỳ mới. Tăng cường phối hợp liên ngành, liên cấp, liên quốc gia (hợp tác quốc tế) về đào tạo du lịch, phối
hợp chặt chẽ với doanh nghiệp du lịch và các cơ quan, tổ chức du lịch, đảm bảo người học sau khi tốt nghiệp
có thể sử dụng ngay mà không phải đào tạo lại. Tăng cường công tác tập huấn, bồi dưỡng nâng cao trình độ
chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ, tin học cho người lao động ngành du lịch.
Xúc tiến quảng bá du lịch: Với hệ thống cơ sở hạ tầng du lịch đồng bộ, sản phẩm chất lượng cao, đa dạng,
có thương hiệu, mang bản sắc văn hóa dân tộc thì giải pháp nâng cao hiệu quả xúc tiến và quảng du lịch sẽ
là một trong những giải pháp quan trọng góp phần không nhỏ vào việc thực hiện thắng lợi những mục tiêu
đã đề ra. Thực hiện triển khai các hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại,
có trọng tâm, trọng điểm, đảm bảo chất lượng hiệu quả, khẳng định thương hiệu và khả năng cạnh tranh;
Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch hướng tới cả thị trường nội địa và thị trường quốc tế; Phát
huy sức mạnh tổng hợp của các cơ quan, đơn vị, địa phương, doanh nghiệp trong và ngoài ngành Du lịch;
Kết hợp chặt chẽ các hoạt động tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch với các hoạt động giao lưu văn hoá,
tôn tạo giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường.
Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách liên quan đến kiểm soát giá, bình ổn giá, có chế tài xử phạt
nghiêm minh đối với các trường hợp tăng giá, ép giá, phá giá đối với sản phẩm và dịch vụ du lịch, nhất là tại
các khu du lịch trọng điểm. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh doanh du
lịch, loại bỏ hình thức kinh doanh “tour giá rẻ”, tour “0 đồng” và các loại hình kinh doanh “trá hình”, bất
hợp pháp, đảm bảo môi trường kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng theo pháp luật.
HÒA BÌNH
CHƯƠNG 3: NĂNG LỰC CẠNH TRANH KINH TẾ VI MÔ
3.1. Các nhân tố đầu vào
Hoà Bình đã và đang thu hút được nhiều tập đoàn lớn về nghiên cứu đầu tư như: Tập đoàn FLC nghiên cứu
đầu tư KDL nghỉ dưỡng, một số khu đô thị sinh thái, thể thao và vui chơi giải trí; Tập đoàn Xuân Thành
nghiên cứu đầu tư dự án Nhà máy sản xuất thiết bị điện năng lượng mặt trời, Dự án nhà máy sản xuất xi
măng, sản xuất vôi và bột nhẹ; Tập đoàn Thái Bình Dương đầu tư Dự án KDL sinh thái, tâm linh Hòa Bình;
Dự án Tuyến cáp treo Hương Bình; Tập đoàn Vingroup đầu tư dự án Trung tâm Vincom và nhà mặt phố
thương mại Shophouse; Tập đoàn HanBek-Hàn Quốc nghiên cứu đầu tư vào KDL quốc gia Hồ Hòa Bình;
Tập đoàn Meiko Nhật Bản nghiên cứu đầu tư Dự án Nhà máy sản xuất linh kiện điện tử...;
Hòa Bình sẽ tập trung huy động mọi nguồn lực để đầu tư vào các lĩnh vực mà tỉnh có tiềm năng và lợi thế
như: đầu tư phát triển các loại hình du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch thể thao, chơi golf, du lịch
hội nghị - hội thảo, du lịch văn hóa - di tích lịch sử...
3.2. Nguồn nhân lực
Trung bình hàng năm có trên 14.000 người được đào tạo nghề, tỉ lệ lao động qua đào tạo đến năm 2020 ước
đạt 56% (có bằng cấp, chứng chỉ đạt 22,64%).
Theo đánh giá của UBND tỉnh, tỉ lệ lao động trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp hiện cao hơn mức bình
quân chung của cả nước, tỉ lệ lao động qua đào tạo, có tay nghề cao ít. Nguyên nhân chủ yếu do công tác
đào tạo nhân lực còn nhiều khó khăn, hình thức đào tạo chủ yếu là sơ cấp, trung cấp nghề. Trên địa bàn tỉnh
có 5 trung tâm đào tạo nhân lực lớn, tuy nhiên, tính đến thời điểm này, nhiều trường CĐ gặp khó trong công
tác tuyển sinh, liên kết đào tạo. Cụ thể, trường CĐ Sư phạm Hòa Bình, 5 năm trở lại đây chỉ tiêu tuyển sinh
chỉ đạt dưới 50%. Đối với trường CĐ Nghề, CĐ Kinh tế - Kỹ thuật, hình thức đào tạo chủ yếu là liên kết và
đào tạo hệ trung cấp nghề.
Báo cáo của Ban Quản lý các KCN tỉnh cho thấy, tính đến thời điểm này, các DN tại 5 KCN trên địa bàn
tỉnh đã tạo việc làm cho hơn 19 nghìn lao động. Trong đó, trình độ đại học trở lên có 1.064 lao động, trình
độ CĐ 1.083 lao động, trình độ trung cấp 1.218 lao động, dạy nghề thường xuyên hơn 2.000 lao động, còn
lại hơn 11 nghìn lao động phổ thông.
Trong khi nguồn nhân lực đào tạo tại chỗ chưa đáp ứng được yêu cầu thì công tác thu hút, đãi ngộ tài năng
chưa thực sự hấp dẫn nguồn nhân lực chất lượng cao. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến nhân
lực chất lượng cao tại tỉnh đã hiếm lại còn bị "chảy máu", do người lao động không mặn mà cống hiến cho
quê hương.
3.3. Bối cảnh cho chiến lược và cạnh tranh
Với quyết tâm đổi mới, tạo đột phá trong phát triển kinh tế, những năm qua, UBND tỉnh Hòa Bình đặc biệt
coi trọng chỉ đạo, điều hành thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao
năng lực cạnh tranh cấp tỉnh.
Hằng năm, lãnh đạo tỉnh tổ chức gặp mặt DN, hợp tác xã nhân dịp đầu xuân và tổ chức Hội nghị đối thoại
với DN, nhà đầu tư trên địa bàn. Đồng thời, Tỉnh ủy, UBND tỉnh, lãnh đạo các sở, ban, ngành, UBND các
huyện, thành phố tổ chức nhiều cuộc làm việc với các DN, nhà đầu tư để lắng nghe, giải quyết khó khăn,
vướng mắc trong sản xuất, kinh doanh; chấn chỉnh hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước nhằm kịp
thời giải quyết các thủ tục về đầu tư, kinh doanh, tạo sự đồng thuận với DN trên tinh thần hỗ trợ DN phát
triển.
Tỉnh đã thành lập, đưa vào hoạt động Trung tâm Phục vụ hành chính công, Trung tâm xúc tiến đầu tư,
thương mại và du lịch. Hiện đại hóa nền hành chính, triển khai thực hiện xây dựng chính quyền điện tử. Xây
dựng và đưa vào hoạt động phần mềm theo dõi, giám sát các cơ quan chuyên môn thực hiện công việc được
giao. Hằng tháng, quý, năm tổ chức kiểm điểm kết quả thực hiện, làm cơ sở đánh giá mức độ hoàn thành
nhiệm vụ.
UBND tỉnh yêu cầu người đứng đầu các sở, ngành, UBND các huyện, thành phố và các cơ quan, đơn vị
được giao từng chỉ số thành phần trong Chỉ số nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) chịu trách nhiệm
trước UBND tỉnh về các chỉ tiêu, nhiệm vụ được giao. Nâng cao nhận thức và tạo sự vào cuộc tích cực, chủ
động của cả hệ thống chính trị, từng bộ phận, đơn vị trực thuộc và cán bộ, công chức, viên chức về cải thiện
môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh.
Với quyết tâm chính trị cao, kết quả thu hút đầu tư, phát triển DN của tỉnh đã đạt được kết quả quan trọng.
Trong 5 năm qua đã thu hút được 284 dự án đầu tư, trong đó có 17 dự án FDI với tổng vốn đăng ký khoảng
47.965 tỉ đồng (vốn đầu tư trong nước khoảng 41.624 tỉ đồng, vốn FDI khoảng 275,7 triệu USD). Có 2.100
DN đăng ký thành lập mới với số vốn đăng ký khoảng 30.000 tỉ đồng và 290 hợp tác xã thành lập mới. Đến
năm 2020, số lượng DN, hợp tác xã tăng gấp 2 lần so với năm 2015, đạt 3.800 DN và 360 hợp tác xã. Đặc
biệt là từ những nỗ lực trong công tác chỉ đạo, điều hành, những năm gần đây, chỉ số PCI của tỉnh liên tục
tăng điểm. Năm 2019 đạt 63,84 điểm, tăng 2,11 điểm so với năm 2018, xếp thứ 48/63 tỉnh, thành phố. Đây
là năm có điểm số cao nhất từ trước đến nay và lần đầu tiên tỉnh ta được xếp vào nhóm điều hành khá.
Kết quả đạt được rất đáng ghi nhận, xong phải thẳng thắn đánh giá, tỉnh Hòa Bình chưa thu hút được dự án
lớn có năng lực sản xuất, khả năng cạnh tranh và hàm lượng giá trị gia tăng cao, tạo bước đột phá cho phát
triển kinh tế. Công tác quy hoạch nhìn chung chưa đồng bộ, thiếu sự phối hợp giữa các ngành, thiếu tầm
nhìn chiến lược, nhất là quy hoạch ngành, lĩnh vực còn chồng chéo, chưa sát với yêu cầu của nhà đầu tư.
Tỉnh thiếu đất sạch để thu hút các dự án đầu tư…
Nhằm tạo sự đột phá trong cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh,
thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh, bền vững, tỉnh Hòa Bình đang nhanh chóng hoàn thiện các thủ tục thẩm
định, phê duyệt Quy hoạch chung xây dựng KDL quốc gia hồ Hòa Bình đến năm 2035; điều chỉnh quy
hoạch chung xây dựng hai bên đường Hòa Lạc – thành phố Hòa Bình. Chỉ đạo UBND thành phố Hòa Bình
triển khai thực hiện lập quy hoạch chung xây dựng thành phố. UBND các huyện chú trọng rà soát quy hoạch
chung xây dựng thị trấn, trong trường hợp cần thiết thực hiện điều chỉnh cho phù hợp với tình hình phát
triển kinh tế - xã hội của huyện. Chỉ đạo các ngành chức năng nghiên cứu lập Kế hoạch sử dụng đất giai
đoạn 2021-2025 cấp tỉnh, Quy hoạch sử dụng đất thời kỳ 2021-2030 và Kế hoạch sử dụng đất năm đầu cấp
huyện. Quan tâm tạo quỹ đất sạch ngoài khu công nghiệp, cụm công nghiệp để mời gọi các nhà đầu tư đến
với tỉnh. Tích cực, chủ động hơn nữa trong cải cách thủ tục hành chính tinh gọn, minh bạch. Nâng cao ý
thức, trách nhiệm phục vụ của đội ngũ cán bộ, công chức; xử lý nghiêm cán bộ có hành vi nhũng nhiễu, gây
phiền hà cho DN… Tất cả hướng tới mục tiêu chung vì sự phát triển của tỉnh, đưa Hòa Bình trở thành điểm
đến tin cậy của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.
3.4. Các yếu tố điều kiện cần
- Hướng tới môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch và bình đẳng.
- Đồng hành giải quyết vướng mắc của nhà đầu tư.
- Cần tháo gỡ những "nút thắt”:
+ Điểm số gia nhập thị trường chưa được đánh giá cao và đang có xu hướng giảm điểm.
+ DN tiếp cận đất đai vẫn gặp nhiều khó khăn, thời gian giải phóng được mặt bằng, hoàn thành thủ tục đất
đai còn quá dài; thủ tục bổ sung dự án vào quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất mất nhiều thời gian. Nguyên
nhân một phần do cơ chế tự thỏa thuận, bồi thường đối với các dự án SX-KD. Nhiều dự án chỉ còn một phần
đất rất nhỏ chưa giải phóng được và thiếu sự quan tâm, hỗ trợ của chính quyền địa phương dẫn đến phải điều
chỉnh giảm diện tích, ảnh hưởng đến cơ hội đầu tư.
+Hạ tầng kỹ thuật thiếu đồng bộ, nhiều nơi không có mạng lưới giao thông, mạng lưới điện.
+ Tỉ lệ lao động qua đào tạo thấp, chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu. Tính chấp hành kỉ luật lao động
của người lao động chưa cao.
- Cần sự vào cuộc tích cực, đồng bộ của cả hệ thống chính trị.
- Ưu tiên nguồn lực cho đào tạo nghề để nâng cao chất lượng lao động.
- DN mong muốn tiếp cận gần hơn với nguồn vốn ngân hàng.
- Cần có cơ chế phù hợp, tạo thuận lợi về mặt bằng cho các DN.
CHƯƠNG 4: LỢI THẾ CẠNH TRANH ĐÔ THỊ
4.1. Thương số vị trí năm 2019
Lao động ngành du lịch (bao gồm trực tiếp và gián tiếp) của Hòa Bình là 3120 lao động chiếm 0.55% tổng
số lao động toàn tỉnh; lao động ngành du lịch cả nước là 2.5 triệu người chiếm 4.5% tổng số lao động cả
nước.
LQ Ngành du lịch Hòa Bình = 0.55%/4.5% = 0.122
Ngành du lịch tỉnh Hòa Bình có mức độ tập trung lao động bằng khoản 0.122 lần, thấp hơn so với bình quân
cả nước.
Lao động ngành nông lâm ngư nghiệp của tỉnh Hòa Bình là 340.480 lao động chiếm 60.8% tổng số lao động
toàn tỉnh; lao động nông lâm ngư nghiệp chiếm 34.7% tổng số lao động cả nước.
LQ Ngành nông lâm ngư nghiệp Hòa Bình = 60.8%/34.7% = 1.75
Ngành nông lâm ngư nghiệp của Hòa Bình có mức độ tập trung lao động bằng cao gấp 1.75 lần so với bình
quân cả nước.
4.2. Phân tích năng lực cạnh tranh cụm ngành du lịch Hồ Hòa Bình theo mô hình kim cương
4.2.1. Các điều kiện nhân tố đầu vào
4.2.1.1. Nguồn tài nguyên du lịch
Hồ Hòa Bình là hồ nhân tạo lớn nhất Đông Nam Á. Hồ có chiều dài 70km, trải rộng trên địa bàn 17 xã thuộc
5 huyện, thành phố. Trong khu vực lòng hồ có 47 đảo lớn, nhỏ, trong đó có 11 đảo đá vôi với diện tích 116
ha và 36 đảo núi đất, diện tích gần 160 ha. Hồ Hòa Bình là sự kết hợp hoàn mĩ của thiên nhiên, hoang sơ mà
say đắm. Lòng hồ có nhiều đảo nhỏ, có tiềm năng, lợi thế phát triển các loại hình du lịch như du lịch văn hóa
lịch sử, sinh thái, tâm linh…
Trước khi đến với KDL Hồ Hòa Bình, du khách đến tham quan Nhà máy thủy điện Hòa Bình, một công
trình thế kỉ được khởi công xây dựng từ năm 1979 và hoàn thành vào năm 1994, với 8 tổ máy có công suất
1.920MW. Đây là công trình công nghiệp quan trọng và cũng là điểm tham quan du lịch hấp dẫn. Tại đây,
du khách được vào hầm tham quan các tổ máy, nhà truyền thống - nơi lưu giữ bức thư thế kỉ của những
người đi trước gửi thế hệ sau; chiêm ngưỡng hình ảnh vĩ đại của đập tràn; dâng hương tượng đài Bác Hồ cao
18m trên đồi ông Tượng và ngắm nhìn toàn cảnh thành phố Hòa Bình từ trên cao rất ấn tượng.
Hiện nay, nhiều đảo trong khu vực lòng Hồ Hòa Bình đã được đầu tư xây dựng thành các KDL sinh thái hấp
dẫn như: đảo Dừa, đảo Xanh, nhà nghỉ Cối Xay Gió... Trong đó, đảo Dừa là điểm đến đang thu hút đông đảo
du khách bởi sự độc đáo của những ngôi nhà sàn lớn xây dựng theo kiến trúc cổ truyền người Mường phân
bố theo các khu vực khác nhau được dùng làm chỗ nghỉ, chỗ ăn khi khách có yêu cầu. Xung quanh đảo, gần
sát mép hồ còn có những ngôi nhà sàn nhỏ gọn nằm quay mặt ra phía hồ được dựng để dành riêng cho khách
du lịch đi nghỉ theo gia đình.
Bên cạnh phong cảnh thiên nhiên hữu tình, thơ mộng, khu vực hồ có nền văn hóa đặc sắc của đồng bào các
dân tộc: Mường, Tày, Dao, Thái. Hồ Hòa Bình có những chốn tâm linh nổi tiếng như: đền Bờ, đền Cô, đền
Cậu, bia Vua Lê... có giá trị văn hóa - tâm linh sâu sắc, trở thành điểm đến hành hương cho du khách xa gần.
Hồ Hòa Bình có vị trí địa lý đặc biệt, nằm trong vùng du lịch trung tâm phía Bắc của đất nước, liền kề với
Thủ đô Hà Nội và các tỉnh lân cận. Đây là điều kiện thuận lợi thu hút khách du lịch, khách công vụ, đặc biệt
là khách nghỉ cuối tuần từ Hà Nội và các tỉnh lân cận đến thăm quan, nghỉ dưỡng.
Bên cạnh các khu, điểm tham quan du lịch như: đền Thác Bờ (Cao Phong - Đà Bắc), động Bờ (Tân Lạc),
đảo Dừa, đền Đôi Cô (Đà Bắc), đảo Xanh (Cao Phong), các điểm du lịch cộng đồng xóm Ké, xóm Đức
Phong (Đà Bắc), xóm Ngòi (Tân Lạc)..., trong KDL hồ Hòa Bình còn có một số khu, điểm du lịch sinh thái
mới như: Mai Chau Hideaway, KDL sinh thái BaKhan (Mai Châu), Sun Legend - Ecolodge (Đà Bắc). Ngoài
ra, các sản phẩm du lịch hấp dẫn khác như khu công viên nước tại xóm Ngòi, xã Suối Hoa, với trên 130 trò
chơi như mô tô nước, thuyền cao tốc chất lượng cao, thu hút nhiều du khách. Tỉnh cũng đã mở tuyến du lịch
đi bộ, đạp xe dọc hai bờ sông Đà, xây dựng chương trình nghỉ dưỡng cuối tuần trên KDL, chương trình trải
nghiệm trên hồ Hòa Bình.
Tuy nhiên, việc xây dựng các cơ sở lưu trú và vui chơi giải trí xung quanh hồ bế tắc là do tính chất đặc thù
của hồ thuỷ điện và đầu nguồn nước, lại vướng quy hoạch sử dụng đất rừng phòng hộ và mặt nước.
4.2.1.2. Cơ sở hạ tầng
Hạ tầng giao thông chưa phát triển đã ảnh hưởng không nhỏ đến KDL hồ Hòa Bình, trong đó có tuyến
đường giao thông từ Hà Nội và Quốc lộ 6 từ Sơn La về Hòa Bình khá khó khăn. Tiếp đến là tỉnh lộ 435 từ
thành phố Hoà Bình đi dọc theo lòng hồ từ Bình Thanh đến Ngòi Hoa cũng nhỏ hẹp nên đi lại không thuận
tiện.
Về phương tiện di chuyển và cơ sở lưu trú, KDL hồ Hòa Bình có trên 200 phương tiện tàu thuyền vận
chuyển khách du lịch, 107 cơ sở lưu trú (14 khách sạn, 32 nhà nghỉ, 61 nhà nghỉ cộng đồng).
Tỉnh cũng đã mở tuyến du lịch đi bộ, đạp xe dọc hai bờ sông Đà thuộc KDL hồ Hòa Bình, xây dựng chương
trình nghỉ dưỡng cuối tuần, chương trình trải nghiệm trên hồ Hòa Bình hướng TP Hòa Bình đi Đà Bắc, trọng
tâm vào các sản phẩm du lịch tại xã Nánh Nghê.
Hỗ trợ thực hiện cải tạo các điểm phục vụ sinh hoạt cộng đồng, tuyến đường vào các xóm, điểm thăm quan,
hỗ trợ xây dựng các đội văn nghệ dân tộc, trang thiết bị cho các điểm du lịch cộng đồng...
4.2.1.3. Lao động
Với nguồn lao động dồi dào, giá rẻ cơ bản đáp ứng được nhu cầu trong ngành du lịch nhưng nguồn nhân lực
của KDL quốc gia Hồ Hòa Bình hiện tại chủ yếu là lao động phổ thông, chưa qua đào tạo do đó sẽ thiếu hụt
nghiêm trọng đội ngũ cán bộ quản lý du lịch và lao động được đào tạo chuyên ngành, điều này ảnh hưởng
không nhỏ đến chất lượng du lịch.
4.2.2. Các điều kiện cầu
Lượng khách du lịch đến với KDL hồ Hòa Bình nói riêng và tỉnh Hòa Bình nói chung được đánh giá cao
trong top 10 cả nước. Năm 2019, KDL hồ Hòa Bình đón 550.000 lượt khách, chiếm khoảng 17,7% tổng lượt
khách toàn tỉnh, trong đó có 26.000 lượt khách quốc tế. Tổng thu từ hoạt động du lịch đạt khoảng 160 tỉ
đồng, chiếm 7,7% tổng thu từ hoạt động du lịch toàn tỉnh. 8 tháng năm 2020, mặc dù chịu ảnh hưởng của
tình hình dịch Covid-19, nhưng du lịch vùng hồ vẫn là địa chỉ hấp dẫn, điểm đến của du khách trong, ngoài
nước.
Thời gian lưu trú của khách du lịch không cải thiện nhiều từ năm 2010 – 2015 chỉ tăng từ 1,5 – 2 ngày. Điều
này có nghĩa là khách chỉ dừng chân trong khoảng thời gian ngắn hoặc chỉ ghé qua chứ không thích lưu lại
lâu. Có thể hiểu sức hút du lịch vẫn còn hạn chế và các dịch vụ đi kèm như ẩm thực, mua sắm, vui chơi giải
trí về đêm, ..vẫn chưa đáp ứng thỏa mức kỳ vọng của khách du lịch, hay sự phát triển của các dịch vụ chưa
tương xứng với tiềm năng của ngành.
Với nhu cầu đi du lịch của du khách khá lớn và đa dạng, chủ yếu tập trung tại những điểm du lịch nổi tiếng
như SaPa, Hà Giang, Huế, Đà Nẵng, Hội An,... KDL hồ Hòa Bình vẫn chưa phải là địa điểm du lịch được ưa
thích, đây là một trong những thách thức đối với du lịch tại Hòa Bình khi thu hút khách du lịch.
4.2.3. Bối cảnh cho chiến lược và cạnh tranh
4.2.3.1. Vốn đầu tư cho du lịch
Tỉnh có các cơ chế, chính sách hỗ trợ, thu hút đầu tư phát triển du lịch, ưu đãi về thuế thu nhập DN, thuế
xuất nhập khẩu, tiền thuê đất trong thời gian thực hiện dự án. Đến nay, KDL hồ Hòa Bình có 16 dự án đầu
tư dịch vụ, văn hóa, du lịch được cấp phép, hoặc cấp giấy chứng nhận đầu tư, tổng diện tích sử dụng đất
khoảng 1.444 ha, tổng nguồn vốn từ nhà đầu tư khoảng 3.303,9 tỉ đồng. Thu hút 11 dự án đầu tư phát triển
du lịch, tổng diện tích sử dụng đất khoảng 757 ha, tổng nguồn vốn đầu tư khoảng trên 3.200 tỉ đồng. Các dự
án có mục tiêu đầu tư đáp ứng nhu cầu dịch vụ du lịch, nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí, kết hợp trồng rừng, bảo
vệ rừng, bảo tồn văn hóa các dân tộc, du lịch tâm linh…
Quan tâm đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất, kỹ thuật, góp phần khai thác hiệu quả các tiềm
năng, lợi thế KDL, tỉnh đã thực hiện các dự án nâng cấp tuyến đường tỉnh 435 đi qua các xã: Bình Thanh,
Thung Nai (Cao Phong), Suối Hoa (Tân Lạc), với tổng mức đầu tư 746 tỉ đồng, tổng chiều dài 24,8 km, đạt
tiêu chuẩn đường cấp III - miền núi; làm đường giao thông trục chính của đảo Sung, xã Tiền Phong (Đà
Bắc) dài 2,25km, tổng mức đầu tư 18 tỉ đồng; đầu tư hỗ trợ thực hiện cải tạo sân phục vụ sinh hoạt cộng
đồng tại xóm Ké, xã Hiền Lương (Đà Bắc), cải tạo tuyến đường liên xóm Ngòi, đường vào thăm quan động
Hoa Tiên, xóm Ngòi, xã Suối Hoa (Tân Lạc), tổng mức đầu tư trên 3 tỉ đồng.
Tuy vậy, chưa có nhà đầu tư chiến lược trong lĩnh vực du lịch tại KDL hồ Hòa Bình.
4.2.3.2. Bối cảnh cạnh tranh của cụm ngành du lịch địa phương
Đa phần các DN kinh doanh du lịch tại KDL hồ Hòa Bình có quy mô nhỏ và trung bình, cung cấp những sản
phẩm và dịch vụ du lịch tượng tự so với các DN khác, do đó, việc các DN này thu hút khách hàng thông qua
cạnh tranh về giá là điều tất yếu.
Các công ty lữ hành tại Hòa Bình có quy mô nhỏ, chủ yếu cạnh tranh tour du lịch giá thấp, một vài công ty
hoạt động không theo đúng quy định của pháp luật.
4.2.3.3. Tình hình hợp tác, liên kết của các DN kinh doanh du lịch
Dù cạnh tranh vẫn còn quyết liệt, nhưng gần đây các DN bắt đầu liên kết lại để cùng hỗ trợ, phát triển hoạt
động kinh doanh tạo những sản phẩm du lịch đa dạng, chất lượng, thu hút du khách trong và ngoài nước.
Công ty Cổ phần Du lịch Hòa Bình với đầu tư đưa vào vận hành hai du thuyền 3 sao cao cấp phục vụ du lịch
lòng hồ; đầu tư KDL cộng đồng bản Ngòi, đã hoàn thiện, đi vào hoạt động với 7 nhà sàn đạt chuẩn để đón
khách trong nước và quốc tế; đang triển khai dự án tổ hợp khách sạn 5 sao tại đảo Sung.
Công ty Cổ phần đầu tư Lạc Hồng triển khai dự án du lịch sinh thái hồ Hòa Bình tại xóm Liếm với tổng mức
đầu tư khoảng 800 tỉ đồng. Dự án đang triển khai giải phóng mặt bằng, dự kiến sẽ xây dựng hệ thống khách
sạn, biệt thự cung cấp sản phẩm du lịch có chất lượng trên hồ Hòa Bình.
Tỉnh đã quyết định chủ trương đầu tư cho Công ty Hoàng Sơn triển khai dự án KDL sinh thái Ngòi Hoa với
mức đầu tư khoảng 474 tỉ đồng… Nhiều DN đã quan tâm khảo sát dự kiến đầu tư vào lĩnh vực du lịch tại
các khu vực khác trên hồ Hòa Bình.
Công ty Đại Doanh khảo sát đầu tư tại xã Ngòi Hoa và Hiền Lương, trong đó đề nghị tỉnh chấp thuận cho
nghiên cứu khảo sát, lập hồ sơ quyết định chủ trương đầu tư dự án trồng rừng kết hợp với du lịch sinh thái
và nghỉ dưỡng tại xã Hiền Lương.
Công ty HanBek đang khảo sát nghiên cứu dự án phức hợp nghỉ dưỡng gồm hệ thống cáp treo và các công
trình vui chơi giải trí tại xã Thái Thịnh và phường Thái Bình, thành phố Hòa Bình.
Phạm vi hợp tác không chỉ trong khu vực KDL hồ Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình mà còn mở rộng với các địa
phương lân cận. Tuy nhiên các hình thức liên kết này chưa thật sự hiệu quả, còn mang tính tự phát, không
tập trung.
4.2.4. Các ngành hỗ trợ liên quan
4.2.4.1. Dịch vụ lữ hành
Phối hợp thực hiện khảo sát, đánh giá xây dựng các tuyến, điểm du lịch nhằm nghiên cứu, tạo ra các sản
phẩm du lịch hấp dẫn giới thiệu với các công ty lữ hành. Hướng dẫn một số hộ dân xóm Tháu, phường Thái
Bình đề xuất làm du lịch cộng đồng để phát triển kinh tế hộ gia đình. Tổ chức mời các đơn vị lữ hành, phóng
viên báo chí đến trải nghiệm, giới thiệu và quảng bá sản phẩm du lịch Hòa Bình.
Theo thống kê của Sở GTVT, hiện có 269 phương tiện thủy nội địa thường xuyên hoạt động vận chuyển
hành khách trên địa bàn lòng hồ Hòa Bình (trong đó có 33 phương tiện vừa chở hàng vừa chở khách). Riêng
tại bến Thung Nai với 3 tổ tàu, thuyền hiện có 169 phương tiện chở khách.
Quy mô hoạt động của các đơn vị lữ hành còn nhỏ, chất lượng cung cấp còn nhiều hạn chế vì thế nên chất
lượng dịch vụ không được đánh giá cao.
Tỉnh đang tiến hành khảo sát xây dựng sản phẩm để kết nối tuyến du lịch đường thủy liên hồ trên sông Đà từ
Hòa Bình đi Sơn La, Điện Biên, Lai Châu. Tổ chức đoàn cán bộ quản lý Nhà nước cấp huyện, các xã vùng
hồ đi học tập phát triển sản phẩm du lịch. Tạo điều kiện thúc đẩy phát triển tuyến du lịch đường thủy từ cảng
du lịch Tuần Châu (Quảng Ninh) lên Hòa Bình. Xây dựng tuyến phố đi bộ, các tuyến phố ẩm thực, vui chơi
giải trí đêm trên khu vực bờ sông Đà, TP Hòa Bình gắn với tổ chức các sự kiện văn hóa nghệ thuật đường
phố, nghệ thuật dân gian, ẩm thực thu hút khách du lịch.
4.2.4.2. Dịch vụ vui chơi giải trí, mua sắm, quà lưu niệm
Với công viên nước bơm hơi lớn nhất Việt Nam mới được khai trương đi vào hoạt động từ tháng 5/2017,
bao gồm 34 cụm trò chơi kết cấu phao nổi trên mặt nước, du khách sẽ được trải nghiệm các môn thể thao
dưới nước như: Mô tô nước, thuyền bơm hơi, ca nô, thuyền Kayak, bè mảng, chèo thuyền tôm, câu cá,…
đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí cho mọi lứa tuổi.
Xóm Ngòi sẽ được khám phá, tìm hiểu đời sống văn hóa của người Mường trong những nếp nhà sàn với
những phong tục, tập quán cổ xưa vẫn được lưu giữ, cùng với những tiếng chuông, điệu múa sênh tiền, lời
hát dân ca Mường, diễn xướng Mo Mường,… Bên cạnh đó, du khách còn có thể tham gia chèo thuyền tôm,
câu cá, đánh bắt thủy sản tại lòng hồ Hòa Bình, những hoạt động trải nghiệm thú vị này chắc chắn cũng sẽ
để lại ấn tượng khó quên trong lòng mỗi du khách.
Bên cạnh đó, mặc dù hồ Hòa Bình tập trung nhiều bản sắc dân tộc, mang ý nghĩa truyền thống văn hóa
nhưng các sản phẩm lưu niệm chưa thật sự nổi bật, chỉ dừng lại một vài sản phẩm đơn điệu như quần áo, túi
làm từ thổ cẩm; chuông gió bằng tre nứa, … không bật được nét đặc trưng của hồ Hòa Bình.
4.2.4.3. Lễ hội và ẩm thực
Lễ hội Đền Bờ được tổ chức mỗi năm một lần, diễn ra từ mùng 7 tháng giêng và kéo dài đến hết tháng 3 âm
lịch hàng năm. Đây là lễ hội lớn không phải riêng của người Mường Hòa Bình mà còn có sự tham gia của
nhiều dân tộc anh em trong và ngoài tỉnh, hàng năm thu hút hàng trăm nghìn lượt khách tới thăm quan và
làm lễ.
Là 1 trong 5 địa phương thuộc KDL hồ Hòa Bình, huyện Đà Bắc cũng có nhiều nỗ lực trong triển khai các
chương trình quảng bá, xúc tiến du lịch về KDL hồ Hòa Bình. Cụ thể, hàng năm, tổ chức Lễ hội mừng Xuân
mới của đồng bào Dao để bảo tồn văn hóa dân tộc vùng cao. Gần đây nhất vào dịp cuối năm 2019 đã tổ chức
hội nghị xúc tiến đầu tư du lịch và nông nghiệp tại Điểm du lịch sinh thái Đảo Dừa nhằm thu hút các nhà
đầu tư, kinh doanh và thu hút đông đảo khách du lịch.
Về ẩm thực, trải nghiệm du lịch lòng Hồ Hoà Bình không chỉ là khám phá thiên nhiên mà còn cả khám phá
nền văn hoá ẩm thực bản địa. Tại đây, du khách sẽ được thưởng thức những món ăn độc đáo, xanh – sạch,
được chế biến từ người dân nơi đây, như là: cá chao, cỗ lá, xôi ngũ sắc, lợn bản địa, gà nấu măng chua,...
Hiện nay Hòa Bình đang mở rộng, phát triển các loại hình dịch vụ ẩm thực, món ăn truyền thống dân tộc,
khôi phục phiên chợ vùng cao trên hồ để thu hút khách du lịch. Xây dựng tuyến phố đi bộ, các tuyến phố ẩm
thực, vui chơi giải trí đêm trên khu vực bờ sông Đà, TP Hòa Bình gắn với tổ chức các sự kiện văn hóa nghệ
thuật đường phố, nghệ thuật dân gian, ẩm thực thu hút khách du lịch.
4.2.4.4. Phương tiện, hoạt động thúc đẩy truyền thông
Công tác tuyên truyền quảng bá, xúc tiến đầu tư phát triển du lịch tại địa phương chưa thực sự hiệu quả. Vì
thế trong thời gian gần đây, ngành du lịch Hòa Bình đã chú trọng và có nhiều nỗ lực trong công tác xúc tiến,
quảng bá du lịch như tổ chức các buổi hội thảo, làm việc nhằm tuyên truyền các chính sách của tỉnh, khuyến
khích các tổ chức cá nhân đầu tư vào lĩnh vực du lịch. Ngành du lịch cũng đã tham gia nhiều hội chợ, triển
lãm, liên hoan du lịch trong nước, qua đó tuyên truyền những tiềm năng, thế mạnh và cơ chế chính sách đầu
tư của tỉnh.
Công tác quảng bá, xúc tiến du lịch cho KDL hồ Hòa Bình được đẩy mạnh. UBND tỉnh chỉ đạo tổ chức các
hội nghị, hội thảo xúc tiến đầu tư du lịch; tham gia các hội thảo xúc tiến đầu tư du lịch tại TP Hà Nội, Hồ
Chí Minh, Đà Nẵng, để giới thiệu, quảng bá về tiềm năng, sản phẩm của KDL. Tổ chức đón các đoàn
Famtrip, Presstrip trong nước, quốc tế nghiên cứu, tìm hiểu, giới thiệu, quảng bá về tài nguyên KDL. Phối
hợp với các cơ quan thông tấn, báo chí của TW, của tỉnh tăng cường quảng bá, giới thiệu về KDL hồ Hòa
Bình, xây dựng trang thông tin điện tử KDL, video clip, sách giới thiệu những trải nghiệm, khám phá du lịch
hồ Hòa Bình.
Nhiều DN đã tham gia ký cam kết thực hiện Chương trình “Người Việt Nam đi du lịch Việt Nam”, với các
nội dung: Giảm giá tour, tuyến; giảm giá dịch vụ; cam kết điểm đến an toàn, thân thiện. Nhờ chủ động triển
khai đồng bộ các giải pháp, lĩnh vực dịch vụ du lịch của tỉnh Hòa Bình đã bước đầu có những tín hiệu phục
hồi tích cực.
Từ ngày 13 đến 17/10/2020, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hòa Bình đã tổ chức đoàn Famtrip cho
các DN lữ hành đến khảo sát, trải nghiệm sản phẩm du lịch nghỉ dưỡng cuối tuần trên hồ thuộc KDL hồ Hòa
Bình. Tham gia chuyến Famtrip có hơn 30 DN du lịch, lữ hành ở Hà Nội và một số cơ quan báo chí trung
ương và địa phương.
4.2.4.5. Hạ tầng kỹ thuật và dịch vụ tài chính, bảo hiểm
Vì nằm trong thành phố Hòa Bình có nhiều điều kiện thuận lợi, hạ tầng kỹ thuật cơ bản đáp ứng được nhu
cầu của khách du lịch. Hiện nay địa phương đang có các chính sách đầu tư, hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật phục
vụ du lịch tại KDL hồ Hòa Bình.
Tương tự việc đầu tư phát triển các dịch vụ tài chính, ngân hàng, thương mại, bảo hiểm, bưu chính viễn
thông, y tế và các ngành dịch vụ khác phục vụ khách du lịch đến KDL hồ Hòa Bình cũng đang được chú
trọng.
4.2.4.6. Dịch vụ y tế
Du khách có thể yên tâm với hệ thống bệnh viện, cơ sở y tế khá đầy đủ và hiện đại tại tỉnh Hòa Bình, đáp
ứng yêu cầu bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cho khách du lịch.
KDL Hồ Hòa Bình hiện nay đang khai thác và đầu tư loại hình tắm các lá thuốc chữa bệnh của đồng bào các
dân tộc Mường, Dao, Thái… để phục vụ khách du lịch.
4.2.5. Vai trò của cơ quan quản lý Nhà nước, hiệp hội du lịch, chính phủ và các tổ chức quốc tế
4.2.5.1. Cơ quan quản lý Nhà nước
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hòa Bình chia sẻ, ngày 1/8/2016, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định Số
1528/QĐ-TT Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển KDL quốc gia hồ Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình đến năm
2030.
Theo đó, đến năm 2030, KDL quốc gia hồ Hòa Bình trở thành trung tâm du lịch lớn nhất của tỉnh Hòa Bình,
là một trong 12 KDL quốc gia trọng tâm của vùng Trung du miền núi Bắc Bộ với sản phẩm du lịch đặc
trưng là du lịch tìm hiểu, trải nghiệm văn hóa Mường gắn với hệ sinh thái lòng hồ.
Đây chính là cẩm nang để tỉnh thực hiện đồng bộ các giải pháp hướng đến mục tiêu năm 2020, KDL hồ Hòa
Bình cơ bản đáp ứng các tiêu chí và trở thành KDL quốc gia.
4.2.5.2. Hiệp hội du lịch, hội ngành du lịch
Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch Hòa Bình quan tâm định hướng phát triển loại hình du lịch cộng đồng trên
khu vực hồ Hòa Bình, ưu tiên phát triển loại hình lưu trú tại nhà dân (homestay) tại các bản du lịch cộng
đồng. Đây là địa điểm lý tưởng cho những du khách muốn tạm xa ồn ào của đô thị, khám phá những điều
mới lạ, tìm hiểu về đời sống văn hóa của dân tộc Mường.
Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh mới đây đã tổ chức trao tặng trang thiết bị hỗ trợ cho phát triển du
lịch cộng đồng cho 15 hộ dân làm dịch vụ homestay tại các điểm du lịch cộng đồng thuộc hai huyện Tân Lạc
và Đà Bắc mỗi hộ gồm: 9 bộ ga, màn, gối; 9 bộ chăn, ruột chăn; 5 đệm sông hồng; một tủ bảo quản thức ăn;
tặng đội văn nghệ xóm các thiết bị loa đầu đĩa, thiết bị âm thanh, một bộ chiêng, một số đạo cụ dân tộc, 10
bộ trang phục biểu diễn để phục vụ các hoạt động văn nghệ quần chúng tại địa phương và du khách.
Hàng năm, ban chỉ đạo Du lịch tỉnh ban hành kế hoạch phát triển du lịch của tỉnh để chỉ đạo công tác quản
lý, phát triển du lịch, trong đó có nhiệm vụ triển khai Nghị quyết số 14-NQ/TU. Công tác bảo tồn, phát huy
các giá trị di sản văn hóa dân tộc, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực du lịch được quan tâm. Giám sát đối
với các hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch khai thác tài nguyên, môi trường du lịch, bảo vệ môi trường và
rừng phòng hộ, đảm bảo công tác ANTT, an toàn cho khách du lịch. Công tác đầu tư xây dựng kết cấu hạ
tầng du lịch được quan tâm, khuyến khích đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật các xã nằm gần
vùng lòng hồ Hòa Bình.
4.3. Liên kết cụm ngành với các địa phương kề cận
Phát triển KDL quốc gia Mộc Châu và KDL Hồ Hòa Bình
4.3.1. Lý do
Du lịch Mộc Châu là vùng đất cao nguyên rộng lớn và xinh đẹp nhất vùng núi phía Bắc thuộc tỉnh Sơn La.
Nằm trên cung đường Tây bắc nổi tiếng với những cảnh quan kỳ vĩ, những ngôi làng xinh xắn ven đường
với những mùa hoa cải, hoa đào, hoa mận ngút trời. Cái tiết trời se lạnh cùng với những lớp sương mù dày
đặc khiến cảnh vật thiên nhiên nơi đây đẹp lạ, mê mẩn hồn người… Thì việc liên kết với KDL hồ Hòa Bình
với nơi hội tụ vẻ đẹp non nước hòa trong không gian văn hóa đa sắc màu sẽ thu hút khách du lịch nhiều hơn.
Di chuyển từ KDL Hồ Hòa Bình đến Mộc Châu khoảng từ 2 tiếng tùy vào điều kiện thời tiết.
4.3.2. Thuận lợi
Thứ nhất, việc đang xây dựng tuyến đường cao tốc Hòa Bình - Mộc Châu sẽ thuận lợi phát triển liên kết
KDL quốc gia hồ Hòa Bình và các KDL quốc gia Mộc Châu khi điều kiện về kết nối giao thông thuận lợi và
các dự án khác được đầu tư. Cùng đó, kết nối các khu vực chính của 2 tỉnh Hòa Bình và Sơn La, thay đổi
tình trạng Quốc lộ 6 là con đường độc đạo.
Thứ hai, đưa trải nghiệm đa dạng để giữ chân du khách
Thứ ba, các sản phẩm du lịch mang dấu ấn riêng, thương hiệu riêng, tạo điểm nhấn, điểm khác biệt đối với
du khách dựa trên các tiềm năng thế mạnh nổi trội của từng nơi mang lại những hiệu quả thiết thực góp phần
vào sự thúc đẩy phát triển du lịch vùng và của từng vùng. Cao nguyên Mộc Châu tập trung phát triển loại
hình du lịch nghỉ dưỡng, điều dưỡng chữa bệnh, du lịch tham quan sinh thái, dã ngoại gắn với nông nghiệp,
du lịch cộng đồng. Bên cạnh đó gắn với du lịch giáo dục truyền thống cách mạng với tham quan di tích nhà
tù Sơn La. Còn hồ Hòa Bình còn có nguồn nước khoáng phong phú, chất lượng là những điều kiện tốt để
phát triển loại hình du lịch nghỉ dưỡng.
4.3.3. Khó khăn
Còn gặp nhiều khó khăn về các điều kiện kinh tế - xã hội để xúc tiến du lịch giữa Hòa Bình - Mộc Châu
(Sơn La). Nguồn nhân lực còn thiếu do nguồn nhân lực chủ yếu là người dân bản địa nhưng phải vừa am
hiểu về văn hóa bản địa và được đào tạo bài bản về nghề du lịch.
Các tài nguyên tự nhiên như các hang động, hồ, sông, suối khoáng và các khu rừng nguyên sinh... đang được
khai thác chưa bền vững. Hiện tại các vấn đề môi trường do hoạt động du lịch chưa đến mức quá ngưỡng,
tuy nhiên, các vấn đề môi trường nảy sinh từ các hoạt động khác cũng ảnh hưởng đến du lịch như vấn đề
thiếu nước mùa khô, vấn đề rác thải không được xử lý, diện tích rừng, đặc biệt rừng nguyên sinh ngày càng
bị thu hẹp, đa dạng sinh học suy giảm, thiên tai làm cản trở việc tiếp cận các điểm du lịch,...
Mặc dù có tiềm năng du lịch, hồ Hòa Bình vẫn chưa được biết đến là một điểm đến du lịch hấp dẫn. Liên kết
tour, tuyến giữa 2 vùng KDL quốc gia Mộc Châu, KDL Hồ Hòa Bình còn yếu, nghèo hình thức, thiếu
chuyên nghiệp, thiếu chiến lược, thiếu sự kết nối, hiệu quả thấp. Sản phẩm du lịch đang trong giai đoạn hình
thành, thử nghiệm, nên hiện nay tỉnh Hòa Bình chưa có khu nghỉ dưỡng tầm cỡ để lưu trú mà chỉ có một vài
nhà nghỉ và homestay có quy mô nhỏ, chỉ có vài chục phòng. Cơ sở hạ tầng (đường, điện, nước) còn nhiều
khó khăn, chưa đáp ứng được sự phát triển và nhu cầu đi lại của du khách.
4.3.4. Đánh giá khả năng liên kết
Việc kết nối tiềm năng, thế mạnh, sản phẩm của các KDL quốc gia trong vùng sẽ hình thành có tính liên
ngành, liên vùng, tạo bước đột phá để tăng cường thu hút khách du lịch trong và ngoài nước đến với vùng
Tây Bắc.
Tuy nhiên, Liên kết phát triển du lịch ở vùng Tây Bắc cũng như Mộc Châu, Hồ Hòa Bình hầu như mới chỉ
dừng lại ở hình thức, trao đổi kinh nghiệm, chưa huy động được nguồn lực và khuyến khích sáng tạo để đầu
tư, hiệu quả đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế. Chưa phát huy lợi thế riêng có của vùng đó là
du lịch cộng đồng đặc trưng gắn với văn hóa dân tộc và các điểm du lịch đặc thù, như du lịch nghỉ dưỡng,
chữa bệnh; du lịch cộng đồng gắn với di tích lịch sử... Mặt khác, các hoạt động hợp tác trong liên kết phát
triển du lịch vùng Tây Bắc vẫn thiếu sự tư vấn của các chuyên gia; các DN du lịch lớn chưa thực sự vào
cuộc để chung tay với khối cơ quan quản lý nhà nước trong phát triển du lịch và dịch vụ.
TRÀ VINH
3. Năng lực cạnh tranh vi mô
4.1 Chất lượng môi trường kinh doanh
- Hệ thống thủy lợi được khai thác có hiệu quả và đầu tư xây dựng đồng bộ, phục vụ tái cơ cấu ngành nông
nghiệp và phòng chống thiên tai: hiệu quả quản lý nâng cao, khai thác công trình thủy lợi; nâng cấp hệ thống
cơ sở hạ tầng nội đồng và củng cố các tổ chức quản lý thủy nông cơ sở; từng bước chuyển đổi cơ chế quản
lý vận hành các công trình và dịch vụ thủy lợi theo cơ chế thị trường, gắn lợi ích với quyền, trách nhiệm của
người sử dụng nước;
- Phát triển thủy lợi theo hướng phục vụ đa mục tiêu; ưu tiên đầu tư hệ thống cống
điều tiết phân vùng sản xuất và các trạm bơm để tiếp nước ngọt, hệ thống thủy lợi phục vụ tưới tiết kiệm
nước cho cây trồng chủ lực, có giá trị kinh tế cao, có lợi thế cạnh tranh; xây dựng, nâng cấp hệ thống đê
sông, để biển, kè sông, kè biển và cầu trên các tuyến đê biển để ứng phó với biến đổi khí hậu. Kiện toàn bộ
máy phòng chống thiên tai từ tỉnh đến cơ sở; xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch phòng chống thiên
tai các cấp; nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro thiên tai bằng áp dụng công nghệ hiện đại trong dự báo, cảnh
báo và phòng chống thiên tai; đẩy mạnh các biện pháp công trình kết hợp phi công trình và nâng cao năng
lực truyền thông, quản lý thiên tai dựa vào cộng đồng;
- Công nghiệp bảo quản, chế biến và làng nghề: công nghiệp bảo quản chế biến phát triển, vừa nâng cao
hiệu quả sản xuất, vừa tiêu thụ kịp thời nông sản cho nông dân
và đa dạng hóa sản phẩm cho tiêu dùng; khuyến khích, hỗ trợ phát triển công nghiệp chế biến sâu, chế biến
tinh và ứng dụng công nghệ cao. Mời gọi đầu tư để phát triển công nghiệp phụ trợ phục vụ cho sản xuất
nông nghiệp, tăng cường ứng dụng cơ giới hóa trong tất cả các khâu của chuỗi giá trị sản xuất nông nghiệp,
phù hợp với điều kiện của địa phương, từng loại cây trồng. Triển khai hiệu quả Đề án “Mỗi xã một sản
phẩm”; gắn hoạt động kinh tế của các làng nghề với dịch vụ du lịch và bảo tồn, phát triển văn hóa truyền
thống. Phấn đấu đạt tốc độ tăng giá trị hàng nông sản qua chế biến khoảng 7
- 8%/năm;
- Sản xuất được tổ chức theo hướng tập trung, chuyên canh, sản xuất hàng hóa tập trung, quy mô lớn nhằm
ứng dụng có hiệu quả các tiến bộ khoa học kỹ thuật, gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ theo chuỗi giá trị
ngành hàng đối với các sản phẩm nông sản chủ lực của quốc gia và của tỉnh gắn với xây dựng nhãn hiệu,
thương hiệu, chỉ dẫn địa lý và truy xuất nguồn gốc nhằm tạo lòng tin của sản phẩm trên thị trường;
- Điều chỉnh mùa vụ, cơ cấu cây trồng, sản phẩm phù hợp với lợi thế và nhu cầu thị trường, thích ứng với
biến đổi khí hậu ở từng tiểu vùng; chuyển đổi một số diện tích đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng cây
khác; khuyến khích, phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp xanh và nông nghiệp hữu cơ; áp
dụng cơ giới hóa đồng bộ, giảm sử dụng các loại phân bón vô cơ, hóa chất bảo vệ thực vật; đẩy mạnh sử
dụng công nghệ tưới tiết kiệm nước, hiệu quả; giám sát, dự báo và thực hiện tốt các biện pháp phòng chống
sâu bệnh;
- Doanh nghiệp tăng cường đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; mở rộng tín dụng phục vụ phát triển nông
nghiệp, nông thôn, phát triển hợp tác, liên kết gắn với tiêu thụ nông sản; hỗ trợ việc áp dụng quy trình thực
hành sản xuất nông nghiệp tốt; hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp; hỗ trợ bảo hiểm nông nghiệp.
Đồng thời, tăng cường hoạt động khuyến nông; hỗ trợ tái cơ cấu ngành nông nghiệp; hỗ trợ cải tạo vườn tạp,
chuyển đổi đất trồng mía kém hiệu quả sang các loại cây trồng khác và nuôi trồng thủy sản; hỗ trợ phát triển
trồng rừng để đẩy nhanh tiến trình tái cơ cấu kinh tế nông nghiệp gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
4.2 Trình độ phát triển cụm ngành
- ĐBSCL nói chung đóng góp 54% sản lượng lúa, 70% sản lượng nuôi trồng thủy sản và trong đó đóng góp
60% lượng trái cây của cả nước. Tổng sản phẩm trên địa bàn (theo giá hiện hành năm 2019) đạt khoảng 933
nghìn tỷ đồng, đóng góp 12,08% cho
GDP cả nước. Tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế chiếm trên 1/3 của vùng và 34,6% GDP ngành
nông nghiệp của cả nước;
- Trồng trọt là ngành sản xuất chính của tỉnh Trà Vinh chiếm tỷ trọng lớn cả về quy mô sản xuất, giá trị sản
phẩm, giá trị xuất khẩu và tập quán sản xuất của người dân. Giá trị sản xuất trồng trọt năm 2019 đạt 13.280
tỷ đồng chiếm 73,95% trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp, đảm bảo an ninh lương thực, góp phần vào
việc nâng cao đời sống nhân dân và sự phát triển kinh tế của tỉnh. Nhờ đẩy mạnh thâm canh tăng vụ, sử
dụng
các giống mới có chất lượng, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật; xây dựng và phát triển được một số mô
hình hợp tác, nhân rộng được các mô hình sản xuất có hiệu quả, đầu tư cơ giới hóa nông nghiệp, cơ sở hạ
tầng phục vụ sản xuất; công tác phòng, chống sâu bệnh được tăng cường thực hiện nên diện tích, năng suất
và sản lượng của các loại cây trồng chính ngày càng tăng;
- Hàng năm chuyển đổi khoảng 3.200 ha đất trồng lúa sang các loại cây trồng, vật nuôi khác có hiệu quả
kinh tế cao hơn. Tổng diện tích gieo trồng năm 2019 đạt 277.396 ha (tăng 1,56 lần so với năm 1992), tổng
sản lượng 2,654 triệu tấn (tăng 3,17 lần so với năm 1992), trong đó về sản xuất cây ăn trái diện tích trồng
18.052 ha, sản lượng đạt 267 ngàn tấn với các loại cây có diện tích lớn, chất lượng tốt và có giá trị kinh tế để
xuất khẩu như xoài, thanh long ruột đỏ, nhãn, chuối, cam, bưởi da xanh tập trung ở các huyện Càng Long,
Cầu Kè, Châu Thành, Trà Cú và Tiểu Cần; Cây dừa được xem là cây trồng chủ lực phát triển khá mạnh ở
các huyện Càng Long, Cầu Kè, Tiểu Cần, Châu Thành, Trà Cú và thành phố Trà Vinh, với diện tích 23,1
ngàn ha đứng hàng thứ hai trong cả nước, sản lượng gần 300 ngàn tấn phục vụ cho các doanh nghiệp trong
và ngoài tỉnh chế biến nhiều sản phẩm có giá trị xuất khẩu, đặc biệt Trà Vinh có Dừa sáp là cây đặc sản với
diện tích trồng khoảng 250 ha, cung ứng khoảng 40 -50 ngàn trái/năm;
- Bên cạnh đó, thời gian qua nhiều mô hình liên kết, sản xuất tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp trên địa bàn
tỉnh Sóc Trăng đã được hình thành, giúp nông dân tăng năng suất, chất lượng cây trồng và nâng cao thu
nhập; đặc biệt là trong việc liên kết và tiêu thụ cây ăn trái;
- Tổng diện tích trồng cây ăn trái trên toàn tỉnh hiện nay là trên 31.000 ha, phân bố tại các huyện Kế Sách,
Long Phú, Mỹ Tú, Cù Lao Dung, Châu Thành...; trong đó, bưởi trên 2.00 ha, cam gần 3.000 ha, xoài gần
3.000 ha, vú sữa gần 2.000 ha... với sản lượng đạt khoảng 230.000 tấn trong năm 2019. Đến nay, Ban Quản
lý Dự án Phát triển cây ăn trái đặc sản Sóc Trăng đã xây dựng và củng cố các hợp tác xã cây ăn trái nhằm
liên kết các thành viên trong sản xuất để thuận lợi cho việc canh tác cây ăn trái, hình thành các vùng sản
xuất tập trung và liên kết với các doanh nghiệp, công ty trong tiêu thụ sản phẩm. Trong 2 năm qua, đã có 4
công ty tham gia liên kết và tiêu thụ sản phẩm cây ăn trái tại tỉnh để xuất khẩu sang các thị trường “khó
tính” như Mỹ, châu Âu... với sản lượng khoảng 160 tấn; trong đó bưởi là trên 60 tấn, vú sữa trên 90 tấn.
Trước đó, vào tháng 12/2018, những nông dân của Hợp tác xã Quyết Thắng đã vô cùng phấn khởi và tự hào
khi những trái vú sữa đạt tiêu chuẩn VietGAP đầu tiên do chính tay mình làm ra đã được đóng thùng xuất
bán theo đường hàng không sang Mỹ với sản lượng hơn 2 tấn. Đây là kết quả bước đầu chương trình xúc
tiến liên kết chuỗi sản xuất giữa các nhà vườn, hợp tác xã nông nghiệp và các doanh nghiệp, Công ty xuất
nhập khẩu trái cây VINA T&T và Công ty Chánh Thu, trong khuôn khổ Dự án Phát triển vườn cây ăn trái
đặc sản tỉnh Sóc Trăng giai đoạn 2018-2021;
- Chủng loại cây ăn trái vùng Đồng bằng sông Cửu Long khá phong phú, nhiều loại cây được tuyển chọn và
nhập nội như: Xoài cát Hòa Lộc, xoài cát Chu, xoài Thái
Lan, xoài Đài Loan; sầu riêng Ri 6, sầu riêng sữa hột lép Cái Mơn, sầu riêng MonThong; chôm chôm Giông
riêng, chôm chôm nhãn, chôm chôm Java; bưởi da xanh, bưởi năm roi, vú sữa Lò rèn, mít nghệ, mít Thái, …
đã được thị trường chấp nhận và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Thêm nữa, phần lớn nông dân trồng cây ăn
trái trong vùng có trình độ thâm canh và đạt hiệu quả cao. Nông dân thực hiện tốt qui trình kỹ thuật thâm
canh, ứng dụng tốt tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, chăm bón đúng mức, tỉa cành, tạo tán, xử lý ra hoa, đậu trái
bằng các biện pháp kỹ thuật tiến bộ. Công tác bảo vệ thực vật được chú trọng, bao trái phòng trừ sâu bệnh,
tạo cho trái có hình thức, màu sắc đáp ứng yêu cầu của thị trường;
- Đáng chú ý, sản xuất cây ăn trái theo qui trình thực hành nông nghiệp tốt (GAP)
được đặc biệt quan tâm, nhằm đáp ứng yêu cầu xuất khẩu. Nhiều mô hình sản xuất theo
VietGAP, Global GAP đã được thực hiện và chứng nhận trên chôm chôm, bưởi da xanh
ởBến Tre, bưởi Năm roi ở Vĩnh Long, vú sữa Vĩnh Kim, xoài cát Hòa Lộc, xoài ở Đồng Tháp,... đã mang lại
hiệu quả;
- Đối với thanh long, đã cấp giấy chứng nhận an toàn cho 9.394 ha, trong đó VietGAP 9.099 ha/437 cơ
sở/9.845 hộ (Bình Thuận 8.989,76 ha/433 cơ sở/9.759 hộ, Tiền Giang: 109,5 ha/04 cơ sở/6 hộ); chứng nhận
GlobalGAP 295 ha (Bình Thuận 262 ha/10 cơ sở, Long An 33,4 ha/01 cơ sở). Đối với xoài, đã hình thành 11
mô hình (Cần Thơ 3, Hậu Giang 2, Đồng Tháp 4, Vĩnh Long 1, Tiền Giang 1) với diện tích 153,4 ha, sản
lượng 1.463 tấn/năm (trong đó liên kết tiêu thụ 220 tấn/năm). Đối với sầu riêng, đã cấp giấy chứng nhận
VietGAP cho 49,46 ha (Tiền Giang 22 ha, Bến Tre 27,46 ha). Đối với nhãn, đã cấp giấy chứng nhận
VietGAP cho 126,26 ha (Tiền Giang 79 ha, Bến Tre 47,26 ha). Hai tỉnh Tiền Giang và Bến Tre đã xây dựng
mô hình có chứng nhận VietGAP và cấp mã code xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Để giảm áp lực của tính
thời vụ đối với trái cây, nâng cao hiệu quả kinh tế, người trồng cây ăn trái vùng ĐBSCL đã triển khai thực
hiện ngày càng tốt hơn rải vụ thu hoạch một số loại trái cây bằng các biện pháp kỹ thuật phù hợp và mang
lại hiệu quả rõ rệt. Theo thống kê của Bộ NN&PTNT, đến nay, phần lớn các loại quả đều tiêu thụ dưới dạng
quả chín, tươi sau khi thu hoạch. Việc chế biến, phơi sấy, đóng hộp, nước ép, bảo quản nhiều ngày đang mới
giai đoạn đầu và chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Thị trường tiêu thụ trái cây ở trong nước là chính, chiếm 85-90% tổng
sản lượng sản xuất, xuất khẩu mới chiếm 10-15%, xuất khẩu trái tươi đối với thanh long, nhãn, chôm chôm,
dứa, bưởi, chanh, chuối, xoài…, xuất khẩu dưới dạng chế biến
đối với dứa, xoài ở dạng đông lạnh, nước quả…
- Năm năm liền vừa qua, ĐBSCL đều đứng đầu về điểm số PCI trong sáu vùng kinh tế cả nước và đứng đầu
rất nhiều chỉ số so các vùng miền khác. Theo đó, điểm số PCI trung vị của vùng vẫn duy trì được xu hướng
tăng bền vững qua các năm. Cụ thể, trong giai đoạn 2015-2019 điểm PCI trung vị đã tăng 10%, tương đương
5,95 điểm, từ 59 điểm (năm 2015) lên 64,99 điểm (năm 2019). Trong nhóm 20 tỉnh đứng đầu bảng xếp hạng
PCI cả nước, ĐBSCL hiện có năm vị trí bao gồm: Đồng Tháp, Vĩnh Long, Bến Tre, Long An và TP Cần
Thơ. Điểm chỉ số thành phần của các tỉnh trong vùng cũng có sự cải thiện, đồng đều hơn, cho thấy đã có sự
tiến bộ ở tất cả các mảng. Có 5/13 tỉnh trong vùng thường xuyên nằm trong tốp 20 tỉnh đứng đầu bảng xếp
hạng PCI cả nước, cho thấy ĐBSCL được đánh giá có năng lực điều hành ổn định, bền vững…
4.3 Độ tinh thông và hoạt động chiến lược doanh nghiệp
Tỉnh Trà Vinh đã và đang được sự quan tâm của Chính phủ với các dự án đầu tư lớn đang được triển khai
như: Dự án xây dựng cầu Cổ Chiên, nâng cấp các Quốc lộ 53, 54, 60, Luồng cho tàu biển có trọng tải lớn
vào sông Hậu (kênh đào Trà Vinh), Khu kinh tế Định An, Trung tâm điện lực Duyên Hải..., tạo điều kiện
cho Trà Vinh khắc phục hạn chế về mặt địa lý trở thành cửa ngõ giao thương quan trọng của khu vực Đồng
bằng sông Cửu Long đến các khu vực khác trong nước và trên thế giới bằng đường thủy, tạo động lực mới
trong phát triển kinh tế địa phương. "Tạo môi trường đầu tư thông thoáng, minh bạch, điểm đầu tư đáng tin
cậy cho doanh nghiệp, nhà đầu tư" là một trong những ưu tiên hàng đầu của Lãnh đạo tỉnh.
Về tình hình đăng ký doanh nghiệp tại tỉnh Trà Vinh
- Tình hình doanh nghiệp đang hoạt động:
Tính đến tháng 6/2020, Trà Vinh có 2.093 doanh nghiệp đang hoạt động (chiếm 3,7% khu vực Đồng bằng
Sông Cửu Long, chiếm 0,3% cả nước). Trà Vinh đang xếp thứ 50 cả nước về số lượng doanh nghiệp đang
hoạt động. Theo Sách trắng Doanh nghiệp Việt Nam 2020, bình quân cả nước năm 2019 có 7,9 doanh
nghiệp đang hoạt
động trên 1.000 dân. Trong khi đó, Trà Vinh có 2,0 doanh nghiệp đang hoạt động trên 1.000 dân, ở mức khá
thấp so với bình quân cả nước.
- Về doanh nghiệp thành lập mới:
Trong 6 tháng đầu năm 2020, Trà Vinh có 189 doanh nghiệp thành lập mới (chiếm 4,1% khu vực Đồng
bằng Sông Cửu Long, chiếm 0,3% cả nước) với số vốn đăng ký là 1.856 tỷ đồng (chiếm 5,1% khu vực Đồng
bằng Sông Cửu Long, chiếm 0,3% cả nước), tăng 2,2% về số doanh nghiệp và tăng 63,7% về số vốn so với
cùng kỳ năm ngoái. Tổng số lao động đăng ký của các doanh nghiệp thành lập mới tại Trà Vinh là 2.949
(chiếm 5,1% khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long, chiếm 0,6% cả nước), giảm 6,5% so với cùng kỳ năm
ngoái.
Riêng Quý II/2020, Trà Vinh có 91 doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký 404 tỷ đồng, giảm 7,1%
về số doanh nghiệp và giảm 72,2% về số vốn so với Quý I/2020. Tổng số lao động đăng ký của các doanh
nghiệp thành lập mới tại Vĩnh Long là 1.353, giảm 15,2% so với Quý I/2020.
Từ những số liệu trên có thể thấy tinh thần khởi nghiệp tại Trà Vinh thời điểm này đã có nhiều tín hiệu đáng
mừng. Tâm lý e ngại và thận trọng của các nhà đầu tư trong việc bỏ vốn thành lập doanh nghiệp đã dần bị
xóa bỏ. Điều này cho thấy những giải pháp của Chính phủ cũng như chính quyền tỉnh Trà Vinh nhằm hỗ trợ,
đồng hành cùng doanh nghiệp để khôi phục nền kinh tế đã có hiệu quả đáng kể.
Về tình hình cải cách TTHC, cải thiện môi trường kinh doanh
- Về chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2019, Trà Vinh đạt 63,20 điểm, xếp vị trí thứ 58/63,
thuộc nhóm Trung bình.
-Về chỉ số Hiệu quả quản trị và Hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam (PAPI) của Trà Vinh đạt 43,50 điểm,
nằm trong nhóm 15 tỉnh có điểm số Trung bình thấp.
- Tại Báo cáo chỉ số Cải cách hành chính (PAR INDEX 2019), Trà Vinh đạt 78,89%, xếp hạng 57/63, thuộc
nhóm C (nhóm thấp nhất, gồm 19 tỉnh, thành phố).
Nhìn vào các chỉ số trên có thể thấy rằng tình hình cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường kinh
doanh của tỉnh Trà Vinh chưa thực sự hiệu quả, các chỉ số vẫn còn ở mức thấp, chưa tạo được tiền đề để thu
hút doanh nghiệp. Do vậy, trong thời gian tới, tỉnh cần có các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư kinh
doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh để tăng tính hấp dẫn đối với nhà đầu tư, khai thác tối đa các tiềm năng
sẵn có để phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Một số giải pháp cho tỉnh Trà Vinh để nâng cao chỉ số PCI
- Một là Trà Vinh xây dựng mô hình liên kết phát triển kinh tế-xã hội bền vững, là tỉnh kiểu mẫu về khả
năng thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu, khai thác tối đa điều kiện thuận lợi, vượt qua khó khăn, chủ
động với biến đổi khí hậu để hướng tới một nền nông nghiệp giá trị gia tăng cao. Phải biến những nguy cơ
về biến đổi khí hậu thành thời cơ phát triển của tỉnh.
- Chính vì vậy, việc thứ hai là Trà Vinh cần xem xét lại quy hoạch các khu công nghiệp theo hướng công
nghiệp phục vụ nông nghiệp. Điều quan trọng là phải liên kết chuỗi giá trị, tạo dựng những thương hiệu gắn
với địa phương.
- Thứ ba, không đánh đổi môi trường để có nhà đầu tư. Lĩnh vực kinh tế then chốt đối với Trà Vinh là nông
nghiệp công nghệ cao.
- Thứ tư, ở nhiều nơi, đất đai đang bị phân tán, sử dụng không hiệu quả, vì vậy Trà Vinh cần giải pháp đột
phá, tạo điều kiện cho nhà đầu tư mới, có tiềm lực tài chính tích tụ ruộng đất và thực hiện những dự án có
quy mô lớn, sản xuất lớn ở tỉnh Trà Vinh.
- Thứ năm, người nông dân muốn thực sự giàu có trên quê hương mình, cần có tư duy đột phá, người nông
dân có thể góp sức, góp vốn bằng những thửa ruộng đang thuộc quyền canh tác của mình để cùng các nhà
đầu tư khác tạo nên một doanh nghiệp hoạt động theo luật. Đây là giải pháp để chuyển đổi từ kinh tế hộ gia
đình nhỏ lẻ, manh mún sang kinh tế doanh nghiệp. Làm được như vậy, Thủ tướng tin Trà Vinh sẽ có những
chuyển biến quan trọng về chất lượng trong giai đoạn tới.
Nếu tiếp tục định hướng phát triển kinh tế xanh, bền vững thì đến năm 2050 Trà Vinh sẽ là một khu đô thị
kiểu mới, khu đô thị xanh, thông minh, gắn liền với sản xuất nông nghiệp, hài hòa thiên nhiên, trên nền tảng
khoa học kỹ thuật, trở thành điển hình về không gian sống thích ứng cho toàn bộ các tỉnh vùng Đồng bằng
sông Cửu Long (ĐBSCL) và khu vực.
Cũng theo các chuyên gia, Trà Vinh phù hợp tập trung phát triển các lĩnh vực: Khoa học công nghệ, điện
gió, kinh tế biển và logistics, phụ trợ cho việc tiêu thụ sản phẩm cây ăn trái. Hiện nay 70 - 72% sản lượng
trái cây của ĐBSCL do thương lái thu mua tại vườn mức giá thấp và vận chuyển bằng xe tải sang nước lân
cận.
Một vài loại nông sản khác được vận chuyển bằng đường biển, đi qua Singapore, đến những thị trường có
giá tốt hơn và sinh lợi nhiều hơn. Gía thành của hệ thống logistics trên biển và việc kiểm soát chuỗi cung
ứng lạnh hiện nay cần được cài thiện mạnh mẽ hơn, để mang lại lợi nhuận tốt hơn cho nhà sản xuất. Cảng
Định An là lựa chọn thích hợp để chuyển đổi và trang bị thành trung tâm logistics cho nhiều tỉnh.
Bên cạnh đó, tín hiệu đáng mừng là WB cam kết sẽ hỗ trợ việc phát triển bền vững và thông minh với khí
hậu của Trà Vinh và ĐBSCL vì “Trà Vinh và khu vực ĐBSCL rất quan trọng đối với tăng trưởng bền vững
và chất lượng ở Việt Nam”.
PHẦN 2
ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CỤM NGÀNH
CÂY ĂN TRÁI
1. Lý do chọn cụm ngành cây ăn trái
1.1. Điều kiện tự nhiên
- Vị trí địa lý: Trà Vinh là tỉnh Duyên hải Đồng bằng sông Cửu Long, tiếp giáp với các tỉnh Bến Tre, Vĩnh
Long, Sóc Trăng; nằm giữa sông Tiền và sông Hậu. Trung tâm tỉnh lỵ Trà Vinh cách thành phố Hồ Chí
Minh 130 km và thành phố Cần Thơ 100 km. Tỉnh Trà Vinh có 01 thành phố, 01 thị xã và 07 huyện gồm:
Thành phố Trà Vinh, thị xã Duyên Hải và các huyện Càng Long, Châu Thành, Tiểu Cần, Cầu Kè, Trà Cú,
Cầu Ngang, Duyên Hải. Diện tích tự nhiên 2.341 km2, dân số trên 1,1 triệu người với 03 dân tộc chính là
Kinh, Khmer, Hoa, trong đó dân tộc Khmer chiếm 30% dân số. Với trị trí tiếp giáp biển Đông chiều dài 65
km bờ biển đã hình thành nên vùng đất Trà Vinh gồm vùng đất châu thổ lâu đời, bên cạnh vùng đất trẻ mới
bồi và mạng lưới sông ngòi chằng chịt mang nặng phù sa, bồi đắp cho những vườn cây ăn trái;
- Khí hậu: Trà Vinh nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa ven biển, khí hậu chia thành 2 mùa rõ rệt là mùa mưa
và mùa khô; mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung
bình năm 26 - 27,6°C, số giờ nắng trung bình là 2.556 giờ/năm, lượng mưa hàng năm vào khoảng 1.520
mm, độ ẩm trung bình năm là 84%. Nhìn chung, khí hậu Trà Vinh mang đặc điểm nhiệt đới gió mùa với nền
nhiệt độ cao, ổn định, nắng và bức xạ mặt trời thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp và trồng cây ăn trái;
- Đất đai: Diện tích đất 229.200 ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm 186.170 ha,
đất lâm nghiệp chiếm 6.922 ha, đất chuyên dùng chỉ có 9.936 ha, còn lại là đất ở nông thôn chiếm 3.108 ha,
đất ở thành thị chiếm 586 ha, đất chưa sử dụng chiếm 85 ha,... Trà Vinh có 3 nhóm đất chính trong đó đất
cát giồng chiếm 6,65%, đất phèn chiếm 24,44%,
đất phù sa màu mở chiếm 58,29% được bồi đắp bởi 2 con sông là sông Tiền và sông Hậu. Phù hợp trồng các
loại cây ăn trái nhiệt đới đặc trưng.
1.2. Nhu cầu của thị trường và tiềm năng phát triển
1.2.1. Tiềm năng phát triển
Những năm gần đây, cây ăn trái của nước ta đã liên tục đạt mức tăng trưởng ấn tượng về giá trị kim ngạch
xuất khẩu, cũng như đáp ứng ngày càng tốt cho cả nhu cầu tiêu thụ nội địa. Hiện trái cây Việt Nam còn
nhiều tiềm năng để phát triển, nâng cao giá trị và vươn xa đến nhiều thị trường trên thế giới. Diện tích trồng
cây ăn trái của cả nước khoảng 910.000ha, với sản lượng cho trái đạt khoảng 9,5 triệu tấn/năm. Đồng bằng
song Cửu Long là vùng trồng cây ăn trái lớn nhất, chiếm trên 50% diện tích và 60% sản lượng trái cây của
cả nước.
Theo Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản, Việt Nam là quốc gia nằm ở khu vực Đông Nam Á có
điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng thuận lợi, với khoảng 70% dân số làm nghề nông và diện tích canh tác rau,
quả khoảng 1,6 triệu ha nên có tiềm năng rất lớn để phát triển sản xuất và xuất khẩu mặt hàng rau quả. Mặt
hàng rau quả của nước ta giàu tiềm năng xuất khẩu với các loại sản phẩm nhiệt đới, ngon, quý hiếm và rất đa
dạng, đồng thời rau quả cũng là ngành trồng trọt quan trọng trong ngành nông nghiệp.
Hiện nay, rau, quả đứng trong nhóm sản phẩm xuất khẩu mang lại “tỉ đô” nhưng giá trị xuất khẩu của Việt
Nam chưa chiếm 1% thị phần nhập khẩu rau quả của thế giới nên tiềm năng phát triển thị trường xuất khẩu
còn rất lớn, nhất là đối với các sản phẩm trái cây. Trên thực tế, giá trị xuất khẩu trái cây của nước ta đã tăng
bình quân 35%/năm trong giai đoạn 2010-2016.
1.2.2. Nhu cầu
- Nội địa: 90% lượng nông sản tươi thô người nông dân sản xuất được tiêu thụ tại thị trường nội địa,vì vậy
không nên chỉ chú trọng vào xuất khẩu, Việt Nam là thị trường tiêu thụ vô cùng tiềm năng và cần được chú
trọng để kích thích tiêu dùng. Hơn nữa, tỷ lệ trái cây nhập khẩu ngày càng tăng qua các năm, người nông
dân cần phải đẩy mạnh cải thiện sản xuất để tăng giá bán và tăng năng lực cạnh tranh đối với các sản phẩm
ngoại nhập. Đặc biệt, trong giai đoạn dịch vừa qua, khi các hoạt động giao thương xuất khẩu bị đình trệ, vai
trò của thị trường nội địa càng được rẳng định rõ;
- Xuất khẩu: Thị trường xuất khẩu nông sản chính của nước ta là Trung Quốc (chiếm tỷ trọng 70%), tuy
nhiên từ năm 2019 do ảnh hưởng của dịch bệnh nên có sự thay đổi rõ rệt trong cơ cấu thị trường xuất khẩu
nông sản.
Năm 2019, kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc đã giảm 14,5% trong 10
tháng đầu năm 2019 với mức kim ngạch đạt 2,08 tỷ USD. Tuy nhiên, bù lại xuất khẩu rau quả Việt Nam
sang các thị trường chính khác đều đạt mức tăng trưởng trên 10%, cụ thể: ASEAN tăng 26,6% (đạt 146,4
triệu USD), Hoa Kỳ tăng 10,7% (đạt 124,6 triệu USD), EU tăng 32,2% (đạt 121,7 triệu USD), Hàn Quốc
tăng 12,4% (đạt 107,4 triệu USD), Nhật Bản tăng 26,2% (đạt 100,7 triệu USD)… Cơ cấu thị trường xuất
khẩu rau quả có những chuyển dịch tích cực khi giảm sự phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc và tăng tỷ
trọng xuất khẩu sang các thị trường khó tính như: EU, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Nhật Bản… Hàng rau quả vẫn là
mặt hàng đầy tiềm năng của Việt Nam với khả năng tăng trưởng tốt ở nhiều thị trường mới. Việc giảm phụ
thuộc vào thị trường Trung Quốc có thể sẽ là cơ hội mới để ta đa dạng hóa thị trường và tập trung vào các
thị trường khó tính hơn.
1.3. Định hướng phát triển của địa phương
Quyết Định số 1443/QD-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội tỉnh Trà Vinh đén năm 2020, tầm nhìn
2030 có đề cập:
“…Đẩy mạnh liên kết với các tỉnh thành phố trong vùng ĐBSCL nhằm khai thác tối đa tiềm năng, cơ hội
của từng địa phương xét trong lợi thế so sánh của toàn vùng ĐBSCL, theo nguyên tác hài hoà lợi ích, trách
nhiệm và bình đẳng; góp phần khẳng định vai trò, vi thế của vùng ĐBSCL với cả nước..."
“…khuyến khích và hỗ trợ nông dân hình thành các tổ hợp tác có khả năng hoặt động theo chuối sản phẩm
có tính liên kết cao, thúc đẩy nông nghiệp phát triển theo hướng hiện đại, cánh đồng lớn, chuyên canh có
quy mô lớn và ổn định đảm bảo phát triển bền vững…”
Có thể thấy, tỉnh Trà Vinh định hướng phát triển nông nghiệp địa phương theo hướng mở rộng sản xuất theo
quy mô lớn và đẩy mạnh kết hợp với các địa phương khác trong khu vực Đồng bằng Sông Cửu long.
2. Phân tích bằng mô hình kim cương
Không chỉ chú trọng trong thúc đẩy xuất khẩu, trái cây chủ yếu được tiêu thụ tại thị trường Việt Nam, chính
vì vậy thị trường trong nước đóng một vai trò quan trọng. Cần có các hoạt động thúc đẩy tiêu thụ đối với thị
trường trong nước. Bến Tre mà một địa điểm khiến người ta nhớ đến đầu tiên khi nhắc về miền Tây, bởi Bến
Tre nổi tiếng về trái cây và dừa. Tận dụng lợi thế này, Bến Tre đóng vai trò quan trọng trong thúc đẩy
tiêu thụ nông sản trong và ngoài nước. Bằng cách tổ chức các Festival về trái cây, hội chợ nông sản, đẩy
mạnh các hoạt động du lịch miệt vườn, tổ chức các buổi hội thảo giới thiệu, kết nối tiêu thụ sản phẩm trái
cây để thúc đẩy tiêu thụ trong nước, ngoài ra còn đem hình ảnh trái cây Việt Nam ra thị trường nước ngoài
thông qua hoạt động du lịch, các buổi tọa đàm, triễn lãm sản phẩm từ cây ăn quả. Từ đó, việc tiêu thụ trái
cây và các sản phẩm chế biến từ trái cây có hiệu quả cao hơn.
Trà Vinh – kênh vận tải xuất khẩu
Có lợi thế là cửa ngõ ra biển Đông của vùng Đồng bằng sông Cửu Long, với cảng biến lớn là cảng Định An,
Theo Quyết định số 1037/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt
Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 thì hệ thống cảng biển Trà Vinh là cảng tổng hợp địa phương
loại II, trong đó: Bến cảng tổng hợp Định An: đã được khởi công vào tháng 7/2019; diện tích bến cảng theo
quy hoạch 128ha, hệ thống kho bãi, khu logistics hiện đại đảm bảo tiếp nhận tàu container, tàu hàng hóa từ
30.000 tấn đầy tải và 50.000 tấn giảm tải, có thể mở rộng đến 100.000 tấn, trung chuyển hàng hóa vào Cảng
Cái Cui (Cần Thơ) và ngược lại. Khu Kinh tế Định An là Khu Kinh tế được quy hoạch là 01 trong 16 Khu
kinh tế ven biển của cả nước, đồng thời là 01 trong 02 Khu kinh tế ven biển của vùng đồng bằng sông Cửu
Long và được xác định là 01 trong 08 Khu kinh tế ven biển ưu tiên đầu tư giai đoạn 2016 - 2020 của cả
nước.
Hệ thống hạ tầng giao thông trong tỉnh kết nối tốt với khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, cụ thể: Hiện nay,
toàn tỉnh có 04 tuyến Quốc lộ 53, 53B (Quốc lộ 53B thành lập mới theo Quyết định số 326/QĐ-BGTVT
ngày 09/02/2018 của Bộ GTVT), 54, 60 với tổng chiều dài trên 288 km, trong đó gần 63% là đường láng
nhựa, 37% đường bằng bê tông nhựa. Các tuyến Quốc lộ được đầu tư với quy mô từ cấp II đến cấp VI đồng
bằng; có 05 tuyến đường tỉnh với tổng chiều dài gần 229 km, trong đó 78% là đường láng nhựa, quy mô các
tuyến đang khai thác đạt tiêu chuẩn từ cấp IV đến cấp VI; có 42 tuyến đường huyện với tổng chiều dài 486
km, trong đó 76% là đường láng nhựa, tất cả các tuyến đã được đầu tư đảm bảo đạt tiêu chuẩn cấp VI đồng
bằng cơ bản đáp ứng nhu cầu lưu thông và vận chuyển hàng hóa của nhân dân, thuận lợi cho vận chuyển
hàng nông sản, trái cây từ các tỉnh ra cảng biển để xuất khẩu.
SÓC TRĂNG
CHƯƠNG 2: NĂNG LỰC CẠNH TRANH VĨ MÔ CỦA TỈNH SÓC TRĂNG
2.1 . Hạ tầng xã hội và bộ máy chính trị/ quản lý nhà nước
- Hạ tầng y tế
Năm 2019, Tỷ suất nhập cư và xuất cư của Sóc Trăng lần lượt là 1,2 và 16,2. Cho thấy sự dịch chuyển rất
lớn.
Đến cuối năm 2019, toàn tỉnh Sóc Trăng có gần 1.276.000 người tham gia BHYT, đạt tỷ lệ bao phủ BHYT
là 96,95% dân số trong tỉnh (theo Niên giám thống kê 2018). Trong 6 tháng đầu năm 2020, có 1.239.245
người tham gia BHYT, đạt tỷ lệ bao phủ BHYT là 94,17% dân số trong tỉnh.
Năm 2019, toàn tỉnh Sóc Trăng khai thác trên 63.000 người tham gia BHXH bắt buộc và phát triển được gần
5.000 người tham gia BHXH tự nguyện. Tính đến tháng 9 năm 2020, số đối tượng tham gia BHXH tự
nguyện trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng trên 6.100 người, bằng 187% so với cùng kỳ năm 2019.
Tại Sóc Trăng, ở các đơn vị hành chính cấp huyện đều có các bệnh viện hay trung tâm y tế, trạm y tế. Có các
bệnh viện lớn như: Bệnh viện Đa khoa Sóc Trăng, Bệnh viện Sản
- Nhi Sóc Trăng, Bệnh viện Mắt Sóc Trăng, Bệnh viện 30/4, Bệnh viện Quân Dân Y. Năm 2008, Trên địa
bàn toàn tỉnh có 128 cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc Sở Y tế. Trong đó có 11 bệnh viện, 12 phòng khám
đa khoa khu vực và 105 trạm y tế phường xã, tổng số giường bệnh là 2.231 giường, trong đó các bệnh viện
có 1.460 giường, phòng khám phòng khám đa khoa khu vực có 190 giường, trạm y tế có 581 giường.
ởHạ tầng giáo dục
ởNăm học 2019 - 2020, thành phố Sóc Trăng có 50 trường, 03 cơ sở và 19 nhóm lớp mầm non ngoài công
lập, với trên 32.390 học sinh. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp Trung học cơ sở đạt 99,66%. Thành phố có 24/34
trường đạt chuẩn quốc gia.
Theo thống kê của Sở Giáo dục và Đào tạo, kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2020 toàn tỉnh Sóc Trăng có trên
8.500 thí sinh đăng ký dự thi; số thí sinh đỗ tốt nghiệp THPT năm 2020 là 8.075, đạt tỷ lệ 99,51%.
Sóc Trăng là tỉnh có nguồn lao động trẻ dồi dào nhưng lại thiếu lao động tại chỗ cho các nhà máy, xí nghiệp
mới mở, có nhu cầu lao động gia tăng quanh năm nhưng không tuyển được. Sóc Trăng sẽ tiến hành mở rộng
quy mô, nâng cao chất lượng đào tạo, áp dụng tốt những công nghệ mới vào công tác đào tạo nghề, phát
triển giáo dục nghề nghiệp gắn với giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động trên địa bàn tỉnh.
Bộ máy chính trị và quản lý nhà nước
Bộ máy chính trị và quản lý nhà nước: Gần như đồng nhất với các địa phương khác. Trong nhiệm kỳ 2015 -
2020, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Sóc Trăng triển khai nhiều nghị quyết, chương trình hành động, tạo bước đột phá
về cải cách thủ tục hành chính gắn với tinh gọn bộ máy của hệ thống chính trị nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu
quả hoạt động.
2.2. Các chính sách về ngân sách và đầu tư công
- Thu ngân sách
Tổng thu ngân sách Nhà nước (NSNN) trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng năm 2019 là 4.077.838 triệu đồng, đạt
135,93% so với dự toán năm và bằng 135,77% so với cùng kỳ năm trước (thu ngân sách địa phương được
hưởng theo phân cấp là 3.781.753 triệu đồng, đạt 139,29% so với dự toán năm và bằng 164,33% so với cùng
kỳ năm trước). Trong đó thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh 1.177.190 triệu đồng và thu từ hoạt động
xổ số kiến thiết 1.153.851 triệu đồng. Đây là hai nguồn thu chiếm tỷ trọng lớn trong thu ngân sách của tỉnh.
Đầu tư công
Ước thực hiện vốn đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh quý 4/2019 (theo giá hiện hành) là 4.932 tỷ đồng, tăng
22,93% so với quý trước và tăng 34,03% so với cùng quí năm trước. Tính chung năm 2019 là 14.940 tỷ
đồng, tăng 19,54% so với năm trước.
- Vốn khu vực đầu tư FDI:
Về hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), tính đến hết năm 2019,
Sóc Trăng thu hút được 247,4 triệu USD vốn đăng ký từ 15 dự án. Từ số liệu trên có thể
thấy rằng số dự án đầu tư từ nước ngoài của Sóc Trăng vẫn còn rất thấp so với mặt bằng
chung các tỉnh khu vực ĐBSCL.Vì vậy địa phương cần nỗ lực hơn trong thu hút các nhà đầu tư và nên dồn
lực vào thế mạnh vốn có của tỉnh.
2.3. Phân tích thương số vị trí (LQ)
Nhận xét mức độ tập trung của lao động theo ngành tại địa phương
2.3.1. Ngành tài chính
- So sánh ngành: LQ = 2.74
Lao động doanh nghiệp ngành tài chính của tỉnh Sóc Trăng có mức độ tập trung lao động bằng khoảng 2.74
lần so với bình quân cả nước.
2. So sánh năm: LQ (2010) = 2.26 < LQ (2016) = 2.74
Ta thấy mức độ lao động của ngành hoạt động tài chính của tỉnh Sóc Trăng năm 2016 tăng lên so với năm
2010.
2.3.2. Ngành bán buôn và bán lẻ…
- So sánh ngành: LQ = 1.34
Lao động doanh nghiệp ngành bán buôn và bán lẻ của tỉnh Sóc Trăng có mức độ tập trung lao động bằng
khoảng 1.34 so với bình quân cả nước.
- So sánh năm: LQ (2010) = 0.99 < LQ (2016) = 1.34
Mức độ lao động của ngành bán buôn và bán lẻ năm 2016 tăng so với năm 2010.
2.3.3. Ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản
3. So sánh ngành: LQ = 1.47
Lao động doanh nghiệp ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản của Sóc Trăng có mức độ tập trung lao
động doanh nghiệp bằng khoảng 1,47 lần so với bình quân cả nước.
- So sánh năm: LQ (2010) = 3.14 > LQ (2016) = 1.47
=> Có thể thấy mức độ lao động của ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản của tỉnh Sóc Trăng năm
2016 bị suy giảm mạnh so với năm 2010. Nhưng nhìn chung mức độ tập trung của ngành cao hơn mức bình
quân cả nước. Qua đó ta thấy ngành nông nghiệp, nuôi trồng thủy hải sản so với cả nước vẫn là một trong
những ngành trọng điểm mà nhiều người hướng đến để canh tác phù hợp với điều kiện phát triển của tỉnh
Sóc Trăng.
CHƯƠNG 3: PHÂN TÍCH NĂNG LỰC CẠNH TRANH VI MÔ CỦA TỈNH SÓC TRĂNG
3.1. Đánh giá năng lực cạnh tranh cụm ngành Tôm theo mô hình kim cương.
3.1.1. Bối cảnh cho chiến lược cạnh tranh
Hiện nay, Sóc Trăng là nơi có diện tích nuôi Tôm thâm canh nhiều nhất và có nhiều doanh nghiệp chế biến
Tôm lớn, trình độ chế biến cao của cả nước lẫn thế giới. Tuy nhiên, Ngành Tôm Sóc Trăng vẫn đang phải
đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt từ cả trong và ngoài nước. Trong bối cảnh các tỉnh thành, quốc gia sản
xuất Tôm đều tiến hành nghiên cứu cải tiến công nghệ để giảm giá thành sản phẩm. Đòi hỏi Sóc Trăng cũng
cần chú trọng thay đổi cải tiến để có vị trí cạnh tranh trên thị trường.
- Kiểm soát giá đầu vào: Giá Tôm giống, thức ăn, chế phẩm sinh học,… của Việt Nam đều cao hơn các
nước, nên giá thành Tôm nuôi của Việt Nam thường cao hơn 20% –
30% so với thế giới. Điều này tạo ra một bất lợi lớn của ngành Tôm, khi nó làm giảm đi sức cạnh tranh của
con Tôm Việt Nam so với các nước. Đây cũng là vấn đề lớn mà Sóc Trăng phải đối mặt.
- Các sản phẩm Tôm chế biến sâu: Hiện nay Tôm Việt Nam có thể cạnh tranh với các nước khi giá thành
cao hơn là do trình độ chế biến và sự đa dạng sản phẩm chế biến. Ngay tại Sóc Trăng hầu hết các doanh
nghiệp chế biến Tôm lớn, như: Khánh Sủng, Stapimex, Sao Ta, Vina Cleanfood, Tài Kim Anh,… đều đã
đầu tư máy móc công nghệ chế biến Tôm hiện đại để sản xuất các sản phẩm giá trị gia tăng phục vụ các
phân khúc thị trường cao cấp trên thế giới. các sản phẩm này đều đáp ứng được hầu hết thị trường khó tính
như: EU, Nhật Bản, Mỹ và cả siêu thị của Hàn Quốc. Tuy nhiên, một số nước cũng đã đầu tư máy móc,
công nghệ chế biến. Do đó, để đảm bảo tính cạnh tranh cho ngành Tôm người nuôi Tôm cần có giải pháp
cạnh tranh lâu dài hơn.
- Xây dựng thương hiệu Tôm sạch: Trước những đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng của thị trường xuất
khẩu Tôm, tỉnh Sóc Trăng đã tăng cường hỗ trợ nông dân triển khai nhiều mô hình nuôi Tôm sạch. Hiện
nay, chỉ cần Tôm sạch, không nhiễm kháng sinh là được doanh nghiệp bao tiêu với giá cao hơn bên ngoài từ
6.000 đến 8.000 đồng/kg, nếu đạt chuẩn ASC sẽ còn cao hơn. Xây dựng mô hình nuôi Tôm sạch không chỉ
giúp phát triển bền vững nghề nuôi Tôm, mà còn từng bước hình thành thương hiệu Tôm sạch Sóc Trăng.
Cần có nhiều hơn diện tích Tôm nuôi đạt chuẩn quốc tế và giá thành hạ để tăngbsức cạnh tranh và thúc đẩy
nhanh chương trình xây dựng thương hiệu Tôm Việt Nam nói chung và Tôm sạch Sóc Trăng nói riêng.
Cụ thể, theo kết quả xếp hạng PCI năm 2019 của của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Sóc
Trăng đạt 63,7 điểm; xếp thứ 53 trong 63 tỉnh, thành cả nước; xếp thứ 12 trong 13 tỉnh, thành phố vùng
Đồng bằng sông Cửu Long và thuộc nhóm “trung bình”. Dù điểm số PCI của Sóc Trăng tăng 1,88 điểm
nhưng lại giảm 8 bậc so với xếp hạng PCI năm 2018. Kết quả này cho thấy PCI Sóc Trăng tuy có cải thiện,
nhưng còn chậm hơn so với phần lớn các tỉnh, thành phố.
Theo đó, những điểm mà Sóc Trăng cần cải thiện môi trường kinh doanh của tỉnh, gồm: gia nhập thị trường;
tiếp cận đất đai; dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp; đào tạo lao động; chi phí không chính thức và chi phí thời
gian... Tỉnh cần tăng cường công khai, minh bạch thông tin; tiếp tục giảm thiểu gánh nặng thanh tra, kiểm
tra doanh nghiệp; phối hợp với các hiệp hội doanh nghiệp tiến hành thường xuyên và thực chất các cuộc đối
thoại doanh nghiệp; nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực; xây dựng và triển khai hiệu quả, thực chất
các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp.
3.1.2. Các điều kiện cầu
171 Triển vọng thị trường:
Sau những thành công lẫn thất bại với mô hình nuôi Tôm sú thâm canh, bán thâm canh, từ năm 2010, các
vùng nuôi Tôm của Sóc Trăng bắt đầu chuyển dần mạnh sang nuôi Tôm thẻ chân trắng. Hiện diện tích nuôi
Tôm thẻ chân trắng luôn gấp 2 lần so với Tôm sú và phần lớn là nuôi thâm canh và bán thâm canh. Đây
cũng chính là nguyên nhân góp phần rất lớn đưa diện tích nuôi Tôm nước lợ của Sóc Trăng tăng nhanh từ
năm 2000 đến nay và đến cuối năm 2019 đã đạt trên 150.000 tấn. Với một nguồn Tôm nguyên liệu dồi dào,
đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Tôm ở Sóc Trăng mở rộng quy mô sản xuất, làm tăng giá trị
kim ngạch xuất khẩu.
- Khả năng chi trả:
Trước đây, tại Sóc Trăng, thường tỷ lệ giữa diện tích ao nuôi/ao lắng là 7/3 hoặc 6/4, còn hiện tại, tỷ lệ này
3/7, thậm chí chỉ là 2/8. Đây là sự thay đổi mang ý nghĩa tích cực, khi không chỉ giúp tăng tỷ lệ thành công
mà còn tăng năng suất Tôm nuôi. Vì vậy, cho dù diện tích nuôi thực tế có thấp hơn nhưng bù lại sản lượng
vẫn tăng. Thực tế cũng cho thấy, dù chỉ mới thu hoạch trên 19.000ha, nhưng sản lượng Tôm của Sóc Trăng
đã đạt gần 82.000 tấn, trong khi diện tích đang còn Tôm của tỉnh gần 18.000ha, nên khả năng đạt và vượt
chỉ tiêu sản lượng Tôm năm nay của tỉnh vẫn khá cao.
720 Doanh số:
Sự tự tin và kỳ vọng thị trường không bị tác động mạnh bởi dịch bệnh Covid-19 của các doanh nghiệp được
thể hiện rõ qua việc Tôm nuôi vẫn được các doanh nghiệp thu mua bình thường từ đầu năm đến nay với mức
giá luôn cao hơn so với cùng kỳ năm 2019.
Cụ thể: giá Tôm thẻ loại 100 con/kg có giá dao động 90.000 – 101.000 đồng/kg, loại 50 con/kg giá 124.000
– 138.000 đồng/kg, loại 30 con/kg giá 155.000 – 165.000 đồng/kg… Ngoài ra, các doanh nghiệp của Sóc
Trăng cũng đã thả nuôi vụ Tôm mới hàng trăm hecta với hầu hết nuôi thâm canh và ứng dụng công nghệ cao
để chủ động một phần nguyên liệu phục vụ chế biến, xuất khẩu.
Cũng như các tỉnh ven biển ĐBSCL, kinh tế biển là một trong những nhiệm vụ trung tâm, là thế mạnh trong
phát triển kinh tế của tỉnh Sóc Trăng, trong đó Tôm nước lợ chiếm tỷ trọng khá cao và tiềm năng phát triển
vẫn còn khá lớn. Năm 2019, diện tích nuôi thủy sản của Sóc Trăng đạt 78.968 ha, vượt 8,3% kế hoạch, tăng
1,4% so với cùng kỳ năm 2018. Trong đó, Tôm nước lợ đạt 57.000 ha, vượt 15,7% kế hoạch, tăng 2,4% so
với cùng kỳ năm 2018; diện tích thiệt hại Tôm nước lợ là 5.085 ha, chiếm 8,8% diện tích, giảm 12,5% so
với cùng kỳ năm trước; thấp nhất trong vòng 10 năm qua. Thủy sản nước ngọt 20.136 ha; thủy sản khác
1.152 ha (trong đó Artemia 720 ha). Sản lượng thủy sản của tỉnh đạt 281.357/279.800 tấn, bằng 100,56% kế
hoạch, tăng 9,16% so cùng kỳ năm 2018. Trong đó sản lượng khai thác đạt 70.315 tấn; sản lượng nuôi đạt
211.042 tấn (trong đó Tôm nước lợ đạt 150.355 tấn, đạt 108,5% kế hoạch, tăng 12,3% so với cùng kỳ, chiếm
hơn 18% sản lượng của cả nước).
3.1.3. Các ngành ngành công nghiệp hỗ trợ cho ngành Tôm phát triển
Các ngành công nghiệp hỗ trợ cho ngành Tôm bao gồm: sản xuất vật tư, máy móc, thiết bị, thuốc, hóa chất,
thức ăn vi sinh bổ sung, sản phẩm xử lý môi trường nuôi trồng thủy sản phục vụ ngành Tôm. Bên cạnh đó
điện đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của ngành nuôi Tôm công nghiệp công nghệ cao của tỉnh,
ngành điện cũng đưa ra nhiều giải pháp kỹ thuật hỗ trợ các hộ nuôi Tôm sử dụng điện tiết kiệm, hiệu quả, an
toàn trong sản xuất. Chính vì vậy để đáp ứng sản lượng điện lớn phục vụ cho ngành công nghiệp nuôi Tôm,
Tổng công ty Điện lực miền Nam (EVNSPC) và PC Sóc Trăng đã khẩn trương thực hiện nhiều dự án cấp
điện đến từng vuông Tôm nuôi công nghiệp.
Theo Tổng cục Thuỷ sản, trong nuôi trồng thủy sản, thức ăn có vai trò quan trọng, thường chiếm 40-70% chi
phí sản xuất. Ngành sản xuất thức ăn thủy sản cũng được chú trọng nhiều, có sự nghiên cứu, áp dụng khoa
học kỹ thuật để sản xuất ra loại thức ăn tốt nhất, đảm bảo cho sự phát triển của thủy sản. Từ đó, những năm
gần đây tỉnh Sóc Trăng
đã xây dựng nhiều mô hình nuôi Tôm chú trọng về dinh dưỡng và thức ăn, sử dụng những loại thức ăn cân
bằng dinh dưỡng và có khả năng nâng cao sức khỏe của Tôm để đạt chất lượng tốt nhất, đáp ứng yêu cầu
khắt khe của Tôm xuất khẩu.
Tại các Hợp tác xã (HTX), Tổ hợp tác (THT) nuôi Tôm trong tỉnh, doanh nghiệp tìm đến con Tôm thông
qua các hợp đồng cung ứng giống, vật tư đầu vào và liên kết tiêu thụ sản phẩm. Hiện tại về liên kết đầu vào
có 5 HTX/THT với diện tích 197 ha liên kết với các nhà cung ứng vật tư đầu vào (thức ăn, thuốc, chế phẩm
sinh học, giống). Liên kết đầu ra có 11 HTX/THT với diện tích 337 ha đã ký liên kết tiêu thụ sản phẩm cho
Các công ty thu mua tại tỉnh với giá cao hơn so với thị trường. Những ngành công nghiệp phụ trợ này phát
triển đã hỗ trợ rất lớn cho việc phát triển cụm ngành Tôm một cách bền vững, đem lại lợi nhuận cao nhưng ít
gây ảnh hưởng đến môi trường.
3.1.4. Các điều kiện nhân tố đầu vào
- Hạ tầng thông tin liên lạc:
Từ năm 2010 đến năm 2017, tỷ lệ người sử dụng những phương tiện để liên lạc như điện thoại, internet tăng
cao qua các năm. Cụ thể tỷ lệ sử dụng điện thoại di động năm 2010 đạt 29% đến năm 2017 tăng lên đến
70%, đối với tỷ lệ người sử dụng internet năm 2010 là 4,11% qua đến năm 2017 tăng lên đến 40%. Bên cạnh
đó doanh thu của doanh nghiệp từ công nghệ thông tin cũng tăng mạnh 502.308 triệu đồng (năm 2010) qua
đến năm 2017 doanh thu tăng cao lên đến hơn 1,3 tỷ đồng. Dự kiến đến các năm về sau số liệu còn tăng cao
hơn nữa. Từ số liệu dưới đây có thể thấy Sóc Trăng có Hạ tầng viễn thông công nghệ thông tin phát triển
đồng bộ, rộng khắp 100% các xã, phường, thị trấn. Có thể thấy hạ tầng thông tin rất phát triển nhờ được đầu
tư tốt và thực thi chính sách cạnh tranh hiệu quả thông qua đó có thể truyền thông tin nhanh chóng phục vụ
những ngành tiềm năng của tỉnh đặc biệt là ngành kinh tế mũi nhọn cụm ngành Tôm của tỉnh Sóc Trăng
- Hạ tầng tài chính: Hiện nay, công nghệ, thiết bị, hạ tầng nuôi Tôm cần phải thay đổi, nên nhu cầu nguồn
vốn đầu tư là rất lớn, vượt quá khả năng tự có của người nuôi
Tôm. Trong khi đó, nguồn vốn ngân hàng thời gian qua chưa đáp ứng đủ nhu cầu phát triển ngành Tôm, nên
người nuôi Tôm gặp không ít khó khăn về nguồn vốn để phát triển sản xuất, nhất là việc đầu tư ứng dụng
khoa học công nghệ cao vào nuôi Tôm.
Để có vốn nuôi Tôm, phần lớn người nuôi Tôm hiện nay phải dựa vào nguồn vốn đầu tư của các đại lý
thông qua việc mua nợ vật tư đầu vào với giá cao hơn thực tế 20 - 40%. Vì vậy, suất đầu tư cho các mô hình
nuôi Tôm tới đây cũng cần được thay đổi cho phù hợp để tạo điều kiện thúc đẩy cụm ngành nghề nuôi Tôm
nước trên địa bàn tỉnh phát triển.
- Hạ tầng nhân lực:
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên tại Sóc Trăng năm 2018 là 670.100 người, đến năm 2019 đã tăng lên
thành 657.900 người.
Trong đó, Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh tế đã qua đào tạo tại Sóc Trăng năm
2018 là 11,4% đến năm 2019 đã tăng lên thành 12,2%.
Nguồn nhân lực của tỉnh có nâng cao hơn về số lượng, chất lượng và cơ cấu ngành nghề; công tác quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng, đề bạt được coi trọng. Hệ thống đào tạo nghề của tỉnh từng bước
được quan tâm phát triển, mạng lưới cơ sở dạy nghề của địa phương có bước tăng thêm về số lượng và chất
lượng, đa dạng hơn về ngành nghề đáp ứng phần nào cho nhu cầu lao động có tay nghề, cung cấp môt lượng
khá lớn Cán bộ trung cấp kỹ thuật và tạo việc làm của tỉnh. Trong đó chất lượng nhân lực trong lĩnh vực
nông nghiệp, thủy sản ngày càng được nâng cao đáp ứng nhu cầu phát triển xã hội của tỉnh.
- Hạ tầng hành chính:
Thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 của Chính phủ, trọng
tâm là rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục hành chính, đến nay, tỉnh Sóc Trăng có 100% thủ tục hành chính
giải quyết theo cơ chế một cửa.
Số lượng thủ tục hành chính áp dụng trên địa bàn tỉnh là 1.845, trong đó có 107 thủ tục được giải quyết theo
cơ chế một cửa liên thông. Công tác cải cách thủ tục hành chính của tỉnh chuyển biến tích cực; hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước được nâng lên. Năm 2019 chỉ số cải cách thủ tục hành chính của tỉnh đã tăng thêm 5
bậc, đứng ở thứ hạng 19/63 tỉnh, thành phố của cả nước và tăng 42 bậc so với năm 2015.
+Hạ tầng đổi mới, sáng tạo: Sóc Trăng đang ngày càng trở thành một tỉnh năng động sáng tạo đổi mới góp
phần phát động cung cấp thông tin và có những hướng dẫn cơ bản
cho các doanh nghiệp. Ứng dụng tốt các phương pháp kĩ thuật tiên tiến, quy trình nuôi ứng dụng công nghệ
cao là xu thế phát triển tất yếu của nghề nuôi Tôm nước lợ trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mới
đây Đội Sóc Trăng đoạt giải đặc biệt với mô hình đa canh cây trồng vật nuôi Cua - Cá - Tôm – Lúa tại hội
thi “Sáng kiến mô hình nuôi trồng thủy sản thích ứng với biến đổi khí hậu năm 2020”. Qua đó cho thấy
trước tác động tiêu cực từ biến đổi khí hậu, nông dân nuôi trồng thủy sản đã có nhiều sáng kiến thích ứng để
biến nguy thành an góp phần trao đổi và phổ biến những mô hình thích ứng hiệu quả để phát triển bền vững
ngành nuôi trồng thủy sản tại Việt Nam nói chung và tại vùng ĐBSCL nói riêng.
3.2. Trình độ phát triển cụm ngành Tôm giai đoạn 2010 - 2017
3.2.1. Diện tích nuôi trồng.
Từ biểu đồ 2, ta thấy diện tích nuôi trồng thủy hải sản ở Sóc Trăng có biến động trong những năm trước đây
nhưng có xu hướng tăng từ năm 2017. Đặc biệt, diện tích thả nuôi Tôm tăng 5427 ha trong từ năm 2010 đến
2017 và có xu hướng tăng. Kể từ sau 2016, tốc độ tăng của diện tích thả nuôi Tôm cao hơn tốc độ tăng trong
các năm trước (năm 2017 = 1,167 lần so với năm 2016, và năm 2016= 1,0015 lần năm 2015).
Ngược lại, diện tích thả nuôi Cá lại giảm 2580 ha trong vòng 7 năm và còn có xu hướng tiếp tục giảm.
Từ đó cho thấy diện tích nuôi trồng thủy sản của tỉnh Sóc Trăng trong đó ngành nuôi Tôm chiếm diện tích
lớn nhất và có tiềm năng cao hơn so với nuôi trồng Cá và các loại thủy sản khác.
3.2.2. Sản lượng nuôi trồng
Nhìn chung, tổng sản lượng thủy sản của Sóc Trăng tăng liên tục từ năm 2010 đến năm 2017 (tăng 88,884
tấn). Sản lượng Tôm tăng một cách đầy triển vọng từ năm 2010 đến năm 2017 (tăng 68,202 tấn). Trong khi
đó, sản lượng Cá từ trước năm 2015 cao hơn sản lượng Tôm (năm 2015, lượng Cá = 1.2 lần lượng Tôm)
nhưng từ sau năm 2016, sản lượng Cá thấp hơn Tôm và có xu hướng suy giảm (năm 2017, lượng Tôm =
1,365 lần lượng Cá).
Từ bảng số liệu 6 và biểu đồ 4, có thể thấy sản lượng nuôi trồng thủy sản phân theo nước nuôi trong đó nước
lợ chiếm sản lượng nuôi trồng cao nhất so với các loại nước nuôi khác.
=> Qua đó cho thấy tỉnh Sóc Trăng đang ngày càng có tiềm năng phát triển mạnh về cụm ngành Tôm và trở
thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của địa phương này.
3.3. Lợi thế và trở ngại phát triển cụm ngành Tôm hiện nay của tỉnh Sóc Trăng
3.3.1 . Lợi thế phát triển cụm ngành
3.3.1.1. Đánh giá phát triển cụm ngành Tôm Sóc Trăng
Hiện nay khi so sánh về diện tích, Sóc Trăng là tỉnh không chiếm được lợi thế so với các tỉnh còn lại ở Bán
đảo Cà Mau, nhưng về sản lượng Tôm thì Sóc Trăng luôn nằm trong top 2 chỉ sau tỉnh Cà Mau.
Sóc Trăng có sản lượng Tôm nước lợ lớn nhất cả nước, đặc biệt là con Tôm thẻ. Bên
cạnh đó, đội ngũ doanh nghiệp chế biến Tôm ở Sóc Trăng cũng chưa nhiều, nhưng hầu
hết là doanh nghiệp lớn trong ngành Tôm cả nước. Như vậy, chỉ cần phát triển thêm đội
ngũ doanh nghiệp sản xuất Tôm giống nữa thôi, Sóc Trăng sẽ quy tụ được đầy đủ các
yếu tố để trở thành tỉnh có ngành Tôm phát triển mạnh nhất của cả nước.
Bên cạnh sự phát triển các vùng nuôi Tôm thâm canh của các hộ nuôi còn có sự phát triển khá mạnh những
vùng nuôi quy mô lớn rộng hàng trăm héc-ta của các doanh nghiệp, như: Sao Ta, Cleanfood, Stapimex,
Khánh Sủng... cùng với trình độ chế biến hàng giá trị gia tăng cao, đã góp phần tạo sức cạnh tranh không chỉ
cho doanh
nghiệp, mà
còn cho con
Tôm trong
tỉnh.
Sơ đồ
Nhờ vào việc tập trung phát triển nuôi Tôm theo mô hình thâm canh và bán thâm canh ngay từ giữa thập
niên 90 của thế kỷ trước mà Sóc Trăng hiện là nơi có diện tích nuôi Tôm thâm canh nhiều nhất của cả nước.
Cuối năm 2019, cả nước đạt 705.000ha nuôi Tôm nước lợ, trong đó Cà Mau đứng đầu với khoảng
281.000ha, Kiên Giang gần 128.000ha, Bạc Liêu 135.000ha và Sóc Trăng 57.500ha. Tuy có diện tích nuôi
thấp, nhưng sản lượng Tôm của Sóc Trăng vào năm này lại cao hơn Kiên Giang và chỉ sau Cà Mau khoảng
20.000 tấn.
Có thể thấy rằng, những tỉnh gần với tỉnh Sóc Trăng trong đó đặc biệt gồm 2 tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau có
tiềm năng cao nếu cùng phát triển cụm ngành Tôm. Vì 3 tỉnh trọng điểm ngành này có sản lượng Tôm cao
nhất cả nước. Thời điểm này Cà Mau là tỉnh có diện tích nuôi và sản lượng Tôm nuôi lớn nhất nước. Bạc
Liêu là nơi tập trung các doanh nghiệp (DN) làm Tôm giống nhiều nhất, có DN nuôi Tôm công nghệ cao
quy mô nhất. Sóc Trăng là nơi có diện tích nuôi Tôm thâm canh nhiều nhất và nhất là có nhiều DN chế biến
Tôm lớn, trình độ chế biến cao của cả nước lẫn thế giới. Việc kết hợp giữa các tỉnh với nhau về phát triển
cụm ngành Tôm thật sự rất cần thiết và đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của tỉnh Sóc Trăng nói
riêng và các địa phương trên nói chung, không những làm chuyển dịch cơ cấu sản xuất kinh tế nông nghiệp
nông thôn theo hướng chuyển đổi cơ cấu mùa vụ mà còn phát huy tiềm năng lợi thế giữa các vùng
lại với nhau giúp nâng cao giá trị hiệu quả sản xuất trên đơn vị diện tích đất canh tác cùng với việc tạo ra
nhiều con giống mới kết hợp với trình độ chế biến Tôm cao sẽ một phần nào đó giải quyết được nhiều vấn
đề xã hội bức bách như góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống người dân ở nơi đây.
Với những thế mạnh và thành quả đang có cũng như xu thế tương lai, Sóc Trăng là tỉnh trọng điểm Tôm cả
nước là trong tầm tay. Với vị trí, vai trò đó Sóc Trăng sẽ trở thành một điểm tựa mạnh mẽ, một xung lực để
thúc đẩy toàn ngành Tôm đạt thành quả cao nhất, có tốc độ tăng trưởng sẽ hơn hẳn thời gian qua.
3.3.1.2. Về xuất khẩu Tôm ở Sóc Trăng
Từ đầu năm 2020 đến tháng 8-2020 tỉnh Sóc Trăng Đáp ứng 4 tiêu chí EU chứng nhận sản phẩm đạt chứng
nhận ATTP. Mở ra nhiều cơ hội xuất khẩu nhiều sản phẩm sang các nước thuộc EU.
Ngay tại Sóc Trăng hầu hết các doanh nghiệp chế biến Tôm lớn, như: Khánh Sủng, Stapimex, Sao Ta,
Vinacleanfood, Tài Kim Anh… đều đã đầu tư máy móc công nghệ chế biến Tôm hiện đại để sản xuất và
xuất khẩu các sản phẩm giá trị gia tăng phục vụ các phân khúc thị trường cao cấp trên thế giới. Ngoài ra hiện
nay sản phẩm của Vinacleanfood đã có mặt được tại hầu hết thị trường khó tính như: EU, Nhật Bản, Mỹ và
cả siêu thị của Hàn Quốc”.
Tính chung cả năm 2019, giá trị xuất khẩu hàng hóa là 845 triệu USD, trong đó xuất khẩu hàng thủy sản 655
triệu USD, vượt 5,63% kế hoạch, tăng 10,98%, chiếm 77,5% giá trị xuất khẩu hàng hóa của tỉnh.
Trong 6 tháng đầu năm 2020, xuất khẩu thủy sản của Sóc Trăng đạt 470 triệu USD (trên 52% kế hoạch),
tăng gần 26% so cùng kỳ. Minh chứng xu thế ổn định và phát triển công nghiệp chế biến Tôm Sóc Trăng là
6 tháng đầu năm doanh số chung tăng trưởng khoảng 15%, gấp nhiều lần hơn so số trung bình toàn ngành.
Trong 8 tháng đầu năm 2020, giá trị xuất khẩu Tôm của địa phương đạt khoảng 500 triệu USD, tăng trưởng
17% so với cùng kỳ. Xuất khẩu Tôm ở Sóc Trăng vẫn giữ mức tăng trưởng và khá ổn định. Dự báo các
Doanh nghiệp xuất khẩu Tôm tiếp tục có đơn hàng xuất khẩu ổn định đến hết quý IV/2020.
3.3.1.3. Tiềm năng ngành nuôi Tôm – Cơ hội cho nhà đầu tư
Là tỉnh có diện tích nuôi Tôm nước lợ lớn, tổng sản lượng Tôm nguyên liệu cung cấp ra thị trường hơn
100.000 tấn mỗi năm; cộng thêm tình hình sản xuất mấy năm nay khá thành công, nghề nuôi Tôm nước lợ ở
Sóc Trăng đã thu hút sự quan tâm của nhiều doanh nghiệp công ty, khi muốn phát triển thị trường, mở rộng
vùng nguyên liệu hay liên kết thành chuỗi sản xuất tiêu thụ lâu dài.
Nhìn thấy tiềm năng sẵn có ở Sóc Trăng, những năm qua, nhiều doanh nghiệp tìm đến xây dựng khu nuôi
Tôm công nghệ cao; như mô hình nuôi Tôm siêu thâm canh trong nhà kính do Tập đoàn Him Lam đầu tư ở
xã Lịch Hội Thượng, huyện Trần Đề, năng suất có thể đạt 100 tấn/ha/vụ; mô hình khép kín nuôi Tôm từ
khâu con giống, chế biến thức ăn đến nuôi và chế biến xuất khẩu mang lại hiệu quả kinh tế cao của công ty
TNHH Vĩnh Thuận tại phường Vĩnh Phước, thị xã Vĩnh Châu... Từ những tiến bộ kỹ thuật, cộng thêm điều
kiện tự nhiên thích hợp của Sóc Trăng, các khu vực nuôi Tôm này nhiều năm qua đã mang lại doanh thu rất
cao cho các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, ngành Thủy sản Sóc Trăng tập trung cho công tác xây dựng nghề
nuôi Tôm nước lợ theo hướng VietGAP, tạo ra con Tôm sạch, chất lượng cao.
Tin rằng với những nền tảng đã xây dựng, ngành Tôm Sóc Trăng sẽ là cơ hội làm ăn đầy tiềm năng mà các
doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh dễ dàng nhận thấy, cùng với các chính sách ưu đãi cho nhà đầu tư, nghề
nuôi Tôm nước lợ sẽ giúp cho doanh nghiệp và người nuôi Tôm cùng phát triển.
3.3.2 Những trở ngại phát triển cụm ngành
- Giá thành: Giá Tôm biến động thất thường. Các chi phí đầu vào như con giống, thức ăn, chế phẩm sinh
học,… cao hơn các nước khác nên giá thành sản phẩm Tôm cao hơn khoảng 20-30%. => Giảm sức cạnh
tranh ngành Tôm.
- Thị trường: Còn chịu ảnh hưởng bởi thị trường Trung Quốc, ngành Tôm của Sóc Trăng gặp nhiều khó
khăn khi tiếp cận các thị trường khó tính như Nhật Bản, EU,…
- Dịch bệnh: Do biến đổi khí hậu, thời tiết thay đổi khắc nghiệt như nắng nóng, độ mặn tăng cao khiến cho
bà con nuôi Tôm lo ngại các bệnh, nhất là bệnh đốm trắng, đỏ thân, bệnh gan tụy cấp và bệnh mới vi bào tử
trùng nuôi Tôm hoài không lớn, do đó người
dân sợ thả nuôi trong giai đoạn này vì nguy cơ rủi ro cao. Đầu mùa Tôm mặn đo được tại một số địa phương
là 30 phần ngàn cao hơn mức bình thường ở khoảng 12 phần ngàn.
Con giống: Nước ta cũng như Sóc Trăng vẫn chưa làm chủ công nghệ lai tạo, cung ứng giống, chưa có
con giống kháng bệnh phục vụ nuôi quảng canh. Người nuôi Tôm
vẫn còn làm theo kinh nghiệm là chính, chưa tạo được liên kết trong sản xuất, chủ yếu vẫn làm độc lập, chưa
đa dạng sinh kế ngoài con Tôm; các kỹ năng về giám sát nuôi Tôm và theo dõi chăm sóc Tôm còn hạn chế.
3.4. Khuyến nghị chính sách
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần có chính sách về vốn, biện pháp nâng cao kiến thức cho người
nuôi; tăng cường kiểm tra, quản lý nguồn gốc Tôm bố mẹ và các nguyên liệu vật tư phục vụ cho nuôi trồng
thủy sản nhằm hạn chế thấp nhất rủi ro cho người nuôi. Đặc biệt, các cơ quan nghiên cứu, nhà khoa học tiếp
tục nghiên cứu sâu về con Tôm nước lợ để cảnh báo cho người nuôi các giải pháp phòng ngừa dịch bệnh,
hình thành khu vực nuôi Tôm nước lợ mang tính thâm canh, đạt chất lượng cao và bền vững.
ĐIỆN BIÊN
PHẦN 2: ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỤM NGÀNH DU LỊCH Ở ĐIỆN BIÊN
1. Lí do lựa chọn phát triển cụm ngành du lịch ở Điện Biên:
1.1. Điều kiện tự nhiên:
Điện Biên có địa hình núi lòng chảo, rất khó phát triển ngành nông nghiệp, bên cạnh đó khả năng thu hút
vốn đâu tư cho nông nghiệp còn thấp. Theo 2018, toàn tỉnh có 1.180 doanh nghiệp đăng ký hoạt động, chủ
yếu tập trung trong lĩnh vực khai khoáng, xây dựng, thương mại và dịch vụ. Số doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ lệ nhỏ với 245/1.180 doanh nghiệp (có đăng ký). Trên
thực tế số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2018 là 50 doanh
nghiệp,
chiếm 4,23% tổng số doanh nghiệp của tỉnh. Các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn
chủ yếu tập trung trên địa bàn các huyện: Ðiện Biên, Mường Ảng, Tuần Giáo và Mường Nhé.
Ngoài những đặc điểm đặc thù như: Thiếu vùng nguyên liệu, hạ tầng logistics, công nghệ… thì việc khó
tiếp cận các nguồn vốn để thực hiện dự án là một “điểm nghẽn” khiến các nhà đầu tư khó đầu tư vào lĩnh
vực nông nghiệp trên địa bàn và cũng là một phần nguyên nhân chính khiến các dự án đã được phê duyệt
vẫn đang “nằm trên giấy” hoặc chậm tiến độ.
Ðến nay, tỉnh Điện Biên chỉ áp dụng mức cao nhất theo quy định của pháp luật đối với các dự án được ưu
đãi đầu tư trên địa bàn tỉnh nhưng do nguồn vốn cân đối ngân sách địa phương còn hạn hẹp nên chưa thực
hiện hỗ trợ cho các nhà đầu tư. Nguồn vốn chính sách không được hỗ trợ, các nhà đầu tư xoay sang tiếp cận
các nguồn vốn tín dụng ưu đãi tại các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, các nhà đầu tư chỉ có thể vay vốn
tín chấp, khó tiếp cận các gói vay ưu đãi theo quy định hiện hành. Hiện nay, toàn tỉnh có 5/16 dự án đầu tư
vào lĩnh vực nông nghiệp chậm tiến độ so với cam kết với tỉnh. Có những dự án đã quá thời hạn cam kết
nhưng vẫn chưa triển khai thực hiện.
1.2. Tiềm năng du lịch:
Việc liên kết phát triển du lịch với 8 tỉnh trong khu vực Tây Bắc mở rộng bước đầu đạt được những kết quả
quan trọng. Các địa phương đã liên kết chặt chẽ, toàn diện trên các mặt và từng bước hình thành chuỗi sản
phẩm du lịch. Một số sản phẩm du lịch đã trở thành “thương hiệu” của tỉnh và khu vực, tạo sợi dây liên kết
bền vững giữa các địa phương, thu hút không nhỏ lượng du khách trong và ngoài nước. Nhờ có hướng đi
đúng, du lịch Ðiện Biên đã có những bước phát triển vượt bậc. Lượng du khách đến Ðiện Biên trong năm
2017 tăng 25% so với năm 2016, trong 6 tháng đầu năm ước đạt 490 nghìn lượt khách, tăng 57% so với
cùng kỳ năm 2017; tổng thu nhập từ hoạt động du lịch ước đạt 643,7 tỷ đồng, tăng 49% so với cùng kỳ năm
trước.
2. Phân tích bằng mô hình kim cương:
2.1. Điều kiện đầu vào:
Cơ sở hạ tầng:
Tập trung xây dựng Khu du lịch Ðiện Biên Phủ - Pá Khoang đạt tiêu chí trở thành khu du lịch quốc gia với
hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật đồng bộ, hiện đại; sản phẩm du lịch chất lượng cao, có thương hiệu, có sức
cạnh tranh, trở thành điểm nhấn quan trọng của du lịch vùng Tây Bắc vào năm 2025
Đa dạng hóa các sản phẩm phù hợp với tiềm năng, lợi thế của tỉnh gắn với cụm, khu, điểm du lịch; đầu tư
xây dựng các bản văn hóa du lịch có chất lượng cao phục vụ nhu cầu của khách du lịch; quy hoạch và mở
rộng diện tích trồng, chăm sóc, bảo vệ cây hoa ban tại các điểm di tích lịch sử, văn hóa, các tuyến phố,
tuyến đường…
Tuy nhiên các cơ sở hạ tầng vẫn chưa chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của du khách, đặc biệt
trong thời gian cao điểm
Có nhiều nguyên nhân khiến hạ tầng du lịch của tỉnh ta chưa phát triển, trong đó quan trọng nhất là chính
sách thu hút đầu tư. Ðiện Biên vốn là tỉnh biên giới với đường biên kéo dài, vấn đề quốc phòng - an ninh
luôn được đặt lên hàng đầu, cùng với đó là những vấn đề liên quan đến quy hoạch đất đai, quỹ đất hạn hẹp;
giao thông chưa thuận tiện khi đường bộ dẫn đến tỉnh là hành trình kéo dài, nhiều đèo dốc, hay sạt lở vào
mùa mưa; hạ tầng hàng không chưa phát triển, giá đắt… Ðây chính là những yếu tố làm “chùn chân” những
nhà đầu tư có tiềm lực mạnh, đầu tư có chiều sâu, mang tính lâu dài. Ngoài ra, công tác phối hợp quản lý
các khu, điểm du lịch giữa ngành Du lịch với các đơn vị, địa phương cũng chưa đáp ứng được yêu cầu. Ðơn
cử như hiện nay, xu hướng dịch vụ du lịch tại các điểm, khu là “không tường rào” để tạo không gian thân
thiện, thuận tiện, thoáng đãng… nhưng cơ bản các điểm tham quan tại TP. Ðiện Biên Phủ đều được quây
tường, rào kín do chưa đảm bảo được vấn đề quản lý, chưa xây dựng được ý thức gìn giữ của người dân.
Thống kê vào năm 2019, toàn tỉnh có gần 147 khách sạn, nhà nghỉ đang hoạt động với trên 2.200 phòng và
2 Homestay là loại hình du lịch mà khách du lịch sẽ nghỉ, ngủ tại nhà người dân địa phương. Ngoài các nhà
nghỉ, khách sạn, du khách đến Điện Biên còn thể tìm đến các bản Văn hóa du lịch khu vực gần lòng chảo
Mường Thanh như: Bản Mển, Him Lam 2, Noong Chứn, Noong Bua… để nghỉ qua đêm. Do đó mặc dù số
lượng khách du lịch trong và ngoài nước tăng cao trong dịp Lễ hội Hoa Ban, tỉnh Điện Biên hoàn toàn có
thể đáp ứng được nhu cầu lưu trú cho du khách khi đến với Điện Biên
Hiện ngành Du lịch đang giải quyết việc làm cho trên 14.000 người với khoảng 6.000 lao động trực tiếp và
8.000 lao động gián tiếp.
Bên cạnh đó, số lượng cơ sở lưu trú phục vụ khách du lịch được mở rộng với trên 210 cơ sở kinh doanh lưu
trú du lịch, tổng số 2.793 buồng/4.881 giường, trong đó có 1 khách sạn đang hoàn thiện hồ sơ đề nghị công
nhận hạng 4 sao và 1 khách sạn 3 sao đang trong thời gian làm hồ sơ thẩm định loại hạng; 1 khách sạn 3
sao, 2 khách sạn 2 sao, 9 khách sạn 1 sao, 11 khách sạn, 142 nhà nghỉ, 4 home stay, 20 nhà trọ và 90 nhà
khách.
Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh có 106 nhà hàng có thể đón, phục vụ cùng lúc từ 120 - 1.200 khách, 10 điểm vui
chơi giải trí, tham quan ngoài trời có khả năng đáp ứng nhu cầu vui chơi cho 80.000 lượt khách cùng lúc.
Riêng hoạt động lữ hành, tỉnh có 4 doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành, trong đó 3 doanh nghiệp được
cấp giấy phép kinh doanh lữ hành quốc tế, 1 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa.
Tuy nhiên thì Nhiều loại hình dịch vụ du lịch được mở ra song do tự phát trong dân nên không tránh khỏi
tình trạng nhếch nhác, xập xệ. Vấn đề môi trường, cảnh quan ở các khu, điểm du lịch cũng còn nhiều hạn
chế. Nguyên nhân của tình trạng trên một phần do xuất phát điểm du lịch của tỉnh thấp so với các trung tâm
du lịch lớn của vùng và toàn quốc; chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế.
+ Du lịch lịch sử: Bảo tàng chiến thắng Điện Biên Phủ, Nghĩa trang liệt sĩ đồi A1 (Nghĩa trang liệt sỹ A1,
nằm cách điểm di tích lịch sử đồi A1 (thành phố Điện Biên Phủ) vài trăm mét về phía nam, được xây dựng
năm 1958), tháp Chiềng Sơn, Mường Luân, A Pa Chải cực tây của tổ quốc
+ Các khu du lịch mang bản sắc đồng bào thiểu số như các bản làng bản Co Mỵ, Bản Phiêng Lơi, bản Ten,
chợ phiên vùng cao Điện Biên…
+ Các du lịch sinh thái suối nước nong Hua Pe, U va, Hồ Pá Khoang, Vườn anh đào Mường Phăng, động Pa
Thơm, Cầu Mường Thanh và cánh đồng Mường Thanh, động Xá Nhè, Khu bảo tồn thiên nhiên Mường né
+ Du lịch tâm linh: Điểm văn hóa tâm linh Linh Sơn
Phần lớn các địa điểm du lịch tại Điện Biên tập trung chủ yếu vào các loại hình du lịch lịch sử và du lịch
sinh thái là chủ yếu, bến cạnh đó các loại hình du lịch vui chơi giải trí vẫn chưa được chú trọng và đầu tư
mạnh.
Hạ tầng giao thông: hạ tầng giao thông đảm bảo tốt cho việc đi lại
Điện Biên nằm ở vị trí ngã 3 biên giới giáp với 2 nước Trung Quốc và Lào, hiện nay, trên tuyến biên giới
với nước bạn Lào đã có cặp Cửa khẩu quốc tế Tây Trang - Pang Hốc, Cửa khẩu Hình Phác - Na Son; trên
tuyến biên giới với Trung Quốc có lối mở A Pa Chải - Long Phú. Hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông đi các
cặp cửa khẩu, lối mở đang được Nhà nước và địa phương đầu tư nâng cấp, tạo thuận lợi cho việc đi lại,
thông thương của cư dân hai bên biên giới. Tỉnh còn có sân bay Điện Biên Phủ được quy hoạch là sân bay
Quốc tế tiểu vùng. Hệ thống đường bộ đi Sơn La - Hòa Bình - Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ; đi
Lai Châu - Lào Cai - Yên Bái - Phú Thọ và các tỉnh Đông Bắc tạo thành cung kết nối giữa các tỉnh, vùng
miền trong và ngoài nước. Và cũng với vị trí địa lý này, tỉnh là cầu nối thuận lợi giữa khu vực Bắc Bộ với
các tỉnh Bắc Lào, khu vực Tây Nam Trung Quốc và miền nam Myanma. Đây là những điều kiện thuận lợi
để Điện Biên khai thác tiềm năng du lịch, dịch vụ và thương mại, kinh tế cửa khẩu với các nước trong tiểu
vùng.
Toàn tỉnh có hơn 8.200km giao thông, 6 tuyến quốc lộ, 20 tuyến tỉnh lộ, 102 tuyến đường huyện và trên
5.000km đường xã, thôn, xóm, nội đồng; 100% xã có đường ô tô đến trung tâm. Thời gian qua, nhiều dự án
phát triển giao thông quan trọng trên địa bàn tỉnh đã hoàn thành, như: Cải tạo, nâng cấp quốc lộ 279 (đèo
Chiến Thắng - Minh Thắng); cải tạo, nâng cấp quốc lộ 12 đoạn Mường Chà - TP. Ðiện Biên Phủ; đường Si
Pa Phìn - Mường Nhé
Cảng hàng không Điện Biên được quy hoạch đến năm 2030 với quy mô cấp 3C, công suất 2 triệu hành
khách/năm. hiện trạng đường cất hạ cánh ngắn nên chỉ khai thác được tàu bay ATR-72 và tương đương.
Hạ tầng thông tin
Đến nay, toàn tỉnh có 150 điểm phục vụ bưu chính, 99 điểm bưu điện văn hóa xã; 765 vị trí trạm thu phát
sóng thông tin di động (BTS); 447 điểm cung cấp dịch vụ viễn thông công cộng; 415.000 thuê bao điện
thoại, đạt mật độ 70 thuê bao/100 dân; 45.000 thuê bao internet; tỷ lệ hộ gia đình có kết nối internet đạt
33,6%.
Hạ tầng bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin, phát thanh truyền hình tiếp tục được nâng cấp, mở
rộng; đến nay đã có 130/130 xã, phường, thị trấn được phủ sóng di động 3G; 100% địa bàn các huyện và cơ
quan Nhà nước được kết nối Internet tốc độ cao.
Bên cạnh đó, dịch vụ quảng bá hình ảnh du lịch Điện Biên còn chưa phổ biến, chỉ tập trung vào các trang
báo truyền thống chưa phổ biến rộng rãi như: Đài phát thanh Điện Biên, các bài báo nhỏ lẻ mà quên đánh
vào các loại hình marketing được nhiều người sử dụng như facebook vẫn chưa được chú ý đến.
Lực lượng lao động của Điện Biên còn khá là ít so với các địa phương lân cận, năm 2018 chỉ có 341,4
nghìn người. Tuy nhiên tỷ lệ lao động trong nền kinh tế đã qua đào tạo lại chiếm tỷ lệ cáo hơn so với các
tỉnh lân cận như Sơn La và Lai Châu. Qua đây ta cũng thấy được rằng dù không có mạnh về số lượng
nhưng về chất lượng lao động của Điện Biên cũng khá là tốt so với mặt bằng chung giữa các tỉnh lân cận,
ngoài ra người dân Điện Biên khá là thân thiện và hiếu khách.
33
Mặc dù người dân Ðiện Biên vốn thân thiện, hiếu khách, không gây ra những phiền phức cho du khách như
bán hàng rong, ăn xin… nhưng đâu đó vẫn tồn tại tình trạng “chặt chém” chụp giật. Hiện nay, với sự phát
triển của công nghệ, khi đến bất cứ điểm du lịch nào, bật dữ liệu 3G, 4G du khách đều nhận được câu hỏi
đánh giá mức độ hài lòng về điểm đến đó từ hệ thống dữ liệu của google (bằng cách đánh dấu sao). Khách
du lịch hoàn toàn chủ
động đánh giá mà không chịu bất cứ tác động nào về quản lý. Và đương nhiên, nếu một điểm du lịch bị
chấm thấp sao (1, 2 sao), những du khách khác sẽ không chọn đây là điểm đến khi kiểm tra hệ thống đánh
giá này. Và đặc biệt, tại các điểm, khu của các địa phương có nền du lịch phát triển, giữ gìn môi trường,
cảnh quan đã trở thành nếp sinh hoạt mang tính phản xạ tự nhiên (thấy rác là nhặt, thấy bẩn là báo), còn tại
tỉnh ta, có thể khẳng định là chưa thực hiện được điều này. Ý thức của người dân cũng là một trong những
nội dung để đảm bảo sự nguyên trạng của cảnh quan, di tích - yếu tố sống còn trong phát triển du lịch.
Đa dạng bản sắc
Điện Biên là nơi hội tụ sinh sống của 19 dân tộc anh em (Thái; Mông; Kinh; Dao; Khơ Mú; Hà Nhì; Lào;
Hoa (Hán); Kháng; Mường; Cống; Xi Mun; Si La; Nùng; Phù Lá; Thổ; Tày; Sán Chay và dân tộc khác).
Mỗi dân tộc có những nét riêng về ngôn ngữ, phong tục tập quán, văn hóa… tạo thành bức tranh đa sắc màu
cho nền văn hóa Điện Biên.
2.2. Điều kiện cầu:
Xu hướng du lịch hiện nay (mức độ khách hàng của điện biên) khách trong nước và nước ngoài:
Trong năm 2019, tỉnh Điện Biên đã đón khoảng 845 nghìn lượt khách (đạt 101,8% so với kế hoạch, tăng
19,8% so với năm 2018); trong đó, khách quốc tế ước đạt 183 nghìn lượt (đạt 101,6%). Ðiều này cho thấy
du lịch Ðiện Biên đang ngày càng nhận được sự quan tâm nhiều hơn từ du khách. Doanh thu từ hoạt động
du lịch cũng tăng lên, ước đạt trên 1.366 tỷ đồng (tăng 18,2% so với năm 2018); số ngày lưu trú bình quân
của khách đạt 2,5 ngày.
Ngoài ra, ngành tăng cường liên kết để hợp tác thu hút đầu tư phát triển sản phẩm du lịch; tham mưu thúc
đẩy phát triển một số sản phẩm du lịch bằng mây tre đan, mỹ nghệ của địa phương... Đồng thời, công tác
đầu tư nâng cao chất lượng dịch vụ thông qua việc nâng cao chất lượng phục vụ tại các đơn vị kinh doanh
dịch vụ lưu trú, nhà hàng, điểm du lịch… cũng được quan tâm. Ngành Du lịch cũng tiến hành khảo sát,
đánh giá, xúc tiến đầu tư xây dựng sản phẩm và thương hiệu cho các điểm tham quan chợ vùng cao như:
Chợ Xá Nhè (Tủa Chùa), chợ biên giới A Pa Chải (Mường Nhé). Phát triển du lịch cộng đồng, ngành cũng
quan tâm bảo tồn không gian, cảnh quan, kiến trúc và các sinh hoạt văn hóa cộng đồng; phát triển các khu
du lịch nghỉ dưỡng kết hợp tham quan bản của đồng bào dân tộc khu vực hồ Pa Khoang; du lịch khám phá
tại động Pa Thơm; du lịch trải nghiệm khám phá ngã ba biên giới A Pa Chải...
Tiềm năng, lợi thế để phát triển du lịch Điện Biên đã được xác định và từng bước khai thác phục vụ phát
triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. Song những khó khăn, thách thức trong lĩnh vực du lịch tỉnh là không
nhỏ. Chính bởi vậy, những nỗ lực nắm bắt xu thế để biến tiềm năng thành thế mạnh du lịch trên địa bàn của
tỉnh với những giải pháp đồng bộ tập trung vào phát triển hạ tầng, nguồn nhân lực, chất lượng sản phẩm
dịch vụ du lịch... được kỳ vọng sẽ tạo chuyển biến tích cực để du lịch Điện Biên phát triển.
2.3. Các ngành hỗ trợ liên quan:
2.3.1. Giao thông: đa dạng về phương tiện đi lại
+ Phương tiện cá nhân
Từ Hà Nội tới Điện Biên (thành phố Điện Biên Phủ) vào khoảng 500km, với địa hình đèo núi thì các bạn sẽ
mất khoảng 10-12 tiếng để di chuyển tới đây. Quãng đường chạy dọc
36
QL6 đi qua rất nhiều địa điểm đẹp như Mai Châu, Mộc Châu, Sơn La… mà các bạn có thể dừng lại trước
khi tới đây.
+ Phương tiện công cộng
Đường bộ
Xe giường nằm đi Điện Biên chạy hàng ngày tại Bến xe Mỹ Đình, thời gian xe chạy vào khoảng 12-13
tiếng. Đi bằng xe giường nằm có một lợi thế nữa là có thể gửi xe máy kèm theo. Nếu không thích đi bằng ô
tô các bạn cũng có thể lập lịch trình đi xe máy thẳng từ Hà Nội lên Điện Biên, với chặng đường khoảng
500km bạn sẽ mất nguyên một ngày để di chuyển thẳng.
Đường không
Hiện tại Vasco (một hãng con của Vietnam Airlines) là hãng duy nhất khai thác đường bay Hà Nội – Điện
Biên, máy bay sử dụng cho đường bay này là ATR 72 với tần suất 2 chuyến một ngày. Thời gian bay lên tới
Điện Biên chỉ khoảng 1 tiếng nên sẽ tiết kiệm hơn rất nhiều so với việc đi bằng ô tô.
VD: Từ Sài Gòn các bạn cần đáp chuyến bay ra Hà Nội rồi lựa chọn tiếp phương án di chuyển. Nếu định
bay tiếp lên Điện Biên, các bạn có thể lựa chọn chuyến từ Sài Gòn ra trước thời điểm bay khoảng 2 tiếng và
nghỉ ngơi luôn tại sân bay trước khi bay tiếp lên Điện Biên.
Dịch vụ bán lẻ và tiêu dùng: được kích thích thúc đẩy phát triển dịch vụ bán lẻ và tiêu dùng. Thông qua
việc phát triển du lịch thì loại hình dịch vụ bán lẻ cũng được tăng theo một cách nhanh chóng. Bình quân
mỗi năm tăng khoảng hơn 1000 Tỷ đồng qua các năm.
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ 2019 phấn đấu đã đạt được mục tiêu củ thể đạt đc 14.600 tỷ
đồng, tăng 13,93% so với ước thực hiện năm 2019. Kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ đạt 102
triệu USD, trong đó xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ đạt 57 triệu USD, tăng 14%; Kim ngạch nhập khẩu hàng
hóa đạt 45 triệu USD, tăng 36,36% so với ước thực hiện năm 2019. Phấn đấu thu hút trên 910 nghìn lượt
khách du lịch đến Điện Biên; doanh thu xã hội từ du lịch đạt trên 1.500 tỷ đồng tăng 9,8% so với năm
2019
Hàng hóa thủ công
Với mục đích đa dạng những sản phẩm làm quà tặng, quà lưu niệm cho du khách khi đến với Điện Biên, Sở
Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Điện Biên đã tổng kết cuộc thi thiết kế mẫu sản phẩm lưu niệm, quà tặng
du lịch năm 2018. Đây là lần thứ 2 cuộc thi này được tỉnh Điện Biên tổ chức, qua đó đã chọn ra thêm được
nhiều mẫu quà lưu niệm đẹp mang đặc trưng vùng miền của Điện Biên nói riêng, của Tây Bắc nói chung
Vd: Thổ Cẩm, Các nhạc cụ dân tộc, Quần áo trang phục dân tộc đồng bào, móc khóa…
Tuy nhiên hàng hóa lưu niệm ở Điện Biên chưa phát triển, hầu hết các sản phẩm vẫn còn nghèo nàn, chưa
đa dạng và đặc trưng nên vẫn chưa đáp ứng tốt các yêu cầu của khách hàng.
2.3.3. Ngân hàng
Hoạt động tài chính, ngân hàng được quản lý chặt chẽ, đúng quy định, bám sát chỉ đạo điều hành của Chính
phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Tổng nguồn vốn
tín dụng huy động của các ngân hàng đến 31/10/2019 là 10.037 tỷ đồng, tăng 4,22% so với năm 2018, tổng
dư nợ tín dụng là 18.336 tỷ đồng, giảm 3,06% so năm 2018, nợ xấu là 135 tỷ đồng chiếm 0,7% tổng dư nợ.
Các ngân hàng hỗ trọ vay vốn điển hình như: Agribank, BIDV, ngân hàng Á Châu, ngân hàng chính sách xã
hội Việt Nam…
2.4. Bối cảnh cho chiến lược cạnh tranh:
2.4.1. Môi trường cảnh tranh của tỉnh so với các khu vực lân cận và khu vưc đông bắc
Qua đánh giá của VCCI về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh năm 2018, chỉ số PCI của tỉnh đạt 66.77
điểm, xếp hạng 47/63 tỉnh, thành phố (tăng 01 bậc so với năm 2017). Chỉ số công khai ngân sách tỉnh
(POBI) năm 2018 của đứng thứ 14/63 tỉnh, thành phố.
Dự ước năm 2019 toàn tỉnh có tổng số 1.273 đội văn nghệ quần chúng, tổ chức 3.732 buổi biểu diễn, phục
vụ trên 673 ngàn lượt người xem
2.4.2. Thời điểm du lịch:
Điện Biên có khí hậu nhiệt đới gió mùa núi cao nên nhiệt độ khá mát mẻ với nhiệt độ trung bình từ 21 đến
23°C. Mưa lớn thường tập trung vào các tháng 6, 7, 8. Bạn nên tránh đi du lịch đến Điện Biên trong thời
gian này vì đường đi sẽ khá trơn trượt, dễ sạt lở, không phù hợp để đi chơi hay ngắm cảnh. Các tháng khô
hạn bắt đầu từ tháng 12 năm trước đến tháng 3 năm sau. Tuy vậy các tháng này thường có nhiệt độ về đêm
khá thấp – đôi khi nhiệt độ
hạ chỉ còn 12℃.
Bạn cũng có thể ghé thăm Điện Biên vào kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ (ngày 7/5) để tham gia vào
các hoạt động văn hóa. Ngoài ra, bạn có thể chọn một trong các tháng sau để du lịch Điện Biên ngắm cảnh
như tháng 3 (mùa hoa Ban), tháng 9 (mùa lúa chín), tháng 12 (mùa hoa Dã Quỳ).
2.4.3. Các tổ chức địa phương:
Thành lập hiệp hội du lịch tỉnh Điện Biên(28/7/2019) Thành phần tham gia HHDL tỉnh là những cá nhân, tổ
chức kinh tế hoạt động trên lĩnh vực du lịch (các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực du lịch; doanh nghiệp
dịch vụ; Khu, điểm du lịch; cơ sở lưu trú du lịch khách sạn, nhà nghỉ, đơn vị lữ hành; nhà hàng; dịch vụ du
lịch, dịch vụ vận chuyển khách du lịch…); Các đơn vị có ảnh hưởng, liên quan đến lĩnh vực du lịch, các cá
nhân có tâm huyết đã và đang đóng góp vào sự nghiệp du lịch trên quê hương Điện Biên…
Về an ninh trật tự, an toàn xã hội: An ninh chính trị trên địa bàn tỉnh tiếp tục giữ vững, ổn định; thực hiện
tốt nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, bảo vệ tuyệt đối, an toàn các mục tiêu
trọng điểm, các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội trên địa bàn tỉnh.
Liên tục mở các đợt cao điểm đảm bảo trật tự ATGT, nhất là dịp nghỉ lễ, tết, nghỉ hè. Tăng cường kiểm tra
xử lý các lỗi vi phạm quy định về tốc độ, nồng độ cồn, tải trọng... Trong năm 2019 tai nạn giao thông trên
địa bàn giảm hơn so với năm 2018; số vụ tai nạn giao thông là 42 vụ, chết 27 người và bị thương 32 người,
giảm 02 vụ so với cùng kỳ năm 2018 (giảm 02 vụ, tăng 01 người chết, bị thương giảm 06 người so với cùng
kỳ 2018), tài sản thiệt hại hơn 423 triệu đồng.
3. Phân tích các địa phương phát triển cụm ngành
3.1. Đánh giá liên kết cụm ngành với điện phương khác
Mô hình cụm ngành du lịch của Hòa Bình - Sơn La - Điện Biên.
Với những đặc điểm thuận lợi khi cùng nằm trên tuyến song Đà và tuyến đường AH 13 chạy xuyên 3 thành
phố của 3 tỉnh lần lượt từ bắc xuống nam: Điện Biên, Sơn La và Hòa Bình cùng với định hướng phát triển
ngành du lịch thì các tỉnh được đánh giá bước đầu có tiềm năng để phát triển cụm du lịch ở khu vực Tây
Bắc.
Nhờ sự tham gia và thúc đẩy của các tổ chức, công ty chuyên tổ chức các hoạt động du lịch hứa hẹn sẽ
mang lại giá trị to lớn cho các tỉnh thành viên. Với các hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng kĩ thuật phục vụ
cho ngành du lịch, hoạt động truyền thông quảng bá hình ảnh các tour du lịch góp phần mang hình ảnh địa
phương đến gần hơn trong mắt khách du lịch Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung.
Với sự tập trung của các doanh nghiệp tư nhân đã thúc đẩy sự phát triển của lực lượng lao động nhằm phục
vụ cho nhu cầu của khách du lịch. Các ngành phụ trợ và liên quan cũng phát triển như ngành công nghiệp
thực phẩm, tiểu thủ công nghiệp… Tất cả những nhân
tố kể trên sẽ giúp thúc đẩy nền kinh tế các địa phương Tây Bắc phát triển theo kịp kinh tế các vùng và tỉnh
các trong nước.
3.2. Phân tích đặc điểm và vai trò của từng địa phương trong liên kết cụm ngành du lịch
3.2.1. Du lịch nghỉ dưỡng ở Hòa Bình
Hoà Bình được xem là cái nôi của nền văn hoá Mường với vô vàn điều thú vị cực kỳ hấp dẫn du khách đến
thăm quan các địa điểm du lịch Hòa Bình. Với vị trí địa lý thuận lợi, Hoà Bình luôn là địa điểm được nhiều
người lựa chọn cho kỳ nghỉ ngắn ngày của gia đình và bạn bè.
Một trong những điểm đến được yêu thích ở Hoà Bình là Thung Nai, nơi có phong cảnh cực nên thơ, vẻ
hoang sơ nhưng chẳng kém phần lãng mạn, không khí trong lành, không gian thiên thiên hài hoà. Đây thực
sự thích hợp là điểm du lịch, điểm nghỉ ngơi cho bạn thư giãn trong chuyến đi Hoà Bình.
Không còn xa lạ với các bạn trẻ, Mai Châu luôn là điểm đến thu hút đối với những ai đam mê du lịch khám
phá. Mai Châu bình dị, chẳng có những toà nhà cao tầng, không có khói
bụi ồn ào. Mai Châu thu hút khách du lịch bởi những rừng hoa thơ mộng, những cánh đồng lúa chín vàng.
Mai Châu luôn lọt vào danh sách các địa điểm du lịch Hoà Bình được yêu thích nhất bởi vẻ đẹp của những
mùa hoa. Vào tháng 10 – 12, bạn sẽ được ngắm nhìn Mai Châu với sắc hồng hoa đào. Tháng 3 – 4, Mai
Châu sẽ ngợp trời hoa mận, hoa ban nở trắng xoá, như chốn tiên cảnh đẹp đến ngỡ ngàng. Khi đến Mai
Châu vào tháng 6, cả không gian Mai Châu được bao phủ bởi sắc vàng lúa chín đẹp đến kỳ lạ!
Đèo Đá Trắng là một tên gọi khác của đèo Thung Khe Hòa Bình. Từ sau khi xuất hiện trong một MV của
ca sĩ Bảo Anh, địa điểm này đã trở thành nơi checkin sống ảo ưa thích của các bạn trẻ đặc biệt là dân phượt.
Một khi bạn đi ngang qua đây bạn sẽ không thể cưỡng lại được vẻ đẹp hấp dẫn của nó mà dừng lại chiêm
ngưỡng.
Lũng Vân được mệnh danh là “nóc nhà của xứ Mường” với độ cao 1200m so với mực nước biển. Quanh
năm được bao phủ bởi những đám mây trắng xóa bồng bềnh nên nơi đây còn có cái tên khác là Thung Mây.
Vẻ đẹp mơ màng huyền ảo ẩn hiện dưới tầng tầng lớp lớp mây mù sương giăng đã hớp hồn bao du khách
đến với Hòa Bình. Đến với Lũng Mây bạn sẽ được khám phá bản sắc dân tộc của người dân tộc Mường.
Những ngôi nhà sàn thưa thớt nằm rải rác trên những ngọn đồi, những thửa ruộng bậc thang… tạo nên một
thiên nhiên hoang sơ thật yên bình.
Nhắc đến các điểm du lịch Hòa Bình có lẽ không ai là không biết đến khu du lịch suối khoáng Kim Bôi.
Không chỉ là địa điểm du lịch, đây còn là nơi thu hút du khách bởi loại hình du lịch chữa bệnh. Là khu suối
khoáng nóng lớn nhất Việt Nam, nguồn suối nóng tự nhiên này có thể điều trị các bệnh như bệnh xương
khớp, các bệnh về dạ dày, đường ruột…
Ngoài chữa bệnh, suối khoáng nóng Kim Bôi còn là điểm du lịch hấp dẫn bởi vẻ đẹp thiên nhiên hoang sơ
bao quanh nơi đây. Bao quanh bởi núi rừng cỏ cây, với bầu không khí trong lành thoáng mát, đây là điểm
đến lý tưởng cho bạn vào những ngày cuối tuần để xua tan những bộn bề cuộc sống.
3.2.2. Du lịch cộng đồng ở Sơn La
Tỉnh Sơn La có nhiều lợi thế để phát triển du lịch cộng đồng khi sở hữu số lượng lớn danh lam, thắng cảnh,
di tích, lịch sử văn hóa đã được xếp hạng; nhiều di sản văn hóa phi vật thể phong phú, đặc biệt là phong tục,
tập quán và bản sắc văn hóa đa dạng của 12 dân tộc. Để tạo đào cho du lịch cộng đồng phát triển, tỉnh ta đã
ban hành chính sách hỗ trợ phát triển du lịch cộng đồng trên địa bàn tỉnh đến năm 2020.
Theo đánh giá của các cơ quan chức năng, qua 4 năm triển khai, các huyện: Mộc Châu, Vân Hồ, Mường La,
Quỳnh Nhai và Thành phố, tỉnh Sơn La đã hỗ trợ 600 triệu đồng xây dựng 8 bản du lịch cộng đồng, 28
homestay; tổ chức 4 lớp tập huấn kỹ năng nghề du lịch cho 140 học viên tại các bản du lịch cộng đồng,...
Hiện nay, nhiều bản du lịch cộng đồng đã và đang phát triển, thu hút du khách tới tham quan, trải nghiệm,
như: Du lịch cộng đồng bản Lướt, Nà Tâu, Pom Mỉm, xã Ngọc Chiến (Mường La); du lịch cộng đồng bản
Hua Tạt,
44
xã Vân Hồ (Vân Hồ); du lịch cộng đồng bản Áng, xã Đông Sang (Mộc Châu); bản Bon, xã Mường Chiên
(Quỳnh Nhai); bản Bó, phường Chiềng An (Thành phố)... Tại các điểm du lịch cộng đồng, du khách được
trải nghiệm các hoạt động văn hóa, văn nghệ, làm nông nghiệp, nghề truyền thống, chơi các trò chơi dân
gian và các hoạt động trải nghiệm khác. Năm 2019, toàn tỉnh đã đón 2,5 triệu lượt khách, doanh thu du lịch
đạt 2.000 tỷ đồng, tạo việc làm cho hàng trăm lao động địa phương, trong đó có đóng góp không nhỏ của mô
hình du lịch cộng đồng. Tuy nhiên, qua rà soát, đánh giá của các cơ quan chức năng, các công ty lữ hành,
trên địa bàn tỉnh chưa có bản du lịch cộng đồng đạt chuẩn theo tiêu chí quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao
và Du lịch.
3.2.3. Du lịch lịch sử ở Điện Biên
Với thế mạnh là quần thể Di tích chiến trường Điện Biên Phủ, du lịch lịch sử Điện Biên được đánh giá là
một trong những điểm đến hấp dẫn trên bản đồ du lịch Việt Nam. Với thế mạnh là quần thể Di tích chiến
trường Điện Biên Phủ, du lịch lịch sử Điện Biên gần đây được đánh giá là đang trong đà phát triển mạnh
với lượng du khách ngày một tăng. Trong những năm gần đây, lượng khách đến tham quan tại các điểm di
tích của quần thể di tích cấp Quốc gia Chiến trường Điện Biên Phủ luôn tăng theo từng năm. Năm 2016 là
hơn 310.000 lượt; năm 2017 tăng lên hơn 380.000 lượt và hết năm 2018 là khoảng 400.000 lượt khách.
Việc phát triển du lịch, mà nòng cốt là du lịch lịch sử luôn được chính quyền tỉnh Điện Biên xác định trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn của địa phương, đưa Điện Biên trở thành một trong những trung tâm du lịch
hấp dẫn của khu vực Tây Bắc nói riêng và cả nước nói chung.
Điện Biên đã có nhiều cố gắng trong việc tổ chức xây dựng hạ tầng du lịch, tổ chức kết nối các tua tuyến,
và tổ chức quảng bá du lịch Điện Biên, số lượng khách du lịch trong và ngoài nước đến Điện Biên hằng
năm đều tăng từ 15 – 20%.
Hình 6: Hình ảnh người dân Điện Biên
Trong năm 2019, tỉnh ta đã đón khoảng 845 nghìn lượt khách (đạt 101,8% so với kế hoạch, tăng 19,8% so
với năm 2018). Doanh thu từ hoạt động du lịch cũng tăng lên, ước đạt trên 1.366 tỷ đồng (tăng 18,2% so
với năm 2018).
Mặc dù còn nhiều điểm di tích đã bị xuống cấp, cần phải tôn tạo, sửa chữa khẩn trương, nhưng do ngân
sách được cấp còn hạn hẹp, nên trước mắt, tỉnh ưu tiên kinh phí tiến hành cải tạo, sửa chữa di tích cầu
Mường Thanh và đồi A1. Bởi đây là những điểm di tích có lượng du khách đến tham quan thường ngày
đông và cũng là điểm nhấn của thành phố Điện Biên Phủ
Để đẩy mạnh phát triển lại hình du lịch lịch sử, Điện Biên cũng sẽ khắc phục những tồn tại: trong 45 điểm
di tích thành phần của Quần thể di tích Chiến trường Điện Biên Phủ, hiện mới chỉ khai thác được hiệu quả 7
điểm di tích trọng tâm. Ngoài ra, lợi thế 19 dân tộc sinh sống với đa dạng bản sắc văn hóa cũng chưa được
khai thác triệt để, để gắn với du lịch lịch sử. Bên cạnh đó tỉnh sẽ đẩy mạnh các hoạt động giao thương của
tỉnh với các nước bạn Lào và Trung Quốc; đẩy mạnh du lịch đường biên – hội nhập và phát triển.