Professional Documents
Culture Documents
Khái quát một vài khuynh hướng đặc biệt quan trọng trong môi trường vĩ
mô (không liệt kết hết pestel)
1. Yếu tố kinh tế:
a) Tốc độ tăng trưởng kinh tế
GDP năm 2022 tăng cao ở mức 8,02% so với năm trước và GDP dự báo tăng trưởng
6,3% năm 2023. Ngành bất động sản đóng góp trực tiếp 4,58% GDP và đóng góp tổng
hợp là 13,6% GDP vào năm 2019 (Theo Tổng cục thống kê). Khi nền kinh tế phát
triển và tăng trưởng, nhu cầu về BĐS cũng tăng lên, góp phần thúc đẩy giá trị tài sản
và các hoạt động giao dịch BĐS.
b) Lạm phát:
Bình quân năm 2022, lạm phát cơ bản tăng 2,59% so với năm 2021, thấp hơn mức
CPI bình quân chung (tăng 3,15%) (Số liệu từ Tổng cục thống kê). Lạm phát tăng cao,
chính phủ sẽ có những chính sách để kiềm chế làm phát như chính sách tiền tệ thắt
chặt, tăng lãi suất. Điều này gây ra một vài khó khăn nhất định.
c) Lãi suất:
Năm 2022, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều chỉnh lãi suất để phù hợp với bối
cảnh quốc tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Trong vòng 01 tháng NHNN đã có 02 lần tăng
lãi suất. Việc tăng lãi suất gây áp lực lớn lên các các nhà cung cấp và cả người mua,
khi họ khó huy động được nguồn vốn hơn.
Ngày 3/4/2023 NHNN quyết định điều chỉnh các mức lãi suất, giảm lãi suất cho vay
nhằm tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế, doanh nghiệp và người dân. Việc giảm lãi
suất cho vay làm cho người mua có thể tiếp cận nguồn vốn dễ hơn, nhu cầu tăng lên,
tuy nhiên các giá cả cao vẫn còn là một mối lo ngại cho người mua bất động sản.
d) Tỷ giá hối đoái:
Khoảng 2 tháng cuối năm 2022, thị trường ngoại tệ được điều hành linh hoạt của
Ngân hàng Nhà nước, căng thẳng tỷ giá khép lại. Đến nay, áp lực đã được giảm, tỷ giá
USD/VND quay về chuỗi ngày ổn định.
2. Yếu tố Pháp lý:
Nhiều chính sách mới ban hành kịp thời, trở thành công cụ hiệu quả cho công tác quản
lý, điều hành, khai thác, sử dụng đất đai, thúc đẩy phát triển thị trường BĐS trên cả
nước. Những chính sách nổi bật, như miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê quyền sử
dụng đất đã được cải tiến, cập nhật phát huy tác dụng, thể hiện chủ trương ưu đãi,
khuyến khích của Nhà nước cho các đối tượng có nhu cầu sử dụng đất khai thác, đầu
tư. Tuy nhiên, hành lang pháp lý đất đai, vận hành, hoạt động thị trường BĐS vẫn còn
nhiều hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro, có nhiều trường hợp còn phát triển một cách tự
phát, thiếu lành mạnh, giao dịch ngầm vẫn chiếm tỷ lệ lớn. Điều này dẫn đến lượng
cung cầu về bất động sản bị mất cân đối.
3. Yếu tố văn hóa - xã hội:
- Tốc độ đô thị hóa:
Việt Nam là một trong những nước có tốc độ đô thị hóa nhanh trong khu vực Đông Á.
Mỗi năm, ước tính các đô thị Việt Nam có thêm từ 1 đến 1,3 triệu dân. Đến tháng
9/2022 tỷ lệ đô thị hóa toàn quốc đã đạt khoảng 41,5%, với 888 đô thị. Khi đô thị hóa
diễn ra nhanh chóng, nhu cầu về bất động sản tăng lên do sự tăng dân số, tăng nhu cầu
nhà ở và tăng các hoạt động kinh doanh.
- Thu nhập:
Theo thông tin mới nhất từ Tổng cục Thống kê, năm 2022, đời sống của hộ dân cư
được cải thiện. Thu nhập bình quân đầu người tăng 9,5% so với năm 2021. Tuy thu
nhập bình quân tăng lên, nhưng giá của bất động sản hiện tại vẫn còn khá cao.
Bất động sản là một ngành có khả năng sinh lợi rất cao, rất nhiều doanh nghiệp mới
muốn gia nhập ngành này. Tuy nhiên, một vài yếu tố khác trong thị trường tạo ra
những rào cản, gây nên những khó khăn cho người mới tham gia.
- Rào cản về vốn:
Kinh doanh bất động sản là một ngành ngành đòi hỏi một nguồn vốn rất lớn. Gần đây,
Chính phủ quyết định cắt giảm lãi suất thì việc tiếp cận nguồn vốn của các doanh
nghiệp cũng giảm bớt. Tuy nhiên, các doanh nghiệp mới, doanh nghiệp nhỏ rất khó có
thể tiếp cận ngành bởi vì họ không đủ nguồn lực về tài chính lớn, nên họ khó có thể
đuổi theo và cạnh tranh được với những ông lớn hiện có trên thị trường, dễ bị phá sản
và rút lui khỏi ngành.
Tuy nhiên, trong lúc các nhà đầu tư trong nước đang gặp vấn đề về vốn thì các nhà
đầu tư nước ngoài đang nhắm đến thị trường đầy tiềm năng này. Một số nhà đầu tư
đến từ các quốc gia như Nhật Bản, Malaysia, Hàn Quốc… đang chảy vào mạnh mẽ
trong thị trường Bất động sản Việt Nam.
- Rào cản về các quy định của Chính phủ:
Pháp luật là một trong những yếu tố hình thành và phát triển của thị trường bất động
sản, những quy đinh như quyền mua, bán, cho thuê… thông qua việc được cấp phép.
Bởi vì tính chất của hàng hóa Bất động sản gắn liền với đất đai, mà điều này luôn
được Nhà nước nắm quyền điều chỉnh.
Hiện hệ thống luật pháp về đất đai tại Việt Nam vẫn còn tương đối phức tạp. Nhiều
điều khoản trong các bộ luật, tiêu biểu như Luật Nhà ở, Luật Đất đai và Luật Kinh
doanh Bất động sản, vẫn tồn tại điểm chưa thống nhất. (... ) Các quy định này ảnh
hưởng rất nhiều đến các doanh nghiệp mới muốn tham gia vào ngành. Những quy
định này có thể liên quan đến các lĩnh vực như pháp lý, thuế, tài chính, cạnh tranh và
an toàn lao động. Đòi hỏi các doanh nghiệp mới phải đáp ứng các yêu cầu pháp lý
nhất định trước khi được hoạt động, được các sự xem xét và phê duyệt của các cơ
quan chức năng khác, điều này làm cho việc thành lập doanh nghiệp bị kéo dài ra lâu
hơn.
- Rào cản rút lui khỏi ngành:
Bất động sản là một sản phẩm có đặc tính riêng biệt, có tính lâu bền và gắn liền với
một vị trí, cần một vốn đầu tư trong một thời dài thì mới có thể sinh ra lợi nhuân, tính
thanh khoản thấp. Những yếu tố này làm cho khả năng rút lui khỏi thị trường của
doanh nghiệp trở nên khó hơn do các ràng buộc về vốn đầu tư lớn.
Qua các phân tích trên, các rào cản gia nhập thị trường bất động sản thương mại tại
Việt Nam là trung bình và mối đe dọa của những người mới tham gia là trung bình.
Đối với những người mua nhà đầu tiên hoặc là những người ít kinh nghiệm và nguồn
vốn trong việc mua bán bất động sản thì sẽ rất khó để có được một vị trí trong mắt nhà
cung cấp. Nguyên nhân chính là do thị trường bất động sản ở Việt Nam đang ở trong
giai đoạn tăng giá liên tục, cầu vượt quá cung, dẫn đến tình trạng khan hiếm hàng hoá
và giá cả không ngừng tăng. Tuy nhiên, những người mua là những nhà đầu tư thứ
cấp, họ có kinh nghiệm, có kiến thức và nguồn lực tài chính lớn thì sẽ có khả năng
thương lượng tốt hơn, đặc biệt trong những khu vực có cung ứng dồi dào và không có
nhiều đối thủ cạnh tranh.
Tuy nhiên, nhìn chung thì Năng lực thương lượng của người mua trong ngành kinh
doanh bất động sản ở Việt Nam có thể được xem là khá yếu.
3. Lực đe dọa từ năng lực thương lượng của Nhà cung cấp
Các nhà cung cấp đang có vị thế khá vững chắc trên thị trường bất động sản tại Việt
Nam, đặc biệt là trong thời gian bây giờ nhu cầu đang có xu hướng tăng lên trong khi
nguồn cung bất động sản thực đang giảm, khi đó nhu cầu trên thị trường đang dần
vượt so với cung.
Mặc dù các nhà cung cấp có một vị trí mạnh mẽ trong Thị trường bất động sản, khả
năng thương lượng của họ yếu từ khi giá cả và số lượng bất động sản để bán hoặc cho
thuê biến động tùy thuộc vào cung và cầu của thị trường. Các nhà cung cấp không có
quyền kiểm soát hoặc quyền lực để định giá cho thị trường ngoại trừ đầu cơ trên thị
trường.
Mối đe dọa của các sản phẩm thay thế là tương đối yếu trong ngắn hạn. Tuy nhiên,
đây ngoài mua BĐS làm nhà ở ra thì BĐS còn là một loại một tài sản đầu tư, cho nên
Bất động sản đang cạnh tranh với các công cụ đầu tư khác như trái phiếu, công nghệ
cao và cổ phiếu tạo ra lợi nhuận cho các nhà đầu tư. Các loại hình đầu tư khác này
ngày càng trở nên hấp dẫn đối với các nhà đầu tư như là công cụ để sinh lời nâng cao.
Điều này sẽ gây ra mối đe dọa trong thời gian dài thời hạn.
Các đặc tính cạnh tranh được chú trọng trong ngành kinh doanh bất động sản như:
Chất lượng sản phẩm, Giá cả hợp lý, Vốn tài chính, Khác biệt hóa, Đa dạng hóa
Trong đó, em sử dụng 2 đặc tính để tiếp cận chiến lược cạnh tranh trong ngành kinh
doanh bất động sản, đó là tập trung vào Quản lý chi phí và
Những doanh nghiệp thuộc nhóm 1 như Vinhomes, Novaland, Phát Đạt, Ecopark. Đây
là những doanh nghiệp lớn, có vốn tài chính cao, tiềm lực mạnh mẽ về tài chính, nhóm
này có thị phần cao trong thị trường bất động sản, thường theo đuổi chiến lược có rủi
ro cao và thu nhập cao. Có xu hướng đầu tư vào BĐS có vị trí chiến lược tốt, họ đầu
tư vào nhiều loại hình như Các chung cư cao cấp, khu nghỉ dưỡng, khu thương mại,
khu công nghiệp… ngoài ra họ còn đầu tư vào nhiều dự án có giá trị cao khác. Nhờ
vậy mà sản phẩm của rất đa dạng và chất lượng tốt, đáp ứng nhanh chóng nhu cầu của
khách hàng.
Nhóm thứ 2 gồm những doanh nghiệp như đây là nhưng doanh nghiệp có nguồn vốn
tài chính thấp, cho nên chiến lược Quản lý chi phí là điều cần thiết. Các doanh nghiệp
thuộc nhóm này thường có xu hướng đầu tư vào các dự án, đất nền, nhà ở… Những
BĐS này có không mang lại lợi nhuận cao trong ngắn hạn