You are on page 1of 26

Câu 2 : Khái quát nội dung chính sách xuất khẩu của nước ta trong những năm tới:

Chính sách chung:


Thứ nhất, tiếp tục theo dõi chặt chẽ tình hình dịch bệnh và tình hình trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia
để tham mưu cho Chính phủ các giải pháp điều hành ứng phó với các yếu tố bất lợi;
Thứ hai, chú trọng công tác triển khai thực hiện các Hiệp định thương mại tự do nói chung, nhất là các
FTA thế hệ mới như Hiệp định CPTPP, EVFTA, UKVFTA. Mục tiêu là không chỉ hỗ trợ các doanh nghiệp
nắm được nội dung cam kết CPTPP, EVFTA mà còn vận dụng và phát huy có hiệu quả ưu đãi của Hiệp định,
từ đó tận dụng tối đa các cơ hội và hạn chế các thách thức đặt ra từ những Hiệp định này;
Thứ ba, tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết số 63/NQ-CP ngày 29 tháng 6 năm 2021 về các nhiệm vụ,
giải pháp chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải ngân vốn đầu tư công và xuất khẩu bền vững.
Thứ tư, tiếp tục đổi mới, tổ chức các chương trình xúc tiến thương mại, kết nối cung cầu cả trong và ngoài
nước trên môi trường trực tuyến và dựa trên những nền tảng mới;
Thứ năm, thúc đẩy phát triển dịch vụ logistics, giảm các chi phí khai thác hạ tầng vận tải, chi phí logistics
trong các hoạt động xuất nhập khẩu và lưu thông hàng hóa trong nước, chú trọng công tác đảm bảo tiến độ lưu
thông hàng hóa xuất nhập khẩu tại các cảng biển, cửa khẩu biên giới;
Thứ sáu, tiếp tục đẩy mạnh công tác đơn giản hóa thủ tục hành chính. Trong đó, tập trung triển khai các
thủ tục hành chính về lĩnh vực xuất nhập khẩu theo Cơ chế một cửa quốc gia, một cửa ASEAN,…để tạo thuận
lợi cho Hiệp hội và doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu.
Đối với từng thị trường
Đối với thị trường Châu Mỹ, Bắc Kạn tiếp tục củng cố và mở rộng thị phần xuất khẩu tại thị trường Mỹ,
đồng thời tận dụng có hiệu quả lộ trình cắt giảm thuế quan theo tinh thần Hiệp định CPTPP để mở rộng thị
phần xuất khẩu sang các thị trường khác như Ca-na-đa và các thị trường các nước Nam Mỹ. Về mặt hàng hóa,
tập trung xuất khẩu những nhóm hàng có thế mạnh xuất khẩu của tỉnh như mặt hàng gỗ, nông sản chế biến.
Đối với thị trường Châu Âu, là thị trường có dung lượng lớn, Hiệp định tự do Việt Nam – EU (EVFTA) và
Hiệp định tự do Việt Nam – Liên Minh kinh tế Á – Âu (EAEU) với trên 90% số dòng thuế được cắt giảm sẽ là
cơ hội rất lớn cho hàng hóa xuất khẩu của tỉnh. Do vậy, Bắc Kạn sẽ duy trì vững chắc và mở rộng thị phần
xuất khẩu tại các thị trường Séc, Đức, Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha… Về mặt hàng, thúc đẩy xuất khẩu các
nhóm mặt hàng nông sản chế biến, may mặc …
Còn về thị trường Trung Quốc, tỉnh tập trung đẩy mạnh xuất khẩu nhằm giảm dần nhập siêu, giảm xuất
khẩu nguyên nhiên liệu thô, tăng cường xuất khẩu mặt hàng có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao,
sử dụng nguyên liệu đầu vào xuất xứ trong nước. Về mặt hàng, tăng cường xuất khẩu nhóm hàng khoáng sản,
nông sản chế biến, đồ gỗ, dược liệu…
Đối với thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, tiếp tục tận dụng tối đa các ưu đãi từ các FTA đa phương và song
phương để đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc và Nhật Bản. Về mặt hàng, tăng cường xuất khẩu
nhóm hàng nông sản chế biến, hoa quả sấy, dược liệu…
Để phát triển thị trường khu vực châu Á – châu Phi trong thời gian tới.
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho thương mại song phương và hợp tác tiểu vùng của
Việt Nam với các đối tác trong khu vực nhằm đa dạng hóa thị trường, đa dạng hóa mặt hàng xuất nhập khẩu
hướng tới mục tiêu phát triển thương mại bền vững của Việt Nam.
Thứ hai, tiến hành giao thiệp ở các cấp với các đối tác nước ngoài nhằm tháo gỡ khó khăn, duy trì hoạt
động thương mại thông suốt, giúp doanh nghiệp phục hồi sau đại dịch.
Thứ ba, thực thi hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký như Hiệp định Đối tác Toàn diện
và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP), FTA
Việt Nam-Hàn Quốc (VKFTA), FTA Việt Nam-Nhật Bản (VJEPA), …; tích cực khai thác các cơ hội xuất
khẩu sang thị trường các nước trong RCEP khi hiệp định này chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/2022.
Thứ tư, đẩy mạnh công tác thông tin, hướng dẫn tiếp cận thị trường, trong đó chú trọng nâng cao nhận
thức về phát triển thị trường chủ lực, mở rộng thông tin về các thị trường mới, thị trường ngách.
Thứ năm, đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, hỗ trợ các doanh nghiệp kết nối giao thương,
tham dự hội chợ, triển lãm, trong đó đa dạng hóa các hình thức tổ chức và thực hiện, kết hợp giữa hoạt động
trực tuyến và trực tiếp; đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước về
thương mại, xúc tiến thương mại.
Thứ sáu, nâng cao năng lực của doanh nghiệp ứng phó với các biện pháp phòng vệ thương mại của các
nước, chủ động nghiên cứu đề xuất các biện pháp phòng vệ thương mại để bảo vệ lợi ích của các ngành sản
xuất trong nước.
Câu 3:Nội dung của phương pháp hành chính? Vận dụng ở nước ta.
Nội dung của phương pháp hành chính
Phương pháp hành chính là phương pháp quản lí bằng cách ra chỉ thị từ trên xuống, nghĩa là ra những
quyết định bắt buộc đối với đối tượng quản lí. Đặc trưng của phương pháp này là sự tác động trực tiếp lên đối
tượng quản lý đạt được bằng cách quy định đơn phương nhiệm vụ và phương án hành động của đối tượng
quản lý.
Phương pháp hành chính thể hiện tính chất quyền lực của hoạt động quản lý. Cơ sở của nó là nguyên tắc
tập trung dân chủ mà cụ thể là sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên và huy và khai thác hợp lý nhất
những khả năng sẵn có.
Các phương pháp hành chính tác động lên đối tượng bị quản lý theo hai hướng: Tác động về tổ chức (phần
tĩnh) và tác động điều chỉnh (phần động).
Tác động về mặt tổ chức bao gồm các vấn đề như:
- Ban hành các quy định về tổ chức quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế về các mặt: Cơ cấu bộ
máy quản lý, chức năng quản lý, cán bộ quản lý.
- Ban hành các điều lệ tổ chức của doanh nghiệp.
- Quy chế hóa các thủ tục hành chính khi giải quyết các vấn đề kinh tế
- Ban hành những tiêu chuẩn, quy phạm kỹ thuật và định mức kinh tế có tầm quan trọng và có tính chất
bắt buộc.
Tác động về mặt điều chỉnh thể hiện ở các vấn đề như:
- Ra các chỉ thị có tính chất hành chính để điều chỉnh các vấn đề nảy sinh về kế hoạch kinh tế.
- Ra các mệnh lệnh tức thời về hành chính để điều chỉnh giải quyết vấn đề kinh tế.
Phương pháp hành chính có ưu điểm là giải quyết vấn đề một cách nhanh gọn, nhưng việc sử dụng nó đòi
hỏi phải bảo đảm tính chuẩn xác của các quyết định, xác định phạm vi áp dụng hợp lí, và cũng dễ nảy sinh
hiện tượng lạm dụng, quan liêu và độc đoán.
Vận dụng ở nước ta:
VẬN DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP HÀNH CHÍNH TRONG QUẢN LÝ KINH DOANH Ở VIỆT NAM:
1. Tình hình quản lý doanh nghiệp bằng các phuong pháp hành chính ở mot vai doanh nghiệp Viet Nam:
Mô hình quản lý doanh nghiệp ở nurớc ta đurợc hình thành trong khuôn khổ của các doanh nghiệp quốc
doanh, bây giờ là doanh nghiệp nhà Nước và từ đó lan sang các công ty tư nhân. Doanh nghiệp quốc doanh đã
tồn tại từ 1945 hay sớm hơn. Từ đó cho đến nay mô hình quản lý doanh nghiệp đã phát triển đến một mức
nhất định. Song nó vẫn chứa đụng một số khuyết tật như: Phân tán, không đồng bộ, mất cân đối trong tổ chức
sản xuất, hành chính, quan liêu, kém kĩ thuật, kém trách nhiệm... Và những tồn tại này hiện vẫn đang hiện hữu
trong cách quản lý hành chính ở một số doanh nghiệp.
Ta có thể thấy được một trong những yếu kém đó trong Marketing ở quá trình trưyền đạt thông tin từ các
nhà kinh doanh đến người tiều dùng và ngược lại là thu thập, xử lý thông tin phản hồi của khách hàng. ở các
doanh nghiệp quốc doanh nước ta quá trình trưyên tải thông tin từ người bán đến nguời mua rất yếu kém. Một
công ty tạo ra sản phầm tốt, nên định một mức giá hấp dẫn, được bán ở một địa điểm thuận lợi là điều lý
tưởng. Nhưng sẽ không hiệu quả nếu sản phẩm đó chưa được khách hàng mua. Tất nhiên sản phẩm đó bán
được hay không còn phụ thuộc vào phía người mua. Song để tác động vào thị hiếu, hành vi của người tiêu
dùng thì điều quan trọng là nhà kinh doanh phải có các quan hệ giao tiếp với khách hàng. Các quan hệ này
nếu đuược xây dụng và duy trì tốt sẽ tạo cơ hội cho khách hàng tiếp cận được sản phẩm, tiếp cận được công ty
và họ có thể sẽ mua hàng của doanh nghiệp. Để có được mối quan hệ giao tiếp này thì công ty cần phải sử
dụng linh hoạt các công cụ xúc tiến gián tiếp như quàng cáo trên ti vi, báo chí và các phương tiện truyền thông
khác. Bằng mọi cách cung cấp thông tin, hình ảnh sản phầm cũng như những hình ảnh tốt của công ty tới
khách hàng, nhằm làm cho người tiều dùng có nhận thức đày đù nhất về sản phẩm của doanh nghiêp mình.
Tưy nhiên hiện nay vấn đề này vẫn chưa đuợc quan tâm sát đáng ở doanh nghiệp nhà nuớc. Đặc biệt là khi
doanh nghiệp thu thập được những thông tin phản hồi từ khách hàng thì viêc xử lý thông tin và cân thiết đưa
ra những quyết định, chính sách cho phù họp thì lại rất chậm chạp, không nhanh nhạy. Đó là do những đề
nghi, kiến nghị phải qua quá nhiều cấp và các phòng ban, nên đến khi người lãnh đạo cấp cao nhất đưa ra
quyết định thì đã muộn. Đối thủ cạnh tranh đã đưa ra những thay đổi mau lẹ hơn do vậy họ thoả mãn yều cầu
của khách hàng và thu hút ngurời tiêu dùng đến với họ.
Qua đây ta thấy rằng cách quản lý hành chính trong các doanh nghiệp nhà mrớc vẫn còn rất cúng nhắc,
dập khuôn, kém linh hoạt vì thế mà hiệu quả kinh doanh thấp là điều khó tránh khỏi.
Bên cạnh đó việc sử dụng các phurơng pháp hành chính thiếu khoa học, và khả năng quản lý hành chính
yếu của nhà quản lý sẽ dẫn đến sự chồng chéo trong cơ cấu làm cho khả năng kinh doanh của doanh nghiệp bị
suy yếu. Cụ thể là: Siêu thị Diamond ở thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm thương mại tương đối lớn
khác hẳn với hệ thống siêu thị trong thành phố, trung tâm nổi bật lên với chủng loại mặt hàng đa dạng, phong
phú, qui mô hoành tráng, mức giá bán hấp dẫn, đặc biệt có một số mặt hàng có giá bán thấp hơn so với mặt
hàng cùng loại ngoài thị trrờng từ 5%- 10% nên Diamond thực sự chiếm được lòng tin của khách hàng. Chính
vì vậy mà lượng khách đến trung tâm rất đông, lực luợng bảo vệ không thể quản lý nổi,nên việc đảm bảo an
ninh cho khách hàng được thực hiện rất kém. Nhiều khách hàng sau khi vào trung tàm mua hàng xong quay ra
đã bị mất tiền, mất điện thoại di động, đồ trang sức...Ngay tại bãi gửi xe, nhiều khách hàng thắc mắc không
hiểu lực lưọng bảo vệ trông xe mình bằng cách nào khi mà hàng ngàn xe máy đều không được ghi vé. Trong
khi đó sự thiểu linh hoạt và cách làm việc dập khuôn của nhân viên siêu thị trước quầy thu ngân đã làm không
ít khách hàng phải “Bỏ của chạy lấy người”. Họ yêu cầu khách hàng muốn được qua quầy thanh toán phải
dùng xe đẩy nhung lượng người đông, xách đồ bằng tay đi lại còn khó khăn thì nói gì đến việc dùng xe đầy.
Thêm vào đó, những thông tin khuyến mại các sản phẩm đựợc ghi rõ trên các tờ rơi, nơi trưng bày sản phẩm
nhưng thực tế không ít khách hàng khi thanh toán xong không biết hỏi ai để nhận quà khưyến mại...
Từ dẫn chúng cụ thể có thể thấy được phần nào việc lạm dụng và thiếu cơ sở khoa học trong việc vận
dụng các phurơng pháp hành chính trong quản lý của các doanh nghiệp ở Việt Nam, là nguyên nhân dẫn đến
kiểu quản lý quan liêu, cúng nhắc, dập khuôn dễ gây tổn thất cho doanh nghiệp.
2. Nhũng vấn để còn tổn tại trong việc quản lý bằng các phương pháp hành chính:
+ Hệ thống thông tin quản lý chưa tốt nên chưa đảm bảo đrợc việc cung cấp thông tin qua lại đầy đủ và
kịp thời, trung thực và tin cậy, hệ thống thông tin không nhanh nhạy, thiếu chính xác và thông suốt.
+ Trình độ, năng lực quản lý hành chính của cán bộ quản lý doanh nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu của
thực tế.
+ Quyền lực tập trung trong tay các nhà quản trị cao cấp nên cấp dưới thực hành một cách thu động (chấp
hành vô điều kiện). Do vậy không khai thác được trí tuệ, tính sáng tạo của cấp dưới đồng thời thui chết tính
chù động, sự húng thú trong công việc của họ.
1. Thủ tục hành chính phức tạp: Hệ thống pháp luật và thủ tục hành chính liên quan đến quản lý thương
mại ở Việt Nam vẫn còn phức tạp và gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi thực hiện các giao dịch
kinh doanh.
2. Thiếu sự minh bạch: Quản lý thương mại Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề liên quan đến sự minh
bạch trong quy trình đăng ký kinh doanh, cấp phép kinh doanh và giám sát hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
3. Thiếu kinh nghiệm và chuyên môn: Nhiều nhân viên của các cơ quan quản lý thương mại vẫn còn thiếu
kinh nghiệm và chuyên môn trong việc xử lý các vấn đề liên quan đến thương mại.
4. Thiếu sự đồng bộ và hiệu quả: Quản lý thương mại ở Việt Nam vẫn chưa đạt được sự đồng bộ và hiệu
quả trong việc giám sát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó dẫn đến việc một số doanh
nghiệp có thể vi phạm các quy định về thương mại một cách dễ dàng.
5. Thiếu sự đổi mới và áp dụng công nghệ: Hệ thống quản lý thương mại của Việt Nam vẫn chưa đổi mới
và áp dụng công nghệ để tăng cường tính chuyên nghiệp, hiệu quả và minh bạch trong quản lý thương
mại.
6. Thiếu sự tư vấn và hỗ trợ cho doanh nghiệp: Các cơ quan quản lý thương mại cần cung cấp đầy đủ
thông tin, hướng dẫn và tư vấn cho các doanh nghiệp trong quá trình đăng ký kinh doanh, cấp phép và
thực hiện các hoạt động thương mại.
7. Tình trạng tham nhũng: Tình trạng tham nhũng trong quản lý thương mại vẫn còn tồn tại ở một số cơ
quan quản lý thương mại tại Việt Nam, gây ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh và gây khó khăn cho
các doanh nghiệp.
8. Đối thủ cạnh tranh: Các doanh nghiệp Việt Nam đối mặt với đối thủ cạnh tranh từ các quốc gia khác,
đặc biệt là trong bối cảnh các hiệp định thương mại tự do đang ngày càng được ký kết
9. Sự thay đổi nhanh chóng của thị trường: Thị trường thương mại đang thay đổi nhanh chóng và phức tạp
hơn, do đó cần phải có sự đổi mới và cập nhật liên tục trong quản lý thương mại để đáp ứng được nhu
cầu và yêu cầu của doanh nghiệp.
3.Biện pháp
1. Đổi mới pháp luật về thương mại: Cần đẩy mạnh việc hoàn thiện và sửa đổi các văn bản pháp luật về
thương mại, đặc biệt là Luật Đầu tư, Luật Thương mại, Luật Đấu thầu, đồng thời xây dựng và ban hành
các văn bản pháp luật hướng dẫn thực hiện chi tiết để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp
trong hoạt động kinh doanh.
2. Giảm bớt thủ tục hành chính: Các cơ quan quản lý thương mại cần đơn giản hóa và giảm bớt thủ tục
hành chính để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, đồng thời tăng cường sự đồng bộ giữa các cơ
quan quản lý thương mại.
3. Nâng cao chất lượng và đào tạo nhân lực: Cần đầu tư để nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ
của các cán bộ, công chức trong cơ quan quản lý thương mại để đáp ứng với yêu cầu của sự thay đổi
nhanh chóng của thị trường thương mại, đồng thời tăng cường sự hợp tác với các tổ chức đào tạo để
đào tạo nhân lực chuyên môn về thương mại.
4. Tăng cường sự tư vấn và hỗ trợ cho doanh nghiệp: Các cơ quan quản lý thương mại cần cung cấp đầy
đủ thông tin, hướng dẫn và tư vấn cho các doanh nghiệp trong quá trình đăng ký kinh doanh, cấp phép
và thực hiện các hoạt động thương mại.
5. Kiểm soát tình trạng tham nhũng: Cần tăng cường kiểm soát tình trạng tham nhũng trong quản lý
thương mại, đặc biệt là tại các cơ quan quản lý thương mại, thông qua việc xây dựng các cơ chế giám
sát, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, đòi hỏi các cơ quan quản lý thương mại phải đảm bảo tính minh bạch
và công khai trong quản lý thương mại.

Câu 4: Những biện pháp phát triển thương mại bền vững ở nước ta trong những năm tới
Để đẩy mạnh phát triển hoạt động thương mại, dịch vụ năm 2021 cũng như giai đoạn 2021-2025 cần thực
hiện một số giải pháp sau:
1. Đẩy mạnh thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại nội địa và khuyến khích tiêu dùng nội địa.
Đẩy mạnh thực hiện Đề án phát triển thị trường trong nước gắn với Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên
dùng hàng Việt Nam” trong tình hình mới; hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo, tham gia
cụm liên kết ngành và chuỗi giá trị.
 Tăng cường quảng bá sản phẩm và thương hiệu Việt Nam: Quảng bá sản phẩm và thương hiệu
Việt Nam thông qua các phương tiện truyền thông và các sự kiện quảng bá. Điều này sẽ giúp tăng
cường nhận thức của người tiêu dùng về sự quan trọng của việc ủng hộ hàng Việt Nam và tạo động
lực để họ mua sắm các sản phẩm nội địa.
 Tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng Việt Nam: Chính phủ cần
đưa ra các chính sách hỗ trợ để tăng cường năng lực sản xuất và cạnh tranh của các doanh nghiệp
trong nước. Điều này bao gồm các chính sách thuế và tài chính hỗ trợ, đào tạo và phát triển nhân
lực, hỗ trợ công nghệ, quy định về chất lượng sản phẩm, vv.
 Xây dựng cộng đồng ủng hộ hàng Việt Nam: Tạo ra các cộng đồng trên mạng xã hội hoặc các
cộng đồng tại các địa phương để khuyến khích người dân ủng hộ hàng Việt Nam. Các cộng đồng
này có thể tập trung vào việc chia sẻ thông tin về các sản phẩm nội địa tốt, kinh nghiệm mua hàng,
hoặc tổ chức các hoạt động quảng bá sản phẩm
 Tổ chức các sự kiện để tăng cường nhận thức của người tiêu dùng: Tổ chức các sự kiện như hội
chợ, triển lãm, buổi giao lưu giữa doanh nghiệp và khách hàng, vv. để tăng cường nhận thức của
người tiêu dùng về sự quan trọng của việc ủng hộ hàng Việt Nam.
 Thực hiện các chương trình khuyến mãi và giảm giá: Thực hiện các chương trình khuyến mãi và
giảm giá để khuyến khích người tiêu dùng mua hàng Việt Nam. Chính phủ cũng có thể hỗ trợ các
doanh nghiệp để tổ chức các chương trình này.
2. Tăng cường gắn kết lưu thông với sản xuất, đẩy mạnh liên kết chuỗi nhằm kết nối cung cầu, đảm bảo
ổn định đầu vào đầu ra. Tăng cường liên kết trong chuỗi cung ứng hàng hóa của các doanh nghiệp phân phối
gắn với quản lý chất lượng và an toàn thực phẩm; liên kết giữa doanh nghiệp bán lẻ với các nhà sản xuất trong
việc tạo nguồn hàng sản xuất trong nước với giá cả cạnh tranh, bảo đảm đủ tiêu chuẩn chất lượng có thể thỏa
mãn nhu cầu mua sắm tiêu dùng đa dạng và ngày càng cao ở Việt Nam để cung ứng cho các cơ sở bán lẻ
nhằm giảm sự phụ thuộc vào hàng cùng loại nhập khẩu.
 Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quản lý sản phẩm: Chính phủ cần hỗ trợ đầu tư xây dựng một hệ thống
cơ sở dữ liệu quản lý sản phẩm để các doanh nghiệp có thể tra cứu và quản lý thông tin về sản phẩm.
Việc này sẽ giúp các doanh nghiệp có thể tìm kiếm và liên kết với các nhà sản xuất sản phẩm trong nước.
 Tạo điều kiện cho doanh nghiệp bán lẻ tiếp cận các sản phẩm Việt Nam chất lượng cao: Chính phủ cần
hỗ trợ các doanh nghiệp bán lẻ trong việc tiếp cận và quảng bá sản phẩm Việt Nam chất lượng cao đến
người tiêu dùng. Điều này có thể được thực hiện thông qua các chương trình khuyến mãi, các triển lãm
sản phẩm, hoặc các kênh bán hàng trực tuyến.
 Thúc đẩy liên kết giữa doanh nghiệp bán lẻ và các nhà sản xuất: Chính phủ cần khuyến khích sự hợp tác
và liên kết giữa doanh nghiệp bán lẻ và các nhà sản xuất để tạo ra nguồn hàng sản xuất trong nước với
giá cả cạnh tranh và đủ tiêu chuẩn chất lượng. Điều này có thể được thực hiện thông qua các chương
trình hỗ trợ tài chính và kỹ thuật, hoặc các chương trình đối tác chiến lược.
 Tăng cường quản lý chất lượng và an toàn thực phẩm: Chính phủ cần đưa ra các chính sách kiểm soát
chất lượng và an toàn thực phẩm để đảm bảo rằng các sản phẩm Việt Nam đáp ứng được các tiêu chuẩn
chất lượng và an toàn cho người tiêu dùng. Việc này sẽ giúp tăng cường niềm tin của người tiêu dùng và
giúp tăng cường thị trường trong nước.
3. Tập trung vào hình thành và phát triển các chuỗi cung ứng hàng hóa, tập trung trước hết vào các chuỗi
cung ứng hàng nông sản thực phẩm thiết yếu của thị trường nội địa. Kết hợp với nghiên cứu cơ cấu lại kinh tế
vùng và liên vùng để xây dựng và triển khai thực hiện các đề án phát triển một số chuỗi cung ứng hàng hoá;
thu hút và kết nối các cơ sở sản xuất cùng tham gia vào chuỗi, trở thành thành viên của chuỗi.
 Nghiên cứu và xác định các chuỗi cung ứng hàng hoá cần tập trung phát triển, đặc biệt là các chuỗi
cung ứng hàng nông sản thực phẩm thiết yếu của thị trường nội địa.
 Phối hợp với các cơ quan chức năng, địa phương, tổ chức hỗ trợ và các doanh nghiệp để đưa ra các
chính sách hỗ trợ phát triển các chuỗi cung ứng hàng hoá, đồng thời cũng phải đảm bảo các chính sách
này được thực thi một cách hiệu quả.
 Xây dựng và triển khai các đề án phát triển các chuỗi cung ứng hàng hoá. Các đề án này nên được xây
dựng dựa trên nghiên cứu cơ cấu lại kinh tế vùng và liên vùng, đồng thời phải đảm bảo các chuỗi cung
ứng hàng hoá được phát triển một cách bền vững
 Thu hút và kết nối các cơ sở sản xuất cùng tham gia vào chuỗi, trở thành thành viên của chuỗi. Để thu
hút các cơ sở sản xuất tham gia vào chuỗi, chúng ta cần tạo ra những động lực kinh tế như tăng thu
nhập cho các nông dân và người sản xuất, cải thiện chất lượng và giá trị của sản phẩm, tăng khả năng
tiếp cận thị trường và cơ hội hợp tác với các doanh nghiệp khác.
 Đảm bảo các thành viên của chuỗi cung ứng hàng hoá tuân thủ các quy định về chất lượng, an toàn thực
phẩm và bảo vệ môi trường. Chúng ta cần tăng cường giám sát và kiểm tra định kỳ để đảm bảo chuỗi
cung ứng hàng hoá đạt được các tiêu chuẩn chất lượng và an toàn thực phẩm.

4. Phát triển các phương thức và hình thức tổ chức kinh doanh thương mại trong nước đa dạng, phù hợp
với quá trình phát triển sản xuất và hội nhập của Việt Nam; góp phần gia tăng giá trị thương mại cho sản
phẩm, có khả năng gắn kết và thúc đẩy phát triển sản xuất trong nước, chú trọng phát triển thương mại điện tử
và sự gắn kết giữa thương mại điện tử với các loại hình hoạt động thương mại truyền thống.
 Thúc đẩy phát triển thương mại điện tử: Chính phủ cần đầu tư để xây dựng hệ thống mạng lưới
internet đủ khả năng để hỗ trợ các hoạt động thương mại điện tử. Đồng thời, cần tạo ra các chính
sách khuyến khích doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ, tham gia vào hoạt động
thương mại điện tử. Ngoài ra, cần tạo ra các tiêu chuẩn và quy định về an toàn thông tin, bảo mật
và quyền sở hữu trí tuệ để tăng cường độ tin cậy của khách hàng.
 Gắn kết thương mại điện tử với các loại hình hoạt động thương mại truyền thống: Chính phủ cần
khuyến khích các doanh nghiệp kết hợp giữa hoạt động thương mại truyền thống và thương mại
điện tử, giúp khách hàng dễ dàng tiếp cận với các sản phẩm thông qua các kênh trực tuyến và
truyền thống như siêu thị, cửa hàng, chợ truyền thống. Ngoài ra, cần tạo điều kiện để các doanh
nghiệp có thể đầu tư và phát triển các hệ thống phân phối sản phẩm hiệu quả.
 Xây dựng các hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm: Để đảm bảo chất lượng sản phẩm, cần xây
dựng các hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm và hệ thống kiểm soát chất lượng sản phẩm. Các
doanh nghiệp cần đảm bảo sản phẩm của họ đáp ứng được các tiêu chuẩn chất lượng và an toàn vệ
sinh thực phẩm. Ngoài ra, cần phát triển các chương trình đào tạo về quản lý chất lượng sản phẩm
để nâng cao kiến thức và kỹ năng của các nhân viên trong các doanh nghiệp.
5. Tiếp tục phát triển đa dạng các loại hình kết cấu hạ tầng thương mại, kết hợp hài hoà giữa thương mại
truyền thống với thương mại hiện đại, phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của thị trường trên từng địa
bàn (khu vực, vùng, miền và cả nước); hoàn thiện hệ thống chợ truyền thống trên cơ sở nâng cấp các chợ ở
khu vực nông thôn, miền núi; khuyến khích phát triển các mô hình chợ bảo đảm an toàn thực phẩm.
 Để phát triển đa dạng các loại hình kết cấu hạ tầng thương mại, chúng ta cần tạo điều kiện thuận
lợi cho các doanh nghiệp phát triển các hình thức kinh doanh truyền thống và hiện đại. Cần có
chính sách hỗ trợ đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng cho các trung tâm thương mại, khu mua sắm, siêu
thị, khu chợ...đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân, các hộ kinh doanh có thể tham
gia vào các mô hình này.
 Đối với việc hoàn thiện hệ thống chợ truyền thống, chúng ta cần đầu tư vào cơ sở hạ tầng để cải
thiện môi trường kinh doanh và thu hút khách hàng. Cần nâng cấp cơ sở vật chất, xây dựng nhà vệ
sinh, hệ thống thoát nước, cung cấp điện nước đầy đủ và ổn định. Ngoài ra, cần cải thiện môi
trường kinh doanh, xử lý triệt để tình trạng mất trật tự, cải tạo các khu chợ truyền thống theo tiêu
chuẩn của các nước phát triển.
 Đối với phát triển các mô hình chợ bảo đảm an toàn thực phẩm, chúng ta cần tạo điều kiện cho các
đơn vị sản xuất, kinh doanh và các cơ quan quản lý chất lượng để tham gia xây dựng các chuỗi
cung ứng an toàn thực phẩm, đảm bảo chất lượng, an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng. Các cơ
quan quản lý cần tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá chất lượng sản phẩm, giúp các doanh
nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm và thúc đẩy phát triển thị trường trong nước.
6. Xây dựng, triển khai các chương trình kích cầu tiêu dùng; phát triển các kênh phân phối, thúc đẩy phát
triển mạnh thị trường trong nước. Bảo đảm cân đối cung cầu những mặt hàng thiết yếu.
7. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả,
hàng kém chất lượng, hàng không rõ nguồn gốc để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và các doanh nghiệp
cung ứng hàng hóa.
Câu 6: Những biện pháp phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại
Chủ động ngăn chặn buôn lậu, gian lận thương mại
Mục đích của Kế hoạch nhằm chủ động phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn và xử lý kịp thời, nghiêm minh
hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, mua bán, vận chuyển,
tàng trữ hàng cấm, hàng nhập lậu, hàng giả, hàng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Ổn định trật tự, bảo đảm tuân thủ quy định của pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất,
kinh doanh, xuất nhập khẩu; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội đất nước, bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của các doanh nghiệp chân chính và người tiêu dùng; nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác chống buôn
lậu, gian lận thương mại và hàng giả trong tình hình mới.
Ngăn chặn hành vi mua bán hóa đơn điện tử để trốn thuế
Ban Chỉ đạo 389 quốc gia yêu cầu Ban Chỉ đạo 389 Bộ Tài chính chỉ đạo lực lượng Hải quan tăng cường
công tác thu thập thông tin, nắm chắc tình hình trong địa bàn hoạt động hải quan; giám sát, kiểm tra, kiểm
soát chặt chẽ hành lý, phương tiện xuất nhập cảnh, hàng hóa xuất nhập khẩu qua các cửa khẩu đường bộ,
đường sắt, đường sông, đường biển; tập trung kiểm tra, kiểm soát hàng cấm, hàng lậu, hàng giả, hàng gian lận
về nguồn gốc, xuất xứ, hàng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, hàng tiêu dùng...; trao đổi, phối hợp xây dựng các
phương án, kế hoạch điều tra, xác minh, đấu tranh, ngăn chặn hiệu quả các vụ việc phức tạp, nổi cộm về buôn
lậu, gian lận thương mại và hàng giả.
Chỉ đạo lực lượng Thuế tăng cường công tác quản lý thuế, kiểm tra, kiểm soát, giám sát việc kê khai,
quyết toán thuế của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân kinh doanh để thu đúng, thu đủ, kịp thời các khoản
thuế, phí, lệ phí, khoản thu khác; quản lý chặt việc hoàn thuế, bảo đảm hoàn đúng đối tượng, đúng chế độ;
kiểm tra, rà soát đối với các doanh nghiệp có dấu hiệu rủi ro cao về thuế nhằm kịp thời phát hiện, ngăn chặn
hành vi trốn thuế, nợ đọng thuế, chuyển giá; tăng cường biện pháp quản lý, kiểm tra việc phát hành, sử dụng
hóa đơn điện tử nhằm kịp thời phát hiện, ngăn chặn hành vi mua bán, sử dụng trái phép hóa đơn điện tử để
hợp thức hàng nhập lậu, trốn thuế.
Ban Chỉ đạo 389 Bộ Quốc phòng chỉ đạo lực lượng Bộ đội Biên phòng nắm tình hình, trao đổi, chia sẻ
thông tin, thường xuyên tổ chức tuần tra, kiểm soát trên các tuyến biên giới, vùng biển để phát hiện, xử lý kịp
thời hành vi xuất nhập cảnh trái phép, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, không để hình thành các
kho, bãi tập kết, điểm chứa hàng lậu ở khu vực biên giới; tập trung đấu tranh đối với các mặt hàng trọng điểm
như ma túy, vũ khí, pháo nổ, vật liệu nổ, thuốc lá, động vật hoang dã, xăng dầu, khoáng sản, kim khí quý, đá
quý, đường cát, rượu, bia, hàng tiêu dùng...; phối hợp với chính quyền địa phương đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho cư dân biên giới.
Ban Chỉ đạo 389 Bộ Quốc phòng chỉ đạo lực lượng Cảnh sát biển tuần tra, kiểm soát, phát hiện, đấu tranh,
xử lý kịp thời các tổ chức, cá nhân lợi dụng hoạt động xuất nhập khẩu, tạm nhập - tái xuất, quá cảnh, vận
chuyển hàng hóa để buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả trên các vùng biển của Việt Nam, tập trung vào
các mặt hàng trọng điểm như ma túy, pháo nổ, vật liệu nổ, thuốc lá, xăng dầu, khoáng sản, đường cát, hàng
tiêu dùng...
Ban Chỉ đạo 389 quốc gia yêu cầu Ban Chỉ đạo 389 Bộ Công Thương chỉ đạo lực lượng Quản lý thị
trường chủ trì, phối hợp với các lực lượng chức năng nắm tình hình địa bàn nội địa; xây dựng, triển khai các
phương án, kế hoạch kiểm tra, kiểm soát, đấu tranh, ngăn chặn, xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân kinh
doanh, vận chuyển, tàng trữ hàng hóa hoặc lợi dụng hoạt động thương mại điện tử, các nền tảng mạng xã hội
để buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả; chỉ đạo Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số rà soát các trang
thông tin điện tử, ứng dụng thương mại điện tử, các nhóm mặt hàng và hành vi vi phạm phổ biến để đánh giá
đúng thực trạng, kịp thời phát hiện, trao đổi thông tin, phối hợp với các lực lượng chức năng tiến hành thanh
tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các vi phạm trong hoạt động thương mại điện tử…
Xây dựng kế hoạch đấu tranh, triệt phá các đường dây buôn lậu
Ban Chỉ đạo 138 Bộ Công an chỉ đạo lực lượng Công an toàn quốc tăng cường công tác nắm tình hình,
xây dựng kế hoạch đấu tranh, triệt phá các đường dây buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả, nhất là đối
với các loại mặt hàng xăng dầu, khoáng sản, thép, linh kiện điện tử, gỗ và sản phẩm từ gỗ, dược phẩm, thực
phẩm chức năng, rượu, bia, thuốc lá, đường cát, phân bón... và các loại hàng cấm, hàng hóa gian lận xuất
xứ...; đẩy nhanh tiến độ điều tra các vụ án về buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả nghiêm trọng, phức
tạp, được dư luận quan tâm; phối hợp chặt chẽ với Viện kiêm sát nhân dân, Tòa án nhân dân sớm đưa ra truy
tố, xét xử nghiêm minh trước pháp luật, góp phần răn đe, phòng ngừa chung;
Ban Chỉ đạo 389 Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo các lực lượng, đơn vị trong ngành tăng cường công tác
kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ các tuyến đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa, đường biển để phối hợp với
các cơ quan, lực lượng chức năng liên quan kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm các hành vi lợi dụng hoạt động
vận chuyển hàng hóa, hành khách để buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả; phối hợp các bộ, ngành, lực
lượng chức năng liên quan kiểm soát chặt chẽ các đầu mối giao thông như bến xe, ga xe lửa, bến cảng, các
trạm kiểm tra tải trọng phương tiện để kịp thời phát hiện và kiên quyết từ chối vận chuyển các loại hàng hóa
không có hóa đơn, chứng từ, hàng hóa không rõ nguồn gốc, xuất xứ.
Xử lý nghiêm hành động tiếp tay, bao che buôn lậu
Các Bộ: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Y tế, Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Tài nguyên và Môi
trường, Khoa học và Công nghệ xây dựng phương án, kế hoạch giám sát, kiểm tra, xử lý vi phạm về nguồn
gốc, tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng sản phẩm, hàng hóa là vật tư nông nghiệp, vật tư y tế, văn hóa phẩm, tài
nguyên, khoáng sản, xăng dầu, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, gia súc, gia cầm, động vật thủy sản, thuốc thú
y, dược phẩm, dược liệu, vị thuốc cổ truyền, mỹ phẩm, thực phẩm, thực phẩm chức năng, văn hóa phẩm độc
hại…
Ban Chỉ đạo 389 các tỉnh, thành phố thường xuyên trao đổi, cung cấp thông tin, xây dựng phương án, kế
hoạch kiểm tra, kiểm soát, đấu tranh, ngăn chặn, xử lý kịp thời, hiệu quả hành vi buôn lậu, gian lận thương
mại và hàng giả, không để phát sinh điểm nóng, kho, bãi, điểm tập kết, trung chuyển hàng cấm, hàng nhập
lậu, hàng giả, hàng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ... trên địa bàn quản lý; xử lý kịp thời, công khai, nghiêm
minh những tập thể, cá nhân tiếp tay, bao che, bảo kê hoặc tham gia hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại
và hàng giả…
Câu 7.Trình bày những Chính sách và biện pháp quản lý hoạt động nhập khẩu ở nước ta hiện nay
Giáo trình 6.4.2
Chính sách nhập khẩu nước ta trong các năm tới
Nhập khẩu chủ yếu là vật tư phục vụ cho sản xuất, hàng thiết yếu mà trong nước chưa sản xuất được hoặc
sản xuất chưa đáp ứng nhu cầu
Câu 8. Nêu nội dung của phương pháp tuyên truyền giáo dục. Thực tế vận dụng ở nước ta như
thế nào?
Nêu nội dung (trang 109)
Thực tế vận dụng ở nước ta: Thực hiện những chủ trương của Đảng và Nhà nước về phổ biến giáo dục
pháp luật nói trên trong những năm qua, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đã đạt được những kết quả
đáng ghi nhận sau đây:
 Một là, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đã có được cơ sở pháp lý vững chắc cho việc triển
khai các hoạt động, đặc biệt là các hoạt động phối hợp của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống
chính trị trong hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ và các tầng lớp nhân dân. Hoạt
động của Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật các cấp mà ngành Tư pháp là nòng cốt
đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của các tổ chức đoàn thể xã hội và toàn dân.
 Hai là, các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật dần dần đi vào nề nếp theo kế hoạch, chương
trình cụ thể với nhiều hình thức, biện pháp thực hiện phù hợp với từng nhóm đối tượng được phổ
biến, giáo dục pháp luật và điều kiện của địa bàn thực hiện. Nhiều hoạt động phổ biến, giáo dục
pháp luật đã được triển khai đồng bộ và mạnh mẽ trên nhiều địa bàn, nhân dân ngày càng có điều
kiện tìm hiểu pháp luật.
 Ba là, đội ngũ cán bộ làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật từng bước được xây dựng, củng
cố. Bên cạnh đội ngũ cán bộ chuyên trách của ngành tư pháp, đã thu hút được một lực lượng đông
đảo báo cáo viên, tuyên truyền viên, cộng tác viên tham gia.
 Bốn là, các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật ngày càng phong phú, đa dạng và thiết thực với
người dân hơn như: Tuyên truyền miệng; biên soạn tài liệu phổ thông dưới dạng hỏi đáp pháp luật,
tình huống pháp luật; đưa pháp luật vào giảng dạy trong trường học; tuyên truyền pháp luật trên
các phương tiện thông tin đại chúng; xây dựng câu lạc bộ pháp luật; tủ sách pháp luật xã, phường,
thị trấn, cơ quan, doanh nghiệp, trường học; thi tìm hiểu pháp luật; tuyên truyền pháp luật thông
qua hoạt động hoà giải ở cơ sở, thông qua tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, thông qua các phiên
toà xét xử công khai, lưu động... đã và đang được triển khai mạnh mẽ.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được đó, hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật có lúc vẫn còn
mang tính thời sự, nặng về phong trào; việc phổ biến hiện nay mới chỉ tập trung vào các luật và pháp lệnh,
chưa thực sự chú trọng vào các văn bản hướng dẫn thi hành; có hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật vẫn
chưa được triển khai nhiều trên thực tế như tổ chức các phiên toà xét xử lưu động kết hợp với phổ biến, giáo
dục pháp luật cho nhân dân; các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật hiện đại chưa được sử dụng triệt để,
đặc biệt là việc ứng dụng một cách có hiệu quả công nghệ thông tin vào hoạt động phổ biến, giáo dục pháp
luật. Lực lượng thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, đặc biệt là ở cơ sở còn thiếu, trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ còn hạn chế và chưa đồng đều. Bên cạnh đó, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật còn gặp
nhiều khó khăn do những hạn chế của hệ thống pháp luật như: Các văn bản pháp luật còn thiếu cụ thể, rõ
ràng, còn có sự trùng lặp, chồng chéo thậm chí mâu thuẫn nhau; nhiều văn bản thiếu tính khả thi; tính ổn định
của hệ thống pháp luật chưa cao. Mặt khác, tình trạng văn bản của nhà nước cấp trên đã ban hành nhưng vẫn
phải chờ văn bản hướng dẫn của cơ quan nhà nước cấp dưới vẫn còn, làm cho pháp luật không đi ngay vào
cuộc sống. Tình trạng Luật, Pháp lệnh phải chờ Thông tư là một thực tế làm cho pháp luật chậm đi vào cuộc
sống, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật chậm trễ, khó triển khai. Kinh phí phục vụ cho công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc.
Trong thời gian tới, để đẩy mạnh hơn nữa hiệu quả của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, ngoài việc
thực hiện các biện pháp đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp phổ biến, giáo dục pháp luật, củng cố, tăng
cường đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật, kiện toàn Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật, theo chúng tôi, cần quan tâm đến một số vấn đề sau:
1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật - tạo môi trường thuận lợi để pháp luật đi vào cuộc sống.
Một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, minh bạch, ít lỗ hổng, không chồng chéo, mâu thuẫn sẽ tự mình có
sức mạnh để đi vào cuộc sống, được xã hội chấp nhận, thừa nhận và tuân thủ.
Sau gần 20 năm đổi mới, chúng ta đã có một hệ thống pháp luật tương đối đầy đủ, điều chỉnh hầu hết các
lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội. Nếu so với thời gian 40 năm trước đó (1945-1985), thì trong gần 20
năm qua, số văn bản luật và pháp lệnh lớn hơn 40 năm cộng lại. Pháp luật đã không ngừng được phát triển và
hoàn thiện, thể chế hoá kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần vào việc ổn định
xã hội, tăng trưởng kinh tế và quan trọng nhất là tạo tiền đề cho việc xây dựng nhà nước quản lý bằng pháp
luật. Tuy vậy, hệ thống pháp luật hiện hành còn nhiều hạn chế và chính sự hạn chế này làm giảm hiệu lực của
pháp luật trong cuộc sống, ảnh hưởng đến khâu thực thi pháp luật. Các văn bản pháp luật đều có khiếm khuyết
chung như: Thiếu cụ thể, rõ ràng; trùng lặp chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn nhau; nhiều văn bản thiếu tính
khả thi; tính ổn định của hệ thống quy phạm còn yếu. Đã vậy, trong một thời gian dài, công tác rà soát, hệ
thống hoá văn bản quy phạm pháp luật chưa được chú trọng, do đó, trong thực tế có tình trạng khó phân biệt
văn bản nào còn hiệu lực, văn bản nào hết hiệu lực. Hệ thống pháp luật như vậy làm cho ngay cả những cán
bộ, công chức có trách nhiệm thực thi pháp luật cũng gặp khó khăn. Do đó, một hệ thống pháp luật muốn phát
huy tác dụng tốt trong cuộc sống, thì phải đảm bảo các yếu tố đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh
bạch theo đúng tinh thần của chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020.
2. Cần tiếp tục tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật theo hướng làm thay đổi cách nghĩ, cách nhìn
của nhân dân đối với pháp luật.
Để làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cần có sự tìm hiểu về thái độ của người dân
đối với pháp luật, họ hiểu pháp luật như thế nào? Pháp luật có vai trò gì trong cuộc sống của họ?... Có thể nói,
phần lớn người dân thường cho rằng “pháp luật” là những mệnh lệnh mà người ta cần phải tuân thủ, là hình
phạt, là trừng trị… người khác thì cho rằng, pháp luật chỉ là để giải quyết các tranh chấp. Người dân thường
chỉ quan tâm tới pháp luật khi bản thân họ phải rơi vào tình thế sự việc miễn cưỡng, lợi ích bị xâm hại… dính
líu tới pháp luật (kiện cáo, tranh chấp, bị phạt, bị cưỡng chế…). Bởi vậy, khi tuyên truyền, phổ biến giáo dục
pháp luật cần giải thích, phân tích cho người dân hiểu được rằng pháp luật không chỉ bao gồm các quy định
cưỡng chế, thực thi pháp luật, biện pháp giải quyết tranh chấp. Pháp luật còn bao gồm các quy định bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, khuyến khích sự giao dịch lành mạnh giữa các thành viên trong xã
hội vì sự phát triển và bảo đảm trật tự ổn định. Pháp luật là một môi trường thuận lợi tạo điều kiện cho con
người giao dịch với nhau trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, đảm bảo cho các thành viên trong xã hội phụ
thuộc và gắn bó với nhau một cách hợp lý. Pháp luật hôn nhân đảm bảo cho quan hệ vợ - chồng về tài sản,
con cái, … rõ ràng và ổn định; pháp luật về sở hữu là sự thừa nhận của xã hội đối với những quyền cơ bản của
mỗi con người về quyền sở hữu;… pháp luật về kinh doanh là một môi trường pháp lý phát huy sự sáng tạo và
bản lĩnh làm giàu chính đáng của các nhà doanh nghiệp, thúc đẩy sự phát triển của cá nhân làm giàu cho mình
và cho đất nước.
3. Tăng cường hơn nữa quyền tham gia đóng góp ý kiến của nhân dân vào các dự án luật.
Việc tham gia đóng góp ý kiến của nhân dân vào dự án luật có tác dụng tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật rất lớn và có hiệu quả. Thông qua lấy ý kiến vào quá trình xây dựng, ban hành và thực thi pháp luật
có tác dụng tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho người dân nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, bồi
dưỡng tình cảm, ý thức về trách nhiệm pháp lý và khả năng tiến hành các hành vi pháp lý đúng đắn, chính
xác. Đồng thời, qua hoạt động này, sẽ giúp cho nhân dân nâng cao ý thức pháp luật. Như vậy, mọi người sẽ
hiểu được về giá trị xã hội và pháp luật. Có thể nói, thái độ chấp hành hay không chấp hành của người dân đối
với pháp luật là kết quả của sự am hiểu pháp luật. Mặt khác cũng thấy rằng con người chấp hành pháp luật
một cách tự giác, nghiêm chỉnh một khi họ có thái độ đúng đắn đối với pháp luật.
4. Cung cấp đầy đủ, có hệ thống thông tin pháp luật trong từng lĩnh vực để phục vụ cho công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật.
- Bên cạnh việc thực hiện có hiệu quả các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật truyền thống, cần quan
tâm khai thác có hiệu quả các văn bản pháp luật cập nhật, lưu trữ trên mạng tin học diện rộng của Chính phủ,
mạng Internet. Xây dựng và đưa vào sử dụng rộng rãi các cơ sở dữ liệu pháp luật điện tử; tiếp tục củng cố và
phát triển các hệ thống thông tin pháp luật phù hợp tại các cơ quan nhà nước, các tổ chức, đoàn thể, doanh
nghiệp.
- Nâng cao khả năng hợp tác giữa các cơ quan, tổ chức làm công tác thông tin pháp luật tạo thành mạng
lưới thông tin pháp luật thống nhất từ Trung ương đến địa phương thực hiện việc tổ chức, quản lý và cung cấp
thông tin pháp luật.
- Hình thành các cơ quan đầu mối làm nhiệm vụ cung cấp thông tin pháp luật Việt Nam phục vụ nhu cầu
trong nước, trong khu vực và thế giới phù hợp với những cam kết quốc tế của Việt Nam về minh bạch hoá
pháp luật, trao đổi thông tin pháp luật…
5. Kết hợp phổ biến, giáo dục pháp luật và hướng dẫn áp dụng pháp luật.
Trong các hoạt động, các quyết định thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của mình, các cơ
quan nhà nước mà trực tiếp là các cán bộ, công chức nhà nước là người tổ chức thực hiện các quy định pháp
luật, xử lý vi phạm pháp luật đồng thời, thông qua thực thi công vụ kết hợp phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm
giúp cho đối tượng được áp dụng pháp luật hiểu rõ nội dung, ý nghĩa của các quy định pháp luật được áp dụng
hoặc các quy định có liên quan, hiểu và ý thức được về quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình, từ đó tự nguyện
chấp hành nghiêm túc các quyết định áp dụng pháp luật nói riêng và chấp hành pháp luật nói chung, hình
thành niềm tin pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật.
6. Kết hợp phổ biến, giáo dục pháp luật với trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật và hoà giải ở cơ sở.
Phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật và hoà giải ở cơ sở có mối quan hệ mật
thiết trong việc xây dựng ý thức pháp luật, tăng cường sự hiểu biết pháp luật, khuyến khích thói quen ứng xử
xã hội bằng pháp luật trong nhân dân. Để nâng cao hiệu quả, phát huy thế mạnh của các hình thức trên, chúng
ta cần đưa yêu cầu thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật khi tiến hành trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật vào
Quy chế hoạt động của các đoàn luật sư, Trung tâm tư vấn, Trợ giúp pháp lý. Hình thành trách nhiệm tự giác
thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật cho đối tượng, cho khách hàng khi trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật;
nâng cao chất lượng, hiệu quả và mở rộng đối tượng, phạm vi hoạt động trợ giúp pháp lý lưu động để đảm
bảo mọi người dân đều có khả năng được hưởng dịch vụ này khi cần thiết.
Đồng thời, khai thác và phát huy tác dụng, hiệu quả của hình thức trợ giúp pháp lý, luật sư, tư vấn pháp
luật, hoà giải cơ sở khi thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật. Thực hiện giải thích, hướng dẫn, phổ biến kiến
thức pháp luật liên quan đến từng vụ việc cụ thể đang trợ giúp, tư vấn cho đối tượng, giúp họ nâng cao hiểu
biết pháp luật, tự điều chỉnh hành vi xử sự phù hợp với quy định của pháp luật, tự bảo vệ được quyền và lợi
ích hợp pháp của mình
Câu 9. Chứng minh luận điểm Thương mại đóng góp to lớn cho nền kinh tế quốc dân.
Chức năng của Thương mại:
Vai trò của thương mại:
Câu 10. Phân tích nội dung quản lý nhà nước về thương mại, vận dụng thực tiễn vào tình hình VN
Nội dung của QLNN về thương mại:
 Xây dựng và ban hành hệ thống luật pháp, chính sách thương mại. Tạo môi trường và hành lang pháp lý
cho hoạt động tmai.
 Định hướng phát triển thương mại thông qua chiến lược, kế hoạch, quy hoạch phát triển thương mại.
 Kiểm tra, giám sát tình hình chấp hành pháp luạta thương mại.
 Kiểm tra, kiểm soát thị trường, điều tiết lưu thông hàng hóa và kiểm tra chất lượng hàng hóa lưu thông,
hàng hóa xuất nhập khẩu.
 QLNN về cạnh tranh, chống độc quyền và chống bán phá giá
 Tổ chức thu thập, xử lý, cung cấp thông tin; dự báo và định hướng về thị trường trong nước và ngoài
nước. QLNN về xúc tiến thương mại
 Tổ chức bộ máy QLNN về thương mại và đào tạo nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa
thương mại.
 Ký kết và tham gia các điều ước quốc tế về thương mại. Đại diện và quản lý hoạt động thương mại của
VN ở nước ngoài.
Sự cần thiết khách quan của QLNN về Thương mại ở nc ta:
QLNN về kinh tế nói chung và Thương mại nói riêng là 1 đòi hỏi mang tính tất yếu khách quan ở nc ta
hnay, xuất phát từ 4 nguyên nhân sau:
● Nền KTTT là nền kt có nhiều ưu điểm vượt trội hơn so vs các nền kt trước đó. Tuy nhiên, bản thân
nền kt này cũng tồn tại những khuyết tật: kinh doanh chạy theo lợi nhuận, cạnh tranh ko lành mạnh, phân hóa
giàu nghèo. Do vậy, để phát huy ưu điểm và khắc phục những khuyết tật đòi hỏi cần phải có QLNN trong
kt( nền kttt hiện đại là nền kttt hỗn hợp). Như vậy, Thương mại là 1 ngành, 1 lĩnh vực của nền kt => nhất thiết
đòi hỏi phải có QLNN
● Thương mại là hoạt động mang tính liên ngành và xã hội hóa cao:
- Tính liên ngành: Thương mại là khâu trugn gian giữa sx và td => hoạt động Thương mại
tất yếu có lien quan tới các ngành, các lĩnh vực khác của nền kinh tế.
- Tính xã hội hóa cao: Thương mại là 1 trong những hoạt động đầu tư nhằmthu lợi nhuận=> huy động các
nguồn lực của xã hội vào hoạt động Thương mại. đồng thời, nó đáp ứng và tạo ra của cải vật chất cho xã hội.
● Thương mại là lĩnh vực chứa đựng nhiều mâu thuẫn cơ bản của đời sống kt- xã hội: mâu thuẫn giữa chủ
thể người mua vs người bán, DN >< người ld trong dn, DN>< Nhà nc, DN ><môi trường,...

=>để giải quyết triệt để mâu thuẫn này và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khi bị xâm
phạm đòi hỏi phải có QLNN trong thương mại
● Trong hệ thống kinh doanh thương mại ở nc ta hiện nay, tồn tại 1 bộ phận là DN thương mại nhà
nước, như vậy, đối vs bộ phận dn này NN vừa là chủ đầu tư, vừa là chủ sở hữu=> phải quản lý bp DN này là
tất yếu. Mặt khác, phát triển KTTT ở nc ta hiện nay là theo định hướng XHCN, như vậy, thành phần KTNN
nói chung & DNNN nói riêng chiếm vai trò chủ đạo trong phát triển KT

Mô hình tổ chức quản lý nhà nước về Thương mại ở nc ta hiện nay:


Cùng vs những thay đổi cơ bản của Thương mại sau những năm đổi mới, hệ thống các cq QLNN về
Thương mại ở nc ta cũng đã có nhiều thay đổi cả về cơ chế, c/s & tổ chức bộ máy. Thay đổi cơ bản gần đây
nhất trong tổ chức bộ máy: 2006 sáp nhập Bộ Công nghiệp Và Bộ Thương mại => Bộ Công thương
-> Mô hình tổ chức Bộ máy quản lý NN về Thương mại ở nc ta hiện nay có thể khái quát qua sơ đồ sau:

->tổ chức quản lý NN về Thương mại ở nc ta hiện nay đc phân chia thành 2 cấp quản lý:
- cấp TW: chính phủ và các bộ ban hành chính sách, chỉ đạo,…

- cấp địa phương: sở công thương & UBND các cấp

- Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn:

·Chính phủ: cq hành pháp của QH, quản lý tổ chức các lĩnh vực của nền kinh tế cũng như mọi
mặt of đ/s xã hội

Bộ Công thương: là cq của CP, thực hiện quản lý N2 về TM & CN, trong lĩnh vực TM,
qln2 đc thực hiện bao gồm hoạt động TM nội địa, hd TM quốc tế & hd TM của VN ở nc
ngoài
Các bộ và cơ quan ngang bộ khác ( Bộ Y tế, Bộ Xây dựng,…): phối hợp cùng Bộ Công
thương thực hiện quản lý n2 trong phạm vi ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách
( cơ chế quản lý liên ngành)
Vd:
- Quản lý gạo xk:
Bộ nông nghiệp-> đưa ra dự báo sản lg
Bộ kế hoạch đầu tư->tính toán nhu cầu tiêu dùng gạo => cân đối cung cầu=> dư thừa?
Bộ công thương->giám sát các dn xk trong hạn ngạch cho phép
- Quản lý N2 về giá xăng dầu:
Bộ Công thương-> cân đối tổng cung- tổng cầu
Phối hợp vs Bộ Tài chính-> xem xét mức giá các dn đề xuất đã phù hợp?
·Sở công thương (nằm trên địa bàn các tỉnh, thành phố trực thuộc TW): là cơ quan của Bộ
Công thương, thực hiện chức năng tham mưu, tư vấn về công nghiệp và thương mại cho
UBND các cấp( 3 cấp), để các cq này thực hiện qln2 trong phạm vi lãnh thổ đc phân công
phụ trách
Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước ta hiện nay:
 Tích cực: TM trong những năm đổi mới đã có nhiều thay đổi cơ bản so vs trc đây, trong tổ chức qly
nhà nc về TM nói riêng cũng đã có nhiều thay đổi, cụ thể:
- tổ chức bộ máy: chuyển từ mô hình tổ chức “hội đồng bộ trưởng” sang tổ chức Chính phủ theo
hg hiện đại, tg đồng vs các nc trên thế giới. Đồng thời, cta tiến hành rà soát, sắp xếp lại các cơ quan
QLNN phù hợp các ngành và lĩnh vực phụ trách
- Cơ chế chính sách luật pháp: để phù hợp vs sự phát triển kte trong giai đoạn phát triển KTTT ở nc ta
hiện nay, cta đã ban hành nhiều luật mới cũng như rà soát, sửa đổi bổ sung luật hiện hành:
Luật công ty(91) -> luật dn(2000)-> sửa đổi luật dn(05)
Luật thuế Doanh thu-> Luật thuế GTGT(99)
Luật cạnh tranh(03)
Þtạo môi trường pháp lý hoàn chỉnh cho kt VN
- Con người: chuyển từ biên chế nhà nước=> hợp đồng dài hạn(03) thay đổi nhận thức
Chuyển từ Công chức => viên chức:
chế độ đãi ngộ: thay đổi hệ thống thang bậc lg
Trong những năm qua, quản lý nhà nước về thương mại Việt Nam đã có nhiều biến đổi tích cực nhằm tăng
cường năng lực cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế, bao gồm:
- Đẩy mạnh công tác đàm phán và ký kết các hiệp định thương mại tự do với các quốc gia và khu vực
khác. Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do như TPP, EVFTA, RCEP, và các hiệp
định với Mỹ, Nhật Bản, EU, Hàn Quốc, Trung Quốc, Liên minh Kinh tế Á - Thái Bình Dương
(APEC), ASEAN, ...để giảm thiểu các rào cản thương mại, tạo điều kiện cho doanh nghiệp xuất
nhập khẩu và mở rộng thị trường.
- Áp dụng các chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu hàng hóa. Chính phủ
đã triển khai nhiều chính sách hỗ trợ như chính sách thuế, chính sách tài chính, tạo điều kiện cho
doanh nghiệp tiếp cận vốn, chính sách đào tạo, chính sách hỗ trợ thị trường, giảm chi phí sản xuất,
vận chuyển và quản lý chi phí tiêu thụ hàng hóa.
- Nâng cao chất lượng quản lý thị trường và chuyển đổi cơ chế quản lý nhà nước. Các cơ quan quản
lý nhà nước đã chuyển đổi từ kiểm soát đến quản lý thị trường, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
sản xuất và tiêu thụ hàng hóa. Ngoài ra, chính phủ cũng đã ban hành nhiều chính sách về quản lý
chất lượng hàng hóa, chống hàng giả, chống buôn lậu, đảm bảo an toàn thực phẩm.
- Tăng cường đầu tư vào hạ tầng và cơ sở vật chất. Chính phủ đã đầu tư vào hạ tầng giao thông, cơ
sở vật chất, kết nối các cảng biển và các khu vực sản xuất, tạo điều kiện cho hàng hóa di chuyển và
tiếp cận thị trường.
 Hạn chế: bên cạnh những tích cực nêu trên, công tác qln2 còn tồn tại nhiều bất cập:
- Cơ chế quản lý chưa đồng bộ: Hiện nay, Việt Nam có nhiều cơ quan, đơn vị quản lý về
thương mại nhưng chưa có cơ chế quản lý đồng bộ giữa các cơ quan này. Do đó, việc phối hợp
và liên kết giữa các cơ quan vẫn chưa được tối ưu, dẫn đến một số vấn đề liên quan đến quản lý
thương mại chưa được giải quyết triệt để.
- Thiếu kinh nghiệm về quản lý thương mại: Việt Nam là một quốc gia mới nổi trong lĩnh vực
thương mại và còn đang trong giai đoạn hội nhập quốc tế. Do đó, các cơ quan quản lý thương
mại của Việt Nam chưa có đủ kinh nghiệm để đáp ứng các yêu cầu mới của thị trường và đối
tác quốc tế.
- Thiếu thông tin và dữ liệu: Hiện nay, Việt Nam vẫn chưa có một cơ sở dữ liệu thương mại đầy
đủ và chính xác. Việc thiếu thông tin và dữ liệu chính xác sẽ làm giảm khả năng đưa ra các
quyết định chính xác trong lĩnh vực thương mại.
- Việc thực thi luật pháp chưa hiệu quả: Việc thực thi các quy định pháp luật về thương mại vẫn
còn nhiều hạn chế. Một số hành vi vi phạm về thương mại vẫn diễn ra phổ biến và không được
xử lý triệt để, dẫn đến việc gây thiệt hại cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng.
- Thiếu sự minh bạch và định hướng: Hiện nay, quá trình quản lý thương mại của Việt Nam
chưa đạt được mức độ minh bạch cao. Việc thiếu sự minh bạch và định hướng sẽ ảnh hưởng
đến sự tin tưởng của người dân và các doanh nghiệp trong quá trình phát triển thương mại.
 Biện pháp:
- Nhóm các biện pháp liên quan đến tổ chức bộ máy: tiến hành rà soát, sắp xếp lại hệ thống cơ quan nhà
nước theo hướng tinh giản gọn nhẹ, nhanh chóng xây dựng Chính phủ điện tử
-Nhóm biện pháp liên quan đến cơ chế: sớm hoàn thiện hệ thống luật pháp phù hợp vs nền kttt,
có cơ chế phân cấp phân quyền cũng như giao nv cụ thể cho từng cq, đẩy mạnh cải cách thủ
tục hành chính
- Nhóm biện pháp liên quan đến con người: tìm cách nâng cao thu nhập, có chế độ đãi ngộ thỏa đáng cho
đội ngũ cb cnvc
- Xây dựng chính sách thương mại: Chính phủ cần xây dựng và triển khai các chính sách thương mại
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu hàng hóa, giảm thiểu rào cản
thương mại và thúc đẩy quan hệ thương mại với các quốc gia khác.
- Tăng cường đàm phán và ký kết các hiệp định thương mại tự do: Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh công
tác đàm phán và ký kết các hiệp định thương mại tự do với các đối tác trong và ngoài khu vực nhằm tăng
cường năng lực cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Tăng cường quản lý chất lượng và an toàn sản phẩm: Chính phủ cần tăng cường quản lý chất lượng và
an toàn sản phẩm để đảm bảo sản phẩm xuất khẩu đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế và nâng cao uy tín của
Việt Nam trên thị trường quốc tế.
- Đẩy mạnh quản lý thị trường: Các cơ quan quản lý nhà nước cần chuyển đổi từ kiểm soát đến quản lý
thị trường, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất và tiêu thụ hàng hóa.
- Hỗ trợ doanh nghiệp: Chính phủ cần triển khai các chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất và
xuất khẩu hàng hóa như chính sách thuế, chính sách tài chính, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận vốn,
chính sách đào tạo, chính sách hỗ trợ thị trường, giảm chi phí sản xuất, vận chuyển và quản lý chi phí tiêu
thụ hàng hóa.
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: Chính phủ cần đầu tư vào nghiên cứu và phát triển
công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, thúc đẩy các doanh nghiệp tiến hành đổi
mới và sáng tạo để phát triển sản phẩm và dịch vụ mới.

Câu 13. trình bày nội dung của c/s mặt hàng
Chính sách mặt hàng là nền tảng của chính sách thương mại. Trên cơ sở chính sách mặt hàng để xác định
đầu tư và cơ cấu lại sản xuất hàng hóa hợp lý. Chính sách mặt hàng quốc gia còn giúp các doanh nghiệp định
hướng chiến lược sản phẩm của mình. Chính sách mặt hàng gồm một số nội dung chủ yếu sau đây:
Trước hết là chính sách mặt hàng cấp quốc gia. Đây là những mặt hàng quan trọng đưa vào cân đối của
nhà nước và do Nhà nước quản lý tập trung. Danh mục mặt hàng này bao gồm tư liệu sản xuất và hàng tiêu
dùng có ý nghĩa quyết định đến an ninh quốc gia, những mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn của đất nước, các mặt
hàng cạnh tranh cấp quốc gia. Các vùng, các địa phương, các bộ ngành cùng xây dựng chính sách mặt hàng
của cấp mình. Chính sách mặt hàng bao gồm nhiều tầng, vừa bảo đảm tính đa dạng, phong phú về chủng loại,
vừa có mũi nhọn, chiều sâu ở cấp quốc gia, cũng như các cấp, các đơn vị của nền kinh tế quốc dân. Chính
sách mặt hàng quốc gia phải bảo đảm được cơ cấu mặt hàng hợp lý. Cơ cấu mặt hàng phải phù hợp với nhu
cầu thị trường nội địa và xuất khẩu. Cơ cấu mặt hàng là quan hệ tỷ lệ giữa các mặt hàng, nhóm hàng so với
tổng số. Mặt hàng đi vào lưu thông phải có chất lượng, mặt hàng qua chế biến phải chiếm tỷ trọng ngày càng
cao. Nội dung chủ yếu thứ hai của chính sách mặt hàng là chính sách thay thế mặt hàng nhập khẩu. Đây là
những mặt hàng mà sản xuất trong nước đã đáp ứng được yêu cầu về số lượng, chất lượng và đủ sức cạnh
tranh. Những mặt hàng này dựa trên lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, lao động và công nghệ sản xuất tiên
tiến. Đây cũng là những mặt hàng chiếm ưu thế trong cạnh tranh với hàng nhập khẩu trên thị trường nội địa.
Nhà nước có chính sách hợp lý để phát triển các mặt hàng thay thế nhập khẩu và tiến tới xuất khẩu. Chính
sách mặt hàng còn quy định các mặt hàng lưu thông có điều kiện và mặt hàng cấm lưu thông trên thị trường
nội địa, cấm xuất khẩu, nhập khẩu. Danh mục mặt hàng này do Chính phủ quy định. Đây là những mặt hàng
có ảnh hưởng lớn đến an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Các mặt hàng bị cấm buôn bán theo quy định
của công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Trước đây, danh mục mặt hàng cấm lưu thông được Chính phủ
quy định hàng năm. Từ năm 2001 Chính phủ quy định danh mục này cho cả thời kỳ 5 năm để bảo đảm tính ổn
định và tính có thể nhận biết trước của cơ chế, chính sách, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi và thế chủ động
cho các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh. Thủ tướng Chính phủ quyết định thay đổi danh mục các mặt
hàng, mặt hàng cấm kinh doanh và mặt hàng kinh doanh có điều kiện trên cơ sở đề nghị của Bộ trưởng Bộ
Công Thương và Thủ trưởng cơ quan quản lý chuyên ngành.
Ví dụ: Từ Điều 5 đến Điều 9 Nghị định số 187/2013/NĐ-CP ngày 20/11/2013 của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia
công và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài có quy định về: các mặt hàng bị cấm xuất khẩu (vũ khí, đạn dược,
di vật, cổ vật, gỗ tròn, gỗ xẻ, động thực vật hoang dã quý hiếm...); các mặt hàng cấm nhập khẩu (vũ khí, đạn
dược, pháo các loại, một số hàng tiêu dùng qua sử dụng...); các mặt hàng xuất, nhập khẩu theo giấy phép và
thuộc diện quản lý chuyên ngành của các bộ.
thứ hai, chính sách thị trường:
Ví dụ: Theo nhiều chuyên gia kinh tế đánh giá, các thị trường được coi là thị trường chiến lược của Việt
Nam như: Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU, Trung Quốc, ASEAN,... các thị trường được coi là tiềm năng của Việt
Nam như: Ấn Độ, châu Phi, Canada, Australia...
Thứ ba, chỉnh sách hỗ trợ: . Ví dụ: Các công cụ điều chỉnh (theo hướng kìm hãm) thương mại quốc tế
được sử dụng như thuế quan nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu..., các công cụ thúc đẩy thương mại quốc tế
được sử dụng như phả giá tiền tệ...
Câu 14. thành tựu và hạn chế về thương mại của nc ta giai đoạn 1986-nay
Trải qua gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội, kể từ Ðại hội VI (năm
1986), và hơn 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(năm 1991) đến nay, Việt Nam đã thu được những thành tựu to lớn, hết sức quan trọng. Thực hiện đường lối
đổi mới, với mô hình kinh tế tổng quát là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất
nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ
phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Quy mô nền kinh tế tăng nhanh
Trong suốt 35 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng. Nếu như trong giai đoạn
đầu đổi mới (1986 - 1990), mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4% thì giai đoạn 1991 -
1995, GDP bình quân đã tăng gấp đôi, đạt 8,2%/năm; các giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao;
giai đoạn 2016 - 2019 đạt mức bình quân 6,8%. Mặc dù năm 2020, kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch
bệnh Covid-19 nhưng tốc độ tăng GDP của Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu
vực, thế giới.
Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên, nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ USD/năm thì đến năm
2020 đã đạt khoảng 268,4 tỷ USD/năm. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt,
năm 1985 bình quân thu nhập đầu người mới đạt 159 USD/năm thì đến năm 2020 đạt khoảng 2.750
USD/năm.
Những nỗ lực đổi mới trong 35 năm qua đã giúp cho môi trường đầu tư liên tục được cải thiện, nhờ đó đã
thu hút ngày càng nhiều hơn vốn đầu tư cho phát triển. Tính riêng năm 2019, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội
thực hiện theo giá hiện hành đạt 2.046,8 nghìn tỷ đồng; tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 38,02
tỷ USD, cao nhất trong vòng 10 năm lại đây. Năm 2020, trong bối cảnh đại dịch Covid-19, Việt Nam vẫn là
một điểm đến tin cậy cho các nhà đầu tư với tổng vốn FDI đạt 28,5 tỷ USD. Ngoài ra, tại Việt Nam đã hình
thành các vùng kinh tế trọng điểm để làm động lực cho phát triển kinh tế vùng, miền và cả nước; phát triển
các khu kinh tế, khu công nghiệp tập trung nhằm thu hút vốn đầu tư phát triển, đồng thời hình thành các vùng
chuyên môn hóa cây trồng, vật nuôi gắn với chế biến công nghiệp... Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền
kinh tế đều có bước phát triển mạnh mẽ.
Qua 35 năm, từ chỗ thiếu ăn, Việt Nam đã trở thành một trong những nước xuất khẩu nông sản lớn trên
thế giới. Kim ngạch xuất khẩu của nhiều mặt hàng nông sản, như cà phê, gạo, hạt điều, rau quả, tôm, gỗ và
sản phẩm từ gỗ... luôn duy trì ở mức cao. Các mặt hàng xuất khẩu khác cũng có bước tiến lớn. Đặc biệt, trong
bối cảnh bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid-19 khiến hoạt động thương mại và đầu tư thế giới suy giảm, thì
tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam năm 2020 vẫn đạt 543,9 tỷ USD, tăng 5,1% so với
năm 2019; xuất siêu 19,1 tỷ USD - cao nhất trong 5 năm liên tiếp xuất siêu kể từ năm 2016. Với kim ngạch
xuất nhập khẩu ấn tượng đã đưa Việt Nam xếp thứ 22 thế giới về quy mô kim ngạch và năng lực xuất khẩu,
đứng thứ 26 về quy mô thương mại quốc tế.
Hội nhập quốc tế sâu rộng, vị thế ngày càng được nâng cao
35 năm đổi mới cũng là một chặng đường hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về
hình thức. Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế; tích cực xây dựng Cộng
đồng ASEAN 2015 và hoàn thiện thị trường trong nước đầy đủ hơn theo cam kết WTO. Đến nay, đã có 71
quốc gia công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường, trong đó có các đối tác thương mại lớn của
Việt Nam.
Từ khi gia nhập WTO đến nay, Việt Nam đã ký kết 15 FTA khu vực và song phương và đang đàm phán 2
FTA với các đối tác khác. Các FTA mà Việt Nam tham gia có độ phủ rộng hầu hết các châu lục với gần 60 nền
kinh tế có tổng GDP chiếm gần 90% GDP thế giới, trong đó có 15 nước thành viên G20 và 9/10 đối tác kinh
tế - thương mại lớn nhất của Việt Nam thuộc 3 trung tâm kinh tế lớn nhất thế giới là Bắc Mỹ, Tây Âu và Đông
Á. Do đó, việc tham gia và thực thi các FTA sẽ mang lại những cơ hội lớn cho Việt Nam, tác động tích cực tới
phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm...
Việt Nam cũng là thành viên chủ động, tích cực và có trách nhiệm cao trong các tổ chức quốc tế. Việt
Nam đã tham gia vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái
Bình Dương (APEC), các tổ chức của Liên hợp quốc... đóng góp tích cực và đang trở thành nước có vị thế và
vai trò ngày càng cao ở khu vực, được cộng đồng quốc tế tôn trọng. Bên cạnh đó, Việt Nam đã được tín nhiệm
bầu vào các cơ quan quan trọng của Liên hợp quốc, như: Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014 - 2016, Ủy
ban Di sản Thế giới của UNESCO nhiệm kỳ 2013 - 2017, Hội đồng kinh tế - xã hội của Liên hợp quốc
(ECOSOC) nhiệm kỳ 2016 - 2018.
Đặc biệt, năm 2020, Việt Nam cùng lúc đảm nhận 3 trọng trách: Ủy viên không Thường trực Hội đồng
Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN và Chủ tịch AIPA. Trong bối cảnh vô cùng khó khăn của đại dịch
Covid-19 và những thiệt hại nặng nề do thiên tai bão lũ... song Việt Nam đã hoàn thành tốt cả ba trọng trách,
góp phần nâng cao uy tín, vị thế Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Những thành tựu của 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới đã tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới của
Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo. Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử kết tinh sức sáng tạo của Đảng và
nhân dân ta, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và
xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định
thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
. Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn sản xuất với thị
trường
Về cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ trọng nông
nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1986 là 46,3%, năm 2005 còn 20,9%, năm 2010 còn 20,6%; cơ cấu trồng
trọt và chăn nuôi đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh
tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên tục với thiết
bị, công nghệ ngày càng hiện đại: năm 1988 là 21,6%, năm 2005 lên 41%. Tỷ trọng khu vực dịch vụ đã tăng
từ 33,1% năm 1988 lên 38,1% năm 2005.
Nông nghiệp có sự biến đổi quan trọng, đã chuyển từ độc canh lúa, năng suất thấp và thiếu hụt lớn, sang
không những đủ dùng trong nước, còn xuất khẩu gạo với khối lượng lớn, đứng thứ hai thế giới, góp phần vào
an ninh lương thực quốc tế; xuất khẩu cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, thủy sản với khối lượng lớn đứng thứ
hạng cao trên thế giới.
Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời
sống: ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với tốc độ nhanh; các ngành dịch vụ tài chính, ngân
hàng, tư vấn pháp lý;... có bước phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả.
Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, phát huy ngày càng tốt
hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế
Kinh tế nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tập trung hơn vào những ngành
then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế. Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới
một bước quan trọng theo hướng xóa bao cấp, thực hiện mô hình công ty, phát huy quyền tự chủ và trách
nhiệm của doanh nghiệp trong kinh doanh. Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy động ngày càng tốt hơn các
nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân, là một động lực rất quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh
tế. Năm 2005, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 38% GDP của cả nước. Kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc
dân; là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thông quốc tế, đóng góp vào ngân sách
nhà nước và tạo việc làm cho nhiều người dân.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần được hình thành, kinh tế vĩ mô cơ
bản ổn định
Trải qua hơn 25 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương đối đồng bộ. Hoạt động của các loại hình doanh
nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành phần và bộ máy quản lý của Nhà nước được đổi mới một bước quan
trọng. Với chủ trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ kinh tế của Việt Nam với các
nước, các tổ chức quốc tế ngày càng được mở rộng. Việt Nam đã tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam
Á (ASEAN), thực hiện các cam kết về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Thương mại Việt
Nam - Hoa Kỳ, gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO),... Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ thương
mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ, ký hơn 90 hiệp định thương mại song phương với các nước, tạo ra
một bước phát triển mới rất quan trọng về kinh tế đối ngoại.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện; chủ trương,
đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế hóa thành luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ,
đồng bộ hơn; môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện; các yếu tố thị trường và các loại thị trường tiếp
tục hình thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có bước phát triển mạnh.
Việc kiện toàn các tổng công ty, thí điểm thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước đạt một số kết quả. Giai
đoạn 2006 - 2010, số doanh nghiệp tăng hơn 2,3 lần, số vốn tăng 7,3 lần so với giai đoạn 2001 - 2005. Doanh
nghiệp cổ phần trở thành hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến
Câu 15. phân tích công cụ kế hoạch hóa và công cụ kinh tế trong quản lý nhà nước về TM
( Giáo trình 7.3)
Câu 16. Vai trò của kinh tế tư nhân
|tại sao tăng cường vai trò của kinh tế nội địa
Vai trò, vị trí của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế ngày càng được nhận thức rõ hơn và đánh giá đúng hơn. Kinh tế tư nhân ngày càng đóng góp lớn hơn
trong huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, cơ cấu lại
nền kinh tế, tăng thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội,
giải quyết các vấn đề xã hội.
Tỷ trọng trong GDP của khu vực kinh tế tư nhân, bao gồm cả kinh tế cá thể luôn duy trì ổn định trong
khoảng 39-40%. Bước đầu đã hình thành được một số tập đoàn kinh tế tư nhân có quy mô lớn, hoạt động đa
ngành, có khả năng cạnh tranh tốt hơn trên thị trường trong nước và quốc tế; đội ngũ doanh nhân ngày càng
lớn mạnh. Số lượng DN của tư nhân tăng nhanh với nhiều loại hình đa dạng; phong trào khởi nghiệp được đẩy
mạnh…
Mức độ đóng góp vào tổng sản phẩm trong nước của kinh tế tư nhân luôn chiếm tỷ trọng lớn và tăng liên
tục trong những năm qua. Tính đến nay, cả nước có khoảng trên 500.000 DN tư nhân đang hoạt động và mỗi
năm có thêm hàng vạn DN được thành lập mới; Thu hút khoảng 51% lực lượng lao động cả nước và tạo
khoảng 1,2 triệu việc làm cho người lao động mỗi năm, góp phần quan trọng vào quá trình tái cấu trúc nền
kinh tế, tăng thu nhập cho người dân…
Mặc dù đã khẳng được vị trí, vai trò quan trọng trong nền kinh tế, song khu vực kinh tế tư tư nhân đã bộc
lộ không ít những hạn chế, yếu kém. Tốc độ tăng trưởng của kinh tế tư nhân có xu hướng giảm trong những
năm gần đây (Giai đoạn 2003-2010 là 11,93%/năm, thì giai đoạn 2011-2015 chỉ còn 7,54%/năm).
Xuất phát điểm phát triển và năng lực nội tại của kinh tế tư nhân nhìn chung còn thấp; chủ yếu vẫn là kinh
tế hộ, cá thể. Đáng nói hơn, có tới 97% DN tư nhân có quy mô nhỏ và siêu nhỏ, trình độ công nghệ thấp và
chậm đổi mới, năng lực tài chính, năng suất lao động, hiệu quả kinh doanh còn thấp, trình độ quản trị, tính
liên kết còn yếu; khả năng tham gia chuỗi giá trị trong nước và quốc tế còn thấp.
Việc tham gia sâu vào nền kinh tế thế giới, chuỗi giá trị toàn cầu của nền kinh tế Việt Nam cũng đang tạo
nên những thách thức không nhỏ đối với khu vực kinh tế tư nhân. Cụ thể là DN khu vực này sẽ phải cạnh
tranh quyết liệt, gay gắt hơn với nhiều đối thủ trên bình diện rộng và sâu hơn ngay cả ở thị trường trong nước.
Để kinh tế tư nhân ngày càng phát triển mạnh mẽ, đúng đắn và lành mạnh hơn, thực sự trở thành một động
lực quan trọng của nền kinh tế, cần có sự hỗ trợ đặc biệt từ phía Nhà nước, cụ thể như:
- Cần tiếp tục nâng cao nhận thức để tạo sự thống nhất trong thực hiện Nghị quyết của Đảng; Khẳng định
vai trò của kinh tế tư nhân là một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế, nhất là tạo việc làm và an
sinh xã hội; Đồng thời, chủ động khắc phục những biểu hiện tiêu cực trong phát triển kinh tế tư nhân, nhất là
ý thức chấp hành pháp luật.
- Tiếp tục thể chế hóa một số nội dung Nghị quyết phù hợp giai đoạn 2017 – 2020, xác định rõ những nội
dung tiếp tục phải được thể chế hóa và nội dung không còn phù hợp, cần phải điều chỉnh, để tiếp tục đổi mới
hơn nữa cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân.
Điển hình như: Đẩy mạnh thực hiện Luật DN, Luật Đầu tư, cần quy định rõ việc thành lập và hoạt động
của tổ chức cơ sở đảng, các đoàn thể trong DN tư nhân. Đồng thời, tiếp tục hỗ trợ công tác theo dõi, phân tích
và cung cấp thông tin cho hoạt động xúc tiến thương mại, đẩy mạnh xuất khẩu cho kinh tế tư nhân.
- Thúc đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, gắn với việc cơ cấu lại các DN, trong đó có DN tư nhân.
Thực hiện đúng chính sách bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; khuyến khích và mở rộng các hình thức
hợp tác, liên kết, liên doanh giữa DN tư nhân với DN nhà nước, hợp tác xã và các DN có vốn đầu tư nước
ngoài, tạo mối quan hệ hợp tác, cạnh tranh, cùng có lợi.
- Tiếp tục đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân; kịp thời
động viên, khen thưởng, tôn vinh những DN, doanh nhân thành đạt và uốn nắn những lệch lạc, sai phạm của
kinh tế tư nhân, sớm có quy chế, tiêu chí thống nhất về xét thưởng, tôn vinh kinh tế tư nhân…
Câu 18. Nội dung phương pháp kinh tế. Ở việt nam áp dụng phương pháp này như thế nào?
Nội dung (giáo trình 108)
Liên hệ VN: Trên thế giới, phương pháp quản lý kinh tế được nhiều DN sử dụng nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng khốc liệt, do hội nhập kinh tế quốc tế, việc vận dụng
quản lý trong hoạt động DN Việt Nam hiện nay có vai trò hết sức quan trọng. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả
quản lý kinh tế trong DN Việt Nam hiện nay cần lưu ý một số vấn đề sau:
 Thứ nhất, nhà quản trị DN cần nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng của phương pháp quản lý kinh tế
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của DN và khuyến khích thúc đẩy người lao động nỗ lực cống hiến.
Lợi ích vật chất là công cụ hữu hiệu để tác động lên đối tượng để tạo ra trong họ những động lực cần
thiết cho công việc.
 Hiệu quả của phương pháp này rất vững chắc, đối tượng quản lý sẽ rất yên tâm thực hiện công việc khi
được đảm bảo các nhu cầu cuộc sống cần thiết và càng tích cực hơn khi thỏa mãn các nhu cầu ngày
càng phát triển của họ.
 Thứ hai, để có thể vận dụng hiệu quả phương pháp quản lý nhà quản trị cần phải có trình độ chuyên
môn, khả năng tính toán, hạch toán độc lập. Nhà quản trị cũng phải có khả năng thuyết phục đối với
người lao động, chẳng hạn phải làm họ hiểu rõ rằng, lao động, làm việc, cống hiến càng hiệu quả thì lợi
ích vật chất nhận về càng nhiều
 Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu đề ra, người lao động cần học tập, học hỏi và lựa chọn phương thức
quản lý phù hợp, tránh vì lợi ích mà tạo nên những căng thẳng trong môi trường làm việc hoặc thực
hiện các hành động phi pháp để đạt được kết quả.
 Thứ ba, xây dựng chính sách lương thưởng hấp dẫn để khuyến khích người lao động. Chẳng hạn như:
Có chế độ đãi ngộ đối với các nhân viên thực hiện KPI cao (được hưởng thêm 50% lương); có chính
sách thưởng “nóng” cho các cá nhân có thành tích xuất sắc, đóng góp đột biến cho đơn vị, DN...
 Thứ tư, có biện pháp “kích thích” vật chất một cách hợp lý và thỏa đáng như là một trong những con
đường cần thiết để đi đến mục tiêu trong hoạt động lãnh đạo. Bên cạnh việc áp dụng phương pháp quản
lý kinh tế, nhà quản lý cũng cần vận dụng và kết hợp một cách sáng tạo, khoa học phù hợp với từng tình
huống quản lý cụ thể các phương pháp khác, không xem nhẹ phương pháp nào.
Câu 19. Các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu ở VN
Phân tích SWOT về tình hình xuất khẩu hàng hóa Việt Nam
-STRENGTHS:
+ Việc tham gia các hiệp định thương mại tự do đã góp phần không nhỏ trong việc thúc đẩy tăng trưởng
xuất, nhập khẩu hàng hóa ở Việt Nam. Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, tổng kim ngạch xuất, nhập
khẩu của Việt Nam trong năm 2020 đã đạt trên 545 tỷ USD.
+Việc gắn tăng trưởng xuất khẩu với kiểm soát các hoạt động nhập khẩu giúp cán cân thương mại chuyển
từ nhập siêu sang xuất siêu. Trong năm 2020, Việt Nam vẫn đạt kết quả xuất siêu trên 19 tỷ USD mặc dù chịu
ảnh hưởng từ đại dịch Covid-19.
-WEAKNESSES:
+ Mức độ đa dạng hóa thị trường đối với một số mặt hàng thuộc nhóm nông sản, thuỷ sản chưa cao.
+ Đa phần hàng hóa được sản xuất với quy mô nhỏ lẻ, chất lượng chưa đồng đều, bất cập về vấn đề an
toàn vệ sinh thực phẩm, giá cả hàng hóa chưa thực sự cạnh tranh, …Khâu vận chuyển trung gian và lưu thông
phân phối hàng hóa chiếm phần lớn tỷ trọng nên giá thành chưa chiếm lợi thế
OPPORTUNITIES:
+ Việc tham gia vào các hiệp định thương mại tự do, đặc biệt là các hiệp định thương mại tự do thế hệ
mới, tạo cơ hội rộng mở để xuất khẩu của hàng hóa Việt Nam ra thị trường thế giới với mức thuế quan giảm
thấp.
+ Các mặt hàng xuất khẩu dần được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tập trung
nâng cao sản xuất sản phẩm xuất khẩu có giá trị gia tăng cao, sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao và
thân thiện với môi trường.
-THREATS:
+ Dưới tác động của xu hướng trỗi dậy của chủ nghĩa bảo hộ, xung đột thương mại và đại dịch Covid-19
đang diễn biến phức tạp trên toàn thế giới đã làm ảnh hưởng lớn đến cấu trúc các chuỗi cung ứng toàn cầu.
Hầu hết các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là Mỹ và các nước phương Tây tăng cường các biện pháp phòng
vệ thương mại, bảo vệ mậu dịch.
+ Giá cả nguyên vật liệu của một số mặt hàng tăng cao, cước phí vận chuyển quốc tế tăng mạnh; thị
trường xuất khẩu sử dụng các biện pháp kỹ thuật nhằm hạn chế hàng hóa nhập khẩu cũng tạo thêm áp lực cho
doanh nghiệp trong nước.
GIẢI PHÁP:
- Tiếp tục mở rộng thị trường xuất khẩu nhằm giúp các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực sản
xuất xuất khẩu và cạnh tranh. Đồng thời, tạo cơ hội để doanh nghiệp trong nước có cơ hội được cọ xát hơn
với thị trường thế giới, giúp cải thiện và phát triển các hoạt động sản xuất nhằm khẳng định vị thế trên thị
trường thương mại quốc tế
- Tập trung vào các sản phẩm xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ trọng sản phẩm có giá trị gia tăng cao,
sản phẩm chế biến sâu, tăng xuất khẩu sản phẩm công nghiệp, các mặt hàng chế biến.
- Áp dụng quy trình sản xuất đối với các sản phẩm xuất khẩu theo tiêu chuẩn quốc tế.
- Các phương thức xúc tiến thương mại cần được đổi mới, đặc biệt các hàng hóa có lợi thế xuất khẩu, các
thị trường tiềm năng giúp mở ra các thị trường mới cần được chú trọng, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu.
- Tăng cường các công tác theo dõi, nghiên cứu và phân tích tác động tới sản xuất, xuất khẩu của Việt
Nam nhằm tìm ra những khuyết điểm để có biện pháp ứng phó thích hợp. Đồng thời, cần quan tâm vấn đề liên
quan đến các vụ kiện phòng vệ thương mại để giúp kíp thời đưa ra các biện pháp khi cần thiết.
-Tạo lập một chuỗi liên kết giữa các doanh nghiệp xuất khẩu, bắt đầu từ các doanh nghiệp cung cấp các
nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất đến các doanh nghiệp thương mại tiêu thụ sản phẩm, để hoạt động xuất
khẩu của doanh nghiệp được hiệu quả và chủ động hơn
Định hướng chiến lược phát triển xuất khẩu giai đoạn 2021 - 2030 theo mục tiêu bền vững trên cơ sở nâng
cao năng suất, chất lượng và hiệu quả xuất khẩu, phát huy lợi thế so sánh và nâng cao năng lực cạnh tranh,
tham gia sâu và hiệu quả vào các khâu có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị toàn cầu. Thúc đẩy mạnh mẽ
chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu theo chiều sâu, hướng vào lõi công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đa dạng
thị trường xuất khẩu, đồng thời tập trung phát triển thị trường cho các sản phẩm xuất khẩu chủ lực có sức
cạnh tranh lớn, có giá trị gia tăng cao hoặc các nhóm sản phẩm có tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu lớn. Nâng cao
năng lực đáp ứng các quy định, tiêu chuẩn chất lượng, an toàn thực phẩm, tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội, môi
trường, quy tắc xuất xứ trong các FTA thế hệ mới.
Thực hiện chiến lược XKHH của Việt Nam đến năm 2030 trong bối cảnh kinh tế thế giới phục hồi sau đại
dịch COvid-19; thương mại và quy mô thị trường hàng hóa thế giới tăng trưởng mạnh; thương mại toàn cầu
đang được định hình lại khi các quốc gia nỗ lực tìm cách thúc đẩy hợp tác thương mại thông qua các hiệp định
đang được định hình lại khi các quốc gia nỗ lực tìm cách thúc đẩy hợp tác thương mại thông qua các hiệp
định khu vực hoặc liên khu vực; sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ làm thay đổi thương mại
quốc tế truyền thống và hiện đại. Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng lớn thông qua dòng
thương mại và chuỗi cung ứng toàn cầu. Chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch gia tăng và sự thay đổi chính sách
thương mại quốc tế của các nước có nguy cơ nổ ra chiến tranh thương mại.
Bối cảnh trong nước với những cơ hội mới cho XKHH đến từ đẩy mạnh cải cách thể chế và chuyển đổi
mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh dựa trên đổi mới tư duy, chú trọng đổi mới sáng tạo,
chuyển đổi số và phát triển khoa học - công nghệ. Bên cạnh đó là những khó khăn, thách thức không nhỏ đến
từ những yếu kém nội tại của nền kinh tế chậm được khắc phục, nguy cơ tụt hậu và rơi vào bẫy thu nhập trung
bình còn rất lớn, xu hướng gia tăng các thách thức an ninh thương mại phi truyền thống, đặc biệt là các vấn đề
về xã hội, môi trường và biến đổi khí hậu.
Để tận dụng được cơ hội, vượt qua thách thức, cần có những giải pháp đồng bộ và đột phá nhằm phát triển
bền vững XKHH của Việt Nam đến năm 2030, trong đó, cần tập trung vào một số giải pháp sau:

Một là, hoàn thiện cơ chế, chính sách, tạo môi trường vĩ mô thuận lợi cho XKHH.
Xây dựng, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách kinh tế, thương mại cần thực hiện đồng bộ và thường
xuyên. Rà soát lại hệ thống văn bản pháp luật và cơ chế, chính sách hiện hành để làm rõ những nội dung
không phù hợp với quy định quốc tế và cam kết trong các FTA, từ đó, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn
bản pháp quy cho phù hợp. Kiện toàn các tổ chức pháp chế của ngành, địa phương và doanh nghiệp, củng cố
hệ thống tòa án kinh tế, lao động, hành chính và các tổ chức trọng tài. Tạo dựng môi trường kinh doanh thuận
lợi, thông thoáng và minh bạch. Chủ động, tích cực tham gia xây dựng các quy tắc và luật lệ chung của Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO), Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á -
Thái Bình Dương (APEC); tích cực bảo vệ lợi ích chính đáng của Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng
Việt Nam trong các tranh chấp kinh tế, thương mại và đầu tư quốc tế.
Xây dựng thể chế kinh tế thị trường Việt Nam hiện đại, bảo đảm tính hệ thống, công khai, minh bạch và
ổn định; bảo đảm thuận lợi cho hoạt động XKHH và kiểm soát tốt, hiệu quả hoạt động nhập khẩu. Thúc đẩy
XKHH chế biến sâu, có hàm lượng công nghệ cao và khuyến khích nhập khẩu công nghệ nguồn, máy móc,
công nghệ hiện đại.
Hai là, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong XKHH.
Đổi mới mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, chất lượng, cấu trúc lại ngành, doanh nghiệp. Đầu tư phát
triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, có khả năng kết nối cao. Xây dựng các trung tâm logistics vùng, quốc
gia để tham gia mạng lưới logistics khu vực và quốc tế. Điều tra, phân loại, đánh giá khả năng cạnh tranh của
từng sản phẩm, ngành hàng, dịch vụ, từng doanh nghiệp, từng địa phương. Phát triển khu vực doanh nghiệp tư
nhân thực sự trở thành một trong những động lực chủ yếu của nền kinh tế quốc dân. Phát triển mạnh các liên
kết kinh tế, tích tụ các nguồn lực đầu tư cho phát triển sản xuất hàng hóa theo chiều sâu. Đầu tư phát triển các
thương hiệu quốc gia và Nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp đăng ký bảo hộ nhãn hiệu trên thị trường quốc tế.
Khuyến khích hình thành các vùng sản xuất hàng xuất khẩu chủ lực tập trung, tạo nguồn hàng xuất khẩu quy
mô lớn và có chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Ba là, nâng cao năng lực cạnh tranh doanh nghiệp và sản phẩm xuất khẩu.
Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và sản phẩm xuất khẩu trên cơ sở chiến lược kinh doanh
phù hợp, đổi mới phương thức kinh doanh, tăng cường tiềm lực của doanh nghiệp và phát triển các liên kết
trong và ngoài nước. Doanh nghiệp tích cực và chủ động tham gia quá trình phân công lao động quốc tế, tham
gia mạng sản xuất, mạng phân phối khu vực và quốc tế, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Cần đẩy nhanh quá
trình chuyển đổi số và kinh doanh trên nền tảng công nghệ số của doanh nghiệp. Phát triển đa dạng cả phương
thức xuất khẩu chính ngạch truyền thống và phương thức xuất khẩu hiện đại. Đặc biệt, cần đẩy mạnh áp dụng
thương mại điện tử xuyên biên giới và tham gia các sàn thương mại điện tử thế giới.

Bốn là, đa dạng thị trường XKHH.


Đẩy mạnh các hoạt động đàm phán song phương, đa phương với các thị trường, khu vực thị trường trọng
điểm, nhiều tiềm năng. Tăng cường các hoạt động xúc tiến xuất khẩu theo hướng chú trọng mở rộng thị
trường ở các nước đang phát triển, các thị trường tiềm năng và thị trường mới nổi. Đồng thời, phát triển xuất
khẩu theo chiều sâu tới những thị trường truyền thống, như Mỹ, EU, Trung Quốc, các nước Đông Á,
ASEAN...
Năm là, tận dụng hiệu quả hơn các lợi thế do các FTA mang lại.
Việc áp thuế suất thấp hoặc bằng 0% đối với hàng Việt Nam như thỏa thuận trong tổng số 17 FTA Việt
Nam đã và đang đàm phán ký kết, thực thi là động lực thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Doanh
nghiệp cần tìm hiểu kỹ và tận dụng những ưu đãi do các FTA mang lại để thâm nhập thị trường, tăng trưởng
xuất khẩu và đạt hiệu quả cao, bền vững trong XKHH.
Sáu là, tăng cường hoạt động thông tin, truyền thông trong XKHH.
Đẩy mạnh hoạt động truyền thông về các FTA, thông tin về các thị trường quốc tế, các mặt hàng xuất,
nhập khẩu. Bộ Công Thương cần chủ trì phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan biên soạn, phát hành các
ấn phẩm thông tin về xuất, nhập khẩu hữu ích với doanh nghiệp. Nhà nước cần tập trung đầu tư để có cơ sở
dữ liệu lớn (big data), phát triển mạnh cơ sở dữ liệu điện tử dùng chung và liên thông quốc gia hỗ trợ xuất
khẩu

Câu 23:phân tích nội dung của thương mại.


Trong hoạt động thương mại gồm có 2 nội dung lớn đó chính là: Mua, bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ.
Ngoài 2 nội dung này ra thì mọi hoạt động diễn ra dưới các hình thức khác nhau đều nhằm mục đích thu
lợi nhuận thì đều được xác định là hoạt động thương mại.
Mua bán hàng hóa được hiểu là việc trao đổi hàng hóa giữa bên có hàng hóa và bên có nhu cầu mua hàng
hóa trên cơ sở tự nguyện, thỏa thuận ý chí giữa các bên. Phương thức trao đổi hàng hóạ có thể do các bên mua
bán hàng hóa thiết lập trực tiếp quan hệ mua bán hàng hóa với nhau hoặc thông qua chủ thể trung gian (bên
môi giới, bên đại lý, bên nhận ủy thác mua bán hàng hóa). Hàng hóa được mua bán trao đổi có thể là hàng hóa
đang hiện hữu hoặc có thể là hàng hóa sẽ hình thành trong tương lai được phép lưu thông trên thị trường.
Mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu
hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền
sở hữu hàng hoá theo thỏa thuận. (Khoản 8 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005).
Căn cứ theo quy định tại khoản 9 Điều 3 Luật Thương mại 2005 về khái niệm cung ứng dịch vụ như sau:
Cung ứng dịch vụ là hoạt động thương mại, theo đó một bên (sau đây gọi là bên cung ứng dịch vụ) có
nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận thanh toán; bên sử dụng dịch vụ (sau đây gọi là khách
hàng) có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận. Đặc điểm của
hoạt động cung ứng dịch vụ thương mại:
Thứ nhất, về chủ thể tham gia vào quan hệ cung ứng dịch vụ thương mại
Trong hoạt động cung ứng dịch vụ thương mại có hai chủ thể: bên cung ứng dịch vụ và bên sử dụng dịch
vụ thương mại bắt buộc là thương nhân, có đăng ký kinh doanh để cung cấp dịch vụ thương mại theo quy định
của pháp luật. Bên sử dụng dịch vụ thương mại có thể là thương nhân, có thể không phải là thương nhân, có
nhu cầu sử dụng dịch vụ thương mại của bên cung ứng dịch vụ cho thương nhân, đại lý thương mại yêu cầu cả
hai bên đều phải là thương nhân; dịch vụ ủy thác mua bán hàng hóa, môi giới thương mại chỉ yêu cầu bên
nhận ủy thác, bên môi giới là thương nhân, còn bên ủy thác và bên được môi giới có thể không là thương
nhân.
Bên thuê dịch vụ còn gọi là khách hàng, đây là điểm khác biệt so với quan hệ mua bán. Chủ thể của hợp
đồng mua bán hàng hóa thường được gọi là bên mua và bên bán. Cách gọi này thể hiện được sự chuyển giao
quyền sở hữu hàng hóa giữa hai bên, khi nghĩa vụ của người bán không còn đơn thuần là giao hàng mà còn
gắn liền với nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa đó cho người mua. Còn trong hoạt động cung ứng
dịch vụ thể hiện bản chất là một bên cung cấp dịch vụ nhưng không chuyển giao quyền sở hữu dịch vụ đó, bên
kia sử dụng dịch vụ và nghĩa vụ thanh toán.
Thứ hai, Về đối tượng hướng tới của các bên tham gia quan hệ cung ứng dịch vụ.
Đối tượng cụ thể là việc thực hiện công việc theo yêu cầu của bên sử dụng dịch vụ như việc đại diện cho
thương nhân, ủy thác mua bán hàng hó, đại lý thương mại,… Bên cung ứng dịch vụ bằng khả năng của mình
phải thực hiện công việc mà bên sử dụng dịch vụ yêu cầu, còn bên sử dụng dịch vụ được hưởng những lợi ích
từ việc thực hiện dịch vụ. Đối tượng của hoạt động cung ứng dịch vụ là sản phẩm vô hình không tồn tại dưới
dạng vật chất, do đó rất khó xác định chất lượng dịch vụ bằng những tiêu chí được lượng hóa. Bên cạnh đó,
khác với hàng hóa hữu hình, dịch vụ là sản phẩm vô hình nên không thể lưu trữ được, vì vậy trong việc mua
bán hay cung ứng dịch vụ người ta không cần quan tâm đến nơi chứa dịch vụ, không quan tâm đến việc cất
giữ, tồn kho hay dự trữ dịch vụ. Điều quan trọng nhất là các bên mua bán dịch vụ phải mô tả rất kỹ về dịch
vụ, đặt ra những yêu cầu cụ thể mà mục tiêu các bên hướng tới khi mua bán dịch vụ và điều này đòi hỏi các
bên phải có sự am hiểu về tính chất của dịch vụ đó
Do vậy, đối tượng của quan hệ cung ứng dịch vụ khác với đối tượng của quan hệ mua bán hang hóa; bởi vì
quan hệ mua bán hàng hóa hướng tới đối tượng là hàng hóa hữu hình có thể nhìn thấy. Còn quan hệ cung ứng
dịch vụ thương mại hướng tới đối tượng hàng hóa vô hình hay thực hiện, không thực hiện công việc nhất
định.
Thứ ba, về mục đích của các bên tham gia quan hệ cung ứng dịch vụ thương mại
Trong hoạt động cung ứng dịch vụ thương mại thì mục đích của các bên tham gia quan hệ cung ứng không
hoàn toàn giống nhau. Bên sử dụng dịch vụ hướng tới mục tiêu nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình về dịch vụ,
được hưởng những lợi ích nhất định; đáp ứng các nguyện vọng khi đề xuất sử dụng dịch vụ từ việc thực hiện
dịch vụ của người cung ứng dịch vụ mang lại. Đối với bên cung ứng dịch vụ thương mại, mục tiêu lớn nhất
của họ là khoản tiền thù lao hay lợi nhuận phát sinh từ việc thực hiện công việc cụ thể.
Thứ tư, về hình thức của quan hệ cung ứng dịch vụ thương mại
Quan hệ cung ứng dịch vụ thương mại được xác lập dưới hình thức hợp đồng. Luật thương mại 2005 gọi
hợp đồng này không phải là hợp đồng mua bán dịch vụ mà gọi là hợp đồng cung ứng dịch vụ. Hợp đồng cung
ứng dihcj vụ là sự thỏa thuận theo đó một bên gọi là bên cung ứng dịch vụ có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho
bên khác và nhận thanh toán. Bên sử dụng dịch vụ gọi là khách hàng có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng
dịch vụ và sử sụng dịch vụ theo thỏa thuận. Tùy thuộc vào loại hình dịch vụ thương mại được cung ứng mà
hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập
bằng hành vi cụ thể. Đối với loại hợp đồng cung ứng dịch vụ mà pháp luật quy định phải xác lập bằng văn bản
thì phải tuân theo quy định đó. Dù dưới hình thức nào, hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại cũng thể hiện
sự thỏa thuận giữa các bên về các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ việc thực hiện một công việc cụ thể theo yêu
cầu.
Câu 24: Khác nhau cơ bản của thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ
Khái niệm:
- Thương mại hàng hóa là hoạt động của các chủ thể trên thị trường, có sự tham gia của bên bán và bên mua.
Việc mua bán, trao đổi hàng hoá luôn dẫn đến sự chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá từ người bán sang
người mua. Người mua được hưởng lợi trực tiếp từ việc khai thác các quyền năng sở hữu đối với hàng hoá.
- Thương mại dịch vụ là hoạt động thương mại có đối tượng là dịch vụ, diễn ra giữa bên cung ứng dịch vụ và
sử dụng dịch vụ, đây là quá trình liên hoàn bao gồm nhiều khâu có liên quan mật thiết với nhau.
Câu 27. So sánh thương mại nội địa và thương mại quốc tế
Thương mại nội địa ( Nội thương) là việc trao đổi hàng hóa trong nước, trong phạm vi ranh giới của một
quốc gia. Thương mại nội địa được chia làm 2 loại: bán buôn và bán lẻ. Nội thương bao gồm các hình thức
như: chợ dân sinh, siêu thị, trung tâm thương mại,… Các hoạt động liên quan đến nội thương liên quan đến
kinh doanh bán buôn, đầu tư vào các kho hàng từ nhà sản xuất và đại lý địa phương sau đó bán chúng với lợi
nhuận khác nhau trong phạm vi lãnh thổ quốc gia.
Thương mại quốc tế (Ngoại thương) chính là những hoạt động buôn bán, trao đổi hàng hoá trên thị
trường giữa các quốc gia với nhau, hoạt động mua bán này vượt qua khỏi phạm vi trong nước thì được gọi là
ngoại thương, trong đó bao gồm cả những doanh nghiệp trong nước xuất nhập khẩu hàng hoá đối với quốc gia
khác. Hoạt động ngoại thương đã phát triển từ rất lâu, điển hình là buôn bán gia vị và sự hình thành con
đường tơ lụa ở Trung Đông đến các hoạt động giao thương, vận chuyển hàng hóa từ Á

sang Âu như hiện nay. Ở hầu hết các quốc gia, hoạt động thương mại chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng
sản phẩm quốc nội (GDP)
Lĩnh vực hoạt động: như đã phân tích ở trên. Thương mại nội địa là các hoạt động buôn bán trong phạm vi
trong nước. Thương mại quốc tế là các hoạt động buôn bán trên phạm vi toàn cầu.
Các loại tiền tệ khác nhau: Trong khi thương mại nội địa sử dụng đơn vị tiền tệ quốc gia để giao dịch thì
Thương mại quốc tế giao dịch với nhau bằng nhiều loại tiền tệ khác nhau. Sự biến động của tỷ giá hối đoái có
thể ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
Chính sách và quy định: Các quy định về hoạt động Nội thương sẽ do nhà nước quy định. Tuy nhiên đối
với các hoạt động Ngoại thương thì các doanh nghiệp tham gia vào chuỗi kinh doanh phải chủ động tìm hiểu,
tuân thủ các quy định cũng như chính sách đặc thù của mỗi quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau.
Thị trường mục tiêu và khách hàng: Khi kinh doanh ở thị trường nội địa, mục tiêu của nghiên cứu thị
trường và khách hàng sẽ dễ dàng hơn khi doanh nghiệp chinh chiến trên thị trường quốc tế. Do khác biệt về
ngôn ngữ, văn hóa,.. sẽ là rào cản đối với các hoạt động kinh doanh và nghiên cứu thị trường của doanh
nghiệp.
Vận chuyển và hậu cần: Vận chuyển quốc tế mang nhiều rủi ro và bao gồm nhiều bước phức tạp liên quan
đến vận tải và hậu cần quốc tế hơn so với cách thức vận chuyển trong nước. Doanh nghiệp cần tìm hiểu kỹ
càng các quy trình, quy định về vận chuyển quốc tế, quy trình bảo quản hàng xuất khẩu để tránh những rủi ro
không đáng có.
Nói tóm lại, Thương mại quốc tế tạo ra nhiều cơ hội để doanh nghiệp mở rộng giao tiếp và phát triển. Mặc
dù vẫn bao gồm rất nhiều rủi ro nhưng nếu doanh nghiệp có đủ kiến thức và kỹ năng, thành công chỉ là yếu tố
sớm muộn mà thôi.

STT HĐTM quốc tế HĐTM nội địa


Là hoạt động TM diễn ra giữa các nước (hay 2 Là HĐTm chỉ diễn ra trong nội bộ quốc
1
chủ thể có quốc tịch khác nhau) gia, giữa các tế bào kinh tế của quốc gia
HĐTm quốc tế diễn ra ở nc ngoài, DN thường HĐTM diễn ra trong nước và gặp ít rủi
2
gặp rủi ro hơn ro hơn
HĐTM quốc tế buộc phải diễn ra tại nhiều mt
HĐTM nội địa diễn ra dễ dàng hơn do
kinh doanh khác nhau, phức tạp nên DN phải
thường chỉ chịu sự chi phối của luật
3 thích ứng để hoạt động hiệu quả (VD hoạt động
trong nước nên DN ít phải linh hoạt vs
tmqt đc điều chỉnh bởi nhiều luật khác nhau hoặc
mt kinh doanh
các hiệp ước…)
Hàng hóa trong tmqt thường vận chuyển qua
biên giới quốc gia (có thể là biên giới mềm đối Hàng hóa trong tm nội địa không vượt
với xuất khẩu tại chỗ, đưa hàng vào khu chế xuất qua biên giới quốc gia cho nên việc vận
4
đặc biệt…) cho nên chịu sự quản lý của bộ phận chuyển giao hàng dễ dàng hơn, ko nhiều
hải quan nên việc vận chuyển, giao hàng hóa thủ tục như tmqt
dịch vụ gặp nhiều khó khăn hơn
Tiền tệ trong tmqt chắc chắn phải là ngoại tệ đối Tiền tệ có thể là ngoại tệ hoặc nội tệ tùy
5
với ít nhất 1 chủ thể qui định của Dn và pháp luật nhà nước.

Câu 28: Làm rõ sự khác nhau cơ bản của “thương mại truyền thống” và “thương mại hiện đại”
Điểm khác biệt rõ rệt nhất của hình thức modern trade và traditional trade có thể là hệ thống phân phối
hàng hóa. Traditional trade thường có mạng lưới phân phối phức tạp và có tổ chức hơn so với hình thức
modern trade.
Ở hình thức thương mại truyền thống thì các đại lý bán lẻ thường có xu hướng liên kết trực tiếp với nhà
sản xuất, tùy theo từng lĩnh vực kinh doanh mà các doanh nghiệp có thể lựa chọn hình thức phân phối gián
tiếp hoặc trực tiếp.
Khác với hình thức thương mại truyền thống thường cung cấp hàng hóa bằng hình thức mua hàng trực tiếp
và thanh toán tiền mặt tại các cửa hàng, thì hình thức thương mại hiện đại được kết hợp hình thức bán hàng
trực tuyến và thanh toán bằng hóa đơn điện tử.
Với hình thức thương mại hiện đại mọi giao dịch mua bán hàng hóa có thể diễn ra ở khắp mọi nơi, mọi lúc
mà không cần phải phụ thuộc vào thời gian mở đóng cửa hay địa điểm của cửa hàng cung cấp như hình thức
thương mại truyền thống.
Ở các thị trường truyền thống, chủ cửa hàng không chỉ là người giữ cửa mà còn giữ được lợi nhuận trong
giao dịch. Mặt khác, hầu như không có chủ sở hữu để được nhìn thấy của khách hàng trong thương mại hiện
đại như cửa hàng đa thương hiệu trong các trung tâm mua sắm lớn và các cửa hàng điện tử.
Khi toàn bộ thị trường đứng trước khách hàng dưới dạng màn hình di động 2X2 ", nó tạo nên sự khác biệt
giữa cách mọi người mua trên các thị trường truyền thống và cách họ làm trong thế giới hiện đại.
Thương mại hiện đại có thể được thực hiện bất cứ lúc nào bất cứ nơi nào trên thế giới ngay cả khi người
tiêu dùng bay qua bầu trời hoặc bên trong một tàu chạy. Mặt khác, thương mại truyền thống đòi hỏi sự hiện
diện của khách hàng trong cửa hàng và hiển thị tất cả các mặt hàng được bán.
Tự phục vụ là đặc điểm chính của việc mua hàng trong thương mại hiện đại, trong thương mại truyền
thống, việc hiển thị và bán hàng là về nhân viên bán hàng và người bán hàng.

Câu 29. So sánh thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ.
Khái niệm:
- Thương mại hàng hóa là hoạt động buôn bán các sản phẩm vật chất, chẳng hạn như hàng hóa, sản phẩm công
nghiệp, nông sản, thực phẩm, dược phẩm, vật liệu xây dựng, máy móc thiết bị và các sản phẩm khác. Trong
thương mại hàng hóa, khách hàng thường tìm kiếm sản phẩm cụ thể, đánh giá chất lượng, giá cả, thương hiệu,
dịch vụ hậu mãi và các yếu tố khác để đưa ra quyết định mua hàng.
- Thương mại dịch vụ, tương tự như thương mại hàng hóa, là một hoạt động thương mại, nhưng thay vì buôn bán
sản phẩm vật chất, nó cung cấp các dịch vụ cho khách hàng, như dịch vụ tài chính, du lịch, giáo dục, y tế, tư
vấn, giải trí và các dịch vụ khác. Khách hàng trong thương mại dịch vụ thường đánh giá chất lượng dịch vụ, giá
cả, trải nghiệm khách hàng, tính chuyên nghiệp của nhân viên và các yếu tố khác để đưa ra quyết định sử dụng
dịch vụ.
Giống nhau: đều là sự mua bán, trao đổi giữa hai chủ thể đối với một đối tượng nào đó, đồng thời phải
tuân thủ theo các luật lệ đã đặt ra.
Khác nhau:
+ Đối tượng: của TMHH, là sản phẩm hữu hình; còn đối tượng của TMDV là sản phẩm vô hình.
+ TMHH không có vai trò trung gian; còn TMDV có vai trò trung gian đối với sản xuất và TMHH, nên
phát triển tmdv có ảnh hưởng gián tiếp lên tất cả các ngành của nền kinh tế.
+ Sản phẩm của TMHH là vật vô tri vô giác, nếu đi qua biên giới sẽ bị kiểm soát nhưng không phức
tạp như kiểm soát trong tmdv. Còn thương mại dv khi lưu thông qua biên giới chịu tác động bởi tâm lý,
tập quán, truyền thống văn hóa, ngôn ngữ và cả tính của người cung cấp và NTD; việc kiểm soát tmdv
qua biên giới sẽ phức tạp hơn nhiều.
1. Tính chất sản phẩm: Thương mại hàng hóa liên quan đến các sản phẩm vật chất, còn thương mại dịch
vụ liên quan đến các dịch vụ vô hình.
2. Tính chất của khách hàng: Khách hàng trong thương mại hàng hóa thường tìm kiếm các sản phẩm cụ
thể, trong khi khách hàng trong thương mại dịch vụ tìm kiếm các dịch vụ cụ thể.
3. Tính chất của quy trình: Quy trình trong thương mại hàng hóa thường liên quan đến sản xuất, vận
chuyển và bán hàng, trong khi quy trình trong thương mại dịch vụ liên quan đến việc cung cấp dịch vụ
cho khách hàng.
4. Tính khả năng tách rời: Sản phẩm trong thương mại hàng hóa thường dễ dàng tách rời và vận chuyển
đến nơi khác để bán hàng, còn trong thương mại dịch vụ, dịch vụ thường khó tách rời và phải được cung
cấp tại địa điểm mà khách hàng đang có nhu cầu sử dụng.
5. Tính cạnh tranh: Trong thương mại hàng hóa, cạnh tranh thường dựa trên giá cả, chất lượng, thương
hiệu và các yếu tố khác của sản phẩm. Trong thương mại dịch vụ, cạnh tranh thường dựa trên chất
lượng dịch vụ, tính chuyên nghiệp của nhân viên, trải nghiệm khách hàng và các yếu tố khác.
6. Tính chất của chi phí: Chi phí trong thương mại hàng hóa thường liên quan đến chi phí sản xuất, vận
chuyển và lưu kho, trong khi chi phí trong thương mại dịch vụ thường liên quan đến chi phí nhân viên,
chi phí quảng cáo và các chi phí khác liên quan đến việc cung cấp dịch vụ.
7. Tính cách thức thanh toán: Thanh toán trong thương mại hàng hóa thường được thực hiện bằng cách
trao đổi tiền mặt hoặc chuyển khoản trực tuyến, trong khi trong thương mại dịch vụ, thanh toán thường
được thực hiện sau khi dịch vụ được cung cấp và thường sử dụng các phương thức thanh toán như thẻ
tín dụng, chuyển khoản ngân hàng hoặc thanh toán qua các nền tảng trực tuyến.

Câu 30. So sánh thương mại bán buôn và thương mại bán lẻ.
Khái niệm:
- Bán buôn là hoạt động bán hàng hóa cho thương nhân, tổ chức khác; không bao gồm hoạt động bán
hàng trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng
- Bán lẻ là hđ bán hàng hóa trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng.
Giống nhau: đều là các loại hình thương mại, nghĩa là bán các sản phẩm ra thị trường tiêu dùng. Nó
đều thuộc khâu phân phối lưu thông.
Khác nhau:
+ TM bán buôn là bán với số lượng lớn sản phẩm, ngược lại bán lẻ là bán từng sản phẩm
+ Đối tượng của bán buôn là các đại lý, siêu thị, nhà phân phối sỉ... còn đối tượng của bán lẻ là người
tiêu dùng cuối cùng, khách hàng dùng trực tiếp các sản phẩm.
+ Về giá cả: bán buôn có giá trên từng sản phẩm thấp hơn bán lẻ, đơn giản vì người ta bán 1 sản
phẩm lãi ít đi nhưng với số lượng nhiều trong 1 lần giao dịch thì tổng lợi nhuận sẽ nhiều; bản lẻ sẽ có
giá thành sản phẩm cao hơn vì số lượng sản phẩm 1 lần giao dịch ít.
+ Bán buôn có tầm ảnh hưởng đến thị trường nhiều hơn bán lẻ. Khi 1 nhà bán buôn cố ý bán 1 sản
phẩm với mức giá rất rẻ (tùy mục đích của họ) thì thị trường ở nơi đó sẽ có phần ảnh hưởng về giá.
Còn 1 cửa hàng bán 1 sản phẩm đắt hơn cửa hàng kia 1 chút thì không ảnh hưởng đến thị trường.
1. Đối tượng khách hàng: Thương mại bán buôn thường hướng đến các khách hàng là các doanh nghiệp,
tổ chức, còn thương mại bán lẻ thường hướng đến các khách hàng là người tiêu dùng cuối cùng.
2. Số lượng sản phẩm: Trong thương mại bán buôn, số lượng sản phẩm bán ra thường là số lượng lớn,
trong khi trong thương mại bán lẻ, số lượng sản phẩm bán ra thường là số lượng nhỏ hoặc vừa phải.
3. Giá cả: Trong thương mại bán buôn, giá cả thường thấp hơn so với thương mại bán lẻ do số lượng sản
phẩm được mua lớn hơn, còn thương mại bán lẻ giá cả thường cao hơn do sản phẩm được bán ở số
lượng nhỏ hơn.
4. Mối quan hệ giữa người bán và người mua: Trong thương mại bán buôn, mối quan hệ giữa người bán
và người mua thường được xây dựng dựa trên mối quan hệ kinh doanh chuyên nghiệp và thường ít có
mối quan hệ cá nhân. Trong khi đó, trong thương mại bán lẻ, mối quan hệ giữa người bán và người mua
thường có tính chất cá nhân hơn và có thể xây dựng dựa trên mối quan hệ tương tác xã hội.
5. Thời gian giao dịch: Trong thương mại bán buôn, giao dịch thường diễn ra trong thời gian ngắn hơn so
với thương mại bán lẻ, bởi vì người mua thường đã có quyết định và chỉ muốn mua sản phẩm với giá
thấp nhất có thể. Trong thương mại bán lẻ, giao dịch thường mất nhiều thời gian hơn, vì người mua
thường muốn tìm hiểu và so sánh sản phẩm trước khi quyết định mua hàng.

You might also like