You are on page 1of 7

Kinh tế quốc tế

Câu 1: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là gì? Vai trò của đầu tư trực tiếp
nước ngoài như thế nào? Theo anh/chị, để thu hút vốn đầu tư trực tiếp của
nước ngoài, Việt Nam cần có các giải pháp nào?
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài chính là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân
hay doanh nghiệp của một nước bên ngoài vào trong nội địa của một
nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất kinh doanh, cá nhân hay
doanh nghiệp nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cỏ sở sản xuất kinh
doanh này.
- Vai trò của đầu tư trực tiếp ( sgk trang 66)
- Đề thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, Việt Nam cần có những
giải pháp:
- Môi trường đầu tư- kinh doanh luôn luôn phải được cải thiện theo hướng
thông thoáng, minh bạch, ổn định và hấp dẫn các nhà đầu tư, được thể
hiện qua chỉ số năng lực môi trường cạnh tranh
- Thực hiện tốt cơ chế “ một cửa” trong cấp giấy chứng nhận đầu tư tại Sở
Kế hoạch và Đầu tư, Ban quản lý các KCN tỉnh, thành phố.
- Hỗ trợ nhà đầu tư một cách hiệu quả trong việc cung cấp thông tin liên
quan đến dự án đầu tư, hướng dẫn thủ tục đầu tư, xây dứng và triển khai
dự án
- Thực hiện biên soạn tài liệu giới thiệu môi trường đầu tư, thường xuyên
điều chỉnh, bổ sung danh mục dự án gọi vốn đầu tư nước ngoài thời kỳ
2010-2020 và tầm nhìn đến năm 2030 để làm căn cứ xúc tiến, thu hút đầu

- Quảng bá hình ảnh, marketing địa phương giới thiệu môi trường đầu tư,
thực hiện tuyên truyền, giới thiệu về môi trường đầu tư trên các phương
tiện thông tin đại chúng, trên trang website, các báo, tạp chí
- Tổ chức các đoàn xúc tiến đầu tư tại các nước: nhật bản, hàn quốc, đài
loan,…
- Giới thiệu quảng bá hình ảnh đất nước, tham gia cùng đoàn chính phủ, bộ
kế hoạch và đầu tư vận động đầu tư ở nước ngoài.
- Xây dựng các mối quan hệ hỗ trợ trong công tác xúc tiến đầu tư: chủ
động thiết lập quan hệ và trao đổi thông tin với các cơ quan ngoại giao,
kinh tế, thương mại của các nước và trung tâm xúc tiến đầu tư của việt
nam
Câu 2: rào cản thương mại quốc tế là gì? Theo anh chị, để vượt qua
trở ngại về rào cản trong thương mại quốc tế, các doanh nghiệp việt
nam cần phải có các giái pháp nào?
- Theo WTO: rào cản thương mại quốc tế là bất kỳ biện pháp hay hành
động nào gây cản trở đối vời thương mại quốc tế
- Rào cản trong thương mại quốc tế bao gồm:
+ rào cản thuế quan
+ rào cản phi thuế quan
Đối với rào cản thuế quan
- Các doanh nghiệp cần phải lựa chọn hình thức kinh doanh quốc tế nào
phù hợp với đặc điểm, quy mô, khả năng kimh doanh, trình độ quản lý,
trình độ chuyên môn của doanh nghiệp…đồng thời phải lựa chọn các đối
tác thích hợp ở các quốc gia có liên minh kinh tế với việt nam để được
những thuế quan ưu đãi bằng (0)
Đối với rào cản phi thuế quan
- Trong quá trình thâm nhâp thị trường nước ngoài các doanh nghiệp việt
nam thường gặp các loại rào cản như: thuế chống bán phá giá, thuế chống
trợ cấp, thuế tự vệ, hàng rào kỹ thuật, bảo vệ môi trường, vệ sinh an toàn
thực phẩm…do đó để vượt qua trở ngại về rào cản phi thuế quan, các
doanh nghiệp cần phải có các biện pháp sau
- Trước hết là các doanh nghiệp việt nam cần phải thực hiện đúng và đầy
đủ các công ước, điều ước quốc tế, các cam kết quốc tế trong các hiệp
định song phương hoặc đa phương của việt nam với các quốc gia thành
viên khác.
- Thực hiện nghiêm chỉnh các quy định quốc tế hoặc luật pháp quốc gia
mình và quốc gia thị trường doanh nghiệp kinh doanh như cần chủ động
xây dựng và triển khai áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng quốc tế
như ISO 9000, HACCP và ISO 14000, SA 8000…
- Các doanh nghiệp cần đào tạo nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý
doanh nghiệp có sự am hiểu tốt về hệ thống rào cản trong thương mại
quốc tế. ngoài ra để có thể chủ động đối phó và vượt qua các rào cản
thương mai thì cần phải đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu thị trường
nước ngoài và để cho các nhà nhập khẩu nước ngoài hiểu rõ hơn về hàng
hóa của doanh nghiệp mình
- Các doanh nghiệp cần tích cực mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết
giữa kinh tế nhà nước nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng với
các thành phần kinh tế khác đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, các công tu đa quốc gia hoặc các tập đoàn kinh tế cho thấy,
nếu có yếu tố nước ngoài thì các phán quyết của phía đối tác thường có
lợi cho bên vn hơn trong quá trình giải quyết các tranh chấp.
- Điều quan trọng là doanh nghiệp, các cơ quan nhà nước, hiệp hội ngành
hàng xuất khẩu cần có những biện pháp hỗ trợ và đối tượng hữu hiệu với
những rào cản này.
Câu 3: những thuận lợi và khó khăn gì của việt nam khi tiếp cận
nguồn vốn ODA?
- Thuận lợi
- Là một nguồn vốn bổ sung quan trọng để phát triển đất nước
- Giúp tiếp cận, tiếp thu những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại,
phát triển nguồn nhân lực, và điều chỉnh cơ cấu kinh tế
- Tạo ra hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội tương đối hiện đại
- ODA góp phần tăng khả năng thu hút FDI và tạo điều kiện để mở rộng
đầu tư phát triển
Khó khăn
- Vay nước ngoài (bao gồm cả ODA) đôi khi bị chỉ trích là nhân tố chính
dẫn đến sự gia tăng nợ công nhanh chóng
- Việt nam chưa có kinh nghiệm trong việc tiếp nhận vốn ODA, nhất là
thực hiện các thủ tục có liên quan tới đấu thầu, thanh toán, chế độ báo cáo
định kỳ, bố trí vốn đối ứng kịp thời
- Công tác quản lý ODA còn bị chồng chéo, chưa tách bạch rõ trách nhiệm
của các cấp làm giảm hiệu lực điều hành, quản lý vốn ODA.
- Mỗi nhà đầu tư đều có những qui định riêng và hầu như chưa hài lòng với
những qui định ở Việt Nam, nhìn chung các bước thực hiện dự án điều
phải trình phía đối tác mất nhiều thời gian
- Việt nam chưa đáp ứng được yêu cầu của nhà tài trợ
- Việt nam chịu ảnh hưởng của thiê tai làm ảnh hưởng tới tiến độ dự án
- Một phần lớn vốn ODA được chính phủ cấp cho doanh nghiệp nhà nước
thuộc khu vực sản xuất thay thế nhập khẩu dưới hình thức cho vay lại
nhưng các dự án này lại được thẩm định sơ xài, thời gian kéo dài nên hiệu
suất thấp.
Cấu 4: trình bày các cơ hội và thách thức của việt nam khi gia nhập
hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên thái bình
dương( CPTTP)
Cơ hội
- Mở rộng cơ hội phát triển
- CPTPP là Hiệp định mang tính toàn diện, bao trùm các nguyên tắc về
thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ và nhiều chủ đề khác. Hiệp định sẽ tạo
áp lực lên cải cách môi trường đầu tư, kinh doanh, mở ra nhiều cơ hội cho
doanh nghiệp (DN) phát triển, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội Việt
Nam. Cụ thể:
- Một là, cải cách thể chế, tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi.
- CPTPP có những điều kiện tiêu chuẩn cao về mặt thể chế, chất lượng
quản lý nhà nước cũng như khuôn khổ pháp luật. Việc tham gia Hiệp
định này sẽ góp phần cải cách môi trường thể chế, hướng tới các “luật
chơi” quốc tế. Đây là điều kiện cần thiết cho tăng trưởng, mang lại động
lực tích cực để phát triển đất nước. Cải cách thể chế sẽ giúp cho toàn xã
hội thúc đẩy được khả năng cạnh tranh, huy động và sử dụng tốt nhất
những nguồn lực sẵn có ở trong nước và tận dụng tốt hơn các nguồn lực
bên ngoài. CPTPP sẽ giúp khuyến khích và thúc đẩy cải cách trong nước
ở nhiều lĩnh vực như dịch vụ, hải quan, thương mại điện tử, mua sắm
chính phủ, sở hữu trí tuệ, đầu tư, các vấn đề pháp lý, tiếp cận thị trường
cho hàng hóa, quy tắc xuất xứ, các biện pháp phi thuế quan…
- Ngoài ra, CPTTP còn là động lực giúp đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế;
đổi mới và sắp xếp lại DN nhà nước; đẩy mạnh cải cách và đơn giản hóa
thủ tục hành chính; tạo sự liên thông giữa các bộ, ngành để nâng cao tính
cạnh tranh của môi trường kinh doanh, thúc đẩy kết nối và hợp tác giữa
các DN trong nước với các DN nước ngoài. Việc ký kết CPTPP được các
chuyên gia đánh giá sẽ là lực đẩy cải cách thể chế, nhất là trong bối cảnh
dù đã có những cải thiện nhưng nhiều điều kiện kinh doanh vẫn đang tiếp
tục tạo ra rào cản với DN.
- Hai là, tạo động lực tăng trưởng kinh tế.
- Thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, với CPTPP, GDP dự báo
tăng thêm 1,32%; xuất khẩu tăng thêm 4%, nhập khẩu tăng 3,8%. Một số
ngành như dệt may, da giày, các ngành thâm dụng lao động khác của Việt
Nam cũng sẽ được lợi và tăng xuất khẩu. Ngành Thủy sản Việt Nam sẽ
khả quan hơn khi các nước tham gia CPTPP hàng năm nhập khẩu gần 2
tỷ USD. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, với những lợi thế trên, việc tham
gia CPTPP khiến thị trường xuất khẩu của Việt Nam được mở rộng và
tận dụng được lợi thế với các thị trường mà từ trước đến nay Việt Nam
chưa từng thâm nhập như: Canada, Mexico, Peru.
- - Kết quả một khảo sát toàn diện về DN trên toàn cầu của Ngân hàng
HSBC cho thấy, khoảng 63% các DN tại Việt Nam tin rằng CPTPP sẽ có
tầm ảnh hưởng tích cực lên hoạt động kinh doanh của họ. Trong số 1.150
DN có trụ sở tại các nước thành viên CPTPP tham gia khảo sát, gần một
nửa (46%) kỳ vọng những lợi ích tích cực từ Hiệp định.
- Ba là, nhân thêm cơ hội cho DN Việt Nam.
- Trong CPTPP, các nước thành viên đã xóa gần như toàn bộ thuế nhập
khẩu theo lộ trình, tự do hóa dịch vụ và đầu tư trên cơ sở tuân thủ pháp
luật của nước sở tại, bảo đảm sự quản lý của Nhà nước. Điều này sẽ tạo
ra cơ hội kinh doanh mới cho DN và lợi ích người tiêu dùng của các nước
thành viên.
- Hơn nữa, Hiệp định CPTPP sau khi được thông qua sẽ mở ra nhiều cơ hội
cho cộng đồng DN Việt Nam. Với việc giảm thuế sang các quốc gia nhập
khẩu, các DN sẽ có thêm cơ hội mới để mở rộng việc cung cấp các sản
phẩm vào thị trường các quốc gia thành viên. Việc giảm thuế nhập khẩu
cho sản phẩm vào Việt Nam cũng sẽ giúp cho DN có thêm đối tác mới,
đa dạng hóa các chủng loại hàng hóa, mở rộng quy mô hoạt động sản
xuất kinh doanh. Ngoài ra, Hiệp định sẽ tạo ra một sân chơi công bằng,
minh bạch và là cơ sở, nền tảng để cho các DN có định hướng phát triển
bền vững; nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện chất lượng hàng hóa
dịch vụ, khả năng sản xuất của nền kinh tế để bắt kịp xu hướng phát triển
của thế giới, từ đó tham gia hiệu quả hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
- Những thách thức đặt ra
- CPTPP mang lại nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra không ít thách thức đối
với nền kinh tế nói chung và đối với các DN Việt Nam nói riêng. Thách
thức lớn nhất đối với Việt Nam là cải cách thể chế. Đối với Chính phủ,
phải cải cách luật chơi, thông tin, giáo dục, đào tạo… Còn DN phải tăng
cường sự hiểu biết để tận dụng lợi thế mà CPTPP đe lại. Đặc biệt, cần
hiểu rằng, DN không chỉ am hiểu về luật chơi quốc tế mà còn phải nắm
bắt thông tin cũng như kịp thời cập nhật các thay đổi chính sách tương
ứng; nâng cao năng lực pháp lý, quản trị kinh doanh, để tự bảo vệ mình.
Để chuẩn bị tham gia CPTPP, việc cải cách mạnh mẽ từ bên trong là vấn
đề đặt ra cấp thiết, đối với Việt Nam. Tuy nhiên, trong thực tiễn triển khai
vẫn còn gặp nhiều vướng mắc, khó khăn.
- Bên cạnh đó, thực tế cho thấy khả năng thích ứng của DN Việt Nam còn
kém so với tiêu chuẩn đặt ra, công nghệ lạc hậu, công tác tổ chức sản
xuất, kiểm soát thị trường của Việt Nam cũng chưa theo kịp các nước
thành viên… Trong khi, CPTPP đặt ra các yêu cầu và tiêu chuẩn cao về
minh bạch hóa, các quy định về sở hữu trí tuệ cũng như cơ chế giải quyết
tranh chấp có tính ràng buộc và chặt chẽ. Chưa kể, sau khi CPTPP có
hiệu lực, cạnh tranh cũng sẽ diễn ra quyết liệt không chỉ ở thị trường các
nước thành viên, mà ngay tại thị trường trong nước trên cả ba cấp độ: sản
phẩm, DN và quốc gia.
- Theo quy định của CPTPP, mức thuế suất xuất nhập khẩu bình quân áp
dụng cho các DN Việt Nam xuất khẩu sang các thị trường CPTPP sẽ
giảm từ 1,7% xuống 0,2%. Tuy nhiên, cùng với những thuận lợi về tài
chính, trình độ quản trị, chuỗi phân phối toàn cầu, các DN Việt Nam sẽ
phải đối mặt với một thách thức, đó là các DN nước ngoài sẽ “nhanh
chân” hơn DN Việt Nam trong việc hưởng lợi từ các ưu đãi thuế quan từ
CPTPP. Đây cũng là thách thức rất lớn đối với DN Việt Nam, bởi vì, tiềm
lực của các DN Việt Nam hiện nay còn yếu, chưa có sự liên kết chặt chẽ
và tương hỗ lẫn nhau...
- Tham gia CPTPP, Việt Nam sẽ phải mở cửa cho hàng hóa, dịch vụ của
các nước đối tác tại thị trường trong nước, đồng nghĩa với việc DN Việt
Nam phải cạnh tranh gay gắt hơn tại “sân nhà”. Điều này sẽ gây nên
không ít áp lực cho hàng hóa Việt Nam và nguy cơ thất bại của các DN
trên chính thị trường nội địa cũng vì thế sẽ gia tăng.
Câu 5 : theo anh/ chị, hiện nay các doanh nghiệp việt nam phải có các
giải pháp nào để nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường thế
giới
- Một là, nâng cao trình độ học vấn, hiểu biết về kinh tế – xã hội, văn hóa,
luật pháp… cho các chủ doanh nghiệp, các bộ quản lý và người lao động
trong doanh nghiệp. Như đã nhận xét ở phần trên, hiện còn tới 43,3% chủ
doanh nghiệp có trình độ học vấn dưới trung học phổ thông, số có trình
độ thạc sỹ trở lên chỉ chiếm 2,99%. Vì vậy, giáo dục – đào tạo cần trang
bị học vấn ở trình độ cử nhân và những tri thức cơ bản về kinh tế – xã
hội, văn hóa, pháp luật… cho các chủ doanh nghiệp, giám đốc, cán bộ
quản lý doanh nghiệp và những người lao động.
- Hai là, tăng cường năng lực của chủ doanh nghiệp, giám đốc và cán bộ
quản lý trong các doanh nghiệp về quản trị kinh doanh, quản trị chiến
lược. Trong mọi điều kiện, doanh nhân cần thường xuyên cập nhật tri
thức mới, những kỹ năng cần thiết (kỹ năng quản trị trong cạnh tranh, kỹ
năng lãnh đạo doanh nghiệp, kỹ năng quản lý sự biến đổi, kỹ năng thuyết
trình, kỹ năng đàm phán và giao tiếp v.v…) để có đủ sức cạnh tranh trên
thị trường và tiếp cận nền kinh tế tri thức.
- Để có đủ sức cạnh tranh lâu dài và có thể tự tin bước vào kinh tế tri thức,
các doanh nghiệp cần phải xây dựng chiến lược phát triển bền vững.
Trong đó, đặc biệt chú trọng đến chiến lược cạnh tranh và những kỹ năng
mang tính chiến lược như: Quản trị chiến lược, quản trị rủi ro, và tính
nhạy cảm trong quản lý, phân tích kinh doanh, dự báo và định hướng
chiến lược phát triển…
- Ba là, hiện nay đa số các doanh nghiệp Việt Nam đều có quy mô nhỏ,
vốn ít, trình độ học vấn, kiến thức kinh doanh, hiểu biết luật pháp (nhất là
luật pháp quốc tế) không cao, trình độ tay nghề của người lao động
thấp… Trong điều kiện này, để thực hiện chiến lược cạnh tranh cần phải
và nhất thiết phải thực hiện phương châm liên kết và hợp tác để nâng cao
chất lượng sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. Sự liên kết
và hợp tác không phải là phép tính cộng tổng số các doanh nghiệp, mà
chính là tạo ra sức mạnh bội phần của các nhóm, các tập đoàn kinh tế
cùng sản xuất kinh doanh một (hoặc một số) sản phẩm nhất định và cùng
thực hiện chiến lược thương hiệu, xúc tiến thương mại và quảng bá sản
phẩm trên thị trường.
- Bốn là, tăng cường sự hỗ trợ của chính phủ và các cơ quan quản lý nhà
nước về vốn, cơ chế, chính sách, luật pháp, xúc tiến thương mại, giáo dục
– đào tạo, tư vấn về thiết bị, công nghệ hiện đại… cho các doanh nghiệp.
Đồng thời, tăng cường hơn nữa vai trò của các hiệp hội, các hội, các câu
lạc bộ giám đốc và các tổ chức chuyên môn, nghiệp vụ đối với sự phát
triển của các doanh nghiệp.
- Năm là, xây dựng văn hóa doanh nghiệp. Văn hóa có vai trò quan trọng
trong sự phát triển, vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển kinh tế – xã
hội. Từ xưa, cha ông ta đã đúc kết: “Phi trí bất hưng, phi thương bất phú,
phi công bất hoạt”. Ngày nay, trong xã hội hiện đại, quan niệm về giá trị,
về lao động sáng tạo, ý thức cạnh tranh, ý chí làm giàu, sự tín nhiệm xã
hội… có ý nghĩa to lớn đối với việc nâng cao năng lực cạnh tranh và xây
dựng văn hóa doanh nghiệp.
- Văn hóa doanh nghiệp, nói một cách khái quát là “đạo làm giàu”, tức là
làm giàu một cách có văn hóa: Làm giàu cho bản thân, làm giàu cho
doanh nghiệp, làm giàu cho xã hội và cho đất nước. Sự giàu có về trí tuệ,
về của cải và tính năng động sáng tạo là những giá trị xã hội mà mỗi
doanh nhân, mỗi doanh nghiệp phải có. Vì vậy, xây dựng văn hóa doanh
nghiệp tạo ra môi trường văn hóa lành mạnh, tích cực luôn là động lực
thúc đẩy sức sáng tạo và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp.
-

You might also like