Professional Documents
Culture Documents
+Về chính trị: Môi trường chính trị Việt Nam được đánh giá là tương đối ổn định. Theo báo cáo Chỉ
số Hòa Bình toàn cầu năm 2013 của Viện Kinh tế và Hòa Bình, Việt Nam xếp hạng thứ 41/158 nước
và vùng lãnh thổ và được đánh giá cao về ổn định chính trị.
+Về pháp luật: Lộ trình điều chỉnh thuế Thu nhập doanh nghiệp (TNDN) từ 32% (1997) cho đến
25% (2009) và gần đây nhất là 22%(hiệu lực 01.01.2014), 20% (hiệu lực 01.01.2016) đã tạo một
bước tiến lớn. Luật thuế XNK cho phép miễn thuế cùng với đó là sự ra đời những hiệp định về ưu
đãi thuế xuất nhập khẩu trong phạm vi các nước ASEAN, WTO
+Về văn hóa – xã hội: Việt Nam là nước có lực lượng lao động dồi dào và ngày càng được nâng cao
chuyên môn tay nghề, giá nhân công Việt Nam đang thấp hơn rất nhiều so với các quốc gia trong
khu vực.và áp lực tăng lương không cao, bước đầu tạo thuận lợi cho những nhà đầu tư mới.
VN đạt chỉ số thuận lợi kinh doanh là ở mức 70/190, đứng t4 trong ASEAN. Năm 2021, theo số liệu
của Tổng cục Thống kê, quy mô GDP của Việt Nam tăng trưởng 2,58%; tức đạt 278,2 tỷ USD, GDP
bình quân đầu người của Việt Nam đạt 2.824,1 USD; có sự tăng nhẹ so với năm trước,..
+Về khoa học – công nghệ: Hiện nay, Việt Nam đào tạo được trên 1,8 triệu cán bộ có trình độ Đại
học và cao đẳng trở lên với trên 30 nghìn người có trình độ trên đại học. thêm vào đó là khoảng hơn
2 triệu công nhân kỹ thuật, trong đó có hơn 34 nghìn người trực tiếp làm việc trong lĩnh vực Khoa
học – công nghệ thuộc khu vực nhà nước.
Hệ thống pháp luật về khoa học và công nghệ được tạo lập và ngày càng hoàn thiện Việt Nam xây
dựng được một mạng lưới các tổ chức Khoa học – công nghệ với trên 1.100 tổ chức nghiên cứu và
phát triển thuộc mọi thành phần kinh tế
- Mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2011-2020, có 4 định hướng chính cho việc thu
hút FDI vào Việt Nam: Chất lượng và hiệu quả cao; phát triển bền vững, xây dựng nền kinh tế ít các
bon; có sự cam kết về chuyển giao công nghệ thích hợp với từng ngành, từng dự án và lao động có
kỹ năng cao.
- Sau khi Luật Đầu tư 2005 được ban hành, nhằm tương thích với các quy định của WTO, chính sách
ưu đãi đầu tư của Việt Nam đã có sự thống nhất, không còn phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư trong
nước và nước ngoài. Nhiều tiêu chí để xác định đối tượng được ưu đãi thuế cũng được điều chỉnh,
bãi bỏ như không còn ưu đãi thuế đối với hàng xuất khẩu (trợ cấp xuất khẩu) hoặc với hàng hoá có
tỷ lệ nội địa hoá cao. Đối tượng ưu đãi thuế dựa trên 2 tiêu chí chính: ưu đãi theo địa bàn (khó khăn
và đặc biệt khó khăn) và theo lĩnh vực.
- Về hình thức ưu đãi, ngoài các hình thức ưu đãi quen thuộc như thuế thu nhập doanh nghiệp, tiền
thuê đất, thuế xuất nhập khẩu, bắt đầu xuất hiện thêm nhiều hình thức ưu đãi khác như: ưu đãi thuế
thu nhập cá nhân cho người lao động, hỗ trợ chi phí thủ tục hành chính, chi phí đầu tư hạ tầng, hỗ trợ
lãi suất, trợ giá, bao tiêu sản phẩm đối với một số ngành rất khó thu hút đầu tư như năng lượng sạch,
hoá dầu…
- Các chính sách ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) trong thu hút đầu tư của Việt Nam
là rất hấp dẫn so với các nước trong khu vực. Theo Nghị định 218/2013/NDCP, thuế suất thuế thu
nhập doanh nghiệp là 22%, trừ trường hợp các doanh nghiệp có tổng doanh thu không quá 20 tỷ
đồng/ năm hoặc các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí và
tài nguyên quý hiếm của Việt Nam.
Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2016, những trường hợp thuộc diện áp dụng thuế suất 22% quy định tại
Khoản này áp dụng thuế suất 20%.
Các dự án FDI có giá trị cao vào Việt Nam có thể kể đến: Samsung (20 tỷ USD vào nhà máy sản
xuất điện thoại, xuất khẩu trên 50 tỷ USD/năm; sử dụng 130.000 lao động); Intel (1 tỷ USD vào nhà
máy lắp ráp và thử nghiệm chip siêu nhỏ, sử dụng 3.000 lao động); LG (4 tỷ), GE, Mitsubishi,
Sanofi, Panasonic…
Lĩnh vực khai thác mỏ và khai thác đá nhận được tỷ trọng lớn nhất của FDI, FDI đã xuất hiện đáng
kể trong lĩnh vực O&G trong thời gian tăng giá dầu. Kể từ đó, FDI đã tập trung vào các ngành công
nghiệp hạ nguồn, bao gồm cả các dự án lớn của ngành công nghiệp Hengyi (3,4 tỷ USD, 2017-20)
và ngành công nghiệp phân bón Brunei (1,3 tỷ USD, 2017-21). Ngoài ra, FDI vào các ngành công
nghiệp ưu tiên khác nhưng nhỏ hơn đáng kể.
Lĩnh vực khai thác mỏ và khai thác đá nhận được tỷ trọng lớn nhất của FDI, FDI đã xuất hiện đáng
kể trong lĩnh vực O&G trong thời gian tăng giá dầu. Kể từ đó, FDI đã tập trung vào các ngành công
nghiệp hạ nguồn, bao gồm cả các dự án lớn của ngành công nghiệp Hengyi (3,4 tỷ USD, 2017-20)
và ngành công nghiệp phân bón Brunei (1,3 tỷ USD, 2017-21). Ngoài ra, FDI vào các ngành công
nghiệp ưu tiên khác nhưng nhỏ hơn đáng kể.
3. Chính sách đầu tư
Các luật và quy định về FDI của Brunei:
(1) Đăng ký kinh doanh:
Tất cả các doanh nghiệp tại Brunei phải đăng ký với Bộ phận Đăng ký công ty và tên thương mại
thuộc Bộ Tài chính. Ngoại trừ doanh nghiệp tư nhân và các hợp doanh, các nhà đầu tư nước ngoài
có thể sở hữu toàn bộ công ty, các chi nhánh và văn phòng đại diện công ty nước ngoài.
(2) Khuyến công:
Thông qua Sắc lệnh Khuyến khích đầu tư năm 2001, Brunei muốn kích thích phát triển kinh tế bằng
cách khuyến khích việc thành lập và mở rộng các doanh nghiệp công nghiệp và kinh tế cụ thể.
(3) Các ngành tiên phong:
Các ngành công nghiệp được tuyên bố là các ngành công nghiệp tiên phong và các sản phẩm tiên
phong bao gồm: Kinh doanh nông nghiệp (phân bón và thuốc trừ sâu); Máy móc thiết bị nông
nghiệp, xây dựng, thiết bị nặng (nhà máy xi măng, sản xuất máy móc thiết bị điện công nghiệp và
máy cán thép, tấm kim loại); Hóa chất, hóa dầu, nhựa và các vật liệu tổng hợp,..
(4) Các công ty dịch vụ tiên phong:
Các hoạt động được công bố là các dịch vụ tiên phong bao gồm: Kinh doanh nông nghiệp; Kiến trúc
và kỹ thuật công trình; Ô tô và vận chuyển đường bộ ; Giáo dục; Tài chính; Công nghệ y tế ; Thông
tin và truyền thông,..
(5) Vốn vay nước ngoài để mua các thiết bị sản xuất:
Người cho vay không thường trú sẽ bị áp thuế thu nhập 20% đối với lãi suất thanh toán. Chính phủ
có thể cho miễn thuế đối với khoản vay nước ngoài đã được phê duyệt nếu khoản vay đó được sử
dụng để mua thiết bị sản xuất.
(6) Các hạn chế về quyền sở hữu tư nhân đối với người nước ngoài:
Không có giới hạn nào về quyền sở hữu nước ngoài trong các công ty được thành lập tại Brunei.
(7) Sàng lọc vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Cơ quan Phát triển Kinh tế Brunei (BEDB), đang phối hợp với Bộ phận Invest thuộc Trung tâm
hành động và Hỗ trợ FDI (FAST) để đánh giá các đề án đầu tư, liên lạc với các cơ quan chính phủ
và tiếp nhận phê duyệt dự án
(8) Các chính sách ưu đãi đầu tư:
Các công ty tham gia vào hoạt động xuất khẩu sản phẩm của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và
thủy sản có thể nộp đơn xin giảm thuế trên lợi nhuận xuất khẩu. Đối với các doanh nghiệp không
phải tiên phong, thời gian giảm thuế là 8 năm và lên đến 11 năm đối với các doanh nghiệp tiên
phong.
Thuế suất thu nhập doanh nghiệp tại Brunei đã giảm từ 30% (năm 2007 và trước đó) xuống tới mức
hiện nay là 18,5% (tứ năm 2015 trở đi). Các doanh nghiệp tư nhân và hợp doanh không phải chịu
thuế. Các cá nhân không phải trả bất kỳ thuế thu nhập và lợi nhuận phát sinh từ việc bán tài sản vốn
không phải chịu thuế.
Thuận lợi
Phát triển cơ sở hạ tầng:
Động lực đa dạng hóa nền kinh tế đã dẫn đến chi tiêu đáng kể cho các dự án cơ sở hạ tầng khác
nhau trên khắp đất nước, từ các khu công nghiệp đến viễn thông cho đến mạng lưới giao thông quốc
gia. Chính phủ sẽ tiếp tục cải thiện kết nối đường bộ, đường biển và đường hàng không để tăng
năng suất, cũng như cung cấp nước và điện không bị gián đoạn cho các hộ gia đình và doanh
nghiệp.
Ổn định chính trị:
Brunei có nền chính trị ổn định nổi bật được lãnh đạo bởi một chế độ quân chủ nhân từ kéo dài liên
tục trên 600 năm, Ngoài ra, nước này có quan hệ thương mại toàn diện với các nước ở Trung Đông,
tạo điều kiện thuận lợi cho việc kinh doanh và liên doanh kinh doanh trong nước.
Ngành công nghiệp dầu khí mạnh mẽ:
Dầu khí đã trở thành xương sống của nền kinh tế Brunei kể từ năm 1929. Cùng với những nỗ lực đa
dạng hóa và việc tiếp cận dễ dàng với các nguồn tài nguyên dầu khí, Brunei là một địa điểm hoàn
hảo để xây dựng các ngành công nghiệp liên quan đến dầu khí.
Cơ sở hạ tầng hiện đại:
Cơ sở hạ tầng xã hội và kinh doanh phát triển tốt được ưu tiên trong kế hoạch phát triển của Brunei
và đóng một vai trò quan trọng trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh và tính hấp dẫn của đất
nước này trong thu hút đầu tư.
Vị trí chiến lược:
Brunei nằm ở trung tâm của khu vực Đông Nam Á và dọc theo tuyến giao thương hàng hải Đông-
Tây, khả năng kết nối thuận lợi giữa Brunei với các nền kinh tế đang phát triển trong khu vực đã
khiến nước này trở thành một địa điểm lý tưởng cho các hoạt động định hướng xuất khẩu.
Các chính sách ưu đãi đầu tư hấp dẫn:
Chế độ thuế tự do nhất trong khu vực và có mức thuế thu nhập doanh nghiệp thuộc hạng thấp nhất ở
Brunei. Nước này cũng không có các loại thuế thu nhập cá nhân, doanh thu, sổ lương, xuất khẩu,
thặng dư vốn hoặc sản xuất.
Có nhiều khu công nghiệp:
Brunei có nhiều khu công nghiệp có sẵn các cơ sở hạ tầng hỗ trợ để tạo điều kiện cho các nhà đầu tư
xây dựng các dự án đầu tư công nghiệp mới ở Brunei.
Khó khăn khi đầu tư vào Brunei
Với dân số khoảng 441,000 người, thị trường trong nước của Brunei tương đối nhỏ bé. Các doanh
nghiệp nước ngoài được phép sở hữu 100% trong các hoạt động kinh doanh và đầu tư. Do vậy, các
nhà đầu tư nước ngoài không cần phải tìm kiếm một đối tác trong nước để tham gia thị trường. Tuy
nhiên, trong một số trường hợp để tham gia thị trường, các công ty nước ngoài có thể phải tìm một
đối tác trong nước để có đủ điều kiện cho một số dự án chính phủ. Các doanh nghiệp/ nhà đầu tư
nên dự trù khả năng chậm trễ, đôi khi khá lâu khi giao dịch với chính quyền địa phương.
Chỉ số bảo vệ nhà đầu tư của Brunei là 87 (cập nhật năm 2017), chỉ ở mức trung bình. Bên cạnh đó,
Luật Sharia (luật Hồi giáo) ở Brunei, cấm cả rượu và Thiên Chúa giáo, chính sách duy trì tỷ giá
ngang bằng tiền Singapore nên Brunei trở thành một trong những nơi sinh sống và làm việc đắt đỏ
nhất khu vực khiến cho Brunei trở thành một điểm đến kém hấp dẫn với các nhà đầu tư.
Trữ lượng dầu mỏ khổng lồ từng khiến Brunei trở thành quốc gia giàu nhất Đông Nam Á tính theo
bình quân đầu người. Tuy nhiên, quốc gia này hầu như không đa dạng hóa nền kinh tế ngoài lĩnh
vực dầu khí dẫn đến nền kinh tế tăng trưởng chậm chạp.
III. Cơ sở hợp tác đầu tư giữa Việt Nam và Brunei
Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam- Brunei là mối quan hệ song phương giữa hai nước Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam và nhà nước Brunei Darussalam, được thiết lập vào ngày 29/2/2992. Hai
nước đã đạt được bước tiến quan trọng với việc nâng cấp quan hệ lên Đối tác toàn diện năm 2019.
Điều này tạo tiền đề để quan hệ hai nước phát triển ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất hơn. Thời
gian qua, quan hệ Đối tác toàn diện Việt Nam-Brunei tiếp tục giữ đà phát triển tích cực
Các hiệp định mà Brunei và Việt Nam cùng tham gia ký kết
Thiết lập quan hệ ngoại giao (29/2/1992)
Ký kết bản ghi nhớ thành lập Ủy ban hỗn hợp về hợp tác song phương (năm 2000)
Ký kết bản tuyên bố chung về tăng cường hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư và dịch vụ
(2003)
Ký bản ghi nhớ về hợp tác quốc phòng (2005)
Ký kết bản thỏa thuận về hợp tác khoa học và công nghệ (2008)
Ký bản ghi nhớ về hợp tác du lịch (2011)
Ký bản ghi nhớ về hợp tác nông nghiệp và thủy sản, ký bản ghi nhớ về hợp tác giữa hải quân
nhân dân Việt Nam và hải quân hoàng gia Brunei (2013)
Ký bản ghi nhớ về hợp tác giáo dục (2016)
Thiết lập quan hệ đối tác toàn diện (2019)
Ký kết Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Brunei (VN-Brunei FTA) (năm 2021)
Kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao (2022)
IV. Thực trạng hợp tác đầu tư giữa Brunei và Việt Nam
1. Đầu tư từ Brunei và Việt Nam
a, Hình thức đầu tư
Hiện nay các nhà đầu tư Brunei đầu tư chủ yếu theo hình thức 100% vốn nước ngoài và hình
thức liên doanh. Theo thông tin từ Bộ kế hoạch và Đầu tư Việt Nam tính đến tháng 9 năm 2021
Brunei đã đầu tư vào Việt Nam 3 dự án với tổng vốn đăng ký là 4,2 triệu USD.
Về hình thức 100% vốn nước ngoài, một ví dụ điển hình là công ty Bru-Xin Steed Sdn (Bru-
Xin Steel) một công ty đặt tại Brunei, đã đầu tư vào xây dựng một nhà máy sản xuất thép tại Khu
công nghiệp Phú Mỹ ở tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu, Việt Nam. Tổng mức đầu tư cho dự án này khoảng
500 triệu USD và Bru-Xin Steel sở hữu 100% vốn trong dự án này. Nhà máy sản xuất thép của Bru-
Xin Steel tại Việt Nam được trang bị các thiết bị và công nghệ hiện đại, có khả năng sản xuất đa
dạng các sản phẩm thép cao cấp để đáp ứng nhu cầu của thị trường nội địa và xuất khẩu. Dự án này
đã tạo ra nhiều việc làm cho người dân địa phương và đóng góp vào phát triển kinh tế và xã hội của
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cũng như toàn quốc.
Vào năm 2020, Tập đoàn Bình Sơn (BSR) đã ký kết thỏa thuận với công ty Petco Brunei để
đưa vào vận hành nhà máy xử lý dầu thô Dung Quất tại tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam. Petco Brunei sẽ
trở thành một trong những cổ đông lớn nhất của BSR với tỷ lệ sở hữu 49%. Qua đó, BSR sẽ huy
động được khoảng 1 tỷ USD cho các kế hoạch mở rộng sản xuất và kinh doanh trong tương lai.
Về hình thức liên doanh, liên doanh giữa công ty Brunei National Petroleum Company
(PetroleumBRUNEI) và Công ty Cổ phần Dầu khí Việt Nam (PVN) tại Việt Nam. Đây là một liên
doanh lớn được thành lập vào năm 2013, với tổng vốn đầu tư ban đầu khoảng 1,2 tỷ USD.
Liên doanh này được thành lập để thực hiện các hoạt động khai thác và sản xuất dầu khí tại hai mỏ
dầu trên bờ biển Việt Nam: mỏ dầu Block 12W và mỏ dầu Block 10-03. PetroleumBRUNEI và PVN
sẽ cùng đầu tư và chia sẻ lợi ích từ các hoạt động khai thác và sản xuất dầu khí tại các mỏ này.
b, Quy mô đầu tư và lĩnh vực đầu tư
Tính đến tháng 12/2022, Brunei đứng thứ 26/141 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với
157 dự án có hiệu lực, tổng số vốn đăng ký đạt 971 triệu USD và đứng thứ 5 trong khu vực ASEAN
có tổng vốn đầu tư vào Việt Nam, tập trung vào các lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo, xây
dựng và kinh doanh bất động sản. Các dự án đầu tư của Brunei có mặt tại các tỉnh Đồng Nai, Bình
Dương, Bà Rịa- Vũng Tàu, Long An, Thái Bình và Phú Thọ.
2. Đầu tư từ Việt Nam vào Brunei
Hiện có hai dự án lớn của doanh nghiệp Việt Nam đang triển khai tại Brunei. Dự án xây dựng
nhà máy phân bón BFI tại Brunei do Tổng công ty LILAMA Việt Nam thực hiện phần thiết kế và
lắp đặt máy móc bắt đầu từ năm 2018, đã hoàn thành thi công, dự án đi vào hoạt động vào tháng
10/2021. LILAMA đang triển khai một số gói thầu phụ như vận hành, bảo trì sau khi chuyển giao,
dự kiến hoàn thành toàn bộ dự án vào đầu tháng Ba năm nay. Đây là dự án trọng điểm, góp phần
thực hiện mục tiêu đa dạng hóa nền kinh tế trong chiến lược Tầm nhìn 2035 của Chính phủ Brunei.
Việc doanh nghiệp Việt Nam tham gia xây dựng dự án và nhà máy được hoàn thành đi vào
hoạt động đúng vào dịp hai nước kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao là một dấu mốc đẹp
trong lịch sử quan hệ ngoại giao hai nước.
Dự án tiếp theo là do PV Drilling Brunei, chi nhánh của Tổng công ty cổ phần Khoan và dịch
vụ khoan dầu khí, thuộc Tập đoàn Dầu khí quốc gia Petro Vietnam khởi động, hợp tác với Brunei
Shell Petroleum (BSP). Theo đó, từ tháng 10/2021, PV Drilling cung cấp giàn khoan tiếp trợ nửa nổi
nửa chìm TAD cho BSP với thời hạn ít nhất là sáu năm.
Có thể khẳng định, hai bên có nhiều lĩnh vực hợp tác kinh tế, thương mại tiềm năng cần được quan
tâm thúc đẩy, tương xứng với quan hệ ngày càng gắn bó, phát triển giữa hai nước.
V. Cơ hội hợp tác giữa Việt Nam và Brunei
Theo đánh giá, Việt Nam và Brunei hiện nay còn nhiều tiềm năng và cơ hội cần được khai thác dựa
trên thế mạnh mỗi nước để tăng cường bổ trợ giữa hai nền kinh tế, đem lại lợi ích thiết thực cho hai
bên. Trong chuyến thăm chính thức Brunei, thủ tướng Phạm Minh Chính đã đề nghị đẩy mạnh hợp
tác trong 3 lĩnh vực cụ thể gồm: năng lượng, hóa chất và thực phẩm Halal (thực phẩm dành cho
người hồi giáo)
Về năng lượng, tạo điều kiện cho tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam (Petro Vietnam) tiếp tục tham
gia cung cấp dịch vụ kỹ thuật dầu khí và dịch vụ khoan tại Brunei và giới thiệu các dự án thăm dò
dầu khí tại Brunei cho Petro Vietnam.
Về lĩnh vực hóa chất: tiếp tục mở rộng hợp tác trong lĩnh vực hóa chất nhất là sản xuất phân bón
trong nông nghiệp.
Về thực phẩm Halal, Việt Nam có nguồn nguyên liệu phong phú cho thực phẩm Halal nhưng không
có thế mạnh về sản xuất mặt hàng này đồng thời có lợi thế về vận chuyển sang Brunei => Việt Nam
cung cấp nguyên liệu, Brunei chế biến, sản xuất và xuất khẩu
CÂU 2: CƠ SỞ HỢP TÁC ĐẦU TƯ GIỮA VIỆT NAM VÀ INDONESIA
I. Thực trạng đầu tư của Việt Nam
II. Thực trạng đầu tư của Indonesia
Yếu tố tự nhiên:
Indonesia được mệnh danh là "Xứ sở vạn đảo", lãnh thổ của nó bao gồm 13.487 hòn đảo, biên giới
tiếp xúc với rất nhiều quốc gia như Singapore, Malaysia, Philippin,…
Nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào (gỗ, tài nguyên thủy sản, dầu mỏ, khí đốt tự nhiên, kim loại).
Đa dạng sinh học cao. Bờ biển dài 80.000 kilômét được bao quanh bởi các biển nhiệt đới, nhiều hệ
sinh thái biển và bờ biển, gồm các bãi biển,…
Yếu tố văn hóa – xã hội:
Với dân số hơn 260 triệu người (năm 2019), đứng thứ tư thế giới về dân số và đứng thứ ba châu Á về
dân số.
Indonesia là quốc gia có số dân theo Hồi giáo đông nhất thế giới; . Indonesia theo thể chế cộng
hòa với một bộ máy lập pháp và tổng thống do dân bầu.
Tuy gồm rất nhiều hòn đảo, Indonesia vẫn gồm các nhóm sắc tộc, ngôn ngữ và tôn giáo riêng biệt.
Indonesia đã phát triển một tính đồng nhất được định nghĩa bởi một ngôn ngữ quốc gia, sự đa dạng
chủng tộc, sự đa dạng tôn giáo bên trong một dân số đa số Hồi giáo.
Yếu tố chính trị và pháp luật:
Indonesia là một nước cộng hòa với một hệ thống tổng thống. Với tư cách một quốc gia đơn nhất,
quyền lực tập trung trong tay chính phủ trung ương.
Đa số các tranh chấp dân sự đều được đưa ra trước Tòa Nhà nước; các vụ phúc thẩm được xử tại Tòa
Cấp cao.
Yếu tố kinh tế:
Indonesia là một nước có nền kinh tế mở, một trong những nước quy mô nền kinh tế lớn bậc nhất
ASEAN, tốc độ tăng trưởng ổn định ở mức 4-6%, năm 2019 GDP đạt 1.111,713, năm 2018 GNI đạt
1.112 USD, lạm phát luôn ổn định ở mức 3-4%. Bên cạnh đó, tỷ trọng sản xuất và dịch vụ đang
vươn lên chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu GDP, thương mại điện tử đang được chú ý phát triển, gia
công lắp ráp đang dẫn đầu xu thế tạo nên điểm sáng cho công nghiệp ô tô Indonesia.
2.1.1. Chính sách đầu tư
● Các chính sách thu hút đầu tư và phát triển:
(1) Phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng thuận lợi, kết nối các vùng miền với nhau, lựa chọn và định
hướng các dự án FDI có đặc điểm phù hợp với từng vùng miền.
(2) Tiếp tục quá trình tự do hóa thương mại và kết nối với thị trường quốc tế.
(3) Sử dụng các chính sách có tác động ngay trong ngắn hạn, các doanh nghiệp sẽ hướng tới các địa
phương có nguồn nhân lực và giá thuê đất rẻ thay vì chỉ tập trung vào các khu công nghiệp lớn.
(4) Hài hòa giữa quyền tự chủ của địa phương và khả năng điều phối nguồn thu của chính quyền
trung ương.
● Các chính sách ưu đãi đầu tư
Việc miễn thuế được thực hiện cho các dự án đầu tư lần đầu trong các ngành công nghiệp như: (i)
kim loại cơ bản, (ii) lọc dầu và/hoặc hóa chất cơ bản hữu cơ có nguồn gốc từ dầu mỏ và khí tự nhiên,
(iii) công nghiệp máy móc;... Nếu đáp ứng yêu cầu, nhà đầu tư sẽ được miễn thuế thu nhập doanh
nghiệp từ 5 tới 10 năm đầu của quá trình kinh doanh và được hưởng tiếp ưu đãi với mức 50% nghĩa
vụ nộp thuế trong hai năm tiếp theo sau khi hết hạn. Các đơn vị mới được thành lập theo Luật Đầu tư
có thể được miễn thuế nhập khẩu cho tài sản hoặc các yếu tố đầu vào.
Các ưu đãi về thuế cho các lĩnh vực và khu vực ưu tiên bao gồm bốn loại:
- Khấu trừ thêm 5% thuế vốn đầu tư thực hiện (tài sản khấu hao và không khấu hao) mỗi năm,
với thời gian ưu đãi lên đến sáu năm; tuy nhiên, khấu trừ này sẽ bị thu hồi nếu tài sản được
chuyển giao trong thời gian ưu đãi.
- Lựa chọn để được giảm trừ thuế lũy tiến ở tỷ lệ gấp 2 lần bình thường.
- Thời gian thực hiện chuyển lỗ cho các mục đích thuế có thể kéo dài đến 10 năm thay vì 5 năm
như bình thường.
- Các khấu trừ thuế đối với cổ tức cho các cổ đông không cư trú được giảm xuống còn 10%
(hoặc thấp hơn nếu chịu thỏa thuận về tránh đánh thuế hai lần). Các nhà đầu tư mới, cho dù là
nhà đầu tư nước ngoài hay trong nước, hoặc các nhà đầu tư hiện tại có kế hoạch mở rộng sản
xuất từ 30% trở lên,
Các ưu đãi khác bao gồm:
- Giảm thu nhập chịu thuế lên đến 30% trên vốn đầu tư, được thực hiện trong vòng sáu năm.
- Khấu hao nhanh
- Có thể chuyển lỗ giữa các năm trong vòng 5 năm và có thể gia hạn thêm của năm năm (thời
gian kéo dài tùy thuộc vào loại hình đầu tư).
Thuế thu nhập 10% cổ tức (có thể thấp hơn nếu quy định trong các quy định của điều ước thuế hiện
hành).
2.1.1. Thực trạng thu hút đầu tư
+Lượng vốn: Nhìn chung tổng dòng vốn FDI của Indonesia không có quá nhiều biến động qua các
năm từ 2017 – 2021. năm 2019, dòng vốn FDI đã tăng mạnh đạt mức cao nhất trong 5 năm gần đây
lên đến 23883.3 triệu USD. Nhưng đến năm 2020, do ảnh hưởng của đại dịch Covid - 19 gây thiệt
hại không chỉ nền kinh tế và đời sống xã hội, tổng dòng vốn FDI của Indonesia đã giảm sâu còn
18591 triệu USD. Đây là một sự chênh lệch đáng chú ý và báo động về dòng vốn FDI trong 5 năm
gần đây. Đến năm 2021, nhờ việc đưa ra các chính sách thúc đẩy đầu tư tổng dòng vốn FDI của
Indonesia đã quay trở lại mức bình quân với các năm trước, đạt 20081.2 triệu USD.
+Lĩnh vực đt: Cho đến hiện nay, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã có mặt trong 23 ngành trong hệ
thống phân ngành kinh tế quốc dân của Indonesia. Các nguồn vốn FDI đổ vào Indonesia cho đến nay
chủ yếu tập trung vào lĩnh vực nông nghiệp, trong đó: lĩnh vực giao thông vận tải, kho hàng và viễn
thông chiếm 38,6%; lĩnh vực hóa chất và dược phẩm chiếm 10,9%; lĩnh vực thương mại và sửa chữa
chiếm 6,5%; lĩnh vực sản xuất kim loại, máy móc và hàng điện tử chiếm 6,1%;
+đối tác Đầu tư: Cho đến đầu năm 2022, Indonesia đã thu hút được FDI từ 111 quốc gia và vùng
lãnh thổ trên thế giới. Cụ thể trong vài năm qua Singapore, Trung Quốc, Nhật Bản luôn dẫn đầu
danh sách các nguồn FDI vào Indonesia. Trong 6 tháng đầu năm 2022, số vốn đầu tư của Singapore
và Trung Quốc chiếm 47,65% tổng số vốn đầu tư vào quốc gia này.
+ địa bàn đầu tư: Cơ cấu dòng vốn FDI của Indonesia theo địa bàn đầu tư chia theo 34 khu vực khác
nhau. Nhìn chung qua các năm, cơ cấu dòng vốn FDI theo khu vực không có quá nhiều biến động.
Khu vực đứng đầu trong việc thu hút các nhà đầu tư là Tây Java và trái ngược là khu vực ít thu hút
đầu tư nhất là Tây Sulawesi.
2.1.2. Thuận lợi và khó khăn khi đầu tư vào Indonesia.
Thuận lợi:
Dân số đông đảo gần 260 triệu dân, đây là một thị trường nội bộ khổng lồ cho bất kỳ công ty nào
muốn kinh doanh ở đó
Nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào (gỗ, tài nguyên thủy sản, dầu mỏ, khí đốt tự nhiên, kim loại)
Sự lành mạnh của ngành tài chính ngân hàng tạo ra một môi trường kinh tế thuận lợi cho tăng trưởng
bền vững.
Indonesia cho phép hình thức đầu tư 100% nước ngoài, liên doanh và mua bán sáp nhập. Cho đến
nay, Indonesia đã liên tục đơn giản hóa các thủ tục bằng cách cải thiện các quy định trong lĩnh vực
đầu tư nước ngoài.
Indonesia đã đưa ra một số biện pháp, chính sách để hài hòa việc thu hút FDI và phát triển vùng đã
được triển khai, như:
(1) Phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng thuận lợi, kết nối các vùng miền với nhau, lựa chọn và định
hướng các dự án FDI có đặc điểm phù hợp với từng vùng miền.
(2) Tiếp tục quá trình tự do hóa thương mại và kết nối với thị trường quốc tế.
Có các chính sách ưu đãi đầu tư: Việc miễn thuế được thực hiện cho các dự án đầu tư lần đầu trong
các ngành công nghiệp như: kim loại cơ bản, lọc dầu hoặc hóa chất cơ bản hữu cơ có nguồn gốc từ
dầu mỏ và khí tự nhiên,...
Các nhà đầu tư mới, cho dù là nhà đầu tư nước ngoài hay trong nước, hoặc các nhà đầu tư hiện tại có
kế hoạch mở rộng sản xuất từ 30% trở lên, hoặc đang phát triển thêm các sản phẩm mới, sẽ được xét
miễn thuế nhập khẩu hàng hóa vốn trong hai năm; họ cũng được miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu và
linh kiện cho sản xuất trong hai năm.
Các ưu đãi khác bao gồm:
- Giảm thu nhập chịu thuế lên đến 30% trên vốn đầu tư, được thực hiện trong vòng sáu năm.
- Khấu hao nhanh
- Có thể chuyển lỗ giữa các năm trong vòng 5 năm và có thể gia hạn thêm của năm năm (thời
gian kéo dài tùy thuộc vào loại hình đầu tư).
- Thuế thu nhập 10% cổ tức (có thể thấp hơn nếu quy định trong các quy định của điều ước thuế
hiện hành).
Indonesia cũng không đánh thuế thuế nhập khẩu và các loại thuế khác cho các sản phẩm được sử
dụng trong các Khu thương mại tự do (FTZs) và Khu vực cảng tự do (FPs) nếu họ nằm ngoài phạm
vi hải quan của Indonesia.
Khó khăn:
- Các nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới cho thấy khung pháp lý và kinh tế ở Indonesia kém hiệu
quả hơn so với các nước châu Á khác
- Tư pháp và chính quyền thuế và hải quan vẫn được cộng đồng doanh nghiệp nhìn nhận là nói
chung là tham nhũng và độc đoán.
- Cơ sở hạ tầng hạn chế; việc tiếp cận các đảo khác nhau của quần đảo nói chung rất phức tạp, làm
tăng bất bình đẳng kinh tế.
- Sự đa dạng lớn về dân số, tỷ lệ thất nghiệp cao và nghèo đói cùng cực ở một số vùng làm trầm
trọng thêm căng thẳng giữa các sắc tộc và do đó làm suy yếu sự ổn định của đất nước.
- Theo đánh giá của Cơ quan hỗ trợ phát triển Hoa Kỳ (USAID), quá trình phân quyền của Indonesia
còn thiếu sự nhất quán và rõ ràng, còn có sự “vênh” trong quy định về chức năng, nhiệm vụ, thẩm
quyền, và tính chịu trách nhiệm của các cấp,
- Thách thức về đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cũng đang có những rủi ro nhất định mà nếu không
giải quyết thấu đáo sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình đất nước. Indonesia cũng đang tiếp tục
phải đối mặt với việc thiếu cơ sở đào tạo về kỹ thuật và dạy nghề. Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm
trong nhóm tuổi (15-24) là 22,6% cho thấy nhu cầu về giáo dục cũng như các chương trình phát triển
cơ sở hạ tầng mềm hỗ trợ hướng nghiệp. Do điều kiện địa lý bị chia cắt nên sự kết nối và truyền
thông hiện cũng chưa được đảm bảo. Cuối cùng, nguy cơ quan trọng mà chính phủ sẽ phải giải quyết
là những ảnh hưởng của tình trạng biến đổi khí hậu. Trong năm 2017, Indonesia đã chứng kiến 2.341
vụ thiên tai.
III. Cơ sở hợp tác của Việt Nam và Indonesia
- Việt Nam và Indonesia cùng là thành viên ASEAN, Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình
Dương (APEC) và nhiều tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế khác.
- Những dấu mốc trong quan hệ ngoại giáo Việt Nam – Indonesia:
+ 30/12/1955, Indonesia là nước Đông Nam Á đầu tiên thiết lập quan hệ Ngoại giao với Việt Nam.
+ Nhằm đưa hợp tác đi vào chiều sâu trên tất cả các lĩnh vực, hai bên đã nâng cấp quan hệ lên Đối
tác chiến lược vào 6/2013.
+ Năm 2021, trong bối cảnh Covid-19 phức tạp, hai nước vẫn tổ chức thành công hội đàm cấp cao
trực tiếp giữa Thủ tướng Phạm Minh Chính và Tổng thống Joko Widodo nhân dịp tham dự Hội nghị
Cấp cao Đặc biệt ASEAN tại Indonesia (4/2021) và cuộc điện đàm giữa Chủ tịch nước Nguyễn
Xuân Phúc và Tổng thống Joko Widodo (7/2021); Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã có cuộc
gặp song phương với Chủ tịch Hạ viện Indonesia Puan Maharani bên lề Hội nghị Chủ tịch Quốc hội
thế giới lần thứ 5 tại Áo (10/2021).
+ Năm 2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng điện đàm với Tổng thống Indonesia Joko Widodo
(8/2022); Thủ tướng Phạm Minh Chính gặp Tổng thống Indonesia bên lề HNCC ASEAN – Mỹ
(5/2022). Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn thăm chính thức Indonesia và đồng chủ trì kỳ họp
lần thứ 4 Ủy ban Hợp tác song phương (7/2022).
+ Từ ngày 21-23/12/2022, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc dẫn đầu Đoàn đại biểu cấp cao nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thăm cấp Nhà nước đến nước Cộng hòa Indonesia theo lời mời
của Tổng thống Indonesia Joko Widodo. Chuyến thăm nhằm góp phần củng cố tin cậy chính trị, làm
sâu sắc hợp tác nhiều mặt, đưa quan hệ giữa Việt Nam và Indonesia đi vào thực chất, hiệu quả hơn
nữa, hướng tới kỷ niệm 10 năm thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược giữa hai nước vào năm 2023.
- Cho đến nay, Việt Nam là nước đầu tiên và duy nhất trong ASEAN mà Indonesia thiết lập quan hệ
đối tác chiến lược.
- Hai nước đã ký nhiều hiệp định và thỏa thuận hợp tác trong các lĩnh vực.
+ Hiệp định giữa Việt Nam và Indonesia về Hợp tác Kinh tế, Khoa học kỹ thuật được ký kết vào
21/11/1990
+ Hiệp định giữa Việt Nam và Indonesia về Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư được ký kết vào
25/10/1991
+ Hiệp định quan hệ Đối tác Toàn diện (2003)
+ Chương trình Hành động triển khai quan hệ Đối tác Chiến lược giai đoạn 2014-2018 (10/2013)
+ Chương trình Hành động triển khai quan hệ Đối tác Chiến lược giai đoạn 2019-2023 (9/2018)
IV. Thực trạng hợp tác đầu tư của Việt Nam và Indonesia
1. Đầu tư từ Indonesia vào Việt Nam
Tính đến tháng 12/2022, Indonesia tiếp tục đứng thứ 5 trong ASEAN và thứ 29/141 quốc gia đầu tư
vào Việt Nam với 106 dự án trị giá 638,88 triệu USD, tập trung các lĩnh vực bất động sản, thức ăn
chăn nuôi, xi măng, phụ tùng, kinh tế số... Chẳng hạn, Tập đoàn Ciputra đã tiên phong đầu tư vào
lĩnh vực bất động sản tại Hà Nội, hay công ty Japfa Comfeed đã xây dựng nhà máy thức ăn chăn
nuôi thứ bảy tại Việt Nam. Hơn nữa, một số kỳ lân của Indonesia và các công ty kỹ thuật số khác
cũng có mặt tại Việt Nam, bao gồm Gojek, Traveloka, Sociolla và Ruang Guru (Kien Guru).
2. Đầu tư từ Việt Nam vào Indonesia
Tính đến tháng 9/2022 Việt Nam cũng có 17 dự án đầu tư tại Indonesia với tổng vốn đăng ký là 59
triệu USD tập trung trong các lĩnh vực thương mại, công nghệ thông tin, nông nghiệp và công
nghiệp.
V. Cơ hội hợp tác đầu tư
- Việt Nam - Indonesia vẫn còn nhiều tiềm năng để thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư.
Việt Nam là địa điểm “đầy hứa hẹn” để nhà đầu tư Indonesia mở cơ sở sản xuất, nhờ việc cắt giảm
thuế quan của Cộng đồng Kinh tế ASEAN.
- Indonesia và Việt Nam đã thống nhất các kế hoạch mới nhằm tạo thuận lợi cho doanh nghiệp hai
nước tìm kiếm cơ hội đầu tư nhằm mở rộng và đa dạng hóa đầu tư, đặc biệt trong các lĩnh vực ngư
nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng, năng lượng tái tạo, công nghệ cao, và chuyển đổi kỹ thuật số.
- Indonesia cũng đã mời gọi một số doanh nghiệp Việt Nam đầu tư vào nhiều lĩnh vực như thủy sản,
nông nghiệp và các mặt hàng xuất khẩu khác.
- Hợp tác giữa hai nước sẽ không chỉ giới hạn ở các tập đoàn lớn, mà còn mở rộng với sự tham gia
của các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các công ty khởi nghiệp có khả năng về công nghệ kỹ thuật số
và thúc đẩy hợp tác xuyên biên giới.
- Hai bên cũng sẽ xem xét mở các đường bay mới phục vụ các hoạt động du lịch, thương mại và đầu
tư.
CÂU 3: CƠ HỘI HỢP TÁC ĐẦU TƯ GIỮA VIỆT NAM - MALAYSIA
I. Thực trạng đầu tư của Việt Nam
II. Thực trạng đầu tư của Malaysia
Môi trường đầu tư
* Yếu tố tự nhiên:
- Quốc gia lớn thứ 67 trên thế giới về diện tích đất liền.
- Biên giới biển và đất liền giáp nhiều quốc gia như: Brunei, Thái Lan, Indonesia,
Philippines,…
- Bán đảo chiếm 40% diện tích đất liền của Malaysia, trải dài 740 km (460 mi) từ bắc xuống
nam, và có chiều rộng tối đa là 322 km
* Yếu tố văn hóa- xã hội:
- Malaysia là một xã hội đa dân tộc, đa văn hóa và đa ngôn ngữ
- Tồn tại một số tranh chấp văn hóa giữa Malaysia và các quốc gia láng giềng, đặc biệt là
Indonesia.
- Ẩm thực của Malaysia phản ánh đặc điểm đa dân tộc của quốc gia
* Yếu tố chính trị và pháp luật:
- Malaysia là một quốc gia quân chủ tuyển cử lập hiến liên bang.
- Quyền lập pháp được phân chia giữa các cơ quan lập pháp liên bang và bang.
- Quyền hành pháp được trao cho Nội các do thủ tướng lãnh đạo.
- Sắc tộc có ảnh hưởng lớn trong chính trị Malaysia, nhiều chính đảng dựa trên nền tảng dân
tộc.
- Hệ thống pháp luật Malaysia dựa trên thông luật Anh.
* Yếu tố kinh tế:
- Malaysia là một nền kinh tế thị trường định hướng nhà nước tương đối mở và công nghiệp
hóa mới.
- Thương mại quốc tế của Malaysia có thuận lợi do nằm sát tuyến đường thủy qua eo biển
Malacca, và chế tạo là lĩnh vực then chốt
* Yếu tố công nghệ:
- Malaysia nằm trong số các nhà xuất khẩu lớn nhất thế giới về thiết bị bán dẫn, thiết bị điện
tử, sản phẩm công nghệ thông tin và truyền thông.
- Chính phủ Malaysia đầu tư kiến thiết các vệ tinh thông qua chương trình RazakSAT.
Chính sách đầu tư của Malaysia
Để bắt đầu một dự án sản xuất mới, nhà đầu tư nước ngoài cần có Giấy phép sản xuất và Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh. Tiêu chí phê duyệt dự án đầu tư ở Malaysia được xây dựng dựa
trên tỷ lệ vốn đầu tư cho mỗi lao động (C/E). Các dự án có tỷ lệ C/E nhỏ hơn 55.000 RM được xác
định là dự án sử dụng nhiều lao động và do đó không đủ điều kiện cấp giấy phép sản xuất để nhận ưu
đãi về thuế.
Ưu đãi đầu tư tại Malaysia được coi như là một công cụ nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài
theo đúng mục tiêu đề ra. Nhằm tăng giá trị xuất khẩu, Malaysia áp dụng các ưu đãi như giảm 10%
thuế giá trị gia tăng cho sản phẩm xuất khẩu, giảm 5% giá nguyên liệu đầu vào nội địa để sản xuất
hàng xuất khẩu, cũng như chi phí quảng cáo, nghiên cứu thị trường. Với mục tiêu tạo việc làm và
khuyến khích đầu tư mở rộng của doanh nghiệp FDI, Malaysia đã đưa ra điều kiện để được hưởng
ưu đãi là lao động thường xuyên từ 500 người trở lên hoặc vốn giải ngân đạt từ 25 triệu RM trở lên.
Nhằm khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào phát triển nguồn nhân lực, Malaysia đã cấp ưu đãi
cho phép các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đào tạo hướng nghiệp cho người lao động hoặc
xây dựng các trường đào tạo.
Từ năm 2006 đến nay, nhằm khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực sản xuất, các ưu đãi cơ bản về
thuế cho các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực sản xuất được thực hiện trên nền chính sách “nhà đầu
tư tiên phong” và chính sách “trợ cấp thuế đầu tư”.
Ngoài ra, Malaysia cũng đưa ra các chương trình khuyến khích đầu tư cho các ngành công
nghệ cao, dự án chiến lược, máy móc thiết bị công nghiệp, công nghiệp ô tô và ngành sử dụng dầu
cọ sinh khối.
Về các khoản đầu tư đã được phê duyệt, Malaysia đã thu hút tổng cộng 42,8 tỷ RM trong lĩnh vực
sản xuất, dịch vụ và các lĩnh vực chính, liên quan đến 910 dự án, dựa trên số liệu mới nhất của Cơ
quan Đầu tư và Phát triển Malaysia (MIDA) tính đến quý I/2022.
Tính đến ngày 7/6, có 268 dự án đầu tư được đề xuất với mức 14,4 tỷ RM trong các lĩnh vực sản
xuất và dịch vụ.
Lĩnh vực sản xuất và dịch vụ rõ ràng chiếm ưu thế trong thu hút FDI. Các lĩnh vực này đóng vai trò
quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế của Malaysia. Trong lĩnh vực sản xuất, hưởng lợi lớn nhất là
thiết bị điện, vận tải và các ngành sản xuất khác với dòng vốn đầu tư 18,4 tỷ RM. Trong lĩnh vực
dịch vụ, lĩnh vực tài chính và bảo hiểm được nhận số vốn đầu tư là 5,8 tỷ RM.
Sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài đối với khu vực Đông Nam Á đã tăng lên đáng kể sau
đại dịch. Các nền kinh tế khu vực ghi nhận tổng dòng vốn chảy vào là 175,3 tỷ USD (781 tỷ RM),
trong đó dẫn đầu là Indonesia, Việt Nam và Malaysia.
Tiếng Anh được sử dụng phổ biến ở các khu vực hành chính phát triển ở Philippines, đặc biệt là khu
vực phía bắc của vùng đảo Luzon với tỉ lệ là 70%. Đây thực sự là một lợi thế của lao động
Philippines so với các nước trong khu vực ASEAN để thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
- Chi phí trả cho lương công nhân, nhà ở và thực phẩm là khá thấp. Môi trường chính sách kinh
doanh thân thiện với nhiều lĩnh vực cho phép 100% sở hữu nước ngoài.
- Philippines có vị trí địa lý chiến lược là cửa ngõ của khu vực kinh tế Đông Á với nhiều sân bay và
cảng biển thuận lợi cho kinh doanh.
* Các đặc khu kinh tế: được thành lập để phát triển đồng đều các ngành nông nghiệp, công nghiệp,
thương mại, du lịch … Philippines có nhiều đặc khu kinh tế như Industrial Estate để hỗ trợ các
ngành công nghiệp; Export Processing Zones phục vụ cho các doanh nghiệp xuất khẩu, ngoài ra còn
các khu hỗ trợ cho ngành du lịch, công nghệ thông tin ….
Năm 2020, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Anh, Singapore, Nhật Bản, là những quốc gia có dòng vốn đầu tư
vào Philippines lớn nhất. Trong đó Hoa Kỳ chiếm tỉ lệ lớn nhất với 31,5%, tiếp sau đó là Trung
Quốc với 13,9%, Anh 11,7%, Singapore 8,9% và cuối cùng là Nhật Bản với tỉ lệ nhỏ nhất 8,4%.
Phần lớn dòng vốn đầu tư dùng để tài trợ cho các dự án trong ngành sản xuất chiếm 76,1% trong
tổng số, tăng gấp gần 4 lần so với cùng kỳ các năm 2016-2018. Tiếp đến là hai lĩnh vực Hoạt động
dịch vụ hành chính và hỗ trợ với 7,7% ~ 3,5 tỷ PhP, bám sát là Hoạt động dịch vụ lưu trú và dịch vụ
thực phẩm ở mức 6,4%.
- Vị trí của Philippines: nằm ở giữa hai đại dương là Biển Đông và Thái Bình Dương làm cho đất
nước này trở thành một trong những địa điểm lý tưởng để kinh doanh và đầu tư trên thế giới.
- Chi phí sinh hoạt thấp: chi phí sinh hoạt hàng ngày thấp đáng ngạc nhiên và nó cung cấp một mức
chất lượng khá. Trong những năm gần đây, số tiền mà một cư dân đã bỏ ra là 9,78 USD hằng
ngày.Hiện nay nó có thể đã tăng 2% trong năm 2019.
- Phát triển thị trường và kinh tế: thị trường nội địa của Philippines đang phát triển với tốc độ nhanh
chóng, lưu lượng hành khách nội địa của đất nước đang tăng với tốc độ phù hợp trong thập kỉ qua.
- Lao động: người Philippines là một trong những lao động có trình độ học vấn cao và có thể đào tạo
cao nhất ở châu Á, là một quốc gia chủ yếu nói tiếng anh. Tuy nhiên chi phí lao động rất phải chăng
ở tất cả các cấp.
- Kinh doanh thân thiện.
- Cơ sở hạ tầng.
* Khó khăn:
- Hệ thống tư pháp không hiệu quả: thiếu hụt trầm trọng các công tố viên và thẩm phán; một hồ sơ
yếu kém về khởi tố sẽ phá hỏng quá trình tư pháp.
- Quyền sở hữu hạn chế: Philippines hạn chế quyền sở hữu nước ngoài trong các ngành công nghiệp
chọn lọc.
- Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ kém: nhiều loại hàng giả thường được bán phổ biến trong cả nước.
- Hệ thống quy định: đăng kí sản phẩm, tiêu chuẩn sản phẩm, và những yêu cầu về môi trường áp đặt
với một số sản phẩm nhất định.
Hàng năm, kế hoạch ưu tiên đầu tư (Investment Priorities Plan - IPP) đưa ra danh sách các lĩnh vực
đầu tư được hưởng ưu đãi. Chương trình IPP 2010 tiếp tục tập trung vào các ngành như nông nghiệp/
kinh doanh nông sản và thủy sản (bao gồm các sản phẩm công nghệ sinh học và dịch vụ); cơ sở hạ
tầng, các sản phẩm công nghệ, kinh doanh gia công, nghiên cứu và phát triển và các ngành công
nghiệp sáng tạo. Cũng được hưởng ưu đãi là các hoạt động và dự án chiến lược với vốn đầu tư tối
thiểu 300 triệu USD, tạo ra ít nhất 1.000 việc làm. Kế hoạch 2010 đã có thêm "các dự án xanh" nhằm
thúc đẩy việc sử dụng hiệu quả năng lượng, tài nguyên thiên nhiên và nguyên liệu, và các dự án giảm
thiểu ô nhiễm và khí thải gây hiệu ứng nhà kính.
Trong số các ưu đãi đáng kể cung cấp cho các công ty đăng ký với Cục Đầu tư bao gồm: 4-6 năm
miễn thuế thu nhập; tăng số năm miễn giảm thuế cho các dự án mở rộng và hiện đại hoá; khấu trừ
thuế đối với các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu và lớn cho các công ty đạt tại những nơi có cơ sở
hạ tầng, tiện ích công cộng và cơ sở vật chất khác còn yếu kém; miễn thuế cho hàng vật tư chăn
nuôi, vật tư và phụ tùng cần thiết; miễn lệ phí cầu cảng và thuế xuất khẩu, các thuế phí đánh vào các
sản phẩm xuất khẩu phi truyền thống trong 10 năm, khả năng sử dụng người nước ngoài ở các vị trí
giám sát, kỹ thuật, hoặc tư vấn trong 5 năm với các yêu cầu thị thực, thủ tục hải quan được đơn giản
hóa.
Để khuyến khích việc trải rộng đầu tư, các doanh nghiệp đăng ký với BOI hoạt động tại các khu vực
kém phát triển và 30 tỉnh nghèo nhất sẽ tự động nhận các ưu đãi đặc biệt. Các doanh nghiệp này có
thể khấu trừ 100% chi phí cơ sở hạ tầng từ thu nhập chịu thuế. Một công ty cũng có thể khấu trừ
100% chi phí lao động gia tăng trong 5 năm, gấp đôi tỷ lệ được phép cho các dự án đăng ký với BOI
không nằm trong các khu vực kém phát triển.
Pháp luật Philippines cũng cung cấp ưu đãi cho các doanh nghiệp đa quốc gia thiết lập trụ sở khu
vực hoặc trụ sở điều hành khu vực tại Philippines. Trụ sở quản lý cấp khu vực là chi nhánh của công
ty đa quốc gia có tổng hành dinh ở ngoài đất nước Philippines không có thu nhập tại Philippines mà
chủ yếu hoạt động như là trung tâm giám sát, thông tin và điều phối.
Ưu đãi cho các trụ sở khu vực bao gồm: miễn thuế thu nhập; miễn thuế chuyển lợi nhuận chi nhánh;
miễn thuế giá trị gia tăng; bán hoặc cho thuê hàng hoá, tài sản và thực hiện các dịch vụ cho các trụ
sở khu vực được chịu thuế giá trị gia tăng 0%; miễn từ tất cả các loại thuế, lệ phí, hoặc phí áp đặt bởi
một đơn vị chính quyền địa phương (trừ các loại thuế bất động sản); thuế giá trị gia tăng và miễn
thuế nhập khẩu các vật tư thiết bị đào tạo và hội nghị chỉ được sử dụng trong các hoạt động của trụ
sở chính.
Công ty đa quốc gia thiết lập kho khu vực để cung cấp phụ tùng, linh kiện sản xuất, hoặc nguyên liệu
thô cho các thị trường nước ngoài cũng được hưởng ưu đãi cho hàng nhập khẩu được tái xuất khẩu.
Hàng nhập khẩu được tái xuất được miễn thuế hải quan, thuế doanh thu nội bộ, và các loại thuế địa
phương.
Trong những năm qua, Singapore luôn nằm trong nhóm những nhà đầu tư hàng đầu vào Việt
Nam. Năm 2022, Singapore dẫn đầu với tổng vốn FDI đầu tư vào Việt Nam trong cả phạm vi
ASEAN và thế giới.
Tính đến hết năm 2022, trong 108 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào VN, Singapore là nhà
đầu tư nước ngoài lớn nhất tổng số vốn đăng ký đạt 70 tỷ USD, hơn 3.600 dự án tập trung vào
lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo, kinh doanh bất động sản, sản xuất, phân phối điện,
khí, nước, điều hòa.
Việt Nam cũng có 140 dự án đầu tư vào Singapore còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký là 586
triệu USD, tập trung vào các lĩnh vực: khoa học công nghệ; bán buôn bán lẻ; công nghiệp chế
biến, chế tạo; dịch vụ hành chính; bất động sản.
→ Dòng vốn FDI từ Singapore đều tập trung vào những lĩnh vực chủ lực trong thu hút đầu tư
nước ngoài của Việt Nam và ngược lại.
→ Sự hợp tác đầu tư Việt Nam - Singapore có tính bổ trợ, bổ sung cho nhau, cùng nhau phát
triển.
V. Cơ hội hợp tác giữa Việt Nam và Singapore
Việt Nam là một trong những nền kinh tế mở nhất thế giới về đầu tư và thương mại. Nhà đầu
tư Singapore có cơ hội mở cơ sở sản xuất, mở rộng thị trường xuất khẩu vào các quốc gia mà
Việt Nam có ký kết các hiệp định FTA.
Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế như giáo dục chưa thực sự phát triển, cần thời gian để cải
thiện hạ tầng, nâng cấp môi trường đầu tư - kinh doanh. Ngược lại, Singapore lại là quốc gia
có thế mạnh về các lĩnh vực trên. Do đó, nếu biết tận dụng, Việt Nam là cơ hội lớn cho nhà
đầu tư Singapore mang thế mạnh đầu tư của mình sang Việt Nam phát triển.
Với hệ thống chính trị ổn định và môi trường đầu tư ngày càng được cải thiện, Việt Nam hoan
nghênh và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Singapore mở rộng đầu tư tại Việt
Nam, nhất là trong các lĩnh vực như chuyển đổi số, năng lượng xanh, khoa học công nghệ
cao, chuỗi cung ứng và hậu cần (logistics).
Hợp tác giữa hai nước không chỉ giới hạn ở các tập đoàn lớn mà còn mở rộng với sự tham gia
của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các công ty khởi nghiệp có khả năng về công nghệ kỹ thuật
số và thúc đẩy hợp tác xuyên biên giới.
CÂU 6: CƠ HỘI HỢP TÁC ĐẦU TƯ GIỮA VIỆT NAM - THÁI LAN
I. Thực trạng đầu tư của Việt Nam
II. Thực trạng đầu tư của Thái Lan
Môi trường đầu tư:
Nền kinh tế Thái-lan vốn có xuất phát điểm không có gì vượt trội, nhưng chỉ sau vài thập kỷ, Thái-
lan đã vượt lên nhóm dẫn đầu trong các nước khu vực. Môi trường đầu tư chính là "bà đỡ" quan
trọng để thu hút và phát huy các nguồn lực, cả trong nước và nước ngoài, cần thiết cho sự phát triển
hết sức ấn tượng này.
Điểm nổi bật của môi trường đầu tư Thái-lan là sự điều chỉnh linh hoạt và đồng bộ các chính sách hỗ
trợ đắc lực các chiến lược: từ phát triển thay thế hàng nhập khẩu, rồi hướng về xuất khẩu và kết hợp
đồng thời, hài hòa cả thay thế nhập khẩu với hướng về xuất khẩu; giảm dần đầu tư Chính phủ,
khuyến khích tư nhân trong nước đảm nhận vai trò động lực ngày càng quan trọng và hiệu quả hơn
trong phát triển những sản phẩm chủ lực được đầu tư trọng tâm, gắn với các cơ sở đầu tư ngoại vi và
phụ trợ theo chuỗi ngành nền tảng quốc gia, được lựa chọn thích hợp với lợi thế cạnh tranh và nhu
cầu thị trường trong từng thời kỳ, giai đoạn, từ thấp lên cao.
Đồng thời, môi trường đầu tư của Thái-lan cũng được thiết kế nhằm luôn tạo thuận lợi cho phát triển
nguồn nhân lực trong nước, nhất là đội ngũ công nghân kỹ thuật tay nghề cao và các công chức kỹ trị
được đào tạo bài bản, có nghiệp vụ cao; đồng thời, có sức hấp dẫn thu hút các chuyên gia, lao động
chất lượng cao từ bên ngoài.
Đặc biệt, môi trường đầu tư Thái-lan phân biệt ưu tiên, ưu đãi đối với từng nhóm dự án đầu tư cụ thể
được phân loại theo tác động của dự án đó đến nền kinh tế cả nước. Môi trường đầu tư thuận lợi
cũng giúp Thái-lan khá thành công trong việc xây dựng thế mạnh của nền nông nghiệp và công
nghiệp quốc gia, cũng như các thế mạnh về công nghệ cao tại khu vực Đông - Nam Á, nắm giữ vai
trò là quốc gia chủ lực trong khối ASEAN về công nghiệp xe hơi, lọc hóa dầu, xi măng, hóa chất,
nông nghiệp kỹ thuật cao…
Chính sách đầu tư:
Trong giai đoạn 1972 - 1996, Bộ Đầu tư Thái Lan đã ban hành nhiều chính sách thu hút các chuyên
gia, lao động chất lượng cao từ nước ngoài đến làm việc tại nước này với những ưu đãi về đất đai,
chế độ làm việc nhằm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế theo hướng xuất khẩu.
Từ năm 2005, chính sách thu hút FDI của Thái Lan có sự chuyển biến theo hướng đầu tư chọn lọc
với chính sách ưu tiên nhà đầu tư trong nước, hỗ trợ phát triển các loại hình dịch vụ phi sản xuất và
các loại hình dịch vụ tài chính. Nhờ những chính sách này, thu hút vốn FDI vào Thái Lan đã đạt
được kết quả bước đầu.
Điểm đáng lưu ý, Thái-lan ngày càng coi trọng sử dụng ưu đãi tổng hợp cả về miễn, giảm thuế (năm
2012, Thái Lan đã giảm thuế suất TNDN từ 30% xuống 23% năm) , về cung ứng lao động, về cơ sở
hạ tầng và thủ tục hành chính; giảm dần ưu đãi dự án theo vùng miền và tăng ưu đãi cho những dự
án lớn, trọng điểm, có sức lan tỏa thu hút các đầu tư khác. Các ưu đãi cũng ngày càng tăng thêm cho
các dự án đầu tư ra nước ngoài và các công ty mẹ đóng tại Thái-lan (gọi là Regional Operating
Headquarters hay ROH), nhằm chủ động hội nhập và khai thác các cơ hội đầu tư quốc tế, củng cố
sức cạnh tranh và vị thế nền kinh tế Thái-lan trong Cộng đồng kinh tế chung ASEAN và toàn cầu.
Đặc biệt hơn ta có ưu đãi đầu tư của Thái Lan cho nhà đầu tư nước ngoài bao gồm các khuyến khích
bằng thuế và các khuyến khích không bằng thuế như sau: Các khuyến khích bằng thuế, bao gồm:
miễn, giảm thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị; giảm thuế nhập khẩu nguyên liệu; miễn, giảm thuế thu
nhập doanh nghiệp; giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp; khấu trừ hai lần chi phí vận chuyển, điện
và nước; bổ sung 25% khấu trừ chi phí xây dựng và lắp đặt cơ sở hạ tầng của doanh nghiệp; miễn
thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu và nguyên liệu thiết yếu sử dụng để sản xuất hàng xuất khẩu.
Trước đây, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài được dựa trên chiến lược phát triển sản xuất thay
thế nhập khẩu. Do đó, Thái Lan phải nhập khẩu nhiều máy móc, nguyên vật liệu, dẫn đến thâm hụt
thương mại. Đến nay, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của Thái Lan là hướng vào phát triển sản
xuất phục vụ cho xuất khẩu
Thu hẹp diện hưởng ưu đãi đầu tư từ 240 ngành, lĩnh vực như trước đây xuống còn 100 ngành, lĩnh
vực. Đồng thời, ưu đãi đầu tư tập trung hơn vào 03 lĩnh vực, bao gồm: phát triển công nghệ cao;
nghiên cứu và phát triển (R&D), hoạt động đào tạo công nghệ tiên tiến; phát triển doanh nghiệp nhỏ
và vừa (SME)
Thực trạng đầu tư:
Theo Báo cáo Đầu tư Thế giới năm 2016, dòng FDI vào Thái Lan đã tăng gấp 3 trong năm 2015, lên
tới 10,8 tỷ USD. Đầu tư FDI đã vượt mục tiêu của Ủy ban Đầu tư Thái Lan trong năm 2016, lên tổng
10,3 tỷ USD.
Trong tổng số dự án nước ngoài trình xúc tiến đầu tư từ tháng 1 đến tháng 6 năm 2021, Nhật Bản có
số dự án nhiều nhất là 87 dự án, chiếm 22% số dự án đầu tư tất cả các quốc gia nước ngoài tương
ứng với giá trị đầu tư cao nhất cũng đến từ Nhật Bản tổng cộng 42,773 triệu baht, tương đương 15%.
Đứng thứ hai là Mỹ với 18 dự án tương đương với 24,131 triệu baht, tiếp theo là Trung Quốc với 63
dự án (18,615 triệu baht), rồi đến Singapore với 52 dự án (18,580 triệu baht),...
Về số lượng dự án: Hầu hết các dự án nước ngoài đã được phê duyệt xúc tiến trong ngành thiết bị
điện điện tử và thiết bị viễn thông: 60 dự án, chiếm 26% tổng số dự án trong tất cả các ngành công
nghiệp mục tiêu, tiếp theo là công nghiệp nông nghiệp và chế biến thực phẩm, 39 dự án, chiếm 17%.
Xét về giá trị đầu tư: Phần lớn trong số đó là các khoản đầu tư công nghiệp đồ gia dụng điện tử và
điện tử trị giá 27,214 triệu baht chiếm 25% giá trị của các dự án nước ngoài được phê duyệt để
khuyến mại trong ngành tất cả các mục tiêu tiếp theo là ngành công nghệ sinh học 21,575 triệu baht
chiếm 20% giá trị dự án đã được phê duyệt đầu tư trong tất cả các ngành công nghiệp mục tiêu.
Hiện Việt Nam có 187 dự án đầu tư sang Campuchia còn hiệu lực, với tổng số vốn đầu tư đăng
ký khoảng 2,76 tỷ USD, đứng thứ 3/77 quốc gia, vùng lãnh thổ mà Việt Nam có đầu tư ra nước
ngoài, chủ yếu là các lĩnh vực nông nghiệp (chiếm gần 70% tổng vốn đăng ký); tài chính, ngân hàng,
bảo hiểm, viễn thông; các dự án còn lại nằm trong các lĩnh vực hàng không, khoáng sản, công
nghiệp chế biến, chế tạo, vận tải kho bãi, y tế, xây dựng, du lịch - khách sạn, bất động sản và các
dịch vụ khác.
Các doanh nghiệp đề nghị Chính phủ hai nước tăng cường phối hợp, trao đổi thông tin, xây
dựng cơ chế chính sách, khai thác hiệu quả các nguồn lực; triển khai thực hiện Hiệp định khuyến
khích và bảo hộ Đầu tư đã ký kết; có chính sách khuyến khích và ưu đãi đầu tư đối với địa bàn kinh
tế, xã hội khó khăn; đơn giản hóa thủ tục vận chuyển hàng hóa qua biên giới, bảo quản nông sản,
kiểm định chất lượng.
Hai bên cũng tổ chức nhiều sự kiện quan trọng, như Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam -
Campuchia, Hội nghị xúc tiến đầu tư Việt Nam - Campuchia nhằm thúc đẩy hợp tác đầu tư giữa hai
nước ngày càng đi vào chiều sâu và hiệu quả. Nhờ đó, hoạt động đầu tư của Việt Nam vào
Campuchia có sự chuyển biến mạnh mẽ với vai trò quan trọng của các tập đoàn, tổng công ty, doanh
nghiệp lớn. Xuất hiện nhiều điểm sáng trong quan hệ hợp tác kinh tế Việt Nam - Campuchia, như
trong năm 2016, Liên doanh Vinamilk khánh thành Nhà máy sữa Angkor; Nhà máy chế biến mủ cao
su của Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (VRG) xây dựng tại tỉnh Kampong Thom... Hiện có
nhiều doanh nghiệp Việt Nam đang nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, vươn lên đầu tư, làm ăn hiệu quả
tại Campuchia, được phía Campuchia đánh giá, như BIDC, Agribank, Sacombank, MB, SHB, Tập
đoàn Viễn thông Viettel, Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (VRG), Tập đoàn Điện lực Việt
Nam (EVN) đã không chỉ đầu tư, kinh doanh hiệu quả, thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ đóng thuế mà
còn góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống, đóng góp tích cực vào an sinh xã
hội, tăng thu ngân sách, thúc đẩy phát triển hạ tầng và tạo việc làm cho hàng vạn lao động
Campuchia.
Theo thống kê của Cục Đầu tư nước ngoài, tính riêng năm 2020 đã có 220 dự án của Việt Nam
đã được Chính phủ Campuchia cấp phép đầu tư với tổng số vốn đạt gần 5,3 tỷ USD, chiếm 15,2%
tổng số dự án. Hoạt động của các dự án đầu tư của Việt Nam vào Campuchia đã góp phần thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội 2 nước, nhất là các tỉnh biên giới; tạo việc làm ổn định cho hàng vạn lao
động; nhiều hàng nông sản Campuchia xuất sang châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc,… đều do doanh
nghiệp Việt Nam đầu tư, như:
Dự án y tế của Bệnh viện Chợ Rẫy- Phnom Penh: 500 triệu USD.
Dự án Trồng cao su, nuôi bò sữa của Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai: 300 triệu USD.
Dự án hàng không của Công ty Viettel: 150 triệu USD.
Dự án sản xuất phân bón của Công ty Phân bón Năm Sao: 100 triệu USD
Hiện tại, Việt Nam đã vươn lên đứng vị trí thứ 5/70 quốc gia và vùng lãnh thổ có vốn đầu tư
vào Campuchia. Hoạt động đầu tư của doanh nghiệp Việt được tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực
nông nghiệp (trồng cao su và nuôi bò sữa), phân bón, y tế, ngân hàng, hàng không và viễn thông.
Tính đến hết năm 2020 đã có khoảng 50 dự án lớn được hoàn thành và đưa vào hoạt động tại
Campuchia với tổng số vốn đầu tư đạt khoảng 1,5 tỷ USD. Có thể nói, trong năm 2020 vừa qua,
phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam, với gần 220 dự án a đã vững vàng vượt qua khó khăn, thử
thách do dịch bệnh và thiên tai gây nên, đồng thời góp phần trợ giúp cho các hoạt động kinh tế, xã
hội thiết yếu của nước bạn.
2. Campuchia đầu tư sang Việt Nam
Tính đến thời điểm này Campuchia cũng có 21 dự án đầu tư vào Việt Nam với tổng vốn đăng
ký đầu tư đạt 63,7 triệu USD. Đầu tư của Campuchia tại Việt Nam tập trung chủ yếu vào lĩnh vực
nông, lâm nghiệp, thủy sản, kinh doanh thương mại, vận tải kho bãi, công nghệ chế biến chế tạo...
Riêng 9 tháng năm 2019, vốn đầu tư của Campuchia vào Việt Nam đạt 3,2 triệu USD.
V. Cơ hội hợp tác giữa Việt Nam và Campuchia
1. Cơ hội
Hoạt động giao thương hàng hóa vẫn chưa tương xứng với các tiềm năng giữa các bên. Song
song với đó là trình độ phát triển sản xuất công nghiệp của nước bạn còn khá hạn chế, thiếu các nhà
máy sản xuất hàng tiêu dùng thiết yếu, thị hiếu tiêu dùng ở đây lại chưa quá khắt khe. Vì vậy, đây
chính là một cơ hội rất lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam thuộc các lĩnh vực sản xuất đồ gia dụng,
đồ nhựa, mì ăn liền, thực phẩm, tiểu thủ công nghiệp… có thể dịch chuyển nhà máy sang Campuchia
để đầu tư sản xuất.
Với sự phát triển cơ sở hạ tầng giao thông trong khu vực. Ngành công nghiệp du lịch cũng rất
phát triển dựa trên một loạt các tuyến đường xuyên quốc gia. Giải quyết những vấn đề liên quan đến
quy định về đi lại qua biên giới, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam mở rộng tuyến du lịch
lữ hành, khai thác nguồn lợi chung dọc theo biên giới. Xây dựng và phát huy các chiến lược quảng
cáo và tiếp thị về du lịch. Tăng cường các tour du lịch theo các hành lang Đông – Tây tạo cơ sở khai
thác tuyến du lịch đường bộ liên hoàn ba nước để khai thác các danh lam thắng cảnh, di sản văn hóa
phong phú của nước bạn.
Lĩnh vực nông lâm nghiệp được coi là thế mạnh của Tam giác phát triển CLV do phát huy
được lợi thế so sánh của khu vực này trong mối quan hệ với nền kinh tế ba nước và khu vực.
Trong lĩnh vực thương mại và đầu tư sản xuất công nông nghiệp. Ủy ban các quốc gia thuộc
khu vực GMS đã tiến hành đồng bộ hóa và hợp lý hóa các quy trình và bảng phân loại về thuế quan
như: phương thức điều hoà hoạt động buôn bán biên giới và thu hẹp tình trạng buôn bán bất hợp
pháp, tạo điều kiện thuận lợi cho các hình thức thương mại quá cảnh và các cơ chế bảo đảm tài chính
và thanh toán… Tất cả các vấn đề trên dẫn đến một loạt các ký kết hiệp định các quy định để kêu gọi
sự đầu tư cùng phát triển trong khu vực và tạo ra một loạt các cơ hội đầu tư tốt cho các nước, trong
đó có Việt Nam.
2. Thách thức
*Thách thức đầu tư từ Campuchia sang Việt Nam
Trình độ quản lý và tiềm lực vật chất của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu kém, nguồn
nhân lực dồi dào nhưng kỹ năng không cao, điều này khiến cho hệ thống phân công lao động gặp
nhiều bất cập ở thị trường nước ngoài.
Những khác biệt về văn hóa, pháp luật, môi trường giữa Việt Nam và Campuchia dẫn đến các
tranh chấp ngoài mong muốn, ảnh hưởng đến việc thực hiện dự án, quyền và lợi ích của người dân
địa phương.
Chưa chú trọng đúng mức đến việc chủ động nâng cao năng lực cạnh tranh, chất lượng tăng
trưởng, đặc biệt là sức cạnh tranh của doanh nghiệp và sản phẩm, dù đã được cải thiện nhưng còn
yếu so với nhiều nước như Nhật Bản, Hàn Quốc,... chưa xây dựng được nhiều thương hiệu mạnh
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Năng suất lao động nhiều doanh nghiệp còn thấp so với khu vực, khoa học công nghệ, đặc biệt
là hàm lượng tri thức, các yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp vào quy mô tăng trưởng chưa nhiều,
mà chủ yếu vẫn dựa vào các yếu tố vốn, giá nhân công lao động rẻ…
Trình độ khoa học công nghệ và khả năng ứng dụng khoa học công nghệ của nhiều doanh
nghiệp còn hạn chế kể cả khả năng nhận thức và thực thi luật pháp, cơ chế chính sách cũng chưa bảo
đảm.
Trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của đội ngũ lao động kỹ thuật trong các doanh
nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu.
Năng lực quản trị, nhất là quản trị doanh nghiệp còn yếu; khả năng nắm bắt, xử lý thông tin, dự
báo thị trường hạn chế, chưa chủ động.
Cơ chế hợp tác thương mại và đầu tư trong khu vực vẫn còn nhiều bất cập. Các chính sách
thuế, thủ tục đầu tư chưa nhất quán và tương thích, xuất nhập cảnh còn phức tạp gây ảnh hưởng
không thuận đến các dự án đầu tư và hoạt động thương mại.
Những chính sách, quy định còn gây khó khăn cho doanh nghiệp như quy định về xe vận
chuyển hàng hóa, về tuyến đường đi, về quy định vay vốn. Các thách thức về buôn lậu, di cư trái
phép, dịch bệnh, hủy hoại rừng và ô nhiễm môi trường cũng ảnh hưởng ít nhiều đến hoạt động của
các doanh nghiệp của Campuchia tại Việt Nam.
Ngoài ra do mạng lưới giao thông chưa được cải thiện, chi phí thu mua và phân phối còn cao đã làm
hạn chế việc tham gia của các nhà đầu tư.