You are on page 1of 20

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


=====000=====

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ PHỦ ĐỊNH VÀ VẬN DỤNG PHÂN TÍCH


VIỆC KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO GIÁ TRỊ TRUYỀN
THỐNG TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HIỆN NAY

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Lê Minh Anh


Mã SV: 2113520002
Lớp: Anh 02-VJCC-Khóa 60
Lớp tín chỉ: TRI114E
Giảng viên hướng dẫn: TS Trần Huy Quang

Hà Nội - 10/2021
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.........................................................................................................................1

PHẦN I. TỔNG QUAN VỀ PHÉP BIỆN CHỨNG PHỦ ĐỊNH.........................................3

1.1. Khái niệm phủ định và phủ định biện chứng......................................................................3

1.2. Quy luật phủ định của phủ định.........................................................................................4

1.2.1. Phủ định của phủ định là gì?....................................................................................4

1.2.2. Hình thức “xoắn ốc” của sự phát triển.....................................................................5

1.2.3. Tiểu kết....................................................................................................................5

1.3. Ý nghĩa phương pháp luận.................................................................................................6

PHẦN 2. KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO CÁC GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG
TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA HIỆN NAY..........................................................7

2.1. Việt Nam và các giá trị truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa.....................................7

2.1.1. Giá trị truyền thống là gì?........................................................................................7

2.1.2. Giá trị truyền thống ở Việt Nam .............................................................................8

2.1.3. Các giá trị truyền thống Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa..............................9

2.2. Vai trò của phủ định biện chứng đối với công cuộc giữ gìn và phát huy sáng tạo giá trị
truyền thống Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa...............................................................10

2.2.1. Kế thừa giá trị truyền thống dân tộc ở nước ta hiện nay là quá trình thống nhất giữa
2 quá trình giữ lại và loại bỏ ...........................................................................................11

2.2.2. Kế thừa truyền thống văn hóa của dân tộc ở nước ta hiện nay là quá trình  bổ sung,
phát triển hơn nữa những “hạt nhân hợp lý” ...................................................................12

2.2.3. Kế thừa truyền thống văn hóa của dân tộc ở nước ta hiện nay gắn với quá  trình mở
rộng giao lưu và tiếp biến những giá trị văn hóa của các dân tộc khác trên  thế giới. .....13

2.2.4. Kế thừa truyền thống văn hóa của dân tộc ở nước ta hiện nay cần phải chống  hai
khuynh hướng sai lầm: khuynh hướng bảo thủ và khuynh hướng phủ định sạch  trơn ...15

2.3. Một số biện pháp để giữ gìn và phát huy sáng tạo các giá trị truyền thống......................16

TIẺU KẾT ............................................................................................................................16

KẾT LUẬN...........................................................................................................................17

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................18


LỜI MỞ ĐẦU

 Lý do chọn đề tài:

Có thể nói, toàn cầu hóa đã và đang trở thành xu hướng tất yếu của thế giới
hiện nay bởi quá trình này mang đến những đặc điểm nổi bật chưa từng có
trong lịch sử nhân loại cùng với những thành tựu nổi bật về khoa học kỹ thuật.
Trong quá trình đẩy mạnh hiện đại hóa và công nghiệp hóa để hoàn thiện nền
kinh tế thị trường, định hướng XHCN và hội nhập quốc tế mạnh mẽ, đất nước
ta cũng không ngoại lệ, cũng hòa mình vào dòng chảy quá trình toàn cầu hóa
ấy.

Việt Nam đã và đang không ngừng hội nhập, giao lưu với bạn bè quốc tế
bằng cách tham gia liên tiếp vào các tổ chức thế giới như ASEAN, WTO,
APEC... Cụ thể, năm 2020, khi các quốc gia bị "ngăn cách" với nhau vì
COVID-19, thì nước ta vẫn tiếp tục hội nhập quốc tế sâu rộng và mạnh mẽ hơn
khi có thêm 3 Hiệp định mậu dịch tự do (FTA) quan trọng, gồm Hiệp định
thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA), Hiệp định Đối tác
Kinh tế toàn diện khu vực RCEP và FTA với Vương Quốc Anh. Có thể thấy,
toàn cầu hóa ở Việt Nam được tiến hành một cách chủ động nhằm mục tiêu
hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước với phương châm đi tắt đón đầu, thu
hẹp khoảng cách so với các nước phát triển, tạo tiền đề cho quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội.

Tuy nhiên, đúng như học triết Mác đã thừa nhận về tính hai mặt của một
vấn đề, xu hướng toàn cầu hóa đã tạo nên nhiều ảnh hưởng, cả tích cực lẫn tiêu
cực, tới mọi lĩnh vực của đời sống con người. Nếu xét riêng trên khía cạnh văn
hóa, toàn cầu hóa, một mặt, là sự tiếp sức vô hạn; mặt khác lại là một sự chèn
ép, kéo lùi giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

Vậy: làm thế nào để gìn giữ, kế thừa và phát triển sáng tạo các giá trị truyền
thống trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay?

Đó là một câu hỏi mang tính thời đại. Một trong những hướng giải quyết là dựa
vào phương pháp luận phủ định biện chứng dựa theo học thuyết Mác – Lênin.
Vì thế, trong bài tiểu luận nay, em lựa chọn đề tài: “Phép biến chứng phủ định
và vận dụng phân tích việc kế thừa và phát triển sáng tạo các giá trị truyền
thống trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay”. Nội dung bài tiểu luận sẽ tập

1
trung phân tích phép biện chứng phủ định theo chủ nghĩa Mác – Lênin và ứng
dụng của nó vào thực tiễn về vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc dân tộc, từ đó
tìm ra hướng giải quyết thích hợp.

 Mục đích nghiên cứu:

 Có cái nhìn toàn diện, chính xác về phép biện chứng phủ định theo quan
điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin.
 Ứng dụng linh hoạt, sáng tạo học thuyết Mác vào việc kế thừa và phát huy
sáng tạo các giá trị truyền thống dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện
nay; từ đó đưa ra tổng kết, phương hướng giải quyết đối với vấn đề trên.

2
PHẦN NỘI DUNG

PHẦN I. TỔNG QUAN VỀ PHÉP BIỆN CHỨNG PHỦ ĐỊNH

1.1. Khái niệm phủ định và phủ định biện chứng

1.1.1. Phủ định – phủ định siêu hình và phủ định biện chứng

Trong đời sống thường ngày, con người vẫn thưởng sử dụng từ “không” như một
cách để biểu thị mong muốn phủ định một điều gì đó. Tuy nhiên, trong triết học, khái
niệm “phủ định” không mang ý nghĩa bác bỏ đơn thuần mà được hiểu là sự thay thế
trong quá trình vận động và phát triển không ngừng, vô cùng vô tận của sự vật, hiện
tượng. Cụ thể, các sự vật, hiện tượng sinh ra, tồn tại, phát triển rồi mất đi, được thay
thế bằng sự vật, hiện tượng khác; thay thế hình thái tồn tại này bằng hình thái tồn tại
khác của cùng một sự vật, hiện tượng trong quá trình vận động, phát triển của nó. Nói
một cách ngắn gọn, sự phủ định chính là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác, giai
đoạn vận động, phát triển này bằng giai đoạn vận động, phát triển khác. Theo nghĩa
đó, không phải sự phủ định nào cũng dẫn tới sự phát triển.

Sự phủ định được chia làm 2 hình thức là phủ định biện chứng và phủ định siêu
hình và vì thế cần phân biệt rõ 2 khái niệm trên. Trong đó, phủ định siêu hình được
hình thành do các nguyên nhân bên ngoài dẫn đến sự triệt tiêu, xóa bỏ hoàn toàn sự tồn
tại và phát triển của sự vật, hiện tượng, không tạo ra cái mới. Còn theo quan điểm duy
vật biện chứng, phủ định biện chứng là quá trình tự thân phủ định, tự thân phát triển, là
cơ sở cho sự xuất hiện của cái mới, cái tiến bộ hơn cái bị phủ định. Ta có thể lấy “quá
trình nảy mầm” của hạt giống làm ví dụ. Trong trường hợp này, cái mầm ra đời từ cái
hạt; sự ra đời của nó là sự phủ định biện chứng đối với cái hạt, nhờ đó giống loài này
tiếp tục quá trình sinh tồn và phát triển. Tuy nhiên, ở trường hợp khác, nếu hạt giống
bị lửa đốt cháy thì sự cháy ấy đã xóa bỏ hoàn toàn sự tồn tại của hạt lúa, là phủ định
siêu hình của hạt lúa. Như vậy, khái niệm sự phủ định biện chứng dùng để chỉ sự phủ
định, có tính kế thừa các yếu tố tích cực nhằm tạo ra những điều kiện, tiền đề phát
triển của sự vật.

1.1.2. Các đặc trưng của phép phủ định biện chứng

Phủ định biện chứng có hai đặc trưng cơ bản là tính khách quan và tính kế thừa.

THỨ NHẤT, Phủ định biện chứng có tính khách quan vì nguyên nhân của sự
phủ định nằm ngay trong bản thân sự vật, hiện tượng. Đó là kết quả của quá trình đấu
tranh giải quyết mâu thuẫn tất yếu, bên trong của bản thân sự vật, tạo khả năng ra đời

3
của cái mới thay thế cái cũ, nhờ đó tạo nên xu hướng phát triển của bản thân nó. Điều
đó cũng có nghĩa, phủ định biện chứng không phụ thuộc vào ý muốn, ý chí của con
người. Con người chỉ có thể tác động làm cho quá trình phủ định ấy diễn ra nhanh hay
chậm trên cơ sở nắm vững quy luật phát triển của sự vật. Vì thế, phủ định biện chứng
cũng chính là sự tự thân phủ định.

THỨ HAI, phủ định biện chứng có tính kế thừa – kế thừa những nhân tố hợp quy
luật và loại bỏ nhân tố trái quy luật. Trong phủ định biện chứng, cái mới ra đời không
xóa bỏ hoàn toàn cái cũ mà có chọn lọc, giữ lại và cải tạo những mặt còn thích hợp,
những mặt tích cực, nó chỉ gạt bỏ ở cái cũ những mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu, gây
cản trở cho sự phát triển, tạo nên tính liên tục của sự phát triển. Do vậy, phủ định biện
chứng đồng thời cũng là khẳng định. Cái mới trong phủ định biện chứng là cái biểu
hiện sự phát triển phù hợp quy luật của sự vật, hiện tượng, là biểu hiện sự chuyển hóa
từ giai đoạn thấp đến giai đoạn cao trong quá trình phát triển.

Bởi vậy, phủ định biện chứng là khuynh hướng tất yếu của mối quan hệ bên trong
giữa cái cũ và cái mới, là sự tự khẳng định của các quá trình vận động, phát triển của
sự vật, hiện tượng

1.2. Quy luật phủ định của phủ định

1.2.1. Phủ định của phủ định là gì?

Quá trình phủ định của phủ định diễn ra vô tận trong bản thân mỗi sự vật, hiện
tượng tạo nên sự vận động, phát triển vô tận của thế giới vật chất. Mỗi chu kỳ phát
triển của sự vật, hiện tượng thường trải qua hai lần phủ định biện chứng - tức là trải
qua một quá trình phủ định của phủ định - mới dẫn đến sự ra đời của sự vật, hiện
tượng mới, mới hoàn thành được một chu kỳ phát triển. Sự phủ định của phủ định kết
thúc một chu kỳ phát triển, đồng thời lại là điểm xuất phát của một chu kỳ mới và
được lặp lại vô tận.

Sự phủ định lần thứ nhất diễn ra là cho sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với
mình (cái phủ định, phủ định cái bị phủ định, cái bị phủ định là tiền đề là cái cũ, cái
phủ định là cái mới xuất hiện sau cái phủ định là cái đối lập với cái bị phủ định. Cái
phủ định sau khi khi phủ định cái bị phủ định, cái phủ định định lại tiếp tục biến đổi và
tạo ra chu kỳ phủ định lần thứ hai). Sự phủ định lần thứ hai được thực hiện dẫn tới sự
vật mới ra đời. Sự vật này đối lập với cái được sinh ra ở lần phủ định thứ nhất, dường
như lặp lại những đặc trưng cơ bản ở hình thái tồn tại ban đầu nhưng lại được bổ sung
nhiều nhân tố mới có cơ sở cao hơn, tiến bộ hơn.

4
Tóm lại, sự phủ định của phủ định chỉ ra sự vận động và phát triển của sự vật
hiện tượng qua 2 lần phủ định biện chứng, trong đó hình thái tồn tại cuối cùng của chu
kỳ đó dường như lặp lại những đặc trưng cơ bản ban đầu của sự vật hiện tượng nhưng
thường trên cơ sở mới cao hơn. Và như vậy, phủ định biện chứng chỉ là một giai đoạn
trong quá trình phát triển bởi chỉ thông qua phủ định của phủ định mới dẫn đến sự ra
đời của sự vật, hiện tượng mới; từ đó, phủ định của phủ định mới hoàn thành được một
chu kỳ phát triển, đồng thời lại là điểm xuất phát của chu kỳ phát triển tiếp theo.

1.2.2. Hình thức “xoắn ốc” của sự phát triển

V.I.Lênin đã khái quát đặc trưng của quá trình phát triển biện chứng của sự vật
hiện tượng như sau: “Sự phát triển hình như diễn lại những giai đoạn đã qua, nhung
dưới một hình thức khác, ở một trình độ cao hơn; sự phát triển có thể nói là theo
đường trôn ốc chứ không theo đường thẳng...” 1. Nói cách khác, quy luật phủ định
của phủ định đã khái quảt tính chất chung, phổ biến của sự phổ biến – là diễn ra theo
hình thức con đường “xoáy ốc”.

Khuynh hướng phát triển theo đường xoáy ốc thể hiện tính chất biện chứng của sự
phát triển, đó là tính kế thừa, tính chu kỳ, và tính tiến lên. Mỗi vòng mới của đường
xoáy ốc dường như lặp lại, nhưng với một trình độ cao hơn. Sự tiếp nối của các vòng
trong vòng xoáy ốc phản ảnh quá trình phát triển vô tận từ thấp đến cao của sự vật,
hiện tượng trong thế giới. Điểm kết thúc của chu kỳ này đồng thời là điểm khởi đầu
cho chu kỳ sau, các vòng xoáy ốc nhờ thế không ngừng đi lên và mở rộng.

Trong hiện thực, chu kỳ phát triển của 1 sự vật hiện tượng có thể bao gồm số
lượng các lần phủ định lớn hơn 2, phụ thuộc vào tính chất của quá trình phát triển cụ
thể. Trong đó, hiện tượng phủ định biện chứng đã đóng vai trò là những “mắt khâu”
trong quá trình đó.

1.2.3. Tiểu kết

Quy luật phủ định của phủ định nói lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa sự vật, hiện
tượng bị phủ định với sự vật, hiện tượng phủ định; do sự kế thừa đó, phủ định biện
chứng không phủ định sạch trơn, loại bỏ tất cả các yếu tố của sự vật, hiện tượng cũ,
mà là điều kiện cho sự phát triển, duy trì và gìn giữ, lặp lại một số yếu tố tích cực của
sự vật, hiện tượng mới sau khi đã được chọn lọc, cải tạo cho phù hợp và do vậy, sự
phát triển của các sự vật, hiện tượng có tính tiến lên theo đường xoáy ốc.

Quy luật phủ định của phủ định khái quát KHUYNH HƯỚNG cơ bản, phổ biến
của mọi sự vận động và phát triển - là tính chất tiến lên. Phủ định biện chứng là sự

5
thống nhất giữa cái phủ định và cái khẳng định, giữa yếu tố bị loại bỏ với yếu tố được
kế thừa và phát triển. Mỗi lần phủ định biện chứng được thực hiện xong sẽ mang lại
những yếu tố tích cực mới. Do vậy, sự phát triển thông qua những lần phủ định biện
chứng sẽ tạo ra xu hướng phát triển không ngừng của sự vật, hiện tượng. Theo triết
học Mác-Lênin thì quy luật phủ định của phủ định là quy luật phổ biến của sự phát
triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.

1.3. Ý nghĩa phương pháp luận

o Quy luật phủ định của phủ định là cơ sở nhận thức đứng đắn về xu hướng vận động,
phát triển của sự vật, hiện tượng – được diễn ra không theo đường thẳng mà là con
đường quanh co, phức tạp gồm nhiều giai đoạn, quá trình khác nhau.

⇨ Cần nắm được đặc điểm, bản chất, các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng để tác
động tới sự phát triển, phù hợp với yêu cầu của nhận thức, biểu hiện của thế giới quan
khoa học và nhân sinh cách mạng trong mọi hoạt động và trong thực tiễn.

o Theo quy luật phủ định của phủ định, cái mới tất yếu phải ra đời để thay thế cái cũ,
thể hiện sự phát triển cao hơn về chất nhờ biết kế thừa những đặc trưng cơ bản tích cực
loại bỏ những mặt tiêu cực của cái cũ.

⇨ Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, cần có nhận thức đúng về cái mới và có
thái độ đúng đối với cái mới đồng thời chủ động phát hiện ra cái mới, tạo điều kiện
cho cái mới phát triển; khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, kìm hãm sự phát triển của
cái mới.

o Phải có cái nhìn biện chứng trong khi phê phán cái cũ, cần phải biết sàng lọc, kế thừa
những yếu tố hợp lý của cái cũ, tránh thái độ “hư vô chủ nghĩa”, “phủ định sạch trơn”.

6
PHẦN 2. KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO CÁC GIÁ TRỊ TRUYỀN
THỐNG TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA HIỆN NAY.

2.1. Việt Nam và các giá trị truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa

2.1.1. Giá trị truyền thống là gì?

“Giá trị” là phạm trù riêng có của loài người, liên quan đến lợi ích vật chất
cũng như  tinh thần của con người. Bản chất và ý nghĩa bao quát của giá trị là
tính nhân văn. Chức  năng cơ bản nhất của giá trị là định hướng, đánh giá và
điều chỉnh các hoạt động của cá  nhân và cộng đồng. Giá trị gắn liền với nhu
cầu con người. Nhu cầu của con người rất  phong phú, đa dạng và được biểu
hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Chính nhu cầu  là động cơ thúc đẩy mạnh
mẽ hành động của con người, giúp con người tạo nên những  giá trị vật chất và
tinh thần. Có thể nói, giá trị là cái tạo nên nét độc đáo, truyền thống,  bản sắc
dân tộc; mà căn cứ vào đó có thể so sánh, nhận định về nền văn hóa của dân
tộc  này với dân tộc khác. 
"Truyền thống", theo gốc từ Latinh được viết là "Tradio", gồm động từ
"Tradere  (traditus) nguyên nghĩa của nó là "truyền lại", "nhường lại", "giao
lại" và "phân phát".  Do vậy, hiểu theo nghĩa đơn giản nhất của từ này, truyền
thống là sự kế thừa di sản xã  hội có giá trị được truyền từ thế hệ này sang thế
hệ khác. Theo GS. TS. Nguyễn Trọng  Chuẩn, “... truyền thống - đó là những
yếu tố của di tồn văn hóa, xã hội thể hiện trong  chuẩn mực hành vi, tư tưởng,
phong tục, tập quán, thói quen, lối sống và cách ứng xử của một cộng đồng
người được hình thành trong lịch sử và đã trở nên ổn định, được  truyền từ đời
này sang đời khác và được lưu giữ lâu dài". Nhưng ở một quan điểm khác,
F.Hegel. F.Hegel cũng rất có lý khi cho rằng, truyền thống không phải là di tích
của quá  khứ mà là nhịp cầu nối kết giá trị mới. Ông nhìn truyền thống như là
một di sản hoặc  như là "đứa con của thời đại", "cái tinh thần của thời đại". Ông
cho rằng, truyền thống  chưa bao giờ mất, nó được giữ lại dưới dạng hoàn thiện
hơn. 
Như vậy, bản thân truyền thống tồn tại với tính hai mặt của nó. Trong đó, mặt
tích cực  bao gồm các yếu tố ưu việt, tiến bộ, phù hợp với tính chất thời đại,
góp phần tạo nên các  giá trị, bản sắc dân tộc, cần được giữ gìn và phát huy.
Ngược lại, mặt tiêu cực của truyền  thống dân tộc là hiện thân cho sức ỳ, bảo
thủ, lạc hậu, là những cái đã lỗi thời gây ảnh  hưởng xấu đến sự phát triển của

7
xã hội. Hai mâu thuẫn trên luôn tồn tại song song trong  truyền thống, có khi
lại đan xen, chồng chèo lên nhau. 

Từ những nội dung trên cho thấy, giá trị truyền thống và truyền thống có sự
khác cơ  bản, cần phân biệt rõ để bài nghiên cứu được sâu hơn. Ở đây, giá trị
truyền thống được  coi là những truyền thống đã được thừa nhận, đánh giá,
thẩm định nghiêm ngặt của thời  gian, nó được lựa chọn, thừa nhận của cộng
đồng qua những giai đoạn lịch sử, trên cơ  sở những quan điểm khách quan. Do
đó, giá trị truyền thống là những cái tốt đẹp mang  ý nghĩa tích cực, là đặc
trưng cho bản sắc dân tộc, được truyền lại cho thế hệ sau và sẽ được bảo vệ,
duy trì, bổ sung và phát triển. 
Tóm lại, “giá trị truyền thống” là tập hợp những nhân tố tích cực về mặt
đạo đức, tư tưởng, tình cảm, tập tục lối sống..., được hình thành trong quá
trình phát triển của  lịch sử - xã hội, có khả năng truyền lại qua không gian
thời gian. Có thể nói, giá trị truyền thống mang tính tương đối ổn định nhưng
không phải bất biến. Sự biến đổi của  nó có thể diễn ra nhanh hay chậm, phụ
thuộc vào nhiều yếu tố nhưng quan trọng nhất  vẫn là điều kiện kinh tế - xã hội.
Đặc biệt, trong thời đại của xu hướng toàn cầu hóa, các  giá trị truyền thống
càng ghi nhận thêm nhiều thay đổi, cả tích cực lẫn tiêu cực, đòi hỏi  hướng giải
quyết thích hợp. 

2.1.2. Giá trị truyền thống ở Việt Nam 

Các giá trị truyền thống của Việt Nam được thử thách qua nhiều giai đoạn
lịch sử khác nhau, được hun đúc trong suốt quá trình đấu tranh dựng nước và
giữ nước. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử dân tộc, các giá trị truyền thống ấy
đã khẳng định sức sống mãnh liệt của mình. Bởi dường như qua mỗi một cuộc
chiến, qua những lần hội nhập và tiếp thu những nền văn hóa mới, thì những
giá trị truyền thống Việt Nam không chỉ được bảo tồn mà còn phát triển phong
phú hơn trước. Chúng đã ăn sâu vào máu thịt của mỗi người con đất Việt và
tạo nên nhân cách với những giá trị đạo đức tốt đẹp , trở thành dấu ấn riêng
biệt cho sức mạnh và vẻ đẹp của cả dân tộc. 
Các giá trị đó chính là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự lực tự cường, tinh
thần đoàn kết, lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, hiếu học, cần cù, lạc
quan... Đó là những giá trị truyền thống cơ bản, vô cùng quý báu của dân tộc;
chúng không tồn tại riêng lẻ mà có mối quan hệ hữu cơ, bổ sung cho nhau. Và
theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu, các giá trị này không chỉ có vai trò to
lớn đối với sự tồn vong của dân tộc trong quá khứ mà còn khẳng định vai trò
8
quan trọng của nó đối với hiện tại và tương lai đất nước, đặc biệt là trong sự
nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước trước bối cảnh toàn cầu hóa
hiện nay. 
Và như vậy, nhiệm vụ giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống là yêu
cầu tất yếu, khách quan và đặc biệt cấp thiết trong bối cảnh toàn cầu hóa. 

2.1.3. Các giá trị truyền thống Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa

2.1.3.1. Ảnh hưởng tích cực 

Nói chung, Việt Nam cơ bản đã bảo tồn và phát huy được nhiều giá trị
truyền thống quý báu của dân tộc. Có thể lấy năm 2020 làm ví dụ, khi Việt
Nam đã nêu cao tinh thần  đoàn kết, tự tôn dân tộc trong thời kỳ chống dịch.
Thành quả trong cuộc chiến chống  dịch Covid-19 đã đem đến một hình ảnh
Việt Nam kiên cường, an toàn và thân thiện,  được bạn bè quốc tế nể phục,
ngợi khen. Một năm đầy thử thách và khó khăn đã không  làm chúng ta suy
yếu mà ngược lại, đang giúp đất nước khẳng định bản lĩnh của mình. 
Trong thời gian ấy, biết bao chiến sĩ cùng các y bác sĩ đã không tiếc công sức,
gia đình,  mà lao đầu vào cuộc chống dịch đầy gian khổ, thậm chí nguy hiểm
đến tính mạng để  giúp đỡ những đồng bào trong vùng dịch. Và đến khi dịch
bệnh dần được kiểm soát,  người dân Việt Nam lại tiếp tục cùng nhau chia sẻ
khó khăn, san sẻ yêu thương với nhiều  hành động ủng hộ, tình nguyện đầy
nhân ái. Có lẽ, chính truyền thống đoàn kết, “tương  thân tương ái” đã tạo
thành nguồn sức mạnh kỳ diệu đưa Việt Nam khỏi sự khùng hoảng  của dịch
bệnh. Hiện nay, tuy dịch Covid-19 vẫn còn diễn biến khá phức tạp trên nhiều 
tỉnh thành đất nước song những giá trị trên vẫn chưa mất đi mà tiếp tục được
nhân rộng,  và phát triển hơn. 

Có thể nói, toàn cầu hóa luôn tạo ra những môi trường thật sự tuyệt vời cho
quá trình  bảo tồn và mở mang những giá trị tốt đẹp của văn hóa. Việt Nam vốn
có một nền văn  hóa vững mạnh, một truyền thống đủ tạo nên sức kháng cự
trước sự xâm nhập của nhiều  luồng văn hóa ngoại lai, nay đã có thể nhanh
chóng thích nghi, hội nhập với sự đổi mới  của xã hội, biết tận dụng thời cơ để
nhân rộng và giới thiêu các giá trị ấy tới bạn bè thế giới. Nhờ có toàn cầu hóa,
hàng ngàn cuốn sách, những tư liệu cổ tưởng như không thể tìm thấy lại có khả
năng "hồi sinh" qua thế giới mạng. Đó thật sự là một cuộc bảo tồn  văn hóa ở
quy mô chưa từng có trong lịch sử. Giờ đây, một dân tộc không chỉ có thể biết
đến duy nhất một nền văn hóa của riêng đất nước mình mà còn được tìm hiểu
9
và  hòa nhập với các nền văn hóa cùng nhiều giá trị truyền thống đa dạng từ
mọi khu vực.

2.1.3.2. Ảnh hưởng tiêu cực 

Tuy nhiên, cũng không thể lơ là trước những tác động tiêu cực từ toàn cầu
hóa, nguy  hiểm đến mức có thể sẽ hủy diệt các giá trị văn hóa truyền thống.
Thực tế hiện tại, dưới  tác động của xu hướng toàn cầu hóa, một số giá trị đạo
đức tốt đẹp, thiêng liêng… vốn  có vị trí quan trọng trong hệ giá trị văn hoá
truyền thống của Việt Nam đang có nguy cơ  bị mai một và tha hoá. Hiện
tượng suy đồi đạo đức đang trở thành mối quan tâm chung  của xã hội. Chẳng
hạn, lối sống tình nghĩa, đậm chất nhân văn kiểu “thương người như  thể
thương thân”, “tối lửa tắt đèn có nhau”..., vốn là một trong những giá trị truyền
thống  của nền văn hóa làng xã Việt Nam đang bị mai một, mờ nhạt dần. Ở
không ít nơi, cả thành thị lẫn nông thôn, một bộ phận dân cư đã chịu ảnh
hưởng của lối sống ích kỷ, hẹp  hòi, lấy lối sống theo kiểu “đèn nhà ai nấy
rạng” thay cho lối sống rất “con người” trước  đây. Đây thực sự là những tín
hiệu “báo động đỏ” cho sự “trượt dốc” của các giá trị truyền thống ở nước ta
hiện nay. 
Trong một vài thập kỷ gần đây, những lối sống xa lạ, trái với thuần phong
mỹ tục của  dân tộc đã xuất hiện trong đời sống xã hội, từ thành phố cho đến
những vùng nông thôn.  Một bộ phận lớp trẻ hiện nay có tâm lý sống buông
thả, quay lưng lại với văn hóa, giá  trị đạo đức truyền thống. Cùng với đó là sự
xuất hiện của phương tiên đại chúng liên tục  tuyên truyền các hình ảnh, tin
tức, ấn phẩm độc hại, không phù hợp với truyền thống  văn hóa dân tộc. Điều
đó cũng báo hiệu trong quá trình bảo tồn các văn hóa truyền thống,  Việt Nam
đang phải đối diện với không ít giá trị văn hóa ngoại lai xâm nhập, làm bào
mòn nhiều giá trị truyền thống cốt lõi của dân tộc 

Từ thực trạng đã phân tích trên đây cho chúng ta thấy rằng, giá trị truyền
thống Việt  Nam đang đổi mặt với nhiều thay đổi chóng mặt, đem lại những tác
động cả tích cực lẫn  tiêu cực tới nhiệm vụ gìn giữ và phát triển truyền thống
dân tộc. Và vì vậy, hướng giải  quyết vấn đề cũng cần được triển khai nhanh
chóng, hợp lý, đa dạng và toàn diện. 

2.2. Vai trò của phủ định biện chứng đối với công cuộc giữ gìn và phát huy sáng
tạo giá trị truyền thống Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa

10
Có thể khẳng định: con người ngày nay dù có hiện đại đến đâu cũng đi lên
từ truyền thống, bản thân họ tất yếu sẽ có những mối quan hệ hữu hình hay vô
hình với truyền thống. Các giá trị truyền thống luôn tồn tại khách quan dưới
dạng tiềm năng và nó chỉ được sống lại và phát huy tác dụng khi có sự kế thừa
một cách đúng đắn. Kế thừa ở đây  được xét theo quan điểm biện chứng, không
chỉ là bảo tồn, giữ gìn các giá trị truyền  thống mà phải phát triển sáng tạo vai
trò của những yếu tố này trong điều kiện mới. Kế thừa ở đây bao hàm cả lọc bỏ
và vượt gộp giá trị văn hóa dân tộc truyền thống làm động  lực cho quá trình
phát triền đất nước. 

2.2.1. Kế thừa giá trị truyền thống dân tộc ở nước ta hiện nay là quá trình thống
nhất giữa 2 quá trình giữ lại và loại bỏ 

Kế thừa giá trị truyền thống của dân tộc ở nước ta hiện nay, về thực chất là
một quá  trình phủ định biện chứng các mặt, các yếu tố, thuộc tính và các bộ
phận cấu thành của  nó. Sự kế thừa đó không phải là loại bỏ hoàn toàn hay phủ
định sạch trơn truyền thống  văn hóa, cắt đứt sợi dây liên hệ giữa quá khứ,
truyền thống với hiện tại và tương lai;  cũng không phải là bê nguyên xi hoàn
toàn truyền thống văn hóa mà là sự kế thừa có  chọn lọc, kế thừa có điều kiện,
tức là chỉ giữ lại những “hạt nhân hợp lý”, những yếu tố  còn tích cực, tiến bộ,
đồng thời loại bỏ những yếu tố tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu trong  truyền thống
văn hóa. 
Do điều kiện đặc thù của sự sinh tồn, truyền thống văn hóa của dân tộc Việt
Nam từng bước được hình thành và phát triển. Các giá trị truyền thống đó đã
đồng hành và  phát huy sức mạnh của nó trong suốt chiều dài lịch sử hàng
nghìn năm dựng nước và  giữ nước; chúng được nhân dân nhiều thế hệ tiến
hành sàng lọc, loại bỏ những yếu tố tiêu cực, lạc hậu đồng thời bảo tồn, phát
huy những tinh hoa còn lại. Nhờ đó, sức mạnh,  bản sắc dân tộc được củng cố,
đứng vững trước mọi biến cố thử thách và bảo vệ được  nền độc lập chủ quyền
dân tộc và cuộc sống bình yên cho người dân.  

Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, rất nhiều giá trị truyền thống độc
đáo, tiêu biểu mang tính ổn định, lâu dài và là điểm tựa để Việt Nam phát triển
đi lên đều cần được  giữ gìn, kế thừa và phát huy sáng tạo. Có thể kể đến một
vài ví dụ như lòng yêu nước  nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn
kết; lòng nhân ái, khoan dung, trọng  nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng
tạo trong lao động... Ngược lại, cùng với sự phát triển của xã hội, một số truyền
thống trở nên lỗi thời, không còn thích hợp với đời  sống hiện đại đã dần bị loại
11
bỏ, thay thế. Chẳng hạn, hủ tục chém lợn ở thôn Ném  Thượng vốn là một
truyền thống mang ý nghĩa thể hiện ước mong mùa màng bội thu,  cuộc sống
sung túc nhưng do tính man rợn, tác động xấu tới nhân cách nên không còn 
phù hợp với xã hội văn minh, hiện đại nên đã bị Nhà nước cấm thực hiện, loại
bỏ khỏi  hệ giá trị truyền thống của dân tộc. 
Tóm lại, khi nhận thức và hành động, các chủ thể văn hóa cần có thái độ
khách quan,  khoa học trong giữ gìn giá trị truyền thống dân tộc. Tích cực đi
sâu nghiên cứu, tìm hiểu,  thông qua điều tra, khảo sát, đánh giá phân loại một
cách có hệ thống, đồng bộ để lưu  giữ những truyền thống văn hóa còn tiến bộ,
còn phát huy tác dụng. Kiên quyết loại bỏ 
những gì của truyền thống văn hóa đã trở nên lỗi thời, lạc hậu, không còn phát
huy tác  dụng. Xây dựng một thái độ đúng mực đối với những gì cần được bảo
tồn, giữ gìn. Cái  gì cần được bảo tồn, giữ gìn thì phải bảo tồn, giữ gìn ngay từ
khi nó còn đang tồn tại;  cái gì tiêu cực thì cần loại bỏ nhanh chóng tránh tiếp
tục tạo nên ảnh hưởng xấu. 

2.2.2. Kế thừa truyền thống văn hóa của dân tộc ở nước ta hiện nay là quá trình 
bổ sung, phát triển hơn nữa những “hạt nhân hợp lý” 

Trong quá trình phát triển, truyền thống văn hóa của dân tộc không hề đứng
yên và  bất biến, mà trái lại luôn được các thế hệ người Việt Nam kế tiếp kế
thừa, bổ sung, phát  triển và đổi mới liên tục, nhằm làm cho truyền thống có
nội dung và hình thức mới phù  hợp với yêu cầu của thời đại. Đặc biệt, ở
những thời kỳ chuyển biến mạnh mẽ của lịch  sử, vào những thời điểm chuyển
giao thời đại, nhiều giá trị, nhiều khía cạnh của truyền  thống văn hóa dân tộc
cũng có sự thay đổi mang tính bước ngoặt. 

Dựa trên nền tảng của những “hạt nhân hợp lý” trong truyền thống văn hóa
dân tộc  được giữ lại, cần tích cực bổ sung, phát triển thêm các giá trị mới, bảo
đảm cho sự phát  triển của hệ thống các giá trị văn hóa dân tộc luôn là một
dòng chảy liên tục, không đứt  đoạn. Các giá trị mới là những cái mới phù hợp,
cái mới đang phát huy tốt tác dụng theo  quan điểm của Đảng và nhân dân ta.
Các giá trị mới ở đây không phải hoàn toàn tách  rời giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc, tinh hoa của nhân loại, càng không phải do  ý muốn chủ
quan của một vài cá nhân áp đặt, mà nó được hình thành trong sự kế thừa  biện
chứng, trong sự tiếp nối hợp lôgíc các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc
qua  hàng nghìn năm lịch sử. Trong đó, các giá trị văn hóa truyền thống cần
phải được bảo tồn và phát huy trong những giá trị văn hóa hiện đại và ngược
12
lại, những giá trị văn hóa  hiện đại phải dựa trên nền các giá trị văn hóa truyền
thống, lấy nó làm điểm tựa để phát  triển. 
Cụ thể, chủ nghĩa yêu nước trước kia thường gắn liền với tinh thần đánh
giặc giữ  nước nay có thể được kế thừa và nâng cao, mang thêm nhiều tầng ý
nghĩa mới. Yêu  nước trong thời bình không còn đơn thuần là vấn đề trực tiếp
đánh trận bảo vệ chủ quyền,  mà được bổ sung thêm nhiều khía cạnh mới, thể
hiện nhiều hơn trong công cuộc phát  triển, và xây dựng đất nước thông qua
quá trình sáng tạo, học tập, rèn luyện của bản thân  mỗi công dân. Cũng như
thế, truyền thống “ngụ binh ư nông” trong thời phong kiến vẫn  có thể được kế
thừa và phát triển thành các quan điểm hiện đại như: kết hợp chặt chẽ  giữa
kinh tế với quốc phòng - an ninh và ngược lại; kết hợp giữa xây dựng với bảo
vệ,  bảo vệ với xây dựng; kết hợp giữa xây dựng đất nước với xây dựng các
tiềm lực của nền  quốc phòng toàn dân và tiềm lực của chiến tranh nhân dân;
kết hợp giữa xây dựng đất  nước với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và
thế trận an ninh nhân dân. 

2.2.3. Kế thừa truyền thống văn hóa của dân tộc ở nước ta hiện nay gắn với quá 
trình mở rộng giao lưu và tiếp biến những giá trị văn hóa của các dân tộc khác
trên  thế giới. 

Toàn cầu hóa và truyền thống toàn cầu đang làm cho giao lưu, tiếp biến văn
hóa các  quốc gia có sự khác biệt về cơ bản so với các giai đoạn trước. Nền văn
minh tin học với  công nghệ thông tin và truyền thông hiện đại và đang làm
môi trường mới trở nên phức  tạp, bất định và thường xuyên biến đổi. Các quốc
gia, dân tộc ngày càng hướng đến  những tiêu chuẩn chung trong đánh giá, kể
cả các tiêu chí trong thể thao, âm nhạc, các  giá trị tinh thần như nhân quyền,
dân chủ... Việc ra đời và hoàn thiện các công ước quốc  tế đã hướng các uốc
gia phải chấp nhận những giá trị chung như sở hữu trí tuệ, đa dạng  văn hóa,...
Sự tác động này đòi hỏi các quốc gia thay đổi nhận thức và hành động thực 
tiễn: phải tìm ra lợi thế của mình để cạnh tranh, coi trọng sự liên kết khu vực
dựa trên  những điểm tương đồng; các sáng tạo dân tộc vừa mang bản sắc, vừa
phải hướng đến  những giá trị chung của nhân loại. 

Đảng ta chỉ rõ: “Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động
sáng tạo,  đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam, là  kết quả giao lưu và tiếp thụ tinh hoa của nhiều nền văn minh
thế giới để không ngừng hoàn thiện mình”. Bởi vậy, xét một cách khách quan,
Việt Nam là đất nước có một nền  văn hóa mở với một tư duy văn hóa mở.
13
Người Việt Nam không có tư tưởng kỳ thị dân  tộc, không cực đoan trong giao
lưu và tiếp biến văn hóa với các quốc gia, dân tộc khác. Tận dụng cơ hội tiếp
cận nhiều nền văn hóa khác nhau, dân tộc Việt Nam đã tiếp thụ có  chọn lọc
những tinh hoa văn hóa của các nước có quan hệ với Việt Nam để bổ sung và  
làm giàu truyền thống văn hóa của dân tộc. Thực tế đã chứng minh, đối với hệ
thống  ngôn ngữ dân tộc, Việt Nam cũng đã biết ghi nhận và đưa vào sử dụng
nhiều từ ngữ mới  có nguồn gốc nước ngoài mà trước nay chưa từng xuất hiện,
nhờ đó mà vốn từ truyền  thống càng thêm phong phú, đa dạng hơn. Tuy nhiên,
cũng do sự du nhập của ngôn ngữ 
nước ngoài, hiện tượng biến đổi Tiếng Việt quá mức cũng xảy ra khá thường
xuyên, đặc  biệt là trong bộ phận giới trẻ hiện nay, làm méo mó giá trị truyền
thống của vốn ngôn  ngữ nước nhà, bởi vậy cần các biện pháp giải quyết,
phòng tránh hợp lý. 
Không chỉ thế, các thành tựu khoa học – công nghệ trong bối cảnh toàn cẩu
hóa cũng  đã tạo cơ hội để Việt Nam quảng bá, trao đổi, đưa hình ảnh dân tộc
ra thế giới, từ đó có  thể bảo tồn, phát huy các giá trị truyền thống dân tộc một
cách sáng tạo, hiệu quả hơn. Thông qua các phương tiện thông tin toàn cầu,
qua các cuộc thi quy mô quốc tế, thế giới  đã biết tới Việt Nam như một dân
tộc với nghìn năm lịch sử hào hùng, với tinh thần  đoàn kết, nhân ái đáng quý,
với những hình ảnh độc đáo mang đậm bản sắc truyền  thống...; nhờ đó giúp
nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế và tạo đà cho sự phát  triển kinh tế
- xã hội. 
Như vậy, vấn đề làm sao để “hòa nhập” mà không “hòa tan” đang ngày một
trở thành  thách thức đối với các giá trị truyền thống dân tộc. Trước thực trạng
đó, Đảng Cộng sản  Việt Nam đã rút kinh nghiệm: Trong bất kì tình hướng
nào, đặc biệt là thời kì toàn cầu  hóa đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
phải “tích cực chủ động hội nhập kinh tế  quốc tế” nhưng phải “giữ cũng
truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc”. Hội nhập văn  hóa phải trên cơ sở
định hướng với sự lựa chọn tối ưu, làm sao để tích hợp nhiều tinh  hoa, đặc sắc
của nhiều nền văn hóa khác nhau. Nếu sự tiếp thu ấy là bê nguyên xi những 
cái bến ngoài vào thì văn hóa sẽ bị mất gốc, bị đồng hóa. Tiếp thu trong tư thế
chủ động  là điều kiện cho việc xử lý mối quan hệ biện chứng nội sinh, ngoại
sinh. Nguyên tắc là  lấy bản sắc văn hóa của mình làm gốc, lấy tiêu chí văn hóa
làm bộ lọc, tiếp thu các văn  hóa hiện đại của thế giới, lấy cái tiến bộ bổ sung
cho cái thiếu hụt, lỗi thời trong văn hóa  truyền thống, tạo điều kiện cho giá trị
truyền thống dân tộc phát triển.

14
2.2.4. Kế thừa truyền thống văn hóa của dân tộc ở nước ta hiện nay cần phải
chống  hai khuynh hướng sai lầm: khuynh hướng bảo thủ và khuynh hướng phủ
định sạch  trơn 

Khuynh hướng bảo thủ và khuynh hướng phủ định sạch trơn đối với truyền
thống văn  hóa của dân tộc. Trong hai khuynh hướng này, phủ định sạch trơn
là khuynh hướng xuất  hiện ngay từ những năm đầu xây dựng CNXH ở nước
Nga. Những người theo khuynh  hướng phủ định sạch trơn tập hợp trong phái
“văn hóa vô sản” chủ trương xây dựng một  nền văn hóa mới từ đầu, đoạn
tuyệt hẳn với văn hóa của chế độ Nga hoàng cũ. Ở Việt  Nam, khuynh hướng
phủ định sạch trơn đã từng xuất hiện trong cuộc cách mạng tư  tưởng và văn
hóa trước đây. Hậu quả của khuynh hướng này là nhiều giá trị truyền thống  bị
mai một, “trượt dốc”; nhiều di tích lịch sử, văn hóa bị tàn phá nặng nề hoặc bị
xuống  cấp nghiêm trọng; nhiều phong tục, tập quán tốt đẹp không được bảo
tồn, lưu giữ, dần  dần bị xóa bỏ hoặc lãng quên. Ngày nay, khuynh hướng này
vẫn còn xuất hiện rải rác  trong một bộ phận nhỏ người Việt, biểu hiện các hiện
tượng như “sính ngoại”, theo đuổi  các trào lưu nước ngoài mà hạ thấp nét đẹp
văn hóa truyền thống của nước mình. 
Khuynh hướng bảo thủ thực chất là khuynh hướng đề cao, tuyệt đối hóa
truyền thống  văn hóa dân tộc. Coi truyền thống văn hóa dân tộc là cái bất biến,
không thể thay đổi  được và vì vậy kế thừa nguyên xi, không cần phải bổ sung,
sửa đổi và phát triển. Từ đó  dẫn đến “đóng cửa”, từ chối hoặc hạ thấp việc tiếp
thụ các giá trị văn hóa bên ngoài. 
Thực tế, nhiều hủ tục lạc hậu, các quan niệm lỗi thời vẫn đang được tiếp diễn ở
một số địa phương, tập trung phần nhiều ở các khu vực hẻo lánh, đồi núi ít có
điều kiện tiếp  xúc với các nền văn hóa khác. Điều này có thể làm kéo lùi sự
phát triển kinh tế - xã hội  của địa phương đó nói riêng và của cả đất nước nói
chung, tạo sức ép, gây cản trở sự tiếp nhận những giá trị văn hóa mới đối với
thế hệ sau. 
Hai khuynh hướng trên tuy mang tính chất, chiều hướng phát triển trái
ngược nhau  song đều là khuynh hướng sai lầm, cần xóa bỏ. Vì vậy, Đảng và
Nhà nước cần có các  biện pháp tư tưởng, giáo dục, tuyên truyền thỏa đáng
nhằm loại bỏ những suy nghĩ sai  lệch, các khuynh hướng sai lầm làm ảnh
hưởng xấu tới quá trình kế thừa sáng tạo các  giá trị truyền thống dân tộc. Quá
trình này cần được thực hiện trên diện rộng, theo trình  tự, không được “nhảy
cóc” đẩy nhanh tiến độ nhằm đảm bảo hiệu quả cao nhất cho  hướng giải quyết.

15
2.3. Một số biện pháp để giữ gìn và phát huy sáng tạo các giá trị truyền thống

o Thứ nhất, tăng cường giáo dục, tuyên truyền, nâng cao nhận thức về các
giá trị truyền  thống của Việt Nam. Song song với việc nâng cao nhận thức về
tầm uan trọng của bản  sắc văn hóa dân tộc, phải tăng cường hơn nữa việc nâng
cao nhận thức của toàn xã hội  về vai trò, tầm quan trọng của các giá trị truyền
thống dân tộc. Quan trọng hơn là làm  thế nào trong toàn Đảng,, toàn dân có
một tình cảm thật sự, một thái độ, một niềm tin  đúng đắn vào các giá trị truyền
thống, để họ lấy đó làm cơ sở cho sự phấn dấu, rèn luyện  về tư tưởng, đạo
đức, lối sống. 
o Thứ hai, thường xuyên quan tâm, tạo lập môi trường xã hội, lành mạnh,
đấu tranh  chống nguy cơ xói mòn các giá trị truyền thống. Đầu tư cho yếu tố
văn hóa cũng có  nghĩa là đầu tư cho con người, đặc biệt là giới văn nghệ sĩ để
khuyền khích họ cống  hiến, bảo tồn nền văn hóa dân tộc. Quá trình trên đòi
hỏi phải diễn ra thường xuyên,  không được đứt quãng, bỏ dở giữa chừng. 
o Thứ ba, tích cực tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại nhằm đổi mới và nâng
cao các  giá trị truyền thống Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa. Các giá trị
truyền thống trong  nền văn hóa cần được cọ xát, giao lưu, tiếp biến, hội nhập
với các giá trị của nhiều dân  tộc trên thế giới. 

TIẺU KẾT 

Tóm lại, trước bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, hầu như dân tộc nào
cũng  đứng trước thử thách của phát triển và luôn tìm kiếm con đường phát
triển riêng phù  hợp với đặc điểm lịch sử, văn hóa truyền thống vốn có của dân
tộc mình. Đối với dân  tộc Việt Nam, trong quá trình đổi mới, để thực hiện
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp  hóa, hiện đại hóa, nhất thiết phải ra sức giữ
gìn và phát huy các giá trị truyền thống dân  tộc. Tuy nhiên, để thực hiện được
nhiệm vụ đó, đặc biệt trong thời kì toàn cầu hóa, thì  việc giữ gìn và phát huy
các giá trị truyền thống Việt Nam cần phải đảm bảo gắn liền  với nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và với mục tiêu, nhiệm vụ xây  dựng
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

16
KẾT LUẬN

Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trong quá trình lãnh đạo đất nước,
Đảng ta  luôn kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những di sản quý báu của dân tộc và
nhân loại. Những  thành tựu đạt được qua nhiều năm đổi mới đã chứng minh
sự đúng đắn trong quan điểm  của Đảng ta nhằm khai thác, kế thừa, phát huy
các giá trị truyền thống văn hóa của dân  tộc vào xây dựng đất nước và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam XHCN. 
Bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay đã, đang và sẽ đặt ra cho chúng ta những
khó khăn,  thách thức lớn đối với việc kế thừa các giá trị truyền thống văn hóa
của dân tộc. Vì vậy,  nhiệm vụ giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống văn
hóa của dân tộc trong công  cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN thời kỳ mới càng trở nên cấp thiết  và nặng nề hơn bao giờ hết. 
Dưới góc nhìn của phương pháp luận phủ định biện chứng, vấn đề giữ gìn
và phát  huy sáng tạo các giá trị truyền thống mang tính kế thừa. Đây được xem
là một trong  những đặc trưng cơ bản, phổ biến của phủ định biện chứng, là sợi
dây liên kết bền vững  giữa cái cũ và cái mới, giữa sự vật cũ và sự vật mới trên
con đường phát triển. Thực chất  đây là quá trình đấu tranh giữa cái cũ và cái
mới, giữa sự vật cũ với sự vật mới nhằm  phát huy những yếu tố, bộ phận tích
cực, tiến bộ của cái cũ, sự vật cũ để xây dựng, tạo  nên cái mới, sự vật mới.
Quá trình đó vừa diễn ra sự lọc bỏ và giữ lại những “hạt nhân  hợp lý”, vừa bổ
sung, phát triển và tạo ra các giá trị mới đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thế giới
hiện thực. 
Và như vậy, chủ trương lớn nhất, bao quát nhất để đối phó với những thách
thức của  quá trình hội nhập là “Xây dụng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà  bản sắc dân tộc”, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời
sống và hoạt động xã hội,  vào mọi người dân trong mọi lĩnh vực sinh hoạt và
quan hệ con người. Chỉ trên cơ sở như thế thì xã hội ta mới có nguồn lực nội
sinh to lớn, từ đó đạt được sức đề kháng, khả năng “miễn dịch” mạnh mẽ trước
yếu tố văn hóa tiêu cực từ cả bên trong và bên ngoài.  Có thể nói, muốn bảo tồn
và phát huy hiệu quả giá trị truyền thống dân tộc thì trước hết  cần đầu tư cho
yếu tố con người, đặc biệt về mặt tư tưởng nhận thức của mỗi cá nhân.  Mỗi
con người Việt Nam nếu có nhận thức, ý thức đúng đắn về vấn đề giữ gìn và
phát  huy truyền thống dân tộc thì những di sản tinh thần ấy mới có cơ hội tiếp
tục lưu truyền,  phát triển hơn nữa trong tiến trình lịch sử mai sau.

17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang chủ biên (2020), Các Giá Trị Truyền Thống
Và Con Người Việt Nam Hiện Nay, NXB. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
(2020).
2. Trần Văn Giàu, “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam”, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980

3. Trần Nho Thìn (2015), Văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa, Tạp chí văn

hóa Nghệ An, số 25.

4. Trương Hoài Phương (2011) – giữ gìn và phát huy giá trị truyền thống của
con người Việt Nam – một yêu cầu tất yếu khách quan trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, nguồn:
http://hocviencanbo.hochiminhcity.gov.vn/c/document_library/get_file?
uuid=31b10f7 a-1163-4aef-9ba4-
5. Trần Văn Giàu (1980), “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam”, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội

18

You might also like