You are on page 1of 28

*Thực trạng đầu tư phát triển của nước ta:

Vốn đầu tư phát triển từ 2011 - 2020 đạt gần 15 triệu tỉ đồng, tăng bình quân 10,6%/năm,
tập trung cho các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trọng điểm, nhất là giao
thông, thuỷ lợi, giáo dục, y tế, nông nghiệp, nông thôn, giảm nghèo, an ninh, quốc
phòng... góp phần quan trọng thay đổi diện mạo đất nước, tạo động lực cho phát triển và
thu hút các nguồn lực ngoài nhà nước.
Vốn đầu tư của khu vực ngoài nhà nước trong nước chiếm tỉ trọng ngày càng lớn trong
tổng đầu tư xã hội, tăng từ 36,1% năm 2010 lên 45,7% năm 2020. Một số tập đoàn,
doanh nghiệp tư nhân đã tham gia đầu tư, hoàn thành nhiều công trình, dự án lớn, góp
phần thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh. Nhiều dự án
hạ tầng theo phương thức đối tác công - tư (PPP) được triển khai thực hiện, nhất là trong
lĩnh vực giao thông.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng mạnh; đã thu hút được nhiều dự án quy mô lớn,
công nghệ cao. Tổng số vốn đăng ký giai đoạn 2011 - 2020 đạt trên 278 tỉ USD; vốn thực
hiện đạt 152,3 tỷ USD, tăng gần 6,9%/năm, chiếm 22,8% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Đặc biệt, trong giai đoạn 2016 – 2020 tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đạt 9,2 triệu
tỉ đồng, bằng 33,7% GDP (mục tiêu 32 - 34%). Cơ cấu đầu tư chuyển dịch tích cực, tỷ
trọng đầu tư của khu vực nhà nước giảm, phù hợp với định hướng cơ cấu lại đầu tư công
và giảm dần sở hữu Nhà nước tại các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế, nhất là các lĩnh vực
Nhà nước không cần nắm giữ cổ phần chi phối. Tỉ trọng vốn đầu từ khu vực kinh tế ngoài
nhà nước tăng nhanh từ mức 38,3% năm 2015 lên 44,9% năm 2020. Thu hút vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng mạnh (Tính chung cả giai đoạn 2016 - 2020, tổng vốn
FDI đăng ký đạt 167,8 tỉ USD, vốn thực hiện đạt 92,8 tỉ USD), vốn đăng ký đạt mức kỷ
lục là 39 tỷ USD (năm 2019). Hiệu quả đầu tư cải thiện, hệ số ICOR giai đoạn 2016 -
2019 đạt 6,1 (thấp hơn giai đoạn 2011 - 2015 là 6,3).
Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2020 tăng 5,7% so với năm 2019, mức thấp nhất
trong giai đoạn 2011-2020 do ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19 đến tất cả các hoạt
động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, tốc độ tăng vốn thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà
nước năm 2020 đạt mức cao nhất trong giai đoạn 2011-2020, đây là kết quả đẩy mạnh
thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công nhằm duy trì đà tăng trưởng kinh tế trong bối
cảnh dịch Covid-19 được kiểm soát tốt tại Việt Nam.
 Huy động nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng lên, vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài tăng mạnh, đạt mức kỷ lục và hiệu quả sử dụng dần được nâng cao.
* Đầu tư tác động làm tăng năng lực khoa học công nghê của đất nước
Trong những năm gần đây, nhận thức vai trò của phát triển khoa học công nghệ đã được
nâng cao tại Việt Nam, thể hiện ở một số mặt như:
Nhà nước bảo đảm chi cho khoa học và công nghệ (KHCN) từ 2% trở lên trong tổng chi
ngân sách nhà nước hàng năm - là nội dung quan trọng được ghi nhận trong Luật KHCN
2013. Chi 2% ngân sách nhà nước cho hoạt động KHCN đã thể hiện sự quan tâm rất lớn
của Nhà nước tới lĩnh vực này. Mặc dù chi ngân sách nhà nước đã ưu tiên nhiều hơn cho
hoạt động KHCN nhưng so với nhiều nước trên thế giới và trong khu vực thì nguồn lực
đầu tư cho KHCN ở nước ta vẫn còn khiêm tốn. Tổng đầu tư cho KHCN bình quân đầu
người của Việt Nam thấp hơn nhiều lần so với các nước trên thế giới. Tỉ lệ chi cho khoa
học công nghệ tuy tương đương với mức trung bình của các nước trên thế giới nhưng về
số tuyệt đối thì thấp hơn khá nhiều. Một ví dụ là nguồn tài chính cho KH-CN ở nước ta
năm 2012 chỉ là 700 triệu USD trong khi chỉ riêng Tập đoàn Samsung của Hàn Quốc đã
chi hơn 1 tỷ USD cho công nghệ. Tuy nhiên cũng không thể phủ nhận một số thành tựu
đã đạt được trong thời gian qua như: Giàn khoan tự nâng 90m nước, Lò phản ứng hạt
nhân Đà Lạt tái hoạt động, Dây chuyền sản xuất thiết bị điện tử viễn thông tân tiến nhất ở
khu vực Đông Nam Á được xây dựng và đưa vào hoạt động bởi “Trung tâm sản xuất thiết
bị điện tử Viettel”,….
Lĩnh vực KH-CN thời gian qua đạt được nhiều thành tựu, đóng góp thiết thực cho phát
triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt, việc đầu tư vào KH-CN đã giúp cho nhiều doanh nghiệp
nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng tính cạnh tranh trên thị trường. Điển hình như Tập
đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) năm 2010 đã thành lập Viện nghiên cứu riêng, theo
mô hình của các tập đoàn lớn trên thế giới. Viettel đã trích 10% lợi nhuận trước thuế cho
Quỹ Phát triển KH-CN, tương đương với 2.500 tỷ đồng. Với mức đầu tư như vậy, chỉ sau
một thời gian ngắn, các sản phẩm quan trọng bậc nhất phục vụ cho ngành công nghệ
thông tin và viễn thông mà viện nghiên cứu nói trên của Viettel làm ra đã đáp ứng được
nhu cầu của sự phát triển doanh nghiệp và giá chỉ bằng 1/3 so với giá thị trường. Tuy
nhiên nhìn chung phát triển khoa học kĩ thuật ở nước ta còn nhiều hạn chế. trên 95%
doanh nghiệp hiện nay thuộc loại nhỏ và siêu nhỏ, do nguồn lực hạn chế nên chỉ tập trung
vào đổi mới công nghệ hơn là triển khai nghiên cứu. Ngoài ra, 30% doanh nghiệp chưa
nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của hoạt động KHCN trong doanh nghiệp. Ngay cả các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng chưa quan tâm tới nghiên cứu.

* Đầu tư tác động đến tiến bộ xã hội và môi trường


Đầu tư giữ vai trò quan trọng, quyết định tới tăng trưởng kinh tế cũng đồng thời là một
nhân tố gián tiếp góp phần xây dựng một xã hội tiến bộ. Có thể thấy trong những năm
qua, đầu tư đã góp phần cải thiện cuộc sống người dân, thu nhập bình quân đầu người
tăng liên tục qua các năm như năm 2015 thu nhập bình quân đầu người đạt mức 45,7
triệu đồng (tương đương 2.109 USD) năm 2015 tăng 3,8% so với năm 2014 và tăng gấp
1,6 lần so với con số 1300 USD của năm 2011. Cùng với đó là việc đầu tư xây dựng các
công trình giao thông then chốt của nền kinh tế như đường bộ, sân bay, bến cảng, đường
sắt, công trình thủy lợi được nâng cấp và làm mới; các công trình điện, thông tin liên lạc,
các khu đô thị, khu công nghiệp, các bệnh viện, trường học, công trình văn hóa thể thao
được cải tạo và xây dựng đã giúp cải thiện, nâng cao mức sống của nhân dân làm thay đổi
diện mạo cả đô thị và nông thôn.
Cùng với việc chú trọng vào phát triển, tăng trưởng kinh tế, những năm gần đây, một
cụm từ rất được quan tâm là “ Phát triển bền vững”. Nhờ những cố gắng của toàn Đảng,
toàn dân, Việt Nam đã bước đầu kiềm chế được tốc độ gia tăng ô nhiễm thông qua việc
đẩy mạnh các hoạt động phòng ngừa, kiểm soát và xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng. Kết quả rõ nét nhất là trong 10 năm qua, với tốc độ GDP của nước
ta tăng lên 2 lần thì mức độ ô nhiễm môi trường bình quân theo đánh giá của Ngân hàng
thế giới sẽ phải tăng lên 4 lần, nhưng thực tế chỉ tăng khoảng 2,5 lần.
Bên cạnh những kết quả đạt được, thời gian qua, cũng có không ít các vụ việc liên quan
đến các dự án đầu tư ảnh hưởng lâu dài đến môi trường sống bị đưa ra trước công chúng.
Tháng 4/2016, hiện tượng cá chết hàng loạt tại vùng biển các tỉnh miền trung được cho là
do chất thải của nhà máy Formosa làm dư luận không khỏi bàng hoàng. Đại diện công ty
đã đưa ra câu hỏi: “Việt Nam chọn cá hay nhà máy thép công nghệ cao?” đặt ra câu hỏi
về những bất cập trong công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường, về vấn đề đầu tư
và phát triển bền vững.

* Thực trạng việc sử dụng nguồn vốn tại các doanh nghiệp nhà nước
Hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của các DNNN vẫn chưa tương xứng với nguồn
lực, doanh thu chỉ đạt 1.709.171 tỷ đồng và lợi nhuận là 166.941 tỷ đồng. Trong khi đó,
các DNNN vẫn đầu tư vào một số lĩnh vực không thuộc ngành nghề kinh doanh chính
như: ngân hàng (13.152 tỷ đồng), bất động sản (6.089 tỷ đồng), chứng khoán (1.106 tỷ
đồng)… Dù số lượng DNNN đã giảm nhưng cơ cấu vốn của khu vực này thời gian qua
gần như không thay đổi, tỷ trọng vốn vay so với tổng nguồn vốn của DN luôn lớn. Ngoài
vấn đề nợ, tình hình tài chính tại nhiều TĐ, TCT còn chưa đảm bảo các yêu cầu về an
toàn tài chính, tiềm tàng nhiều nguy cơ rủi ro vì kinh doanh không hiệu quả, thua lỗ như
TĐ Điện lực Việt Nam; nhiều tiêu cực, tội phạm đã sảy ra như: TCT Công nghiệp tàu
thủy, TCT Hàng hải Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam.

*1. Khái niệm : Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là hoạt động di chuyển vốn giữa các
quốc gia, trong đó nhà đầu tư nước này mang vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào sang
nước khác để tiến hành hoạt động đầu tư và trực tiếp nắm quyền quản lý cơ sở kinh
doanh tại nước đó.
2. Bản chất: FDI là một loại đầu tư quốc tế, mà chủ đầu tư bỏ vốn để xây dựng hoặc mua
phần lớn, thậm chí toàn bộ các cơ sở kinh doanh ở nước ngoài để trở thành chủ sở hữu
toàn bộ hay từng phần cơ sở đó và trực tiếp quản lý điều hành hoạt động của đối tượng
mà họ bỏ vốn đầu tư. Đồng thời, họ cũng chịu trách nhiệm theo mức sở hữu về kết quả
sản xuất kinh doanh của dự án.

* Chương 1: Tổng quan về vốn ODA


1.1. Khái niệm vốn ODA
ODA là khoản hỗ trợ đôi khi còn gọi là viện trợ của các nước phát triển, các tổ chức
tài chính quốc tế cho các nước đang phát triển và các nước kém phát triển
1.2. Đặc điểm và vai trò của nguồn vốn ODA
* Đặc điểm:
Là hình thức hợp tác phát triển giữa các quốc gia
Đây là hình thức hợp tác phát triển giữa các nước phát triển, tổ chức tài chính quốc tế
dành cho nước đang hoặc chậm phát triển. Ngoài ra nó còn bao gồm chuyển giao kỹ
thuật, cung cấp sản phẩm và dịch vụ.
Khoản vay ODA có lãi suất thấp
Khoản vay ODA thường dưới 2%/năm. Nó chủ yếu nhằm hỗ trợ các nước đang phát
triển đẩy mạnh nền kinh tế đi lên. Thời gian vay kéo dài từ 25 - 40 năm, ân hạn từ 8- 10
năm.
Trong đó, ít nhất 25% nguồn vốn này không cần hoàn lại. Các nước đang phát triển
có nguồn vốn dồi dào giúp thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nền kinh tế ngày
càng nở rộ và đi lên thành các nước phát triển.
Các nước nhận viện trợ ODA cần chấp nhận điều kiện ràng buộc
Tuy nhiên mọi sự trợ giúp hay khoản vay lãi suất đều đi kèm cùng các ràng buộc.
Các nước nhận viện trợ sẽ phải đồng ý một số điều kiện đi kèm. Nó có thể liên quan đến
chính trị, kinh tế hay khu vực địa lý.
Các nước cho vay đều có mục đích như:
 Mở rộng quan hệ hợp tác.
 Mở rộng thị trường.
 Liên quan đến yếu tố chính trị.
 Liên quan đến an ninh quốc phòng.
* Vai trò:
Bổ sung vốn cho đầu tư phát triển
ODA là nguồn bổ sung vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. ODA đã trở thành
nguồn vốn từ bên ngoài quan trọng để đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển. Bên
cạnh đầu tư cho phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật một lượng lớn vốn
ODA đã được sử dụng để đầu tư cho việc phát triển ngành giáo dục, y tế, hỗ trợ phát triển
ngành nông nghiệp …
Tất cả các quốc gia khi thực hiện CNH - HĐH đều cần đến một lượng vốn đầu tư rất
lớn và đây là thách thức đối với các nước đang phát triển. Với nội lực còn hạn chế thì vốn
trong nước không thể đáp ứng được nhu cầu về vốn đầu tư, do đó việc huy động vốn từ
nước ngoài trở nên tất yếu. Đặc biệt, nguồn ODA tập trung đầu tư cho các lĩnh vực cơ sở
hạ tầng ở các nước đang phát triển là một giải pháp hữu hiệu để khắc phục sự thiếu vốn.
Tại Việt Nam, khoảng 80% lượng vốn ODA được dành cho đầu tư vào lĩnh vực cơ sở hạ
tầng, số vốn này chiếm khoảng 40% tổng vốn đầu tư của toàn xã hội cho cơ sở hạ tầng.
Tạo điều kiện thuận lợi thu hút nguồn vốn FDI và các nguồn vốn khác
ODA góp phần tăng khả năng thu hút FDI và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư phát
triển. Các nhà đầu tư nước ngoài khi quyết định bỏ vốn đầu tư vào một nước, trước hết họ
quan tâm tới khả năng sinh lợi của vốn đầu tư tại nước đó. Bởi vậy, đầu tư của chính phủ
vào việc nâng cấp, cải thiện và xây mới các cơ sở hạ tầng, hệ thống tài chính, ngân hàng
đều hết sức cần thiết nhằm làm cho môi trường đầu tư trở nên hấp dẫn hơn. 
Đối với các nước đang phát triển thì nguồn vốn ODA được sử dụng chủ yếu vào các
lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội. Đây là lĩnh vực có nhu cầu vốn đầu
tư lớn song khả năng sinh lời lại thấp nên không hấp dẫn các nhà đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Với mục đích là tìm kiếm lợi nhuận, các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ quan
tâm đến những nước có môi trường đầu tư thuận lợi nhằm giảm chi phí. Vì vậy, cơ sở hạ
tầng kỹ thuật yếu kém, môi trường chính sách không thông thoáng, không ổn định sẽ làm
nản lòng các nhà đầu tư. Một quốc gia đang phát triển nhận được nhiều và sử dụng có
hiệu quả vốn ODA đồng nghĩa với việc xây dựng được môi trường đầu tư thuận lợi và sẽ
tạo điều kiện cho các nguồn vốn khác như vốn FDI và vốn đầu tư trong nước phát huy
hiệu quả.
Tiếp thu công nghệ hiện đại từ các nước phát triển
ODA giúp cho việc tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại và phát
triển nguồn nhân lực. Thông qua các dự án ODA các nhà tài trợ có những hoạt động
nhằm giúp Việt Nam nâng cao trình độ khoa học công nghệ và phát triển nguồn nhân lực
như: cung cấp các tài liệu kỹ thuật, tổ chức các buổi hội thảo với sự tham gia của những
chuyên gia nước ngoài, cử các cán bộ Việt Nam đi học ở nước ngoài, … Thông qua đó sẽ
góp phần đáng kể vào việc nâng cao trình độ khoa học, công nghệ và phát triển nguồn
nhân lực của Việt Nam và đây mới chính là lợi ích căn bản, lâu dài đối với chúng ta.
Điều chỉnh cơ cấu kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội và môi trường
ODA giúp cho việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế. Các dự án ODA mà các nhà tài trợ
dành cho Việt Nam thường ưu tiên vào phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật, phát
triển nguồn nhân lực tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển cân đối giữa các ngành,
các vùng khác nhau trong cả nước. Bên cạnh đó còn có một số dự án giúp Việt Nam thực
hiện cải cách hành chính nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước.
Tất cả những điều đó góp phần vào việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế ở Việt Nam.
1.3. Phân loại nguồn vốn ODA
Theo cách thức hoàn trả: 
- Viện trợ không hoàn lại
- Viện trợ ưu đãi (tín dụng ưu đãi)
- Viện trợ hỗn hợp
Theo phương thức cung cấp: 
- ODA hỗ trợ dự án
- ODA phi dự án: hỗ trợ cán cân thanh toán, hỗ trợ trả nợ (hỗ trợ ngân sách)
- ODA hỗ trợ chương trình
Theo nhà tài trợ: 
- ODA song phương
- ODA đa phương
Theo điều kiện ràng buộc: 
- ODA không ràng buộc
- ODA có ràng buộc

Chương 2: Thực trạng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA tại Việt Nam
2.1. Thực trạng thu hút nguồn vốn ODA
Việt Nam đang là nước tiếp nhận nguồn vốn ODA nhiều nhất trong khối các nước
ASEAN, với khoảng 35 - 40% tổng vốn ODA vào khu vực ASEAN (2010 - 2017).
Tổng vốn ODA ký kết trong giai đoạn từ 1993 đến tháng 3/2020 đạt 86664.1 triệu
USD, trong đó vay ODA: 77373,576 triệu USD, vay ưu đãi: 1623,31 triệu USD, viện trợ
không hoàn lại: 7667,214 triệu USD).  
Có thể nhận thấy ODA vào Việt Nam chủ yếu dưới hai hình thức là ODA viện trợ và
ODA vay, trong đó vốn vay ODA có xu hướng ngày càng tăng và ngày càng chiếm tỷ
trọng lớn so với ODA viện trợ
 Tuy nhiên, dòng vốn ODA vào Việt Nam có xu hướng giảm đáng kể (đặc biệt khi
Việt Nam trở thành nước thu nhập trung bình thấp vào năm 2010) và trở nên ít ưu đãi,
dần tiến tới vay theo điều kiện thị trường  khi Việt Nam “tốt nghiệp” vốn viện trợ chính
thức của Hiệp hội phát triển chính thức - IDA (2017) và của Quỹ phát triển châu Á - ADF
(2019)
Hiện nay, Việt Nam đã thu hút và tiếp nhận vốn ODA từ 51 nhà tài trợ, gồm 28 nhà
tài trợ song phương và 31 nhà tài trợ đa phương. Trong đó, khoảng 80% nguồn vốn ODA
của Việt Nam được huy động từ 6 ngân hàng, gồm: Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng
Phát triển châu Á (ADB), Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), Ngân hàng Xuất
nhập khẩu Hàn Quốc (KEXIM), Cơ quan phát triển Pháp (AFD) và Ngân hàng Tái thiết
Đức (KfW).
Nhật Bản là quốc gia có mức ký kết vốn ODA lớn nhất cho Việt Nam kể từ khi nối
lại viện trợ ODA cho Việt Nam (1992). Tính từ 1992 đến nay, ODA của Nhật Bản dành
cho Việt Nam đạt 1.542 tỷ Yên (gần 17 tỷ USD), chiếm khoảng 30% tổng ODA của cộng
đồng quốc tế cam kết vớ i Việt Nam. 
Vốn ODA được huy động chủ yếu vào các ngành giao thông vận tải, môi trường và
phát triển đô thị, năng lượng và công nghiệp, nông nghiệp và phát triển nông thôn, xóa
đói giảm nghèo. Kết quả huy động vốn ODA được đánh giá là tương đối sát các mục tiêu,
nguyên tắc và các lĩnh vực ưu tiên đề ra tại Quyết định số 251/QĐ-TTg ngày 17/02/2016
của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án “Định hướng thu hút, quản lý và sử dụng
nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài thời kỳ 2016 - 2020” 
2.2. Thực trạng sử dụng nguồn vốn ODA
2.2.1. Thực trạng giải ngân vốn ODA
Theo đánh giá của Bộ KH&ĐT, mức giải ngân ODA và vốn vay ưu đãi không đồng
đều giữa các ngành, lĩnh vực và giữa các địa phương. Những chương trình, dự án trong
các lĩnh vực như giao thông, năng lượng điện, phát triển đô thị có mức giải ngân cao hơn
so với các lĩnh vực khác như y tế, giáo dục và đào tạo, thông tin truyền thông, lao động,
thương binh và xã hội. Tương tự, giải ngân của các thành phố lớn như Hà Nội, TP Hồ
Chí Minh có mức cao hơn nhiều so với các địa phương khác trong cả nước. Riêng Bộ
Giao thông vận tải (GTVT) được đánh giá là bộ có mức giải ngân cao trong năm 2015
với mức giải ngân cao trên 80% so với kế hoạch, 1 dự án giải ngân khá (40%-80%) và 12
dự án giải ngân dưới 40%.
Trong giai đoạn này, nguồn vốn ODA luôn chiếm khoảng 70% cho lĩnh vực giao
thông vận tải, nhất là đường bộ trong đó đã có trên 2000 km đường bộ cao tốc... tổng nhu
cầu vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng ở Việt Nam cho lĩnh vực đường bộ khoảng 651
nghìn tỷ đồng. Các dự án ODA được lựa chọn hầu hết là những dự án quan trọng với phát
triển kinh tế xã hội và ngành giao thông vận tải. Các dự án thường có quy mô và nhu cầu
vốn lớn; đòi hỏi công nghệ cao so với trình độ các nước trong khu vực và trên thế giới.
Giải ngân chậm làm hạn chế khả năng trả nợ, là nguy cơ làm tăng nợ quá hạn cho
Chính phủ, làm ùn đọng vốn ODA cam kết và ký kết; chậm đưa công trình vào sử dụng
gây lãng phí, thất thoát nguồn lực, công trình kém hiệu quả; làm giảm tính ưu đãi của vốn
vay (kéo dài thời gian trả phí cam kết); giảm uy tín của ta đối với các nhà tài trợ về năng
lực tiếp nhận và sử dụng ODA, ảnh hưởng trực tiếp đến việc vận động nguồn vốn này. 
2.2.2. Thực trạng quản lý và sử dụng ODA ở Việt Nam
Ngoài mục đích kinh tế, Việt Nam sẽ tập trung sử dụng vốn ODA hướng đến mục
đích phúc lợi xã hội như; ưu tiên sử dụng vốn ODA cho dự án đầu tư phát triển hạ tầng
có quy mô lớn trong lĩnh vực giao thông, năng lượng - công nghiệp, thông tin liên lạc;
các dự án về nông nghiệp và phát triển nông thôn kết hợp với xóa đói giảm nghèo, xây
dựng hệ thống bệnh viện cho các khu vực khó khăn, giáo dục và đào tạo hướng đến trẻ
em có hoàn cảnh khó khăn...
Trong lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng giao thông vận tải và năng lượng điện: 
Giai đoạn 1993 - 2012, 56.3% vốn ODA được phân bổ cho phát triển cơ sở hạ tầng
trong các lĩnh vực giao thông vận tải, thông tin truyền thông, năng lượng và công nghiệp.
Trong tổng số vốn ODA của Nhật Bản cho Việt Nam, lĩnh vực giao thông chiếm 43%.
Trong quá trình cải thiện cơ sở hạ tầng giao thông vận tải tại Việt Nam, vốn ODA thường
được ưu tiên cho những dự án tại khu vực thành thị như xây dựng đường cao tốc hơn là
cải thiện đường xá ở khu vực nông thôn. Vốn ODA bổ sung nguồn vốn cho đầu tư phát
triển và tăng cường cơ sở hạ tầng. Các dự án vay vốn ưu đãi của Nhật Bản trải dài trên
toàn quốc. Tại Hà Nội có các dự án như cầu Thanh Trì, đường vành đai 3…
Những công trình quan trọng được tài trợ bởi ODA đã góp phần cải thiện cơ bản và
phát triển một bước cơ sở hạ tầng kinh tế, trước hết là giao thông vận tải và năng lượng
điện, góp phần khơi dậy nguồn vốn trong nước và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân. Vốn ODA đã làm thay đổi
đáng kể bộ mặt của cơ sở hạ tầng kinh tế. Cũng giống như các nước đang phát triển khác,
Việt Nam thường được nhận nhiều ODA nhằm mục tiêu cải thiện cơ sở hạ tầng, đặc biệt
trong lĩnh vực giao thông vận tải, truyền thông và năng lượng. Vốn ODA đã được sử
dụng để khôi phục, nâng cấp và xây dựng mới đường quốc lộ; khôi phục và cải tạo Quốc
lộ 5, quốc lộ 1A (đoạn Hà Nội - Vinh; đoạn TP. Hồ Chí Minh-Cần Thơ, TP. Hồ Chí
Minh - Nha Trang) … Vốn ODA đã đầu tư nâng cấp cảng Hải Phòng; cảng Sài Gòn; xây
dựng mới cảng nước sâu Cái Lân; cải tạo cảng Tiên Sa, Đà Nẵng. 
Trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, y tế, giáo dục: 
Nguồn vốn ODA đã hỗ trợ phát triển các tỉnh và thành phố, phát triển hạ tầng quy mô
nhỏ ở các vùng nông thôn miền núi; ODA đóng góp cho sự phát triển cơ sở hạ tầng xã
hội, tác động tích cực đến việc cải thiện đời sống.
Trong 20 năm qua, Ban Quản lý các dự án Nông nghiệp được bộ Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn giao thực hiện 20 chương trình, dự án với tổng vốn ODA gần 2 tỷ
USD từ các nhà tài trợ quốc tế lớn như: Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển
Châu Á (ADB), cơ quan phát triển Pháp (AFD) và chính phủ các nước Nhật Bản, Anh,
Đức… Các dự án có phạm vi hoạt động tại 63 tỉnh, thành trên cả nước. Nguồn vốn ODA
dành cho nông nghiệp tập trung vào xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng nông thôn phục vụ
nhu cầu dân sinh và hoạt động sản xuất tại các địa phương. Từ 2000 đến nay, gần 5000
km đường giao thông nông thôn được đầu tư nâng cấp, trên 700 km kênh mương và công
trình hồ đập thủy lợi, 21 cảng cá và gần 50 vùng nuôi được nâng cấp cơ sở hạ tầng.
Trong lĩnh vực y tế, giáo dục:
ODA đóng góp cho việc nâng cao các chỉ số về giáo dục, y tế, văn hoá, … tăng
cường chỉ số phát triển con người ở Việt Nam. Tổng nguồn vốn ODA dành cho giáo dục
và đào tạo đã góp phần cải thiện chất lượng và hiệu quả của công tác giáo dục và đào tạo,
tăng cường một bước cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc nâng cao chất lượng dạy và học,
như dự án giáo dục tiểu học, trung học và đại học, dự án đào tạo nghề... 
Nguồn vốn ODA đã đóng góp cho sự thành công của một số chương trình xã hội có ý
nghĩa sâu rộng như Chương trình dân số và phát triển, Chương trình tiêm chủng mở rộng,
Chương trình dinh dưỡng trẻ em, Chương trình nước sạch nông thôn, Chương trình chăm
sóc sức khỏe ban đầu, Chương trình xóa đói giảm nghèo. Nhờ vậy, thứ hạng của nước ta
trong bảng xếp hạng các quốc gia và chỉ số phát triển con người của Liên hợp quốc đều
được cải thiện hàng năm. ODA không chỉ bổ sung nguồn lực cho các chương trình xã hội
mà điều quan trọng là đã góp phần thay đổi nhận thức và hành vi của người dân trong các
lĩnh vực xã hội đòi hỏi có sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp dân cư, như phòng chống
đại dịch HIV/AIDS, phòng chống ma túy.
Trong lĩnh vực quản lý tài nguyên và môi trường, phòng chống thiên tai và biến
đổi khí hậu: 
Nhiều dự án ODA hỗ trợ bảo vệ môi trường ở các thành phố lớn. Nhiều dự án ODA
đã dành cho việc tăng cường hệ thống cấp nước sạch ở đô thị và nông thôn; cải thiện hệ
thống thoát nước thải ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh, và các đô thị, khu
kinh tế quan trọng. Các nghiên cứu bảo vệ các di sản thiên nhiên như Vịnh Hạ Long, Mỹ
Sơn, Hội An, Cố đô Huế, … bảo đảm đa dạng sinh học đã được thực hiện có kết quả.
Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn ODA: 
 Tích cực:
Hiệu quả sử dụng vốn ODA của Việt Nam trong những năm qua được các nhà tài trợ
đánh giá tích cực. Số vốn ODA mà các nhà tài trợ cam kết cho Việt Nam là nguồn bổ
sung quan trọng phục vụ quá trình phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, phát
triển nông nghiệp, xây dựng hạ tầng, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Các công trình
xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế quy mô lớn trong lĩnh vực giao thông đã góp phần nâng
cao thu nhập của người dân thông qua tăng trưởng kinh tế. Nhờ đó, Việt Nam từ một
nước nghèo đã vươn lên nhanh chóng, trở thành nước có thu nhập trung bình. Hệ thống
hạ tầng về giao thông, điện, thủy lợi, y tế…có sự phát triển mạnh mẽ, hoàn thành mục
tiêu xóa đói giảm nghèo trong cả nước.
 Tiêu cực:
Bên cạnh những mặt được của ODA hỗ trợ quá trình phát triển, việc sử dụng ODA
trong thời gian qua cũng bộc lộ những yếu kém, làm giảm hiệu quả sử dụng nguồn lực
này. Nhiều dự án có quy mô nhỏ lẻ, không mang tính đồng bộ, chưa gắn kết với quy
hoạch tổng thể. Công tác xây dựng kế hoạch, phân bổ nguồn lực trong nhiều trường hợp
chưa sát với nhu cầu thực tế. Chẳng hạn, tại tỉnh Quảng Trị, dự án quản lý thiên tai, kế
hoạch bố trí 13,6 tỷ đồng, trong khi giải ngân hơn 113 tỷ đồng. Chất lượng một số công
trình sử dụng vốn ODA chưa bảo đảm phần lớn các chương trình dự án tập trung vào lĩnh
vực xây dựng cơ bản, chưa bảo đảm đúng những tiêu chuẩn định mức của bản thiết kế đặt
ra. Ban vận hành phải bỏ chi phí đáng kể ra để bảo dưỡng tu sửa. Nguyên nhân là trong
quá trình thực hiện xảy ra thất thoát, lãng phí. Thất thoát trong xây dựng cơ bản hiện nay
của Việt Nam chiếm khoảng 20% - 30% tổng vốn đầu tư trong từng dự án. Theo báo cáo
của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương về tình hình phân cấp quản lý vốn hỗ
trợ phát triển chính thức (ODA) ở địa phương, xu hướng của chính sách phân cấp quản lý
ODA của WB cũng như các nhà tài trợ khác đã tác động rất lớn đối với các quốc gia thụ
hưởng:

3.3. Giải pháp thu hút ODA trong giai đoạn 2021 – 2025
Thứ nhất, cần nhận thức đúng đắn về vốn ODA, coi ODA là nguồn lực bên ngoài có
tính chất bổ sung chứ không thay thế nguồn lực nội sinh. ODA không phải là “thứ cho
không” mà chủ yếu là vay nợ nước ngoài theo các điều kiện ưu đãi, gắn với uy tín và
trách nhiệm quốc gia trong quan hệ với cộng đồng tài trợ quốc tế.
Thứ hai, tăng cường công tác hoàn thiện cơ chế quản lý và điều hành tiếp nhận ODA
Tiếp tục rà soát các cơ chế, chính sách, quy định pháp luật liên quan đến các quy
trình thủ tục, để kịp thời sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền hoặc báo cáo cấp có thẩm
quyền theo quy định. 
Hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động huy động vốn nước ngoài, đảm bảo hiệu
lực, hiệu quả tuân thủ pháp luật trong nước nhưng có tính đến việc hài hòa với chính sách
của nhà tài trợ, các thông lệ quốc tế trên thị trường vốn…
Thứ ba, ưu tiên thu hút các nguồn vốn có thời gian vay dài, lãi suất thấp và có thành
tố viện trợ không hoàn lại (GE) cao
Thứ tư, tiếp tục tăng cường đầu tư vào công tác cán bộ, đào tạo để nâng cao năng lực
cho cán bộ thuộc các bộ phận có liên quan đến công tác xác định nhu cầu đàm phán, ký
kết hiệp định với các bên viện trợ ODA nhằm mục đích cuối cùng là nâng cao hơn nữa cả
về chất lượng và số lượng của nguồn vốn ODA thu hút được.
Thứ năm, tổ chức các lớp đào tạo ngắn, các buổi hội thảo nhằm cung cấp các kiến
thức liên quan đến nguồn vốn ODA, tập huấn về những thủ tục, quy định và điều kiện
cung cấp ODA của các nhà tài trợ.
Thứ sáu, đổi mới cơ chế huy động nguồn vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài theo
hướng xây dựng một số chương trình đầu tư công để thực hiện một số dự án quan trọng,
có tính lan tỏa trong phạm vi cả nước hoặc một số vùng theo từng mục tiêu ưu tiên thay
cho cách tiếp cận dự án riêng lẻ, phân tán, không hiệu quả. Từng bước chuyển dịch từ
vay cho chương trình, dự án sang phương thức vay hỗ trợ ngân sách để gia tăng tính chủ
động, hiệu quả trong sử dụng vốn vay của chính phủ 
Thứ bảy, các ngành nghề và địa phương có nhu cầu tiếp nhận nguồn vốn ODA cần
xem xét, nghiên cứu một cách kỹ lưỡng các chính sách ưu tiên của các nhà tài trợ nước
ngoài cũng như các quy chế, chính sách quản lý và sử dụng vốn ODA của Chính phủ để
tranh thủ sự ủng hộ của Chính phủ, sự giúp đỡ của các cơ quan có liên quan trong việc
hoàn tất các thủ tục và lập hồ sơ dự án xin viện trợ phù hợp.
3.4. Giải pháp sử dụng hiệu quả vốn ODA trong giai đoạn 2021 – 2025
Một là, cần nhận thức đúng đắn về bản chất nguồn vốn ODA với 2 mặt chính trị và
kinh tế gắn kết chặt chẽ với nhau để trên cơ sở đó khai thác tác động tích cực về chính trị
và kinh tế của vốn ODA có lợi cho sự nghiệp phát triển của đất nước. 
Trong bối cảnh là nước có mức thu nhập trung bình, Việt Nam cần xác định rõ định
hướng tổng thể về thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA để làm căn cứ cụ thể hoá các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc huy động nguồn lực này; xác định
được những lĩnh vực ưu tiên cần sử dụng vốn ODA tránh tình trạng phân bổ dàn trải, tạo
tâm lý ỷ lại, không nỗ lực tìm kiếm các nguồn vốn khác. 
Hai là, hoàn thiện cơ chế và mô hình quản lý phù hợp, quản lý chặt chẽ các dự án
chống thất thoát lãng phí.
Ba là, hợp tác công-tư (PPP): 
Đây là hướng đi mới để thu hút đầu tư và sử dụng nguồn vốn ODA một cách hiệu
quả. Theo đó, Nhà nước nên khuyến khích tư nhân cùng tham gia đầu tư vào các dự án
dịch vụ hoặc công trình công cộng của Nhà nước có sử dụng vốn ODA làm hạt nhân thực
hiện.
Với mô hình PPP, Nhà nước sẽ thiết lập các tiêu chuẩn về cung cấp dịch vụ và tư
nhân được khuyến khích cung cấp bằng cơ chế thanh toán theo chất lượng dịch vụ. Việc
các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp tư nhân tham gia vào các dự án sử dụng nguồn
vốn ODA sẽ phát huy được hơn nữa hiệu quả sử dụng nguồn vốn này. 
Bốn là, hoàn thiện hành lang và khuôn khổ pháp lý về quản lý nguồn vốn ODA một
cách đồng bộ và minh bạch. 
Trong thời gian tới Chính phủ cần: xúc tiến rà soát lại hệ thống các văn bản có liên
quan đến quản lý vốn ODA nhằm bổ sung những quy phạm mới mà thực tế đòi hỏi, đồng
thời chỉnh sửa những bất cập trong các văn bản đã ban hành. Cần sớm ban hành nghi định
mới về tái định cư và giải phóng mặt bằng nhằm giải quyết cơ bản những vướng mắc về
vấn đề này.
Chính phủ cần tiếp tục làm hài hòa thủ tục tiếp nhận và thực hiện chương trình, dự án
ODA giữa Việt Nam và các nhà tài trợ thông qua việc hài hòa về khuôn khổ thể chế, pháp
lý và tổ chức hội nghị liên quan đến việc quản lý, sử dụng ODA để xác định và tháo gỡ
những vấn đề vướng mắc trong quá trình tổ chức, thực hiện chương trình dự án.
Năm là, tăng cường công tác theo dõi và đánh giá nguồn vốn ODA để bảo đảm mục
tiêu an toàn nợ. 
Trong thời gian qua, Chính phủ đã có những nỗ lực quan trọng nhằm cải thiện hệ
thống theo dõi và đánh giá, tuy nhiên công tác theo dõi và đánh giá chương trình, dự án ở
các cấp chưa được quan tâm đúng mức, chế độ báo cáo, thanh quyết toán tài chính chưa
được thực hiện nghiêm túc và thiếu các chế tài cần thiết.
Để bảo đảm an toàn nợ bền vững trước khi ra quyết định, cần tăng cường hơn nữa
công tác giám sát của Quốc hội, chỉ ra những khiếm khuyết trong sử dụng viện trợ của
những nhóm lợi ích cả trong và nước ngoài, nhà tài trợ; phân tích những mặt lợi, bất lợi
của vốn ODA từ đó đề xuất kiến nghị bảo đảm việc sử dụng có chọn lọc, có hiệu quả.
Sáu là, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ quản lý và nghiệp vụ chuyên môn cho
đội ngũ cán bộ làm việc trong các dự án: 
Để có thể sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA tại Việt Nam, một nhân tố quan trọng
thứ yếu đó là trình độ nhân lực trong nhiều lĩnh vực liên quan như kiến trúc, kỹ sư, quản
lý, vận hành. Vì vậy cần lưu tâm đặc biệt đến công tác đào tạo nguồn nhân lực cho các dự
án đầu tư ODA. Đề cử chuyên gia trong các lĩnh vực nghiên cứu mũi nhọn như công
nghệ thông tin, quản lý môi trường, nghiên cứu các loại giống cây trồng trong lĩnh vực
nông nghiệp và nâng cao hiệu quả quản lý trong nhiều ngành kinh tế.

I. VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ TRONG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ


0. Vai trò đầu tư đối với chuyển dịch cơ cấu ngành 
Đầu tiên, đầu tư tác động làm thay đổi tỷ trọng đóng góp vào GDP của các ngành: Đây là
1 hệ quả tất yếu của đầu tư. Đầu tư vào ngành nào càng nhiều thì ngành đó càng có khả
năng đóng góp lớn hơn vào GDP. Việc tập trung đầu tư vào ngành nào phụ thuộc vào
chính sách và chiến lược phát triển của mỗi quốc gia. Sự thay đổi này lại đi liền với sự
thay đổi cơ cấu sản xuất trong từng ngành hay nói cách khác, sự phân hóa cơ cấu sản xuất
trong mỗi ngành kinh tế là do tác động của của đầu tư. Sự phân hóa này cũng là một tất
yếu để phù hợp với sự phát triển của ngành.
Thứ hai, Đầu tư giúp tăng quy mô và năng lực sản xuất của các ngành. Vốn là nhân tố
quan trọng trong mở rộng sản xuất, đổi mới sản phẩm, mua sắm máy móc, thiết bị,…
Một ngành muốn tiêu thụ thụ rộng rãi sản phẩm của mình thì phải đầu tư nâng cao chất
lượng sản phẩm, đa dạng hóa mẫu mã, kiểu dáng, nghiên cứu chế tạo chức năng, công
dụng cho sản phẩm. Do đó việc đầu tư nâng cao hàm lượng khoa học công nghệ trong
sản phẩm là điều kiện không thể thiếu được nếu muốn sản phẩm đứng vững trên thị
trường.
1. Vai trò của đầu tư với chuyển dịch cơ cấu vùng lãnh thổ 
Đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ,
đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi
thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị…của những vùng có khả năng phát
triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển.
Đối với các vùng kinh tế trọng điểm: đầu tư vào các vùng kinh tế trọng điểm nhằm phát
huy lợi thế mạnh và phát huy tiềm năng của vùng, góp phần phát triển chung của cả
nước, làm đầu tàu kéo nền kinh tế chung của cả nước đi lên
Đối với các vùng kinh tế khó khăn: đầu tư thúc đẩy các vùng kinh tế khó khăn có khả
năng phát triển, giúp họ có đủ điều kiện để khai thác, phát huy tiềm năng của họ, giải
quyết những vướng mắc tài chính, cơ sở hạ tầng cũng như phương hướng phát triển, tạo
đà cho nền kinh tế vùng, giảm bớt sự chênh lệch kinh  tế với các vùng khác.
Nếu xét cơ cấu lãnh thổ theo góc độ thành thị và nông thôn thì đầu tư là yếu tố đảm bảo
cho chất lượng của đô thị hóa. Việc mở rộng các khu đô thị dựa trên các quyết định của
chính phủ sẽ chỉ là hình thức nếu không đi kèm với các khoản đầu tư hợp lý.
1. Vai trò của đầu tư với chuyển dịch cơ cấu theo thành phần kinh tế
Việc tổ chức các thành phần kinh tế đối với mỗi quốc gia chủ yếu phụ thuộc vào chiến
lược phát triển của Chính phủ. Các chính sách kinh tế sẽ quyết định thành phần nào là
chủ đạo, thành phần nào được ưu tiên phát triển, vai trò, nhiệm vụ của các thành phần
trong nền kinh tế… Ở đây đầu tư đóng vai trò nhân tố thực hiện. Cụ thể, Đầu tư tác động
tạo ra những chuyển biến về tỷ trọng đóng góp vào GDP của các thành phần kinh tế. Thứ
hai, đầu tư tạo ra sự phong phú, đa dạng về nguồn vốn đầu tư.
I. TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TỚI CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ TẠI
VIỆT NAM HIỆN NAY
1.  Đối với sự chuyển dịch cơ cấu ngành
 Qua 35 năm đổi mới, kinh tế Việt Nam đã đạt được những kết quả tăng trưởng ấn tượng
và từng bước hội nhập sâu rộng vào kinh tế khu vực và toàn cầu. Đặc biệt, trong giai
đoạn 2015-2020, kinh tế Việt Nam có sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng
hiện đại, giảm dần nguồn lực khu vực nông, lâm, thủy sản, nguồn lực phân bố cho khu
vực công nghiệp, khai khoáng, xây dựng và khu vực dịch vụ tăng dần. Nền kinh tế thu
hút ngày càng nhiều các nguồn lực quan trọng đã tạo ra sự thay đổi lớn trong tỷ trọng của
các ngành thể hiện rõ ở việc giảm tỷ trọng các ngành ở khu vực I và tăng tỷ trọng các
ngành ở khu vực II và III (Khu vực III chiếm tỉ trọng cao nhưng vẫn nhiều biến động). 
cơ cấu vốn đầu tư tập trung chủ yếu vào khu vực II và III. Trong đó, qua 5 năm, xu
hướng đầu tư vào nông nghiệp biến động nhẹ, tăng tới 6,11% vào năm 2017 và giảm
xuống còn 5,85% vào năm 2019. Với đầu tư giảm như vậy, phần trăm đóng góp của nông
nghiệp trong vào GDP của Việt Nam giảm nhẹ qua các năm, từ 18,17% vào năm 2015
còn 15,34% vào năm 2020. 
Với ngành Công nghiệp và xây dựng, đầu tư có xu hướng giảm dần qua các năm từ
47,2% vào năm 2015 còn 44,54% vào năm 2019. Tuy nhiên GDP của KV2 đạt được tốc
độ tăng trưởng ấn tượng nhất trong ba khu vực, GDP đóng góp của ngành này từ 982 tỷ
đồng vào 2015 lên 1406 tỷ đồng vào năm 2020, tốc độ tăng trung bình là 0,59%.
Trong ngành Thương mại và dịch vụ, xu hướng đầu tư tăng dần qua từng năm, đặc biệt
có biến động mạnh trong giai đoạn từ 2015 – 2017, sau đó các chỉ số tăng nhẹ qua hai
năm 2018, 2019. Qua đó, GDP của KV3 có tốc độ tăng trung bình trong ngành dịch vụ là
0,01%.
Qua đó, kết quả cho thấy, khu vực I vẫn được chú trọng đầu tư nhưng không chiếm vai
trò quan trọng như hai khu vực còn lại. Với khu vực II và III, xu hướng đầu tư được tập
trung ở khu vực III nhiều hơn và có xu hướng tăng qua các năm. Cho thấy chính sách của
Việt Nam muốn phát triển kinh tế xã hội ở đầy đủ các mặt, đặc biệt muốn biến Việt Nam
thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình cao theo hướng công nghiệp hóa, hiện
địa hóa đất nước. 
Nhìn chung, cơ cấu GDP của Việt Nam trong giai đoạn 2015-2020 thay đổi theo cơ cấu
phân bổ vốn đầu tư phát triển toàn xã hội theo hướng hiện đại, nghĩa là nền kinh tế có sự
chuyển dịch cơ cấu từ KV1 sang KV2 và KV3. Do nguồn vốn phân bổ cho khu vực 1 rất
thấp thể hiện phương thức sản xuất lạc hậu nên đóng góp vào GDP với tỷ trọng thấp.
Trong khi đó, nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tập trung chủ yếu vào KV2 và
KV3, nhưng đóng góp vào GDP với tỷ trọng chưa đảm bảo mục tiêu so với KV1, nên
hiệu quả sử dụng vốn trong các khu vực chưa đạt kỳ vọng đề ra. Có thể thấy, nguồn vốn
đầu tư phát triển toàn xã hội tập trung vào khu vực công nghiệp, khai khoáng và xây
dựng khá cao, nhưng tỷ trọng đóng góp vào GDP chưa tương xứng, chứng tỏ khu vực
này đang thâm dụng lao động và vốn. Do đó, ngành công nghiệp cần phát triển theo
hướng tận dụng các nguyên liệu có sẵn trong nước thay thế các nguyên liệu nhập khẩu và
hướng tới xuất khẩu; ngành khai khoáng nên tập trung nâng cao giá trị sản phẩm bằng
cách sản xuất, chế biến thành các thành phẩm, sản phẩm trung gian cung ứng cho ngành
công nghiệp và đẩy mạnh xuất khẩu. Riêng KV3 có sự tăng trưởng đều đặn của vốn đầu
tư phát triển toàn xã hội, nhưng tỷ trọng đóng góp vào GDP của khu vực này chưa có
chuyển dịch rõ ràng.
1. Đối với thành phần kinh tế
  Sau đổi mới cơ cấu đầu tư xét theo thành phần kinh tế của nước ta đã có những chuyển
biến đúng hướng theo chủ trương của Đảng và nhà nước: khuyến khích tất cả các thành
phần kinh tế, động viên mọi nguồn lực tham gia phát triển kinh tế xã hội.  Cụ thể, tỷ trọng
của khu vực kinh tế nhà nước giảm, đồng thời tỷ trọng của 2 khu vực còn lại tăng. Tuy
nhiên, sự chuyển dịch diễn ra còn chậm, chưa tương xứng với tiềm lực và nhu cầu phát
triển của đất nước.
Cơ cấu vốn đầu tư vào khu vực kinh tế nhà nước vẫn duy trì ở mức cao trong các năm từ
1999 đến 2005 và có xu hướng giảm từ năm 2005 đến nay. Kết quả thu được là do đã có
sự sắp xếp lại hoạt động và tổ chức của các doanh nghiệp nhà nước, tiến hành cổ phần
hóa các doanh nghiệp, giảm đáng kể các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Do vậy, trong giai
đoạn 5 năm từ 2001-2005, kinh tế nhà nước vẫn giữ được tỷ trọng tương đối ổn định. Tuy
vậy, bắt đầu từ năm 2005, vốn đầu tư đổ vào khu vực nhà nước có xu hướng giảm từ
47,1% năm 2005 xuống còn 24,7% năm 2021. 
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có xu hướng tăng dần từ năm 2005 đến nay.
Giai đoạn 2016-2020, chủ trương Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài có chọn lọc các dự
án đầu tư nước ngoài, chú trọng thu hút các công ty đa quốc gia lớn đã dần được hiện
thực hóa. Một số tập đoàn lớn, mạnh về công nghệ đã lựa chọn đầu tư ở Việt Nam. Cơ
cấu thu hút FDI được điều chỉnh hợp lý hơn với tỷ trọng thu hút phát triển công nghiệp
ngày càng tăng, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo trở thành ngành thu hút đầu tư
của các doanh nghiệp FDI hiện nay.
Tỷ trọng giá trị tăng thêm của khu vực kinh tế ngoài nhà nước thường chiếm 46-47% giá
trị tổng sản phẩm trong nước và những năm gần đây có xu hướng giảm. Trong khu vực
kinh tế này thì kinh tế tư nhân tuy có tốc độ tăng trưởng cao nhưng mới chiếm tỷ trọng
trên 8% trong giá trị tổng sản phẩm trong nước nên không bù đắp được cho sự tăng
trưởng thấp của khu vực kinh tế cá thể và khu vực kinh tế tập thể. Năm 2007, tỷ trọng
giữa 3 thành phần này tương đối cân bằng, đặc biệt giữa khu vực kinh tế nhà nước và khu
vực ngoài nhà nước (37.2% và 35.5%). Nguyên nhân chủ yếu của những biến đổi trên,
với các thành phần trong nước, là do môi trường đầu tư trong nước tiếp tục được cải thiện
theo hướng công bằng và minh bạch hơn cho các nhà đầu tư của mọi thành phần kinh tế.
Mặt khác, sự bùng nổ của thị trường chứng khoán đã tạo ra một kênh huy động vốn hữu
hiệu cho đầu tư phát triển. Đối với nguồn vốn nước ngoài, sự gia tăng đột biến của vốn
đầu tư nước ngoài vào năm 2007 được giải thích do sự kiện Việt Nam gia nhập WTO (7-
11-2006), mang lại những kỳ vọng cho các nhà đầu tư quốc tế về tương lai của nền kinh
tế. Từ đó tới nay, có thể thấy thành phần kinh tế ngoài nhà nước liên tục tăng dần, còn
thành phần kinh tế nhà nước giảm khá lớn.
1. Đối với vùng kinh tế
Đầu tư vào các vùng kinh tế trọng điểm nhằm phát huy thế mạnh và tiềm năng của vùng,
bên cạnh đó chính phủ còn có những hoạt động hỗ trợ đầu tư cho những vùng kém phát
triển nhằm cải thiện đời sống nhân dân và giảm chênh lệch kinh tế giữa các vùng. Thống
nhất quy hoạch phát triển trong cả nước, giữa các vùng, tỉnh, thành phố, tạo sự liên kết
trực tiếp về sản xuất, thương mại, đầu tư, giúp đỡ kỹ thuật và nguồn nhân lực. Đầu tư có
tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa các vùng
kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa lợi thế so sánh về tài
nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị…của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn,
làm bàn đạp cho các vùng kinh tế khác cùng phát triển.
1. Đầu tư phát huy tiềm năng, thúc đẩy kinh tế của vùng
Kết quả bảng trên cho thấy hai vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và Phía Nam luôn được
chú trọng đầu tư nhiều nhất cả nước, riêng hai vùng kinh tế trọng điểm này đã chiếm hơn
một nửa số vốn đầu tư xã hội của cả nước. Điều này được góp phần bởi hai vùng này có
hai thành phố kinh tế lớn nhất cả nước là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh
đó có thể thấy hai vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và Đồng Bằng Sông Cửu Long có
tỉ trọng đầu tư so với cả nước giảm (khoảng gần 1% trong giai đoạn 2011 đến 2017). Tuy
nhiên, hai vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và miền Nam tiếp tục tăng tỉ trọng đầu tư
(khoảng hơn 27% vào năm 2017). Chính phủ đã xác định vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam nắm giữ vai trò “đầu tàu”, dẫn dắt, phát triển bền vững đối với kinh tế đất nước.
Tuy diện tích chỉ chiếm 9,2%, nhưng GDP của vùng chiếm hơn 45% cả nước và gần 51%
GDP của bốn vùng kinh tế trọng điểm, đóng góp hơn 42% tổng thu ngân sách.  Theo đó,
tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) bình quân của vùng trong 03 năm
từ 2016-2018 đạt 9,08%/năm, cao nhất trong các vùng KTTĐ (trong đó, nổi bật nhất là
Hải Phòng đạt 14,57%/năm). GRDP bình quân đầu người của vùng KTĐT miền Bắc năm
2018 đạt 4.813 USD, gấp 1,86 lần mức trung bình cả nước. Tổng GRDP của KTTĐ miền
Bắc năm 2018 chiếm tỉ trọng 31,73% GDP của cả nước, đứng thứ hai, sau
vùng KTTĐ phía Nam. Có thể thấy đầu tư góp phần nâng cao tỷ trọng đóng góp vào
GDP của các vùng- lãnh thổ được đầu tư. Như phân tích trên đầu tư giúp các vùng tận
dụng được thế mạnh của mình, tạo đà cho sự phát triển kinh tế của vùng. Khi nền kinh tế
phát triển hơn thì khả năng đóng góp vào GDP cũng sẽ cao hơn so với trước. Ngoài ra
đầu tư tác động làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng, vùng nào có sự đầu tư nhiều hơn sẽ
có cơ hội phát triển kinh tế nhiều hơn, khả năng đóng góp vào GDP của vùng tăng cao
hơn, thúc đẩy sự phát triển kinh tế của vùng cao hơn các vùng - lãnh thổ ít được đầu tư
khác.
Với những vị trí địa lý, đặc thù tự nhiên khác nhau mỗi vùng – lãnh thổ sẽ có những thế
mạnh kinh tế khác nhau, nhưng để phát triển kinh tế thì không chỉ dựa vào những tài
nguyên vị trí địa lý sẵn có đó, mà phải có đủ điều kiện để khai thác và sử dụng nó có hiệu
quả. Điều này đòi hỏi phải có nguồn vốn đầu tư. Vì khi được đầu tư thích đáng các vùng
sẽ có điều kiện để xây dựng cơ sở hạ tầng, máy móc công nghệ hiện đại, xác định các
phương hướng phát triển đúng đắn để tận dụng, phát huy sức mạnh của vùng. Như một số
vùng miền núi có địa hình đồi núi cao ( Sơn La - Hoà Bình ) trước khi được đầu tư vùng
không có công trình nào lớn mạnh thực sự, nhưng nhờ đầu tư khai thác thế mạnh sông
núi của vùng nhà máy thuỷ điện đã được xây dựng, góp phần làm phát triển nền kinh tế
của vùng.
1. Đầu tư góp phần giải quyết những mất cân đối về phát triển kinh tế giữa các
vùng.
Nguồn vốn đầu tư thường được tập trung ở những vùng kinh tế trọng điểm của đất nước,
thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế của những khu vực đó, và đến lượt mình những vùng
phát triển này lại làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển. Các vùng kinh
tế trọng điểm được đầu tư phát huy thế mạnh của mình, góp phần lớn vào sự phát triển
chung của cả đất nước, kéo con tàu kinh tế chung của đất nước đi lên, khi đó các vùng
kinh tế khác mới có điều kiện để phát triển.
Đầu tư cũng đã thúc đẩy các vùng kinh tế khó khăn có khả năng phát triển, giảm bớt sự
chênh lệch kinh tế với các vùng khác. Các vùng kinh tế khó khăn khi nhận được sự đầu
tư, giúp họ có thể có đủ điều kiện để khai thác, phát huy tiềm năng của họ, giải quyết
những vướng mắc về tài chính, cơ sở hạ tầng cũng như phương hướng phát triển,tạo đà
cho nền kinh tế vùng , làm giảm bớt về sự chênh lệch với nền kinh tế các vùng khác.
Qua những phân tích trên cho thấy , đầu tư có sự tác động quan trọng đến sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ, từng vùng có khả năng phát triển kinh tế cao hơn, phát huy
được thế mạnh của vùng, đời sống nhân dân trong vùng có nhiều thay đổi, tuy nhiên trên
thực tế mức độ đầu tư vào từng vùng là khác nhau, điều đó làm cho nền kinh tế của các
vùng vẫn luôn có sự khác nhau, chênh lệch nhau.

Theo bảng trên, vốn đầu tư xã hội được phân bổ tập trung vào hai vùng kinh tế lớn là
vùng đồng bằng sông Hồng và vùng Đông Nam Bộ. Một số dự án FDI tiêu biểu, có thể
kể đến như dự án SAMSUNG DISPLAY Việt Nam tại Bắc Ninh với vốn đầu tư đăng kì
là 6,5 tỷ đô, dự án Thành phố thông minh tổng vốn đầu tư hơn 4 tỷ của nhà đầu tư Nhật
Bản, dự án công ty Jaks Hải Dương (nhà máy điện BOT Hải Dương) tổng vốn hơn 2 tỷ
đô…Hai vùng có tỷ trọng vốn đầu tư trong tổng vốn đầu tư xã hội nhỏ nhất là vùng miền
núi phía Bắc và vùng núi Tây Nguyên. Sự chênh lệch lớn về cơ cấu vốn đầu tư là nguyên
nhân làm cho vùng núi phía Bắc và vùng Tây Nguyên có nguy cơ tụt hậu, chậm phát
triển.
Phần lớn dự án FDI tập trung ở các vùng phát triển kinh tế trọng điểm (84% tổng vốn đầu
tư), tuy nhiên, xu hướng thu hút FDI đang từng bước lan ra các vùng khác ngoài vùng
phát triển. Bên cạnh đó, chúng ta luôn luôn coi trọng việc thu hút nguồn vốn từ bên
ngoài, cả ODA và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chiếm khoảng 30% tổng vốn đầu tư
phát triển, coi đó là yếu tố quan trọng, góp phần tăng thêm nguồn vốn đầu tư phát triển,
tạo ra cơ cấu kinh tế vùng hợp lý để thúc đẩy việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh
tế xã hội của đất nước. Vốn FDI đã lan đến tất cả các tỉnh và thành phố, kể cả những địa
phương nghèo, còn chậm phát triển như Điện Biên, Lai Châu, Đắk Nông,…Vốn FDI đã
đóng góp 18% tổng vốn đầu tư toàn xã hội tạo ra hơn 1,2 triệu việc làm trực tiếp, góp
phần chuyển dịch cơ cấu, nâng cao năng lực sản xuất, chuyển giao công nghệ...

II. Đầu tư nước ngoài kìm hãm đầu tư trong nước.


Vốn đầu tư nước ngoài- một nguồn lực hấp dẫn đối với các nước đang phát triển
trong đó có Việt Nam. Nó có khả năng đưa đến cho các nước đang phát triển những điều
kiện họ đang cần nhưng nếu không có kế hoạch sử dụng hợp lý mà thả cửa vào một cách
tràn lan sẽ đưa đến rất nhiều tác động tiêu cực. Một trong số đó là vốn đầu tư nước ngoài
là nguyên nhân kìm hãm đầu tư trong nước. 
1. Đầu tư nước ngoài làm tăng nợ công chính phủ, làm bất ổn chính trị nền kinh tế
vĩ mô, kìm hãm đầu tư trong nước.
Vốn đầu tư nước ngoài như nguồn vốn phát triển chính thức ODA, nguồn vốn tín
dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế hay nguồn vốn huy động qua thị trường vốn
quốc tế là những nguồn vốn các chính phủ các nước đang phát triển đang sử dụng. Khi
vay vốn này về sử dụng, nợ nước ngoài của các chính phủ sẽ tăng lên, kéo theo đó là nợ
công tăng lên. Họ sử dụng số vốn này về để đầu tư trong nước với mục đích phát triển
kinh tế -xã hội. Nhưng ở các nước đang phát triển, cơ chế quản lý còn lỏng lẻo, chưa thắt
chặt, các kế hoạch đầu tư chưa thực sự tạo ra hiệu quả làm cho việc sử dụng các nguồn
vốn này không được như mong muốn. Đến kỳ hạn trả nợ hoặc trả lãi, chính phủ sẽ phải
gánh rất nhiều áp lực, họ sẽ phải dùng ngân sách để trả nợ, điều đó sẽ làm giảm lượng
đầu tư công dẫn đến đầu tư trong nước sẽ giảm. Nếu nguy hiểm hơn khi chính phủ không
còn khả năng trả nợ các khoản vay này, sẽ bị các chủ nợ nước ngoài siết nợ, ảnh hưởng
trầm trọng chính trị, sự ổn định của nền kinh tế làm giảm đầu tư trong nước.
Một ví dụ thực tiễn đó là khủng hoảng nợ công của Hy Lạp:
Khủng hoảng nợ công của Hy Lạp bắt đầu từ cuối năm 2009 đến tháng 4/2010 với
những hệ luỵ rất trầm trọng: hạ xếp hạng tín dụng, tăng lãi suất trái phiếu chính phủ, cắt
giảm chi tiêu mạnh mẽ, thu hút vốn nước ngoài giảm, tăng trưởng GDP giảm, đầu tư
trong nước giảm mạnh … Các vấn đề của kinh tế Hy Lạp là tập hợp của nhiều yếu tố
trong nước và ngoài nước. Tuy nhiên, những điểm quan trọng nhất vẫn tồn tại ngay chính
trong bản thân đất nước này, cụ thể là: Nhu cầu vay nợ quá hạn tràn lan; Khả năng trả nợ
thấp và minh bạch thông tin nợ yếu kém. Việc gia nhập liên minh Châu  Âu 2001 đã giúp
Hy Lạp tiếp cận dễ dãi với các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, cùng với việc là một đất
nước có mức tiết kiệm trong nước thấp, Chính phủ Hy Lạp đã liên tục bán trái phiếu
chính phủ để thu về một lượng vốn khổng lồ trong thập kỷ qua. Nếu có kế hoạch sử dụng
hợp lý nguồn đầu tư nước ngoài này thì nền kinh tế sẽ tiến rất xa Tuy nhiên, chính phủ
Hy Lạp đã chi tiêu quá tay (phần lớn cho cơ sở hạ tầng) mà hầu như không quan tâm đến
các kế hoạch trả nợ dẫn đến mức nợ ngày càng tăng. Những nguyên nhân này kết hợp lại
với nhau làm cho cuộc khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp bùng nổ. Cuộc khủng hoảng này
làm mất niềm tin các nhà đầu tư trong đó có nhà đầu tư trong nước, làm cho đầu tư trong
nước cũng sụt giảm trầm trọng.
2. Đầu tư nước ngoài đưa đến các công nghệ lạc hậu làm giảm sự tiếp xúc các doanh
nghiệp trong nước với các công nghệ tiến tiến, hiện đại. Từ đó, kìm hãm đầu tư
trong nước.
Các doanh nghiệp đầu tư nước nước ngoài sẽ có xu hướng muốn kéo dài vòng đời
công nghệ lạc hậu, đã bị thải bỏ của nước mình bằng cách chuyển giao công nghệ vào các
nước được đầu tư. Nhưng các công nghệ đó không phải là tốt nhất trên thế giới, đi đầu
trong mảng công nghệ. Từ đó, hạn chế sự tiếp xúc của các doanh nghiệp trong nước với
các công nghệ tiên tiến, hiện đại. Điều này làm cho các nhà đầu tư trong nước có ít hiểu
biết về các công nghệ đó, kìm hãm đầu tư trong nước.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng cho biết công nghệ sử dụng tại các doanh nghiệp đầu
tư nước ngoài hiện nay không quá vượt trội so với doanh nghiệp trong nước. Máy móc,
thiết bị và dây chuyền sản xuất chủ yếu ở mức độ hiện đại trung bình trong khu vực.
Thực tiễn: 
Kết quả khảo sát diện hẹp của Bộ Khoa học và công nghệ tại một số khu công
nghiệp trên cả nước cho thấy số doanh nghiệp đầu tư nước ngoài có công nghệ tiên tiến,
hiện đại rất thấp, chỉ khoảng 5%. 
Các dự án đầu tư nước ngoài tại việt nam hiện nay chủ yếu có công nghệ ở mức
trung bình, khoảng 80% số doanh nghiệp, trong đó từ 30 - 40% sử dụng công nghệ xuất
xứ trung quốc. Số doanh nghiệp đầu tư nước ngoài sử dụng công nghệ lạc hậu hiện nay
chiếm khoảng 15%, dẫn tới nguy cơ, thách thức về tiêu tốn năng lượng, cạn kiệt tài
nguyên.
Bên cạnh đó, có 85% số doanh nghiệp đầu tư nước ngoài có 100% vốn nước
ngoài, điều này đã hạn chế đáng kể khả năng chuyển giao, lan tỏa công nghệ từ khu vực
doanh nghiệp đầu tư nước ngoài sang khu vực doanh nghiệp trong nước.
3. Đầu tư nước ngoài với quy mô lớn gây áp lực cạnh tranh cho doanh nghiệp trong
nước đẫn đến kìm hãm đầu tư trong nước.
Vốn đầu tư nước ngoài tăng cụ thể là dòng vốn đầu tư nước ngoài tăng giúp tăng
quy mô của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cùng với công nghệ và quy
trình quản lý hiện đại, các sản phẩm đầu ra của doanh nghiệp nước ngoài đang dần chiếm
hết thị phần của doanh nghiệp trong nước. Trong khi đó, các doanh nghiệp trong nước
chủ yếu là những doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, nguồn vốn ít. Khi bị chiếm mất
thị phần, lợi nhuận của các doanh nghiệp trong nước ngày cảm giảm sút, không đủ khả
năng để tái đầu tư, mở rộng quy mô mà thậm chí còn phải cắt giảm quy mô sản xuất. 
Một minh chứng rõ nét trong ngành thức ăn chăn nuôi cho thấy: 
Về tổng quan thị trường, hiện nay ở Việt Nam có khoảng 265 nhà máy sản xuất
thức ăn chăn nuôi, trong đó có 85 nhà máy thuộc doanh nghiệp nước ngoài (chiếm tỉ lệ
32%), 180 nhà máy thuộc doanh nghiệp trong nước (chiếm 68%). Tuy nhiên, các doanh
nghiệp nhỏ và vừa trong nước đang yếu thế về năng lực cạnh tranh so với doanh nghiệp
nước ngoài.
Theo đó, các doanh nghiệp nước ngoài chiếm 65% thị phần, 35% thị phần còn lại
do doanh nghiệp trong nước nắm giữ. Số thị phần này cũng đang có nguy cơ sụt giảm
trước sự mở rộng về quy mô, số lượng doanh nghiệp cũng như sản lượng của doanh
nghiệp ngoại do tiềm năng phát triển của ngành chăn nuôi Việt Nam.
Không chỉ vượt trội về thị phần, mà hầu hết các doanh nghiệp nước ngoài có chiến
lược kinh doanh bài bản với chuỗi sản xuất kinh doanh khép kín.
Báo cáo đánh giá chăn nuôi là mắt xích quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, đã
trở thành ngành sản xuất hàng hóa lớn và chuyển dịch nhanh theo hướng trang trại với
tốc độ tăng trưởng trung bình 5-6%/năm. Điều này tạo động lực phát triển cho thị trường
thức ăn chăn nuôi. 
Tuy vậy, thời gian qua, dịch bệnh liên tiếp xảy ra và kéo dài đã khiến các doanh
nghiệp sản xuất chăn nuôi trong nước bị ảnh hưởng nặng, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ
lẻ, nhiều nhà máy buộc phải đóng cửa hoặc giảm mạnh công suất hoạt động.
Các tập đoàn lớn, trong đó có doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài cũng gặp khó
khăn không nhỏ nhưng họ vẫn chống cự được vì có nguồn vốn lớn, lại xây dựng được
chuỗi liên kết từ khâu đầu của quy trình sản xuất đến tận bàn ăn người tiêu dùng.
4. Đầu tư nước ngoài gây nên hiện tượng chảy máu chất xám.
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có công nghệ hiện đại, chiến lược quản lý bài
bản cùng với chính sách ưu đãi, lương thưởng hấp dẫn đang dần thu hút những lao động
có tay nghề kỹ năng, trình độ chuyên  môn cao từ khu vực vốn đầu tư trong nước. 
TS. Lê Văn Hùng, Viện Kinh tế Việt Nam cho biết, đầu tư nước ngoài đã có đóng
góp lớn trong cung cấp vốn đầu tư, tạo việc làm và cải thiện năng lực cạnh tranh của Việt
Nam trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, đóng góp của khu vực đầu tư nước ngoài phần
lớn do lao động dịch chuyển từ khu vực nội địa năng suất lao động thấp sang khu vực đầu
tư nước ngoài với năng suất lao động tuyệt đối cao hơn (phần đóng góp này chiếm 64%).
Đóng góp từ tăng trưởng năng suất lao động của chính khu vực đầu tư nước ngoài (đã trừ
phần đóng góp từ dịch chuyển lao động) chiếm tỷ lệ nhỏ hơn rất nhiều, chỉ chiếm 36%.
Mức độ liên kết ngược và liên kết xuôi giữa khu vực đầu tư nước ngoài với khu vực nội
địa hầu hết đều thấp ở tất cả các ngành, đặc biệt là nhóm ngành công nghệ và kỹ năng
cao. Điều đó cho rằng, khả năng tác động gián tiếp vào năng suất lao động của khu vực
đầu tư nước ngoài thông qua hiệu ứng về công nghệ và kỹ năng lao động thấp.
Như vậy có thể thấy, đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần nâng cao năng suất và
chất lượng nguồn nhân lực trong nước thì ít mà thâm dụng lao động chất lượng cao của
doanh nghiệp nội địa là chủ yếu.
5. Đầu tư nước ngoài ảnh hưởng tới môi trường, chiếm dụng và phá hủy nguồn tài
nguyên của đầu tư trong nước dẫn đến kìm hãm đầu tư trong nước.
Thực hiện chính sách mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài nhưng năng lực thể chế
của Việt Nam trong việc thực hiện có hiệu quả các khía cạnh pháp luật về môi trường còn
nhiều hạn chế điều đó đồng nghĩa với việc chúng ta phải chấp nhận rủi ro về môi trường
và vấn đề cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên.
Một số doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã gây ra sự cố môi trường nghiêm trọng,
làm biến đổi hệ sinh thái, phá hủy, ảnh hưởng xấu đến đa dạng sinh học, tài nguyên nước,
thủy sản, biến đổi khí hậu và gia tăng ô nhiễm các lưu vực sông…ảnh hưởng đến phát
triển kinh tế, an sinh xã hội trên địa bàn. Đặc biệt là sẽ ảnh hưởng đến vấn đề đầu tư
trong nước, cụ thể là các dự án đầu tư về du lịch, đầu tư về ngành chế biến thực phẩm,...
Khi môi trường bị ô nhiễm nặng trong thời gian dài, các nhà đầu tư sẽ thấy khả năng sinh
lời ở lĩnh vực đó không còn cao, và sẽ phải tạm hoãn hoặc hủy bỏ các dự án đầu tư của
mình. Đấy chính là đang kìm hãm đầu tư trong nước.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đầu tư vào việt nam về cơ bản
có trình độ công nghệ sản xuất trung bình, tiêu tốn nhiều tài nguyên thiên nhiên. Một số
dự án chiếm giữ đất lớn nhưng không triển khai gây lãng phí tài nguyên, các khu công
nghiệp mở rộng làm diện tích rừng bị thu hẹp. Khi đó, các doanh nghiệp trong nước sẽ
không có đất, hoặc bị hạn chế về nguồn tài nguyên thiên nhiên để thực hiện các dự án đầu
tư của mình. 
Bằng chứng thực tiễn:
Sự việc Công ty Vedan có những vi phạm về môi trường Việt Nam suốt 14 năm
được lấy làm ví dụ điển hình để phân tích về trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp.
Việc xả thải không qua xử lý xuống sông Thị Vải, việc trốn nộp phí môi trường suốt
nhiều năm của Vedan được cho là một cách tiết kiệm để tăng lợi nhuận của doanh nghiệp
mà bỏ qua những quy chuẩn về môi trường. Tiếp sau vụ Vedan, cơ quan chức năng của
Việt Nam lại phát hiện thêm một Vedan thứ 2 đó là Miwon - sản xuất bột ngọt tại Việt
Trì (Phú Thọ), mỗi ngày xả tới 900m3 nước thải chưa xử lý ra sông Hồng. Và gần đây
nhất, đường ống xả thải của Công ty Formosa Hà Tĩnh thuộc Tập đoàn Formosa (Đài
Loan) với công suất xả thải 12.000m3/1 ngày đêm chứa độc tố phê-non, xy-a-nua, ….quá
tiêu chuẩn cho phép đã làm khoảng 80 tấn hải sản chết hàng loạt dọc bờ biển 4 tỉnh Bắc
miền Trung từ Hà Tĩnh đến Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng, thiệt hại to lớn về kinh tế - xã hội, đặc biệt là du lịch biển. Lượng
du khách đến nghỉ dưỡng tại các bãi biển nổi tiếng như Cửa Lò, Thiên Cầm, Nhật Lệ,
Cửa Tùng, Thuận An... giảm sút nghiêm trọng. Hệ thống cơ sở lưu trú nhà nghỉ, khách
sạn, các khu du lịch, resort và các dịch vụ phục vụ du khách như nhà hàng, chế biến hải
sản, bán đồ lưu niệm, vận chuyển ở các khu du lịch này bị ảnh hưởng rất nhiều. Chính vì
vậy mà nhiều nhà đầu tư trong nước đang có ý định đầu tư tại đây đã phải quay đầu, rút
vốn hoặc hủy bỏ các dự án đầu tư của mình.
6. Tính liên kết giữa doanh nghiệp đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp trong nước
chưa cao. 
Trong mối liên kết giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, liên kết ngược xảy ra khi các doanh nghiệp FDI thiết lập mối quan hệ với các
công ty trong nước thuộc các ngành công nghiệp hạ nguồn nhằm mua các sản phẩm đầu
vào phục vụ quá trình sản xuất - kinh doanh. Trong khi đó, liên kết xuôi là liên kết khi
các doanh nghiệp FDI bán hàng hóa, dịch vụ cho các doanh nghiệp trong nước. Với
trường hợp của Việt Nam, một trong những mục tiêu chính của thu hút vốn đầu tư nước
ngoài là kỳ vọng về hiệu ứng lan tỏa về công nghệ, năng suất lao động, kinh nghiệm
trong quản trị từ các đối tác nước ngoài đến các doanh nghiệp trong nước. Do đó, hình
thức liên kết ngược sẽ đóng vai trò chủ đạo phát huy sức lan tỏa của doanh nghiệp FDI
tới các doanh nghiệp nội địa.
Theo kết quả điều tra về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), chỉ có khoảng
21% doanh nghiệp tư nhân đang có khách hàng là các doanh nghiệp FDI hoạt động tại
Việt Nam. Bên cạnh đó, kết quả cuộc điều tra cũng chỉ ra rằng liên kết giữa doanh nghiệp
FDI và doanh nghiệp trong nước đang rất yếu khi chỉ có 26,6% đầu vào của khu vực
doanh nghiệp FDI được mua tại Việt Nam, trong đó hầu hết là được mua từ chính các
doanh nghiệp FDI khác. Như vậy, Việt Nam đang phải thực hiện nhập khẩu phần lớn
nguyên vật liệu từ thị trường nước ngoài để phục vụ hoạt động sản xuất trong nước. Điều
này làm cho Việt Nam không thể chủ động trong nguồn cung đầu vào, bị phụ thuộc vào
thị trường quốc tế và trở nên dễ bị tổn thương trước những cuộc khủng hoảng hơn. Minh
chứng cụ thể là khi dịch Covid-19 mặc dù được kiểm soát rất tốt ở Việt Nam nhưng do
tình hình dịch bệnh trên thế giới diễn biến phức tạp, đặc biệt ở Trung Quốc giai đoạn đầu
làm cho quá trình sản xuất - kinh doanh của nhiều doanh nghiệp Việt Nam bị ảnh hưởng
nặng nề khi thiếu hụt nguồn cung trầm trọng. Ngoài ra, việc phải nhập khẩu nguyên phụ
liệu quá nhiều từ bên ngoài làm cho giá trị gia tăng trong sản xuất của doanh nghiệp nội
nói riêng và toàn bộ nền kinh tế không cao như kỳ vọng.
Không chỉ số lượng liên kết còn hạn chế mà chất lượng liên kết giữa các doanh
nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng chưa được tốt. Điều
này thể hiện qua việc mặc dù ngày càng có nhiều doanh nghiệp nội tham gia vào sản
xuất, cung cấp sản phẩm đầu vào cho các doanh nghiệp FDI, tuy nhiên, số lượng doanh
nghiệp nội trở thành nhà cung cấp cấp 1 (nhà cung cấp trực tiếp cho các doanh nghiệp
FDI) còn rất hạn chế, chủ yếu chỉ dừng lại ở mức nhà cung cấp cấp 2, cấp 3... Bên cạnh
đó, trong danh mục các nguyên vật liệu đầu vào mà các doanh nghiệp FDI cần tới phục
vụ quá trình sản xuất thì các nhà cung cấp Việt Nam hiện nay cũng chủ yếu đảm nhận
những sản phẩm đầu vào đơn giản, có hàm lượng kỹ thuật chưa cao, đồng nghĩa với giá
trị gia tăng không lớn. Trong khi đó, phần lớn các sản phẩm đầu vào có giá trị chủ yếu
được nhập khẩu hoặc được làm bởi các doanh nghiệp FDI khác.

B: Đầu tư nước ngoài là động lực thúc đẩy đầu tư trong nước.
1: Đầu tư nước ngoài giúp đổi mới công nghệ, hoàn thiện quy trình quản lý và
khuyến khích năng lực kinh doanh trong nước từ đó thúc đẩy đầu tư trong nước.
Khi đầu tư trực tiếp diễn ra thì công nghệ mới được du nhập vào nước nhận đầu
tư, trong đó có cả một số công nghệ bị cấm xuất khẩu theo con đường ngoại thương;
chuyên gia cùng với các kỹ năng quản lý sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của công nghệ
này, từ đó công chức, viên chức nhà nước, người lao động, doanh nghiệp bản địa có thể
học hỏi kinh nghiệm của họ.
Tăng năng suất, thu nhập quốc dân và thúc đẩy cạnh tranh, nâng cao hiệu quả
kinh tế
Công nghệ và trình độ quản lý được cải thiện đối với các ngành sản xuất thì việc
tăng năng suất lao động là điều tất yếu. Không những thế, công nghệ tiên tiến còn cho ra
nhiều sản phẩm hơn, có chất lượng cao, tính năng đa dạng, bền hơn với những mẫu mã đa
dạng và tất nhiên giá thành sẽ rẻ hơn so với trước. Đây chính là hoạt động tăng nguồn
cung nhưng thực ra cung tăng lên để đáp ứng lại lượng cầu cũng tăng lên rất nhanh do
quá trình đầu tư tác động vào. Tốc độ quay của vòng vốn nhanh hơn, do vậy sản phẩm
cũng được sản xuất ra nhiều hơn và tiêu thụ cũng nhiều hơn. Do sự tiêu thụ được tăng lên
mà các ngành sản xuất, dịch vụ được tiếp thêm một luồng sức sống mới, nhân lực, máy
móc và các nguyên vật liệu được đưa ngay vào sản xuất, từ đó sức đóng góp của các
ngành này vào GDP cũng đã tăng lên.
Việc có được những công ty có hiệu quả với khả năng cạnh tranh trên thị trường
thế giới có thể đưa lại một sự khai thông quan trọng, tiềm tàng cho việc chuyển giao các
kỹ năng quản lý và công nghệ cho các nước chủ nhà. Điểu này có thể xảy ra ở bên trong
một ngành công nghiệp riêng rẽ, trong đó có những người cung ứng các đầu vào cho các
chi nhánh nước ngoài, những người tiêu dùng trong nước đối với các sản phẩm của chi
nhánh này và những đối thủ cạnh tranh của chúng, tất cả đều muốn lựa chọn những
phương pháp kỹ thuật có hiệu quả hơn. Nó cũng có thể diễn ra một cách rộng rãi hơn
trong nội bộ nền kinh tế thông qua sự tăng cường có kết quả công tác đào tạo, kinh
nghiệm của lực lượng lao động và thông qua sự khuyến khích có thể có đối với các ngành
hỗ trợ tài chính và kỹ thuật có khả năng dẫn tới sự hạ thấp toàn bộ chi phí công nghiệp.
Đầu tư nước ngoài cũng góp phần cải thiện cán cân thanh toán, đặc biệt khi doanh nghiệp
tại quốc gia nhận đầu tư tăng thu lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu.
Khuyến khích năng lực kinh doanh trong nước
Khi đầu tư, các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào các thị trường vốn hiện có mà
các nhà đầu tư trong nước chiếm giữ phần lớn thị phần, tuy nhiên ưu thế này sẽ không
kéo dài đối với nhà đầu tư trong nước khi nguồn lực, công nghệ của nhà đầu tư nước
ngoài vượt trội hơn. Chính vì vậy, muốn tồn tại, các nhà đầu tư trong nước phải đổi mới
cả quá trình sản xuất của mình từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ bằng việc cải tiến công
nghệ và nâng cao trình độ, phương pháp quản lý để có thể trụ vững trên thị trường đó.
Đây chính là một trong những thử thách tất yếu của nền kinh tế thị trường đối với các nhà
sản xuất trong nước, vối quy luật là không có kẻ yếu nào có thể tồn tại nếu không tự làm
mình mạnh lên để tồn tại, phát triển trong cơ chế đó.
Tiếp cận với thị trường nước ngoài
Nếu như là trước đây khi chưa có FDI, các doanh nghiệp trong nước chỉ biết đến
có thị trường trong nước, nhưng khi có FDI thì họ được làm quen với các đối tác kinh tê
mới từ nước ngoài. Họ chắc chắn sẽ nhận thấy rất nhiều nơi cần cái họ đang có và ngược
lại họ cũng đang cần những cái ở nơi đối tác đang có. Điều này dẫn tới nhu cầu phải tăng
cường hợp tác giữa doanh nghiệp trong nước và ngoài nước mà hệ quả của nó là có nhiều
sản phẩm của một quốc gia được xuất khẩu để thu ngoại tệ về cho đất nước, đồng thời
cũng cần phải nhập khẩu một số loại mặt hàng mà trong nước đang cần. Việc trao đổi
thương mại này sẽ lại thúc đẩy các công cuộc đầu tư quốc tế giữa các nước vối nhau. Như
vậy, quá trình đầu tư nước ngoài và thương mại quốc tế có quan hệ biện chứng, là một
quá trình luôn luôn thúc đẩy nhau, hỗ trợ nhau cùng phát triển.
2: Đầu tư nước ngoài giải quyết vấn đề thiếu hụt vốn để phát triển kinh tế đối với
các nước đang phát triển thoát khỏi “ vòng luẩn quẩn”, nâng cao năng suất lao động
làm tăng tích lũy dẫn đến tăng đầu tư trong nước.
Đối với nước đang phát triển như Việt Nam năng suất lao động rất thấp thì sẽ dẫn
tới thu nhập thấp, từ đó dẫn tới tích lũy thấp và tất nhiên là tiết kiệm và đầu tư thấp (vốn
đầu tư thấp) từ đó lại dẫn tới năng suất thấp…Tích lũy ở các nước đang phát triển thấp do
còn phải giải quyết các vấn đề phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của dân số ngày càng gia
tăng, để duy trì được mức độ tiết kiệm và đầu tư cho nền kinh tế là rất khó. Do vậy đầu tư
nước ngoài như một cú huých giúp các nước đang phát triển như Việt Nam thoát khỏi
vòng luẩn quẩn.
Tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam tính đến ngày 20/12, bao gồm vốn đăng ký
cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước
ngoài đạt 31,15 tỷ USD, tăng 9,2% so với năm 2020. Trong đó, vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài thực hiện tại Việt Nam năm 2021 ước đạt 19,74 tỷ USD.
Đầu tư nước ngoài khỏa lấp vấn đề thiếu hụt về vốn tại Việt Nam. Với lợi thế về
cơ sở hạ tầng và điều kiện dịch vụ, các khu công nghiệp đã thu hút được nhiều dự án FDI
có quy mô vốn cao. Theo Cục Đầu tư nước ngoài, một số dự án đầu tư nước ngoài lớn
trong năm 2021 phải kể đến dự án Nhà máy điện LNG Long An I và II (Singapore), tổng
vốn đăng ký trên 3,1 tỷ USD, dự án LG Display Hải Phòng (Hàn Quốc), điều chỉnh tăng
vốn đầu tư thêm 2,15 tỷ USD; dự án Nhà máy nhiệt điện Ô Môn II (Nhật Bản), tổng vốn
đăng ký trên 1,31 tỷ USD. Hầu hết các dự án này đều có quy mô lớn và cần nguồn vốn
đầu tư nước ngoài khá cao để có thể đưa vào vận hành. Chính vì vậy nguồn vốn đầu tư
nước ngoài chính là nguồn bổ sung vốn quan trọng để phát triển kinh tế đối với nước
đang phát triển như Việt Nam.

Tiến sĩ Lê Văn Hùng – Viện Kinh tế Việt Nam – phân tích, vốn FDI giúp dịch chuyển cơ
cấu lao động trong nước từ nhóm ngành có năng suất lao động thấp sang nhóm ngành cao
hơn. Đồng thời, tạo hiệu ứng tràn về công nghệ và kỹ năng đối với khu vực nội địa thông
qua liên kết sản xuất. Mặt khác, còn giúp gia tăng áp lực cạnh tranh, buộc các doanh
nghiệp nội địa cải tiến công nghệ để bắt kịp xu thế, gián tiếp cải thiện năng suất lao động
chung. Đến năm 2019, lao động làm việc trong doanh nghiệp có vốn FDI vào khoảng 6,1
triệu người. Năng suất lao động của khu vực FDI đạt mức khoảng 118 triệu đồng (giá
năm 2010), đạt tốc độ tăng trưởng khoảng 8,7%/năm (cao hơn rất nhiều so với  năng suất
lao động của khu vực doanh nghiệp trong nước: 8,7/4,6). Theo Sách trắng doanh nghiệp
năm 2020 do Bộ Kế hoạch và Đầu tư công bố, thu nhập trung bình 1 lao động của khu
vực doanh nghiệp FDI đạt khoảng 11,2 triệu đồng/tháng, cao hơn mức trung bình của nền
kinh tế khoảng 1,2 lần (11,2/9,6). 

3: Đầu tư nước ngoài đẩy nhanh tiến độ dự án trong nước, phát triển kinh tế, nâng
cao thu nhập quốc dân và tăng thu ngân sách nhà nước. 
Đầu tư nước ngoài là nguồn cung ứng ngoại tệ cho hoạt động mua sắm máy móc
thiết bị, chuyển giao công nghệ, phân công lao động xã hội, tạo điều kiện cho tăng năng
suất lao động, gia tăng sản lượng của nền kinh tế.  Từ đó đẩy nhanh tiến độ các dự án
trong nước.
Doanh nghiệp trong nước sử dụng vốn đầu tư nước ngoài để đẩy nhanh tiến độ dự
án trong nước bằng cách sử dụng ngoại tệ cho các hoạt động xây dựng, mua sắm máy
móc thiết bị, chuyển giao công nghệ ngoài ra còn thông qua việc mua bán cổ phiếu, trái
phiếu công ty. Từ đó phát triển kinh tế của ngành,  đẩy nhanh tốc độ dự án sẽ tạo ra nhiều
việc làm, năng xuất làm việc và sản lượng của doanh nghiệp tăng lên, do đó nâng cao
được thu nhập quốc dân. Mặt khác, nhà nước cũng thu lợi được các doanh nghiệp này
bằng các thu thuế và tăng thu ngân sách nhà nước.
Tại Quảng Trị, Công ty TNHH My Anh – Khe Sanh được doanh nghiệp có vốn
đầu tư trực tiếp từ nước ngoài cấp vốn 37 triệu USD vào các dự án: Vườn ươm giống
Mắc ca bằng công nghệ cao; nhà máy chế biến và bảo quản nông sản My Anh,… giải
quyết được vấn đề khai hoang đất trống, quy mô được mở rộng, tạo việc làm cho hơn 200
người trong đó có cả người dân tộc, cho ra sản phẩm đã qua chế biến, đóng gói đến tay
người tiêu dùng. Các chuyên gia đánh giá hiệu quả dự án cho rằng việc làm trên đã giải
quyết được trên các phương diện kinh tế - xã hội và môi trường, từ đó có thể tiếp tục mở
rộng dự án, xây dựng thương hiệu, đưa sản phẩm ra thị trường.

4: Đầu tư nước ngoài gia tăng sự cung ứng góp phần tăng trưởng kinh tế tại nước
nhận đầu tư từ đó thúc đẩy đầu tư trong nước. 
Đầu tư nước ngoài gia tăng sự cung ứng là sự gia tăng về vốn đầu tư nước ngoài
như nguồn vốn phát triển triển chính thức ODA, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
FDI vào nước nhận đầu tư. Nơi nhận đầu tư sẽ sử dụng và giải ngân những nguồn vốn
này sao cho phù hợp với tình hình kinh tế trong nước để đẩy nhanh xuất khẩu và mở rộng
quy mô sản xuất đóng góp vào thặng dư cán cân thương mại. Trong trường hợp giải ngân
vốn đầu tư hợp lý và minh bạch sẽ càng ngày càng thu hút được thêm vốn đầu tư nước
ngoài tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Nhìn vào bức tranh kinh tế hiện hay có thể thấy được, khối FDI tại Việt Nam
không giảm mà có xu hướng tăng lên nhờ đó góp phần tăng trưởng trưởng kinh tế. Ở 
chỗ, dòng vốn FDI tăng kéo theo tăng trưởng của khu vực sản xuất và họa động thương
mại,  lượng lao động sử dụng ở các doanh nghiệp có xu hướng tăng, đặc biệt là khu vực
công nghiệp vẫn tiếp tục tăng trưởng cao. Công ty Samsung là một ví dụ vì kim ngạch
xuất khẩu của sản phẩm Samsung hiện chiếm khoảng 20% tổng kim ngạch xuất khẩu
Việt Nam.  Theo số liệu cả tổng cục thống kê có thể thấy được, cơ cấu khu vực FDI trong
GDP có xu hướng tăng dần từ năm 2005 đến nay. Năm 2005, khu vực FDI đóng góp
15,16% trong tăng trưởng GDP. Con số này có xu hướng tăng đều đến năm 2008, mặc dù
có giảm nhẹ vào năm 2009 và năm 2010, nhưng sau đó tiếp tục tăng trở lại và tăng dần
đến 20,35% vào năm 2019. Kết quả này cho thấy, khu vực FDI ngày càng có những đóng
góp trực tiếp rất quan trọng cho tăng trưởng kinh tế.
 
Bên cạnh đó, FDI cũng giúp đẩy mạnh xuất khẩu, đóng góp vào thặng dư cán cân
thương mại của Việt Nam, từ đó thúc đẩy tăng trưởng GDP. Những đóng góp này ngày
càng được nâng cao. Giá trị xuất khẩu hàng hoá của khu vực doanh nghiệp FDI chiếm
27% vào năm 1995 và tăng gấp gần 3 lần lên tới 71,7% kim ngạch xuất khẩu cả nước vào
năm 2020. Mặc dù, nhập khẩu của khu vực FDI đạt 168,8 tỷ USD, chiếm tới 64,3% kim
ngạch nhập khẩu của cả nước nhưng tính chung cho năm 2020, khu vực FDI đã xuất siêu
33 tỷ USD không kể dầu thô, giúp bù đắp 15,6 tỷ USD nhập siêu của khu vực doanh
nghiệp trong nước (Tổng cục Thống kê, 2020), từ đó, đảo ngược cán cân thương mại của
Việt Nam về kết quả xuất siêu 19,1 tỷ USD.
 
5: Đầu tư nước ngoài góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở Việt
Nam.
Trước đây, Việt Nam là một nước thuần nông, tỷ trọng ngành nông nghiệp chiếm
nhiều nhất trong thành phần kinh tế. Để có thể vươn mình ra thế giới Việt Nam cần thay
đổi và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng
các ngành công nghiệp và dịch vụ từng bước thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. 
Tác động của đầu tư nước ngoài đặc biệt là nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI
trong nhiều ngành và lĩnh lực sẽ giúp cho Việt Nam đa dạng hóa các thể loại kinh tế. Từ
đó tạo cú huých cho những ngành đứng đầu, phát triển thêm những ngành mới và nâng
cao giá trị hàng Việt Nam. Đặc biệt, đối với ngành công nghiệp chế biến, chế tạo các
dòng vốn FDI của Singapore, Đài loan,… vẫn liên tục “ chảy” vào các doanh nghiệp
Việt, hiệu ứng lan tỏa về phương diện quản lý, tác phong làm việc, cách nhìn và tiếp cận
sản phẩm sẽ giúp cho doanh nghiệp Việt Nam tăng số lượng và chất lượng sản phẩm và
mặt hàng để bắt đầu xuất hiện thị trường quốc tế. Nhìn vào cơ cấu xuất khẩu sẽ thấy sự
thay đổi rõ nét. Từ chỗ chủ yếu xuất khẩu các mặt hàng nông nghiệp, thủy sản, khoáng
sản (quặng, dầu...)... ít qua chế biến, đến nay, lĩnh vực chế biến, chế tạo chiếm tỷ trọng
trên 80% trong cơ cấu xuất khẩu.
Cũng theo Báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài, chính khu vực FDI đã giúp khai
phá tiềm năng về nguồn lực cảng biển, góp phần đáng kể làm thay đổi bộ mặt của hệ
thống cảng biển Việt Nam. FDI đã thu hút được nhiều tập đoàn hàng đầu thế giới trong
lĩnh vực vận tải và điều hành khai thác cảng biển đến Việt Nam như: Hutchison, PSA, DP
World, SSA, Maersk A/S, CMA-CGM... Sự ra đời các cảng biển liên doanh (bến khởi
động 1, 2 và 3 của cảng Lạch Huyện), cùng với cảng đầu tư từ nguồn vốn ODA (Cái Lân,
Tiên Sa, Cái Mép - Thị Vải)... đã tạo nên nền tảng rất thuận lợi để cảng biển Việt Nam
trở thành một mắt xích trong chuỗi cung ứng toàn cầu của các tập đoàn hàng hải, khai
thác cảng biển hàng đầu thế giới.
Nhờ có sự tham gia và đóng góp của khu vực FDI mà nhiều ngành, lĩnh lực ở
nhiều địa phương như khai thác than ở Quảng Ninh, Chế biến thủy Hải sản ở Vũng Tàu,
linh kiện điện tử ở Thái Nguyên, Bắc Ninh,.. đã “ thay da đổi thịt” chuyển đổi nhanh
chóng về cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa, góp phần xây dựng
môi trường nền kinh tế năng động, đa dạng hóa sản phẩm và gia tăng năng lực sản xuất
các sản phẩm chứa “ chất xám” cao trong nền kinh tế. 

6: Sử dụng hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài làm tăng uy tín Việt Nam từ đó tạo điều
kiện cho doanh nghiệp trong nước tham gia thị trường quốc tế.
Sau khi huy động được nguồn viện trợ phát triển chính thức ODA, nhà nước Việt
Nam sử dụng nguồn vốn để để đầu tư cho hệ thống giao thông vận tải, môi trường phát
triển, năng lượng và công nghệ ngoài ra còn giảm tỷ lệ nghèo, hỗ trợ giáo dục và an sinh
xã hội trong nước. Từ đó đảm bảo mức sống tối thiểu và cơ sở thiết yếu cho xã hội. Môi
trường vĩ mô ngày càng hoàn thiện và  ổn định thì Việt Nam mới trở thành bến đỗ an
toàn, thu hút được đầu tư nước ngoài cũng như các doanh nghiệp nước ngoài tham gia thị
trường Việt Nam. Khi thu hút được vốn FDI, Việt Nam còn từng bước thực hiện chiến
lược nhằm sử dụng nguồn vốn FDI hiệu quả. Từ đó làm tăng uy tín thị trường Việt Nam,
Việt Nam được càng nhiều nước biết đến và tin tưởng sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp
Việt Nam tham gia thị trường quốc tế. 
Trên thực tế: 
Trong lĩnh vực dệt may, Việt Nam đã sử dụng nguồn vốn từ nước ngoài để đổi
mới quy trình, xây dựng nhà máy sợi , dệt, nhuộm. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam được
bổ sung vốn đầu tư nước ngoài như công ty TNHH  dệt và may Hưng Yên, Công ty
TNHH Kay quốc tế Việt Nam,... nhờ có sự bổ sung vốn để mở rộng quy mô và tăng năng
suất lao động đã góp phần làm cho ngành dệt may Việt Nam trở thành ngành mũi nhọn.
Cũng nhờ sử dụng hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài, ngành dệt may Việt Nam được thị
trường Mỹ và EU biết đến. Trong 2 năm trở lại đây, vì lý do bất ổn chính trị và tình hình
dịch bệnh phúc tạp tại Trung Quốc, Mỹ có ý định xem xét đầu tư thêm và kí kết các dự
án mua sản phẩm may mặc đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Đây chính là cơ hội mới
cho các doanh nghiệp Việt Nam có thể làm quen và từng bước tham gia các thị trường
khó tính quốc tế.
7: Thu hút và chuyển dịch người lao động làm việc khu vực nước ngoài về làm cho
doanh nghiệp trong nước nhằm tăng hiệu quả công việc, năng lực sản xuất từ đó
thúc đẩy đầu tư trong nước
Hiện nay các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động ngày càng nhiều ở
Việt Nam,  nhiều“Đại bàng” đến Việt Nam“làm tổ” như: Samsung, Formula, Toyota,
Honda, Cannon… nên số lượng lượng người lao động nước ngoài về Việt Nam làm việc
cũng ngày càng nhiều. Hầu hết nguồn người lao động này đều là những thành phần có
năng lực làm việc cao, năng xuất lao động cao, năng lực quản lý và trình độ kĩ thuật tốt
tạo nên số lượng sản phẩm mới có giá trị kinh tế cao, hiện đại. Nên việc thu hút những
người này về làm cho doanh nghiệp trong nước sẽ giúp cho các doanh nghiệp nâng cao
được chất lượng người lao động sẵn có trong công ty, thông qua hoạt động đào tạo.  Dẫn
đến năng xuất lao động và hiệu quả công việc tăng lên hoạt động đầu tư trong nước cũng
sẽ được đẩy mạnh hơn.
Mặt khác, người lao động là người Việt Nam có trình độ học vấn cao, có năng lực
làm việc và trình độ kĩ thuật cao cũng có xu hướng tham gia thị trường lao động nước
ngoài hơn là thị trường lao động Việt Nam. Do đó việc thu hút người lao động Việt Nam
có trình độ và năng lực là hoạt động thiết yếu. Thu hút người lao động sử dụng “ chất
xám” làm việc tại các doanh nghiệp trong nước một phần sẽ giúp cho cả người lao động
lẫn doanh nghiệp “ dễ thở” hơn trong việc đào tạo và làm việc tại chính công ty nhiều khi
vì sự khác biệt ngôn ngữ, lối sống, tác phong làm việc tại chính nơi sinh sống và hoạt
động làm việc. Nếu thu hút được người lao động chất lượng cao là người Việt Nam làm
việc trong nước sẽ hạn chế được tình trạng “chảy máu chất xám” cũng như thúc đẩy đầu
tư trong nước một cách có hiệu quả và dễ dàng hơn. 

You might also like