You are on page 1of 101

THAM LUẬN

Tổng quan về chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp

Phòng QLXLVPHC&TDTHPL - Sở Tư pháp

Hỗ trợ doanh nghiệp khởi là một chính sách luôn được Hà Tĩnh quan
tâm, trong những năm qua, nhằm thúc đẩy quá trình thành lập các doanh
nghiệp và hỗ trợ hoạt động, tỉnh đã ban hành nhiều chính sách nhằm khuyến
khích, hỗ trợ một phần nguồn lực như kinh phí, đất đai, nguồn lao động, dịch
vụ pháp lý nhằm tạo điều kiện thông thoáng nhất cho các doanh nghiệp hoạt
động. Đặc biệt, thực hiện chương trình theo dõi thi hành pháp luật theo lĩnh
vực trọng tâm của Chính phủ, UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Tư pháp phối hợp
với các sở, ngành có liên quan, UBND các cấp thực hiện theo dõi thi hành
pháp luật cho doanh nghiệp khởi nghiệp.
Theo kết quả rà soát văn bản của Sở Tư pháp, đến nay tỉnh đã ban hành
khoảng 41 văn bản, đến nay có 21 văn bản còn hiệu lực trong đó có 06 Nghị
quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh và 15 quyết định của Ủy ban nhân dân tỉnh.
Các văn bản quy định về các chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp về thuế, đất
đai, giải phóng mặt bằng, thành lập doanh nghiệp…ở hầu hết các lĩnh vực
như: công nghiệp, thương mại, nông nghiệp, xây dựng…
Có thể thấy hiệu quả rõ nét từ việc thực hiện các chính sách hỗ trợ của
tỉnh, đến nay, toàn tỉnh có 5.686 doanh nghiệp, đơn vị trực thuộc, bao gồm:
4.684 doanh nghiệp; 464 chi nhánh; 108 văn phòng đại diện và 430 địa điểm
kinh doanh, trong đó từ năm 2015 đến nay thành lập mới 2.421 doanh nghiệp,
đơn vị trực thuộc…Các doanh nghiệp trên địa bàn chủ yếu là các doanh
nghiệp nhỏ và vừa, chiếm 98%; đây là loại hình phát triển nhanh chóng, tốc
độ tăng bình quân hàng năm thời kỳ 2002-2015 đạt 21,35%, số doanh nghiệp
thành lập giai đoạn 2011-2016 tăng 44% so với giai đoạn 2006-2010.
Về hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình thành lập
Nhiệm vụ phát triển doanh nghiệp luôn được triển khai đồng thời với
nhiệm vụ phát triển mô hình kinh tế, nhằm đảm bảo phát triển các loại hình

1
doanh nghiệp bền vững. Công tác quản lý nhà nước về doanh nghiệp được tập
trung chỉ đạo nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ
doanh nghiệp như triển khai thực hiện nghiêm túc các quy định về giải quyết
thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho doanh nghiệp khi đến làm
việc, tìm hiểu đầu tư. Hà Tĩnh là tỉnh ban hành chính sách hỗ trợ thành lập
mới doanh nghiệp được Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng như các Bộ, ngành
Trung ương đánh giá cao. Tỉnh luôn quan tâm tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp trong quá trình thành lập, thời gian giải quyết hồ sơ đăng ký kinh
doanh được rút ngắn còn 02 ngày (theo quy định của Luật Doanh nghiệp là 03
ngày).
Nghị quyết số 88/2014/NQ-HĐND ngày 16/7/2014 của HĐND tỉnh
Quy định một số chính sách hỗ trợ đăng ký thành lập mới hộ kinh doanh và
doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh được thực hiện nghiêm túc. Theo đó, doanh
nghiệp thành lập mới được hỗ trợ 100% lệ phí đăng ký doanh nghiệp; 100%
phí công bố nội dung đăng ký doanh nghiệp; 100% chi phí khắc con dấu
doanh nghiệp (mức giá con dấu do Sở Tài chính quy định); Hỗ trợ chi phí làm
biển hiệu: 500.000 đồng; Hỗ trợ phần mềm kế toán doanh nghiệp: 2.000.000
đồng/doanh nghiệp; Hỗ trợ 100% thuế môn bài cho các doanh nghiệp thành
lập mới trong năm đầu hoạt động…
Trong thời gian qua, thực hiện Nghị quyết số 88/2014/NQ-HĐND,
Quyết định số 63/2014/QĐ-UBND và Quyết định số 13/2016/QĐ-UBND về
hỗ trợ doanh nghiệp thành lập mới, Sở Tài chính đã thực hiện cấp phát đầy
đủ, kịp thời phí đăng ký kinh doanh, công bố nội dung đăng ký kinh doanh,
thuế môn bài, phí khắc dấu và phần mềm kế toán, biển hiệu cho doanh nghiệp
thành lập mới với tổng số tiền 3.852.500.000 đồng.
Bên cạnh đó là các chính sách thu hút đầu tư như hỗ trợ đất, giải phóng
mặt bằng, các cuộc đối thoại để đề xuất các phương án tháo gỡ khó khăn,
vướng mắc cho doanh nghiệp, nhà đầu tư cũng được tổ chức thường xuyên.
Về hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận, khai thác nguồn vốn

2
Các tổ chức tín dụng tiếp tục công khai minh bạch trình tự, thủ tục,
nghiệp vụ; đơn giản hóa thủ tục cho vay mà vẫn đảm bảo đúng quy chế cho
vay, xử lý linh hoạt các điều kiện, thủ tục vay vốn…phù hợp với thực tiễn, tạo
điều kiện thuận lợi cho khách hàng vay vốn và đảm bảo an toàn trong hoạt
động kinh doanh. Thực hiện việc hướng dẫn, trả lời khách bằng văn bản kịp
thời, công khai, minh bạch và kết quả thẩm định, cho vay của tổ chức tín
dụng.
Kết hợp hài hòa giữa nhiệm vụ kinh doanh phục vụ phát triển kinh tế -
xã hội địa phương, tăng cường công tác huy động vốn đáp ứng nhu cầu cho
vay tại địa bàn; tích cực tham gia cho vay các chương trình, dự án kinh tế theo
chính sách đầu tư của tỉnh.
Hệ thống ngân hàng thương mại đã triển khai chương trình hỗ trợ vốn
cho doanh nghiệp nhỏ và vừa nói chung, doanh nghiệp khởi nghiệp nói riêng,
cụ thể:
+ Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam: chương trình tín dụng hỗ
trợ doanh nghiệp khởi nghiệp có quy mô 2.000 tỷ đồng, áp dụng với các
khoản vay ngắn hạn và khoản vay trung và dài hạn. Lãi suất áp dụng dành cho
các doanh nghiệp khởi nghiệp thấp hơn lãi suất vay thông thường thừ 1%-
1,5%.
+ Ngân hàng Công Thương Việt Nam: Thời gian triển khai chương
trình, từ nay đến hết ngày 31/12/2017 hoặc cho đến khi hết doanh số giải ngân
3.000 tỷ đồng của chương trình; Khách hàng là doanh nghiệp khởi nghiệp có
thời gian hoạt động đến thời điểm giải ngân dưới 12 tháng và thỏa mãn điều
kiện của VietinBank có nhu cầu vay vốn phục vụ sản xuất kinh doanh trong
thời gian triển khai chương trình.
+ Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn: Từ 20/9 đến hết
ngày 31/12/2017, dành khoảng 15.000 tỷ đồng để thực hiện cho vay ưu đãi lãi
suất từ 5%-7%/năm đối với khách hàng doanh nghiệp quan hệ tín dụng với
ngân hàng này.

3
+ Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam: cung cấp gói tín dụng lãi suất ưu
đãi với quy mô 1.000 tỷ đồng dành riêng cho các doanh nghiệp khởi nghiệp.
Về hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận, khai thác nguồn lực về khoa học kỹ
thuật
Các hoạt động kỹ thuật hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp được tập trung
triển khai có hiệu quả trên các lĩnh vực quản lý như: hoạt động nghiên cứu
triển khai khoa học công nghệ, hoạt động ứng dụng và chuyển giao công nghệ
vào sản xuất kinh doanh, lĩnh vực sở hữu trí tuệ, Tiêu chuẩn - Đo lường -
Chất lượng, an toàn bức xạ.... Nhiều doanh nghiệp đã quan tâm đầu tư phát
triển khoa học kỹ thuật, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới vào sản
xuất kinh doanh góp phần tăng năng suất và chất lượng sản phẩm hàng hóa
tạo ra; Bước đầu xây dựng và hình thành hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới
sáng tạo trên địa bàn tỉnh để thực hiện có hiệu quả Đề án phát triển hệ sinh
thái khởi nghiệp trong thời gian tới.
Về hoạt động phát triển thị trường khoa học và công nghệ và doanh
nghiệp khoa học và công nghệ: được quan tâm đẩy mạnh, đã khâu nối hướng
dẫn hồ sơ đề nghị hỗ trợ xây dựng hệ thống nhận diện thương hiệu cho 04
doanh nghiệp; Hỗ trợ ươm tạo, thành lập 04 doanh nghiệp khoa học và công
nghệ và Hỗ trợ cho 06 doanh nghiệp ứng dụng chuyển giao các kết quả
nghiên cứu khoa học và công nghệ, công nghệ tiên tiến, sáng chế, giải pháp
hữu ích vào sản xuất, kinh doanh... Xây dựng Sàn giao dịch công nghệ và
thiết bị trực tuyến tỉnh Hà Tĩnh kết hợp tổ chức các hoạt động khởi nghiệp
phục vụ các tổ chức, cá nhân tham gia kết nối tìm kiếm công nghệ thiết bị,
trao đổi ý tưởng kinh doanh bằng giải pháp công nghệ mới để ứng dụng
chuyển giao vào sản xuất, kinh doanh trên địa bàn tỉnh.
Đối với công tác quản lý tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng: Cập nhật 17
văn bản pháp quy kỹ thuật, Tiêu chuẩn, Quy chuẩn kỹ thuật, quy trình đánh
giá sự phù hợp, tin cảnh báo, thông báo của các nước trong WTO, tin tức liên
quan đến hoạt động tiêu chuẩn đo lường chất lượng… chọn lọc, chuyển tải 12
tin đưa lên website Sở Khoa học và Công nghệ nhằm cung cấp thông tin phục
4
vụ doanh nghiệp và công tác quản lý; tiếp nhận thông báo và Kiểm tra, cấp
thông báo kết quả kiểm tra nhà nước chất lượng hàng hóa nhập khẩu cho 24
lô hàng đạt yêu cầu chất lượng của các doanh nghiệp. Hoạt động kiểm tra,
giám sát đơn vị kiểm định đảm bảo các phương tiện đo bắt buộc phải được
kiểm định được tổ chức thường xuyên.
Về hoạt động Quỹ phát triển khoa học và công nghệ tỉnh: đã thực hiện
cho vay vốn với lãi suất ưu đãi đối với 07 dự án ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật, công nghệ mới vào sản xuất, kinh doanh. Ngoài ra, đã hướng dẫn cho
02 doanh nghiệp thành lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh
nghiệp nhằm trích lập và sử dụng quỹ vào các hoạt động khoa học và công
nghệ của doanh nghiệp.
Về hoạt động hợp tác hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng
tạo: Sở Khoa học và Công nghệ là cơ quan đầu mối tham mưu UBND tỉnh
triển khai Đề án hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trên địa bàn
tỉnh và đã ký kết Chương trình phối hợp thực hiện với Hội nông dân, Tỉnh
đoàn Hà Tĩnh giai đoạn 2017-2020, trong đó tập trung vào các hoạt động hỗ
trợ các hộ các hội viên hội nông dân, các thanh niên và các chủ doanh nghiệp
trẻ xây dựng, triển khai các hoạt động khởi nghiệp lập nghiệp và khởi nghiệp
đổi mới sáng tạo trên địa bàn tỉnh; tham gia hội đồng tư vấn chương trình
thanh niên khởi nghiệp trên địa bàn tỉnh. Đã thực hiện hướng dẫn 02 đơn vị
xây dựng hồ sơ đề nghị hỗ trợ Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tham gia
Chương trình hỗ trợ Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Quốc gia và chính sách từ
Nghị quyết số 18/2016/NQ-HĐND ngày 24/9/2016 về Phát triển thị trường
KHCN và doanh nghiệp KHCN tỉnh Hà Tĩnh đến năm 2020 và những năm
tiếp theo; Nghị quyết số 141/2015/NQ-HĐND ngày 17/7/2015 về Đề án hỗ
trợ phát triển tài sản trí tuệ tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2015-2020 của HĐND tỉnh.
Đối với lĩnh vực nông nghiệp, từ năm 2011 đến nay, trên cơ sở Quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh đến năm 2020, tầm nhìn đến
năm 2050 do Tập đoàn Monitor lập; Sở Nông nghiệp đã tập trung xây dựng
mới, hoàn thiện bổ sung, trình UBND tỉnh phê duyệt, ban hành đồng bộ với
5
16 đề án, 28 quy hoạch ngành, sản phẩm cây trồng, vật nuôi chủ lực. Tổ chức
công bố, phổ biến rộng rãi, tiến hành cắm mốc quy hoạch và bàn giao ngoài
thực địa cho các địa phương để người dân, doanh nghiệp biết lựa chọn đầu tư.
Các quy hoạch, đề án đã tác động tích cực, thu hút các doanh nghiệp vào đầu
tư phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng quy mô tập trung, quy mô lớn.
Kết quả tổng kinh phí đã giải ngân hỗ trợ theo các chính sách (giai
đoạn 2011 – 2016) là 436.927 triệu đồng, trong đó: Kinh phí hỗ trợ cho các
doanh nghiệp là 63.292 triệu đồng, chiếm 14,5% tổng kinh phí thực hiện các
chính sách.
Chính sách hỗ trợ về thuế
Để thực hiện chính sách hỗ trợ về thuế cho doanh nghiệp tỉnh đã ban
hành nhiều văn bản quy định chi tiết về các mức ưu đãi như: 71/2013/NQ-
HĐND; 16/2014/QĐ-UBND; 16/2007/QĐ-UBND; 70/2014/QĐ-UBND.Đối
với các tổ chức, cá nhân đầu tư vào Khu kinh tế Vũng Áng và các KCN của
Hà Tĩnh (khoản 2,3 Điều 6 QĐ 16/2007/QĐ-UBND)
- Dự án thuộc lĩnh vực công nghệ cao đáp ứng quy định của pháp luật
được hưởng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 10% trong suốt thời
gian thực hiện dự án, gồm:
+ Công nghệ thông tin, truyền thông và công nghệ phần mềm tin học;
+ Công nghệ sinh học phục vụ nông nghiệp, thủy sản và y tế;
+ Công nghệ vi điện tử, cơ khí chính xác, cơ cơ - điện tử, quang - điện
tử và tự động hoá.
- Công nghệ vật liệu mới, công nghệ nano.
- Công nghệ môi trường, công nghệ năng lượng mới.
- Một số công nghệ đặc biệt khác theo quy định của cơ quan có thẩm
quyền.
- Các dự án đầu tư và xây dựng kinh doanh hạ tầng Khu Phi thuế quan,
Cảng Vũng Áng, Cảng Sơn Dương và các dự án đầu tư có quy mô lớn, có ý
nghĩa quan trọng đối với phát triển ngành, lĩnh vực hoặc phát triển kinh tế - xã
hội của vùng, của cả nước, đồng thời đáp ứng một trong các tiêu chí dưới đây
6
sẽ được UBND tỉnh trình Thủ tướng Chính phủ xem xét cho hưởng thuế suất
thuế thu nhập doanh nghiệp 10% trong suốt thời gian thực hiện dự án:
+ Dự án có giá trị đầu tư từ 70 triệu USD trở lên;
+ Dự án sử dụng từ 1.500 công nhân trở lên;
+ Dự án có kim ngạch xuất khẩu trực tiếp từ 70 triệu USD/ năm trở lên.
2.3. Tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế trong nước, nước
ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia đầu tư phát triển nhà
ở xã hội theo dự án để bán, cho thuê, cho thuê mua cho các đối tượng chính
sách xã hội; Hộ gia đình, cá nhân đầu tư xây dựng nhà ở xã hội để bán, cho
thuê, cho thuê mua đối với các đối tượng chính sách xã hội. (Điều 6 QĐ
70/2014/QĐ-UBND)
Được hưởng các chính sách ưu đãi về thuế giá trị gia tăng, thuế thu
nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, các loại thuế khác liên quan đến
hoạt động bán, cho thuê, thuê mua nhà ở xã hội theo quy định của pháp luật.
2.4. Đối với các đơn vị sản xuất, kinh doanh trong khu công nghệ thông
tin tập trung (tiết a điểm 3.2.1 mục 3.2 khoản 3 Điều 1 NQ số 71/2013)
- Các dự án đầu tư khu thể dục, thể thao, giải trí đa phương tiện trong
Khu Công nghệ thông tin tập trung Hà Tĩnh của các tổ chức, cá nhân trong
nước và nước ngoài: Áp dụng theo Quy định tại Khoản 3, Điều 15; Khoản 2,
Điều 16 của Nghị định 124/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 Quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp.
- Các dự án đầu tư nghiên cứu, sản xuất phần cứng, phần mềm, nội
dung số, dịch vụ CNTT tại Khu Công nghệ thông tin tập trung Hà Tĩnh của
các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài: Áp dụng theo Quy định của
Chính phủ tại Khoản 1, Điều 15 và Điểm a, Khoản 1, Điều 16, Nghị định
124/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp.
- Các dự án đầu tư sản xuất tại Khu Công nghệ thông tin tập trung Hà
Tĩnh của các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài: Áp dụng theo Quy
định của Chính phủ tại Khoản 14, Điều 12, Nghị định 87/NĐ-CP ngày
7
13/8/2010 Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thuế xuất khẩu,
Thuế nhập khẩu.
Về hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận, khai thác nguồn nhân lực
Việc tạo điều kiện hỗ trợ, đào tạo nguồn lao động tại doanh nghiệp
được quan tâm thực hiện. Để đáp ứng nguồn nhân lực chất lượng cao, các cấp
các ngành trên địa bàn tỉnh cũng luôn chú trọng nâng cao chất lượng đào tạo
nghề cho học viên, ngoại ngữ cho người lao động để đáp ứng yêu cầu của thị
trường lao động trong nước và nước ngoài, nhất là thị trường có thu nhập cao.
Công tác chuẩn bị, đào tạo đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm để bồi dưỡng các
kỹ năng và nghiệp vụ sư phạm để dạy nghề cho người lao động cũng được
nâng cao. Các tổ chức đoàn thể trong các doanh nghiệp được tạo điều kiện
hoạt động và phát triển, thực hiện cơ bản tốt các chế độ chính sách cho người
lao động.
Đã hỗ trợ đào tạo kèm nghề tại các doanh nghiệp cho trên 1000 lao
động từ kinh phí dự án đào tạo nghề cho lao động nông thôn; Ra quyết định
trợ cấp thất nghiệp hàng tháng cho 3.282 lao động với số tiền 34,5 tỷ đồng.
Ngoài ra, hỗ trợ học nghề cho trên 30 lao động có nhu cầu học nghề và tư vấn
giới thiệu việc làm cho trên 3000 lao động.
Bên cạnh đó, thông qua các cuộc điều tra ghi chép cập nhật nhu cầu sử
dụng lao động của doanh nghiệp để có phương án cung ứng lao động, đồng
thời xây dựng chính sách đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của doanh
nghiệp.
Về hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận, khai thác nguồn lực về đất đai
Sở Tài nguyên và Môi trường là cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà
nước về đất đai đã tham mưu UBND tỉnh ban hành các văn bản hỗ trợ các
doanh nghiệp trong việc thuê đất, giải phóng mặt bằng, bố trí tái định cư để
phục vụ công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng đẩy nhanh tiến độ các dự
án. Đẩy nhanh tiến độ giải quyết các hồ sơ, thủ tục hành chính trong quá trình
Nhà nước cho doanh nghiệp thuê đất, giao đất…Các thông tin về quy hoạch,

8
kế hoạch sử dụng đất, các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng…được công khai
minh bạch giúp doanh nghiệp tiếp cận các tài liệu cần thiết.
Chính phủ mới ban hành Nghị định số 68/2017/NĐ-CP ngày 25/5/2017
về quản lý, phát triển cụm công nghiệp có hiệu lực ngày 15/7/2017 (bãi bỏ
Quyết định số 105/2009/QĐ-TTg ngày 19/8/2009 của Thủ tướng Chính phủ
ban hành Quy chế quản lý cụm công nghiệp) có nhiều chính sách ưu đãi phát
triển cụm công nghiệp, cụ thể: Theo Nghị định, dự án đầu tư sản xuất kinh
doanh trong cụm công nghiệp được miễn tiền thuê đất 7 năm và hưởng các ưu
đãi khác theo quy định của pháp luật. Dự án đầu tư kinh doanh hạ tầng kỹ
thuật cụm công nghiệp được miễn tiền thuê đất 11 năm, được xem xét vay
vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước với mức không quá 70% tổng mức đầu tư
và hưởng các ưu đãi khác theo quy định của pháp luật. Dự án xây dựng hạ
tầng kỹ thuật cụm công nghiệp được xem xét đầu tư theo hình thức đối tác
công tư. Nghị định quy định dự án đầu tư sản xuất kinh doanh trong cụm công
nghiệp làng nghề được miễn tiền thuê đất 11 năm và được xem xét vay vốn
tín dụng đầu tư của Nhà nước với mức không quá 70% tổng mức đầu tư. Dự
án đầu tư kinh doanh hạ tầng kỹ thuật cụm công nghiệp làng nghề được miễn
tiền thuê đất 15 năm và được xem xét vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước
với mức không quá 70% tổng mức đầu tư. Ngân sách địa phương hỗ trợ kinh
phí di dời các doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất hộ gia đình, cá nhân
trong làng nghề vào cụm công nghiệp làng nghề; ngân sách trung ương và
ngân sách địa phương xem xét ưu tiên hỗ trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng
kỹ thuật cụm công nghiệp làng nghề.
Ngoài các chính sách trên, dự án đầu tư kinh doanh hạ tầng kỹ thuật và
sản xuất kinh doanh trong cụm công nghiệp làng nghề còn được hưởng các ưu
đãi, hỗ trợ đối với cụm công nghiệp và của pháp luật liên quan.
Quản lý, sử dụng nguồn khuyến công quốc gia, khuyến công địa
phương giúp các doanh nghiệp tiếp cận ứng dụng khoa học – công nghệ và
nâng cao trình độ tay nghề lao động.

9
Bên cạnh đó, UBND tỉnh cũng đã ban hành nhiều văn bản có nội dung
là các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận nguồn lực về đất đai như
Quyết định số 16/2007/QĐ-UBND ngày 27/4/2007; Quyết định số
26/2008/QĐ-UBND ngày 22/8/2008; Quyết định số 07/2012/QĐ-UBND
ngày ngày 21/3/2012; Quyết định số 92/2014/QĐ-UBND ngày 24/12/2014;
Quyết định số 16/2014/QĐ-UBND ngày 28/3/2014; Quyết định số
70/2014/QĐ-UBND ngày 20/10/2014…Qua quá trình theo dõi, đánh giá,
kiểm tra cho thấy việc thi hành pháp luật của các bộ phận chuyên môn và
người có thẩm quyền được thực hiện nghiêm túc và theo đúng quy định của
pháp luật. Các quyết định áp dụng pháp luật sau khi ban hành được tổ chức,
cá nhân chấp hành nghiêm chỉnh. Thẩm định và trình phê duyệt phát triển các
cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh, thu hút các doanh nghiệp và các cụm công
nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh; sử dụng các nguồn kinh phí hỗ trợ vào
các nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm và đạt hiệu quả tương đối tốt.
Tình hình triển khai công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp
Xác định được vai trò, tầm quan trọng của công tác hỗ trợ pháp lý cho
doanh nghiệp trong việc góp phần nâng cao hiểu biết, hạn chế rủi ro pháp lý
cho doanh nghiệp, trong thời gian qua, UBND tỉnh chỉ đạo Sở Tư pháp cũng
như các ngành, UBND các cấp đã quan tâm tổ chức thực hiện nhiệm vụ này.
Để triển khai thực hiện có hiệu quả công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh
nghiệp, Sở Tư pháp đã tổ chức khảo sát mức độ tiếp cận thông tin hỗ trợ pháp
lý cho doanh nghiệp. Các hoạt động này đã góp phần đưa ra những kế hoạch,
phương pháp cụ thể để nâng cao chất lượng cũng như đáp ứng yêu cầu hỗ trợ
pháp lý cho doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Nhằm cung cấp kịp thời các thông tin, chính sách, văn bản pháp luật,
các đơn vị đã xây dựng chuyên trang hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp và thực
hiện cập nhật kịp thời, thường xuyên các văn bản quy phạm pháp luật, chủ
trương, chính sách của tỉnh trên Cổng thông tin điện tử và Trang thông tin
điện tử của đơn vị mình. Bên cạnh đó, đã xuất bản 10.000 cuốn Tài liệu hỗ trợ
pháp lý cho doanh nghiệp về “Các chính sách hỗ trợ, ưu đãi đầu tư trong lĩnh
10
vực công nghiệp” và theo định kỳ hàng tháng Sở Tư pháp đều xuất bản 500 tờ
Thông tin hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp; Tài liệu và Tờ thông tin hỗi trợ
pháp lý cho doanh nghiệp được biên soạn dưới hình thức tờ gấp, giới thiệu
văn bản mới của Trung ương, của tỉnh hoặc tổng hợp các chính sách hỗ trợ ưu
đãi của HĐND tỉnh, UBND tỉnh dành cho đối tượng là hộ gia đình, doanh
nghiệp, cá nhân có hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực công nghiệp.
Ngay sau khi phát hành, cuốn tài liệu đã được các doanh nghiệp, cá nhân, tổ
chức đón nhận và đánh giá cao nội dung cũng như cách thức trình bày.
Ngoài ra, dưới sự chỉ đạo của UBND tỉnh và sự quan tâm hỗ trợ của
Ban Quản lý chương trình 585 - Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp Hà Tĩnh đã tổ chức
các lớp bồi dưỡng, tọa đàm dành cho doanh nghiệp và đội ngũ cán bộ làm
công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Trong thời gian qua, đã tổ chức lớp
bồi dưỡng dành cho doanh nghiệp với chuyên đề “pháp luật về thuế liên quan
đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp” và “pháp luật về môi
trường đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp”. Và trong tháng
9/2017 sẽ tổ chức lớp bồi dưỡng với chuyên đề “pháp luật về lao động đến
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp”. Đồng thời, tổ chức các hội
thảo, hội nghị, tọa đàm về nhiều vấn đề khác nhau liên quan đến doanh
nghiệp trên địa bàn tỉnh, mang lại những hiệu quả tích cực cho các doanh
nghiệp trên địa bàn.
Các hoạt động trên đã tạo điều kiện để doanh nghiệp tiếp cận các thông
tin về chính sách của tỉnh, góp phần tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho sự
phát triển doanh nghiệp, làm cầu nối giữa doanh nghiệp và các cơ quan Nhà
nước, giữa các doanh nghiệp với nhau.
Bên cạnh những thuận lợi trong quá trình thực hiện các chính sách hỗ
trợ doanh nghiệp khởi nghiệp còn gặp những khó khăn nhất định do các quy
định của Luật, Nghị định
Thứ nhất, về thể chế
- Thành phần hồ sơ khi đăng ký doanh nghiệp theo quy định tại Điều
21, 22, 23 Luật Doanh nghiệp 2014 thì hồ sơ đăng ký doanh nghiệp bao gồm
11
điều lệ công ty. Tuy nhiên bản chất, điều lệ công ty là văn bản thỏa thuận,
mang tính nội bộ của doanh nghiệp gồm cơ cấu tổ chức, quản lý doanh
nghiệp, vốn điều lệ của doanh nghiệp, thời hạn góp vốn, cơ chế phân chia lợi
nhuận…trên cơ sở quy định của pháp luật. Theo quy định tại Điều 25 Luật
Doanh nghiệp 2014 thì điều lệ công ty bao gồm điều lệ khi đăng ký doanh
nghiệp và điều lệ được sửa đổi, bổ sung trong quá trình hoạt động. Điều lệ
công ty có 13 nội dung chủ yếu. Có thể thấy, Luật Doanh nghiệp 2014 đã quy
định khá cụ thể, mang tính nguyên tắc các nội dung phải có trong điều lệ
doanh nghiệp. Khi xây dựng và thông qua điều lệ các thành viên trong doanh
nghiệp phải căn cứ vào quy định này. Do đó, về bản chất, điều lệ doanh
nghiệp là sự cụ thể hóa quy định của pháp luật doanh nghiệp. Do đó, việc quy
định điều lệ doanh nghiệp trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp là không cần
thiết, gây khó khăn cho cả người thành lập doanh nghiệp lẫn cơ quan đăng ký
doanh nghiệp.
- Theo quy định của Luật Đất đai, Luật Đầu tư các quy định về quy
hoạch sử dụng đất với kỳ quy hoạch là 10 năm và kỳ kế hoạch sử dụng đất là
5 năm không tương thích với thời hạn giao đất, cho thuê đất là 50 năm, làm
doanh nghiệp khó chủ động về chiến lược kinh doanh.
- Quy định về trường hợp hưởng trợ cấp mất việc làm và hưởng trợ cấp
thôi việc tại Điều 44, Điều 48 Bộ luật Lao động năm 2012. Cụ thể, theo quy
định tại Khoản 10 Điều 36, Điều 48 thì trường hợp “người sử dụng lao động
cho người lao động thôi việc do thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh
tế” thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho
người lao động. Trong khi đó, tại Điều 44 quy định về nghĩa vụ của người sử
dụng lao động trong trường hợp thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh
tế thì nếu người sử dụng lao động không thể giải quyết được việc làm mới mà
phải cho người lao động thôi việc thì phải trả trợ cấp mất việc làm cho người
lao động.
- Nghị định 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 về trợ giúp phát triển
doanh nghiệp nhỏ và vừa có quy định chính sách hỗ trợ mặt bằng sản xuất
12
cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, thế nhưng quy định này chỉ mang tính khuyến
khích, chưa cụ thể và chưa quy rõ hạn mức hỗ trợ cũng như trách nhiệm thực
hiện của các UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Do đó, gây khó
khăn cho quá trình thực thi pháp luật và không mang lại hiệu quả cao.
Thứ hai, khó khăn trong công tác triển khai thực hiện
Mặc dù có số lượng doanh nghiệp thành lập lớn, tuy nhiên chủ yếu là
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hơn nữa Hà Tĩnh thời gian gần đây có sự phát
triển về kinh tế - xã hội nhưng môi trường kinh doanh chủ yếu phạm vi nội
tỉnh và một số tỉnh thành khác. Các hoạt động kinh doanh với các đối tác
nước ngoài đã hình thành tuy nhiên còn ở mức độ nhất định. Từ những thực
trạng đó dẫn đến môi trường pháp lý trong hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp chưa rõ ràng. Nhận thức của chủ doanh nghiệp với công tác pháp chế
của doanh nghiệp rất hạn chế. Chính vì vậy, mặc dù các cơ quan đã nỗ lực
trong việc hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhưng mức độ tiếp nhận chưa
được như mong muốn.
Để thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp trong thời gian
tới cần tập trung một số giải pháp sau:
- Cần sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến
hoạt động của doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho quá trình
thành lập cũng như hoạt động, việc thay đổi các chính sách cần hướng tới việc
đơn giản hóa thủ tục hành chính.
- Cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho các
doanh nghiệp bằng các hình thức cụ thể, thiết thực như tổ chức đối thoại trực
tiếp, tìm hiểu những khó khăn, vướng mắc mà doanh nghiệp cần giải quyết để
có chương trình hỗ trợ kịp thời, hiệu quả.
- Tăng cường các biện pháp nhằm nâng cao sự hiểu biết của chủ doanh
nghiệp, hướng tới việc thay đổi nhận thức để nâng cao hiệu quả tiếp cận về
pháp lý cho các doanh nghiệp.
- Quy định trách nhiệm cụ thể của các sở, ngành, địa phương trong việc
hướng dẫn các doanh nghiệp tiếp cận và hưởng ưu đãi từ các chính sách của
13
tỉnh. Đơn giản hóa các thủ tục hành chính quy định việc thực hiện các chính
sách.
Trên đây là tổng quan về một số chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trên
địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, xin gửi tới hội nghị để tiếp thu các ý kiến đóng góp.
Tình huống
Tôi là người ở Hà Nội, tuy nhiên do lấy chồng về Hà Tĩnh nên tôi sẽ về
Hà Tĩnh sinh sống và làm việc trong thời gian tới. Và trong thời gian tới tôi
muốn thành lập công ty trong lĩnh vực chế biến hải sản. Trước khi về Hà Tĩnh
khởi nghiệp tôi muốn hỏi về những chính sách của tỉnh Hà Tĩnh về hỗ trợ
trong quá trình thành lập công ty như thế nào?

Hướng giải quyết:

Theo Nghị quyết số 88/2014/NQ-HĐND ngày 16/7/2014 của HĐND


tỉnh Quy định một số chính sách hỗ trợ đăng ký thành lập mới hộ kinh doanh
và doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh được thực hiện nghiêm túc. Theo đó, công
ty bạn sẽ được hỗ trợ 100% lệ phí đăng ký doanh nghiệp; 100% phí công bố
nội dung đăng ký doanh nghiệp; 100% chi phí khắc con dấu doanh nghiệp
(mức giá con dấu do Sở Tài chính quy định); Hỗ trợ chi phí làm biển hiệu:
500.000 đồng; Hỗ trợ phần mềm kế toán doanh nghiệp: 2.000.000
đồng/doanh nghiệp; Hỗ trợ 100% thuế môn bài cho các doanh nghiệp thành
lập mới trong năm đầu hoạt động…

Ngoài ra, có các chính sách thu hút đầu tư như hỗ trợ đất, giải phóng
mặt bằng, các cuộc đối thoại để đề xuất các phương án tháo gỡ khó khăn,
vướng mắc cho công ty bạn cũng được tổ chức thường xuyên.

14
THAM LUẬN
THỰC TRẠNG VỀ HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP

(Sở Kế hoạch và Đầu tư)

Kính thưa tòa thể hội nghị!


Phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được khẳng định tại Nghị
quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XII. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ ngành, địa
phương triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp tạo môi trường đầu tư
kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp, coi doanh nghiệp là động lực phát
triển kinh tế, lấy tinh thần phục vụ doanh nghiệp làm phương châm hoạt động
của chính quyền các cấp.
Tinh thần này được Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh Hà Tĩnh nghiêm túc
quán triệt và triển khai thực hiện với nhiều giải pháp quyết liệt về cải thiện
môi trường kinh doanh, hỗ trợ đồng hành cùng sự phát triển của doanh nghiệp
và một trong những giải pháp trong tâm là hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp.
Trước hết tôi xin nêu qua về tình hình phát triển doanh nghiệp trên địa
bàn tỉnh
Thứ nhất, hiện nay trên địa bàn tỉnh có trên 5 nghìn doanh nghiệp (DN)
, chủ yếu là các DN nhỏ và vừa, chiếm 98%. Đây là loại hình phát triển nhanh
chóng, tốc độ tăng bình quân hàng năm thời kỳ 2002 - 2015 đạt 21,35%, số
DN thành lập giai đoạn 2011 - 2016 tăng 44% so với giai đoạn 2006 - 2010.
Năm 2016, trong bối cảnh kinh tế - xã hội tỉnh gặp nhiều khó khăn, sự cố môi
trường biển phát sinh nhiều hệ lụy, ảnh hưởng lớn đến môi trường đầu tư kinh
doanh nhưng số lượng DN thành lập mới vẫn đạt cao nhất từ trước đến nay
(thành lập mới 885 DN, tăng 2,7% so với cùng kỳ). Từ đầu năm đến nay
thành lập mới 737 DN, giải thể 101 DN và thực hiện đăng ký tạm ngừng 137
DN. Vốn điều lệ bình quân của các DN trong nước đạt 9,9 tỷ đồng/DN, trong
đó có 04 DN từ 1.000 tỷ đồng đến dưới 2.000 tỷ đồng và 02 DN có vốn điều

15
lệ trên 2.000 tỷ đồng. Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh có trên 1.300 hợp tác xã và
hơn 3.000 tổ hợp tác, trên 5,9 vạn hộ kinh doanh, trong đó số hộ có đăng ký
chiếm 88,2%, đây là khu vực có nhiều tiềm năng lợi thế để phát triển thành
DN.
Số lượng DN trên địa bàn phát triển nhanh. Các loại hình, lĩnh vực,
ngành nghề kinh doanh và mô hình sản xuất của DN ngày càng đa dạng.
Cộng đồng DN đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội tỉnh nhà; tỷ
trọng vốn đầu tư từ DN trong cơ cấu tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội tăng
mạnh, từ 49,7% năm 2010 lên 84,8% năm 2016 ; đóng góp 18,8% GDP năm
2010 lên 36% GDP năm 2016 . Các DN đã tham gia giải quyết việc làm cho
trên 8,5 vạn lao động, góp phần quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu lao động
địa phương. Một số DN đi đầu trong đầu tư sản xuất sản phẩm hàng hóa chủ
lực của tỉnh, tham gia chuỗi liên kết, áp dụng công nghệ mới, công nghệ hiện
đại, đầu tư mô hình sản xuất quy mô lớn gắn với chế biến, mang lại hiệu quả
kinh tế cao; góp phần tích cực tái cơ cấu nông nghiệp, thực hiện Chương trình
MTQG xây dựng NTM. Hưởng ứng phong trào thi đua góp sức xây dựng
nông thôn mới, đã có 30 DN đỡ đầu, tài trợ các xã xây dựng nông thôn mới,
tổng số tiền tài trợ trên 134 tỷ đồng, góp phần đẩy nhanh tiến độ hoàn thành
các tiêu chí đạt chuẩn.
Công tác hậu kiểm các doanh nghiệp sau đăng ký thành lập được
quan tâm chỉ đạo thực hiện. Năm 2016 đã rà soát toàn bộ doanh nghiệp trên
địa bàn, thực hiện cánh báo vi phạm và thu hồi 1.180 doanh nghiệp có tên trên
Hệ thống đăng ký kinh doanh quốc gia nhưng thực tế kiểm tra không hoạt
động, bỏ địa điểm kinh doanh…. Đây là lần đầu tiên thực hiện rà soát trên
diện rộng và thu hồi số lượng lớn doanh nhiệp trên địa bàn, tạo môi trường
kinh doanh bình đăng, minh bạch hơn và tạo sự thống nhất giữa các cơ quan
quản lý.
Công tác cổ phần hóa, đổi mới, tái cơ cấu DN NN được thực hiện theo
đúng lộ trình đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, giai đoạn 2011 – 2016
thực hiện xong cổ phần hóa 04 doanh nghiệp, đạt 100% kế hoạch; đến nay
16
tỉnh chỉ còn 6 DN NN hoạt động lĩnh vực lâm nghiệp, thủy lợi, xổ số kiến
thiết, đăng kiểm. Đối với các doanh nghiệp trước khi cổ phần hóa đều hoạt
động cầm chừng không mở rộng ngành nghề, hoạt động chủ yếu theo chỉ tiêu
kế hoạch nhà nước giao, doanh thu, thu nhập bình quân người lao động, nghĩa
vụ đối với nhà nước thấp; sau cổ phần hóa, các doanh nghiệp đã chủ động hơn
trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả hoạt động.
Tuy nhiên, hầu hết DN tỉnh ta quy mô còn nhỏ, quản trị DN yếu kém;
năng lực cạnh tranh thấp, chưa có nhiều sản phẩm hàng hóa tạo được thương
hiệu; thiếu liên doanh, liên kết; kiến thức, nhận thức và tư duy hội nhập hạn
chế; văn hóa kinh doanh chưa được chú trọng. Với những hạn chế yếu kém cơ
bản này cùng với những khó khăn của nên kinh tế thì hoạt động của các DN
vẫn còn gặp nhiều khó khăn, chỉ 1.782 DN có phát sinh thuế, chiếm 38% tổng
số DN trên địa bàn (không tính các đơn vị trực thuộc), tổng doanh thu giảm so
cùng kỳ, số DN hoạt động có lãi chưa cao và giảm dần qua các năm (tổng
hợp số liệu báo cáo tài chính năm 2016 của 3.242 DN cho thấy số DN hoạt
động có lại chiếm 53%), thu ngân sách từ các DN mới chỉ đạt 51,4% kế
hoạch; việc thành lập tổ chức Đảng, đoàn thể trong các DN còn hạn chế, một
số hoạt động còn mang tính hình thức ; số DN tham gia bảo hiểm cho người
lao động 2.384 DN, đạt 53,2% (không tính các đơn vị trực thuộc) với 3.682
lao động.
Thứ hai, Môi trường đầu tư tiếp tục chuyển biến tích cực, thu hút các
nhà đầu tư lớn có thương hiệu, đa dạng hóa các hình thức, lĩnh vực đầu tư dự
án. Kết quả công bố chỉ số PCI năm 2016 cho thấy Hà Tĩnh tăng 6 bậc, xếp
hạng 39 trong tổng số 63 tỉnh thành cả nước. Trước hết, đây là kết quả khá tốt
nếu so sánh với năm 2015. Mặt khác, đặt trong bối cảnh năm 2016 là năm đặc
biệt khó khăn đối với tỉnh nhà, sự cố môi trường ảnh hưởng lớn đến hình ảnh,
môi trường đầu tư của Hà Tĩnh, kết quả đó đã phản ảnh nỗ lực rất lớn của Hà
Tĩnh trong năm qua, được cộng đồng DN và các nhà đầu tư ghi nhận.
Đến nay toàn tỉnh có 740 dự án đầu tư, trong đó có 671 dự án đầu tư
trong nước với tổng số vốn đầu tư đăng ký trên 99.798 tỷ đồng; 69 dự án đầu
17
tư nước ngoài thuộc 15 nước và vùng lãnh thổ với tổng vốn đầu tư đăng ký
trên 11,63 tỷ USD. Từ đầu năm đến nay đã cấp Quyết định chủ trương đầu
tư/Chứng nhận đăng ký đầu tư cho 76 dự án đầu tư; trong đó có 73 dự án đầu
tư trong nước với tổng số vốn đăng ký là 7.445 tỷ đồng và 03 dự án FDI với
tổng vốn đăng ký là 3,6 triệu USD; một số dự án lớn được chấp thuận năm
2017 như Dự án Khu du lịch sinh thái biển Xuân Hội của Công ty CP Tư vấn
và Xây dựng An Giang Dragon Hà Tĩnh số vốn đầu tư 1.260 tỷ đồng; Dự án
Trung tâm thương mại, khách sạn Villa BMC - Việt Trung của Cty CP hợp
tác đầu tư Việt Trung với số vốn đầu tư 1.230 tỷ đồng; Quần thể du lịch sinh
thái Xuân Thành của Công ty Cổ phần Song Ngư Sơn Giang Đình với số vốn
đầu tư 306 tỷ đồng,...
Trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, công tác hỗ trợ doanh nghiệp khởi
nghiệp đã được quan tâm và có nhiều chính sách khác nhau, cụ thể:
Thời gian qua, tỉnh đã tập trung chỉ đạo và thực hiện nhiều giải pháp
cải thiện môi trường kinh doanh, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, giảm
thời gian và chi phí hành chính, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin,
nâng cao nhận thức về năng lực cạnh tranh cấp tỉnh và vai trò vị trí của doanh
nghiệp. Cộng đồng doanh nghiệp tin tưởng và tiếp tục kỳ vọng vào những
thay đổi, cải cách của Trung ương và của tỉnh.
- Tỉnh đã tập trung đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo thuận lợi cho
doanh nghiệp khởi nghiệp. Đã ban hành mới 64/64 quyết định chuẩn hóa
TTHC, công khai và niêm yết 1.465/1.465 TTHC trên Cơ sở dữ liệu quốc gia;
100% đơn vị cấp xã, huyện, tỉnh thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên
thông. Công khai đường dây nóng (0393 852609 – 0914237788), nâng cấp
chuyên mục Doanh nghiệp hỏi - Cơ quan nhà nước trả lời thành chuyên mục
hỏi đáp trực tuyến trên Cổng thông tin điện tử của tỉnh để tiếp nhận, xử lý
phản ánh, kiến nghị từ doanh nghiệp. Triển khai ứng dụng CNTT trong giải
quyết TTHC giúp tiết kiệm thời gian, chi phí giải quyết thủ tục hành chính.
- Thành lập Trung tâm Hỗ trợ doanh nghiệp và Xúc tiến đầu tư tỉnh
nhằm thực hiện tốt hơn các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp, xúc tiến đầu tư,
18
trong đó tập trung vào công tác tư vấn, định hướng cho các doanh nghiệp khởi
sự; kịp thời tổng hợp ý kiến, phản ánh kiến nghị của nhà đầu tư, doanh
nghiệp. Thành lập Trung tâm Hành chính công tỉnh Hà Tĩnh nhằm thiết lập cơ
chế một cửa, một đầu mối trong hỗ trợ, giải quyết thủ tục hành chính cho
doanh nghiệp.
- Ban hành hệ thống cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển DN, đầu tư, sản
xuất khá đồng bộ; từ chính sách hỗ trợ DN gia nhập thị trường, đến chính
sách hỗ trợ đầu tư, hỗ trợ lãi suất tín dụng phát triển sản xuất . Các nguồn
ngân sách thực hiện đề án chính sách hỗ trợ đầu tư, phát triển sản xuất, phát
triển DN được tỉnh ưu tiên bố trí tối đa trong khả năng cân đối. Hà Tĩnh được
đánh giá là một trong bảy tỉnh (Nghệ An, Lào Cai, Đồng Nai, Thanh Hóa,
Vĩnh Phúc, Tây Ninh, Hà Tĩnh) có sự quan tâm bố trí cân đối ngân sách
thường xuyên hàng năm cho phát triển DN NVV, một trong sáu tỉnh (Hà Nội,
Thanh Hóa, Huế, Bình Dương, Hà Tĩnh, Cà Mau) tổ chức được tương đối
tổng thể, toàn diện các chương trình, chính sách hỗ trợ DN NVV .
Hà Tĩnh là địa phương duy nhất trên cả nước ban hành chính sách hỗ
trợ doanh nghiệp thành lập mới (Nghị quyết số 88/2014/NQ-HĐND về ban
hành một số chính sách hỗ trợ đăng ký thành lập mới doanh nghiệp, hộ kinh
doanh trên địa bàn tỉnh). Theo đó khi thành lập doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh
sẽ được hưởng các chính sách:
+ Hỗ trợ 100% lệ phí thành lập (200.000 đồng), hỗ trợ 100% phí công
bố nội dung đăng ký doanh nghiệp (300.000 đồng).
+ Hỗ trợ phần mềm kế toán (2.000.000 đồng), hỗ trợ biển hiệu
(500.000 đồng), hỗ trợ con dấu (500.000 đồng).
+ Hỗ trợ thuế môn bài: Hỗ trợ 100% thuế môn bài cho các doanh
nghiệp thành lập mới trong năm đầu hoạt động. Đối với các doanh nghiệp
thành lập mới tại các địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn
hoặc hoạt động sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực nông nghiệp nông
thôn, cơ sở giết mổ gia súc gia cầm, môi trường, nghiên cứu khoa học và phát

19
triển công nghệ, giáo dục đào tạo, dạy nghề thì được hỗ trợ 100% thuế môn
bài thêm 02 năm (năm thứ hai và năm thứ ba).
+ Hỗ trợ vốn đối ứng ban đầu: Sau khi doanh nghiệp đăng ký thành lập
mới và đi vào hoạt động, có phương án, dự án sản xuất kinh doanh có hiệu
quả, nếu có nhu cầu vay vốn tại các tổ chức tín dụng để phục vụ hoạt động
sản xuất kinh doanh sẽ được ngân sách tỉnh hỗ trợ thông qua lãi suất ngân
hàng nhưng tối đa không quá 15.000.000 đồng.
Như vậy, mức tối đa mà các doanh nghiệp có thể được hỗ trợ là:
27.500.000 đồng. Mức hỗ trợ tuy không lớn nhưng thể hiện sự quan tâm của
Tỉnh đối với doanh nghiệp, góp phần giảm chi phí gia nhập thị trường cho
doanh nghiệp và thao gỡ một phần khó khăn cho doanh nghiệp trong bước
đầu hoạt động sản xuất kinh doanh .
Tuy nhiên, vẫn còn những tồn tại hạn chế nhất định đối với các doanh
nghiệp khởi nghiệp trên địa bàn tỉnh:
Thứ nhất, năng lực của các DN khởi nghiệp còn hạn chế: Hầu hết DN
tỉnh ta quy mô còn nhỏ, DN NVV chiếm 98%. Các DN khới nghiệp do mới
thành lập nên quản trị DN yếu kém; năng lực cạnh tranh thấp, chưa có nhiều
sản phẩm hàng hóa tạo được thương hiệu; thiếu liên doanh, liên kết; kiến
thức, nhận thức và tư duy hội nhập hạn chế; văn hóa kinh doanh chưa được
chú trọng. Với những hạn chế yếu kém cơ bản này, các DN khởi nghiệp ở địa
phương sẽ gặp nhiều khó khăn thách thức trong thời gian tới.
Thứ hai, khó tiếp cận vốn tín dụng: Vốn là vấn đề quan trọng đối với
doanh nghiệp khởi nghiệp nhưng việc vay vốn từ ngân hàng của các doanh
nghiệp này gặp nhiều khó khăn do những chính sách tín dụng, điều kiện để
được vay vốn… Các doanh nghiệp khởi nghiệp đa phần bắt đầu từ ý tưởng,
thế nhưng ý tưởng kinh doanh không phải là tài sản đảm bảo nợ vay. Dẫn đến
khó khăn cho ngân hàng trong quyết định cấp tín dụng vì không đảm bảo
được các điều kiện quản lý rủi ro. Các doanh nghiệp khởi nghiệp cũng thường
gặp khó khăn về thủ tục pháp lý, chưa có bộ máy điều hành quản trị doanh
nghiệp, do đó cũng hạn chế trong hồ sơ pháp lý để ngân hàng cấp tín dụng.
20
Thứ ba, phải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh
tranh cấp tỉnh chưa có bước đột phá. Vẫn còn tồn tại khoảng cách giữa chỉ
đạo của tỉnh và thực thi ở các ngành, địa phương các cấp. Người đứng đầu
một số ngành, địa phương, đơn vị chưa tập trung cao, xem nhẹ nhiệm vụ cải
thiện môi trường kinh doanh, nâng cao chỉ số PCI; xem đây là nhiệm vụ của
lãnh đạo tỉnh và của các cơ quan tham mưu kinh tế tổng hợp; dẫn đến chưa
chủ động, quyết liệt trong việc triển khai, tổ chức thực hiện nhiệm vụ được
giao.
Thứ tư, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về DN tuy có chuyển biến
tích cực nhưng nhiều mặt còn hạn chế. Công tác tuyên truyền các cơ chế,
chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển DN chưa sâu rộng và toàn diện.
Cải cách hành chính tuy đã được tập trung chỉ đạo, đặc biệt là cắt giảm thủ
tục và thời gian xử lý thủ tục hành chính liên quan đến DN và đầu tư, một số
lĩnh vực triển khai thực hiện chưa thực sự quyết liệt, chưa tạo được chuyển
biến rõ nét. Tổ chức bộ máy và thực hiện chức năng, nhiệm vụ về quản lý
phát triển DN theo lĩnh vực của một số ngành, địa phương chưa được quan
tâm đúng mức.
Cuối cùng, hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp tuy đã được tăng cường
nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp. Tình trạng doanh
nghiệp than phiền về việc các thủ tục hành chính chậm trễ, gây khó khăn,
phiền hà cho doanh nghiệp vẫn còn.
Để doanh nghiệp khởi nghiệp đạt được những thành quả nhất định
phải có những giải pháp, nhiệm vụ nhất định, như:
Để hoàn thành mục tiêu Chương trình hành động số 739-CTr/TU ngày
31/8/2017 của Tỉnh ủy về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực
quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo Nghị
quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XII, phấn đến năm 2020 tỉnh có trên 10.000 doanh nghiệp, đến năm
2025 có hơn 15.000 DN và đến năm 2030 có ít nhất 20.000 DN. Thời gian tới
cần tập trung một số nhiệm vụ, giải pháp:
21
- Huy động tối đa mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển nhằm đẩy mạnh
tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đây vừa là tiền đề, vừa là động lực thúc đẩy phát
triển DN mạnh mẽ trên cả 3 lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, là
điều kiện thuận lợi giúp các doanh nghiệp khởi nghiệp.
- Tập trung nâng cao năng lực, đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng; sắp xếp, tinh giản bộ máy, biên chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của các cơ quan, đơn vị.
Các ngành, địa phương theo chức năng nhiệm vụ được giao thực hiện
đồng bộ, hiệu quả Chương trình hành động số 219/CT-UBND ngày
15/7/2016, Kế hoạch số 116/KH-UBND ngày 31/3/2017 của UBND tỉnh triển
khai Nghị quyết 19, Nghị quyết 35 của Chính phủ gắn với nâng cao chỉ số
PCI năm 2016 - 2017, định hướng đến năm 2020; phân công đơn vị, cán bộ
đầu mối theo dõi, xác định nhiệm vụ giải pháp cụ thể, rõ ràng, thiết thực, phù
hợp thực tiễn ngành, lĩnh vực, cơ sở.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cơ chế liên thông, giảm đầu mối;
chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin để rút ngắn thời gian gia nhập thị
trường và giảm chi phí cho các DN khởi nghiệp. Đổi mới tư duy quản lý nhà
nước, xem DN, nhà đầu tư là đối tượng phục vụ. Xử lý nghiêm cán bộ công
chức thiếu tinh thần trách nhiệm, nhũng nhiễu, gây phiền hà cho DN.
Tăng cường phối hợp giữa các ngành, các cấp trong quản lý phát triển
DN. Duy trì thường xuyên các cuộc trao đổi, đối thoại thực chất, cởi mở giữa
lãnh đạo tỉnh, các sở ban ngành với các doanh nghiệp, doanh nhân để cùng
tháo gỡ, xử lý dứt điểm những tồn tại, vướng mắc.
- Triển khai ngay nhiệm vụ rà soát, điều chỉnh, bổ sung, xây dựng mới
quy hoạch ngành, lĩnh vực; nhất là quy hoạch xây dựng, quy hoạch kế hoạch
sử dụng đất, quy hoạch logistics, quy hoạch phát triển các sản phẩm chủ lực
của tỉnh; nhằm định hướng, hỗ trợ cá DN khởi nghiệp trong xây dựng chiến
lược phát triển ngành nghề, sản phẩm. Công khai đầy đủ các quy hoạch đã
được phê duyệt ở cả ba cấp tỉnh, huyện, xã, bằng cách thức thuận lợi nhất để

22
mọi người dân, DN có thể dễ dàng tiếp cận quy hoạch, tăng tính minh bạch,
tạo niềm tin cho DN, nhà đầu tư.
- Tổ chức thực hiện có hiệu quả Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa;
các cơ chế chính sách của tỉnh về hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp khởi
nghiệp. Có cơ chế chính sách cho DN khởi nghiệp tiếp cần được nguồn vốn
tín dụng, tiếp cận được đất đai để hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Có giải pháp hỗ trợ, tạo điều kiện hình thành và phát triển một số tập
đoàn, DN tư nhân mạnh trên địa bàn tỉnh có công nghệ hiện đại, năng lực
quản trị tiên tiến, làm động lực thúc đẩy phát triển kinh tế của tỉnh, làm đầu
tàu kéo các DN khởi nghiệp của tỉnh cùng phát triển.
- Nâng cao vai trò hoạt động của Hiệp hội DN tỉnh, Hội DN các huyện,
thành phố, thị xã; phát huy hiệu quả cầu nối giữa cộng đồng DN và đội ngũ
doanh nhân với chính quyền; chủ động trong quan hệ phối hợp với các cơ
quan quản lý nhà nước để giải quyết các kiến nghị, khó khăn vướng mắc; phát
huy vai trò tư vấn, phản biện chính sách tác động trực tiếp đến cộng đồng DN,
nhà đầu tư; xây dựng, tập hợp được đông đảo đội ngũ doanh nhân nắm vững
kiến thức hội nhập, kỹ năng quản trị, hiểu biết văn hóa, chấp hành pháp luật,
có trách nhiệm xã hội, tích cực tham gia góp sức xây dựng nông thôn mới.
- Bản thân các DN phải tự đổi mới, chủ động tái cơ cấu, nỗ lực vươn lên
trong thời kỳ hội nhập, bước vào giai đoạn thực thi đầy đủ cam kết WTO, gia
nhập TPP; đây là yêu cầu cấp thiết. Quản trị DN hướng đến chuyên nghiệp, DN
nắm vững chính sách pháp luật, có chiến lược kinh doanh dài hạn, DN trên địa
bàn tỉnh phải chủ động liên kết để nâng quy mô, nâng tầm hoạt động, kết nối
được với các DN, tập đoàn, các dự án đầu tư lớn đã và đang triển khai trên địa
bàn; đây là yếu tố quan trọng để tiếp cận, trở thành đối tác, tham gia phân khúc
chuỗi giá trị khu vực công nghiệp, dịch vụ phụ trợ, là khu vực có tiềm năng phát
triển lớn của tỉnh ta thời gian tới.
Trên đây là tham luận của Sở Kế hoạch và Đầu tư về nội dung thực
trạng hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp trên địa bàn tỉnh. Xin chân thành cảm
ơn!
23
Tình huống
Sở Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan đăng ký kinh doanh cho các doanh
nghiệp trên địa bàn tỉnh. Khi đến đăng ký kinh doanh các cá nhân là chủ
doanh nghiệp luôn đặt câu hỏi về các chính sách hỗ trợ của tỉnh đối với doanh
nghiệp mới thành lập như thế nào?
Hướng giải quyết:
Theo Nghị quyết số 88/2014/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân tỉnh
về ban hành một số chính sách hỗ trợ đăng ký thành lập mới doanh nghiệp, hộ
kinh doanh trên địa bàn tỉnh. Theo đó khi thành lập doanh nghiệp trên địa bàn
tỉnh sẽ được hưởng các chính sách:
+ Hỗ trợ 100% lệ phí thành lập (200.000 đồng), hỗ trợ 100% phí công
bố nội dung đăng ký doanh nghiệp (300.000 đồng).
+ Hỗ trợ phần mềm kế toán (2.000.000 đồng), hỗ trợ biển hiệu
(500.000 đồng), hỗ trợ con dấu (500.000 đồng).
+ Hỗ trợ thuế môn bài: Hỗ trợ 100% thuế môn bài cho các doanh
nghiệp thành lập mới trong năm đầu hoạt động. Đối với các doanh nghiệp
thành lập mới tại các địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn
hoặc hoạt động sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực nông nghiệp nông
thôn, cơ sở giết mổ gia súc gia cầm, môi trường, nghiên cứu khoa học và phát
triển công nghệ, giáo dục đào tạo, dạy nghề thì được hỗ trợ 100% thuế môn
bài thêm 02 năm (năm thứ hai và năm thứ ba).
+ Hỗ trợ vốn đối ứng ban đầu: Sau khi doanh nghiệp đăng ký thành lập
mới và đi vào hoạt động, có phương án, dự án sản xuất kinh doanh có hiệu
quả, nếu có nhu cầu vay vốn tại các tổ chức tín dụng để phục vụ hoạt động
sản xuất kinh doanh sẽ được ngân sách tỉnh hỗ trợ thông qua lãi suất ngân
hàng nhưng tối đa không quá 15.000.000 đồng.

THAM LUẬN
Thực trạng hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận các chính
sách khởi nghiệp tại Đảng bộ Khối Doanh nghiệp tỉnh
24
Đảng ủy Khối Doanh nghiệp tỉnh

Kính thưa quý vị đại biểu,


Thưa chủ trì Hội nghị,
Thưa toàn thể Hội nghị
Hôm nay, tôi rất vui mừng được về dự Hội nghị đối thoại trao đổi về
chính sách pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp do Sở Tư pháp chủ trì tổ chức. Thay
mặt Ban Thường vụ Đảng ủy Khối Doanh nghiệp xin gửi tới quý vị đại biểu,
các đồng chí lời chúc sức khỏe, hạnh phúc, thành đạt. Chúc Hội nghị thành
công tốt đẹp. Nhân dịp kỷ niệm 13 năm Ngày Doanh nhân Việt Nam
13/10/2017, xin gửi lời chúc mừng tốt đẹp nhất tới các doanh nghiệp, doanh
nhân có mặt trong Hội nghị ngày hôm nay.
Kính thưa các đồng chí!
Trước hết, tôi bày tỏ sự đồng tình và thống nhất cao với Đề dẫn và các
ý kiến phát biểu tham luận tại Hội nghị. Được sự đồng ý của Chủ trì Hội nghị,
tôi xin tham luận với chủ đề: “Thực trạng hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận
các chính sách khởi nghiệp tại Đảng bộ Khối Doanh nghiệp tỉnh”.
Kính thưa Hội nghị!
Chương trình khởi nghiệp quốc gia được Chính phủ chọn và bắt đầu
triển khai từ năm 2016 trên toàn quốc với mục tiêu đến năm 2020, cả nước có
một triệu doanh nghiệp hoạt động. Sau gần 02 năm triển khai, làn sóng khởi
nghiệp đã và đang phát triển mạnh mẽ, tạo động lực phấn đấu trong cộng
đồng doanh nghiệp và người trẻ Việt Nam khi vai trò đội ngũ doanh nhân và
doanh nghiệp ngày càng được Đảng và Nhà nước đề cao, được coi là “lực
lượng chủ lực xung kích” trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế. Theo một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, năm 2016
nước ta xếp thứ 90/189 nền kinh tế, tăng 3 bậc so với năm 2015. Đáng lưu ý,
trong chỉ số khởi nghiệp toàn cầu 2015/2016 cho thấy hệ sinh thái khởi
nghiệp ở Việt Nam năm 2015 vẫn không thay đổi nhiều so với năm 2014 và

25
vẫn chưa thực sự hỗ trợ cho phong trào khởi nghiệp và phát triển kinh doanh,
chỉ có 4 trên tổng số 12 chỉ số trên mức trung bình.
Theo Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, năm 2016 Việt Nam có
110.100 doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký đạt 891.094 tỷ đồng,
tăng 16,2% về số lượng doanh nghiệp và tăng 48,1% về số vốn đăng ký so với
cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, số lao động đăng ký của các doanh nghiệp
thành lập mới trong năm 2016 là 1.268 nghìn lao động, giảm 13,9% so với
cùng kỳ năm trước. Trong khi đó, tỷ lệ doanh nghiệp thành lập mới giảm ở ba
ngành nghề so với cùng kỳ năm 2015 đó là: (1) Nghệ thuật, vui chơi và giải
trí; (2) Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản; và (3) Khai khoáng. Ngoài ra,
trong năm 2016, xuất hiện một số ngành, lĩnh vực thu hút nhiều số lao động
gia nhập thị trường, gồm có: Công nghiệp chế biến, chế tạo; Bán buôn; bán lẻ;
sửa chữa ô tô, xe máy; Xây dựng…
Nhận thấy vai trò quan trọng của khởi nghiệp đối với việc phát triển
doanh nghiệp, doanh nhân, Đảng và Nhà nước ta đã nhiều lần khẳng định
khởi nghiệp là bước đi quan trọng để thực hiện 3 đột phá chiến lược và xem
kết quả các chương trình khởi nghiệp là thước đo thành công của Chính phủ
kiến tạo. Ngay nhiệm kỳ đầu tiên trên cương vị mới, Thủ tướng Chính phủ
Nguyễn Xuân Phúc đã khẳng định: “Chính phủ sẽ 3 đồng hành, 5 hỗ trợ với
doanh nghiệp. Tiếng nói của các Doanh nhân Doanh nghiệp sẽ được Thủ
tướng lắng nghe thường xuyên”. Phát biểu tại Hội thảo quốc tế “Tạo dựng hệ
sinh thái khởi nghiệp Việt Nam - Bài học từ Israel” năm 2016, Phó Thủ tướng
Vương Đình Huệ đã nhấn mạnh: “Khởi nghiệp là cuộc chơi của những người
dũng cảm, đi tiên phong và dám chấp nhận rủi ro. Một nền kinh tế như Việt
Nam muốn tăng tốc phát triển, muốn thu hẹp khoảng cách thì đây là một mũi
nên tập trung”. Đó chính là cam kết, thể hiện quyết tâm đổi mới của Chính
phủ nhấn mạnh vai trò quan trọng của doanh nghiệp và vấn đề khởi nghiệp
hiện nay. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương,
chính sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp, phát huy vai trò của doanh
nhân, doanh nghiệp trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước như: Nghị
26
quyết số 09-NQ/TW ngày 9/12/2011 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát
huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; Kết luận số 64 - KL/TW ngày
9/12/2010 của Ban Bí thư về kết quả thực hiện Nghị quyết số 14-NQ/TW
(khóa IX) về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều
kiện phát triển kinh tế tư nhân trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế; Kết
luận số 103-KL/TW của Bộ Chính trị về sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết
Trung ương 6 khóa X về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đã nêu; Nghị quyết 35/NQ-CP về hỗ trợ và phát triển
doanh nghiệp giai đoạn 2016-2020; Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp
hành Trung ương Đảng khóa XII… Trên cơ sở các Nghị quyết của Trung
ương, Quốc hội và Chính phủ đã ban hành nhiều Luật, Nghị định, Quyết định
và văn bản quy phạm pháp luật nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi
cho cộng đồng doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp khởi nghiệp.
Có thể khẳng định rằng, trong những năm gần đây môi trường và cơ
hội khởi nghiệp ở nước ta rất thuận lợi. Chúng ta đang ở thời kỳ dân số vàng,
dân số trẻ rất đông, đó là cơ hội vàng, thời điểm vàng của khởi nghiệp. Nền
kinh tế nước ta đang dần chuyển dịch mô hình sang năng suất cao hơn, kỹ
thuật cao hơn, sáng tạo cao hơn. Việt Nam có trên 90 triệu dân nhưng mới chỉ
có gần 600 nghìn doanh nghiệp. Chúng ta đang ở mức rất thấp về tỷ lệ doanh
nghiệp trên dân số. Chính vì vậy, cần phải đẩy mạnh phát triển doanh nghiệp,
khơi dậy tinh thần kinh doanh, khả năng sáng tạo, sự năng động của cả quốc
gia, đặc biệt là thế hệ trẻ, để biến những ý tưởng mới, những sáng chế mới
thành hàng hóa, từ đó tạo ra của cải vật chất mới cho xã hội.
Kính thưa Hội nghị!
Đảng bộ Khối Doanh nghiệp tỉnh được thành lập theo Quyết định số
1310-QĐ/TU, ngày 15/6/2009 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Đảng bộ Khối
hiện có 69 tổ chức cơ sở Đảng (gồm 30 đảng bộ, 39 chi bộ cơ sở) trong đó có
68 tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp, 01 tổ chức cơ sở đảng hành chính,

27
với 3.896 đảng viên. Có 02 đoàn thể trực thuộc là Đoàn Thanh niên và Hội
Cựu Chiến binh Khối.
Thực hiện chức năng lãnh đạo các tổ chức cơ sở Đảng trong Khối thực
hiện nhiệm vụ chính trị, những năm qua Đảng bộ Khối Doanh nghiệp đã tập
trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong khối trong sạch,
vững mạnh gắn với xây dựng doanh nghiệp và đoàn thể doanh nghiệp vững
mạnh; các đơn vị, doanh nghiệp đã chú trọng đầu tư, mở rộng sản xuất, kinh
doanh ổn định và phát triển; đảm bảo việc làm và thu nhập cho người lao
động; thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước; các hoạt động an sinh xã
hội, xây dựng nông thôn mới được quan tâm. Nhiều doanh nghiệp trực thuộc
Khối là những cánh chim đầu đàn của doanh nghiệp tỉnh nhà như: Hệ thống
các Ngân hàng Thương mại, Công ty Xăng dầu, Công ty cổ phần Dược, Điện
lực, Viễn thông, Công ty cổ phần Phát triển công nghiệp xây lắp và Thương
mại, Công ty cổ phần Tập đoàn Hoành Sơn...
Mặc dù là những doanh nghiệp đóng vai trò chủ chốt của doanh nghiệp
tỉnh nhà, nhưng nhìn chung hoạt động của các doanh nghiệp trực thuộc Khối
còn gặp nhiều khó khăn, thách thức. Ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn
cầu, kinh tế trong nước phục hồi chậm, công tác cải cách hành chính còn
nhiều bất cập, thời tiết, khí hậu diễn biến bất thường, nhất là việc tiếp cận các
cơ chế, chính sách nói chung và chính sách khởi nghiệp nói riêng còn nhiều
hạn chế đã làm ảnh hưởng đến tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh và sự
phát triển của các doanh nghiệp. Việc công khai và cung cấp thông tin của các
cơ quan nhà nước mới chỉ đáp ứng được một phần, trong đó không ít trường
hợp thiếu sự chủ động, không đầy đủ khi cung cấp, nhất là các thông tin liên
quan đến kế hoạch (như ngân sách, quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất, các
dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, các chính sách ưu đãi đầu tư…) làm các doanh
nghiệp “thiếu” thông tin chính thức để xem xét, quyết định đầu tư...; Nhiều
doanh nghiệp không tiếp cận hoặc khó tiếp cận được nguồn vốn hỗ trợ của
ngân hàng, các tổ chức tín dụng mặc dù hiện nay có khá nhiều nguồn hỗ trợ
của các cơ quan nhà nước, nhưng không biết làm thế nào để tiếp cận được các
28
nguồn vốn đó, có quá nhiều quy trình phức tạp. Không chỉ khó khăn về vốn,
những rắc rối về thủ tục hành chính và môi trường đầu tư, cơ chế, chính sách
chưa rõ ràng, liên tục thay đổi và môi trường kinh doanh, các quy định pháp
lý nhiều khi thiếu thống nhất, kém minh bạch nên đặt doanh nghiệp và nhà
đầu tư vào nhiều rủi ro. Theo thống kê, cứ khoảng 100 người khởi nghiệp thì
có tới 80% đứng trước nguy cơ giải thể trong hai năm đầu hoạt động. Nguyên
nhân chính xuất phát từ việc thiếu kiến thức về quản trị điều hành doanh
nghiệp vừa và nhỏ (chiếm 50%), thiếu vốn (chiếm 40%) và thiếu kinh nghiệm
thực tế trong môi trường kinh doanh (chiếm 30%). Các quy định về thuế, môi
trường, quy định cạnh tranh với các doanh nghiệp ngoài nước; khó khăn trong
tiếp cận các cơ chế, chính sách về đất đai, vốn, khoa học công nghệ, năng lực
tài chính và quy mô đầu tư nhỏ lẻ cũng là những rào cản gây ra những khó
khăn nhất định đối với các doanh nghiệp trực thuộc Đảng bộ Khối.
Để xảy ra vấn đề trên, theo tôi do công tác tuyên truyền, phổ biến về
các chính sách, chương trình hỗ trợ của các ngành, các cấp chưa được chú
trọng nên sự lan tỏa các chính sách tới các vùng, miền và địa phương còn
chậm, ít doanh nghiệp biết để tham gia. Hoạt động trợ giúp đối với các doanh
nghiệp khởi nghiệp vẫn chưa được quan tâm đúng mức, các giải pháp giúp đỡ
doanh nghiệp khởi nghiệp của các sở, ban, ngành, địa phương chưa thực sự
hiệu quả. Đồng thời, hệ thống triển khai các chương trình, chính sách trợ giúp
doanh nghiệp khởi nghiệp chưa được kiện toàn từ Trung ương tới tỉnh. Các cơ
chế, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp còn thiếu tính đồng bộ và hệ
thống; Quy mô hỗ trợ doanh nghiệp còn hạn hẹp, hiện chỉ mới tập trung vào
bảo lãnh tín dụng, chính sách tư vấn về quản trị kinh doanh và nâng cao hiệu
quả sản xuất. Một số chính sách còn thiếu quy định cụ thể, mang nặng tính
khuyến khích và chung chung như: hỗ trợ về mặt bằng sản xuất, tham gia mua
sắm, cung ứng dịch vụ công. Các hỗ trợ theo cơ cấu vùng, miền và ngành
nghề chưa hợp lý, nhiều chính sách còn thiếu hỗ trợ đặc thù cho khu vực nông
thôn, miền núi và trong các ngành Nông - Lâm - Thủy sản. Bên cạnh đó, một

29
vấn đề quan trọng nữa đó là tự thân các doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm,
tìm hiểu, xây dựng các kế hoạch để tiếp cận các chính sách khởi nghiệp.
Kính thưa các đồng chí!
Qua thực tế tình hình tại Đảng bộ Khối Doanh nghiệp tỉnh để các chính
sách khởi nghiệp thực sự là “liều thuốc” bổ trợ cho sự phát triển của doanh
nghiệp, chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp sau:
* Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước
Thứ nhất, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các các chủ
trương, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, các quy
định pháp luật liên quan đến hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp khởi nghiệp bảo
đảm sự kịp thời, đầy đủ các chính sách, pháp luật về hỗ trợ cung cấp thông tin
cho doanh nghiệp. Nhà nước cần có cơ chế hỗ trợ cung cấp thông tin cho
doanh nghiệp khởi nghiệp cụ thể hơn, chú trọng đến việc nâng cao các dịch
vụ hỗ trợ pháp lý hiện nay, điều này hết sức cần thiết đối với việc tiếp cận
thông tin của doanh nghiệp khởi nghiệp. Một hệ thống chính sách, pháp luật
rõ ràng, đầy đủ, minh bạch chính là cơ sở, tiền đề pháp lý vững vàng cho mọi
loại hình doanh nghiệp có thể bước vào thị trường.
Thứ hai, tập trung cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, tạo
sự cạnh tranh bình đẳng, minh bạch, kể cả trong nội bộ các doanh nghiệp. Đặc
biệt, cần chú trọng quan tâm định hướng hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp để tránh việc đổ vỡ phá sản, làm ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế tương
tự như các trường hợp các tập đoàn, doanh nghiệp Nhà nước vừa qua.
Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách hỗ trợ; cơ chế chính
sách thúc đẩy phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Trong đó,
đặc biệt chú trọng đẩy mạnh việc sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản không
còn phù hợp, xây dựng bộ máy quản lý nhà nước trong sạch. Thay đổi tư duy
quản lý sang trách nhiệm phục vụ, hướng dẫn doanh nghiệp phát triển, giảm
nhũng nhiễu, thờ ơ, thiếu trách nhiệm của công chức, đảm bảo cho các cơ
quan quản lý nhà nước tỉnh đến cơ sở thực sự là chỗ dựa vững chắc, là nơi
“kiến tạo”, “phục vụ”, là người trợ giúp thật hiệu quả đối với doanh nghiệp.
30
Đồng thời, có chiến lược ưu tiên tháo gỡ khó khăn, xây dựng những
nhân tố nòng cốt, nhằm tôn vinh và nhân rộng các điển hình tiên tiến; Tạo
môi trường để các doanh nghiệp tăng cường liên kết với nhau, khích lệ họ có
niềm tin và sự cống hiến.
Thứ tư, Nhà nước cần kiên định các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô,
kiềm chế lạm phát, xây dựng lòng tin cho người kinh doanh. Cần tiếp tục gỡ
bỏ các rào cản trong kinh doanh, kiên quyết loại bỏ các quy trình, thủ tục
thiếu hợp lý về các điều kiện kinh doanh gây cản trở cho việc kinh doanh.
Cần minh bạch hóa các chính sách, tạo điều kiện thuận lợi để người làm kinh
doanh có thể tiếp cận các thông tin, sự trợ giúp về kỹ thuật cũng như về lĩnh
vực tài chính.
* Về phía các doanh nghiệp, những nhân vật chính của khởi nghiệp
Thứ nhất, cần nghiên cứu, sử dụng mô hình đơn giản, năng động dựa
trên nền tảng có thể đó là phát triển theo những nhóm sáng tạo, sau đó trong
quá trình phát triển quy mô đến đâu, kết quả hoạt động thế nào thì mới
chuyển cấu trúc doanh nghiệp từ dạng đơn giản sang phức tạp hơn.
Thứ hai, cần xây dựng môi trường làm việc hấp dẫn, đổi mới công việc,
chú trọng đến tầm quan trọng của việc cải tiến công nghệ, tận dụng sự phát
triển của công nghệ thông tin và xác định cách thức hòa nhập phù hợp của
doanh nghiệp trong mô trường toàn cầu hóa. Bên cạnh đó, vấn đề quan trọng
nhất mà nhà quản trị không thể lơ là chính là đạo đức doanh nghiệp và trách
nhiệm xã hội. Đây là điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp gìn giữ được uy tín
trong mắt các cổ đông, khách hàng, nhà cung cấp, người lao động, cộng đồng
và chính phủ để hướng tới phát triển bền vững.
Thứ ba, ngoài sự hỗ trợ của Nhà nước, doanh nghiệp cũng cần chủ
động thay đổi mình để tiếp cận được các thông tin hỗ trợ, nguồn vốn ưu đãi.
Bên cạnh đó, tiếp cận với các công nghệ mới, chi phí vừa phải trong nước từ
các hội chợ công nghệ, các trung tâm chuyển giao công nghệ, đặc biệt là các
trung tâm thông tin khoa học công nghệ…

31
Trên đây là một số ý kiến tham luận về tiếp cận các chính sách khởi
nghiệp của các doanh nghiệp tại Đảng bộ Khối Doanh nghiệp tỉnh. Một lần
nữa, xin kính chúc quý vị đại biểu, quý vị khách quý cùng toàn thể Hội nghị
lời chúc sức khỏe, hạnh phúc, thành công.
Xin trân trọng cảm ơn!
Tình huống

THAM LUẬN
32
Các chính sách tài chính hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp

Sở Tài chính

Tính đến năm 2016, Việt nam có hơn 1500 doanh nghiệp khởi
nghiệp(DNKN). Dự kiến trong những năm tới số DNKN sẽ tăng nhanh. Tỷ lệ
DNKNtrên đầu người tại Việt Nam là 15 doanh nghiệp/1 triệu dân, nhiều hơn
các quốc gia khác như Indonesia (2.100 DNKN/260,6 triệu dân); tại
Indonesia, Trung Quốc (2.300 DNKN/1.378,6 triệu dân) và Ấn Độ (7.500
DNKN/1.330,6 triệu dân).

Kinh nghiệm ở nhiều nước phát triển, nhà nước tập trung hỗ trợ DNKN
trong giai đoạn đầu hoạt động thông qua đầu tư kinh phí để phát triển ý tưởng,
đến một giai đoạn nhất định, các công ty tư nhân mới tham gia đầu tư.

Bên cạnh đó, tại một số nước, Nhà nước hỗ trợ các DNKN về sản phẩm
đầu ra, những sản phẩm từ công nghệ thử nghiệm được Nhà nước ưu tiên mua
phục vụ cho lợi ích công cộng… Hình thức hỗ trợ của Chính phủ chủ yếu
thông qua các quỹ hoặc theo vốn đối ứng với nhà đầu tư , hoặc thông qua các
chính sách miễn, giảm thuế hoặc chính sách tín dụng và một số chính sách
khác.

Ở Việt nam, Từ Đại hội VII đến nay, Đảng ta đã có nhiều chủ trương,
chính sách về phát triển kinh tế tư nhân, trong đó lực lượng chủ yếu là các
doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV). Tiếp sau đó, ngày 18/3/2002, Hội nghị
lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) đã ban hành Nghị quyết
14-NQ/TW về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích, tạo điều
kiện phát triển kinh tế tư nhân; Ngày 9/2/2010 ban hành Kết luận số 64-
KL/TW về kết quả kiểm tra tình hình thực hiện Nghị quyết 14-NQ/TW; Ngày
9/12/2011 Bộ chính trị ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TW về xây dựng và
phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt nam trong thời kỳ Công nghiệp
hóa – Hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

33
Như vậy có thể thấy việc hỗ trợ hành lang pháp lý đối với doanh nghiệp
khởi nghiệp giữ một vai trò vị trí hết sức quan trọng đối với sự phát triển của
doanh nghiệp. Cùng với việc hỗ trợ hàng lang pháp lý, nhà nước ngày càng
chú trọng hơn trong công tác quản lý doanh nghiệp. Điều này thể hiện ở nhiều
văn bản QPPL được ban hành trong thời gian vừa quan liên quan đến hoạt
động quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp. Từ Luật Doanh nghiệp năm
2014, Luật cạnh tranh năm 2014, Luật quản lý vốn và tài sản nhà nước tại
doanh nghiệp năm 2014 … đến các nghị định, thông tư và các văn bản khác
liên quan đều thể hiện rõ vai trò quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp.

Tuy nhiên trên thực tế sự phát triển của các DNKN Việt Nam nói
chung và DNKN Hà Tĩnh nói riêng còn gặp nhiều khó khăn do một số yếu tố:
Cơ chế, chính sách hỗ trợ đối với DNKN còn thiếu tính đồng bộ và hệ thống,
thường đượclồng ghép trong các chính sách chung hoặc chính sách đối với
doanh nghiệp nhỏ và vừa; huy động vốn đối với các DNKN còn khó
khăn,nguồn lực để thực hiện các chính sách cũng như sự quan tâm của các
cấp chính quyền đoàn thể đối với doanh nghiệp còn hạn chế .

Chính vì vậy, trên cơ sở thực tiễn tại Việt Nam và xu hướng của các
nước, cần thiết ban hành các chính sách tài chính để hỗ trợ DNKN, thúc đẩy
tinh thần khởi nghiệp quốc gia theo tinh thần Nghị quyết 35 và thực hiện
Quyết định số 844/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án
Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2020.

Từ đó thực tế đó, hành lang pháp lý đối với hỗ trợ doanh nghiệp khởi
nghiệp đã từng bước được chú trọng hơn, cụ thể:

Nội dung các văn kiện Đại hội XII của Đảng cũng đã chỉ rõ: Hoàn thiện
cơ chế, chính sách khuyến khích, để hỗ trợ cho phát triển mạnh kinh tế tư
nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, tạo động lực quan trọng vào
phát triển kinh tế - xã hội.

34
Cụ thể là: Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển DNNVV, DN khởi
nghiệp; Tạo mọi điều kiện thuận lợi phát triển mạnh DN tư nhân để tạo động
lực nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; Hoàn thiện pháp luật, cơ
chế, chính sách để DN tư nhân tiếp cận bình đẳng mọi cơ hội, các nguồn lực,
nhất là về vốn, đất đai, tài nguyên; Tăng cường trợ giúp để phát triển mạnh
DNNVV, kinh tế hộ gia đình; Hỗ trợ DN khởi nghiệp.

Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chính
sách cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi phát triển
DNNVV như: Luật Đầu tư sửa đổi, Luật DN sửa đổi, Luật Thuế giá trị gia
tăng, Luật Thuế thu nhập DN, Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Phá sản
(sửa đổi), Luật Hải quan (sửa đổi), Luật Ngân sách nhà nước (sửa đổi), Luật
Đầu tư công...

Triển khai các chủ trương của Đảng và Nhà nước, Chính phủ đã ban
hành một số văn bản như:

- Nghị định 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNNVV, quy định
chính sách hỗ trợ DNNVV ở từ Trung ương tới địa phương;

- Ngày 23/10/2006, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định
236/2006/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch phát triển DNNVV 05 năm giai đoạn
2006 - 2010, đề ra các giải pháp nhằm tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh
thuận lợi, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các DNNVV trên cơ sở huy động
các nguồn lực trong và ngoài nước;

- Ngày 30/6/2009, Chính phủ ban hành Nghị định 56/2009/NĐ-CP về


trợ giúp phát triển DNNVV (thay thế Nghị định 90/2001/NĐ-CP) quy định 8
nhóm hỗ trợ phát triển DNNVV (Hỗ trợ tài chính, mặt bằng sản xuất; đổi
mới, nâng cao năng lực công nghệ, trình độ kỹ thuật; xúc tiến mở rộng thị
trường; tham gia mua sắm, cung ứng dịch vụ công; thông tin và tư vấn; trợ
giúp phát triển nguồn nhân lực; vườn ươm DN). Trên cơ sở đó, các bộ, ngành,

35
địa phương cũng đã tập trung xây dựng và triển khai những chương trình hỗ
trợ DNNVV.

- Thủ tướng chính phủ ban hành Quyết định 1231/QĐ-TTg, đề ra một
số giải pháp, chương trình hỗ trợ DNNVV trọng tâm sau:

(i) Hoàn thiện khung pháp lý về tạo hành lang thuận lợi cho hoạt động
của DN;

(ii) Hỗ trợ tiếp cận tài chính, tín dụng và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn;

(iii) Hỗ trợ đổi mới công nghệ và áp dụng công nghệ mới;

(iv) Phát triển nguồn nhân lực cho các DNNVV, tập trung vào nâng cao
năng lực quản trị;

(v) Đẩy mạnh hình thành các cụm liên kết, cụm ngành công nghiệp,
tăng cường tiếp cận đất đai;

(vi) Cung cấp thông tin hỗ trợ DNNVV và xúc tiến mở rộng thị trường;

(vii) Xây dựng hệ thống tổ chức trợ giúp phát triển;

(viii) Quản lý thực hiện kế hoạch phát triển. Trong đó, nhấn mạnh vào
những giải pháp về thành lập Quỹ hỗ trợ, tổ chức thực hiện các Chương trình
đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2020, Chương trình quốc gia phát triển
công nghệ cao đến năm 2020, Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia đến
năm 2020; thí điểm xây dựng vườn ươm DN; thí điểm xây dựng mô hình hỗ
trợ toàn diện cho DNNVV trong một số lĩnh vực; thúc đẩy các liên kết kinh
tế, cụm liên kết ngành.

Trong Nghị quyết 35/NQ-CP về hỗ trợ và phát triển DN đến 2020,


Chính phủ nhấn mạnh: Nhà nước sẽ có những chính sách đặc thù để hỗ trợ
DNNVV, DN khởi nghiệp, DN đổi mới sáng tạo và có tiềm năng tăng trưởng
cao phát triển. Hiện Chính phủ đang chỉ đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư triển
khai xây dựng Luật Hỗ trợ DNNVV.

36
Công tác đào tạo nâng cao năng lực quản trị cho các DNNVV hiện nay
cũng đã được đưa vào kế hoạch hàng năm của các bộ, ngành và địa phương;
Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia đã thu hút được sự tham gia tích
cực của các địa phương, tổ chức hiệp hội DN ngành nghề, đã hỗ trợ cho hàng
nghìn DNNVV; Chợ Techmart và những chính sách hỗ trợ về khoa học công
nghệ đã giúp DN kết nối cung - cầu, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng
sản phẩm và sức cạnh tranh…

Nhờ các chương trình trợ giúp trên, DNNVV cũng như các DNKN đã
phần nào tiếp cận được nguồn tài chính, tín dụng; tự tin trong kinh doanh và
xây dựng chiến lược kinh doanh... phát triển ổn định, đóng góp vào phát triển
kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động... Báo
cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, giai đoạn 2009-2014, DNNVV
đóng góp khoảng 48 - 49% GDP. Vốn đầu tư chiếm 50% tổng vốn đầu tư
toàn xã hội của khu vực DN.

Tại Hà Tĩnh, qua đợt kiểm tra rà soát các chính sách của tỉnh, theo báo
cáo số 453/BC- UBND ngày 9/12/2016 của UBND tỉnh Đánh giá tình hình
thực hiện các cơ chế, chính sách của tỉnh giai đoạn 2011-2015; cân đối nguồn
lực, đề xuất phương hướng xây dựng chính sách trong thời gian tới giai đoạn
2017-2020 thì giai đoạn 2011-2015, tỉnh đã xem xét, ban hành 34 chính sách
với nguồn lực huy động được là 17.836 tỷ đồng (Trong đó: Ngân sách tỉnh là
2.375 tỷ đồng; ngân sách các cấp huyện, xã là 696 tỷ đồng; huy động các
nguồn vốn hợp pháp khác 14.765 tỷ đồng).

Tính đến thời điểm 30/5/2017, có 23 văn bản QPPL có nội dung liên
quan đến hỗ trợ DNKN do HĐND tỉnh và UBND tỉnh ban hành. Điển hình
một số văn bản như sau:

- Quyết định số 03/2013/QĐ-UBND ngày 17/1/2013 của UBND tỉnh


ban hành quy định về việc hỗ trợ lãi suất cho các khách hàng vay vốn tại các
tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh;

37
- Quyết định số 63/2014/QĐ-UBND ngày 22/9/2014 của UBND tỉnh
triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ thành lập mới doanh nghiệp trên địa bàn
tỉnh Hà Tĩnh;

- Quyết định số 53/2015/QĐ-UBND ngày 15/10/2015 của UBND tỉnh


ban hành quy định chế độ miễn tiền thuê đất đối với các cơ sở thực hiện xã
hội hóa tại khu vực đô thị trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.

- Quyết định số 13/2016/QĐ-UBND ngày 12/4/2016 của UBND tỉnh


sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 63/2014/QĐ-UBND quy định
chính sách hỗ trợ riêng đối với DNKN.

Sau nhiều lần rà soát, Hội đồng nhân dân tỉnh đã ban hành Nghị quyết
số 32/2016/NQ-HĐND ngày 15/12/2016 quy định một số chính sách khuyến
khích phát triển nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới và chỉnh
trang đô thị Hà Tĩnh năm 2017-2018; UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số
18/2017/QĐ-UBND ngày 03/5/2017 ban hành quy định hướng dẫn thực
hiệnNghị quyết số 32/2016/NQ-HĐND ngày 15/12/2016.

Tuy nhiên các văn bản hỗ trợ đại đa số áp dụng chung đối với các loại
hình doanh nghiệp nên việc hỗ trợ pháp lý đối với doanh nghiệp khởi nghiệp
thường đan xen và được quy định chung trong các loại hình doanh nghiệp.

Trong số các văn bản QPPL do HĐND tỉnh và UBND tỉnh ban hành có
Quyết định số 63/2014/QĐ-UBND ngày 22/9/2014 của UBND tỉnh triển khai
thực hiện chính sách hỗ trợ thành lập mới doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà
Tĩnh và sau này có Quyết định số 13/2016/QĐ-UBND ngày 12/4/2016 của
UBND tỉnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 63/2014/QĐ-
UBND quy định chính sách hỗ trợ riêng đối với DNKN.

Đánh giá về thực trạng và kết quả thực hiện Quyết định số
63/2014/QĐ-UBND ngày 22/9/2014 của UBND tỉnh, ta thấy:

- Thực trạng trước khi ban hành chính sách: Tác động tiêu cực của nền
kinh tế đã làm cho các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn; thủ tục để đăng ký
38
thành lập còn phức tạp, dẫn đến số lượng các doanh nghiệp, hợp tác xã được
hình thành rất ít so với tốc độ phát triển của nền kinh tế.

-Kết quả thực hiện Quyết định số 63/2014/QĐ-UBND ngày 22/9/2014


của UBND tỉnh (gọi tắt là Quyết định 63) cụ thể như sau:

Tổng kinh phí hỗ trợ thành lập mới đã được cấp phát đến các doanh
nghiệp theo Quyết định 63 từ tháng 10/2014 đến hết tháng 7/2017 là
3.852.500.000 đồng, trong đó:

+ Hỗ trợ 100% lệ phí đăng ký doanh nghiệp và 100% phí công bố nội
dung đăng ký doanh nghiệp: 974.400.000 đồng. Nội dung này DN được hỗ
trợ qua Sở kế hoạch và Đầu tư.

+ Hỗ trợ 100% thuế môn bài cho các DN thành lập mới trong năm đầu
hoạt động: 2.578.500.000 đồng. Nội dung này DN được hỗ trợ qua Cục thuế
tỉnh.

+ Hỗ trợ 100% phí khắc dấu doanh nghiệp: 185.500.000 đồng. Nội
dung này DN được hỗ trợ qua Công an tỉnh.

+ Hỗ trợ kinh phí thực hiện phần mềm kế toán và biển hiệu DN:
114.100.000 đồng. Nội dung này DN được hỗ trợ qua Sở Tài chính.

- Ưu điểm của chính sách:

+ Tác động tích cực đến việc thành lập doanh nghiệp, hợp tác xã và góp
phần cải cách thủ tục hành chính, giảm được một số kinh phí nhất định cho
các doanh nghiệp, HTX trong đăng ký và hoạt động kinh doanh, khuyến
khích được đầu tư tại các địa bàn đặc biệt khó khăn, hoặc đầu tư trong lĩnh
vực nông nghiệp, nông thôn.

+ Từ khi ban hành chính sách (tính đến ngày 31/12/2015) đã góp phần
để thúc đẩy thành lập mới 929 doanh nghiệp trên địa bàn, giải quyết việc làm
cho gần 3.000 lao động.

- Tồn tại, hạn chế, bất cập:

39
+ Một số nội dung chính sách chưa thực sự đi vào cuộc sống như chính
sách hỗ trợ phần mềm kế toán, chính sách hỗ trợ biển hiệu, đặc biệt là chính
sách về hỗ trợ lãi suất ngân hàng. Qua khảo sát các đối tượng thụ hưởng cho
thấy có một số nguyên nhân: Nhiều doanh nghiệp, HTX, hộ kinh doanh cá thể
chưa biết đến chính sách này; hoặc là do số tiền hỗ trợ ít nên doanh nghiệp
không làm hồ sơ hoặc là doanh nghiệp chưa cài đặt phần mềm kế toán nên
chưa được hỗ trợ.

+ Tại một số xã có biểu hiện thành lập doanh nghiệp, hợp tác xã để có
đủ tiêu chí về đích nông thôn mới; nhưng sau khi thành lập nhiều doanh
nghiệp, HTX không hoạt động hoặc hoạt động không hiệu quả.

+ Từ khi ban hành Nghị quyết số 88/2014/NQ-HĐND và Quyết định số


63/2014/QĐ-UBND tính đến 31/12/2015 có 929 doanh nghiệp thành lập mới
nhưng tại thời điểm khảo sát có 799 doanh nghiệp đang hoạt động, 130 doanh
nghiệp tạm ngừng hoặc giải thể; trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn mới
có 162 doanh nghiệp được thành lập (chiếm 17,43%), nhưng có 22 doanh
nghiệp không hoạt động hoặc giải thể.

Từ những bất cập trên, Sở Kế hoạch và Đầu tư đã tổng hợp ý kiến của
các sở, ngành liên quan, có tờ trình số 152/TTr-SKHĐT ngày 31/3/2016 trình
UBND tỉnh ban hành Quyết định sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Quyết
định 63. Trên cơ sở đó UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 13/2016/QĐ-
UBND ngày 12/4/2016 của UBND tỉnh sửa đổi, bổ sung một số điều của
Quyết định số 63/2014/QĐ-UBND.

Mặc dù UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 13/2016/QĐ-UBND


ngày 12/4/2016 của UBND tỉnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định
số 63/2014/QĐ-UBND ngày 22/9/2014 tuy nhiên một số bất cập trong quá
trình thực hiện vẫn không điều chỉnh, sửa đổi được do vướng mắc mâu thuẫn
với sự điều chỉnh của luật khác. Ví dụ như:

40
Ý kiến của Sở Tài chính tại văn bản số 720/STC-TCDN ngày
22/3/2016):

- Về đề nghị bỏ hai khoản hỗ trợ “Hỗ trợ 100% phí khắc dấu doanh
nghiệp” và “hỗ trợ kinh phí thực hiện biển hiệu cho các doanh nghiệp”. Sở Kế
hoạch và Đầu tư đề nghị vẫn giữ nguyên chính sách hỗ trợ vì chính sách này
đã được Hội đồng nhân dân tỉnh thông qua; việc hỗ trợ sẽ thực hiện đồng thời
với hỗ trợ phần mềm kế toán, giúp giảm chi phí cho doanh nghiệp mới đi vào
hoạt động còn gặp nhiều khó khăn. Như vậy mặc dù 2 nội dung hỗ trợ trên
kinh phí được hỗ trợ là không nhiều (850.000 đồng/DN), hồ sơ thủ tục cấp
ngân sách khá phức tạp nhưng vẫn chưa điều chỉnh được.

- Đề nghị UBND tỉnh chỉ định một đơn vị đầu mối đủ điều kiện kinh
nghiệm, năng lực thực hiện việc cung ứng phần mềm kế toán: Mặc dù trong
thực tiễn thực hiện, đối với các doanh nghiệp khởi nghiệp đã được cấp hỗ trợ
khoản kinh phí hỗ trợ phần mềm kế toán doanh nghiệp thì chủ yếu tập trung
vào một vài đơn vị cung ứng. Tuy nhiên nếu UBND tỉnh chỉ định một đơn vị
đầu mối đủ điều kiện kinh nghiệm, năng lực thực hiện việc cung ứng phần
mềm kế toán cho các doanh nghiệp thì lại vi phạm Điều 6 của Luật cạnh tranh
năm 2014 nên quy định trên không sửa đổi được.

-Ý kiến của Ngân hàng nhà nước tỉnh: Đề xuất bỏ điểm g, khoản 2,
Điều 1 của Quyết định số 63/2014/QĐ-UBND về hỗ trợ vốn đối ứng ban đầu
cho doanh nghiệp sau đăng ký thành lập.

Việc hỗ trợ vốn đối ứng ban đầu cho doanh nghiệp sau đăng ký thành
lập tối đa không quá 15.000.000 đồng thông qua lãi suất vay vốn ngân hàng
đã được Hội đồng nhân dân tỉnh thông qua nhằm hỗ trợ doanh nghiệp khi mới
gia nhập thị trường, tạo thêm sự lựa chọn cho doanh nghiệp trong việc lựa
chọn các chính sách tín dụng. Do vậy, Sở Kế hoạch và Đầu tư đề nghị vẫn giữ
nguyên chính sách này.

41
Vì thế, mặc dù qua gần 4 năm triển khai thực hiện nhưng nội dung hỗ
trợ này chưa có phát sinh.

Trong thời gian tới, theo dự kiến số lượng doanh nghiệp khởi nghiệp sẽ
tăng nhanh. Từ kinh nghiệm ở nhiều nước phát triển và thực tiễn tại Việt nam
trong thời gian vừa qua, doanh nghiệp khởi nghiệp rất cần có sự hỗ trợ tích
cực trong giai đoạn đầu hoạt động thông qua đầu tư kinh phí, tạo môi trường
thuận lợi trong hoạt động, tạo hành lang pháp lý hỗ trợ doanh nghiệp một
cách thiết thực, có hiệu quả để phát triển ý tưởng , giúp cho doanh nghiệp
khởi nghiệp có những bước đi vững chắc ban đầu, tạo đà cho phát triển bền
vững, lâu dài.

Chúng ta đã biết, doanh nghiệp là hạt nhân quan trọng trong xã hội.
Các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, bền vững là nền tảng cho một nền kinh
tế vững mạnh. Vì vậy, việc nhà nước hỗ trợ cho doanh nghiệp phát triển
thông qua các công cụ quản lý là chủ trương hoàn toàn đúng đắn và cần thiết.
Trong sự phát triển đi lên của nền kinh tế đất nước, sự phát triển vững chắc
của Doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp khởi nghiệp nói riêng giữ một
vai trò, vị trí hết sức quan trọng.

Trong Nghị quyết 35/NQ-CP về hỗ trợ và phát triển DN đến 2020,


Chính phủ nhấn mạnh: Nhà nước sẽ có những chính sách đặc thù để hỗ trợ
DN nhỏ và vừa, DN khởi nghiệp, DN đổi mới sáng tạo và có tiềm năng tăng
trưởng cao phát triển. Từ chủ trương đó, các cấp quản lý từ trung ương đến
địa phương đã và đang tăng cường đồng thời hoàn thiện dần các chính sách
hỗ trợ cho doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp khởi nghiệp nói riêng
phát triển bền vững, tạo tiền đề cho nền kinh tế vững mạnh, ổn định và phát
triển lâu dài

Nhân tháng hành động vì sự phát triển của Doanh nghiệp, xin kính
chúc Hội thảo thành công tốt đẹp, chúc Doanh nghiệp – Doanh nhân ngày
càng phát triển, phát huy tốt vai trò trong thời kỳ Công nghiệp hóa – Hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế.
42
Tình huống
Tỉnh Hà Tĩnh đã có các chính sách tài chính đối với doanh nghiệp mới
thành lập? Vậy trong thời gian qua, số kinh phí đã được cấp đến các doanh
nghiệp là bao nhiêu?

Hướng giải quyết: Tổng kinh phí hỗ trợ thành lập mới đã được cấp phát
đến các doanh nghiệp theo Quyết định 632014/QĐ-UBND ngày 22/9/2014
của UBND tỉnh từ tháng 10/2014 đến hết tháng 7/2017 là 3.852.500.000
đồng, trong đó:

+ Hỗ trợ 100% lệ phí đăng ký doanh nghiệp và 100% phí công bố nội
dung đăng ký doanh nghiệp: 974.400.000 đồng. Nội dung này DN được hỗ
trợ qua Sở kế hoạch và Đầu tư.

+ Hỗ trợ 100% thuế môn bài cho các DN thành lập mới trong năm đầu
hoạt động: 2.578.500.000 đồng. Nội dung này DN được hỗ trợ qua Cục thuế
tỉnh.

+ Hỗ trợ 100% phí khắc dấu doanh nghiệp: 185.500.000 đồng. Nội
dung này DN được hỗ trợ qua Công an tỉnh.

+ Hỗ trợ kinh phí thực hiện phần mềm kế toán và biển hiệu DN:
114.100.000 đồng. Nội dung này DN được hỗ trợ qua Sở Tài chính.

Từ khi ban hành chính sách (tính đến ngày 31/12/2015) đã góp phần để
thúc đẩy thành lập mới 929 doanh nghiệp trên địa bàn, giải quyết việc làm
cho gần 3.000 lao động.

43
THAM LUẬN
Chính sách ưu đãi đất đai đối với doanh nghiệp khởi nghiệp
Sở Tài nguyên và Môi trường

Kính thưa quý vị đại biểu!

Số lượng doanh nghiệp (DN) khởi nghiệp đang tăng nhanh. Trong thời
gian qua, Chính phủ, Bộ Tài chính đã có chủ trương, ban hành hoặc trình để
ban hành, thông qua nhiều văn bản hỗ trợ về mặt tài chính, đất đai cũng như
các ưu đãi khác cho các DN khởi nghiệp (StartUp).

Trong thời gian vừa qua, dù nền kinh tế còn chưa thoát khỏi khủng
hoảng, sức cầu tiêu dùng còn hạn chế nhưng các DN tư nhân thành lập mới
vẫn gia tăng mạnh mẽ cả về số lượng và quy mô vốn. Năm 2014 có 74.800
DN đăng ký thành lập mới, năm 2015 có 94.750 DN, tăng 26,6% so với năm
2014. 10 tháng năm 2016, cả nước có thêm 91.765 DN thành lập mới, tăng
18,3% về số lượng so với cùng kỳ năm 2015.

Bên cạnh đó số vốn của các DN thành lập cũng có xu hướng tăng lên.
Năm 2015 tăng 39,1% so với năm 2014, chỉ tính riêng 10 tháng năm 2016,
tổng vốn đăng ký thành lập mới là 710.618 tỷ đồng, tăng 46,2% so với cùng
kỳ năm 2015. Nếu xét về quy mô vốn bình quân/DN cũng có sự cải thiện
đáng kể từ 5,13 tỷ đồng năm 2013 lên 6,3 tỷ đồng vào năm 2015. Với tốc độ
tăng trưởng như trên, dự báo đến năm 2020 Việt Nam sẽ có khoảng 1 triệu
DN. Số lượng DN khởi nghiệp đang tăng nhanh cả về số lượng và quy mô
vốn. Tuy nhiên để các DN trên hoạt động thật sự hiệu quả, đóng góp nhiều
hơn nữa vào nền kinh tế, bên cạnh những nỗ lực của chính các DN, Nhà nước
cũng đã có rất nhiều chính sách để hỗ trợ, trong đó có chính sách ưu đãi về
đất đai.

Đến nay trên địa bàn tỉnh có trên 5 nghìn doanh nghiệp (DN) , chủ yếu
là các DN nhỏ và vừa, chiếm 98%. Đây là loại hình phát triển nhanh chóng,

44
tốc độ tăng bình quân hàng năm thời kỳ 2002 - 2015 đạt 21,35%, số DN thành
lập giai đoạn 2011 - 2016 tăng 44% so với giai đoạn 2006 - 2010. Năm 2016,
trong bối cảnh kinh tế - xã hội tỉnh gặp nhiều khó hăn, sự cố môi trường biển
phát sinh nhiều hệ lụy, ảnh hưởng lớn đến môi trường đầu tư kinh doanh
nhưng số lượng DN thành lập mới vẫn đạt cao nhất từ trước đến nay (thành
lập mới 885 DN, tăng 2,7% so với cùng kỳ). Từ đầu năm đến nay thành lập
mới 737 DN, giải thể 101 DN và thực hiện đăng ký tạm ngừng 137 DN. Vốn
điều lệ bình quân của các DN trong nước đạt 9,9 tỷ đồng/DN, trong đó có 04
DN từ 1.000 tỷ đồng đến dưới 2.000 tỷ đồng và 02 DN có vốn điều lệ trên
2.000 tỷ đồng. Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh có trên 1.300 hợp tác xã và hơn
3.000 tổ hợp tác, trên 5,9 vạn hộ kinh doanh, trong đó số hộ có đăng ký chiếm
88,2%, đây là khu vực có nhiều tiềm năng lợi thế để phát triển thành DN.

Môi trường đầu tư tiếp tục chuyển biến tích cực, thu hút các nhà đầu tư
lớn có thương hiệu, đa dạng hóa các hình thức, lĩnh vực đầu tư dự án. Kết quả
công bố chỉ số PCI năm 2016 cho thấy Hà Tĩnh tăng 6 bậc, xếp hạng 39 trong
tổng số 63 tỉnh thành cả nước. Trước hết, đây là kết quả khá tốt nếu so sánh
với năm 2015. Mặt khác, đặt trong bối cảnh năm 2016 là năm đặc biệt khó
khăn đối với tỉnh nhà, sự cố môi trường ảnh hưởng lớn đến hình ảnh, môi
trường đầu tư của Hà Tĩnh, kết quả đó đã phản ảnh nỗ lực rất lớn của Hà Tĩnh
trong năm qua, được cộng đồng DN và các nhà đầu tư ghi nhận.

Thưa quý vị!

Để doanh nghiệp khởi nghiệp thành công, hiệu quả hệ thống văn bản
pháp luật Trung ương ngày càng hoàn thiện và đã có những chính sách ưu đãi
nhất định. Cụ thể: Luật đất đai năm 2013; Nghị định số 46/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 quy định về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước; Nghị định số
135/2016/NĐ-CP ngày 09/9/2016 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định quy định về tiền sử dụng đất, thu tiền thuê đất, thuê mặt nước;
Nghị định số 118/2015/NĐ- CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều
của Luật Đầu tư đã quy định khu kinh tế, khu công nghệ cao; Thông tư số
45
77/2014/TT-BTC ngày 16/6/2014 của Bộ Tài chính hướng dẫn một số điều
của Nghị định số 46/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định về thu tiền thuê
đất, thuê mặt nước…

Từ Điều 18 đến Điều 20 Nghị định số 46/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014


quy định về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước quy định nguyên tắc được hưởng,
các trường hợp cụ thể được miễn giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước, có thể nêu
đến như: Miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước cho cả thời hạn thuê đối với Hợp
tác xã nông nghiệp sử dụng đất làm mặt bằng xây dựng trụ sở hợp tác xã, sân
phơi, nhà kho; xây dựng các cơ sở dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất nông
nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối; Dự án đầu tư thuộc lĩnh
vực đặc biệt ưu đãi đầu tư được đầu tư tại địa bàn kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn; Đất để xây dựng trạm bảo dưỡng, sửa chữa, bãi đỗ xe (bao gồm cả khu
bán vé, khu quản lý điều hành, khu phục vụ công cộng) phục vụ cho hoạt động
vận tải hành khách công cộng theo quy định của pháp luật về vận tải giao thông
đường bộ; Đất xây dựng công trình cấp nước bao gồm: Công trình khai thác,
xử lý nước, đường ống và công trình trên mạng lưới đường ống cấp nước và
các công trình hỗ trợ quản lý, vận hành hệ thống cấp nước (nhà hành chính, nhà
quản lý, điều hành, nhà xưởng, kho bãi vật tư, thiết bị)….

Đặc biệt, đối với trường hợp miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước sau thời
gian được miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước của thời gian xây dựng cơ bản: 7
năm đối với dự án đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn;
11 năm đối với dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt
khó khăn; dự án đầu tư thuộc Danh mục lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu tư; dự án
thuộc Danh mục lĩnh vực ưu đãi đầu tư được đầu tư tại địa bàn có điều kiện
kinh tế - xã hội khó khăn; 15 năm đối với dự án thuộc Danh mục lĩnh vực ưu
đãi đầu tư được đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn; dự án thuộc Danh mục lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu tư được đầu tư tại
địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; Miễn tiền thuê đất, thuê mặt

46
nước cho cả thời hạn thuê cho dự án đầu tư thuộc lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu
tư được đầu tư tại địa bàn kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

Về ưu đãi về tiền sử dụng đất:

- Được giảm 20% tiền sử dụng đất phải nộp NSNN đối với dự án đầu
tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; giảm 30% tiền sử dụng
đất phải nộp NSNN đối với dự án đầu tư thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư được
đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; dự án đầu tư tại địa
bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; giảm 50% tiền sử dụng
đất phải nộp NSNN đối với dự án đầu tư thuộc lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu tư
được đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; dự án thuộc
lĩnh vực ưu đãi đầu tư được đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc
biệt khó khăn.

Miễn giảm tiền sử dụng đất: Doanh nghiệp, Hợp tác xã tự bỏ vốn đầu
tư xây dựng nhà ở xã hội được miễn tiền sử dụng đất đối với diện tích được
giao để thực hiện dự án, chủ đầu tư không được tính chi phí về đất vào giá
cho thuê, thuê mua, bán nhà.

Miễn, giảm tiền sử dụng đất đối với Khu kinh tế cửa khẩu (theo Quyết
định số 72/2013/QĐ-TTg ngày 26/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ): Nhà
đầu tư trong Khu kinh tế nếu được nhà nước giao đất, được miễn, giảm tiền
sử dụng đất như sau: Miễn tiền sử dụng đất đối với dự án đặc biệt ưu đãi đầu
tư; Giảm 50% tiền sử dụng đất phải nộp ngân sách nhà nước đối với dự án
thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư; Giảm 30% tiền sử dụng đất phải nộp ngân sách
nhà nước đối với các dự án đầu tư không thuộc quy định tại Mục 1 và Mục 2
nêu trên.

Thưa quý vị đại biểu! thời gian qua tại Hà Tĩnh cũng đã có những
chính sách ưu đãi đất đai nhất định đối với doanh nghiệp và nhà đầu tư. Cụ
thể:

47
- Về thủ tục hành chính trong thực hiện công tác bồi thường GPMB,
thu hồi đất. Về công tác bồi thương, hỗ trợ, GPMB tái định cư, UBND tỉnh đã
ban hành Quyết định số 75/2014/QĐ-UBND ngày 03/11/2014 quy định chính
sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh.
Đã quy định rõ về trình tự thủ tục, hành chính trong công tác bồi thường,
GPMB theo tình thần cải cách hành chính trong công tác bồi thường, GPMB
theo tinh thần cải cách hành chính, tạo thuận lợi cho các địa phương, doanh
nghiệp khi tổ chức thực hiện; đã giảm bỏ nhiều thủ tục phiền hà trong thực
hiện, đẩy nhanh tiến độ công tác bồi thường GPMB.

- Thủ tục hành chính trong công tác giao đất, cho thuê đất và chuyển
mục đích sử dụng đất. UBND tỉnh đã kịp thời ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật để cụ thể hóa việc thi hành Luật Đất đai năm 2013 trên địa bàn tỉnh
về công tác giao đấy, cho thuê đất và chuyển mục đích sử dụng đất; đã ban
hành 25 thủ tục hành chính về lĩnh vực đất đai thuộc thẩm quyền giải quyết
của UBND tỉnh, trong đó có 03 thủ tục về giao đất, cho thuê đất, chuyển mục
đích sử dụng đất; đồng thời chỉ đạo các ngành và Văn phòng UBND tỉnh tổ
chức rà soát để cắt giảm thành phần hồ sơ, thời gian giải quyết, kết quả đã
thực hiện cắt giảm 52% về thời gian giải quyết hồ sơ và 9% thành phần hồ sơ
so với quy định.

- Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh đã ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật quy định chính sách ưu đãi đất đai đối với doanh nghiệp. Cụ
thể: Quyết định số 70/2014/QĐ-UBND ngày 20/10/2014 của Ủy ban nhân
dân tỉnh Hà Tĩnh ban hành Quy định một số cơ chế khuyến khích, ưu đãi
trong đầu tư phát triển nhà ở xã hội trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh; Quyết định số
26/2008/QĐ-UBND gày 22/8/2008 của Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quy
định một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư tại Khu kinh tế cửa khẩu Quốc tế
Cầu treo-Hà Tĩnh; Quyết định số 16/2007/QĐ-UBND ngày 27/4/2007 về việc
quy định một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư vào Khu kinh tế Vũng Áng
và các khu công nghiệp của tỉnh Hà Tĩnh…

48
* Theo Quyết định số 70/2014/QĐ-UBND ngày 20/10/2014 của Ủy
ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh ban hành Quy định một số cơ chế khuyến khích,
ưu đãi trong đầu tư phát triển nhà ở xã hội trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh đã quy
định về ưu đãi về tiền thuê đất, tiền sử dụng đất, cụ thể:

+ Được miễn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối với diện tích đất trong
phạm vi dự án xây dựng nhà ở xã hội (bao gồm cả quỹ đất để xây dựng các
công trình kinh doanh thương mại quy định tại Điều 5 của Quy định ban hành
kèm theo Quyết định) đã được tỉnh phê duyệt;

Trường hợp chủ đầu tư dự án đã nộp tiền sử dụng đất khi được Nhà
nước giao đất; đã nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ tổ chức, hộ gia
đình, cá nhân khác mà diện tích đất đó được sử dụng để xây dựng nhà ở nhà ở
xã hội hoặc trường hợp chủ đầu tư dự án đã nộp tiền sử dụng đất đối với quỹ
đất 20% thì được Nhà nước hoàn trả lại hoặc được khấu trừ vào nghĩa vụ tài
chín mà chủ đầu tư dự án đã nộp tiền sử dụng đất đối với quỹ đất 20% thì
được nhà nước hoàn trả lại hoặc được chiết khấu trừ vào nghĩa vụ tài chính
mà chủ đầu tư dự án phải nộp cho Nhà nước theo quy định của pháp luật.

+ Hộ gia đình, cá nhân tham gia đầu tư nhà ở xã hội được miễn tiền sử
dụng đất khi được phép chuyển mục đích sử dụng đất từ đất khác sang xây
dựng nhà ở.

* Quyết định số 26/2008/QĐ-UBND gày 22/8/2008 của Ủy ban nhân


dân tỉnh ban hành Quy định một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư tại Khu
kinh tế cửa khẩu Quốc tế Cầu treo-Hà Tĩnh quy định chính sách hỗ trợ đất đai
đối với các thành phần kinh tế đầu tư tại Khu kinh tế cửa khẩu Quốc tế Cầu
treo-Hà tĩnh, Cụ thế:

+ Các dự án đầu tư xây dựng kinh doanh kết cấu hạ tầng kỷ thuật, các
công trình dịch vụ và tiện ích công cộng phục vụ chung cho KKTCHQT Cầu
Treo không phải nộp tiền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất trên toàn bộ diện tích
đât được giao trong suốt quá trình thực hiện dự án.

49
Đất để làm nhà ở tập thể cho người lao động của các dự án đầu tư sản
xuất vào KKTCKQT Cầu Treo được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê
duyệt không phải nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất trong suốt thời gian thực
hiện dự án. Giá đất tại KKTCKQT Cầu Treo được UBND tỉnh công bố hàng
năm theo quy định của Luật Đất đai.

+ Ủy ban nhân dân tỉnh cam kết giải phóng mặt bằng và bàn giao mặt
bằng theo đúng tiến độ của dự án. Các dự án đầu tư vào KKTCKQT Cầu Treo
của các tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài
không phải trả tiền bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư.
Khuyến khích nhà đầu tư chi trả trước tiền bồi thường, hỗ trợ và tái định cư,
kinh phí này sẽ được trừ vào tiền sử dụng đất, tiền thuê đất.

Các dự án đầu tư vào KKTCKQT Cầu Treo được ngân sách tỉnh hỗ trợ
kinh phí san lấp mặt bằng, rà phá bom mìn theo quy định tại Quyết định số
30/2007QĐ-UBND ngày 12/7/2007 của UBND tỉnh.

* Quyết định số 16/2007/QĐ-UBND ngày 27/4/2007 về việc quy định


một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư vào Khu kinh tế Vũng Áng và các khu
công nghiệp của tỉnh Hà Tĩnh. Tại Điều 7 Quyết định đã quy định cụ thể về
ưu đãi, hỗ trợ đầu tư, như: Hỗ trợ tiền thuê đất, tiền sử dụng đất; Hỗ trợ bồi
thường thiệt hại, giải phóng mặt bằng và tái định cư đối với nhà đầu tư thuộc
mọi thành phần kinh tế hoạt động theo quy định của Luật Đầu tư, Luật Doanh
nghiệp, Luật Hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, cá nhân hành nghề độc lập,
các tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất kinh doanh theo quy định của pháp
luật, có đầu tư trực tiếp tại KKT Vũng Áng và các KCN.

Các chính sách ưu đãi đất đai đối với doanh nghiệp đã và đang mang
lại những hiệu quả tích cực cho các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, đặc biệt là
doanh nghiệp khởi nghiệp, cụ thể:

Chính sách liên quan đến đất đai đã được ban hành trong từng bối cảnh,
giai đoạn cụ thể đã tạo ra những chuyển biến tích cực trong việc khơi thông

50
nguồn lực tài chính đất đại phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh,
tiêu biểu như:

- Từng bước hình thành và ngày càng hoàn thiện khung pháp lý về
chính sách đất đai phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của
Nhà nước. Giải quyết quan hệ đất đai theo cơ chế thị trường gắn với hiệu quả,
trên các mặt: cải thiện môi trường đầu tư, giải quyết hợp lý về lợi ích giữa
Nhà nước với người sử dụng đất; miễn thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối
với các trường hợp được Nhà nước khuyến khích; khai thác nguồn lực đất đai
để biến nguồn lực tiềm năng thành nguồn lực tài chính, nguồn vốn cho đầu tư
phát triển và nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước (NSNN).

- Việc xác định giá đất theo giá thị trường đã từng bước xóa bỏ cơ chế
bao cấp trong lĩnh vực đất đai, góp phần quản lý đất đai bằng biện pháp kinh
tế, tạo điều kiện cho thị trường chuyển quyền sử dụng đất hoạt động, thu hút
vốn đầu tư của toàn xã hội và vốn đầu tư nước ngoài.

- Cho phép bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chuyển mục
đích sử dụng đất và sử dụng tiền sử dụng đất đề đầu tư hiện đại hoá công sở,
tăng cường năng lực sản xuất kinh doanh.

- Thông qua cơ chế đấu giá quyền sử dụng đất và đấu thầu dự án có sử
dụng đất đã từng bước hạn chế được bất cập trong việc giao đất; bảo đảm
công khai và minh bạch.

- Giá đất tính thu nghĩa vụ và thực hiện các chính sách tài chính đất đai
được cải tiến với quy định giá đất do ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh quy
định và công bố hàng năm theo giá thị trường. Trường hợp giá chưa sát với
giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện
bình thường thì UBND cấp tỉnh quyết định lại giá đất cho từng trường hợp cụ
thể cho phù hợp nhằm đưa giá trị quyền sử dụng đất khi thực hiện các quan hệ
tài chính tiệm cận với cơ chế thị trường, hòa nhập với thị trường quốc tế.

51
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả mang tính đột phá trong cơ chế,
chính sách tài chính đất đai đã đạt được trên, trong quá trình triển khai thực
tế vẫn còn nảy sinh nhiều bất cập, đó là:

- Giá đất năm sau thường biến động tăng hơn năm trước, trong khi công
tác giải phóng mặt bằng thường kéo dài dẫn đến giá đất để tính thu tiền sử
dụng đất và giá bồi thường, hỗ trợ về đất được duyệt làm căn cứ để khấu trừ
tiền đền bù hỗ trợ về đất vào tiền sử dụng đất phải nộp không cân bằng;

- Đơn giá thuê đất (tỷ lệ % giá đất) còn thấp so với mức thu tiền sử
dụng đất dẫn đến hạn chế nguồn thu và không khuyến khích sử dụng đất có
hiệu quả, không công bằng về nghĩa vụ tài chính;

- Việc xác định giá đất cụ thể để tính thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất
sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên thị trường trong điều kiện
bình thường cũng gặp không ít khó khăn, lúng túng do chưa có quy trình
chuẩn về trình tự, thủ tục bàn giao đất thực tế (nhất là đối với đất chưa được
giải phóng mặt bằng), về quy trình xác định giá đất thị trường, về thời điểm
tính thu tiền sử dụng đất, thu tiền thuê đất đối với đất đang sử dụng, đất
chuyển mục đích sử dụng đất...

Do đó, việc hoàn thiện các chính sách ưu đãi về đất đai đối với doanh
nghiệp là cần thiết nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn tỉnh.

Tình huống

Tôi là Giám đốc công ty TNHH Quốc Phương, công ty tôi vừa được
thành lập được 2 tháng. Công ty tôi chuyên mảng bất động sản và lĩnh vực mà
công ty tôi thực hiện là xây dựng nhà ở xã hội để bán, cho thuê, cho thuê mua
đối với các đối tượng chính sách xã hội. Vậy tôi muốn biết công ty tôi có
được hưởng chính sách ưu đãi gì của tỉnh không? Đặc biệt là ưu đãi về đất
đai? Và điều kiện để được hưởng chính sách ưu đãi như thế nào?

Hướng giải quyết: Công ty bạn được hưởng các chính sách ưu đãi theo
Quyết định số 70/2014/QĐ-UBND ngày 20/10/2014 của Ủy ban nhân dân
52
tỉnh Hà Tĩnh ban hành Quy định một số cơ chế khuyến khích, ưu đãi trong
đầu tư phát triển nhà ở xã hội trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh đã quy định về ưu đãi
về tiền thuê đất, tiền sử dụng đất. Các chính sách ưu đãi với công ty bạn như:
Ưu đãi về quy hoặc sử dụng đất và một số thủ tục xây dựng; ưu đãi về thuế
giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân; hỗ trợ về
tín dụng; hỗ trợ về hạ tầng kỹ thuật và các hỗ trợ khác. Đặc biệt, có những
chính sách ưu đãi riêng đối với đất đai như:

+ Được miễn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối với diện tích đất trong
phạm vi dự án xây dựng nhà ở xã hội (bao gồm cả quỹ đất để xây dựng các
công trình kinh doanh thương mại quy định tại Điều 5 của Quy định ban hành
kèm theo Quyết định) đã được tỉnh phê duyệt;

Trường hợp chủ đầu tư dự án đã nộp tiền sử dụng đất khi được Nhà
nước giao đất; đã nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ tổ chức, hộ gia
đình, cá nhân khác mà diện tích đất đó được sử dụng để xây dựng nhà ở nhà ở
xã hội hoặc trường hợp chủ đầu tư dự án đã nộp tiền sử dụng đất đối với quỹ
đất 20% thì được Nhà nước hoàn trả lại hoặc được khấu trừ vào nghĩa vụ tài
chín mà chủ đầu tư dự án đã nộp tiền sử dụng đất đối với quỹ đất 20% thì
được nhà nước hoàn trả lại hoặc được chiết khấu trừ vào nghĩa vụ tài chính
mà chủ đầu tư dự án phải nộp cho Nhà nước theo quy định của pháp luật.

+ Hộ gia đình, cá nhân tham gia đầu tư nhà ở xã hội được miễn tiền sử
dụng đất khi được phép chuyển mục đích sử dụng đất từ đất khác sang xây
dựng nhà ở.

THAM LUẬN
HỖ TRỢ VỀ VỐN CHO DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP

Ngân hàng nhà nước tỉnh

53
Kính thưa quý vị đại biểu!

Doanh nghiệp khởi nghiệp là doanh nghiệp đang trong quá trình bắt
đầu kinh doanh nhưng đòi hỏi phải đổi mới, sáng tạo. Trong các yếu tố cần
thiết để khởi nghiệp và phát triển hoạt động sản xuất - kinh doanh, nguồn vốn
là yếu tố đặc biệt quan trọng, quyết định sự thành bại việc khởi nghiệp của
doanh nghiệp. Trong điều kiện các nguồn lực đầu tư từ ngân sách đối với các
doanh nghiệp ngày càng hạn chế, thì nguồn vốn đầu tư qua kênh tín dụng
Ngân hàng càng quan trọng và có xu hướng ngày càng tăng lên trong cơ cấu
nguồn vốn hoạt động của doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra là “Giải pháp nào để
góp phần hỗ trợ về vốn cho doanh nghiệp khởi nghiệp”

Doanh nghiệp khởi nghiệp với những sáng tạo và đột phá về công nghệ
hứa hẹn là nhân tố quan trọng góp phần chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh
tế trong bối cảnh năng suất lao động tăng thấp, các chính sách kinh tế vĩ mô
hỗ trợ tổng cầu dần hết dư địa. Khuyến khích phát triển các doanh nghiệp
khởi nghiệp, ngoài những giải pháp thúc đẩy nghiên cứu, sáng chế có giá trị
thực tiễn, rất cần một môi trường thông thoáng để các doanh nghiệp này dễ
dàng tiếp cận vốn. Xây dựng các giải pháp hỗ trợ triệt để doanh nghiệp khởi
nghiệp có đủ vốn cho nghiên cứu, thử nghiệm, sản xuất quy mô lớn là yêu cầu
đặt ra đối với Việt Nam để phát triển bền vững và hội nhập thành công.

Con đường duy nhất để doanh nghiệp khởi nghiệp bắt đầu và nối doanh
nghiệp đến lợi nhuận chính là vốn. Nhu cầu về vốn của mỗi doanh nghiệp là
khác nhau, tùy thuộc vào loại hình cũng như quy mô của doanh nghiệp (Ví
dụ, các doanh nghiệp trong lĩnh vực chế biến thường có nhu cầu vốn cao hơn
so với các doanh nghiệp trong lĩnh vực thương mại dịch vụ).

Theo tính toán của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các khoản nợ của doanh
nghiệp đang chiếm khoảng 70% vốn chủ sở hữu. Trong cơ cấu nợ của doanh
nghiệp, vốn tín dụng ngân hàng vẫn là chủ yếu (có doanh nghiệp vốn tín dụng
ngân hàng chiếm tới 93% các khoản nợ). Đối với các nguồn vốn khác (như

54
vốn tín dụng thương mại, trái phiếu doanh nghiệp, vốn vay các định chế tài
chính khác…) khả năng huy động của các doanh nghiệp là rất hạn chế.

Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp không chỉ vay vốn lưu động, mà
phần lớn vốn vay trung, dài hạn cho đầu tư cũng dựa vào ngân hàng thương
mại. Như vậy, các ngân hàng thương mại đang gánh nhiệm vụ cung ứng vốn
đầu tư trung, dài hạn cho các doanh nghiệp. Trong khi đó, tại các nước có thị
trường vốn phát triển đầy đủ, nhiệm vụ này thường do các định chế tài chính
(quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm) gánh vác thông qua việc đầu tư vào cổ phiếu
và trái phiếu doanh nghiệp.

Với cơ cấu vốn doanh nghiệp như hiện nay có thể thấy, các ngân hàng
thương mại đang đảm đương cả 3 nhiệm vụ: cung ứng vốn ngắn hạn cho nhu
cầu vốn lưu động; trung hạn cho nhu cầu đổi mới thiết bị, mở rộng sản xuất
và dài hạn cho nhu cầu đầu tư phát triển dự án mới.

Từ năm 2011, do tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới, nền kinh
tế trong nước gặp nhiều khó khăn và tác động tiêu cực đến hoạt động của
doanh nghiệp. Khả năng hấp thụ vốn của các doanh nghiệp suy giảm, hoạt
động sản xuất kinh doanh khó khăn, lãi suất tiền vay tăng cao (do lạm phát,
ngân hàng cũng là một doanh nghiệp phải huy động vốn với lãi suất cao) do
đó chi phí tăng lên. Từ đó ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận vốn ngân hàng
của doanh nghiệp. Hiện tượng ngân hàng thừa vốn không cho vay được,
doanh nghiệp thiếu vốn nhưng không đáp ứng các điều kiện vay vốn ngân
hàng nên không vay được vốn, dẫn đến tăng trưởng tín dụng ngân hàng thấp
và ứ đọng vốn.

Để góp phần giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn, đặc biệt là các
doanh nghiệp khởi nghiệp, ngành ngân hàng đã rất quan tâm đến cộng đồng
doanh nghiệp thông qua việc giảm mặt bằng lãi suất, xây dựng và triển khai
các chương trình tín dụng mang tính đột phá để tạo điều kiện thuận lợi cho
các doanh nghiệp tiếp cận vốn, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh
doanh. Trung ương đã có chính sách HTLS như cho vay theo Quyết định số
55
63/QĐ-TTg, Quyết định số 68/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về cho vay
giảm tổn thất trong nông nghiệp, cho vay đóng mới, nâng cấp tàu cá theo
Nghị định 67/2014/NĐ-CP, cho vay thí điểm theo mô hình liên kết ứng dụng
công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp, chương trình tín dụng liên kết 4
nhà…. Hà Tĩnh đã triển khai quyết liệt thực hiện. Bên cạnh đó, UBND tỉnh đã
giao cho NHNN tỉnh chủ trì tham mưu các chính sách đẩy mạnh công tác tín
dụng tại địa bàn, trong đó có chính sách hỗ trợ lãi suất.

Về quy định đối với cơ chế cho vay, cơ chế cho vay trước đây được
quy định tại khá nhiều văn bản khác nhau và Quyết định số 1627/2001/QĐ-
NHNN không có quy định cụ thể về việc áp dụng pháp luật dẫn đến nhiều
khó khăn cho việc áp dụng các quy định của pháp luật trong hoạt động cho
vay của TCTD, ảnh hưởng nhiều đến việc cho vay đối với các thành phần
kinh tế. Khắc phục bất cập này, ngày 30/12/2016, Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam đã ban hành Thông tư số 39/2016/TT-NHNN, theo đó đã hệ thống nội
dung của 08 văn bản quy phạm pháp luật hiện hành thành một Thông tư quy
định chung về hoạt động cho vay của TCTD đối với khách hàng, tạo điều kiện
thuận lợi cho cả TCTD và thành phần kinh tế trong việc tiếp cận nguồn vốn
ngân hàng.

Hiện nay, Chính phủ đang chỉ đạo thực hiện đổi mới mô hình tăng
trưởng và thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế, trong đó tái cơ cấu lại hoạt động
của các NHTM là một trong những trọng tâm cần thực hiện. Mặt khác, Nhà
nước đang chỉ đạo thực hiện quyết liệt đề án xử lý nợ xấu, nên các TCTD
phải tăng cường kiểm soát chất lượng tín dụng. Thực hiện các giải pháp này
sẽ tác động mạnh đến mối quan hệ giữa khách hàng và các TCTD thông qua
việc cấp tín dụng. Điều kiện vay không thay đổi, nhưng yêu cầu kiểm soát
chặt chẽ hơn, đòi hỏi cả NH và DN cần phải có những nỗ lực vượt bậc để đáp
ứng; đảm bảo doanh nghiệp vay được vốn và trả được nợ, Ngân hàng cho vay
được và thu được nợ. Đó là mối quan hệ đồng hành cùng phát triển, xuất phát
từ yêu cầu của cả hai phía.

56
Đánh giá chung vấn đề tiếp cận hỗ trợ về vốn đối với doanh nghiệp:

Mặc dù các cấp, các ngành luôn quan tâm, hỗ trợ, tạo điều kiện cho
Doanh nghiệp phát triển; các TCTD ưu tiên vốn cho Doanh nghiệp đầu tư
phát triển sản xuất kinh doanh tuy nhiên các Ngân hàng qua hoạt động đầu tư
vốn gặp một số khó khăn từ hạn chế của Doanh nghiệp, như:

Doanh nghiệp hạn chế về năng lực tài chính và khả năng quản lý điều
hành: Hầu hết các doanh nghiệp (DN) không có báo cáo tài chính hoặc báo
cáo tài chính không phản ánh hết tình hình thực tế của DN do đó gặp khó
khăn trong việc minh bạch hoá tài chính nhằm thoả mãn điều kiện vay vốn
của ngân hàng. Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) không đáp ứng
được yêu cầu này do tổ chức và hoạt động từ nguồn vốn góp của gia đình, bạn
bè, người thân…nên sổ sách tài chính không rõ ràng. Mặt khác, phần lớn
DNVVN trong ngành chế biến, gia công, thủ công mỹ nghệ…mua nguyên
liệu trực tiếp từ nông dân, thanh toán bằng tiền mặt, không có hoá đơn chứng
từ. Chính những điều này đã khiến ngân hàng mất rất nhiều công sức và gặp
nhiều khó khăn trong việc thẩm định mức độ tín nhiệm của khách hàng.

Bên cạnh đó, trình độ quản lý của đội ngũ chủ DN còn chưa cao, phần
lớn các chủ DNVVN chưa được đào tạo bài bản, chủ yếu hoạt động dựa vào
kinh nghiệm, thiếu kiến thức thị trường và chưa được hỗ trợ những thông tin
cần thiết. Rất ít DN áp dụng phương thức kinh doanh, quản lý hiện đại dẫn
đến bỏ lỡ nhiều cơ hội, cũng ít được đào tạo kiến thức chuyên môn về kinh tế
và quản trị DN.

Hạn chế về năng lực cạnh tranh và tiếp cận thị trường: Nhiều Doanh
nghiệp còn quá non trẻ, lại rất bị động khi tiếp cận thông tin, chưa nhanh nhạy
nắm bắt luật lệ, quy tắc, thiếu kinh nghiệm và kỹ năng trong tiếp xúc, đàm
phán kinh doanh và xúc tiến thương mại, chưa có thói quen kinh doanh, hợp
tác kinh doanh... Các DN thường có cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém, sản
phẩm có khả năng cạnh tranh thấp trên thị trường trong nước cũng như thị

57
trường quốc tế. Ngoài ra, các DN thiếu cập nhật thông tin, tiếp cận thị trường,
sản xuất kinh doanh, ...

Dự án của các DNVVN thường hạn chế về tài sản đảm bảo: Hầu hết
các DN có vốn hình thành doanh nghiệp tương đối nhỏ, vốn chủ sở hữu thấp
hạn chế khả năng vay vốn từ ngân hàng. Phần lớn quy định của ngân hàng
cho vay dựa trên tài sản đảm bảo, trong khi đó hầu hết các DNNVV tài sản rất
nhỏ do đó tài sản đảm bảo thường có giá trị thấp, chủ yếu là ở đất của chủ DN
nên lượng vốn được phép vay nằm trong giới hạn khiêm tốn so với nhu cầu
vốn, đối với tài sản là hàng tồn kho luân chuyển, các khoản phải thu, máy
móc, nguyên vật liệu thường rất khó được ngân hàng chấp nhận, nếu được
chấp nhận thì được định giá thấp không đáp ứng quyền lợi của doanh nghiệp.

Dự án của các DNVVN yếu trong khâu lập dự án: Các DN còn non yếu
trong khâu thiết kế và chuẩn bị các dự án vay vốn ngân hàng. Lập luận về sự
cần thiết của các dự án cũng như việc tính toán các chỉ tiêu tài chính thường
qua loa, thiếu tính khả thi và thiếu tính thuyết phục, điều này đã gây khó khăn
cho công tác thẩm định tại ngân hàng.

Trong thời gian qua, Trung ương và địa phương cũng có đã có những
chính sách ưu đãi nhất định đối với doanh nghiệp. Cụ thể:

* Các chính sách của Chính phủ:

- Theo quy định tại Nghị định 55/2015/NĐ-CP ngày 06/09/2015,


Doanh nghiệp khi vay vốn được hưởng các Chính sách như sau:

+ Doanh nghiệp ký hợp đồng cung cấp, tiêu thụ đối với tổ chức, cá
nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp được xem xét cho vay không có tài sản
bảo đảm tối đa bằng 70% giá trị dự án, phương án vay theo mô hình liên kết.

+ Doanh nghiệp đầu mối ký hợp đồng thực hiện dự án liên kết theo
chuỗi giá trị trong sản xuất nông nghiệp với tổ chức, cá nhân trực tiếp sản
xuất nông nghiệp được xem xét cho vay không có tài sản bảo đảm tối đa bằng
80% giá trị của dự án, phương án sản xuất kinh doanh theo mô hình liên kết.
58
+ Doanh nghiệp có dự án, phương án sản xuất kinh doanh trong khu
nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao hoặc vùng nông nghiệp ứng dụng công
nghệ cao được xem xét cho vay không có tài sản bảo đảm tối đa bằng 70% giá
trị hợp đồng chuyển giao công nghệ hoặc tiêu thụ sản phẩm là kết quả của
việc sản xuất ứng dụng công nghệ cao của khách hàng.

+ Doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được xem xét
cho vay không có tài sản bảo đảm tối đa bằng 80% giá trị của dự án, phương
án sản xuất kinh doanh ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp.

- Các chính sách theo Nghị định 67/2014/NĐ-CP ngày 07/07/2014 của
Chính phủ về một số chính sách phát triển thuỷ sản.

* Chính sách của UBND tỉnh Hà Tĩnh:

- Chính sách hỗ trợ lãi suất qua vay vốn tại các TCTD được Quy định
chi tiết tại Quyết định số 23/QĐ-UBND ngày 20/05/2014 của Ủy ban nhân
dân tỉnh ban hành Quy định về việc thực hiện hỗ trợ lãi suất vay vốn tại các tổ
chức tín dụng để phát triển sản xuất từ nguồn vốn Chương trình mục tiêu
Quốc gia xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.

+ Mức hỗ trợ 70% lãi suất vay và 50% lãi suất vay.

+ Tổng số tiền hỗ trợ lãi suất tối đa không quá 2 tỷ đồng.

- Quyết định số 24/2014/QĐ-UBND ngày 20/5/2014 của Ủy ban nhân


dân tỉnh ban hành Quy định về việc thực hiện hỗ trợ lãi suất vay vốn tại các tổ
chức tín dụng để phát triển sản xuất từ nguồn vốn Chương trình mục tiêu
Quốc gia xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh.

- Quyết định số 14/2015/QĐ-UBND ngày 06/4/2015 về việc sửa đổi,


bổ sung một số nội dung quyết định số 03/2013/QĐ-UBND ngày 14/01/2013
của UBND tỉnh Hà Tĩnh Quy định về việc hỗ trợ lãi suất cho các khách hàng
vay vốn tại các Tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh.

59
- Quyết định số 03/2013/QĐ-UBND ngày 17/01/2013 ban hành Quy
định về việc hỗ trợ lãi suất cho các khách hàng vay vốn tại các Tổ chức tín
dụng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.

- Quyết định 07/2014/QĐ-UBND ngày 17/02/2014 sửa đổi, bổ sung


Quyết định số 03/2013/QĐ-UBND ngày 17/01/2013.

Ngoài ra, hệ thống ngân hàng thương mại đã triển khai chương trình
hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa nói chung, doanh nghiệp khởi
nghiệp nói riêng, cụ thể:

+ Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam: chương trình tín dụng hỗ trợ
doanh nghiệp khởi nghiệp có quy mô 2.000 tỷ đồng, áp dụng với các khoản vay
ngắn hạn và khoản vay trung và dài hạn. Lãi suất áp dụng dành cho các doanh
nghiệp khởi nghiệp thấp hơn lãi suất vay thông thường thừ 1%-1,5%.

+ Ngân hàng Công Thương Việt Nam: Thời gian triển khai chương
trình, từ nay đến hết ngày 31/12/2017 hoặc cho đến khi hết doanh số giải ngân
3.000 tỷ đồng của chương trình; Khách hàng là doanh nghiệp khởi nghiệp có
thời gian hoạt động đến thời điểm giải ngân dưới 12 tháng và thỏa mãn điều
kiện của VietinBank có nhu cầu vay vốn phục vụ sản xuất kinh doanh trong
thời gian triển khai chương trình.

+ Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn: Từ 20/9 đến hết
ngày 31/12/2017, dành khoảng 15.000 tỷ đồng để thực hiện cho vay ưu đãi lãi
suất từ 5%-7%/năm đối với khách hàng doanh nghiệp quan hệ tín dụng với
ngân hàng này.

+ Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam: cung cấp gói tín dụng lãi suất ưu
đãi với quy mô 1.000 tỷ đồng dành riêng cho các doanh nghiệp khởi nghiệp.

Để doanh nghiệp khởi nghiệp tiếp cận được vốn ngân hàng và kinh
doanh phát triển, NHNN tỉnh đề ra các giải pháp sau:

1. Đối với các cơ quan quản lý nhà nước:

60
Để doanh nghiệp khởi nghiệp có thể tiếp cận nguồn vốn trước hết rất
cần thiết sự hỗ trợ từ phía Nhà nước. Đề nghị tham mưu thành lập các quỹ hỗ
trợ cho giai đoạn đầu khởi nghiệp như quỹ Sáng kiến giai đoạn đầu… dành
riêng cho doanh nghiệp khởi nghiệp. Đây là các quỹ thuộc sở hữu nhà nước
bởi vì theo kinh nghiệm của các nước (Hà Lan, Chi Lê, Australia) giai đoạn
đầu khởi nghiệp, đặc biệt là giai đoạn ý tưởng và thử nghiệm sản phẩm mang
tính rủi ro cao, các nhà đầu tư bên ngoài rất ít đầu tư vào giai đoạn này.

Thành lập quỹ đầu tư cho doanh nghiệp khởi nghiệp (quỹ đầu tư khởi
nghiệp, quỹ đầu tư mạo hiểm) theo mô hình hợp tác công tư. Đây là mô hình
đầu tư được nhiều nước như Singapor, Hà Lan, Canada, Hàn Quốc… áp
dụng. Theo đó, Nhà nước sẽ bỏ một khoản vốn nhất định hoặc đầu tư vào
DNKN thông qua các quỹ này theo tỷ lệ vốn đối ứng.

Nhà nước ban hành quy định về mô hình gọi vốn cộng đồng nhằm đáp
ứng nhu cầu phát triển của cộng đồng khởi nghiệp theo hướng tạo khung pháp lý
để quản lý, đặc biệt là mức trần đầu tư nhằm bảo vệ các nhà đầu tư góp vốn.

2. Đối với các doanh nghiệp:

Để có thể khai thác được kênh vốn tín dụng từ các TCTD, không có cách
nào khác là các doanh nghiệp cần phải tăng “sức khỏe” của mình, cụ thể như:

- Các doanh nghiệp cần nâng cao năng lực quản trị điều hành, trình độ
công nghệ và tiếp cận thông tin thị trường để từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh, tạo được thương hiệu và sản phẩm có uy tín để tăng sức cạnh
tranh trên thị trường.

- Chủ động tìm hiểu, nghiên cứu pháp luật, quy định, cơ chế chính sách
của Nhà nước và của tỉnh đã ban hành để có thể tiếp cận các chính sách hỗ trợ
của Nhà nước.

- Chủ động trong việc xây dựng dự án, phương thức đầu tư phù hợp với
năng lực về vốn, công nghệ và con người.

61
- Minh bạch vấn đề tài chính để sử dụng nguồn lực hiệu quả hơn, giảm
thiểu chi phí, rủi ro cho cả doanh nghiệp và ngân hàng.

3. Về phía ngành Ngân hàng Hà Tĩnh, để hỗ trợ doanh nghiệp khởi


nghiệp, thời gian tới sẽ tiếp tục triển khai có hiệu quả các chính sách về tiền
tệ, tín dụng tại địa bàn, cụ thể như:

- Tham mưu cho UBND tỉnh các chính sách cụ thể để tạo điều kiện
thuận lợi cho các Doanh nghiệp tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng;

- Các TCTD tăng cường tiếp cận với các doanh nghiệp đặc biệt là các
doanh nghiệp khởi nghiệp bằng nhiều hình thức để tư vấn, hỗ trợ khách hàng
trong sản xuất kinh doanh, trong xây dựng phương án vay vốn, giải quyết các
vướng mắc trong thẩm định, cho vay. Xử lý hài hòa các mức lãi suất để tạo điều
kiện cho doanh nghiệp vay vốn; Mở rộng cho vay tín chấp trong điều kiện cho
phép và an toàn; Nâng cao trình độ và tinh thần trách nhiệm của cán bộ, nhân
viên; giải quyết, trả lời công khai, kịp thời các kiến nghị của doanh nghiệp.

- Thực hiện tốt công tác cải cách hành chỉnh, niêm yết công khai thủ
tục hành chính, biểu phí, hồ sơ vay vốn, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho
doanh nghiệp trong quá trình tiếp cận vốn vay.

- Đẩy mạnh cho vay theo các Chương trình ưu đãi của Trung ương, của
tỉnh nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn ưu đãi để phát
triển sản xuất, kinh doanh.

- Các TCTD cam kết tiếp tục đồng hành cùng các doanh nghiệp, tiếp
tục thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ phát triển hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tăng cường hợp tác để ngân hàng và
doanh nghiệp cùng phát triển, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội
của địa phương.

Tình huống

Tôi định thành lập công ty sản xuất và phân phối rau quả sạch trên địa
bàn tỉnh. Và được biết tỉnh Hà Tĩnh có những chính sách hỗ trợ về vốn nhất
62
định. Vậy? tôi muốn biết tại các ngân hàng lớn trên địa bàn tỉnh đã có những
chính sách hỗ trợ nào đối với doanh nghiệp khởi nghiệp?

Hướng giải quyết: Tại các ngân hàng lớn trên địa bàn tỉnh đã có những
chính sách hỗ trợ như:

+ Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam: chương trình tín dụng hỗ trợ
doanh nghiệp khởi nghiệp có quy mô 2.000 tỷ đồng, áp dụng với các khoản vay
ngắn hạn và khoản vay trung và dài hạn. Lãi suất áp dụng dành cho các doanh
nghiệp khởi nghiệp thấp hơn lãi suất vay thông thường từ 1%-1,5%.

+ Ngân hàng Công Thương Việt Nam: Thời gian triển khai chương
trình, từ nay đến hết ngày 31/12/2017 hoặc cho đến khi hết doanh số giải ngân
3.000 tỷ đồng của chương trình; Khách hàng là doanh nghiệp khởi nghiệp có
thời gian hoạt động đến thời điểm giải ngân dưới 12 tháng và thỏa mãn điều
kiện của VietinBank có nhu cầu vay vốn phục vụ sản xuất kinh doanh trong
thời gian triển khai chương trình.

+ Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn: Từ 20/9 đến hết
ngày 31/12/2017, dành khoảng 15.000 tỷ đồng để thực hiện cho vay ưu đãi lãi
suất từ 5%-7%/năm đối với khách hàng doanh nghiệp quan hệ tín dụng với
ngân hàng này.

+ Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam: cung cấp gói tín dụng lãi suất ưu
đãi với quy mô 1.000 tỷ đồng dành riêng cho các doanh nghiệp khởi nghiệp.

THAM LUẬN
Những thuận lợi, khó khăn trong quá trình khởi nghiệp đối với
doanh nghiệp

Công ty cổ phần Tư vấn xây dựng và thương mại Đại Phát

Tốc độ phát triển kinh tế ngày nay đang gia tăng ngày càng nhanh, đồng
thời các dự án khởi nghiệp cũng bắt đầu nở rộ. Đặc biệt, trong 2 năm gần đây,

63
việc phát triển các mô hình khởi nghiệp đang được lan truyền rộng rãi và thu
hút đông đảo Nhân dân tham gia. Trong khi đó, nhà nước cũng chú trọng và
đầu tư cho xu hướng này ngày một tăng cao. Với lợi thế đó, hầu hết tất cả các
tỉnh thành trên cả nước đang tham gia vào khởi nghiệp, trong đó có tỉnh Hà
Tĩnh. Vậy, những thuận lợi và khó khăn trong quá trình khởi nghiệp đối với
doanh nghiệp là gì? Đứng trên cương vị là một doanh nghiệp, tham luận xin
đưa ra một số phân tích về thuận lợi, khó khăn của doanh nghiệp nói chung và
của bản thân doanh nghiệp chúng tôi nói riêng trong quá trình khởi nghiệp.

1. Thuận lợi

Một là, các sách ưu đãi đối với các đối tượng doanh nghiệp khởi nghiệp
được ban hành khá nhiều, triển khai khá đầy đủ các quy định của Trung ương
giao quy định chi tiết.Các văn bản hỗ trợ đầy đủ trên các lĩnh vực như: hỗ trợ
doanh nghiệp trong quá trình thành lập; hỗ trợ về vốn; tiếp cận nguồn lực đất
đai; hỗ trợ về thuế; khoa học công nghệ; hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp…
Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật có nội dung hỗ trợ doanh nghiệp,
đặc biệt là hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình thành lập là một trong những
nội dung được tỉnh chú trọng. Về cơ bản, các chính sách tại các văn bản có
tính khả thi cao, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, trình độ dân trí, quy
định rõ ràng, cụ thể thuận tiện cho quá trình áp dụng văn bản. Nhờ đó đã có
tác động thu hút đầu tư cơ sở hạ tầng cụm công nghiệp, các doanh nghiệp đầu
tư sản xuất kinh doanh trong các cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh, quản lý
và sử dụng kinh phí khuyến công ngày càng hiệu quả, phát triển trọng tâm,
trọng điểm kinh tế - xã hội.

Hai là, hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp là một lĩnh vực luôn được lãnh
đạo UBND tỉnh quan tâm thực hiện. Có thể khẳng định, tỉnh đã tạo mọi điều
kiện thuận lợi để thúc đẩy môi trường đầu tư của Hà Tĩnh trong thời gian qua
là lành mạnh và an toàn, khi chính quyền luôn đồng hành và đứng bên cạnh
doanh nghiệp để lắng nghe ý kiến của doanh nghiệp nhằm tháo gỡ những

64
vướng mắc cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các nhà đầu tư được tạo điều kiện
hết sức thuận lợi.

Ba là, môi trường đầu tư và kinh doanh trên địa bàn Hà Tĩnh là một
môi trường có nhiều tiềm năng, vì vậy tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
trong quá trình thành lập cũng như phát triển. Ngoài ra, đối với các doanh
nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp có lợi thế về sản phẩm nông
nghiệp, các loại cây ăn quả, chăn nuôi khá phát triển…

Bốn là, hiện nay Hà Tĩnh đã thành lập Trung tâm hỗ trợ phát triển
doanh nghiệp và xúc tiến đầu tư tỉnh, Trung tâm Hành chính công tỉnh với
chức năng hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, thiết lập cơ chế liên thông, một đầu
mối để giải quyết hồ sơ, thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp, người dân.
Khi tổ chức, cá nhân có yêu cầu đăng ký, thành lập doanh nghiệp sẽ được
hướng dẫn, tư vấn và cung cấp các biểu, mẫu đăng ký miễn phí. Ngoài ra, tại
một số đơn vị cấp huyện cũng đã triển khai xây dựng trung tâm hành chính
công huyện đã tạo chuyển biến tích cực trong giải quyết thủ tục hành chính.

Năm là, các hiệp hội doanh nghiệp đã tích cực tuyên truyền, vận động
thành lập, phát triển doanh nghiệp trên địa bàn, là chỗ dựa vững chắc cho
doanh nghiệp, phát huy vai trò cầu nối doanh nghiệp - chính quyền, gặp gỡ
đối thoại, kiến nghị tháo gỡ khó khăn vướng mắc cho doanh nghiệp, hỗ trợ
doanh nghiệp hội nhập.

2. Khó khăn

Thứ nhất, khó khăn trong việc huy động nguồn vốn

Vốn là vấn đề quan trọng đối với doanh nghiệp khởi nghiệp nhưng việc
vay vốn từ ngân hàng của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn do những
chính sách tín dụng, điều kiện để được vay vốn… Sự cạnh tranh gay gắt trong
kinh doanh ngày càng cao, vòng đời sản phẩm ngày càng bị rút ngắn đòi hỏi
các doanh nghiệp muốn tồn tại phải luôn sáng tạo, đổi mới và tạo ra sự khác
65
biệt để tránh bị đào thải thì doanh nghiệp khởi nghiệp chưa đáp ứng kịp thời
những vấn đề này.

Tài sản đảm bảo vay vốn chủ yếu yêu cầu phải là bất động sản, trong khi
đó, giá trị bất động sản của các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường rất nhỏ, không
đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng. Một số doanh nghiệp được giao đất sử
dụng, nhưng chưa được cấp giấy tờ chứng minh quyền sở hữu đất, do vậy,
cũng không có tài sản đảm bảo để vay vốn ngân hàng. Một số doanh nghiệp đã
sử dụng toàn bộ tài sản đảm bảo cho các khoản vay cũ nên không có tài sản
đảm bảo để vay các khoản vay mới.Các sản phẩm tín dụng dành cho doanh
nghiệp nhỏ và vừa chưa phong phú, một số doanh nghiệp không tìm được các
sản phẩm tín dụng phù hợp, do đó cũng không tiếp cận được vốn vay ngân
hàng.

Các hình thức đảm bảo khoản vay bằng hàng hóa hay các tài sản khác
bất động sản chỉ mới được áp dụng với các khoản vay ngắn hạn, trong khi đó,
hầu hết các khoản vay dài hạn đều yêu cầu tài sản thế chấp là bất động sản.

Mặc dù các doanh nghiệp lớn có khả năng huy động vốn từ nhiều
nguồn phong phú hơn như phát hành cổ phiếu và trái phiếu, song nguồn vốn
huy động từ thị trường chứng khoán chưa nhiều, tỷ trọng lớn vốn ngân hàng
vẫn được dành cho các doanh nghiệp lớn. Thực tế cho thấy có sự phân biệt
đối xử khi các doanh nghiệp lớn thường được các tổ chức tín dụng ưu tiên vay
vốn hơn các doanh nghiệp nhỏ và vừa do những doanh nghiệp lớn có ưu thế
hơn về tài sản, có mối quan hệ tốt hơn với các tổ chức tín dụng. Các doanh
nghiệp nhà nước cũng có lợi thế hơn khi tiếp cận tín dụng từ các tổ chức tín
dụng so với các doanh nghiệp tư nhân bên cạnh lý do tài sản đảm bảo lớn còn
có tâm lý các tổ chức tín dụng coi cho vay các doanh nghiệp nhà nước là an
toàn vì những doanh nghiệp này được Nhà nước bảo lãnh.

Đối với các doanh nghiệp đã vay được vốn, khó khăn lớn nhất là làm
sao để duy trì được việc tiếp cận các khoản vay một cách ổn định. Bên cạnh
đó, nhu cầu vốn của các doanh nghiệp nhỏ và vừahầu như không lớn, các
66
khoản vay nhỏ và có thời hạn ngắn, nhưng việc tiếp cận được các khoản vay
không ổn định, khi vay được khi không đã ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động
của doanh nghiệp, khiến cho các doanh nghiệp bị động trong kế hoạch tài
chính.

Thứ hai, khó khăn về nguồn nhân lực

Doanh nghiệp khởi nghiệp chưa có kỹ năng và kinh nghiệm đối với
quản trị dòng tiền, tiếp thị, tài chính, kiểm soát hàng tồn kho và quản trị con
người. Đồng thời, việc tìm kiếm nguồn nhân lực chất lượng cao là một yếu tố
hết sức khó khăn đối với doanh nghiệp khi mới thành lập.Xuất phát từ đặc
trưng quy mô vốn nhỏ nên các doanh nghiệp hầu như bị hạn chế trong việc
đầu tư công nghệ và trang thiết bị hiện đại. Trình độ quản lý và tay nghề
chuyên môn thấp, hầu hết những người có trình độ cao đều có tâm lý muốn
làm việc ở những công ty lớn do được trả lương cao. Số lượng chủ các doanh
nghiệp vừa và nhỏ qua đào tạo chiếm tỷ lệ rất thấp và hầu như là chưa qua
đào tạo chuyên môn; còn công nhân chủ yếu là lao động thủ công, chỉ qua đào
tạo nghề ngắn hạn hoặc là những lao động chuyển từ sản xuất nông nghiệp
sang nên trình độ tay nghề vẫn còn nhiều hạn chế. Vì vậy, việc áp dụng các
công nghệ kỹ thuật tiên tiến hiện đại cũng gặp nhiều khó khăn.

Hà Tĩnh là một tỉnh có truyền thống nông nghiệp, đại bộ phận dân số
sinh sống ở nông thôn. Vì vậy, nguồn lao động nông thôn tham gia vào quá
trình sản xuất rất đông đảo, chiếm hơn 3/4 lao động của cả tỉnh với gần 74%
tổng số lực lượng lao động. Đây là lực lượng có vai trò quan trọng trong sự
phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Tuy vậy, nguồn nhân lực khu vực nôngthôn
ở Hà Tĩnh hiện nay vẫn còn nhiều bất cập như trình độ văn hóa, trình độ
chuyên môn thấp, lao động chủ yếu bằng kinh nghiệm, chưa qua đào tạo, tổ
chức lao động giản đơn, công cụ lao động thô sơ mang tính tự chế cao, phân
bố lao động không đồng đều… đã hạn chế tính chủ động, sáng tạo trong sản
xuất, kinh doanh cũng như khả năng ứng dụng công nghệ vàtiếp cậnthị trường
của người lao động. Bên cạnh đó, trình độ nhận thức và thói quen sản xuất
67
nhỏ cũng ảnh hưởng không kém đến chất lượng và cơ cấu lao động.Theo báo
cáo của Mornirtor có tới 68% lực lượng lao động của Hà Tĩnh không qua đào
tạo; riêng ngành nông, lâm, ngư nghiệp tỉ lệ lao động chưa qua đào tạo chiếm
80,9%; lĩnh vực xây dựng, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụở nông thôn 56,2%
ngoài ra chất lượng đào tạo nghề trên địa bàn tỉnh là một thách thức đã tồntại
từ lâu. Bên cạnh đó, trình độ và mức thụ hưởng văn hóa của lao động nông
thôn cũng thấp hơn rất nhiều so với mức chung. Vì vậy, hiệu quả lao động,
sản xuất thấp, khó khăn trong việc ứng dụng công nghệ hiện đại dẫn đến thị
trường hẹp, sức cạnh tranh hàng hóa thấp.

Thứ tư, khó khăn về nguồn lực khoa học công nghệ

Nếu doanh nghiệp ứng dụng tốt sự tiến bộ của khoa học công nghệ, kỹ
thuật sản xuất tiên tiến sẽ thúc đẩy hiệu quả sản xuất kinh doanh, có tác động
rất tích cực đến sự phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay các
doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp khởi nghiệp nói riêng vẫn chưa chú
trọng việc áp dụng công nghệ mới. Rất ít doanh nghiệp có cơ sở, bộ phận
chuyên trách nghiên cứu ứng dụng và còn thiếu quan tâm việc thành lập quỹ
phát triển khoa học và công nghệ. Phần lớn doanh nghiệp cũng chưa mạnh
dạn đầu tư đổi mới công nghệ, còn thiếu cả về quy hoạch lẫn chiến lược. Nhìn
chung, đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ chưa đáp ứng được yêu
cầu, nhiệm vụ đặt ra, việc xã hội hóa các hoạt động khoa học công nghệ chưa
cao. Hơn nữa, việc tiếp cận với các chính sách hỗ trợ về khoa học công nghệ
cũng chưa thật sự hiệu quả.

Thứ ba, khó khăn về tiếp cận chính sách, pháp luật

Số lượng văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến doanh nghiệp quá
nhiều, lại thường xuyên thay đổi nên việc cập nhật, nắm của doanh nghiệp
chưa được thường xuyên, liên tục; một số quy định trong văn bản pháp luật
liên quan đến doanh nghiệp còn chồng chéo, trùng lặp gây khó khăn cho quá
trình áp dụng, thực thi pháp luật; Một số quy định về thủ tục hành chính còn

68
phức tạp, khó khăn cho doanh nghiệp trong khâu chuẩn bị hồ sơ, giấy tờ cần
thiết.

Trong thời gian qua, công tác hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp đã được
Lãnh đạo UBND tỉnh cũng như các cơ quan, đơn vị quan tâm, chỉ đạo triển
khai trên toàn diện, phần nào đã đạt kết quả nhất định thúc đẩy phát triển
mạnh mẽ các loại hình doanh nghiệp, phát triển kinh tế, đảm bảo quyền tự do
kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh, đặc biệt là thúc đẩy và tạo
lập môi trường pháp lý cho danh nghiệp nhỏ và vừa phát triển; tăng nhanh số
lượng các cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh, tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng
cụm công nghiệp theo hướng bền vững, hiện đại và đảm bảo môi trường ngày
càng được cải thiện. Tuy nhiên, do điều kiện khách quan cũng như chủ quan,
hiệu quả mang lại chưa thật sự cao, nhận thức của doanh nghiệp và nhất là
người đứng đầu doanh nghiệp còn hạn chế, tư duy sáng tạo về ý tưởng khởi
nghiệp chưa cao, tiếp cận ứng dụng khoa học công nghệ còn quá ít, nghiên
cứu và cập nhật hệ thống văn bản pháp luật chưa đầy đủ, toàn diện…

Ngoài ra,tự thân các doanh nghiệp cũng chưa tạo được độ tin cậy cao,
năng lực cạnh tranh kém, chưa bảo đảm về vệ sinh, an toàn và bảo vệ môi
trường. Khả năng đàm phán, tiếp cận thị trường xuất khẩu, công nghệ, tiêu
chuẩn môi trường nước ngoài còn nhiều hạn chế.

Trên đây là một số thuận lợi, khó khăn trong quá trình khởi nghiệp đối
với doanh nghiệpnói chung. Riêng đối với công ty cổ phần Tư vấn xây dựng
và thương mại Đại Phát chúng tôi, trong những ngày đầu khởi nghiệp, bên
cạnh những thuận lợi, khó khăn lớn mà chúng tôi gặp phải đó là việc huy
động nguồn vốn, nguồn lao động có chất lượng…Hơn nữa, Hà Tĩnh là một
tỉnh kinh tế chưa phát triển, các dự án xây dựng đang khá ít, vì vậy cơ hội đối
với các doanh nghiệp xây dựng nói chung và công ty Đại Phát nói riêng
không nhiều. Điều đó có nghĩa sự cạnh tranh của các doanh nghiệp là khá
cao, đòi hỏi công ty cần có sự phấn đấu, hoàn thiện, đổi mới và phát triển

69
không ngừng để đáp ứng được yêu cầu của đối tác cũng như tồn tại trên thị
trường kinh tế.

3. Một số đề xuất, kiến nghị

- Tổ chức rà soát các chính sách, đẩy mạnh việc sửa đổi, bổ sung hệ
thống văn bản không còn phù hợp; Nâng cao trình độ nắm vững và thi hành
pháp luật của đội ngũ công chức quản lý nhà nước có liên quan trực tiếp đối
với doanh nghiệp tư nhân; Thay đổi tư duy quản lý sang trách nhiệm phục vụ,
hướng dẫn doanh nghiệp phát triển, nâng cao trách nhiệm của công chức, đảm
bảo cho các cơ quan quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương thực sự
là chỗ dựa vững chắc, là người trợ giúp thật hiệu quả đối với doanh nghiệp.

- Nâng cao năng lực, kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ trực tiếp làm nhiệm
vụ giải quyết thủ tục pháp lý cho doanh nghiệp khởi nghiệp; đồng thời tăng
cường công tác thanh tra, kiểm tra để kịp thời ngăn chặn các hành vi vi phạm
pháp luật trong thực hiện thủ tục pháp lý cho doanh nghiệp. Để khuyến khích
các doanh nghiệp mới, đòi hỏi cơ quan, người có thẩm quyền phải chấp hành
nghiêm các quy định của pháp luật, hướng dẫn, tạo điều kiện tối đa cho các tổ
chức, cá nhân tiếp cận với quá trình đưa doanh nghiệp vào vận hành một cách
thuận lợi, nhanh chóng và đúng pháp luật.

- Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật, bố trí nguồn lực phục vụ
cho việc cung cấp thông tin cho doanh nghiệp khởi nghiệp. Tiếp cận pháp luật
là nhu cầu không chỉ của doanh nghiệp mà của mọi đối tượng, do đó mỗi địa
phương, cơ quan, tổ chức cần chủ động bố trí, đầu tư để nâng cao chất lượng
cung cấp thông tin của địa phương, cơ quan mình. Trên cơ sở đó, các doanh
nghiệp mới có thể tiếp cận thông tin liên quan đến loại hình doanh nghiệp của
mình một cách dễ dàng và thuận tiện. Hệ thống cung cấp thông tin càng đơn
giản và thuận tiện thì việc tiếp nhận thông tin, thỏa mãn nhu cầu được thông
tin của người dân, doanh nghiệp càng nhanh chóng và hiệu quả, tiết kiệm chi
phí phát sinh không cần thiết.

70
- Tiếp tục chú trọng công tác tạo dựng môi trường thuận lợi để hỗ trợ
doanh nghiệp khởi nghiệp, đẩy mạnh rà soát, cắt giảm và đơn giản hóa các
thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp; tăng tính liên thông trong giải
quyết thủ tục hành chính; tăng số lượng thủ tục hành chính được giải quyết tại
Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả các cấp; giảm tỷ lệ trả kết quả giải quyết thủ
tục hành chính trễ hẹn.

- Nên có các chính sách hỗ trợ riêng đối với các doanh nghiệp nhỏ và
vừa đầu tư vào những vùng khó khăn và nông thôn, đặc biệt là những doanh
nghiệp đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, hình thành những cụm, khu công
nghiệp nhỏ để giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, giảm tình trạng lao
động từ nông thôn ra thành thị, từng bước rút ngắn sự chênh lệch về mức sống
giữa thành thị và nông thôn.

- Lãnh đạo địa phương và các ngành nên tổ chức các cuộc gặp mặt với
các doanh nghiệp thường xuyên hơn để kịp thời giải quyết các vướng mắc và
có chính sách hợp lý về các vấn đề cụ thể như chính sách thuế, thủ tục hải
quan, tín dụng ngân hàng… Các cấp chính quyền địa phương, các hiệp hội,
câu lạc bộ doanh nghiệp, tổ chức các đợt tham quan học hỏi kinh nghiệm mô
hình doanh nghiệp làm ăn giỏi, điển hình cho các chủ doanh nghiệp khác, các
hộ nông dân, người buôn bán nhỏ có tiềm năng.

- Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền tới người dân, doanh
nghiệp về cơ chế, chính sách, pháp luật về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp.
Kịp thời đưa tin về những mô hình tốt, cách làm hay cũng như những sai
phạm, tồn tại, hạn chế trong thực thi chính sách, pháp luật.Đẩy mạnh nghiên
cứu, ứng dụng, chuyển giao các tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất và
góp phần nâng cao giá trị, hiệu quả, sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa;
tập trung đẩy mạnh ứng dụng thành tựu về công nghệ sinh học, thông qua
việc tuyển chọn, chuyển đổi, sản xuất các loại giống cây trồng, vật nuôi có giá
trị kinh tế cao, phù hợp với điều kiện tự nhiên của tỉnh; xây dựng, nhân rộng

71
mô hình chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ phục vụ phát
triển kinh tế, xã hội vùng nông thôn, miền núi.

Đồng thời, triển khai có hiệu quả việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp trên
địa bàn tỉnh đầu tư đổi mới công nghệ, chuyển giao công nghệ, nâng cao năng
suất, chất lượng sản phẩm và xác lập quyền sở hữu công nghiệp.

Tình huống:

Chị Nguyễn Thị A đến cơ quan có thẩm quyền để làm thủ tục đăng ký
kinh doanh thành lập công ty cổ phần. Tuy nhiên, khi được cán bộ hướng dẫn
thành phần hồ sơ gồm điều lệ công ty. Tuy nhiên bản chất, điều lệ công ty là
văn bản thỏa thuận, mang tính nội bộ của doanh nghiệp gồm cơ cấu tổ chức,
quản lý doanh nghiệp, vốn điều lệ của doanh nghiệp, thời hạn góp vốn, cơ chế
phân chia lợi nhuận…trên cơ sở quy định của pháp luật. Theo quy định tại
Điều 25 Luật Doanh nghiệp 2014 thì điều lệ công ty bao gồm điều lệ khi đăng
ký doanh nghiệp và điều lệ được sửa đổi, bổ sung trong quá trình hoạt động.
Điều lệ công ty có 13 nội dung chủ yếu. Có thể thấy, Luật Doanh nghiệp 2014
đã quy định khá cụ thể, mang tính nguyên tắc các nội dung phải có trong điều
lệ doanh nghiệp. Khi xây dựng và thông qua điều lệ các thành viên trong
doanh nghiệp phải căn cứ vào quy định này. Do đó, về bản chất, điều lệ doanh
nghiệp là sự cụ thể hóa quy định của pháp luật doanh nghiệp. Vì vậy, việc quy
định điều lệ doanh nghiệp trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp là không cần
thiết, gây khó khăn cho cả người thành lập doanh nghiệp lẫn cơ quan đăng ký
doanh nghiệp. Vì vậy, hồ sơ đăng ký doanh nghiệp nên được cắt giảm thành
phần điều lệ công ty để tránh phiền hà, mất thời gian cho doanh nghiệp khi
đăng ký kinh doanh.

72
THAM LUẬN
Một số kinh nghiệm trong quá trình khởi nghiệp đối với doanh nghiệp

(Doanh nghiệp Chí Công)

Thưa quý vị đại biểu!

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có trên 5 nghìn doanh nghiệp (DN) , chủ yếu
là các DN nhỏ và vừa, chiếm 98%. Đây là loại hình phát triển nhanh chóng, tốc
độ tăng bình quân hàng năm thời kỳ 2002 - 2015 đạt 21,35%, số DN thành lập
giai đoạn 2011 - 2016 tăng 44% so với giai đoạn 2006 - 2010. Năm 2016, trong
bối cảnh kinh tế - xã hội tỉnh gặp nhiều khó hăn, sự cố môi trường biển phát
sinh nhiều hệ lụy, ảnh hưởng lớn đến môi trường đầu tư kinh doanh nhưng số
lượng DN thành lập mới vẫn đạt cao nhất từ trước đến nay (thành lập mới 885
DN, tăng 2,7% so với cùng kỳ). Từ đầu năm đến nay thành lập mới 737 DN,
giải thể 101 DN và thực hiện đăng ký tạm ngừng 137 DN. Vốn điều lệ bình
quân của các DN trong nước đạt 9,9 tỷ đồng/DN, trong đó có 04 DN từ 1.000
73
tỷ đồng đến dưới 2.000 tỷ đồng và 02 DN có vốn điều lệ trên 2.000 tỷ đồng.
Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh có trên 1.300 hợp tác xã và hơn 3.000 tổ hợp tác,
trên 5,9 vạn hộ kinh doanh, trong đó số hộ có đăng ký chiếm 88,2%, đây là khu
vực có nhiều tiềm năng lợi thế để phát triển thành DN.

Trên địa bàn tỉnh đã ban hành hệ thống cơ chế chính sách hỗ trợ phát
triển doanh nghiệp, đầu tư, sản xuất khá đồng bộ; từ chính sách hỗ trợ DN gia
nhập thị trường, đến chính sách hỗ trợ đầu tư, hỗ trợ lãi suất tín dụng phát
triển sản xuất . Các nguồn ngân sách thực hiện đề án chính sách hỗ trợ đầu tư,
phát triển sản xuất, phát triển DN được tỉnh ưu tiên bố trí tối đa trong khả
năng cân đối. Ngoài ra, còn có các chính sách ưu đãi về đất đai, vốn vay…

Bên cạnh những thuận lợi cơ bản, thì doanh nghiệp khởi nghiệp trên
địa bàn tỉnh cũng gặp những khó khăn nhất định. Cụ thể:

- Cạnh tranh gay gắt nguồn vốn tài trợ: Một điều dễ hiểu là khi tài trợ
khởi nghiệp cho một doanh nghiệp khởi nghiệp, nhà đầu tư trước hết sẽ cân
nhắc cơ hội thành công của những doanh nghiệp này. Vì thế nguồn vốn đầu tư
có thể rất dồi dào, nhưng lại không dành cho tất cả các doanh nghiệp khởi
nghiệp.

Điều này tạo ra một bức tranh hợp lý cho nhà đầu tư, họ cần đảm bảo
đồng tiền của mình luôn sinh lời từ phía các doanh nghiệp, điều này cũng
đồng nghĩa sẽ ít cơ hội hơn cho các doanh nghiệp khi họ không thể thu hút
được lượng khách hàng ban đầu sau một thời gian đầu tư.

- Không biết "nói" và kiểm toán yếu: Nhiều doanh nghiệp tại Việt Nam
nói chung và doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh nói riêng hiện nay “chỉ biết làm,
không biết nói”. Tức là họ chỉ biết cắm cúi làm để cho ra sản phẩm mà không
biết cách giới thiệu sản phẩm ra thị trường như thế nào, thiếu kế hoạch do đó
khả năng thành công không cao. Bên cạnh đó, nhiều công ty đã có sản phẩm
tốt nhưng khi tiếp cận các quỹ đầu tư thì gặp khó khăn trong việc định giá, sổ
sách kế toán, tài chính... Nếu báo cáo kiểm toán được thực hiện bởi một công

74
ty nước ngoài thì yên tâm, nhưng nếu đó là báo cáo thực hiện trong nước thì
sẽ phải xem xét kỹ hơn. Các doanh nghiệp khởi nghiệp sẽ cạnh tranh hơn nếu
có số liệu báo cáo được thực hiện bởi các đơn vị kiểm toán uy tín.

- Non trẻ trong kiến thức và kinh nghiệm: Ngay cả đối với những
chuyên gia dày dặn kinh nghiệm, kiến thức cũng chưa bao giờ là đủ. Những
tri thức mới luôn được khám phá mỗi ngày, đặc biệt là trong lĩnh vực công
nghệ. Đó cũng là lý do khiến những thành tố hỗ trợ trong hệ sinh thái khởi
nghiệp như vườn ươm, quỹ hỗ trợ… dù đang mọc lên như nấm tại Việt Nam
cũng không phát huy nhiều hiệu quả.

Không chỉ học trên ghế nhà trường, giới khởi nghiệp còn được khuyên
tìm kiếm sự giúp đỡ ở những phần việc mình không giỏi và học hỏi từ đồng
nghiệp, từ người hướng dẫn và sách vở. Ngoài nền tảng kiến thức cần liên tục
được cập nhật và bồi đắp, kinh nghiệm từ những người đi trước là vô cùng
quý báu, giúp doanh nghiệp non trẻ tránh khỏi những "vết xe đổ", những thất
bại không đáng có.

- Tìm đâu ra "thợ tốt": Cũng xuất phát một phần về vấn đề tài chính
đóng góp thêm cho sự khó khăn cho doanh nghiệp khởi nghiệp trong việc thu
hút nhân tài. Kỹ năng tuyển dụng, đãi ngộ và giữ chân người tài của các chủ
doanh nghiệp cũng rất yếu. Đa số tâm lý của những nhân sự có năng lực làm
việc tốt lại muốn phát triển tại những doanh nghiệp lớn chứ ít khi muốn chịu
rủi ro cùng doanh nghiệp khởi nghiệp. Một người có năng lực tốt bao giờ
cũng yêu cầu mức thu nhập tương xứng, họ chỉ chấp nhận mức lương bình
thường khi có một số điều kiện khác thúc đẩy họ như người lãnh đạo giỏi, sản
phẩm thực sự có tiềm năng lớn hoặc họ có khả năng sở hữu một phần doanh
nghiệp.

Để các doanh nghiệp khởi nghiệp trên dịa bàn tỉnh khởi nghiệp thành
công, các doanh nghiệp cần:

75
Trước hết, phải biết được nội lực của mình. Từ khi có ý tưởng đến khi
thành lập một dự án cần chuẩn bị kế hoạch bài bản gồm: cơ sở, tiền đề để
khởi nghiệp, chọn ngành nghề kinh doanh phù hợp, bộ máy điều hành đảm
bảo tinh gọn, nhưng hiệu quả. Tuy nhiên để doanh nghiệp khởi nghiệp đạt kết
quả tốt rất cần hỗ trợ của nhà nước về vốn, thủ tục hành chính tinh gọn.

Thời gian qua, Chính phủ có nhiều nỗ lực tạo môi trường kinh doanh
thuận lợi và xây dựng chính sách hỗ trợ cá nhân, doanh nghiệp khởi nghiệp và
phát triển doanh nghiệp sau khi khởi nghiệp. Vấn đề đặt ra là sự phát triển của
doanh nghiệp sau khi khởi nghiệp làm thế nào để quy mô lớn lên được, còn
như tình trạng hiện nay, các doanh nghiệp sau khi khởi nghiệp rất dễ bị thu
nhỏ dần về quy mô.

Từ một số khó khăn, vướng mắc nhất định đã rút ra một vài kinh
nghiệm trong quá trình khởi nghiệp đối với các doanh nghiệp:

1. Doanh nghiệp khởi nghiệp phải có tính đột phá

Tính đột phá là điều bắt buộc. Là một doanh nghiệp khởi nghiệp, bạn
có thể tạo ra một điều gì đấy chưa hề có trên thị trường hoặc tạo ra một giá trị
tốt hơn so với những thứ đang có sẵn. Ví dụ, bạn có thể tạo ra một phân khúc
mới trong sản xuất (như thiết bị thông minh đo lường sức khoẻ cá nhân), một
mô hình kinh doanh hoàn toàn mới), hoặc một loại công nghệ độc đáo, chưa
hề thấy (như công nghệ in 3D).

2. Không giới hạn tính tăng trưởng: Một doanh nghiệp khởi nghiệp sẽ
không đặt ra giới hạn cho sự tăng trưởng, và họ có tham vọng phát triển đến
mức lớn nhất có thể. Họ tạo ra sự ảnh hưởng cực lớn, có thể được xem là
người khai phá thị trường

3. Vấn đề lợi nhuận đối với doanh nghiệp khởi nghiệp: Có thể cần đến
nhiều tháng, thậm chí nhiều năm để có được doanh thu (dù rất nhỏ). Bạn sẽ
tập trung vào phát triển một sản phẩm thật sự hữu ích cho người dùng, nhằm

76
có được một lượng khách hàng đông đảo. Nếu kế hoạch thành công, lợi nhuận
tài chính có thể rất khổng lồ.

4. Vấn đề tài chính: Nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp bắt đầu từ chính
tiền túi của người sáng lập, hoặc đóng góp từ gia đình và bạn bè. Một số
trường hợp thì gọi vốn từ cộng đồng. Do đó, cần phải tìm được nguồn hỗ trợ
tài chính tốt hoặc các ưu đã nhất định để phát triển doanh nghiệp một cách
hiệu quả.

5. Vấn đề về công nghệ: Công nghệ thường là đặc tính tiêu biểu của sản
phẩm từ một doanh nghiệp khởi nghiệp. Dù vậy, ngay cả khi sản phẩm không
dựa nhiều vào công nghệ, thì doanh nghiệp khởi nghiệp cũng cần áp dụng
công nghệ để đạt được mục tiêu kinh doanh cũng như tham vọng tăng trưởng.

6. Kĩ năng Lãnh đạo: Bởi vì bạn mong muốn phát triển càng to lớn
càng tốt, càng nhanh càng tốt, bạn sẽ cần phải liên tục phát triển kĩ năng lãnh
đạo và kĩ năng quản lý. Cùng với sự tăng trưởng của doanh nghiệp khởi
nghiệp, bạn cần phải có sự quản lý hiệu quả với một số lượng “thành viên
mới”: nhân viên, nhà đầu tư, ban cố vấn, và các đối tác khác.

7. Cuộc sống cá nhân: Nếu bạn nhận được vốn từ các nhà đầu tư , bạn
sẽ có trách nhiệm giúp công ty tăng trường đến một thời điểm nhà đầu tư có
thể tối đa hoá mức độ lợi nhuận. Hãy luôn nhớ rằng sẽ có vô số người trông
đợi vào bạn, vào sản phẩm của bạn, vào thành công của bạn. Cân bằng giữa
công việc và cuộc sống riêng có thể khái quát nôm na như: Công việc, công
việc, công việc, và cuộc sống…

Tại địa phương, càng ngày, số lượng những người có ý định khởi
nghiệp và nuôi giấc mơ trở thành một ông chủ độc lập càng nhiều. Nhưng
không phải ai khởi nghiệp cũng thành công, nhiều người đã phải chấp nhận
thất bại cay đắng hết lần này đến lần khác.Vì vậy, tôi muốn chia sẻ cùng bạn
kinh nghiệm khởi nghiệp thành công được đúc rút từ người thực, việc thực để
bạn tìm thấy hướng đi rộng mở cho dự án khởi nghiệp của mình. Cùng nhau

77
chia sẻ kinh nghiệm khởi nghiệp thành công, chúng ta có thể tìm ra những
cách thức tốt hơn để rủi ro trong kinh doanh giảm xuống.

- Xây dựng ý tưởng một cách chi tiết, khoa học

Theo kinh nghiệm khởi nghiệp kinh doanh thành công của nhiều người
nổi tiếng trên thế giới và ở Việt Nam, bất kì một dự án khởi nghiệp nào cũng
bắt nguồn từ những ý tưởng. Ý tưởng kinh doanh khởi nghiệp chính là chiếc
chìa khóa, là bước đệm đưa bạn đến với con đường hiện thực hóa ước mơ của
mình.

Trong số những người khởi nghiệp hiện nay, số lượng các bạn trẻ
không hề nhỏ. Đó chính là đối tượng đang sống trong giai đoạn sung sức nhất,
nhiệt huyết nhất nên nguồn ý tưởng thường rất dồi dào và đầu táo bạo. Nhưng
theo chia sẻ kinh nghiệm khởi nghiệp thành công của nhiều người, một ý
tưởng độc đáo chưa thể làm nên thành công. Muốn làm rõ con đường khởi
nghiệp của mình, bạn phải chắc chắn về ý tưởng kinh doanh – tức là ý tưởng
đó có tính khả thi, có thể triển khai và vận hành được một cách trơn chu.

Tiếp theo, một kinh nghiệm khởi nghiệp thành công then chốt với phần
ý tưởng chính là việc bạn phải chi tiết hóa ý tưởng của mình một cách khoa
học. Để chi tiết ý tưởng ấy, bạn phải vạch ra được mục tiêu, sứ mệnh, định
hướng, tiêu chí hoạt động,… trong doanh nghiệp tương của mình. Chắc chắn,
nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp khi bắt tay vào việc này sẽ phần nào đánh giá
được tính khả thi của dự án: nếu có thể triển khai được ý tưởng thành từng
nhánh nhỏ để mường tượng rõ hơn về doanh nghiệp của bạn, khả năng thành
công là hoàn toàn có thể; ngược lại, nếu quá trình chi tiết hóa ý tưởng bạn
thấy các định hướng, mục tiêu không rõ ràng, bạn phải bắt đầu lại nếu không
muốn thất bại nhanh chóng.

-Dám đối mặt với những thách thức, thất bại

Từ kinh nghiệm khởi nghiệp thành công của nhiều ông chủ lớn, ai ai
cũng biết rằng thất bại là điều không tránh khỏi. Thực tế, nhiều start-up phải

78
chấp nhận đôi ba lần thất bại trước khi nhận được những quả ngọt đầu tiên.
Bất kì người nào khi phải chấp nhận thất bại, lỗ vốn, công sức bỏ ra “công
cốc” đều cảm thấy nản lòng, thậm chí suy sụp và yếu đuối.

Chính vì thế, một trong những kinh nghiệm khởi nghiệp kinh doanh
thành công được nhiều người đúc rút chính là tinh thần dám đối mặt với
những thất bại. Với sự mạnh mẽ, lạc quan, một cá nhân sau khi gục ngã với
dự án tâm huyết của mình sẽ không bao giờ buông xuôi. Hoặc là họ tìm ra
định hướng làm việc mới, hoặc họ phải “lột xác” để làm mới tư duy, cách
quản lý, vận hành công việc của mình.Trong những thời điểm then chốt như
vậy, nếu không có sự làm chủ bản thân, bạn sẽ không bao giờ vững lòng để
bắt đầu lại tất cả được nữa.

Thậm chí, theo chia sẻ kinh nghiệm khởi nghiệp thành công thì khi tiếp
xúc, khi thất bại, chúng ta vừa chịu sự chế giễu của nhiều người, vừa sống
trong sự thương cảm của gia đình với những lời khuyên nên dừng lại,… Vì
thế, nếu không “vững như kiềng ba chân”, nếu không kiên định và dám đối
mặt với những khó khăn, câu chuyện khởi nghiệp của bạn sẽ dần lùi sâu vào
quá khứ.

Vì thế, gắn liền với tinh thần dám chấp nhận thất bại, một người muốn
khởi nghiệp thành công phải có khả năng làm chủ làm bản thân và kiên định
trước mọi sóng gió và tác động từ xung quanh. Đây là một yếu tố không thể
thiếu và luôn được nhiều người nhắc đi nhắc lại khi nói về kinh nghiệm khởi
nghiệp thành công.

-Nghiên cứu thị trường

Đây là yếu tố đầu tiên đóng vai trò cho kết quả khởi nghiệp của bạn.
Hoạt động nghiên cứu thị trường giúp bạn nắm bắt nhu cầu xã hội, từ đó đưa
ra các chiến lược kinh doanh đúng hướng và cụ thể, tạo ra sản phẩm hoặc
dịch vụ có tính ứng dụng cao, phù hợp với nhu cầu phát triển xã hội.

-Đề ra các chiến lược tầm nhìn cho doanh nghiệp

79
Chiến lược kinh doanh và tầm nhìn và hoạt động phân tích và dự báo
trước môi trường kinh doanh. Nó đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự
tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp, đặc biệt doanh nghiệp mới khởi
nghiệp.Việc đề ra các chiến lược và tầm nhìn giúp doanh nghiệp nắm bắt
được các co hội, cũng như các nguy cơ đối với sự phát triển nguông lực của
doanh nghiệp, sử dụng hợp lý các nguồn lực sẵn có để phát huy sức mạnh của
doanh nghiệp.

-Tìm kiếm sự hỗ trợ từ các đơn vị hỗ trợ khởi nghiệp

Một nhà khởi nghiệp thông minh sẽ biết cách tận dụng những cơ hội
bên ngoài để phát triển công ty của mình. Thường thì trong khoảng thời gian
khởi nghiệp, các doanh nghiệp khởi nghiệp luôn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt
là vấn đề tài chính. Chính vì vậy. hãy tìm kiếm các đơn vị hỗ trợ khởi nghiệp-
giải pháp tối ưu cho các doanh nghiệp trẻ. Bạn sẽ nhận được các gói hỗ trợ
như thuê được văn phòng làm việc giá rẻ, được giới thiệu nguồn lực tài năng
và phù hợp, giúp đỡ trong việc kết nối với các doanh nghiệp khác để cùng
nhau phát triển hoặc được đầu tư.

Trên địa bàn Hà Tĩnh, đang có thế hệ doanh nghiệp khởi nghiệp mới,
trẻ trung, sôi nổi và quyết tâm trong việc hiện thực hóa những đam mê của họ
với niềm tin kinh doanh. Tuy nhiên, để thành công thì những doanh nghiệp
này ngoài việc trang bị kiến thức kinh doanh đầy đủ, hiểu biết về thị trường,
mô hình quản trị kinh doanh, ý chí khởi nghiệp của bản thân…còn cần một
môi trường – “bà đỡ” khởi nghiệp chuyên nghiệp và lành mạnh. Đó là, địa
phương phải tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch, bảo đảm
quyền tự do sáng tạo; có thể chế chuyên biệt, đặc thù hỗ trợ khởi nghiệp.

Tình huống

Công ty TNHH Ánh Linh được thành lập đầu năm 2017 tại Hà Tĩnh do
ông Nguyễn Ánh Linh làm giám đốc. Công ty hoạt động trong lĩnh vực xây
dựng mô hình sản xuất nấm kim chi, nấm hương… nhằm cung cấp sản phẩm

80
này ra các siêu thị, các cửa hàng tạp hóa, chợ trên địa bàn tỉnh và tỉnh khác
khi có nhu cầu. Số lượng tất cả thành viên công ty là 50 người. Tuy nhiên, sau
5 tháng hoạt động nhưng không hiệu quả công ty đã dẫn đến tình trạng trì trệ,
hoạt động không hiệu quả. Nguyên nhân của vấn đề này là do chủ công ty và
các thành viên không tìm hiểu kỹ môi trường sống phù hợp của loại nấm này
dẫn đến tình trạng nấm không sống được, hoặc nấm rất nhỏ...Bên cạnh đó, đã
không tận dụng hết nhân lực của công ty vì số lượng công việc khá ít. Ngoài
ra, không tìm hiểu rõ thị trường cũng như đầu ra của sản phẩm dẫn đến tình
trạng không tiêu thụ được…

Hướng giải quyết: Từ vấn đề của công ty TNHH Ánh Linh, chúng ta
rút ra được một số kinh nghiệm nhất định trong vấn đề khởi nghiệp như:

- Trước khi lựa chọn ngành nghề chính để khởi nghiệp cần tìm hiểu rõ
về thị trường mà mình cung cấp sản phẩm. Cần biết rõ nhu cầu ở đó như thế
nào? Đã có công ty nào hoạt động về lĩnh vực này hay chưa? Những “khách
hàng lớn” đã có mối nhất định nào đó chưa?’…

- Tối giản số lượng thành viên của công ty, cần xác định rõ với số
lượng công việc của công ty mình thì như vậy đã phù hợp chưa? Những bộ
phận nào không cần thiết thì cần đơn giản hóa để giảm bớt gánh nặng tài
chính cho công ty mình.

- Ngoài việc sản xuất ra sản phẩm thì công ty cần biết quảng bá sản
phẩm của mình ra thị trường. Quảng bá qua các phương tiện thông tin đại
chúng như báo, đài. Ngoài ra, có thể phát tờ rơi, mời sử dụng sản phẩm miễn
phí….từ đó, đưa sản phẩm mình đến gần với người tiêu dùng.

- Ngoài ra, cần tìm hiểu rõ về sản phẩm công ty mình sản xuất có
phù hợp với đặc điểm, môi trường địa phương có phù hợp với sản phẩm
không? Bên cạnh đó, cần tìm người có kinh nghiệm đầu ngành trong lĩnh vực
sản phẩm của mình để việc sản xuất của mình có hiệu quả và chất lượng.

81
Như vậy, từ các mô hình doanh nghiệp xung quanh, mỗi doanh
nghiệp khởi nghiệp cần đúc rút kinh nghiệm cho doanh nghiệp mình từ đó
phát triển doanh nghiệp mình một cách hiệu quả.

THAM LUẬN
Những thuận lợi, khó khăn trong quá trình khởi nghiệp đối với hợp tác xã
HTX Trung Lương

Thưa quý vị đại biểu!

Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp
nhân, do một số lượng thành viên tối thiểu tự nguyện thành lập và hợp tác
tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm
đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm,
bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp tác xã.Hợp tác xã cũng có thể được
định nghĩa là một doanh nghiệp thuộc sở hữu và thuộc quyền kiểm soát của
những người sử dụng dịch vụ do hợp tác xã cung cấp hoặc của những người
làm việc ở đó.

Tại cuộc họp góp ý dự thảo Báo cáo sơ kết thi hành Luật Hợp tác xã
năm 2012 do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì tại TP.HCM ngày 14/8/2017,
ông Phùng Quốc Chí, Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác xã thuộc Bộ KH&ĐT cho
biết, trong 3 năm (từ năm 2013 đến cuối 2016), cả nước có 5.641 HTX được
thành lập mới, riêng năm 2016 là 2.030 HTX. Theo số liệu thống kê, tính đến
thời điểm hiện tại, cả nước có trên 19.500 HTX.

Sau gần 5 năm thi hành Luật HTX kiểu mới năm 2012, hoạt động của
HTX trên cả nước đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Đến nay toàn
quốc có 19.569 HTX (tăng 3,07% so với năm 2013), thu hút 6,2 triệu thành
viên tham gia. Chất lượng hoạt động của các HTX bắt đầu chuyển biến mạnh

82
từ năm 2015 và đặc biệt là năm 2016 nên đã nâng số HTX hoạt động có hiệu
quả từ khoảng 10% năm 2014 lên trên 30% năm 2016. Doanh thu bình quân
đạt 1,1 tỷ đồng/HTX; lợi nhuận bình quân khoảng 200 triệu/HTX; thu nhập
bình quân của thành viên và người lao động khoảng 1,5 triệu đồng/tháng.

Trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, theo báo cáo của Liên minh HTX Hà Tĩnh,
phong trào kinh tế tập thể thời gian qua đã có bước phát triển, tăng nhanh về
số lượng. Một số HTX đã sản xuất kinh doanh theo hướng liên kết, tạo thành
chuỗi giá trị sản phẩm hàng hóa chủ lực, quy mô tăng dần, bước đầu mang lại
hiệu quả kinh tế cao.Trong 6 tháng đầu năm 2017, toàn tỉnh thành lập mới 38
tổ hợp tác (THT), 27 hợp tác xã (HTX); nâng tổng số THT, HTX toàn tỉnh lên
3.165 THT và 1.310 HTX. Trong tổng số 1.310 HTX, có 339 HTX hoạt động
có hiệu quả, 429 HTX hoạt động trung bình, 238 HTX hoạt động kém hiệu
quả và 69 HTX đã ngừng hoạt động.

Tổng số thành viên HTX hiện có 83.377 người với vốn điều lệ hơn
1.758 tỷ đồng. Thu nhập bình quân của các thành viên HTX là 1,5 triệu
đồng/tháng, có 827 thành viên tham gia bảo hiểm xã hội.Đến thời điểm này,
toàn tỉnh đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 116 HTX, quỹ tín
dụng với diện tích 221,8 ha.

Nói đến mô hình Hợp tác xã, trên địa bàn tỉnh chúng ta không ai không
biết đến Hợp tác xã Hoàng Châu, xã Kỳ Bắc, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh do
bà Trần Thị Châu làm giám đốc. Là người phụ nữ nhanh nhẹn, nhạy bén, vào
năm 2011 chị cùng với một số sáng lập viên thành lập nên HTX chăn nuôi
Hoàng Châu với mô hình chăn nuôi lợn nái liên kết, đây là mô hình chăn nuôi
nái liên kết đầu tiên của tỉnh. Tận dụng lợi thế về đất đai, con người chịu
thương chịu khó, chị đã lãnh đạo HTX vượt lên khó khăn, biến vùng hoang
hóa thành trang trại...Dưới dự lãnh đạo tài tình của người “chỉ huy” đã đưa
HTX đạt được nhiều thành tích và được ghi nhận bằng nhiều bằng khen, Bằng
khen và biểu tượng cao quý của Trung ương và địa phương, trở thành HTX

83
điển hình tiên tiến của cả nước. HTX còn tiên phong trong việc thành lập tổ
chức công đoàn để bảo vệ quyền và lợi ích cho người lao động.

Bên cạnh đó, có một số HTX hoạt động có hiệu quả như: Hợp tác xã
Trung Lương Thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh; Hợp tác xã Nông nghiệp Sơn
Mỹ Đội 7, xã Sơn Mỹ, Huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh; Hợp tác xã điện
Hương Trạch Xóm 1 xã Hương Trạch, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh….

Thưa toàn hội nghị! Hợp tác xã trên địa bàn tỉnh tại thời điểm này có
thể đánh giá:

Về cơ bản, các HTX đã chuyển đổi hoạt động theo Luật HTX năm
2012, nhiều HTX hoạt động gắn với sản phẩm chủ lực của vùng, thực hiện
liên kết chuỗi, trong đó có các siêu thị lớn để mở rộng kênh tiêu thụ sản
phẩm. Không ít HTX đã áp dụng nông nghiệp công nghệ cao vào sản xuất,
bảo quản sau thu hoạch để nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ. Số lượng
cán bộ HTX có trình độ kỹ thuật cao ngày càng tăng.

Vai trò của kinh tế tập thể trong thời gian qua đã góp phần vào sự
nghiệp chung của tỉnh, nhất là trong phong trào xây dựng nông thôn mới.
Trong giai đoạn hiện nay, kinh tế tập thể cùng với kinh tế nhà nước là nền
tảng nên phát triển kinh tế tập thể vẫn là nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Vì
vậy, cần tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế tập thể gắn với xây
dựng nông thôn mới. Với những HTX hoạt động không hiệu quả, phải vừa
vận động vừa tuyên truyền để giải thể.

Sau khi chuyển đổi, tổ chức lại hoạt động, một số HTX đã phát triển
khá tốt, đa dạng phong phú về ngành nghề, quy mô và trình độ, đặc biệt là
trong cung cấp dịch vụ nông nghiệp, du lịch, thương mại, giao thông vận tải,
góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở địa
phương, xóa đói giảm nghèo trong nông thôn. Về kinh tế, các HTX bước đầu
hỗ trợ phát triển kinh tế thành viên thông qua việc đáp ứng nhu cầu về sản

84
phẩm, dịch vụ với chất lượng ngày càng tăng giúp giảm chi phí, nâng cao
hiệu quả sản xuất và mở rộng quy mô hoạt động của kinh tế thành viên.

Một số khó khăn, vướng mắc nhất định trong quá trình khởi nghiệp của
các Hợp tác xã trên địa bàn tỉnh:

- Luật HTX năm 2012 đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế nhất định, như:
quy định về tỉ lệ góp vốn tối đa của thành viên HTX bằng 20% vốn điều lệ là
không phù hợp, nhất là ở các HTX sản xuất hàng hóa quy mô lớn, xuất khẩu,
cần nguồn vốn nhiều. Quy định tỉ lệ cung ứng sản phẩm, dịch vụ cho khách
hàng không phải là thành viên HTX không quá 32% là bất cập.

- Luật HTX 2012 chỉ quy định vốn góp tối thiểu của thành viên, mà
chưa quy định vốn góp tổi thiểu của cán bộ để gắn trách nhiệm quản lý, điều
hành với kết quả hoạt động HTX nên áp dụng thiếu hiệu quả. Trong khi đó,
các cấp chính quyền lại chưa nghiên cứu kỹ Luật, dẫn tới thực hiện cứng
nhắc, hình thức và tính khả thi không cao…ư

- Số HTX hoạt động đúng bản chất theo Luật HTX 2012 chỉ chiếm tỷ lệ
nhỏ, phần lớn hoạt động theo hình thức gia đình; sự phát triển HTX còn chạy
theo số lượng, chưa xuất phát từ nhu cầu thực tế sản xuất và nhu cầu thành lập
của các thành viên, chưa thực sự chú trọng chất lượng. Mô hình HTX kiểu
mới còn ít, vốn hoạt động không đáng kể, tính tự chủ chưa cao, bộ máy quản
lý yếu kém...Nhiều HTX hiện nay còn rất yếu kém, hoạt động của Liên minh
HTX có nhiều khó khăn trong khi sự quan tâm của Ban chỉ đạo các cấp vẫn
chưa sát sao.

- Nhiều mô hình HTX hoạt động rất hiệu quả nhưng chưa được nhân
rộng. Hiện nay các chính sách cho các HTX phi nông nghiệp chưa thật sự
khuyến khích mô hình kinh tế này phát triển có hiệu quả. Muốn phát triển có
hiệu quả thì cần có sự quan tâm hơn nữa. Ở đâu HTX được quan tâm, tạo điều
kiện thì ở đó hoạt động hiệu quả.

85
- Công tác tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về xây dựng mô hình HTX
kiểu mới còn nhiều hạn chế, nhiều cá nhân, tổ chưa chưa biết về mô hình
HTX kiểu mới; Công tác rà soát, đánh giá, phân loại chất lượng các loại hình
HTX vẫn chưa được quan tâm đúng mực.

- Nhiều HTX còn lúng túng trong định hướng hoạt động và đầu tư phát
triển sản xuất kinh doanh, chưa có sản phẩm dịch vụ tốt để đáp ứng nhu cầu
sản xuất hàng hóa, thiếu sự liên kết chặt chẽ giữa hợp tác xã với thành viên;
vốn ít, doanh thu thấp nên hiệu quả hoạt động chưa cao.

- Việc liên kết để hoạt động theo chuỗi là rất cần thiết nhưng số HTX
thực hiện liên kết via doanh nghiệp để tiêu thụ sản phẩm còn ít. Hoạt động
của các HTX còn thiếu sự gắn bó với nhau, chưa có sự liên kết hệ thống cả về
hoạt động kinh doanh và tổ chức, liên kết nội bộ còn thiếu tính chặt chẽ, hiệu
quả hoạt động chưa cao. Nhiều HTX chưa nhận thức đầy đủ về mức độ ảnh
hưởng của toàn cầu hóa, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, kinh thế khu vực
tới nền kinh tế trong nước, trong tỉnh.

Nguyên nhân dẫn đến thực trạng hiện nay là:

- Bản thân các sáng lập viên HTX chủ yếu xuất thân từ người nông dân,
chưa qua đào tạo nên trình độ, năng lực còn hạn chế, nhiều HTX chưa tự nỗ
lực phấn đấu vươn lên, còn trông chờ, ỷ lại vào các chính sách hỗ trợ của Nhà
nước,…

- Công tác quản lý nhà nước về HTX đã có nhiều chuyển biến tích cực
nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu, thiếu sự phối hợp và quyết liệt trong chỉ
đạo, bộ máy quản lý nhà nước về KTTT ở cấp huyện đang “khoán trắng” cho
Phòng Tài chính Kế hoạch, cán bộ tham mưu quản lý về KTTT ở cấp xã chưa
được bố trí cụ thể; thủ tục hành chính trên một số lĩnh vực còn rườm rà, việc
tiếp cận vốn tín dụng, chính sách đất đai còn khó khăn.

- Việc ban hành những văn bản hướng dẫn thi hành Luật HTX kéo dài
và phải điều chỉnh dẫn đến việc thực hiện luật gặp nhiều khó khăn. Cách

86
chính sách hỗ trợ HTX ban hành tuy nhiều nhưng lại tản mạn và thiếu nguồn
lực đầu tư cho việc liên kết, tiêu thụ sản phẩm… Bên cạnh đó, ngay trong nội
tại các HTX cũng bộc lộ những hạn chế như thiếu vốn, thiếu nhân lực chất
lượng cao, chưa chủ động liên kết tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ theo chuỗi…

Một số kiến nghị đối với các vấn đề liên quan đến khởi nghiệp Hợp tác
xã:

Trên địa bàn toàn tỉnh có 121 HTX hoạt động theo Luật HTX năm
2012. Tuy nhiên trên thực tế chỉ có 85 HTX hoạt động, 36 HTX đang ngưng
hoạt động. Đánh giá về tình hình hoạt động của các HTX, Liên minh HTX
tỉnh cho rằng hoạt động vẫn còn khá trầm lắng, hiệu quả mang lại chưa cao
nên các xã viên chưa mặn mà để tham gia. Để khắc phục những hạn chế này
cần sớm tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc các HTX đang gặp phải. Cụ thể:

Tiếp tục phổ biến tuyên truyền Luật và các chủ trương lớn về HTX.
Đặc biệt, đề nghị Chính phủ xây dựng chương trình và dành nguồn lực riêng
cho phát triển HTX, bởi vị trí HTX hiện tại đang xuống rất thấp trong nền
kinh tế quốc dân. Bên cạnh đó, xây dựng Luật HTX phải đi từ thực tế HTX,
chứ không thể áp đặt từ trên xuống, không phù hợp quá trình củng cố phát
triển HTX. Quá trình thực thi Luật chủ yếu có Liên minh, còn hệ thống chính
trị và các cấp ngành chưa vào cuộc. Việc kiểm tra giám sát Luật chưa đạt, hậu
kiểm HTX sau chuyển đổi chưa được quan tâm. Thực trạng hiện nay, phần
lớn các cấp quản lý chưa hiểu HTX cũ hay HTX kiểu mới là như thế nào!

Bên cạnh đó, ban hành Nghị quyết về cơ chế, chính sách cho HTX
nhằm phát huy hiệu quả của thành phần kinh tế này, góp phần vào sự phát
triển KT – XH của địa phương. Tăng cường công tác tập huấn, bồi dưỡng
kiến thức về xây dựng mô hình HTX kiểu mới; tiếp tục rà soát, đánh giá, phân
loại chất lượng các loại hình HTX.

Những năm gần đây, mô hình HTX kiểu mới với nhiều tính ưu việt đã
trở thành lựa chọn của nhiều bạn trẻ trên con đường lập nghiệp. Nhiều HTX

87
do thanh niên làm chủ đã bước đầu đem lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần
xóa đói giảm nghèo, chứng minh đây là hướng đi đúng đắn.

Theo đánh giá của các chuyên gia trong lĩnh vực kinh tế tập thể, ở mô
hình HTX, chính các thành viên sẽ là những người sản xuất cho mình, tự
mình sản xuất, tự mình kinh doanh, tự làm hiệu quả cho chính mình. Đặc biệt,
khi các mô hình này được vận hành dưới “bàn tay” của những người trẻ thì
hiệu quả sẽ tăng lên gấp bội do ở họ có sự sáng tạo, có trí tuệ, nhanh nhạy
nắm bắt thị trường và chủ động áp dụng tiến bộ của khoa học kĩ thuật.

Một số kinh nghiệm trong quá trình khởi nghiệp Hợp tác xã tôi sẽ chia
sẻ với toàn thể hội nghị:

Trong quá trình khởi nghiệp cần xác định rõ nhiệm vụ và phân công
cho từng người, mỗi người mỗi mảng, ví dụ để phát triển Hợp tác xã về chăn
nuôi cần phân công: người phụ trách con giống, người kiểm soát mảng thú y,
người lo vận chuyển… Từ đây, một vòng tròn tương đối khép kín được hình
thành, bảo đảm hỗ trợ nhau kịp thời, hạn chế chi phí trong sản xuất, nâng cao
lợi nhuận cho toàn HTX và mỗi xã viên. Để khởi nghiệp hợp tác xã thì
phương châm cơ bản là giúp đỡ nhau cùng phát triển.

Bên cạnh đó,để đáp ứng được các hợp đồng lớn thì trước hết phải mở
rộng sản xuất, mở rộng quy mô. Trường hợp nguồn vốn của HTX có hạn thì
mở rộng dần dần với phương châm lấy ngắn nuôi dài.

Phải thay đổi tiềm thức về mô hình HTX kiểu mới có nhiều ưu điểm
HTX kiểu cũ. Từ đó, vận động các tổ chức, thành viên tham gia vào Hợp tác
xã của mình nhằm mở rộng thành viên.

- Khuyến khích, hỗ trợ để thúc đẩy sự hợp tác giữa các doanh nghiệp,
HTX, THT và người dân để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm; liên kết hình thành
các Liên hiệp HTX mạnh để thu hút vốn đầu tư, khai thác công nghệ tiên tiến
hiện đại, kỹ năng quản lý…tạo ra các sản phẩm mũi nhọn, sản phẩm truyền

88
thống; chủ động, tích cực nghiên cứu mở rộng thị trường, xây dựng thương
hiệu sản phẩm uy tín trên thị trường.

- Bản thân các HTX phải chủ động tái cơ cấu, nỗ lực vươn lên trong
thời kỳ hội nhập, nắm vững các chính sách pháp luật, có chiến lược kinh
doanh dài hạn, chủ động liên kết để nâng quy mô, nâng tầm hoạt động.

- Đối với cơ quan nhà nước tập trung huy động tối đa mọi nguồn lực
cho đầu tư phát triển nhằm đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đây vừa là
tiền đề, vừa là động lực, vừa là nhiệm vụ giải pháp trọng tâm thúc đẩy phát
triển kinh tế tập thể trên cả 3 lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ
trên địa bàn tỉnh.

Tình huống:

Hợp tác xã nông nghiệp Linh Chi của thị xã Kỳ Anh được thành lập từ
năm 2009 với các ngành nghề chính là: nuôi cá, tôm nước ngọt. Sau gần 3
năm hoạt động theo mô hình HTX kiểu cũ, hiệu quả mang lại không như
mong đợi, quyền lợi của các xã viên chưa cao nên xã viên cũng không mấy
mặn mà với việc tham gia vào HTX. Năm năm qua chuyển đổi mô hình hoạt
động theo Luật HTX mới 2012, kết quả mang lại cũng không khả quan hơn
bởi hiện nay rất nhiều khó khăn, vướng mắc trong hoạt động của Hợp tác xã
vẫn chưa được tháo gỡ. Trong đó, khó khăn hiện nay HTX Linh Chi cũng như
các HTX khác đang gặp phải đó là: thiếu tính liên doanh, liên kết….để tạo
đầu ra cho sản phẩm, HTX chưa được bố trí quỹ đất, khó khăn trong việc tiếp
cận nguồn vốn vay ngân hàng….Trong đó vấn đề vốn vay là khó khăn nhất
hiện nay của các HTX. Bởi, điều kiện để vay tín chấp thì không được, còn
vay thế chấp thì HTX không có tài sản vì tài sản là của xã viên. Không có vốn
thì hoạt động của HTX gặp nhiều khó khăn, không có điều kiện để đầu phát
triển kinh tế.

Không chỉ đối với các Hợp tác xã nông nghiệp mà ngay cả các Hợp tác
xã phi nông nghiệp cũng đang gặp nhiều khó khăn cần sớm được tháo gỡ.

89
Những giải pháp, phương hướng tích cực để HTX Linh Chi cũng như
các mô hình HTX khác trên địa bàn tỉnh hoạt động hiệu quả, mang lại những
lợi ích nhất định cho thành viên là:

- Cần liên doanh, liên kết giữa Hợp tác xã và các doanh nghiệp, các đơn
vị nhằm tạo đầu ra cho sản phẩm. Tránh trường hợp sản phẩm tạo ra chất
lượng, tuy nhiên không có đầu ra dẫn tới tình trạng bị ép giá sản phẩm.

- Bố trí quỹ đất phù hợp cho Hợp tác xã, tạo điều kiện để Hợp tác xã
mở rộng mô hình HTX, gia nhập thêm nhiều thành viên nữa.

- Về chính sách tài chính, cần tạo điều kiện thuận lợi để các HTX có
thể vay vốn, phục vụ cho phát triển HTX mình.

- Nâng cao sự hiểu biết về các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đối với mô
hình HTX để từ áp dụng vào HTX mình giải quyết được một số khó khăn
nhất định.

- Nâng cao tinh thần sáng tạo, học hỏi kinh nghiệm những mô hình
HTX hoạt động có hiệu quả. Đồng thời, chia sẻ kinh nghiệm của mình đối với
việc thành lập, xây dựng và hoạt động của HTX cho những đơn vị HTX có
nhu cầu tham khảo, học hỏi kinh nghiệm.

Thưa toàn thể hội nghị!

Khởi nghiệp là vấn đề lớn và còn nhiều khó khăn, “Vạn sự khởi đầu
nan”, những mô hình kinh tế HTX trẻ đang rất cần sự quan tâm của các cấp,
ngành liên quan cũng như sự hà hơi, tiếp sức của các tổ chức tín dụng để có
thể duy trì và phát triển. Đặc biệt, trong bối cảnh đội ngũ lãnh đạo quản lý
HTX đang già hóa ở mức báo động như hiện nay thì việc việc thu hút cán bộ
trẻ, có đam mê, nhiệt huyết và có trình độ là cần thiết. Với những lợi ích kinh
tế, cách tổ chức phù hợp, tin tưởng rằng, thời gian tới, mô hình HTX kiểu mới
sẽ là lựa chọn khởi nghiệp của đông đảo thanh niên trên địa bàn tỉnh, góp
phần đưa kinh tế tập thể phát triển nhanh, bền vững.

90
Bài tham luận với nội dung “Những thuận lợi, khó khăn trong quá trình
khởi nghiệp đối với hợp tác xã” của Hợp tác xã Thu Hằng đến đây là kết thúc.
Xin chân thành cảm ơn!

THAM LUẬN
Một số kinh nghiệm trong quá trình khởi nghiệp hợp tác xã

HTX Đồng Tâm

91
Kính thưa quý vị đại biểu!

Hôm nay tôi rất vinh dự được tham dự Hội nghị “đối thoại trao đổi về
chính sách pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp tại Hà Tĩnh” do Sở Tư
pháp tỉnh Hà Tĩnh tổ chức. Lời đầu tiên cho phép tôi xin được gửi tới quý vị
lời chúc sức khỏe, hạnh phúc; chúc Hội nghị thành công tốt đẹp.

Đến với Hội nghị hôm nay, tôi xin phép được trình bày tham luận về
“một số kinh nghiệm trong quá trình khởi nghiệp hợp tác xã”.

1. Khởi nghiệp hợp tác xã

Kính thưa quý vị đại biểu

“Khởi nghiệp”là hoạt động được nhắc đến nhiều trong những năm gần
đây, nó như một sự thôi thúc hành động từ nhu cầu thực tiễn. Có nhiều cách
hiểu khác nhau về khởi nghiệp, nhưng ở cách hiểu phổ biến nhất thì “Khởi
nghiệp” là bắt đầu xây dựng sự nghiệp.

Khởi nghiệp Hợp tác xã là quá trình do ít nhất 07 thành viên tự nguyện
thành lập và đồng sở hữu hợp tác xã (HTX) để hợp tác, tương trợ lẫn nhau
trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu
chung của thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và
dân chủ trong quản lý hợp tác xã.Tính tự nguyện, đồng sở hữu là điểm mới cơ
bản, hoàn toàn khác với HTX có tính chất bắt buộc, theo mô hình bao cấp
trước đây. Luật Hợp tác xã năm 2012 đã mở đường cho HTX kiểu mới ra đời
tại các địa phương trên cả nước. Mô hình này thúc đẩy hoạt động kinh doanh
hiệu quả hơn, bởi các xã viên có toàn quyền trong hoạt động sản xuất và tài
sản của mình. Ngoài ra, còn được hưởng nhiều lợi ích, hỗ trợ đầu vào và đầu
ra sản phẩm.

Để hỗ trợ khởi nghiệp hợp tác xã, cũng như các HTX đã hoạt động,
Nhà nước có các chính sách hỗ trợ và ưu đãi như: Đào tạo, bồi dưỡng nguồn
nhân lực;Xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường;Ứng dụng khoa học, kỹ
thuật và công nghệ mới; Tiếp cận vốn và quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã; Tạo
92
điều kiện tham gia các chương trình mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế
- xã hội; Thành lập mới hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; Ưu đãi thuế thu nhập
doanh nghiệp và các loại thuế khác theo quy định của pháp luật về thuế; Ưu
đãi lệ phí đăng ký HTX theo quy định của pháp luật về phí và lệ phí.Ngoài ra,
đối với HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp,
diêm nghiệp còn được hưởng các chính sách hỗ trợ, ưu đãi như: Đầu tư phát
triển kết cấu hạ tầng;Giao đất, cho thuê đất để phục vụ hoạt động của hợp tác
xã, liên hiệp HTX theo quy định của pháp luật về đất đai; Ưu đãi về tín dụng;
Vốn, giống khi gặp khó khăn do thiên tai, dịch bệnh; Chế biến sản phẩm.

Luật Hợp tác xã 2012 ra đời với tính ưu việt cao đã khiến nhiều bạn trẻ
thay đổi cách nhìn nhận, lựa chọn cho mình con đường khởi nghiệp thông qua
mô hình HTX kiểu mới. Năm 2016, Chính phủ chọn là năm Quốc gia khởi
nghiệp, ban hành nhiều chính sách hỗ trợ, khuyến khích khởi nghiệp. Tại tỉnh
Hà Tĩnh, Ban Thường vụ Tỉnh đoàn đã quyết định thành lập Hội đồng tư vấn
Chương trình thanh niên khởi nghiệp tỉnh Hà Tĩnh với sự tham gia của lãnh
đạo các sở, ban, ngành, các doanh nhân thành đạt nhằm hỗ trợ, cung cấp kiến
thức, kỹ năng về khởi nghiệp, khởi sự doanh nghiệp và lập nghiệp cho thanh
niên. Đây chính là một thuận lợi lớn, là động lực quan trọng thúc đẩy tinh
thần khởi nghiệp, thổi bùng khát vọng làm giàu chính đáng, chủ động tham
gia phát triển kinh tế của thanh niên Việt Nam.

2. Thực trạng khởi nghiệp hợp tác xã

Hiện nay, toàn tỉnh Hà Tĩnh có 1.294 HTX, trong đó giai đoạn từ 2013
đến nay có 902 HTX được thành lập mới.Trong lĩnh vực nông nghiệp, các
HTX đã đẩy mạnh công tác chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, áp dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ mới để tăng năng suất và nâng cao chất
lượng sản phẩm, tổ chức cung ứng nhiều khâu dịch vụ cho sản xuất nông
nghiệp của các hộ thành viên, đảm bảo chất lượng và giá cả phù hợp, được
thành viên tín nhiệm. Trong lĩnh vực công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp,
phần lớn HTX đã mạnh dạn đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị công
93
nghệ nhằm nâng cao chất lượng, đa dạng hoá sản phẩm, liên kết tìm thêm thị
trường để tiêu thụ.

Tuy nhiên, hầu hết HTX có quy mô vừa, nhỏ và siêu nhỏ với mức vốn
điều lệ bình quân là 754 triệu đồng/HTX. Qua rà soát có 339 HTX hoạt động
hiệu quả - chiếm tỷ lệ 27,7%, 429 HTX hoạt động bình thường - chiếm tỷ lệ
35%, 238 HTX hoạt động không hiệu quả - chiếm tỷ lệ 19,4%, còn lại 218
HTX mới thành lập chưa đánh giá. Quy mô nhỏ lẻ, manh mún, trình độ quản
trị còn hạn chế, thậm chí nhiều HTX không có kế toán, kỹ sư. Hạ tầng phục
vụ sản xuất xuống cấp, lạc hậu. Ít doanh nghiệp liên kết bảo đảm từ đầu vào,
đầu ra

Nhiều HTX còn lúng túng trong định hướng hoạt động và đầu tư phát
triển sản xuất kinh doanh, chưa có sản phẩm dịch vụ tốt để đáp ứng nhu cầu
sản xuất hàng hoá; thiếu sự liên kết chặt chẽ giữa HTX với thành viên; vốn ít,
doanh thu thấp nên hiệu quả hoạt động chưa cao; hạn chế trong việc ứng dung
công nghệ thông tin, chưa phát huy được các hoạt động kinh doanh thương
mại điện tử để mở rộng thị trường, nâng cao hiệu quả kinh doanh.

Từ năm 2003 đến nay đã có 228 HTX giải thể. Có một nguyên nhân
quan trọng là đội ngũ quản lý HTX hầu hết đều lớn tuổi, khả năng thích ứng,
thay đổi theo cơ chế thị trường rất chậm, khiến nhiều HTX đánh mất cơ hội
hợp tác, phát triển, dẫn đến tình trạng thất thoát, thua lỗ là điều tất yếu.

Các HTX thường xuyên thiếu vốn để đầu tư công nghệ kỹ thuật nông
nghiệp hiện đại. Nhiều sản phẩm có vấn đề về chất lượng, trình độ quản lý và
điều hành HTX còn hạn chế, thiếu sáng tạo đổi mới kinh nghiệm, các nguyên
tắc HTX còn chưa được chú ý, nhiều quy định pháp lý chưa được áp dụng…

Việc liên kết để hoạt động theo chuỗi là rất cần thiết nhưng số HTX
thực hiện được liên kết với doanh nghiệp để tiêu thụ sản phẩm còn ít. Hoạt
động của các HTX còn thiếu sự gắn bó với nhau, chưa có sự liên kết hệ thống
cả về hoạt động kinh doanh và tổ chức, liên kết nội bộ còn thiếu tính chặt chẽ,

94
hiệu quả hoạt động chưa cao. Nhiều HTX chưa nhận thức đầy đủ về mức độ
ảnh hưởng của toàn cầu hoá, quá trình hội nhập kinh tế tới nền kinh tế trong
nước, trong tỉnh.

3. Một số kinh nghiệm trong quá trình khởi nghiệp hợp tác xã

Thứ nhất, cần phải hiểu rõ cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động
của mô hình HTX; lựa chọn, xây dựng HTX phù hợp với điều kiện phát triển

Một trong những thay đổi lớn nhất theo Luật HTX năm 2012 chính là
thay đổi cơ cấu bộ máy quản lý của HTX. Các tên gọi “Ban Chủ nhiệm” hay
“Chủ nhiệm HTX” dù đã có những dấu ấn khó phai mờ nhưng cũng buộc phải
thay đổi bằng các tên gọi khác như Hội đồng quản trị, Chủ tịch hay Giám đốc
HTX. Sự thay đổi này cho thấy, HTX giờ đây đã hoạt động như một doanh
nghiệp. Trong các HTX kiểu cũ, quan hệ giữa xã viên với HTX là quan hệ
phụ thuộc. Xã viên bị tách khỏi tư liệu sản xuất, trở thành người lao động làm
công theo sự điều hành tập trung của HTX, tính chất hợp tác đích thực trong
HTX không còn. Xã viên luôn trông chờ vào sự hỗ trợ của nhà nước mà xem
nhẹ trách nhiệm của mình. Trong HTX kiểu mới, quan hệ giữa HTX và thành
viên là quan hệ bình đẳng, thỏa thuận, tự nguyện, cùng có lợi và cùng chịu rủi
ro trong sản xuất, kinh doanh. Đặc trưng chung của HTX kiểu mới là hoạt
động sản xuất, kinh doanh không bao trùm toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh
doanh của thành viên như HTX kiểu cũ, mà chỉ diễn ra ở từng khâu công
việc, từng công đoạn, nhằm hỗ trợ phát huy thế mạnh của từng thành viên và
do đó cũng tạo điều kiện phát huy quyền làm chủ của thành viên. Thành viên
tham gia quyết định những công việc quan trọng của HTX như sửa đổi điều
lệ, tổ chức lại, quyết định cơ cấu tổ chức quản lý, xác định phương án sản
xuất, kinh doanh, phương án phân phối thu nhập trong HTX... Sự liên kết bền
chặt của các thành viên quyết định trực tiếp tới sự phát triển của từng HTX.

Nhận thức bản chất và mô hình HTX vẫn chưa thật sự thống nhất trong
xã hội. Tại nhiều HTX, tính tự nguyện của các xã viên khi tham gia vào HTX
chưa cao, vẫn còn ấn tượng về mô hình HTX kiểu cũ trong thời bao cấp, nên
95
không quan tâm đến những hoạt động của HTX. Điều này ảnh hưởng lớn đến
hoạt động và hiệu quả sản xuất. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến kết quả
cuối cùng là HTX chưa phát triển hiệu quả, nhân dân chưa thật sự hưởng ứng,
mặc dù đã có những nỗ lực của Đảng và Nhà nước trong việc ban hành khung
khổ pháp lý và các chính sách hỗ trợ hợp tác xã.Tuy nhiê, cũng có những
HTX, với phương châm giúp đỡ nhau cùng phát triển, các xã viên đã phân
công nhiệm vụ cho từng người, mỗi người mỗi mảng để trở thành một vòng
tương đối khép kín để bảo đảm hỗ trợ nhau kịp thời, hạn chế chi phí trong sản
xuất, nâng cao lợi nhuận cho toàn HTX và mỗi xã viên.

Chính vì vậy, trong quá trình khởi nghiệp HTX cần xác đinh rõ ràng tư
cách, quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của thành viên. Bản thân các thành
viên phải tự nỗ lực vươn lên, không trông chờ ỷ lại, dựa dẫm vào sự hỗ trợ
của nhà nước; phải đổi mới tổ chức hoạt động HTX, cả quan hệ sở hữu, quan
hệ quản lý, quan hệ phân phối thích ứng với cơ chế thị trường, đáp ứng tốt
nhu cầu sản xuất và đời sống của xã viên, thực hiện đúng các nguyên tắc, giá
trị và bản chất HTX, thực sự đem lại lợi ích cả kinh tế và XH cho xã viên, tạo
động lực thúc đẩy HTX phát triển bền vững.

Thứ hai, cần phải tìm hiểu về thị trường, xây dựng phương án sản xuất
phù hợp với lợi thế địa phương và năng lực cán bộ HTX, tìm đầu ra cho sản
phẩm.

Thực tiễn hoạt động cho thấy, nhiều HTX còn lúng túng trong việc lựa
chọn phương án sản xuất kinh doanh, chưa gắn kết giữa sản xuất với nhu cầu
thị trường, chưa khai thác tốt tiềm năng, lợi thế về đất đai, lao động và ngành
nghề truyền thống tại địa phương, dẫn đến hoạt động kém hiệu quả hoặc phải
giải thể. Bên cạnh đó, có một thực tế hiện nay là phần lớn các HTX ở nước ta
mới chỉ cung cấp các sản phẩm, dịch vụ đầu vào cho thành viên mà chưa thực
sự quan tâm đến việc tiêu thụ sản phẩm đầu ra, trong khi việc đảm bảo đầu ra
cho người nông dân lại đóng một vai trò đặc biệt quan trọng.

96
Chính vì vậy, trong quá trình khởi nghiệp hợp tác xã, trước hết cần phải
xác định được lợi thế và hạn chế về con người, đất đai, quan hệ sở hữu, quản
lý, phân phối, vốn, thị trường, kết cấu hạ tầng, công cụ, sản phẩm, khách hàng
mục tiêu, tiềm năng thị trường.Đồng thời, đánh giá được cơ hội và thách thức
để xây dựng được phương án kinh doanh hiệu quả, chủ đồng, phù hợp với
thực tiễn.

Thứ ba, cần chuẩn bị nguồn vốn phù hợp với phương án khởi nghiệp

Vai trò của nguồn vốn: Bất kể một hoạt động nào muốn thực hiện được
đều phải có những tiền đề cơ bản. Để hoạt động sản xuất kinh doanh có thể
được thực hiện thì trước hết phải cần có vốn. Đây là điều kiện quan trọng cho
sự ra đời, tồn tại và phát triển của HTX. Có vốn HTX mới có điều kiện để
trang bị các thiết bị, cơ sở vật chất cần thiết, đổi mới thiết bị, công nghệ,
phương pháp quản lý,…của HTX trong suốt quá trình hoạt động.Vốn đảm
bảo cho quá trình sản xuất được diễn ra liên tục từ khoản mua sắm vật tư, sản
xuất cho đến tiêu thụ sản phẩm. Hơn nữa trong nền kinh tế thị trường tự do
cạnh tranh, các HTX muốn tồn tại và phát triển phải có các bí quyết công
nghệ tiên tiến để nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, hạ giá
thành, tiêu thụ sản phẩm. Việc đảm bảo tốt nguồn vốn kinh doanh còn giúp
HTX trong việc chống đỡ được những tổn thất, rủi ro, biến động thị trường,
khủng hoảng tài chính…trong quá trình hoạt động.

Theo Báo cáo sơ kết thi hành Luật HTX năm 2012 của nhiều địa
phương, một trong những hạn chế, khó khăn của HTX là thiếu vốn, tài sản ít,
nền tài chính không ổn định. Nhiều HTX có định hướng phát triển, đã xây
dựng được phương án chuyển đổi nhưng khi triển khai lại gặp vướng mắc do
thiếu kinh phí, dẫn đến việc HTX hoạt động hạn chế, chưa đủ điều kiện mở
rộng sản xuất kinh doanh. Hiện nay, để xây dựng kinh phí hoạt động thì các
HTX có thể huy động nguồn vốn góp từ các thành viên hay vay vốn của các
Ngân hàng hoặc Quỹ tín dụng nhân dân.

97
Kinh nghiệm: Chuẩn bị nguồn vốn đảm bảo phục vụ mô hình sản xuất.
Chủ động tìm hiểu các thông tin để được hỗ trợ, tiếp cận với các nguồn vốn
vay ưu đãi.

Thứ tư, cần chủ động tìm hiểu và tiếp cận các chính sách hỗ trợ

Triển khai thực hiện Chương trình hỗ trợ phát triển HTX theo quy định
của Luật HTX 2012, Nghị định số 193/NĐ-CP ngày 21/11/2013 của Chính
phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hợp tác xã, Quyết định số
2261/QĐ-TTg ngày 15/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương
trình hỗ trợ phát triển HTX giai đoạn 2015-2020, hầu hết các địa phương đều
triển khai các chính sách hỗ trợ như: hỗ trợ thành lập mới, hỗ trợ hỗ trợ đào
tạo, hỗ trợ ứng dụng khoa học công nghệ, đầu ra cho sản phẩm …

Ví dụ như: tại TP HCM, các nông dân, tổ hợp tác, hợp tác xã, doanh
nghiệp và nhóm khởi nghiệp có dự án nông nghiệp ứng dụng khoa học công
nghệ và đổi mới sáng tạo trên địa bàn sẽ được hỗ trợ tối đa 70% kinh phí để
triển khai, bao gồm các khâu tư vấn, thiết kế, chế tạo, chuyển giao kỹ thuật,
đào tạo… nhưng không quá 300 triệu đồng cho mỗi dự án… Tại Hà Tĩnh, địa
phương đã hỗ trợ 5.003 triệu đồng từ nguồn Ngân sách địa phương cho 256
HTX theo chính sách hỗ trợ thành lập mới; Hỗ trợ 13.202 triệu đồng cho các
HTX ứng dụng khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ, Hỗ trợ xúc tiến thương
mại, mở rộng thị trường…

Các chính sách hỗ trợ có vai trò vô cùng quan trọng trong giai đoạn
khởi nghiệp, do đó, các thành viên khởi nghiệp HTX cần tìm hiểu và tiếp cận
để được sử dụng có hiệu quả, khắc phục khó khăn trong giai đoạn đầu.

Thứ năm, cần có chính sách ứng dụng khoa học công nghệ vào quy
trình sản xuất

Tại Hà Tĩnh, nhiều HTX đã mạnh dạn đầu tư mở rộng sản xuất, đổi
mới thiết bị, ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến để tăng năng suất, hiệu
quả sản xuất kinh doanh.

98
Một trong những minh chứng sinh động trong thực tiễn, đó là HTX
Trồng nấm, mua bán và Dịch vụ tuổi trẻ xã Thạch Hạ (TP Hà Tĩnh). Được
thành lập từ năm 2012, sau khi chuyển đổi sang mô hình HTX kiểu mới, HTX
Trồng nấm, mua bán và Dịch vụ tuổi trẻ xã Thạch Hạ đã đăng ký vốn điều lệ
1 tỷ đồng, ứng dụng khoa học để phát triển đa dạng các lĩnh vực như: cung
ứng nấm thành phẩm, bịch nấm giống, nguyên liệu, vật tư, hỗ trợ kỹ thuật cho
các mô hình vệ tinh... Hiện nay, HTX đã liên kết 10 hộ tham gia trồng nấm vệ
tinh, công suất 10.000 bịch/năm, tổng thu nhập ước đạt 500 triệu đồng/năm.

Hay như HTX Rau - củ - quả Hà Trung (Cẩm Xuyên) đã đầu tư mạnh
vào rau - củ - quả công nghệ cao trên cát hoang hóa bạc màu. Áp dụng
nghiêm ngặt quy trình kĩ thuật từ khâu cải tạo đất, bón phân, tưới nước, chăm
sóc phù hợp từng giống cây, qua ba vụ sản xuất liên kết với Mitraco Hà Tĩnh,
HTX đã thực sự làm chủ quy trình sản xuất, từng bước tăng khả năng cạnh
tranh và chiếm lĩnh thị trường.

Định hướng áp dụng khoa học, kỹ thuật, công nghệ là yếu tố thực sự
quan trọng trong quá trình khởi nghiệp hợp tác xã.

Thứ sáu, cần chú trọng công tác nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Nhấn mạnh vai trò của nguồn nhân lực trong quá trình khởi nghiệp hợp
tác xã, Ths. Nguyễn Văn Thanh, Tổng Giám đốc Trung tâm Khoa học Công
nghệ và Môi trường thuộc Liên minh HTX Việt Nam phân tích: "Một HTX
không có công nghệ mới thì có thể nhập, không có dây chuyền thiết bị hiện
đại có thể mua, không có vốn có thể vay, nhưng nếu không có người quản lý
giỏi, không có thợ lành nghề thì rất khó duy trì và phát triển HTX". Đây lực
lượng nòng cốt trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ, bảo đảm
sức cạnh tranh của HTX với thị trường”.

Chính vì vậy, cần xây dựng được đội ngũ cán bộ quản lý HTX năng
động, nhạy bén, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, nhiệt tình, tâm

99
huyết, gắn bó lâu dài với HTX, được xã viên tín nhiệm, tạo được mối quan hệ
hài hoà giữa lợi ích cá nhân và tập thể.

Để thực hiện được điều này, các thành viên HTX trước hết cần chủ
động nghiên cứu, tự học hỏi nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng; tăng cường
các mối quan hệ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, tổ chức sản xuất, kinh
doanh có hiệu quả. Bên cạnh đó, việc tham gia các lớp tập huấn, đào tạo, bồi
dưỡng do Nhà nước tổ chức là một trong những phương thức để bổ sung kiến
thức, kinh nghiệm khởi nghiệp, điều hành và phát triển HTX hiệu quả. Thông
qua các chương trình này, các thành viên có cơ hội để được định hướng, chia
sẻ kinh nghiệm, giải đáp hoặc hướng dẫn giải quyết vấn đề phát sinh trong
thực tiễn hoạt động của mình.

Thứ bảy, cần liên kết, thiết lập mối quan hệ hợp tác để có thể được hỗ
trợ, chia sẻ kinh nghiệm.

Để có thể phát triển bền vững, làm ăn có hiệu quả, các HTX cần liên
kết, hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau, cần tăng cường liên doanh, liên kết với các tổ
chức HTX mạnh, có kinh nghiệm và tiềm lực.

Trên đây là một số kinh nghiệm trong quá trình khởi nghiệp HTX được
đúc rút ra từ các HTX thành công, phát triển, cũng như từ các HTX hoạt động
kém hiệu quả, giải thể. Hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho những
người chuẩn bị, đã hoặc đang trong quá trình khởi nghiệp HTX.

Tình huống

Hợp tác xã Bình Minh hoạt động trong lĩnh vực gạch không nung trên
địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. Sau gần 1 năm hoạt động không hiệu quả và học tập
kinh nghiệm của các mô hình HTX tương tự trên địa bàn tỉnh cũng như tỉnh
khác. Hợp tác xã Bình Minh đã ngày càng hoạt động hiệu quả và có những
thành quả nhất định. Và Hợp tác xã cũng đã chia sẻ những kinh nghiệm nhất
định trong quá trình khởi nghiệp như:

100
- Tìm hiểu rõ về thị trường, nhu cầu của thị trường đối với sản phẩm
mình tạo ra. Đồng thời, tìm các khách hàng có tiềm năng, liên hệ với các
khách hàng tiềm năng để tiêu thụ sản phẩm, mở rộng thị trường.

- Phải là người có kinh nghiệm hoặc liên hệ người có kinh nghiệm


trong lĩnh vực của Hợp tác xã mình. Từ đó học hỏi kinh nghiệm, áp dụng
khoa học kỹ thuật một cách hiệu quả. Từ đó đưa các sản phẩm chất lượng ra
thị trường.

101

You might also like