You are on page 1of 28

Câu 1: Với tư cách là một môn khoa học, đối tượng và phương pháp nghiên cứu

của Kinh tế chính trị Mác - Lênin là gì? Phân biệt quy luật kinh tế và chính sách
kinh tế. Nêu ý nghĩa của việc nghiên cứu kinh tế chính trị Mác - Lênin đối với hoạt
động sản xuất kinh doanh và quản trị quốc gia?

1.1. Đối tượng nghiên cứu:


Với tư cách là một môn khoa học, bộ môn Kinh tế chính trị Mác - Lênin có đối
tượng nghiên cứu riêng.
Trước C. Mác, ở mỗi thời kỳ phát triển, có các hướng xác định tìm đối tượng
nghiên cứu của kinh tế chính trị tương ứng. Chủ nghĩa trọng thương phát hiện đối
tượng nghiên cứu trong lĩnh vực lưu thông; chủ nghĩa trọng nông chuyển đối tượng
nghiên cứu trong các quan hệ kinh tế ở lĩnh vực nông nghiệp; kinh tế chính trị cổ
điển xác định đối tượng nghiên cứu trong nền sản xuất. Mặc dù chưa thật toàn
diện, song những tìm kiếm nêu trên có giá trị lịch sử, phản ánh trình độ phát triển
từ thô sơ đến từng bước mang tính khoa học của lý luận kinh tế chính trị trước C.
Mác.
Kế thừa những thành tựu khoa học kinh tế chính trị của nhân loại, bằng cách
tiếp cận duy vật về lịch sử, C. Mác và Ph. Ăngghen xác định:
Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị là các quan hệ của sản xuất và
trao đổi trong phương thức sản xuất mà các quan hệ đó hình thành và phát triển.
Lần đầu tiên trong lịch sử của kinh tế chính trị học, đối tượng nghiên cứu của
kinh tế chính trị được xác định một cách khoa học, toàn diện ở mức độ khái quát
cao, thống nhất biện chứng giữa sản xuất và lưu thông.
Nói khái quát: Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin là các
quan hệ xã hội của sản xuất và trao đổi mà các quan hệ này được đặt trong sự liên
hệ biện chứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng
tầng tương ứng của phương thức sản xuất nhất định.

1.2. Phương pháp nghiên cứu:


Không chỉ đối tượng, mà Kinh tế chính trị Mác Lênin cũng có phương pháp
nghiên cứu riêng. Để nghiên cứu bộ môn cần vận dụng thành thạo phương pháp
biện chứng duy vật và các phương pháp chuyên ngành thích hợp.
Kinh tế chính trị Mác Lênin yêu cầu sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu
thích hợp nhất như: trừu tượng hóa khoa học, logic kết hợp với lịch sử, thống kế,
so sánh, phân tích tổng hợp, quy nạp diễn dịch, hệ thống hóa, mô hình hóa, khảo
sát, tổng kết thực tiễn…
Trong đó, phương pháp trừu tượng hóa khoa học được sử dụng như phương
pháp chủ yếu của bộ môn vì các nghiên cứu khoa học này không thể tiến hành
trong phòng thí nghiệm, không thể sử dụng các thiết bị kỹ thuật. Mặt khác, các
quan hệ và quá trình của kinh tế luôn phức tạp, chịu tác động của nhiều yếu tố khác
nhau. Vì vậy phương pháp này giúp việc nghiên cứu trở nên đơn giản hơn, nhanh
chóng tiếp cận được bản chất của đối tượng nghiên cứu.

1.3. Phân biệt quy luật kinh tế và chính sách kinh tế:
Các hiện tượng kinh tế đều bị chi phối bởi những lực lượng khách quan, đó là
các quy luật kinh tế. Quy luật kinh tế là những mối liên hệ phản ánh bản chất,
khách quan, lặp đi lặp lại của các hiện tượng và quá trình kinh tế trong nền sản
xuất xã hội tương ứng với những trình độ phát triển nhất định của nền sản xuất xã
hội ấy.
Quy luật kinh tế tác động vào các động cơ lợi ích và quan hệ lợi ích của con
người, từ đó điều chỉnh hành vi của họ.
Giữa quy luật kinh tế và chính sách có sự khác biệt. Chính sách kinh tế cũng
tác động vào các quan hệ lợi ích, nhưng mang tính chủ quan.
Quy luật kinh tế tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý chí con người, con
người không thể thủ tiêu quy luật kinh tế, nhưng có thể nhận thức và vận dụng quy
luật để phục vụ lợi ích bản thân. Khi vận dụng không phù hợp, con người phải thay
đổi hành vi của mình chứ không thể thay đổi được quy luật.
Chính sách kinh tế là sản phẩm chủ quan của con người được hình thành trên
cơ sở vận dụng các quy luật kinh tế. Chính sách kinh tế vì thế có thể phù hợp, hoặc
không phù hợp với quy luật kinh tế khách quan. Khi chính sách không phù hợp,
chủ thể ban hành chính sách có thể ban hành chính sách khác để thay thế.

1.4. Ý nghĩa:
Kinh tế chính trị Mác Lênin phát hiện ra những nguyên lý và quy luật chi phối
các quan hệ lợi ích giữa con người với con người trong sản xuất và trao đổi. Kết
quả nghiên cứu tạo cơ sở lý luận khoa học cho việc xây dựng đường lối, chính sách
phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia phù hợp với những giai đoạn phát triển
nhất định. Đường lối, chính sách phản ánh đặc trưng chế độ chính trị, định hướng
con đường phát triển của quốc gia. Kinh tế chính trị giúp con người nắm được quy
luật và các quá trình kinh tế trong lao động sản xuất, hiểu được bản chất và vận
dụng theo quy luật vào thực tế, tránh chủ quan, giáo điều, duy ý chí…
Cần nắm vững kiến thức của kinh tế chính trị Mác Lênin để có cơ sở lý luận
khoa học cho việc giải quyết những mối quan hệ lợi ích trong quá trình phát triển
đất nước cũng như các hoạt động kinh doanh, sản xuất gắn với đời sống con người.

Câu 2: Phân tích khái niệm, các điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa. Phân tích
khái niệm 2 thuộc tính và giải thích tại sao hàng hóa có 2 thuộc tính. Lượng giá trị
của hàng hóa chịu tác động bởi những nhân tố nào? Phân tích nguồn gốc, bản chất,
chức năng của tiền tệ.
2.1. Hàng hóa:
- Khái niệm: Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó
của con người thông qua trao đổi, mua bán.

- Các điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa:

Một là, phân công lao động xã hội. Đó là sự phân chia lao động trong xã hội thành
các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau, tạo nên sự chuyên môn hóa của những
người sản xuất thành những ngành, nghề khác nhau.

Hai là, sự tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất. Sự tách biệt về mặt
kinh tế giữa các chủ thể sản xuất làm cho những người sản xuất độc lập với nhau
có sự tách biệt về lợi ích. Trong điều kiện đó, người này muốn tiêu dùng sản phẩm
của người khác phải thông qua trao đổi, mua bán. Sự tách biệt này là điều kiện đủ
để nền sản xuất hàng hóa ra đời và phát triển.

- 2 thuộc tính: Giá trị sử dụng và giá trị


+) Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của sản phẩm, có thể thỏa mãn nhu
cầu nào đó của con người.
+) Giá trị của hàng hóa: là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh
trong hàng hóa.

Sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị là vì lao động sản xuất
hàng hóa có tính hai mặt: lao động cụ thể và lao động trừu tượng.

Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng còn lao động trừu tượng tạo ra giá trị của
hàng hóa.

Không phải có hai thứ lao động khác nhau, mà chỉ có một loại lao động sản xuất
hàng hóa, nhưng loại lao động đó được xem xét ở hai mặt. Nếu với mục đích tìm
hiểu xem người lao động đã lao động như thế nào, bằng cách nào để tạo ra sản
phẩm hàng hóa thì đó là lao động cụ thể. Cũng lao động sản xuất hàng hóa đó,
nhưng lại xem xét để biết nó tốn bao nhiêu sức lực, hết bao nhiêu thời gian thì đó
là lao động trừu tượng.

2.2. Nhân tố tác động lượng giá trị hàng hóa:

Lượng giá trị trong một đơn vị hàng hóa được đo lường bởi thời gian lao động xã
hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó. Có những nhân tố chủ yếu tác động đến
lượng giá trị:

Một là, năng suất lao động (ý nghĩa sống còn). Năng suất lao động là năng lực sản
xuất của người lao động, được tính bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một
đơn vị thời gian hay số lượng thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản
phẩm. Năng suất lao động tỉ lệ nghịch với thời gian hao phí lao động cần thiết và
lượng giá trị trong 1 đơn vị hàng hóa.

Hai là, tính chất phức tạp của lao động. Căn cứ vào mức độ phức tạp của lao động
mà chia thành lao động giản đơn và lao động phức tạp. Lao động phức tạp tạo ra
nhiều giá trị hơn, là bội số của lao động giản đơn.

2.3. Tiền tệ:

a) Nguồn gốc và bản chất của tiền:

Giá trị của hàng hóa là trừu tượng, chúng ta không nhìn thấy giá trị như nhìn thấy
hình dáng hiện vật của hàng hóa; giá trị của hàng hóa chỉ được bộc lộ ra trong quá
trình trao đổi thông qua các hình thái biểu hiện của nó. Theo tiến trình lịch sử phát
triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa, những hình thái của giá trị cũng trải qua
quá trình phát triển từ thấp tới cao. Quá trình này cũng chính là lịch sử hình thành
từ thấp tới cao. Quá trình này cũng chính là lịch sử hình thành tiền tệ. Nghiên cứu
lịch sử hình thành tiền tệ lý giải một cách khoa học nguyên nhân vì sao tiền có thể
mua được hàng hóa. Đó là:

- Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên. Đây là hình thái ban đầu của giá trị
xuất hiện trong thời kỳ sơ khai của trao đổi hàng hóa. Khi đó, việc trao đổi giữa
các hàng hóa với nhau mang tính ngẫu nhiên. Người ta trao đổi trực tiếp hàng hóa
này lấy hàng hóa khác.
- Hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng. Khi trình độ phát triển của sản xuất hàng
hóa được nâng lên, trao đổi trở nên thường xuyên hơn, một hàng hóa có thể được
đặt trong mối quan hệ với nhiều hàng hóa khác. Hình thái giá trị đầy đủ hay mở
rộng xuất hiện.

- Hình thái chung của giá trị. Việc trao đổi trực tiếp không còn thích hợp khi trình
độ sản xuất hàng hóa phát triển cao hơn, chủng loại hàng hóa càng phong phú hơn.
Trình độ sản xuất này thúc đẩy sự hình thành hình thái chung của giá trị.

- Hình thái tiền


Như vậy, về bản chất, tiền là một loại hàng hóa đặc biệt, là kết quả của quá trình
phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa, là yếu tố ngang giá chung cho thế giới
hàng hóa, là hình thái biểu hiện giá trị hàng hóa, phản ánh lao động xã hội và mối
quan hệ giữa những người sản xuất và trao đổi hàng hóa.

b) Chức năng tiền tệ:

Tiền tệ có 5 chức năng:

- Thước đo giá trị: giá trị hàng hóa được biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả hàng hóa
- Phương tiện lưu thông: tiền được dùng làm môi giới cho quá trình trao đổi hàng
hóa
- Phương tiện cất trữ: tiền phải có đủ giá trị như tiền vàng, tiền bạc. Tiền giấy
không có giá trị thực.
- Phương tiện thanh toán: Trong trường hợp tiền dùng để trả nợ, trả tiền mua chịu
hàng hóa…thì làm chức năng thanh toán.
- Tiền tệ thế giới: tiền lúc này làm phương tiện di chuyển của cải, mua bán, thanh
toán từ nước này sang nước khác.

Câu 3: Trình bày các khái niệm: Thị trường, Cơ chế thị trường và Nền kinh tế thị
trường. Phân tích quyền lợi và trách nhiệm của các chủ thể cơ bản trong nền kinh
tế thị trường. Liên hệ thực tiễn.

3.1. Các khái niệm:

Thị trường:
Hiện nay, khái niệm thị trường được dùng theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng.

+ Nghĩa hẹp: thị trường hữu hình - là nơi, khu vực mang tính xác định về
không gian và thời gian để người bán và người mua gặp nhau trao đổi hàng hóa và
dịch vụ.

+ Nghĩa rộng: bao gồm thị trường hữu hình và vô hình - là tổng thể các
quan hệ trao đổi, mua bán nói chung trong xã hội. Ở đó, các chủ thể kinh tế căn
cứ vào giá cả để điều tiết các hoạt động kinh tế của mình nhằm thực hiện giá trị
của hàng hóa.

Cơ chế thị trường:


- Là cơ chế tự điều tiết sự vận hành của nền KTTT thông qua sự biến động của giá
cả thị trường, sự cạnh tranh của các chủ thể thị trường và sự biến đổi của quan hệ
cung cầu.

- Theo GS. P.A. Samuelson: Cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh
tế, trong đó, cá nhân người tiêu dùng và các nhà kinh doanh tác động lẫn nhau
qua thị trường để xác định ba vấn đề trung tâm của tổ chức KT là: Sản xuất cái
gì? Sản xuất như thế nào?Sản xuất cho ai?”.

Nền kinh tế thị trường:


- Kinh tế thị trường là kiểu tổ chức nền kinh tế trong đó các quá trình sản xuất,
trao đổi, phân phối, tiêu dùng đều thông qua thị trường, đều dựa trên những
nguyên tắc và quy luật của thị trường.

- Các loại hình:

+ Theo trình độ: có KTTT chưa phát triển và KTTT phát triển trên cơ sở sản
xuất lớn xã hội hóa.

+ Theo địa vị chủ đạo của chế độ sở hữu TLSX: có KTTT tư hữu và KTTT
công hữu.

3.2. Vai trò của các chủ thể tham gia thị trường:
Thị trường có một số chủ thể chính: người sản xuất, người tiêu dùng, các chủ
thể trung gian trong thị trường và nhà nước.

a) Người sản xuất:

-Người sản xuất hàng hóa là những người sản xuất và cung cấp hàng hóa, dịch vụ
ra thị trường nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Người sản xuất bao gồm
các nhà sản xuất, đầu tư, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ...

- Nhiệm vụ của họ không chỉ làm thỏa mãn nhu cầu hiện tại của xã hội, mà còn tạo
ra và phục vụ cho những nhu cầu trong tương lai với mục tiêu đạt lợi nhuận tối đa
trong điều kiện nguồn lực có hạn.
-Ngoài mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận, người sản xuất cần phải có trách nhiệm đối
với con người, trách nhiệm cung cấp những hàng hóa dịch vụ không làm tổn hại tới
sức khỏe và lợi ích của con người trong xã hội.
b) Người tiêu dùng
Người tiêu dùng là những người mua hàng hóa, dịch vụ trên thị trường đề thỏa
mãn nhu cầu tiêu dùng. Sức mua của người tiêu dùng là yếu tố quyết định sự phát
triển bền vững của người sản xuất. Sự phát triển đa dạng về nhu cầu của người tiêu
dùng là động lực quan trọng của sự phát triển sản xuất, ảnh hưởng trực tiếp tới sản
xuất.
c) Các chủ thể trung gian trong thị trường
- Chủ thể trung gian là những cá nhân, tổ chức đảm nhiệm vai trò cầu nối giữa các
chủ thể sản xuất, tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ trên thị trường..
-Hoạt động của các trung gian trong thị trường làm tăng cơ hội thực hiện giá trị của
hàng hóa cũng như thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng.
-Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện đại ngày nay, các chủ thể trung gian
thị trường không phải chỉ có các trung gian thương nhân mà còn rất nhiều các chủ
thể trung gian phong phú trên tất cả các quan hệ kinh tế như: trung gian môi giới
chứng khoán, trung gian môi giới nhà đất, trung gian môi giới khoa học công
nghệ... Bên cạnh đó cũng có nhiều loại hình trung gian không phù hợp với các
chuẩn mực đạo đức (lừa đảo, môi giới bất hợp pháp...). Những trung gian này cần
được loại trừ.
d) Nhà nước
- Trong nền kinh tế thị trường, xét về vai trò kinh tế, nhà nước thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về kinh tế đồng thời thực hiện những biện pháp để khắc phục
những khuyết tật của thị trường.
-Với trách nhiệm như vậy, một mặt, nhà nước thực hiện quản trị phát triển nền
kinh
tế thông qua việc tạo lập môi trường kinh tế tốt nhất cho các chủ thể kinh tế phát
huy sức sáng tạo của họ. Việc tạo ra các rào cản đối với hoạt động sản xuất kinh
doanh từ phía nhà nước sẽ làm kìm hãm động lực sáng tạo của các chủ thể sản xuất
kinh doanh. Các rào cản như vậy phải được loại bỏ.
-Cùng với đó, nhà nước còn sử dụng các công cụ kinh tế để khắc phục các khuyết
tật của nền kinh tế thị trường, làm cho nền kinh tế thị trường hoạt động hiệu quả

e) Liên hệ thực tiễn:

Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (NTD) với 8 quyền cơ bản có hiệu lực từ
ngày 1-7-2011, được kì vọng sẽ là “tấm lá chắn” bảo vệ NTD một cách hữu hiệu
nhất. Nhưng tình trạng vi phạm vẫn diễn ra phổ biến.
Thứ nhất, ý thức chấp hành pháp luật cũng như ý thức bảo vệ NTD của doanh
nghiệp (DN) còn hạn chế
Thứ hai, hoạt động kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm của các cơ quan nhà nước
chưa thực sự có hiệu quả. Điều này xuất phát từ sự hạn chế về nguồn lực, phương
tiện cũng như cơ chế hoạt động của các cơ quan nhà nước còn nhiều bất cập.
Một nguyên nhân nữa đó là, ý thức tự bảo vệ của chính NTD chưa cao. Họ chưa tự
trang bị cho mình những kiến thức cần thiết về pháp luật cũng như kiến thức tiêu
dùng khi mua, sử dụng hàng hóa dịch vụ.

Thực tế không thể phủ nhận hiện nay quyền của NTD đang bị xâm hại có thể nói ở
mức phổ biến trong quá trình mua bán hàng hóa, sử dụng dịch vụ. NTD đang phải
đối mặt với những thiệt thòi, thiệt hại không chỉ mặt kinh tế mà còn cả mặt sức
khỏe, thậm chí tính mạng. Tuy nhiên, nói NTD không hề được bảo vệ cũng chưa
thật thỏa đáng, đã có nhiều vụ việc NTD phản ánh, Hội bảo vệ NTD kiến nghị, các
cơ quan chức năng đã vào cuộc... Có thể nói, chúng ta có làm nhiều việc để bảo vệ
NTD nhưng kết quả chưa nhiều chứ không phải NTD không được bảo vệ. Để bảo
vệ NTD đòi hỏi nhiều lực lượng khác nhau, phía Nhà nước đến đâu, các tổ chức xã
hội thế nào và ngay cả chính NTD nữa, tuy nhiên Nhà nước, các cơ quan chức
năng phải là cơ quan chịu trách nhiệm chính về vấn đề này.

Câu 4: Trong nền kinh tế thị trường có những quy luật kinh tế nào điều tiết thị
trường? Phân tích nội dung, tác động của quy luật giá trị và nêu ý nghĩa của việc
nhận thức và vận dụng quy luật này trước và trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam.

4.1. Một số quy luật điển hình trong nền kinh tế thị trường là:

1. Quy luật giá trị


Là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hóa, là gốc rễ của mọi quy luật. Ở đâu
có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị.
Trong nền kinh tế hàng hóa, quy luật giá trị có những tác động cơ bản sau:
- Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa
- Thứ hai, kích thích cải tiến kĩ thuật, hợp lí hóa sản xuất nhằm tăng năng suất lao
động
- Thứ ba, phân hóa những người sản xuất thành những người giàu, người nghèo
một cách tự nhiên.
Quy luật giá trị vừa đảo thải cái lạc hậu, lỗi thời, kích thích sự tiến bộ, làm cho lực
lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ; vừa lựa chọn, đánh giá người sản xuất, bảo
đảm bình đẳng.

2. Quy luật cung cầu


Là quy luật điều tiết quan hệ giữa cung (bên bán) và cầu (bên mua) hàng hóa trên
thị trường. Quy luật này đòi hỏi cung - cầu phải có sự thống nhất. Trên thị trường,
cung - cầu có mối quan hệ tác động lẫn nhau, ảnh hưởng trực tiếp tới giá cả. Nếu
cung lớn hơn cầu thì giá cả thấp hơn giá trị; ngược lại, nếu cung bằng cầu thì giá cả
bằng giá trị.

3. Quy luật lưu thông tiền tệ


Việc đưa số lượng tiền cần thiết cho lưu thông trong mỗi thời kì nhất định phải
thống nhất với lưu thông hàng hóa. Nếu không có thể dẫn đến trì trệ hoặc lạm phát.

Số lượng tiền cần thiết cho lưu thông hàng hóa ở mỗi thời kỳ được xác định bằng
công thức tổng quát sau:

M = (P.Q) / V

Trong đó:
M = số lượng tiền cần thiết cho lưu thông trong một thời gian nhất định
P = mức giá cả
Q = khối lượng hàng hóa, dịch vụ đưa ra lưu thông
V = số vòng lưu thông của đồng tiền

4. Quy luật cạnh tranh


Là quy luật điều tiết một cách khách quan mối quan hệ ganh đua kinh tế giữa các
chủ thể trong sản xuất và trao đổi hàng hóa.

Tác động của cạnh tranh:

* Tích cực:
- Thứ nhất, cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất
- Thứ hai, cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường
- Thứ ba, cạnh tranh là cơ chế điều chỉnh linh hoạt trong việc phân bổ các nguồn
lực
- Thứ tư, cạnh tranh thúc đẩy năng lực thỏa mãn nhu cầu của xã hội.

* Tiêu cực:
- Cạnh tranh không lành mạnh gây tổn hại đến môi trường kinh doanh
- Gây lãng phí nguồn lực xã hội
- Làm tổn hại đến phúc lợi xã hội.

4.2. Quy luật giá trị và ý nghĩa, vận dụng trước và trong thời kỳ đổi mới ở Việt
Nam:
- Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và lưu thông hàng
hoá, ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự hoạt động của quy luật
giá trị. Quy luật giá trị phối hợp hoạt động của những người sản xuất và trao đổi
hàng hoá.
- QLGT đòi hỏi việc sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở hao
phí lao động xã hội cần thiết. Điều đó có nghĩa là những người sản xuất hàng hoá
phải luôn tìm cách làm cho hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với lao
động xã hội tất yếu để sản xuất ra hàng hoá, trong trao đổi phải theo nguyên tắc
ngang giá.
- Chỉ có thông qua sự vận động lên xuống của giá cả thị trường mới thấy
được sự hoạt động của quy luật giá trị. Giá cả hàng hoá vận động lên xuống xoay
xung quanh giá trị, nhưng tổng số giá cả bằng tổng số giá trị của hàng hoá.

Trong nền kinh tế hàng hoá quy luật giá trị có ý nghĩa:
- Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa
+ Điều tiết sản xuất thông qua cơ chế cung cầu và giá cả trên thị trường:
• Cung nhỏ hơn cầu, thì giá cả lớn hơn giá trị, nghĩa là hàng hoá sản xuất có
lãi. Giá cả cao hơn giá trị kích thích mở rộng và đẩy mạnh sản xuất để tăng cung;
ngược lại, cầu giảm vì giá tăng.
• Cung lớn hơn cầu, sản phẩm sản xuất ra quá nhiều so với nhu cầu, giá cả thấp
hơn giá trị, sản xuất không có lãi. Thực tế đó, tự người sản xuất ra quyết định
ngừng hoặc giảm sản xuất; ngược lại, giá giảm kích thích tăng cầu, tự nó là nhân tố
làm cho cung tăng.
• Cung cầu tạm thời cân bằng, giá cả bằng giá trị thì người sản xuất có thể
tiếp tục sản xuất mặt hàng này.
Như vậy, quy luật giá trị đã tự động điều tiết tỷ lệ phân chia TLSX và sức
lao động vào các ngành sản xuất khác nhau, đáp ứng nhu cầu xã hội khác nhau.
+ Điều tiết lưu thông: Quy luật giá trị điều tiết lưu thông hàng hoá từ nơi giá
thấp đến nơi giá cao. Nó có tác dụng phân phối điều hoà một cách hợp lý hơn
nguồn hàng, giá cả hàng hoá giữa các vùng của đất nước, giữa nước này với nước
khác.

- Thứ hai, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao
động, hạ giá thành sản phẩm.
Các hàng hoá sản xuất trong những điều kiện khác nhau, do đó mức hao phí lao
động cá biệt khác nhau nhưng trên thị trường, các hàng hoá được trao đổi theo mức
hao phí lao động xã hội cần thiết. Vậy người sản xuất hàng hoá nào có mức hao phí
lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết thì sẽ thu được
nhiều lãi. Điều đó kích thích người sản xuất hàng hoá cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá
sản xuất… nhằm tăng năng suất lao động, hạ chi phí sản xuất.

- Thứ ba, phân hoá người sản xuất hàng hoá thành giàu, nghèo:
Những người sản xuất hàng hoá nào có mức hao phí lao động cá biệt thấp
hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng theo mức hao phí lao
động xã hội cần thiết sẽ thu được nhiều lãi, giàu lên, có thể mua sắm thêm tư liệu
sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh, thậm chí thuê lao động trở thành ông chủ.
Ngược lại, những người sản xuất hàng hoá nào có mức hao phí lao động cá biệt
cao hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng sẽ rơi vào tình trạng
thua lỗ, nghèo đi, thậm chí phá sản, trở thành lao động làm thuê.

Vận dụng đối với doanh nghiệp nước ta hiện nay:

Các doanh nghiệp trong nhu cầu cạnh tranh trên thị trường. Qua đó phải đảm bảo
đối với lợi ích, nhu cầu tốt nhất trong tiếp cận của người dân. Về giá trị, giá cả, lợi
nhuận, chi phí,… Đảm bảo đối với hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Các bên liên quan phải cùng nhận được lợi ích bảo đảm trong thực hiện tổ
chức hoạt động của mình để điều chỉnh, cân đối hợp lý hóa sản xuất; ứng dụng
trang thiết bị hiện đại, tiết kiệm chi phí vật chất, tăng năng suất lao động…
Mang đến các ý nghĩa thúc đẩy, phát triển trong nhận thức và hành động là đòi hỏi
đối với các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam, đặc biệt là trong thời
kỳ đổi mới và từng bước đi lên.
Câu 5: Phân tích khái niệm, điều kiện để sức lao động trở thành hàng hoá và hai
thuộc tính của hàng hoá sức lao động. Thông qua quá trình sản xuất giá trị thặng
dư trong một doanh nghiệp tư bản tư nhân, hãy làm rõ nguồn gốc, bản chất của giá
trị thặng dư và tiền công. Phân tích các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư và
nêu ý nghĩa của việc nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư của C.Mác.

5.1. Khái niệm sức lao động, Những điều kiện biến sức lao động thành hàng
hoá

Sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực tồn tại trong cơ thể con người, nó được
vận dụng vào quá trình lao động sản xuất

Trong bất kỳ xã hội nào, sức lao động cũng đều là yếu tố hàng đầu của quá trình
lao động sản xuất. Nhưng không phải bao giờ sức lao động cũng là hàng hoá. Sức
lao động chỉ biến thành hàng hoá khi có hai điều kiện sau: Một là người lao động
phải được tự do về thân thể, do đó có khả năng chi phối sức lao động của mình.
Sức lao động chỉ xuất hiện trên thị trường với tư cách là hàng hoá, nếu nó do bản
con người có sức lao động đưa ra bán. Muốn vậy, người có sức lao động phải có
quyền sở hữu năng lực của mình. Việc biến sức lao động thành hàng hoá đòi hỏi
phải thủ tiêu chế độ chiếm hữu nô và chế độ phong kiến. Hai là người lao động bị
tước đoạt hết tư liệu sản xuất không thể tự tiến hành lao động sản xuất. Chỉ trong
điều kiện ấy, người lao động mới buộc phải bán sức lao động của mình, vì không
còn cách nào khác để sinh sống. Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tất yếu
dẫn đến chỗ sức lao động biến thành hàng hoá.

Cũng như mọi hàng hoá khác, hàng hoá - sức lao động cũng có hai thuộc tính: giá
trị và giá trị sử dụng.

 . Giá trị hàng hoá sức lao động

Giá trị hàng hoá sức lao động cũng giống như các hàng hoá khác được quy định
bởi
số lượng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao
động. Nhưng, sức lao động chỉ tồn tại trong cơ thể sống của con người. Để sản
xuất
và tái sản xuất ra năng lực đó, người công nhân phải tiêu dùng một số lượng tư liệu
sinh hoạt nhất định.

Như vậy, thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra sức lao động sẽ quy
thành thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt ấy,
hay nói một cách khác, số lượng giá trị sức lao động được xác định bằng số lượng
giá trị những tư liệu sinh hoạt để duy trì cuộc sống của người có sức lao động ở
trạng thái bình thường. Khác với hàng hoá thông thường, giá trị hàng hoá sức lao
động bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử.

Điều đó thể hiện ở chỗ: nhu cầu của công nhân không chỉ có nhu cầu về vật chất
mà còn gồm cả những nhu cầu về tinh thần (giải trí, học hành,…). Nhu cầu đó, cả
về khối lượng lẫn cơ cấu những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho công nhân không
phải lúc nào và ở đâu cũng giống nhau.
Nó tùy thuộc hoàn cảnh lịch sử của từng nước, từng thời kỳ, phụ thuộc vào trình độ
văn minh đã đạt được của mỗi nước, ngoài ra còn phụ thuộc vào tập quán, vào điều
kiện địa lý và khí hậu, vào điều kiện hình thành giai cấp công nhân.
Nhưng, đối với một nước nhất định và trong một thời kỳ nhất định thì quy mô
những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho người lao động là một đại lượng nhất định.
Do đó, có thể xác định do những bộ phận sau đây hợp thành: một là, giá trị những
tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì sức lao động của bản thân người công nhân;
hai là, phí tổn học việc của công nhân; ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt cần
thiết cho gia đình người công nhân. Như vậy, giá trị sức lao động bằng giá trị
những tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết để tái sản xuất sức lao động
cho người công nhân và nuôi sống gia đình của anh ta.
Để nêu ra được sự biến đổi của giá trị sức lao động trong một thời kỳ nhất định,
cần nghiên cứu sự tác động lẫn nhau của hai xu hướng đối lập nhau. Một mặt là sự
tăng nhu cầu trung bình xã hội về hàng hoá và dịch vụ, về học tập và trình độ lành
nghề, do đó làm tăng giá trị sức lao động. Mặt khác là sự tăng năng suất lao động
xã hội, do đó làm giảm giá trị sức lao động. Trong điều kiện tư bản hiện đại, dưới
tác động của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật và những điều kiện khác, sự
khác biệt của công nhân về trình độ lành nghề, về sự phức tạp của lao động và mức
độ sử dụng năng lực trí óc và tinh thần của họ tăng lên. Tất cả những điều kiện đó
không thể không ảnh hưởng đến các giá trị sức lao động. Không thể không dẫn đến
sự khác biệt theo ngành và theo lĩnh vực của nền kinh tế bị che lấp đằng sau đại
lượng trung bình của giá trị sức lao động.

 Giá trị sử dụng hàng hoá sức lao động

Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động cũng giống như các hàng hoá khác chỉ
thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động, tức là quá trình người công nhân
tiến hành lao động sản xuất. Những tính chất đặc biệt của hàng hoá sức lao động
được thể hiện đó là:
Thứ nhất, sự khác biệt của giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động so với giá trị
sử dụng của các hàng hoá khác là ở chỗ, khi tiêu dùng hàng hoá sức lao động, nó
tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị của thân giá trị sức lao động. Phần lớn hơn đó
chính là giá trị thặng dư. Như vậy, hàng hoá sức lao động có thuộc tính là nguồn
gốc sinh ra giá trị.
Đó là đặc điểm cơ bản nhất của giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động so với
các hàng hoá khác. Nó là chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn của công thức chung
của tư bản. Như vậy, tiền chỉ thành tư bản khi sức lao động trở thành hàng hoá.
Thứ hai, con người là chủ thể của hàng hoá sức lao động vì vậy, việc cung ứng sức
lao động phụ thuộc vào những đặc điểm về tâm lý, kinh tế, xã hội của người lao
động. Đối với hầu hết các thị trường khác thì cầu phụ thuộc vào con người với
những đặc điểm của họ, nhưng đối với thị trường lao động thì con người lại có ảnh
hưởng quyết định tới cung.
5.2. Nguồn gốc, bản chất của giá trị thặng dư và tiền công

5.2.1. Nguồn gốc của giá trị thặng dư

 Nguồn gốc của giá trị thặng dư là bộ phận giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức
lao động do công nhân tạo ra, là kết quả của lao động không công củacông
nhân cho nhà tư bản. Ta có thể hiểu rằng: Để sản xuất, nhà tư bản đã mua
hàng hóa sức lao động và tư liệu sản xuất, người công nhân(người được mua
sức lao động) sẽ làm việc và tạo ra sản phẩm cho nhà tư bản. Bằng lao động
cụ thể của mình, công nhân sử dụng tư liệu sản xuất để bảo tồn và chuyển
nguyên vẹn vào giá trị vào sản phẩm( tư bản bất biến); bằng lao động trừu
tượng, công nhân tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động( tư bản khả
biến), phần lớn hơn đó là giá trị thặng dư.

5.2.2. Bản chất của giá trị thặng dư

 Giá trị thặng dư là kết quả của sự hao phí sức lao động.
 Mục đích của nhà tư bản là giá trị thặng dư, người lao động làm thuê
phảibán sức lao động cho nhà tư bản.
 Trong điều kiện ngày nay, quan hệ đó vẫn diễn ra nhưng với trình độ và mức
độ rất khác.

→ Nhà tư bản bóc lột sức lao động của công nhân để tạo nhiều thặng dư cho
bản thân. Bóc lột càng nhiều thì giá trị thặng dư càng cao. Vì vậy người giàu
thì vẫn giàu, người nghèo thì vẫn nghèo.

5.2.3. Nguồn gốc của tiền công

 Tiền công là giá cả của hàng hóa sức lao động. Đó là bộ phận của giá trị mới
do chính hao phí sức lao động của người lao động làm thuê tạo ra, nhưng nó
lại thường được hiểu là do người mua sức lao động trả cho người lao động
làm thuê.
 Nguồn gốc của tiền công chính là do hao phí sức lao động của người lao
động làm thuê tự trả cho mình thông qua sổ sách của người mua hàng hóa
sức lao động.

5.3. CÁC PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ VÀ Ý NGHĨA
CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN GIÁ TRỊ THẶNG DƯ CỦA C.MÁC

5.3.1. Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư

a. Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối:

 Khái niệm: là giá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày lao động vượt quá
thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động,
và thời gian lao động tất yếu không thay đổi.
Ví dụ: Ngày lao động 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là 4 giờ, thời gian lao
động thặng dư là 4 giờ, tỷ suất giá trị thặng dư là 100%. Nếu nhà tư bản tăng
thời gian lao động thêm 2 giờ thì với mọi điều kiện không đổithì giá trị
thặng dư sẽ là 6 giờ.

Để có được nhiều giá trị thặng dư, nhà tư bản sẽ tìm cách kéo dài thời gian
và cường độ lao động. Tuy nhiên, sức lao động và thời gian lao động của
con người là có giới hạn nên không thể vượt giới hạn.

 Ưu điểm: Nâng cao năng suất và giá trị thặng dư.


 Nhược điểm: Bóc lột sức lao động của công nhân.

b. Sản xuất giá trị thặng dư tương đối

 Khái niệm: là giá trị thặng dư thu được nhờ rút ngắn thời gian lao động tất
yếu; do đó kéo dài thời gian lao động thặng dư trong khi độ dài ngày lao
động không thay đổi hoặc thậm chí rút ngắn.
 Ưu điểm:

+ Tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt và các
ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất để chế tạo ra tư liệu sinh hoạt đó.

+ Cải tiến kĩ thuật.

 Nhược điểm: Bóc lột sức lao động công nhân.

5.3.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư của C.Mác

Câu 6: Trình bày bản chất tích lũy tư bản và phân tích các nhân tố góp phần làm
tăng quy mô tích lũy tư bản. Bằng kiến thức lý luận và thực tiễn, chứng minh rằng
tích lũy tư bản dẫn tới gia tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản, thúc đẩy tích tụ và tập
trung tư bản, phân hóa thu nhập giữa nhà tư bản và lao động làm thuê.

Nói một cách ngắn gọn thì TÍCH LŨY TƯ BẢN là sự chuyển hóa không ngừng
một phần giá trị thặng dư thành tư bản - cũng có nghĩa là tư bản hóa giá trị thặng
dư.
Với bản chất khát vọng không có giới hạn về giá trị thặng dư đã khiến cho tư
bản không ngừng mở rộng sản xuất để đạt mục tiêu không ngừng tăng quy mô giá
trị thặng dư. Do đó thực chất của tích lũy tư bản là sự chuyển hóa một phần giá trị
thặng dư thành tư bản.
* Những nhân tố ảnh hưởng đến quy mô và tốc độ tích lũy tư bản :
Trường hợp khối lượng giá trị thặng dư không đổi thì quy mô tích lũy tư bản
phụ thuộc vào tỉ lệ phân chia khối lượng giá trị thặng dư đó thành hai quỹ: quỹ
tich1 lũy và quỹ tiêu dùng của nhà tư bản. Đương nhiên trong một tổng quỹ đó, tỉ
lệ quỹ này tăng lên thì tỉ lệ dành cho quỹ kia giảm đi.
Nếu tỉ lệ phân chia đó đã được xác định, thì quy mô của quỹ tích lũy tư bản
phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư. Trong trường hợp này khối lượng giá trị
thặng dư bị phụ thuộc vào những nhân tố sau đây:
+ Trình độ bóc lột sức lao động bằng những biện pháp : tăng cường độ lao
động; cắt giảm tiền lương công nhân.
+ Trình độ tăng năng suất lao động xã hội
+ Sự chênh lệch tư bản được sử dụng và tư bản đã tiêu dùng.
+ Quy mô của tư bản trước

Theo C.Mác, quá trình tích lũy trong nền kinh tế thị trường tư bản dẫn tới các hệ
quả kinh tế mang tính quy luật như sau:
Thứ nhất, tích lũy tư bản làm tăng cấu tạo hữu cơ tư bản.

Cấu tạo hữu cơ của tư bản (ký hiệu cv) là cấu tạo giá trị được quyết định bởi cấu
tạo kỹ
thuật và phản ánh sự biến đổi của cấu tạo kỹ thuật của tư bản.
C.Mác cho rằng, nền sản xuất có thể được quan sát qua hình thái hiện vật. Cũng có
thể
quan sát qua hình thái giá trị.
Nếu quan sát qua hình thái hiện vật thì mối quan hệ tỷ lệ giữa số lượng tư liệu sản
xuất và
số lượng sức lao động được coi là cấu tạo kỹ thuật.
Cấu tạo kỹ thuật này, nếu quan sát qua hình thái giá trị nó phản ánh ở mối quan hệ
tỷ lệ
giữa tư bản bất biến với tư bản khả biến. Tỷ lệ giá trị này được gọi là cấu tạo hữu
cơ. Cấu
tạo hữu cơ luôn có xu hướng tăng do cấu tạo kỹ thuật cũng vận động theo xu
hướng tăng
lên về lượng
Vì vậy, quá trình tích lũy tư bản không ngừng làm tăng cấu tạo hữu cơ tư bản.

Thứ hai, tích luỹ tư bản làm tăng tích tụ và tập trung tư bản.
Trong quá trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa, quy mô của tư bản cá biệt tăng lên
thông
qua quá trình tích tụ và tập trung tư bản.

Tích tụ tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách tư bản hóa giá
trị
thặng dư.

Tích tụ tự bản làm tăng quy mô tư bản cá biệt đồng thời làm tăng quy mô tư bản xã
hội
do giá trị thặng dư được biến thành tư bản phụ thêm. Tích tụ tư bản là kết quả trực
tiếp
của tích luỹ tư bản.
Tập trung tư bản là sự tăng lên của quy mô tư bản cá biệt mà không làm tăng
quy mô tư bản xã hội do hợp nhất các tư bản cá biệt vào một chỉnh thể tạo thành
một tư bản cá biệt lớn hơn.Tập trung tư bản có thể được thực hiện thông qua sáp
nhập các tư bản cá biệt với nhau.

Thứ ba, quá trình tích luỹ tư bản làm không ngừng làm tăng chênh lệch giữa thu
nhập của nhà tư bản với thu nhập của người lao động làm thuê cả tuyệt đối lẫn
tương đối. Quá trình tích luỹ tư bản có tính hai mặt, một mặt thể hiện sự tích lũy sự
giàu sang về phía giai cấp tư sản, và mặt khác tích lũy sự bần cùng về phía giai cấp
công nhân làm thuê.
Bần cùng hóa giai cấp công nhân làm thuê biểu hiện dưới hai hình thái là bần cùng
hoá
tương đối và bần cùng hóa tuyệt đối.
Bần cùng hoá tương đối là cùng với đà tăng trưởng lực lượng sản xuất, phần sản
phẩm
phân phối cho giai cấp công nhân làm thuê tuy có tăng tuyệt đối, nhưng lại giảm
tương
đối so với phần dành cho giai cấp tư sản.
Bần cùng hoá tuyệt đối thể hiện sự sụt giảm tuyệt đối về mức sống của giai
cấp công nhân làm thuê, Bần cùng hóa tuyệt đối thường xuất hiện đối với bộ phận
giai cấp công nhân làm thuế đang thất nghiệp và đối với toàn bộ giai cấp công
nhân làm thuê trong các điều kiện kinh tế khó khăn, đặc biệt trong khủng hoảng
kinh tế.

CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.1 Trước dịch

Hơn 20 năm đổi mới vừa qua, Đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng
trong phát triển kinh tế đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong
phát triển kinh tế tốc độ tăng trưởng khá cao, sản xuất phát triển, có tích lũy từ nội
bộ, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Để giữ được tốc độ tăng trưởng cao
trong những năm tới sẽ phụ thuộc rất nhiều vào việc tích lũy, huy động vốn cho
nền kinh tế.

Trước đây trong nền kinh tế bao cấp, tiêu dùng còn thiếu thốn thì quá trình tích lũy
vốn còn gặp rất nhiều trở ngại. Nhà nước lại can thiệp quá sâu vào nền kinh tế dẫn
đến việc tổ chức doanh nghiệp không thể phát huy hết khả năng của mình, nhiệm
vụ tích tụ và tập trung vốn không đạt được hiệu quả. Việc thực hiện CNH- HDH đề
ra trong kế hoạch 5 năm tại Đại hội Đảng lần III 1960-1985 được tiến hành trong
điều kiện chế độ quan liêu bao cấp vì vậy nên còn tồn tại khá nhiều hạn chế.Chỉ
khi sau đổi mới 1986, cùng với việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, chính sách mở cửa, ngoại giao mềm dẻo, các kênh huy động vốn
trở nên phong phú linh hoạt hơn. Theo thống kê giai đoạn 1996-2000 tăng 66,7%
so với 1991-1995, tỷ trọng vốn đầu tư xã hội 28,6%năm. Tích lũy nội bộ tăng lên
25% GDP. Từ 2000 đến nay tốc độ lại tiếp tục tăng 2008 tăng 39,6%, 2009 tăng
34,8%, 2010 tăng 37,5% năm, giai đoạn 1011-2017 nguồn vốn đầu tư toàn xã hội
15,524 tỷ, vốn nước ngoài ước tính 1150 tỷ đồng

Từ khi chuyển đổi nền kinh tế, nhất đời sống nhân dân đã được cải thiện rõ rệt, thu
nhập quốc dân tăng lên…tuy nhiên nó vẫn còn quá nhỏ bé so với nền kinh tế thế
giới (nếu quy đổi ra đô la Mỹ (thời điểm năm 2003) thì quy mô vốn của các doanh
nghiệp ở Việt Nam chỉ tương đương với một tập đoàn đa quốc gia cỡ trung bình
trên thế giới). Trong đó doanh nghiệp Nhà nước chiếm 59,0/% tổng vốn của doanh
nghiệp cả nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 19,55%, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài chiếm 21,44% tổng vốn các doanh nghiệp cả nước. Xét
riêng đối với mỗi doanh nghiệp, vốn của từng doanh nghiệp rất nhỏ

1.2 Sau dịch

Trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực tới mọi lĩnh
vực kinh tế – xã hội trong những năm gần đây thì tình hình tích lũy tư bản của
nước ta trong những năm đại dịch vẫn ổn định: Tổng vốn đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam tính đến ngày 20/9/2021 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký
điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 22,15 tỷ
USD, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong báo cáo cập nhật kinh tế vĩ mô
tháng 9/2021 vừa qua, WB đưa ra nhận định dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) tại Việt Nam cho thấy lòng tin vào nền kinh tế vẫn được duy trì. Nhà đầu tư
FDI vẫn tin tưởng vào triển vọng của nền kinh tế Việt Nam. Theo chuyên gia WB,
lý do là nền kinh tế Việt Nam vẫn nằm trong số các quốc gia tăng trưởng tốt (năm
2020 là 2,9%) khi phần lớn các quốc gia khác suy giảm kinh tế nghiêm trọng. Đó
là dấu hiệu của khả năng phục hồi, cho thấy các nền tảng cơ bản của nền kinh tế
Việt Nam là vững chắc

Đóng góp của một số ngành dịch vụ thị trường có tỷ trọng lớn vào tốc độ tăng tổng
giá trị tăng thêm được thống kê như sau: Bán buôn và bán lẻ tăng 5,53% so với
năm trước, đóng góp 0,61 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo
hiểm tăng 6,87%, đóng góp 0,46 điểm phần trăm; ngành vận tải, kho bãi giảm
1,88%, làm giảm 0,06 điểm phần trăm; ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống giảm
14,68%, làm giảm 0,62 điểm phần trăm.
Nhiều chuyên gia nước ngoài cũng lạc quan về sức bật đáng kể của kinh tế Việt
Nam trong bối cảnh khủng hoảng dịch bệnh COVID-19. Đó là kết quả của những
chính sách từ việc tích lũy các bộ đệm tài khóa, kinh tế đối ngoại, tài chính và tích
cực cải cách hành chính trước khi xảy ra đại dịch đã giúp Việt Nam chống chịu tốt
hơn trước cú sốc.

7. Phân tích bản chất và nguồn gốc của lợi nhuận thương nghiệp, lợi tức, địa tô
trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa

+ Việc tạo ra giá trị thặng dư và phân chia giá trị thặng dư là hai vấn để khác nhau.
Lĩnh vực lưu thông cũng như hoạt động của các nhà tư bản thương nghiệp đúng là
không tạo ra được giá trị thặng dư, nhưng do vị trí, tầm quan trọng của lưu thông
đối với sự phát triển của sản xuất và tái sản xuất nên các nhà tư bản thương nghiệp
vẫn được tham gia vào việc phân chia giá trị thặng dư cùng với các nhà tư bản
công nghiệp và phần giá trị thặng dư mà các nhà tư bản thương nghiệp được chia
chính là lợi nhuận thương nghiệp.
+ Như vậy, lợi nhuận thương nghiệp là một phần của giá trị thặng dư được sáng tạo
ra trong lĩnh vực sản xuất và do nhà tư bản công nghiệp nhượng lại cho nhà tư bản
thương nghiệp, để nhà tư bản thương nghiệp tiêu thụ hàng cho mình.

- Lợi tức cho vay:

Trong xã hội tư bản, luôn tồn tại một số nhà tư bản có một số tư bản tiền tệ tạm
thời nhàn rỗi, không sinh lợi. Tuy nhiên, nhà tư bản lại rất mong muốn tiền phải đẻ
ra tiền Mặt khác, luôn có một số nhà tư bản khác rất cần đến tiền dẫn đến xu hướng
muốn đi vay.

Từ hai mặt trên tất yếu dẫn đến sự ra đời sự vay mượn lẫn nhau, sinh ra quan hệ tín
dụng tư bản chủ nghĩa. Chính nhờ quan hệ vay mượn này tư bản nhàn rỗi đã trở
thành tư bản cho vay. Do đó, tư bản cho vay là tư bản tiền tệ mà người chủ của nó
nhường cho một người khác sử dụng trong một thời gian để nhận được một số lời
lãi nào đó. Số lời lãi đó được gọi là lợi tức.

Nhà tư bản cho vay nhường quyền sử dụng tư bản của mình cho người khác, do đó
thu về lợi tức. Nhà tư bản đi vay đã sử dụng tư bản vay được để đưa vào sản xuất
kinh doanh thu được lợi nhuận bình quân. Khi đó, nhà tư bản đi vay phải trích một
phần lợi nhuận của mình cho tư bản cho vay.
Nguồn gốc của lợi tức là một phần giá trị thặng dư do người công nhân sáng tạo ra
trong quá trình sản xuất nhưng việc nhà tư bản cho vay thu được lợi tức đã che
giấu mất quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa.

Tỷ suất lợi tức là tỷ lệ tính theo % giữa tổng số lợi tức và số tư bản tiền tệ cho vay.
Gọi lợi tức là Z, tỷ suất lợi tức là Z’:

Z’ = (Z / Số tư bản cho vay) x 100%

- Địa tô:
Giống như các nhà tư bản kinh doanh trong công nghiệp, thương nghiệp, các
nhà tư bản kinh doanh trong nông nghiệp cũng phải thu được lợi nhuận bình quân.
Nhưng vì phải thuê ruộng của địa chủ bên ngoài lợi nhuận bình quân, nhà tư bản
kinh doanh nông nghiệp còn phải thu thêm được một phần giá trị thặng dư dôi ra
nữa, tức là lợi nhuận siêu ngạch. Lợi nhuận siêu ngạch này tương đối ổn định và
lâu dài và nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải trả cho địa chủ dưới hình thái
địa tô tư bản chủ nghĩa.

Vậy, địa tô tư bản chủ nghĩa là phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã khấu trừ đi
phần lợi nhuận bình quân mà các nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải nộp cho
địa chủ.
Thực chất, địa tô tư bản chủ nghĩa chính là một hình thức chuyển hóa của giá trị
thặng dư siêu ngạch hay lợi nhuận siêu ngạch.
- Phân biệt địa tô tư bản chủ nghĩa với địa tô phong kiến:
+ Điểm giống nhau, đều là sự thực hiện về mặt kinh tế của quyền sở hữu về ruộng
đất. Cả hai loại địa tô đều là kết quả của sự bóc lột đối với người lao động nông
nghiệp.
+ Điểm khác nhau:
* Về mặt chất, địa tô phong kiến chỉ phản ánh quan hệ sản xuất giữa hai giai
cấp: địa chủ và nông dân, trong đó địa chủ trực tiếp bóc lột nông dân: còn địa tô tư
bản chủ nghĩa phản ánh quan hệ sản xuất giữa ba giai cấp: địa chủ, nhà tư bản kinh
doanh nông nghiệp và công nhân nông nghiệp làm thuê, trong đó địa chủ gián tiếp
bóc lột công nhân nông nghiệp làm thuê thông qua nhà tư bản kinh doanh nông
nghiệp.
* Về mặt lượng, địa tô phong kiến bao gồm toàn bộ phần sản phẩm thặng dư
do nông dân tạo ra, có khi còn lấn sang cả phần sản phẩm cần thiết; còn địa tô tư
bản chủ nghĩa chỉ là một phần của sản phẩm thặng dư, đó là phần sản phẩm tương
ứng với phần giá trị thặng dư dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân của nhà tư bản kinh
doanh nông nghiệp.
Câu 8:. Phân tích những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền
và độc quyền nhà nước. Những biểu hiện mới về kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc
quyền và độc quyền nhà nước trong giai đoạn hiện nay.

Ý 1. Trình bày được 5 đặc trưng kinh tế của CNTB độc quyền:
- Tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền
- Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính
- Xuất khẩu tư bản
- Sự phân chia thị trường thế giới của các tổ chức độc quyền
- Sự phân chia lãnh thổ thế giới của các cường quốc.
Ý 2. Biểu hiện mới của những đặc điểm đó ở CNTB độc quyền ngày nay:
- Sự xuất hiện ngày càng nhiều những công ty độc quyền xuyên quốc gia
bên cạnh sự phát triển của các xí nghiệp vừa và nhỏ
- Sự thay đổi trong các hình thức tổ chức và cơ chế thống trị của TBTC.
- XKTB vẫn là cơ sở của TBĐQ, nhưng quy mô, chiều hướng và kết cấu của
XKTB đã có bước phát triển mới.
- Sự phân chia thế giới giữa các liên minh của CNTB: xu hướng QTH, TCH
ngày càng tăng bên cạnh xu hướng khu vực hóa nền kinh tế.
- Sự phân chia thế giới giữa các cường quốc vẫn tiếp tục dưới những hình
thức cạnh tranh và thống trị mới

Câu 9: Tại sao phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam là một đòi hỏi khách quan? Phân tích những đặc trưng của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam? Phân tích các quan hệ lợi ích
kinh tế cơ bản và nội dung đảm bảo hài hòa các quan hệ lợi ích kinh tế trong phát
triển ở Việt Nam.

Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được
coi là một đòi hỏi khách quan vì các lý do sau đây:
1. Phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế toàn cầu: Kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là một mô hình kinh tế linh hoạt và mở rộng, phù hợp với
xu hướng phát triển kinh tế toàn cầu. Việt Nam, như nhiều quốc gia khác, đã
chuyển từ mô hình kinh tế truyền thống sang mô hình kinh tế thị trường để tận
dụng lợi ích từ quan hệ thương mại quốc tế và thu hút đầu tư nước ngoài.
2. Tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế: Kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế. Nó
khuyến khích sự cạnh tranh, tăng cường hiệu quả sản xuất, tạo ra việc làm, và thúc
đẩy sự sáng tạo và đổi mới.
3. Đảm bảo quyền lợi xã hội: Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam nhấn mạnh việc đảm bảo quyền lợi xã hội và sự công bằng trong
phát triển kinh tế. Nó tập trung vào việc giảm bớt khoảng cách giàu nghèo, cải
thiện điều kiện sống của người dân, và đảm bảo quyền lợi của các nhóm yếu thế.
4. Phát triển bền vững: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam nhằm đạt được sự phát triển bền vững, kết hợp giữa phát triển kinh tế, bảo vệ
môi trường và đảm bảo sự công bằng xã hội. Mô hình này đặt mục tiêu phát triển
kinh tế không chỉ dựa trên việc tăng trưởng GDP mà còn quan tâm đến các chỉ số
phát triển xã hội và môi trường.
5. Đáp ứng yêu cầu của thời đại: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam là một đòi hỏi khách quan trong bối cảnh thế giới ngày càng phát triển
và thay đổi. Việt Nam cần phát triển một nền kinh tế linh hoạt, cạnh tranh và bền
vững để đáp ứng yêu cầu của thời đại và nhu cầu của người dân.

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có những đặc
trưng sau:
 Sự kết hợp giữa nền kinh tế thị trường và tư tưởng xã hội chủ nghĩa: Nền
kinh tế này có tính chất phổ biến của một nền kinh tế thị trường, đồng thời
cũng có những đặc trưng riêng của xã hội chủ nghĩa.
 Quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa: Nhà nước có vai trò quản lý trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm giải quyết các mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, cải thiện chất lượng
cuộc sống của người dân.
 Phân phối công bằng: Nền kinh tế này thực hiện chính sách xã hội, khuyến
khích làm giàu hợp pháp và đồng thời giảm nghèo.
 Kết hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất: Nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa tập trung vào việc kết hợp lực lượng sản
xuất với quan hệ sản xuất, đảm bảo giải phóng sức sản xuất và xây dựng quan
hệ sản xuất mới.
 Xây dựng xã hội công bằng và tiến bộ: Mục tiêu của nền kinh tế này là xây
dựng một xã hội giàu có, mạnh mẽ, dân chủ, công bằng, văn minh, do nhân dân
làm chủ và có sự phát triển toàn diện.
 Phát triển kinh tế và hiện đại hóa: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa tập trung vào việc phát triển kinh tế, nâng cao hiệu quả hội nhập
kinh tế quốc tế.
 Quan hệ phân phối trong nền kinh tế: Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, có nhiều hình thức phân phối khác
nhau như phân phối theo lao động, theo mức đóng góp nguồn lực vào sản xuất,
kinh doanh và thông qua các quỹ lợi ích xã hội.

Trong quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia như Việt Nam, các quan hệ lợi
ích kinh tế đóng vai trò quan trọng. Các quan hệ lợi ích kinh tế cơ bản là những
quan hệ giữa các cá nhân, tổ chức và xã hội trong quá trình sản xuất, phân phối và
tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ. Đảm bảo hài hoà các quan hệ lợi ích kinh tế có
nghĩa là đảm bảo rằng các quan hệ này được phát triển một cách công bằng và bền
vững, không gây ra sự mất cân đối và bất bình đẳng trong xã hội.
Các quan hệ lợi ích kinh tế cơ bản ở Việt Nam bao gồm:
 Quan hệ giữa người lao động và nhà tuyển dụng: Đây là một quan hệ quan
trọng trong quá trình sản xuất và phân phối hàng hóa và dịch vụ. Người lao
động cung cấp sức lao động và nhà tuyển dụng trả công để sử dụng sức lao
động đó. Quan hệ này cần được đảm bảo công bằng và bền vững để đảm bảo
sự phát triển kinh tế và sự hài lòng của cả hai bên.
 Quan hệ giữa doanh nghiệp và khách hàng: Đây là quan hệ giữa những người
cung cấp hàng hóa và dịch vụ và những người tiêu dùng. Doanh nghiệp cung
cấp sản phẩm và dịch vụ mà khách hàng cần và khách hàng trả tiền để sử dụng
sản phẩm và dịch vụ đó. Quan hệ này cần được xây dựng trên cơ sở tôn trọng
và lợi ích chung để đảm bảo sự phát triển của cả hai bên.
 Quan hệ giữa chính phủ và doanh nghiệp: Đây là quan hệ giữa chính phủ và
các doanh nghiệp trong việc quản lý và điều hành nền kinh tế. Chính phủ đưa
ra các chính sách, quy định và hỗ trợ để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Quan hệ này cần được xây dựng trên cơ sở hợp
tác và lợi ích chung để đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
 Nội dung đảm bảo hài hoà các quan hệ lợi ích kinh tế trong phát triển ở Việt
Nam
Để đảm bảo hài hoà các quan hệ lợi ích kinh tế trong quá trình phát triển ở
Việt Nam, cần có các biện pháp và nội dung sau:
 Xây dựng chính sách kinh tế công bằng: Chính phủ cần đưa ra các chính sách
kinh tế nhằm đảm bảo công bằng và bình đẳng trong quá trình phân phối lợi
ích kinh tế. Điều này có thể bao gồm việc thiết lập các chính sách thuế, chính
sách tiền tệ và chính sách xã hội nhằm giảm bớt bất bình đẳng và tạo điều kiện
thuận lợi cho tất cả các bên tham gia vào quá trình kinh tế.
 Tăng cường giáo dục và đào tạo: Để đảm bảo hài hoà các quan hệ lợi ích kinh
tế, cần tăng cường giáo dục và đào tạo để nâng cao nhận thức của người dân về
quyền và ý nghĩa của mình trong các quan hệ lợi ích kinh tế. Điều này có thể
giúp người dân hiểu rõ hơn về quyền và lợi ích của mình và tham gia tích cực
vào quá trình phát triển kinh tế.
 Tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và khách hàng: Chính phủ cần tạo ra
môi trường kinh doanh thuận lợi và bình đẳng cho các doanh nghiệp và khách
hàng. Điều này có thể bao gồm việc đảm bảo quyền sở hữu và quyền tự do
kinh doanh, giảm bớt các rào cản thị trường và tạo ra các cơ chế bảo vệ người
tiêu dùng.
 Đảm bảo quyền và lợi ích của người lao động: Cần đảm bảo quyền và lợi ích
của người lao động trong quá trình sản xuất và phân phối hàng hóa và dịch vụ.
Điều này có thể bao gồm việc đảm bảo mức lương công bằng, điều kiện làm
việc an toàn và lành mạnh, và quyền tham gia vào quyết định liên quan đến
công việc của mình.

Câu 10: Phân biệt cách mạng công nghiệp và công nghiệp hóa. Phân tích nội dung
cơ bản của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay. Phân tính
tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế và những hình thức quan hệ kinh tế quốc tế
của Việt Nam hiện nay.

Cách mạng công nghiệp hay còn gọi là công nghiệp lần thứ nhất là cuộc cách mạng
trong lĩnh vực sản xuất, là sự thay đổi cơ bản các điều kiện kinh tế xã hội, văn hóa
và kĩ thuật, xuất phát từ nước Anh sau đó lan tỏa ra toàn thế giới.

Công nghiệp hóa là quá trình nâng cao tỷ trọng của công nghiệp trong toàn bộ các
ngành kinh tế của một vùng kinh tế hay một nền kinh tế. Đó là tỷ trọng của lao
động, về giá trị gia tăng,...

Về Nội dung công nghiệp hoá và trình bày các giải pháp để đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay.
1. Áp dụng cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại nhằm xd cơ sở vật
chất - kỹ thuật cho cnxh
Cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ nhất diễn ra vào cuối thế kỷ XVIII đầu
thế kỷ XIX với nội dung là cơ khí hoá sx nhằm chuyển lao động thủ công sang lao
động bằng máy móc.
Cách mạng khoa học kỹ thuật tiếp tục pt mạnh vào cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX và đã đạt được nhiều thành tựu cao về cơ khí hoá, điện khí hoá và hoá học
hoá.
Ngày này cách mạng khoa học và công nghệ pt cao với những đặc trưng cơ
bản là:
- Cách mạng khoa học kỹ thuật gắn liền với cách mạng công nghệ nên gọi là
cách mạng khoa học và công nghệ (cách mạng công nghệ mới) với những thành
tựu công nghệ hiện đại làm biến đổi sâu sắc trình độ, khả năng sx, số lượng và chất
lượng sản phẩm.
- Khoa học và công nghệ trở thành lực lượng sx trực tiếp bởi thành tựu của
nhiều ngành khoa học như: khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học kỹ thuật,
khoa học kinh tế… đều tác động trực tiếp đến sx, đến tất cả các lĩnh vực công
nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, du lịch, văn hoá, giáo dục, nghệ thuật, chính trị tư
tưởng, thời gian phát minh khoa học và ứng dụng kỹ thuật đã rút ngắn, phạm vi
ứng dụng lại rất rộng rãi.
- Cách mạng khoa học và công nghệ đang đưa loài người bước vào một thời
đại mới, một nền văn minh mới tiến bộ: văn minh tin học, có những nội dung chủ
yếu là:
+ Tự động hoá: sử dụng máy tự động, rôbốt.
+ Năng lượng mới: năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời, tia laze.
+ Vật liệu mới: composit, gốm sứ, cacbuasilic…
+ Công nghệ sinh học: sơ đồ gen, nuôi cấy tế bào…
+ Điện tử tin học: máy vi tính, siêu tính, viễn tin học…
Nước ta đi lên cnxh bỏ quan chế độ tbcn, thực hiện CNH, HĐH trong điều
kiện sx nhỏ, kỹ thuật công nghệ lạc hậu, chưa có đại công nghiệp pt. Do đó, một
nội dung cơ bản của CNH, HĐH ở nước ta là phải tiến hành cách mạng khoa học
và công nghệ để xd cơ sở vật chất - kỹ thuật cho cnxh.
Cụ thể phải thực hiện nhanh quá trình cơ khí hoá sx trang bị máy móc cho
nền kt quốc dân trên cơ sở kỹ thuật, công nghệ hiện đại.
Tổ chức tốt việc nghiên cứu, thu thập, phổ biến thông tin và ứng dụng những
thành tựu mới nhất của khoa học – công nghệ vào sx, đời sống với nhiều hình thức,
bước đi quy mô và trình độ thích hợp.
CNH, HĐH ở nước ta nhằm xd cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH, pt llsx,
củng cố hoàn thiện quan hệ sx xhcn tạo ra sự phù hợp giữa qhsx với tính chất và
trình độ llsx. Do vậy, việc pt khoa học, công nghệ cần chú ý một số điểm sau:
+ Phải ứng dụng công nghệ mới tiên tiến, hiện đại kết hợp với công nghệ
truyền thống.
+ Sử dụng tốt công nghệ mới, tạo ra nhiều việc làm mới, tốn ít vốn, quay
vòng nhanh, hiệu quả cao, giữ được nghề truyền thống.
+ Kết hợp xd pt cả bề rộng và bề sâu, cả xd mới và cải tạo cũ, thực hành tiết
kiệm.
+ Kết hợp các loại quy mô lớn, vừa và nhỏ cho thích hợp. Ưu tiên cho quy
mô vừa và nhỏ; xd quy mô lớn khi có đủ điều kiện. Coi trọng hiệu quả sx kinh
doanh và hiệu quả kinh tế - xã hội.
2. Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý kết hợp với phân công lao động xh
Cơ cấu kt của nền kt quốc dân là tổng thể hữu cơ các mqh chủ yếu về chất
lượng và số lượng, tương đối ổn định của các yếu tố kt, các bộ phận hợp thành của
nền kt, của llsx và qhsx trong hệ thống tái sx xh với những điều kiện kt-xh nhất
định và trong khoảng thời gian nhất định. Hệ thống cơ cấu kt quốc dân bao gồm
nhiều cơ cấu như: cơ cấu ngành, cơ cấu vùng, cơ cấu các thành phần kt, trong đó
cơ cấu ngành kt là quan trọng nhất.
Thực hiện CNH, HĐH nền kt quốc dân là quá trình chuyển dịch cơ cấu kt từ
lạc hậu, ít hiệu quả sang một cơ cấu ngày càng phù hợp với xu hướng pt của nền sx
hiện đại ho sự tác động của cách mạng khoa học và công nghệ. Đó là xu hướng tỷ
trọng giá trị sản phẩm công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng; tỷ trọng giá trị sản
phẩm nông nghiệp ngày càng giảm.
Phân công lao động xh là sự chuyên môn hoá lao động là phân chia sắp xếp
lao động vào các ngành nghề, các lĩnh vực, các vùng kt của nền kt quốc dân nhằm
tạo ra những quan hệ kt mới giữa các ngành nghề, các lĩnh vực, các vùng kt khác
nhau.
Phân công lao động và phân bố dân cư có vai trò to lớn thúc đẩy ptkt – xh
nói chung, pt công nông nghiệp, dịch vụ, pt văn hoá, khoa học kỹ thuật, hình thành
cơ cấu kt hợp lý, đẩy mạnh sx hh, tăng năng suất lđ, cải thiện đời sống ổn định
chính trị - xã hội. Phân công lao động theo hướng CNH, HĐH ở nước ta phải đảm
bảo tuân thủ các quá trình có tính quy luật sau đây:
Một là, tỷ trọng và số lượng tuyệt đối lao động nông nghiệp giảm dần, tỷ
trọng và số lượng tuyệt đối lao động công nghiệp ngày một tăng.
Hai là, tỷ trọng và số lượng tuyệt đối lao động trong các ngành sx phi vật
chất, nhất là ngành dịch vụ phải tăng dần và tốc độ tăng phải nhanh hơn các ngành
sx vật chất khác.
Ba là, tỷ trọng lao động trí tuệ ngày càng tăng và chiếm ưu thế so với lao
động giản đơn trong tổng số lao động xh.
Phân công lao động xh có ảnh hưởng trực tiếp tới việc hình thành cơ cấu kt
hợp lý.

Tính tất yếu


Chủ nghĩa tư bản đã mất hàng trăm năm thực hiện công nghiệp hoá TBCN
để xd cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNTB. Ngày nay, các nước đi lên CNXH dù
điểm xuất phát từ trình độ nào (TBCN hay tiền TBCN) đều phải thực hiện CNH,
HĐH, để xd cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH.
a. Đối với các nước quá độ từ CNTB lên CNXH, dù đã có đại công nghiệp;
có cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản song đó mới chỉ là tiền đề vật chất
của cnxh. Muốn có cơ sở vật chất - kỹ thuật của cnxh thì các nước này phải tiến
hành CNH, HĐH XHCN trên cơ sở cách mạng XHCN về quan hệ sx và đẩy nhanh
tiến bộ lực lượng sx với những nội dung sau:
- Tổ chức sắp xếp lại nền đại công nghệ tư bản chủ nghĩa, phân bổ lại cho
đồng đều hợp lý trong phạm vi cả nước để hình thành cơ sở vật chất - kỹ thuật cho
CNXH.
- Sử dụng và tiếp thu những thành tựu khoa học – công nghệ mới, tiếp tục pt,
hiện đại hoá khoa học, công nghệ của nền sx xã hội xhcn tạo điều kiện cho lực
lượng sx pt.
- Hình thành cơ cấu kt mới xhcn, có trình độ cao, trên cơ sở phân công lao
động xã hội pt, đảm bảo tính hiện đại, hợp lý, hiệu quả.
b. Đối với các nước có kt kém pt chưa có chủ nghĩa tư bản, chưa có đại công
nghiệp, quá độ lên cnxh từ xuất phát điểm thấp; chưa có cơ sở vật chất - kỹ thuật,
nên phải xây dựng từ đầu, phải đi từ không đến có, từ gốc đến ngọn. Do vậy, công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là tất yếu khách quan để xd cơ sở vật chất - kỹ thuật cho
cnxh.
c. Đối với nước ta: CNH, HĐH cũng là tất yếu khách quan vì những lý do
sau đây:
- Do yêu cầu khắc phục tình trạng nghèo nàn, lạc hậu sx kém pt, tụt hậu xa
so với các nước.
- Do yêu cầu cải tổ cơ cấu kt, hình thành cơ cấu kt mới; sản xuất lớn, hợp lý,
hiện đại, tạo ra sức sx mới, khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên
nhiên của đất nước, để pt sx, nâng cao năng suất lao động, cải thiện đời sống nhân
dân.
- Do yêu cầu đẩy mạnh pt llsx để hoàn thiện qhsx mới xhcn, tạo ra sự phù
hợp giữa qhsx với llsx, trên cơ sở đó hình thành những quan hệ sx mới về kt, chính
trị, xh, văn hoá, tư tưởng.
- Do yêu cầu pt nền kt thị trường định hướng xhcn. Nhanh chóng hội nhập
vào kt khu vực và thế giới tạo điều kiện tốt để thực hiện phân công, hợp tác quốc
tế.
- Do yêu cầu xd củng cố quốc phòng, hiện đại hoá quân đội, xd lực lượng
quân sự mạnh có vũ khí, khí tài hiện đại đủ sức bảo vệ vững chắc Tổ quốc VN
xhcn.

You might also like