You are on page 1of 22

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


----------o0o----------

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ PHỦ ĐỊNH VÀ VẬN DỤNG PHÂN TÍCH


VIỆC KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO CÁC GIÁ TRỊ
TRUYỀN THỐNG TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HOÁ HIỆN
NAY

Sinh viên thực hiện : Phạm Thị Huyền Trang


Mã sinh viên : 2214710098
Số thứ tự : 98
Lớp tín chỉ :
Giảng viên hướng dẫn : TS. Đào Thị Trang

Hà Nội, 2023
Mục lục
Mục lục.................................................................................................................................. 2
LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................................ 3
I. PHÉP PHỦ ĐỊNH BIỆN CHỨNG................................................................................5
1. Phép biện chứng..........................................................................................................5
2. Phép biện chứng về phủ định.....................................................................................6
2.1. Khái niệm............................................................................................................... 6
2.2. Các đặc trưng cơ bản............................................................................................7
2.3. Quy luật phủ định của phủ định...........................................................................8
2.4. Ý nghĩa phương pháp luận của phép biện chứng về phủ định............................9
II. VẬN DỤNG PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ PHỦ ĐỊNH TRONG VIỆC KẾ THỪA
VÀ PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO CÁC GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG TRONG BỐI
CẢNH TOÀN CẦU HOÁ VIỆT NAM..............................................................................10
1. Các giá trị truyền thống............................................................................................10
1.1. Khái niệm............................................................................................................. 10
1.2. Các giá trị truyền thống của Việt Nam...............................................................11
1.3. Những thách thức đặt ra cho những giá trị truyền thống trong quá trình hội
nhập văn hóa thế giới....................................................................................................11
2. Vai trò của phép biện chứng của phủ định trong việc gìn giữ và phát huy truyền
thống văn hóa Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay...................................13
2.1. Thời cơ và thách thức của toàn cầu hóa đối với việc xây dựng hệ giá trị truyền
thống Việt Nam.............................................................................................................. 13
2.2. Thực trạng việc kế thừa gìn giữ và phát huy truyền thống văn hóa Việt Nam
trong bối cảnh toàn cầu hóa những năm gần đây........................................................14
2.2.1. Những thành tựu và hạn chế đã đạt được trong quá trình vận dụng phép biện
chứng phủ định của phủ định vào việc kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa của
dân tộc:15
2.2.2. Vai trò của phép biện chứng phủ định của phủ định trong việc kế thừa, và
phát triển truyền thống văn hóa dân tộc ta hiện nay:..................................................19
KẾT LUẬN.......................................................................................................................... 21
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................................22

2
LỜI MỞ ĐẦU

Toàn cầu hóa là một xu thế tất yếu của thời đại ngày nay. Toàn cầu hóa sẽ tạo ra
những khả năng mới, những cơ hội mới để nâng cao năng suất, sản lượng và hiệu quả
trong sản xuất kinh doanh; mở rộng được thị trường quốc tế cho hàng hóa, dịch vụ và 
các yếu tố sản xuất. Toàn cầu hoá mang đến cho mọi quốc gia những giá trị văn minh
có tính phổ quát của nhân loại, đồng thời đưa những nét văn hóa đặc sắc của mỗi quốc
gia vươn ra thế giới, làm phong phú thêm nền văn hóa chung của nhân loại. Trong đó,
Việt Nam cũng là một quốc gia nhận được nhiều mặt lợi của xu thế này. Hội nhập
toàn diện, sâu rộng đã thúc đẩy quá trình phát triển của đất nước lên một tầm cao mới,
vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên rõ rệt kéo theo đó là sự khâm
phục, đánh giá cao của nhân loại tiến bộ đối với đất nước, con người và bản sắc văn
hóa Việt Nam. Toàn cầu hoá đã tạo ra thời cơ, điều kiện thuận lợi cho quá trình bảo
tồn, phát huy, phát triển sâu sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trước những nguy cơ xói
mòn, mờ nhạt.

Bên cạnh đó, toàn cầu hoá cũng đặt đất nước ta trước những khó khăn, thách thức
không nhỏ; nổi trội là nguy cơ đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc. Ngay từ những năm
đầu mở cửa hội nhập, Đảng ta đã sớm nhận định: “Tệ sùng bái nước ngoài, coi thường
những giá trị văn hóa dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ... đang gây
hại đến thuần phong mỹ tục của dân tộc. Không ít trường hợp vì đồng tiền mà chà đạp
lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thày trò, đồng chí, đồng nghiệp. Buôn lậu và ma túy
phát triển. Ma túy, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác gia tăng”.

Trước vấn đề cấp thiết đó, một câu hỏi vô cùng thiết thực và khẩn trương được đặt ra
là: Làm thế nào để, bảo tồn, kế thừa phát huy và phát triển sáng tạo những giá trị văn
hóa truyền thống của dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay?

Câu trả lời giải quyết vấn đề được nhìn nhận dưới góc độ của triết học, mà cụ thể là
phép biện chứng về phủ định trong Triết học Mác - Lênin. Tính kế thừa của phủ định
3
biện chứng cho thấy bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng sinh ra từ sự vật hiện tượng
cũ, là cái mới ra đời trên nền tảng của cái cũ, phát triển tiếp tục dựa trên cơ sở loại bỏ
những mặt hạn chế, lỗi thời lạc hậu của cái cũ. Đồng thời cái mới sinh ra còn chọn
lọc, giữ lại, cải tạo những mặt còn thích hợp của cái cũ và bổ sung thêm những mặt
mới tiến tiến, phù hợp với hiện thực vào trong chính cái mới.

Từ những lí do trên, tôi quyết định chọn đề tài: “Phép biện chứng về phủ định và vận
dụng phân tích việc kế thừa và phát triển sáng tạo các giá trị truyền thống trong bối
cảnh toàn cầu hóa hiện nay”. Tiểu luận dưới đây tập trung phân tích và ứng dụng
phép biện chứng về phủ định vào việc gìn giữ, kế thừa và phát triển các giá trị văn
hóa của dân tộc.

4
I. PHÉP PHỦ ĐỊNH BIỆN CHỨNG

1. Phép biện chứng.


Phép biện chứng là phương pháp nhận thức đối tượng trong các mối liên hệ phổ
biến vốn có của nó. Đối tượng và các thành phần của đối tượng luôn trong sự lệ
thuộc, ảnh hưởng, ràng buộc và quy định lẫn nhau. Phương pháp biện chứng nhận
thức đối tượng ở trạng thái luôn vận động biến đổi, nằm trong khuynh hướng phổ
quát là phát triển. Quá trình vận động này thay đổi cả về lượng và chất của các sự
vật, hiện tượng. Nguồn gốc của sự vận động, thay đổi đó là sự đấu tranh giữa các
mặt đối lập của mâu thuẫn nội tại trong bản thân sự vật, hiện tượng.
Quan điểm biện chứng cho phép chủ thể nhận thức không chỉ thấy những sự vật
riêng biệt mà còn thấy cả mối liên hệ giữa chúng; không chỉ thấy sự tồn tại của sự
vật mà còn thấy cả sự sinh thành, phát triển và tiêu vong của sự vật; không chỉ thấy
trạng thái tĩnh mà còn thấy cả trạng thái động của sự vật. Phương pháp biện chứng
phản ánh hiện thực đúng như nó tồn tại. Nhờ vậy, phương pháp này trở này công
cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới, là phương pháp luận tối
ưu của mọi khoa học.
Phép biện chứng bao gồm: biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan. Biện
chứng khách quan là biện chứng của thế giới vật chất còn biện chứng chủ quan là
là khái niệm dùng để chỉ biện chứng của sự thống nhất giữa logic (biện chứng),
phép biện chứng và lý luận nhận thức, là tư duy biện chứng và biện chứng của
chính quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người. Bởi vậy, biện
chứng chủ quan một mặt phản ánh thế giới khách quan, mặt khác phản ánh những
quy luật của tư duy biện chứng.
Cùng với quá trình phát triển của tư duy con người, phương pháp biện chứng đã
trải qua ba gia đoạn phát triển, được thể hiện trong triết học với ba hình thức lịch

5
sử. Đó là phép biện chứng chất phác cổ đại, phép biện chứng duy tâm và phép
biện chứng duy vật.
Trong ba hình thức trên, Biện chứng duy vật của Mác-Ăngghen có sự thống nhất
giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng. Phương pháp biện chứng
này đã kế thừa có chọn lọc những tinh hoa của các nhà khoa học tiền bối. Vào giữa
thế kỉ XIX, C.Mác và Ph.Ăngghen đã sáng lập chủ nghĩa duy vật biện chứng và
phép biện chứng duy vật, về sau được V.I.Lênin phát triển vào đầu thế kỉ XX. Vì
vậy, biện chứng duy vật này hơn hẳn về chất so với các hình thức biện chứng trong
lịch sử. Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và
phương pháp luận biện chứng; giữa lý luận nhận thức và logic biện chứng; được
chứng minh bằng sự phát triển của khoa học tự nhiên trước đó. Đây cũng là
phương pháp luận trong nhận thức và thực tiễn để giải thích quá trình phát triển
của sự vật và nghiên cứu khoa học. Chính vì vậy, nó đã khắc phục được những hạn
chế của phép biện chứng chất phác thời cổ đại và những thiếu sót của phép biện
chứng duy tâm thời cận đại. Nó là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của
thế giới thành các nguyên lí, quy luật khoa học nhằm xây dựng phương pháp luận
khoa học. Với ý nghĩa như vậy, phép biện chứng thuộc về biện chứng chủ quan.
Nó cũng đối lập với phép siêu hình - phương pháp tư duy về sự vật, hiện tượng của
thế giới trong trạng thái tĩnh tại, cô lập, tách rời.
2. Phép biện chứng về phủ định
2.1. Khái niệm
Trong đời sống hàng ngày, phủ định được biểu hiện qua từ “không”, nghĩa là bác
bỏ một điều gì đấy. Còn theo triết học, khái niệm phủ định dùng để chỉ sự thay thế
sự vật này bằng sự vật khác, giai đoạn vận động, phát triển này bằng giai đoạn vận
động, phát triển khác. Theo nghĩa đó, không phải bất cứ sự phủ định nào cũng dẫn
tới quá trình phát triển.
Triết học Mác - Lênin, hay chủ nghĩa duy vật biện chứng, cho rằng sự chuyển hóa
từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất, sự đấu tranh thường
6
xuyên của các mặt đối lập làm cho mâu thuẫn được giải quyết, từ đó dẫn đến sự vật
cũ mất đi, sự vật mới hình thành dựa trên cơ sở của sự vật cũ. Sự thay thế liên tục
như vậy tạo nên khuynh hướng vận động và phát triển không ngừng của sự vật. Sự
thay thế đó cũng biểu hiện cho sự phủ định. Điều đó có nghĩa là sự phủ định là tiền
đề, cơ sở , điều kiện cho sự phát triển liên tục, cho sự ra đời của cái mới ra đời thay
thế cái cũ. Đó là phủ định biện chứng. Phủ định biện chứng là khái niệm dùng để
chỉ sự phủ định làm tiền đề, tạo điều kiện cho sự phát triển. Phủ định biện chứng
làm cho sự vật, hiện tượng mới ra đời thay thế sự vật, hiện tượng cũ và là yếu tố
liên hệ giữa sự vật, hiện tượng cũ với sự vật, hiện tượng mới. Phủ định biện chứng
là tự phủ định, tự phát triển của sự vật, hiện tượng; là “mắt xích” trong “sợi dây
chuyền” dẫn đến sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới, tiến bộ hơn so với sự vật,
hiện tượng cũ.
2.2. Các đặc trưng cơ bản
Phủ định biện chứng có hai đặc trưng cơ bản đó là: tính khách quan và và tính kế
thừa.
Thứ nhất, phủ định biện chứng có tính khách quan vì lý do của sự phủ định nằm
ngay trong bản thân sự vật. Đó là kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn bên trong
sự vật. Nhờ đó, sự vật luôn phát triển, tạo khả năng ra đời của cái mới thay thế cái
cũ. Vì thế, phủ định biện chứng là một yếu tố tất yếu khách quan trong quá trình
vận động, phát triển của sự vật. Tuy nhiên, mỗi sự vật có một phương thức phủ
định riêng tùy thuộc vào những thuộc tính và cách giải quyết mâu thuẫn của bản
thân sự vật. Điều này đồng nghĩa với việc phủ định biện chứng không phụ thuộc
vào ý muốn hay nguyện vọng của con người. Con người chỉ có thể tác động làm
cho quá trình phủ định ấy diễn ra nhanh hay chậm trên cơ sở nắm vững quy luật
phát triển của sự vật. Vì vậy, phủ định biện chứng cũng chính là sự tự thân phủ
định.
Thứ hai, phủ định biện chứng là kết quả của sự phát triển tự thân của sự vật, nên nó
không thể là sự thủ tiêu, sự phá hủy hoàn toàn cái cũ, mà là sự phủ định có kế thừa.
7
Cái mới chỉ có thể ra đời trên cơ sở cái cũ, phát triển tiếp tục của cái cũ trên cơ sở
xóa bỏ những mặt tiêu cực, lỗi thời của cái cũ và chọn lọc, giữ lại cải tạo những
khía cạnh còn thích hợp, những mặt tích cực, đồng thời cũng bổ sung những mặt
mới phù hợp với hiện thực. Trong quá trình phủ định biện chứng, sự vật lại khẳng
định lại những mặt tốt, những mặt tích cực và chỉ phủ định cái lạc hậu, tiêu cực. Do
đó, phủ định đồng thời cũng là khẳng định. Diễn đạt tư tưởng đó, V.I.Lênin viết:
“Không phải sự phủ định sạch trơn, không phải sự phủ định không suy nghĩ, không
phải sự phủ định hoài nghi, không phải sự do dự, cũng không phải sự nghi ngờ là
cái đặc trưng và cái bản chất trong phép biện chứng,... mà là sự phủ định coi như
là vòng khâu của liên hệ, vòng khâu của sự phát triển, với sự duy trì cái khẳng
định”.
Qua những phân tích trên, phủ định biện chứng không chỉ là nhân tố khắc phục cái
cũ, sự vật cũ mà còn là sự liên kết giữa cái cũ với cái mới, giữ quá khứ với hiện tại,
giữa sự khẳng định với sự phủ định. Vì vậy, phủ định biện chứng trở thành mắt
khâu, khuynh hướng tất yếu của mối liên hệ và sự phát triển.
2.3. Quy luật phủ định của phủ định
Sự phủ định biện chứng diễn ra trong quá trình vận động của sự vật là sự thống
nhất giữa lọc bỏ, bảo tồn những nhân tố tích cực cũ và bổ sung thêm những nhân tố
tích cực mới. Thông qua những lần phủ định biện chứng sự vật sẽ ngày càng phát
triển. Đồng thời, phủ định biện chứng còn làm xuất hiện sự vật mới qua nhiều lần
phủ định, với tư cách là kết quả của phủ định của phủ định có nội dung hoàn thiện
hơn, đa dạng hơn, có cái khẳng định ban đầu và kết quả của lần phủ định thứ nhất.
Kết quả của sự phủ định của phủ định là điểm kết thúc của một chu kỳ phát triển và
cũng là điểm khởi đầu của chu kì phát triển tiếp theo.
Xu hướng phát triển tất yếu của quy luật phủ định của phủ định là xu hướng đi lên,
tiên lên. Tuy nhiên, sự phát triển đó không phải diễn ra theo con đường thẳng mà
theo đường “xoắn ốc”. Mỗi vòng của đường “xoắn ốc” như thể hiện sự lặp lại của

8
hình thái sự vật cũ nhưng ở một trình độ cao hơn. Từ những phân tích trên, Quy
luật phủ định của phủ định được rút ra như sau:
“ Quy luật phủ định của phủ định nêu lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa cái khẳng
định và cái phủ định, nhờ đó phủ định biện chứng là điều kiện cho sự phát triển,
bảo tồn nội dung tích cực của các giai đoạn trước và bổ sung thêm những thuộc
tính mới làm cho sự phát triển đi lên theo đường xoắn ốc.”
2.4. Ý nghĩa phương pháp luận của phép biện chứng về phủ định
Phép biện chứng về phủ định, mà cụ thể ở đây là quy luật phủ định của phủ định là
cơ sở để chúng ta nhận thức một cách đúng đắn nhất xu hướng vận động và phát
triển của mọi sự vật, hiện tượng trong cuộc sống.
Thứ nhất, quy luật này chỉ ra khuynh hướng tiến lên của sự vận động của sự vật,
hiện tượng; sự thống nhất giữa tính tiến bộ và tính kế thừa của sự phát triển; sau khi
đã trải qua các mắt xích chuyển hóa, có thể xác định được kết quả cuối cùng của sự
phát triển.
Thứ hai, quy luật này giúp nhận thức đúng về xu hướng của sự phát triển, đó là quá
trình diễn ra quanh co, phức tạp, không hề đều đặn thẳng tắp, không va vấp, không
có những bước thụt lùi.
Thứ ba, quy luật này giúp nhận thức đầy đủ hơn về sự vật, hiện tượng mới, ra đời
phù hợp với quy luật phát triển, biểu hiện giai đoạn cao về chất trong sự phát triển.
Trong tự nhiên, sự xuất hiện của sự vật, hiện tượng mới diễn ra tự phát; nhưng
trong xã hội, sự xuất hiện mới đó gắn với việc nhận thức và hành động có ý thức
của con người.
Thứ tư, tuy sự vật, hiện tượng mới thắng sự vật, hiện tượng cũ, nhưng trong thời
gian nào đó, sự vật, hiện tượng cũ còn mạnh hơn; vì vậy, cần ủng hộ sự vật, hiện
tượng mới, tạo điều kiện cho nó phát triển hợp quy luật; biết kế thừa có chọn lọc
những yếu tố tích cực và hợp lý của sự vật, hiện tượng cũ làm cho nó phù hợp với
xu thế vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng mới.

9
II. VẬN DỤNG PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ PHỦ ĐỊNH TRONG VIỆC KẾ
THỪA VÀ PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO CÁC GIÁ TRỊ TRUYỀN
THỐNG TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HOÁ VIỆT NAM

1. Các giá trị truyền thống


1.1. Khái niệm
Thuật ngữ “giá trị” đã xuất hiện từ lâu và hiện nay vẫn đang được sử dụng trong
nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, với nhiều phương diện khác nhau, được hiểu khá
thống nhất là: “Giá trị là những điều có ý nghĩa, thỏa mãn cảm xúc, nhu cầu, ý chí
và mục đích của con người. Đến lượt mình, giá trị biểu hiện là các chuẩn mực, các
nguyên tắc tương đối ổn định của con người của xã hội”. Nói đến giá trị xã hội là
nói đến sự thừa nhận là cái tốt đẹp, cái tích cực đối với sự phát triển của cộng đồng
của các thành viên trong xã hội.
Truyền thống, theo nghĩa chung được hiểu là những hiện tượng văn hóa – xã hội,
bao gồm tư tưởng tình cảm, tập quán, thói quen, phong tục, lối sống, cách ứng xử
được hình thành trong những điều kiện lịch sử nhất định, được bảo tồn qua năm
tháng trong đời sống vật chất và tinh thần của các cộng đồng xã hội khác nhau và
có thể chuyển giao từ thế hệ này qua thế hệ khác. Khi điều kiện lịch sử thay đổi,
truyền thống cũng có những chuyển biến nhất định chứ không phải là bất biến, vĩnh
cửu trong mọi thời đại. Dựa trên quan điểm biện chứng, truyền thống có hai mặt,
một mặt tích cực và một mặt tiêu cực. Mặt tích cực bao gồm những yếu tố tiến bộ,
phù hợp với sự phát triển của xã hội, góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Còn mặt tiêu cực, điều này được biểu hiện qua sự bảo thủ, lạc hậu, ảnh hưởng xấu

10
đến sự phát triển chung của xã hội. Hai mặt mâu thuẫn đó cùng tồn tại song song
trong truyền thống, đôi khi còn đan xen lẫn nhau.
Khi nói đến giá trị truyền thống là muốn nói tới các truyền thống tốt đẹp, tích cực,
tiêu biểu cho một nền văn hóa được chắt lọc, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác và đó là những gì cần phải bảo vệ và phát triển. Một giá trị khi trở thành giá
trị truyền thống thì đã bao hàm trong nó ý nghĩa lâu dài, hoặc cũng có thể nói, một
giá trị xét về mặt thời gian là bền vững thì tự thân nó đã mang ý nghĩa là giá trị
truyền thống. Theo GS. Trần Văn Giàu (1987), giá trị truyền thống hay giá trị văn
hóa là “Những nguyên lí đạo đức lớn mà con người trong nước thuộc các thời đại,
các giai đoạn lịch sử dựa vào để phân biệt phải trái, nhận định nên chẳng, nhằm xây
dựng độc lập, tự do và tiến bộ của dân tộc đó”. Theo cách hiểu này, Giá trị văn hóa
truyền thống là các giá trị tốt đẹp, phân biệt với các phong tục, tập quán xấu.
1.2. Các giá trị truyền thống của Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia giàu giá trị truyền thống, gồm nhiều những thói quen, lối
sống, tinh thần tích cực được hình thành từ xa xưa.
Đáng quý, đáng trân trọng nhất phải kể đến truyền thống yêu nước của dân tộc Việt
Nam. Từ khi Tổ quốc bị xâm lăng cho đến thời kháng chiến chống Thực dân Pháp
và Đế quốc Mỹ, tinh thần yêu nước của cả dân tộc như một vũ khí mạnh mẽ, có sức
mạnh vô song. Bên cạnh đó, tinh thần đoàn kết cũng là một giá trị truyền thống lâu
đời, mang đậm bản sắc văn hóa người Việt. Mỗi khi đất nước gặp thiên tai, dịch
bệnh, tinh thần đoàn kết lại trỗi dậy một cách mạnh mẽ. Trên khắp đất nước quyên
góp tiền, hiện vật, giúp đỡ bà con sửa sang lại nhà cửa, khắc phục hậu quả sau thiên
tai. COVID-19, lũ lụt miền Trung không làm giảm đi tinh thần đoàn kết của đồng
bào Việt Nam. Cuối cùng phải kể đến truyền thống của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
cũng như thế hệ trẻ Việt Nam. Sức trẻ, sự nhiệt huyết của họ là một truyền thống
quý báu, lan tỏa đến toàn dân tộc.
1.3. Những thách thức đặt ra cho những giá trị truyền thống trong quá trình hội
nhập văn hóa thế giới
11
Trong dòng chảy của lịch sử, toàn cầu hóa như một quá trình tất yếu. Những biến
đổi về xã hội, văn hóa phần nào chịu tác động của xu hướng hội nhập. Ngày nay,
quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ đang làm nhiều giá trị tinh thần nói chung,
giá trị đạo đức nói riêng chao đảo. Đặc biệt, một số giá trị đạo9 đức tốt đẹp, thiêng
liêng… vốn có vị trí quan trọng trong hệ giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc
Việt Nam đang có nguy cơ bị mai một và tha hoá. Chẳng hạn, lối sống tình nghĩa,
đậm chất nhân văn kiểu “thương người như thể thương thân”, “tối lửa tắt đèn có
nhau”… vốn là một trong những giá trị đạo đức truyền thống của nền văn hóa làng
xã Việt Nam đã từng tồn tại hàng ngàn năm nay đang bị mai một, mờ nhạt dần. Ở
không ít nơi, cả thành thị lẫn nông thôn, một bộ phận dân cư đã chịu ảnh hưởng của
lối sống ích kỷ, hẹp hòi, lấy lối sống theo kiểu “đèn nhà ai nấy rạng” thay cho lối
sống rất “con người” trước đây. Không phải ngẫu nhiên mà có ý kiến cho rằng, đạo
đức ở một bộ phận nhân dân, đặc biệt là ở tầng lớp thanh, thiếu niên đang có xu
hướng "trượt dốc". Đây thực sự là những tín hiệu “báo động đỏ” trong đời sống đạo
đức ở nước ta hiện nay.
Trong một vài thập kỷ gần đây, những lối sống xa lạ, trái với thuần phong mỹ tục
của dân tộc đã xuất hiện trong đời sống xã hội, từ thành phố cho đến những vùng
nông thôn. Một bộ phận lớp trẻ hiện nay có tâm lý sống buông thả, quay lưng lại
với văn hóa, giá trị đạo đức truyền thống. Họ không thích hoặc thờ ơ với các bản
nhạc, bài ca cách mạng, không quan tâm đến các hình thức nghệ thuật, các dòng
dân ca truyền thống; trái lại, tán dương và cổ vũ cho những bài hát có nhịp điệu
mạnh, như Rock, Rap hoặc những bài hát có nội dung nhạt nhẽo. Cùng với sự phát
triển của các phương tiện thông tin đại chúng, trên các mạng thông tin toàn cầu liên
tục tuyên truyền các hình ảnh, tin tức, ấn phẩm độc hại, không phù hợp với truyền
thống văn hóa dân tộc. Điều này đã làm gia tăng tình trạng phạm tội ở một bộ phận
giới trẻ hiện nay.
Từ thực trạng đã phân tích trên đây cho chúng ta thấy rằng, xu thế toàn cầu hóa
đang tác động đến những giá trị văn hoá, đạo đức truyền thống của dân tộc Việt
12
Nam cả theo hướng tích cực lẫn tiêu cực. Một mặt, nó "góp phần nâng cao trình độ
tư duy khoa học của xã hội công nghiệp, thể hiện ở việc phổ biến các giá trị văn
hóa công nghệ, văn hóa thông tin cùng các hoạt động và loại hình văn hóa mới
phục vụ cho việc nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân" và qua đó, góp phần
làm giàu thêm, phong phú thêm các giá trị văn hoá Việt Nam truyền thống. Mặt
khác, nó cũng đang đặt ra trước dân tộc ta những thách thức lớn trong việc giữ gìn
và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống. Vấn đề đạo đức xã hội đang diễn ra
phức tạp, các bậc thang giá trị có phần bị đảo lộn; tinh thần đấu tranh giữa cái thiện
và cái ác, cái tiến bộ và cái lạc hậu, cái đúng và cái sai lại ít được đề cao. Do vậy,
mỗi dân tộc cần bảo vệ, duy trì và phát triển các giá trị truyền thống, làm điểm tựa
để sáng tạo các giá trị truyền thống mới và là cơ sở để giao lưu văn hóa quốc tế.
Chính vì thế, giá trị truyền thống luôn có tính bền vững; trở thành những nguyên lý
đạo đức lớn mà dân tộc đó phải dựa vào để liên kết xã hội, tạo nên sức mạnh nhằm
xây dựng và bảo vệ đất nước vì sự tiến bộ của con người và xã hội; là chỗ dựa đáng
tin cậy và là điểm tựa vững chắc cho một dân tộc trong quá trình vận động lịch sử ở
hiện tại cũng như tương lai. Vì vậy, kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống có
vai trò rất quan trọng trong việc phát triển nền văn hóa nói chung và xây dựng lối
sống nói riêng. Tuy nhiên, đặt vấn đề kế thừa và phát huy giá trị truyền thống
không phải để chép lại giản đơn những việc xưa mà bàn về vấn đề tác dụng của nó
đối với hiện tại cũng như tương lai của một dân tộc.
2. Vai trò của phép biện chứng của phủ định trong việc gìn giữ và phát huy
truyền thống văn hóa Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay
2.1. Thời cơ và thách thức của toàn cầu hóa đối với việc xây dựng hệ giá trị
truyền thống Việt Nam
Toàn cầu hóa đã, đang và sẽ là một xu thế khách quan mà không một quốc gia nào
có thể tách ra khỏi quá trình đó. Trong bối cảnh hội nhập năng động ấy, chúng ta
phải chủ động cống hiến những giá trị văn hóa đặc sắc của mình như thế nào vào
kho tàng văn hóa chung, tiếp như những giá trị nào của văn hóa cộng đồng? Biện
13
chứng giữa “cho” và “nhận” được thể hiện thế nào trong hội nhập quốc tế về giá trị
văn hóa truyền thống là vấn đề đang được đặt ra. Toàn cầu hóa đang đem đến cho
chúng ta những cơ hội vàng cho sự phát triển cũng như những thách thức không
nhỏ cho mọi quốc gia nói chung trong đó có Việt Nam.
Về cơ hội, quá trình giao lưu, trao đổi, hội nhập và cả đấu tranh một cách tự nhiên
giữa các nền văn hóa là điều kiện giao lưu, truyền bá, lan tỏa những giá trị văn hóa
giữa các quốc gia với nhau. Khi một giá trị riêng của mỗi dân tộc gia nhập vào
những giá trị chung của nhân loại sẽ làm giàu thêm, đa dạng thêm giá trị chung của
nhân loại cũng như tạo nên những giá trị mới mang tính nhân loại thống nhất. Từ
những giá trị chung đó, các nền văn hóa dân tộc trên thế giới có sự giao nhau về giá
trị văn hóa, tạo điều kiện giao lưu văn hóa giữa các dân tộc, thúc đẩy mạnh mẽ các
hoạt động giao lưu văn hóa và hội nhập quốc tế. Đồng thời trong quá trình vun đắp
thêm giá trị chung của nhân loại, sức mạnh văn hóa vốn có của mỗi quốc gia tiếp
tục được làm giàu, khẳng định và bền vững.
Bên cạnh những cơ hội, mặt tích cực mà toàn cầu hóa đem lại mọi quốc gia nói
chung và giá trị văn hóa dân tộc nói riêng, toàn cầu hóa còn đặt ra những những
thách thức to lớn đối với việc lựa chọn, xây dựng giá trị tinh thần dân tộc. một
trong những mặt trái ảnh hưởng của toàn cầu hóa là hiện tượng áp đặt văn hóa, tư
tưởng của các nước lớn lên các quốc gia khác trên phạm vi toàn cầu. Mặc dù toàn
cầu hóa là một xu thế khách quan, nhưng sự lan tỏa toàn cầu của những nội dung,
giá trị đều đặn dưới sự tác động của ý thức con người lại gắn liền với quyền lợi
quốc gia, lợi ích giai cấp,... Mặt khác, sự phát triển của nền kinh tế thị trường trong
bối cảnh toàn cầu hóa vô hình chung đẩy việc giáo dục đạo đức, văn hóa về sau
giáo dục kiến thức khoa học. Điều này đãng dẫn tới hệ lụy hình thành tâm lý coi
trọng vật chất tầm thường, làm thay đổi quan niệm của không ít người, đặc biệt là
thế hệ trẻ về giá trị. Lối sống chuyển đổi một cách tiêu cực, phong tục tập quán, các
giá trị truyền thống bị lãng quên là những dấu hiệu của nguy cơ đồng hóa văn hóa.
Thêm vào đó, sự thờ ơ, đi ngược lại với giá trị văn hóa vốn có, không định hướng
14
tương lai… đang là hiện tượng xuất hiện trong một bộ phận người ở xã hội Việt
Nam.
2.2. Thực trạng việc kế thừa gìn giữ và phát huy truyền thống văn hóa Việt Nam
trong bối cảnh toàn cầu hóa những năm gần đây
Tính kế thừa là một trong những đặc trưng cơ bản tất yếu của phép phủ định biện
chứng. Do đó, tính kế thừa không những là quy luật phát triển tất yếu của sự vật mà
còn là sợi dây liên kết bền vững giữa cái cũ và cái mới, giữa sự vật cũ và sự vật
mới. Quá trình đấu tranh giữa hình thái cũ và hình thái mới, sự vật cũ và sự vật mới
vừa diễn ra sự lọc bỏ và giữ lại những “hạt nhân hợp lý”, vừa bổ sung, phát triển và
tạo ra các giá trị mới đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thế giới.
Thấu hiểu được tầm quan trọng của việc vận dụng tính kế thừa của phép phủ định
về biện chứng vào trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước nói chung và
những giá trị văn hóa truyền thống nói riêng, Đảng Cộng sản Việt Nam từ lúc ra
đời đến nay, trong quá trình lãnh đạo đất nước đã luôn kế thừa, tiếp thu có chọn lọc
những giá trị văn hóa truyền thống quý báu của dân tộc và giá trị văn hóa thế giới.
Những thành tựu cũng như yếu kém, bất cập trong phát triển giá trị văn hóa đã
phần nào phản ánh được đường lối đúng đắn và những mặt còn hạn chế của Đảng
ta trong việc khai thác, kế thừa, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân
tộc.
2.2.1. Những thành tựu và hạn chế đã đạt được trong quá trình vận dụng phép biện
chứng phủ định của phủ định vào việc kế thừa và phát huy những giá trị văn
hóa của dân tộc:
Sau hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới và phát triển đất nước, dân tộc ta đã
có những thành tựu quan trọng, chuyển biến tích cực trong sự nghiệp xây dựng và
phát triển nền văn hóa.
Nhận thức về vai trò giá trị của văn hóa dân tộc của các cấp, các ngành và toàn dân
được nâng lên. Tạo điều kiện phát triển những tư duy lý luận về văn hóa, từ đó
ngày càng có nhiều những công trình nghiên cứu, vấn đề bàn luận xoay quanh chủ
15
đề về giá trị văn hóa trong đời sống hằng ngày. Đời sống văn hóa nói chung của
nhân dân ngày càng phong phú, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc
được phát huy, nhiều chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới được hình thành. Văn hóa
đã góp phần quan trọng nâng cao dân trí, dân chủ hóa đời sống xã hội, nâng cao
tính năng động sáng tạo, tự chủ và tính tích cực xã hội của con người, hình thành
các nhân tố mới, giá trị mới của con người Việt Nam.
Chính vì vị thế của văn hóa trong đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, nên
các sản phẩm văn hóa, văn học nghệ thuật ngày càng phong phú, đa dạng, vừa thừa
hưởng được những mặt tích cực, nét đẹp của truyền thống cũ, vừa được tiếp thu
những văn hóa mới thế giới. Tất cả tạo nên một chỉnh thể hài hòa, là chỉnh thể mới
được sinh ra từ quá trình phủ định chỉnh thể cũ (là các giá trị, sản phẩm văn hóa).
Điều này cũng góp phần giúp cho văn hóa của nước ta được quảng bá và “hòa nhập
nhưng không hòa tan” trong nền văn hóa chung nhân loại.
Bên cạnh đó, việc ứng dụng công nghệ thông tin, nhất là thông tin đại chúng vào
việc quảng bá và khẳng định vị trí nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc cũng có
những bước phát triển mạnh mẽ. Nhiều phong trào, hoạt động văn hóa đạt được
những kết quả cụ thể, thiết thực, được các bạn bè thế giới biết đến và quan tâm
nhiều hơn. Việc phát huy được truyền thống văn hóa gia đình, dòng họ, cộng đồng
ngay trong chính đời sống nhân dân cũng được chú trọng bồi dưỡng, nhằm nâng
cao, phát huy những hệ giá trị tinh thần đã đi cùng với dân tộc từ những ngày đầu
dựng nước (tinh thần đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau; tinh thần yêu nước; đức tính cần
cù, chăm chỉ;...) Xã hội hóa hoạt động văn hóa ngày càng được mở rộng, góp phần
đáng kể vào việc xây dựng các thiết chế văn hóa. Nhiều di sản văn hóa vật thể và
phi vật thể được bảo tồn, tôn tạo, nhiều phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc
thiểu số được nghiên cứu, sưu tầm và phục dựng, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và
sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân được quan tâm và tạo điều kiện phát triển.
Giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa có nhiều khởi sắc trong thời kì hội nhập
mạnh mẽ. Nhiều chiến dịch, chương trình truyền bá giá trị văn hóa truyền thống ra
16
thế giới được triển khai và gặt hái được những thành quả, hiệu ứng nhất định.
Trong nhiều diễn đàn văn hóa, hay chương trình giao lưu giữa các nền văn hóa,
Việt Nam đã dần trở nên nổi bật, khẳng định vị trí riêng của nền văn hóa đậm đà
bản sắc dân tộc trong mắt các bạn bè thế giới.
Ngoài những thành tựu quan trọng đã thành công gặt hái được trong việc kế thừa,
khai thác và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc thì vẫn còn đó những
hạn chế, yếu kém mà Đảng và nhà nước ta chưa giải quyết được. Điều này có phần
ảnh hưởng đến việc phát triển bền vững và sâu sắc một nền văn hóa đậm đà bản sắc
nói riêng và công cuộc xây dựng đất nước nói chung. So với những thành tựu trên
lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thành tựu trong lĩnh vực
văn hóa chưa tương xứng, chưa đủ để tác động có hiệu quả xây dựng con người và
môi trường văn hóa lành mạnh. Dẫn đến tình trạng đời sống văn hóa tinh thần ở
nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu điển hình là những vùng công nghiệp hóa, các
khu đô thị lớn, kinh tế phát triển. Chưa dừng lại ở đó, khoảng cách hưởng thụ
những giá trị văn hóa chung của đất nước nói riêng và giá trị nhân loại nói chung
còn khá chênh lệch. Văn hóa giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị và trong
các tầng lớp nhân dân chậm được rút ngắn, cải thiện tốt hơn, khiến cho tình trạng
nhiều văn hóa riêng của người miền núi vẫn còn tồn đọng những tư tưởng lạc hậu,
lỗi thời, những hủ tục cần gạt bỏ. Môi trường văn hóa còn tồn tại tình trạng xao
lãng, thờ ơ hoặc thậm chí là những biểu hiện thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với
thuần phong mỹ tục, giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Chưa kể đến
xu hướng hướng ngoại, tư tưởng sùng bái nước ngoài của một bộ phận không nhỏ
những người dân Việt Nam hiện nay, trong đó có tầng lớp thanh niên mà điển hình
là sinh viên. Vốn là những người trẻ tuổi và chưa có lập trường vững chắc nên khi
lớn lên trong bối cảnh toàn cầu hóa, sinh viên rất dễ bị ảnh hưởng bởi những phi
giá trị và xa rời các giá trị văn hóa truyền thống. Những tác phẩm văn học, nghệ
thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật còn hạn chế. Xuất hiện một số tác
phẩm chạy theo thị hiếu tầm thường, chất lượng thấp, thậm chí có hại, lan tỏa
17
những giá trị văn hóa lệch lạc. Ngoài ra, các hoạt động nghiên cứu chuyên sâu về
văn hóa như hoạt động lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật chưa theo kịp thực
tiễn sáng tác và tình hình văn hóa hiện thời của dân tộc. Việc bảo tồn, phát huy giá
trị di sản văn hóa hiệu quả chưa cao, nguy cơ mai một chưa được ngăn chặn. Hệ
thống thông tin đại chúng phát triển thiếu quy hoạch khoa học, gây lãng phí nguồn
lực và quản lý không theo kịp sự phát triển. Một số cơ quan truyền thông có biểu
hiện thương mại hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích . Cơ chế, chính sách về kinh tế trong
văn hóa, văn hóa trong kinh tế, về huy động, quản lý các nguồn lực cho văn hóa
chưa cụ thể, rõ ràng. Hệ thống thiết chế văn hóa và cơ sở vật chất, kỹ thuật cho
hoạt động văn hóa còn thiếu và yếu, có nơi xuống cấp, thiếu đồng bộ, hiệu quả sử
dụng thấp. Tình trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản
phẩm văn hóa nước ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ
phận nhân dân, nhất là lớp trẻ.
Hiểu được những hạn chế, điểm yếu kém còn sót lại trong việc khai thác, kế thừa
và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống vào công cuộc đổi mới đất nước,
Đảng và nhà nước ta đã truy ngược về nguyên nhân của những hạn chế đó. Từ đó,
rút ra được một số nguyên nhân như sau:
Nhiều cấp ủy, chính quyền chưa quan tâm đầy đủ, còn sơ sài đến lĩnh vực văn hóa.
Dẫn đến tình trạng lãnh đạo, chỉ đạo chưa thật quyết liệt, hiệu quả. Việc cụ thể hóa,
thể chế hóa Nghị quyết của Đảng còn chậm, thiếu đồng bộ và trong một số trường
hợp thiếu khả thi. Ngoài ra, công tác quản lý nhà nước về văn hóa chậm được đổi
mới, có lúc, có nơi bị xem nhẹ, thậm chí buông lỏng; kỷ luật, kỷ cương không
nghiêm. Đồng thời, Đảng và nhà nước chưa quan tâm đúng mức công tác đào tạo,
bồi dưỡng nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, nhất là đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý các cấp.
Đất nước đang chuyển mình trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đặc
biệt là toàn cầu hóa. Chính vì toàn cầu hóa là một xu thế tất yếu của thời đại nên xu
thế ấy đã, đang và sẽ mang đến những cơ hội, thuận lợi không nhỏ cho mỗi quốc
18
gia trong đó có Việt Nam, bên cạnh đó cũng đặt ra những thách thức và tiềm ẩn
trong đó những nguy cơ. Một trong số những cơ hội và thách thức đó liên quan đến
việc giữ gìn và làm giàu thêm giá trị văn hóa, bản sắc dân tộc. Vì vậy, nhiệm vụ giữ
gìn và phát huy các giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ dân tộc thời kỳ mới càng trở nên cấp thiết và nặng nề hơn bao giờ
hết.
2.2.2. Vai trò của phép biện chứng phủ định của phủ định trong việc kế thừa, và phát
triển truyền thống văn hóa dân tộc ta hiện nay:
Kế thừa những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc ta trong bối cảnh toàn cầu
hóa hiện nay chính là quá trình diễn ra sự lọc bỏ cái cũ, cái lạc hậu, sự giữ lại cái
phù hợp, tích cực và sự bổ sung những cái mới “hạt nhân hợp lý” để tạo nên một
hình thái chứa đựng những giá trị văn hóa thuần phong mỹ tục nhưng cũng hợp với
thời đại hội nhập. Mà hình thái đó cũng chính là sự phủ định của hình thái cũ. Sự
kế thừa đó không phải là phủ định sạch trơn truyền thống văn hóa cũ, càng không
phải bê nguyên xi hòa toàn truyền thống văn hóa mà là sự kế thừa có chọn lọc, tức
là chỉ giữ lại những yếu tố tích cực, tiến bộ, đồng thời loại bỏ những yếu tố tiêu
cực, lỗi thời, lạc hậu trong truyền thống văn hóa. Ngoài ra, cần tích cực tiếp thu
thêm các giá trị mới, bảo đảm cho sự phát triển của hệ thống các giá trị văn hóa dân
tộc luôn là một con đường “xoắn ốc” đi lên, liên tục, không đứt đoạn. Các giá trị
mới không phải hoàn toàn tách rời giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, tinh
hoa của nhân loại, càng không phải do ý muốn chủ quan, mà nó được hình thành
trong sự kế thừa biện chứng, trong sự tiếp nối hợp logic các giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc qua hàng nghìn năm lịch sử. Trong đó, các giá trị văn hóa truyền
thống cần phải được bảo tồn và phát huy trong những giá trị văn hóa hiện đại và
ngược lại, những giá trị văn hóa hiện đại phải dựa trên nền các giá trị văn hóa
truyền thống, lấy nó làm điểm tựa để phát triển.
Trong quá trình kế thừa và tiếp thu các giá trị văn hóa truyền thống, các khách thể
nghiên cứu cần có thái độ, khách quan, nhìn nhận toàn diện các mặt vấn đề giữ gìn
19
truyền thống văn hóa dân tộc. Chủ động trong việc nghiên cứu, tìm hiểu một cách
sâu sắc các hệ tinh thần thông qua điều tra, khảo sát, đánh giá một cách có hệ
thống, đồng bộ để giữ gìn những truyền thống văn hóa tích cực, bền vững, còn tiến
bộ. Kiên quyết loại bỏ những cái lỗi thời, lạc hậu của truyền thống văn hóa làm cản
trở quá trình kế thừa và tiếp thu những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Bên cạnh
đó, có những hệ giá trị tinh thần bền vững, mang tính lâu dài và là điểm tựa để Việt
Nam phát triển đi lên, điển hình như: lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, lòng nhân
ái, … Những giá trị tốt đẹp đó cần được giữ gìn, kế thừa và phát huy mãi về sau.
Kế thừa những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc ta trong bối cảnh toàn cầu
hóa hiện nay cần phải tránh những khuynh hướng sai lầm, lạc hậu, tiêu cực, đó là:
Khuynh hướng bảo thủ và khuynh hướng phủ định sạch trơn đối với truyền thống
văn hóa của dân tộc. Hậu quả của khuynh hướng phủ định sạch trơn là nhiều giá trị
văn hóa truyền thống và thuần phong mỹ tục của dân tộc bị xóa bỏ hay lãng quên;
nhiều di tích lịch sử, văn hóa bị tàn phá nặng nề hoặc xuống cấp nghiêm trọng.
Khuynh hướng phủ định sạch trơn này đã từng diễn ra trong những cuộc cách mạng
tư tưởng và văn hóa lệch lạc thời phong kiến. Khuynh hướng bảo thủ thực chất là
khuynh hướng đề cao, tuyệt đối hóa những giá trị văn hóa truyền thống dân tộc; coi
truyền thống văn hóa là cái bất biến, không thể thay đổi vậy nên cần phải kế thừa y
nguyên , không cần loại bỏ cũng như không cần bổ sung thêm bất cứ giá trị nào. Từ
đó dẫn đến những hậu quả là “đóng cửa”, không giao du, tiếp nhận những giá trị
văn hóa bên ngoài, làm trì trệ sự phát triển của những lĩnh vực khác, dẫn đến tình
trạng lạc hậu, biệt lập với thế giới bên ngoài. Khuynh hướng này cũng đã từng diễn
ra trong thời Nhà Nguyễn và đã để lại những hậu quả nặng nề cho đất nước. Kế
thừa và làm giàu thêm các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc phải luôn gắn liền
với quá trình mở rộng ngoại giao, tiếp thu những giá trị văn hóa của các dân tộc
khác trên thế giới. Hiện nay, trong bối cảnh nhộn nhịp của xu hướng toàn cầu hóa,
cùng với đó là công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đang đi vào chiều sâu, nên
việc mở rộng giao lưu và tiếp biến với những giá trị văn hóa của các dân tộc khác
20
trên thế giới được đặt ra như một tất yếu. Thông qua đó, truyền thống văn hóa của
dân tộc được truyền bá ra bên ngoài, được tiếp xúc nhiều hơn với các nền văn hóa
khác để học hỏi, trao đổi, so sánh, tiếp nhận, tiếp biến, làm phong phú thêm truyền
thống văn hóa của dân tộc.

KẾT LUẬN
Trong thời đại ngày nay, thời đại mà đất nước ta đang hội nhập sâu rộng vào kinh
tế khu vực và quốc tế, đó là cơ hội cho Việt Nam phát triển mọi mặt về kinh tế,
cũng như giao lưu và tiếp thu những nền văn hóa trên thế giới, đồng thời cũng là
thách thức không nhỏ cho việc giữ gìn các giá trị truyền thống của dân tộc. Vấn đề
đặt ra là làm thế nào để vẫn hội nhập vào xu thế phát triển của thế giới nhưng vẫn
giữ được cái riêng của dân tộc mình. Muốn làm được điều này phải có khả năng
phán đoán, phân biệt và đánh giá. Nhiệm vụ của chúng ta là không những không
được đánh mất đi những giá trị truyền thống tốt đẹp, mà còn phải giữ gìn, phát huy
và bổ sung những giá trị mới, khiến chúng trở thành sức mạnh đưa đất nước ta tiến
nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc trong thời kỳ hội nhập kinh tế. Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định rằng, chúng ta
chủ động hội nhập quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng
cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo
vệ môi trường.
Dưới góc nhìn của phương pháp luận phủ định biện chứng, chủ trương lớn nhất,
bao quát nhất để đối phó với những thách thức của hội nhập là "Xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc", làm cho văn hóa
thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình,
từng cộng đồng, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người. Chỉ trên cơ sở
21
có một nền văn hóa như vậy, xã hội ta mới có thể có nguồn lực nội sinh to lớn, để
từ đó có sức đề kháng, khả năng "miễn dịch" mạnh mẽ trước những yếu tố văn hóa
tiêu cực du nhập từ bên ngoài và nảy sinh ngay từ bên trong, từ mặt trái của nền
kinh tế thị trường.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Giáo trình "Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin", Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2010.
2. V.I.Lênin: "Toàn tập", Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981.
3. Từ điển chính trị vắn tắt, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1988.
4. Giáo trình triết học Mác-Lênin, GS.TS. Phạm Văn Đức.
5. Trần Văn Giàu, "Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam", Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980.
6. Giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc trước xu thế toàn cầu hoá, Văn hoá nghệ thuật
Việt Nam, http://vanhoanghethuat.vn/giu-gin-ban-sac-van-hoa-dan-toc-truoc-
xu-the-toan-cau-hoa.htm.
7. Bản sắc văn hoá dân tộc trước xu thế toàn cầu hoá và hội nhập, Báo Hà Tĩnh,
https://baohatinh.vn/khac/ban-sac-van-hoa-dan-toc-truoc-xu-the-toan-cau-hoa-
va-hoi-nhap/67150.htm.

22

You might also like