You are on page 1of 19

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA: LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC


PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ PHỦ ĐỊNH VÀ VẬN DỤNG
PHÂN TÍCH VIỆC KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN SÁNG
TẠO CÁC GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG TRONG BỐI
CẢNH TOÀN CẦU HÓA HIỆN NAY

Sinh viên thực hiện : Phạm Hoàng Trúc


Mã sinh viên : 2214310119
Lớp tín chỉ : TRI114.7
Giảng viên hướng dẫn : Đào Thị Trang
Số thứ tự : 118

Hà Nội, tháng 11 năm 2022


TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA: LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC


PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ PHỦ ĐỊNH VÀ VẬN DỤNG
PHÂN TÍCH VIỆC KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN SÁNG
TẠO CÁC GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG TRONG BỐI
CẢNH TOÀN CẦU HÓA HIỆN NAY

Sinh viên thực hiện : Phạm Hoàng Trúc


Mã sinh viên : 2214310119
Lớp tín chỉ : TRI114.7
Giảng viên hướng dẫn : Đào Thị Trang
Số thứ tự : 118

Hà Nội, tháng 11 năm 2022


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU.…………………………………………………………...
………...1
NỘI DUNG.….…………………...………………………………………………..2
I. Phép biện chứng về phủ định…………………….……………….……………2
1. Phủ định và phủ định biện chứng………………………….........................2
1.1. Định nghĩa…………………………………………………..……..2
1.2. Các đặc trưng cơ bản của phủ định biện chứng………………….2
2. Quy luật phủ định của phủ định…………………………………………...3
3. Ý nghĩa của phương pháp luận……………………………………...……..4
II. Vận dụng phép biện chứng về phủ định trong việc kế thừa và phát triển
sáng tạo các giá trị truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay……….
……5
1. Giá trị truyền thống…………………………………………………………5
1.1. Khái niệm……………..…………………………………………….5
1.2. Giá trị truyền thống trong lịch sử phát triển dân tộc Việt Nam…..6
2. Vai trò của phủ định biện chứng trong việc kế thừa và phát triển sáng
tạo
các giá trị truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay…………………
6
2.1. Kế thừa truyền thống văn hóa của dân tộc ở nước ta hiện nay là sự
thống nhất của hai quá trình giữ lại và lọc bỏ........................................................7
2.2. Kế thừa truyền thống văn hóa của dân tộc ta trong bối cảnh hiện
nay chính là quá trình bổ sung, phát triển hơn nữa những “hạt nhân hợp lý”
trong truyền thống văn hóa, từ đó làm mới để phù hợp với yêu cầu của thời đại
mới (thời kì hiện đại hóa) ........................................................................................8
2.3. Kế thừa, phát triển và sáng tạo các giá trị văn hóa trong thời kì
hiện đại hóa cần loại bỏ, hạn chế khuynh hướng chủ quan và khuynh hướng
phủ định sạch trơn đồng thời khẳng định vấn đề “hòa nhập chứ không hòa
tan”………..9
2.4. Kế thừa và phát triển sáng tạo truyền thống văn hóa dân tộc gắn
liền với quá trình mở rộng giao lưu, học hỏi quốc tế và tiếp nhận những giá trị
văn hóa của các dân tộc khác trên thế
giới...................................................................10
KẾT LUẬN…………...………………………………………………………….12
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………...........…………….….13
LỜI NÓI ĐẦU
Toàn cầu hóa là một xu thế tất yếu của thời đại ngày nay. Trong hiện tại và
tương lai thì có thể xu thế này ngày càng tạo nên sự hội nhập sâu rộng trên mọi
lĩnh vực cả về đời sống xã hội và kinh tế tại các quốc gia, bao gồm Việt Nam.
Toàn cầu hóa mang đến cho các quốc gia những giá trị văn minh có tính phổ quát
nhân loại. Qua gần 20 năm với đường lối đúng đắn của Đảng, cùng với công cuộc
đổi mới và chủ động hội nhập quốc tế, Việt Nam từng bước vững chắc đạt được
những thành tựu rất đáng tự hào như: nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa đang từng bước được xây dựng; nền dân chủ XHCN với nhà nước pháp
quyền của dân, do dân, vì dân đã được thiết định. Việc hội nhập quốc tế giúp đất
nước có nhiều cơ hội phát triển ở nhiều mặt như kinh tế, xã hội,... Đồng thời đưa
những nét văn hóa đặc sắc của mỗi quốc gia vươn ra thế giới, làm phong phú thêm
nền văn hóa chung của nhân loại. Việt Nam cũng là một quốc gia nhận được nhiều
cơ hội, thuận lợi không nhỏ, điển hình là trong việc kế thừa là tiếp thu có chọn lọc
các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc và thế giới.
Bất cứ một sự thay đổi nào cũng có tính hai mặt. Một mặt, toàn cầu hóa sẽ
đem lại những điều kiện thuận lợi để phát triển, xây dựng kinh tế xã hội. Nhưng
mặt khác, nó cũng đem lại nhiều nguy cơ, nổi trội và đáng quan tâm. Đầu tiên phải
kể đến đó là khả năng rất lớn bị mất đi những giá trị truyền thống của dân tộc,
nguy cơ đánh mất bản sắc dân tộc. Một câu hỏi – đồng thời cũng là một thử thách
– mang tính thời sự và vô cùng thiết thực được đặt ra là: Làm thế nào để bảo tồn,
kế thừa và phát triển sáng tạo những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc trong
bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay?

Đứng trước vấn đề thách


thức này, một trong những
hướng giải quyết là
dựa vào phương pháp luận
phủ định biện chứng. Vì
1
thế tôi chọn đề tài:“Phép
biện
chứng về phủ định và vận
dụng phân tích việc kế thừa
và phát triển sáng tạo các
giá trị
tuyền thống trong bối cảnh
toàn cầu hóa hiện nay”.
Đứng trước vấn đề thách
thức này, một trong những
hướng giải quyết là
dựa vào phương pháp luận
phủ định biện chứng. Vì

2
thế tôi chọn đề tài:“Phép
biện
chứng về phủ định và vận
dụng phân tích việc kế thừa
và phát triển sáng tạo các
giá trị
tuyền thống trong bối cảnh
toàn cầu hóa hiện nay”.
Đứng trước vấn đề thách
thức này, một trong những
hướng giải quyết là
dựa vào phương pháp luận
phủ định biện chứng. Vì

3
thế tôi chọn đề tài:“Phép
biện
chứng về phủ định và vận
dụng phân tích việc kế thừa
và phát triển sáng tạo các
giá trị
tuyền thống trong bối cảnh
toàn cầu hóa hiện nay”.
Đứng trước vấn đề thách thức này, một trong những hướng giải quyết là dựa
vào phương pháp luận phủ định biện chứng. Vì thế tôi chọn đề tài: “Phép biện
chứng về phủ định và vận dụng phân tích việc kế thừa và phát triển sáng tạo
các giá trị truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay” . Khi nghiên
cứu đề tài này, tôi mong muốn được tìm hiểu rõ hơn về phép phủ định biện chứng
và ứng dụng thực tiễn của nó trong vấn đề giữ gìn, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống dân tộc.
Mục đích tiểu luận đó là làm rõ vấn đề văn hoá và bản sắc văn hóa dân tộc ở
Việt Nam. Đánh giá các mặt tích cực và hạn chế trong việc xây dựng nền văn hoá
Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong quá trình hội nhập ở nước ta. Vận
dụng quy luật phủ định của phủ định vào việc xây dựng nền nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Thành quả của vận dụng quy luật phủ định của
phủ định vào việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã nghiên cứu, đề xuất các giải pháp nhằm xây
dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc ở nước ta.
NỘI DUNG
I. PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ PHỦ ĐỊNH
1. Phủ định và phủ định biện chứng
4
1.1. Định nghĩa
Theo nghĩa thông thường, phủ định được hiểu là sự không thừa nhận, bác
bỏ, hay sự thay thế một sự vật, hiện tượng nào đó. Tùy theo thế giới quan và
phương pháp luận, các nhà triết học và trường phái triết học có quan niệm khác
nhau về sự phủ định. Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin, trong thế giới,
các sự vật, hiện tượng sinh ra tồn tại phát triển rồi mất đi, được thay thế bằng sự
vật, hiên tượng khác; thay thế hình thái tồn tại này bằng hình thái tồn tại khác của
cùng một sự vật, hiện tượng trong quá trình vận động phát triển của nó. Sự thay thế
đó là tất yếu trong quá trình vận động và phát triển của sự vật và sự thay thế đó
được triết học gọi là sự phủ định.
Theo quan điểm về duy vật biện chứng, sự chuyển hóa từ những thay đổi
về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, sự đấu tranh thường xuyên giữa các mặt đối
lập khiến cho mâu thuẫn được giải quyết, lúc này sự vật cũ mất đi sự vật mới ra
đời và thay thế. Sự thay thế diễn ra liên tục, không ngừng nghỉ đã tạo nên sự vận
động và phát triển mạnh mẽ của sự vật. Thực chất có thể hiểu rằng sự vật mới ra
đời là kết quả của sự phủ định sự vật cũ. Từ đó có thể thấy xã hội, tự nhiên vận
động thông qua những sự phủ định. Khi thì phủ định chấm dứt sự phát triển, khi
chính phủ định lại tạo ra điều kiện, tiền đề cho quá trình phát triển sự vật sự việc
một cách liên tục. Những điều nêu trên được gọi là phủ định biện chứng. Phủ định
biện chứng nói một cách ngắn gọn, dễ hiểu chính là phạm trù triết học dùng để chỉ
sự phủ định tự thân, sự phát triển tự thân, là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra
đời sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ. Ví dụ: Quá trình nảy mầm của hạt giống.
Trong ví dụ này mầm ra đời từ hạt giống, sự ra đời này chính là sự phủ định biện
chứng đối với hạt, nhờ sự ra đời này thì mới có quá trình tiếp tục phát triển thành
cây và sinh tồn. Quá trình phủ định của phủ định diễn ra vô tận trong bản thân của
mỗi sự vật và hiện tượng từ đó tạo nên sự vận động, phát triển vô tận của thế giới
vật chất.
1.2. Các đặc trưng cơ bản của phủ định biện chứng
Phủ định biện chứng có hai đặc trưng cơ bản: thứ nhất, nó mang tính
khách quan, là điều kiện của sự phát triển; thứ hai, nó mang tính kế thừa, là nhân tố
liên hệ giữa cái cũ và cái mới.
Đầu tiên là tính khách quan, phủ định biện chứng có tính khách quan vì
nguyên nhân của sự phủ định nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó cũng chính là
kết quả của quá trình đấu tranh giải quyết các mâu thuẫn của chính bản thân sự vật,
hiện tượng. Từ đây mọi thứ được phát triển, cái mới thay thế cái cũ, sự vật hiện
tượng nhờ đó tìm được xu hướng phát triển của bản thân nó. Chính vì thế việc phủ
định biện chứng không hề phụ thuộc vào ý chí hay ý muốn của bất cứ cái gì (kể cả
con người) mà chỉ dựa trên đặc tính , bản chất vốn có của bản thân. Yếu tố con
người chỉ khiến quá trình diễn ra nhanh hoặc chậm hơn dựa trên cơ sở nắm vững
5
quy luật phát triển của sự vật. Vì thế phủ định biện chứng cũng chính là sự tự thân
phủ định (hay nói cách khác là tự thân phát triển).
Thứ hai là tính kế thừa, phủ định biện chứng có tính kế thừa bởi nó không
phủ định hoàn toàn bản thân, không phủ định sạch trơn cái cũ mà thay vào đó là sự
phủ định bao hàm sự khẳng định. Ở đây tức là bản thân nó chỉ kế thừa những nhân
tố hợp quy luật và sẽ loại bỏ những nhân tố trái quy luật giống, không như chiếc
máy copy, giống như các loài vật đều có tính di truyền từ các thế hệ trước. Chính
vì thế cái mới ra đời là sự phát triển của cái cũ tích cực và bổ sung những cái mới
phù hợp với hiện thực. Từ đây, tính kế thừa đã tạo ra sự liên tục trong việc phát
triển và như sợi dây liên kết giữa cái cũ và cái mới. Như vậy có thể nói phủ định
biện chứng là vòng khâu, là khuynh hướng tất yếu của mọi sự liên hệ và phát triển.
Ví dụ như: mầm ra đời từ hạt; quả ra đời từ hoa…
Với đặc trưng như vậy, phủ định biện chứng không chỉ là nhân tố khắc
phục cái cũ, mà còn gắn liền cái cũ với cái mới, cái khẳng định với cái phủ định.
Vì vậy, phủ định biện chứng trở thành vòng khâu, khuynh hướng tất yếu của sự
liên hệ và sự phát triển.

2. Quy luật phủ định của phủ định


Trong thế giới vật chất thì sự vận động, thay đổi là vĩnh viễn, không
ngừng nghỉ. Vì sự thay đổi, vận động dựa trên phủ định biện chứng mà phủ định
biện chứng lại là quá trình vô tận, cái mới phủ định cái cũ, sau đó tiếp tục cái mới
lại bị một cái mới khác phủ định và trở thành cái cũ, dựa trên việc chắt lọc, kế thừa
những yếu tốc tích cực. Từ đó tạo tiền đề, khuynh hướng cho mọi sự phát triển của
sự vật, từ trình độ thấp đến cao, theo chiều hướng tăng lên, diễn ra với tính chất
chu kỳ theo hình “xoáy ốc” chứ không phải đường thẳng. Khuynh hướng phát triển
tất yếu của quy luật phủ định của phủ định dựa theo đường “xoay ốc” là tính kế
thừa, tính lặp lại và tính tiến lên. Mỗi vòng của đường “xoắn ốc” như thể hiện sự
lặp lại của hình thái sự vật cũ nhưng ở một trình độ cao hơn. Quá trình phủ định
biện chứng cứ thế tiếp tục, trải quả nhiều lần như thế thì được gọi là “phủ định của
phủ định”. Đó là cơ sở phương pháp luận của nguyên tắc phủ định biện chứng.
Ph.Ăngghen đã đưa ra một thí dụ để hiểu về quá trình phủ định này: “Hãy
lấy ví dụ hạt đại mạch. Có hàng nghìn triệu hạt đại mạch giống nhau được xay ra,
nấu chín và đem làm rượu, rồi tiêu dùng đi. Nhưng nếu một hạt đại mạch như thế
gặp những điều kiện bình thường đối với nó, nếu nó rơi vào một miếng đất thích
hợp, thì nhờ ảnh hưởng của sức nóng và độ ẩm, đối với nó sẽ diễn ra một sự biến
hoá riêng, nó nảy mầm: hạt đại mạch biến đi, không còn là hạt đại mạch nữa, nó bị
phủ định. Bị thay thế bởi cái cây do nó đẻ ra đây là sự phủ định hạt đại mạch.
Nhưng cuộc sống bình thường của các cây này sẽ như thế nào? Nó lớn lên, ra hoa,
thụ phấn và cuối cùng sinh ra những hạt mới, và khi hạt đại mạch đó chín thì thân
6
cây chết đi, bản thân nó bị phủ định. Kết quả của sự phủ định này là chúng ta lại có
hạt đại mạch như ban đầu, nhưng không phải chỉ là một hạt thóc mà nhiều gấp
mười, hai mươi. ba mươi lần”.
Ví dụ trên cho thấy, từ sự khẳng định ban đầu (hạt thóc ban đầu), trải qua
sự phủ định lần thứ nhất (cây lúa phủ định hạt thóc) và sự phủ định lần thứ hai
(những hạt thóc mới phủ định cây lúa), sự vật dường như quay trở lại sự khẳng
định ban đầu (hạt thóc), nhưng trên cơ sở cao hơn (số lượng hạt thóc nhiều hơn,
chất lượng hạt thóc cũng sẽ thay đổi, song khó nhận thấy ngay).
Sơ đồ cụ thể: Khẳng định (hạt thóc) — phủ định lần thứ nhất (cây lúa) —
phủ định lần thứ hai (hạt thóc).
Sự phát triển theo khuynh hướng phủ định của phủ định đã được một số
nhà biện chứng tự phát nêu ra từ lâu. Do chưa nhận thức sâu sắc tính biện chứng
của quá trình phát triển, một số nhà triết sau này đã tuyệt đối hoá tính lặp lại sau
một chu kỳ phát triển, từ đó hình thành quan niệm siêu hình xem sự phát triển như
là một quận trình diễn ra theo vòng tròn khép kín. Việc quan sát thấu đáo các quá
trình tự nhiên, xã hội và tư duy đã chỉ ra rằng, sự vận động diễn ra theo rất nhiều
xu hướng. Tính vô cùng tận của thế giới vật chất cũng biểu hiện cả trong tỉnh vô
cùng tận của các khuynh hướng vận động, trong đó, sự vận động theo vòng tròn
khép kín chỉ là một trong những khuynh hướng có thể có, đó không phải là khuynh
hướng duy nhất.
Từ những phân tích trên, quy luật phủ định của phủ định được rút ra như
sau: “Quy luật phủ định của phủ định nêu lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa cái
khẳng định và cái phủ định, nhờ đó phủ định biện chứng là điều kiện cho sự phát
triển, bảo tồn nội dung tích cực của các giai đoạn trước và bổ sung thêm những
thuộc tính mới làm cho sự phát triển đi lên theo đường xoắn ốc.”

3. Ý nghĩa phương pháp luận


Thứ nhất, quy luật này chỉ ra khuynh hướng tiến lên của sự vận động của
sự vật, hiện tượng; sự thống nhất giữa tính tiến bộ và tính kế thừa của sự phát triển;
sau khi đã trải qua các mắt xích chuyển hóa, có thể xác định được kết quả cuối
cùng của sự phát triển.
Thứ hai, quy luật này giúp nhận thức đúng về xu hướng của sự phát triển,
đó là quá trình diễn ra quanh co, phức tạp, không hề đều đặn thẳng tắp, không va
vấp, không có những bước thụt lùi. Trái lại là không biện chứng, không khoa học,
không đúng về mặt lý luận (V.I. Lênin).
Thứ ba, quy luật này giúp nhận thức đầy đủ hơn về sự vật, hiện tượng mới
ra đời phù hợp với quy luật phát triển, biểu hiện giai đoạn cao về chất trong sự phát
triển. Trong tự nhiên, sự xuất hiện của sự vật, hiện tượng mới diễn ra tự phát;

7
nhưng trong xã hội, sự xuất hiện mới gắn với nhận thức và hành động có ý thức
của con người.
Thứ tư, tuy sự vật, hiện tượng mới thắng sự vật, hiện tượng cũ, nhưng
trong thời gian nào đó, sự vật, hiện tượng cũ còn mạnh hơn; vì vậy, cần ủng hộ sự
vật, hiện tượng mới, tạo điều kiện cho nó phát triển hợp quy luật; biết kế thừa có
chọn lọc những yếu tố tích cực và hợp lý của sự vật, hiện tượng cũ làm cho nó phù
hợp với xu thế vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng mới.

II. VẬN DỤNG PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ PHỦ ĐỊNH TRONG VIỆC KẾ
THỪA VÀ PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO CÁC GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG
TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA HIỆN NAY
1. Giá trị truyền thống
1.1. Khái niệm
Nói đến “truyền thống” là nói đến phức hợp những tư tưởng, tình cảm,
những tập quán, thói quen, những phong tục, lối sống, cách ứng xử, ý chí,… của
một cộng đồng người đã hình thành trong lịch sử, đã trở nên ổn định và được
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong tiếng Latinh thì “truyền thống” là
“traditio” có nghĩa là nối truyền; còn trong từ điển Tiếng Việt thì lại được định
nghĩa là những thói quen đã được hình thành ở nhiều mặt từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Nói tóm lại “Truyền thống” có thể được 6 hiểu theo nghĩa là sự trao lại,
truyền lại của thế hệ trước cho thế hệ sau bằng nhiều hình thức như truyền miệng,
ghi chép và về mọi mặt, ví dụ như lối sống, cách suy nghĩ, tư tưởng, thói quen, tập
quán, cách cư xử, nghề nghiệp... Và tất cả những thứ đó đó đồng hành, trở thành
thói quen của cả một cộng đồng trong lịch sử, có tính ổn định, bền vững.
Nói đến “giá trị” tức là muốn khẳng định mặt tích cực, mặt chính diện,
nghĩa là đã bao hàm quan điểm coi giá trị gắn liền với cái đúng, cái tốt, cái hay, cái
đẹp, là nói đến cái có khả năng thôi thúc con người hành động và nỗ lực vươn tới.
Nếu dựa trên quan điểm biện chứng, thì truyền thống bao giờ cũng sẽ hai
mặt là mặt tích cực và mặt tiêu cực. Trong đó, mặt tích cực bao gồm những yếu tố
tích cực, tiến bộ, ưu việt, phù hợp với sự phát triển của xã hội, góp phần giữ gìn
bản sắc văn hoá dân tộc. Còn với mặt tiêu cực đó chính là sự trì trệ, ỳ lại của sự
bảo thủ, lạc hậu, làm ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của xã hội. Hai mặt đối lập
nhưng luôn tồn tại song song và đồng thời với nhau. Từ đó có thể khái quát “giá trị
truyền thống” là những cái đúng, cái tốt, cái đẹp, mặt ưu việt, tích cực, đặc trưng
nhất cho cả dân tộc. Dựa theo phép phủ định biện chứng thì cái sau sẽ lấy những
mặt tích cực của cái trước để làm tiền đề từ đó phát triển để tránh cái lỗi thời, lạc
hậu. Chính vì thế, “giá trị truyền thống” đó còn cần phải có tính phổ biến, cơ bản
và ảnh hưởng tích cực trong đời sống của một dân tộc, xã hội hay đất nước.

8
1.2. Giá trị truyền thống trong lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam
Trong lịch sử phát triển dân tộc, các giá trị truyền thống đã có vị thế cũng
như nội dung ổn định. Việt Nam luôn tự hào là một đất nước với bề dày truyền
thống lâu đời, với những giá trị văn hóa được hình thành trong suốt chiều dài lịch
sử dân tộc đã ăn sâu vào tiềm thức của người Việt và trở thành một bản sắc văn
hóa đặc trưng, đáng quý. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, yêu hòa bình, ý thức cộng
đồng sâu sắc, đạo lý “thương người như thể thương dân”, đoàn kết, cần cù, tinh
thần hiếu học, tôn sư trọng đạo, …Nhờ vào tinh thần dân tộc với nòng cốt chủ đạo
là tinh thần yêu nước đặc trưng của Việt Nam đã quy định trực tiếp đến sự ổn định
đó, ngoài ra còn có sự quy định bởi cơ sở kinh tế - xã hội đặc thù của dân tộc Việt
Nam. Hệ giá trị truyền thống Việt Nam lần đầu gặp phải thách thức của một hệ giá
trị mới khi Pháp xâm lược Việt Nam. Đó là lúc nền văn hóa nước ta được tiếp cận
với nền văn hóa hoàn toàn xa lạ - các giá trị văn minh kĩ thuật phương Tây. Ngoài
Việt Nam, đó cũng là vấn đề chung của cả khu vực Đông và Nam Á khi đó. Trong
thực tiễn lịch sử đã cho thấy rằng, dân tộc dung hòa được các giá trị truyền thống
với các giá trị hiện đại hay tìm được phương thực biểu hiện mới của giá trị truyền
thống trong thời hiện đại thì sẽ phát triển. Trong quá trình đó các giá trị phải được
gạn lọc, kết hợp với các giá trị mới để tạo nên một hệ giá trị mang cả giá trị truyền
thống lẫn giá trị hiện đại, nói cách khác là mang tinh thần thời đại nhưng lại có đặc
điểm của dân tộc.
Những truyền thống quý báu được truyền lại từ đời này sang đời khác,
không chỉ để dạy cho con cháu đời sau biết cách sống, cách ứng xử mà còn để kế
thừa, phát triển nhằm tạo nên cốt cách của người Việt Nam. Có thể thấy, các giá trị
văn hoá truyền thống không chỉ có ý nghĩa lịch sử, mà còn có tầm quan trọng trong
hiện tại và tương lai với công cuộc xây dựng đất nước hiện đại, phát triển, con
người văn minh, tiến bộ. Tuy nhiên trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện tại, các giá trị
truyền thống có phần không được nguyên vẹn, thậm chí là bị mai một, ít được các
thế hệ sau biết đến. Vì thế, việc gìn giữ, kế thừa và phát triển sáng tạo những giá trị
truyền thống quý báu của dân tộc được nhìn nhận như một thách thức tất yếu,
mang tính khách quan và cũng là một nhiệm vụ cấp thiết của Đảng và của mỗi
công dân đặc biệt trong thời kì hiện đại khi đất nước ta đang ngày một đổi mới,
phát triển, hòa nhập với thế giới theo xu hướng toàn cầu hóa.

2. Vai trò của phủ định biện chứng trong việc kế thừa và phát triển sáng tạo
các giá trị truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trong quá trình lãnh đạo đất
nước, Đảng ta luôn kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những di sản quý báu của dân tộc
và nhân loại. Trong đó, truyền thống văn hóa của dân tộc được Đảng ta kế thừa và
phát huy triệt để, góp phần trực tiếp nâng truyền thống văn hóa của dân tộc và các
9
giá trị của nó lên một tầm cao mới, với một chất lượng mới. Tính kế thừa là một
trong những đặc trưng cơ bản tất yếu của phép phủ định biện chứng. Do đó, tính kế
thừa không những là quy luật phát triển tất yếu của sự vật mà còn là sợi dây liên
kết bền vững giữa cái cũ và cái mới, giữa sự vật cũ và sự vật mới. Quá trình đấu
tranh giữa hình thái cũ và hình thái mới, sự vật cũ và sự vật mới vừa diễn ra sự lọc
bỏ và giữ lại những “hạt nhân hợp lý”, vừa bổ sung, phát triển và tạo ra các giá trị
mới đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thế giới.
Trước bối cảnh phức tạp của tình hình thế giới, khu vực và trong nước
hiện nay, dưới sự tác động mạnh mẽ của toàn cầu hóa, của cuộc cách mạng khoa
học - công nghệ, của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã, đang và sẽ đặt
ra cho chúng ta những khó khăn, thách thức lớn đối với việc kế thừa các giá trị
truyền thống văn hóa của dân tộc. Vì vậy, nhiệm vụ giữ gìn và phát huy các giá trị
truyền thống văn hóa của dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam XHCN thời kỳ mới càng trở nên cấp thiết và nặng nề hơn bao giờ hết.
2.1. Kế thừa truyền thống văn hóa của dân tộc ở nước ta hiện nay là sự
thống nhất của hai quá trình giữ lại và lọc bỏ
Có thể khằng định quan điểm: Kế thừa truyền thống văn hóa của dân tộc ở
nước ta hiện nay là sự thống nhất của hai quá trình giữ lại và lọc bỏ. Sự kế thừa đó
không phải là loại bỏ hoàn toàn hay phủ định sạch trơn truyền thống văn hóa, cắt
đứt sợi dây liên hệ giữa quá khứ, truyền thống với hiện tại và tương lai; nó cũng
không phải là bê nguyên xi hoàn toàn truyền thống văn hóa mà là sự kế thừa có
chọn lọc, kế thừa có điều kiện, tức là chỉ giữ lại những “hạt nhân hợp lý”, những
yếu tố còn tích cực, tiến bộ, đồng thời loại bỏ những yếu tố tiêu cực, lỗi thời, lạc
hậu trong truyền thống văn hóa dân tộc từ xa xưa.
Văn hóa Việt Nam với bản sắc của mình, qua bao lần tiếp biến vẫn không
bị sai lạc, phai mờ, thậm chí qua bao lần đất nước bị xâm lăng, dân tộc bị thôn tính
nhưng bản sắc thì không bao giờ mất, không những không mất mà ngày càng được
khẳng định và phát triển như giữ gìn Tết Nguyên Đán truyền thống, giỗ tổ Hùng
Vương,... Đó là những giá trị tiêu biểu mang tính ổn định, lâu dài và là điểm tựa để
Việt Nam phát triển đi lên. Mỗi lần tiếp biến nhờ vào bản lĩnh và sức sống của
mình, Việt Nam luôn lấy bản sắc dân tộc làm tiêu chí, lọc và tiếp thu những tinh
hoa tốt đẹp của các nền văn hóa khác trên thế giới làm giàu có và củng cố thêm,
làm phong phú thêm bản sắc văn hóa Việt Nam.
Vì quan điểm rõ ràng là giữ gìn và lọc bỏ nên khi nhận thức và hành động
các chủ thể cần có thái độ khách quan, cái nhìn đúng đắn, khoa học trong giữ gìn
truyền thống văn hóa dân tộc. Để kế thừa văn hóa theo quan điểm đó thì cần tích
cực đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu thông tin, thông qua điều tra, khảo sát và đánh giá
cũng như phân loại một cách hệ thống, đồng bộ để lưu giữa cũng như phát triển
những nền văn hóa còn tiến bộ, còn tác dụng. Cần kiên định, kiên quyết loại bỏ
10
những gì thuộc về văn hóa đã lỗi thời, lạc hậu, không còn phát huy tác dụng. Điển
hình ta có nạn tảo hôn, xuất hiện và đi kèm với một phong tục khác là hôn nhân
sắp đặt, quan niệm trọng nam khinh nữ, chế độ đa thê hay nhiều tập tục lạc hậu ở
miền núi khi có đám tang như thầy cúng yểm bùa, trừ ma, con cháu lăn đường,..
những phong tục tập quán lạc hậu này theo thời gian cũng đã được loại bỏ nhưng
số ít vẫn còn tồn tại.
2.2. Kế thừa truyền thống văn hóa của dân tộc ta trong bối cảnh hiện
nay chính là quá trình bổ sung, phát triển hơn nữa những “hạt nhân hợp lý”
trong truyền thống văn hóa, từ đó làm mới để phù hợp với yêu cầu của thời
đại mới (thời kì hiện đại hóa)
Để phát triển và hội nhập như ngày hôm nay thì Việt Nam cần quá trình
thay đổi từ bộ máy nhà nước đến tư duy cũng như các giá trị truyền thống. Quá
trình tiếp thu văn hóa ấy không phải xóa bỏ hoàn toàn mà chỉ làm mới nhưng vẫn
giữ nguyên bản chất sao cho phù hợp với những thời kì, giai đoạn lịch sử của đất
nước. Nước ta có những giá trị truyền thống độc đáo, mang sắc thái riêng, đặc
trưng của con người Việt Nam, chính vì thế việc kế thừa trong bối cảnh hiện nay
sao cho phù hợp với thời đại mới – thời kì hiện đại hóa. Song song với đó, cần
tránh cho các giá trị truyền thống trải dài qua các giai đoạn lịch sử của đất nước
không bị tách rời, tạo thành một dòng chảy liên tục. Xây dựng những giá trị mới
phải bám vào những giá trị cũ để từ đó hội nhập và phát triển nhưng việc xây dựng
đó phải theo quan điểm “hòa nhập không hòa tan”.
Trong bối cảnh hiện tại - xu thế toàn cầu hóa, nước ta muốn đưa đất nước
hội nhập sâu rộng, phát triển nhanh chóng thì không chỉ chính mỗi chính phủ mà
còn nhân
dân phải biết chắt lọc, để lại những giá trị còn phù hợp, những “hạt nhân hợp lý”.
Cần xây dựng, quán triệt toàn dân về việc kế thừa, phát triển sáng tạo giá trị truyền
thống dựa trên phép phủ định biện chứng, bảo vệ đất nước khỏi những thế lực thù
địch, vừa đi lên, vừa phát triển và đứng vững trên thị trường quốc tế nhưng vẫn
phải gìn giữ những giá trị truyền thống quý báu.
Đảng và Nhà nước luôn phải đặt sự kế thừa và phát triển các giá trị truyền
thống vào trong phép biện chứng, cụ thể là phủ định biện chứng. Ở đây tức là
không bỏ đi những cái nguồn cội, tinh hoa, không áp đặt ý kiến chủ quan mà cần
có sự hợp lý, logic trong việc kế thừa và phát triển, đặt việc bảo tồn trong các giá
trị hiện đại và phát triển những cái mới, hiện đại theo truyền thống.
Ví dụ thực tế như tinh thần yêu nước, đoàn kết dân tộc để giữ nước: “Cử
quốc nghênh địch”, “cả nước chung sức đánh giặc” của các triều đại phong kiến
Việt Nam trước đây có thể được kế thừa và nâng cao trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN thời kỳ mới thành tư tưởng đại đoàn kết toàn
dân, đại đoàn kết dân tộc, toàn dân tham gia phát triển kinh tế, toàn dân tham gia
11
xây dựng nền quốc phòng, toàn dân sẵn sàng tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc,
toàn dân tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Hay
trong thời kỳ 4.0, nước ta vẫn đang cố gắng nỗ lực từng ngày để lĩnh hội tri thức
dựa vào tinh thần hiếu học, ham học hỏi từ bao đời nay, để tiến lên thành một nước
công nghiệp hiện đại để phù hợp với xu thế của toàn thế giới.
2.3. Kế thừa, phát triển và sáng tạo các giá trị văn hóa trong thời kì hiện
đại hóa cần loại bỏ, hạn chế khuynh hướng chủ quan và khuynh hướng phủ
định sạch trơn đồng thời khẳng định vấn đề “hòa nhập chứ không hòa tan”
Hòa nhập nền văn hóa thế giới luôn là “con dao hai lưỡi”. Bên cạnh
những mặt tích cực, tất nhiên sẽ tồn tại những mặt tiêu cực. Khuynh hướng bảo
thủ, chủ quan và phủ định sạch trơn là vấn đề nan giải, ăn sâu vào tiềm thức của đa
số nhân dân ta do chịu ảnh hưởng của xã hội phong kiến trong thời gian dài. Trong
hai khuynh hướng này, phủ định sạch trơn là khuynh hướng xuất hiện ngay từ
những năm đầu xây dựng CNXH ở nước Nga. Những người theo khuynh hướng
phủ định sạch trơn tập hợp trong phái “văn hóa vô sản” chủ trương xây dựng một
nền văn hóa mới từ đầu, đoạn tuyệt hẳn với văn hóa của chế độ Nga hoàng
cũ.V.I.Lênin đã kịch liệt phê phán những người theo khuynh hướng này. Ở Việt
Nam, khuynh hướng phủ định sạch trơn đã từng xuất hiện trong cuộc cách mạng tư
tưởng và văn hóa trước đây. Hậu quả trong thực tế cho thấy nhiều truyền thống văn
hóa tốt đẹp đã bị xuống cấp và xóa bỏ hoặc lãng quên. nhiều di tích lịch sử, văn
hóa bị tàn phá nặng nề hoặc bị xuống cấp nghiêm trọng. Nhiều phong tục, tập quán
tốt đẹp không được bảo tồn, lưu giữ, dần dần bị mai một. Điển hình là nhiều người
cho rằng bản sắc dân tộc là cũ, lạc hậu nhàm chán và chạy theo văn hóa phương
Tây, coi đó là văn hóa của mình, chối bỏ hoàn toàn văn hóa dân tộc bao đời của
nước ta. Ngoài ra, trong thời điểm hiện tại, làn sóng Hàn Quốc, Trung Quốc hay
Ây Mỹ đã và đang tác động đến đời sống, cách suy nghĩ và cả giá trị truyền thống
của người Việt Nam, điển hình như khi người trẻ làm mất sự trong sáng của tiếng
Việt. Vì thế trong thời kì hiện đại hóa, đất nước muốn phát triển thì song song với
đó cũng cần chắt lọc, lựa chọn những tinh hoa, tri thức, văn hóa phù hợp, tích cực
của thế giới để học hỏi giao lưu, không thể Tây hóa, Âu hóa mọi mặt.
Khuynh hướng bảo thủ thực chất là khuynh hướng đề cao, tuyệt đối hóa
những giá trị văn hóa truyền thống dân tộc; coi truyền thống văn hóa là cái bất
biến, không thể thay đổi vậy nên cần phải kế thừa y nguyên, không cần loại bỏ
cũng như không cần bổ sung thêm bất cứ giá trị nào. Hậu quả của khuynh hướng
này cũng vô cùng nặng nề, nó dẫn đến từ chối sự tiếp thu, phát triển, văn minh,
tiên tiến của xã hội loài người. Đó cũng chính là lý do khiến dân tộc ta xưa kia
chưa thể phát triển một cách nhanh chóng, toàn diện. Việc loại bỏ, hạn chế khuynh
hướng, tư tưởng trên là điều cần thiết trong thời buổi hiện đại hóa.

12
2.4. Kế thừa và phát triển sáng tạo truyền thống văn hóa dân tộc gắn
liền với quá trình mở rộng giao lưu, học hỏi quốc tế và tiếp nhận những giá trị
văn hóa của các dân tộc khác trên thế giới
Điều này đã được ý thức từ đời ông cha ta, hiểu rõ được tầm quan trọng, ý
nghĩa của giá trị truyền thống của một dân tộc. Mở rộng giao lưu và tiếp biến văn
hóa giữa các quốc gia, dân tộc với nhau là một vấn đề có tính quy luật của mọi nền
văn hóa, đồng thời, cũng là một trong những động lực cơ bản thúc đẩy sự phát
triển văn hóa của mỗi dân tộc. Đảng ta chỉ rõ: “Văn hóa Việt Nam là thành quả
hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước
của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thụ tinh hoa của
nhiều nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình”.
Tuy nhiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam trước đây, đã từng có thời kỳ
cha ông ta thực hiện chính sách “bế quan tỏa cảng”, đóng cửa tự ru ngủ mình,
không giao lưu với bên ngoài, từ chối con đường tiếp cận văn minh của nhân loại
nhằm giữ cho được “nếp nhà”, giữ được thuần phong mỹ tục của dân tộc. Điều này
làm ta nhớ đến khuynh hướng bảo thủ. Và đúng như hậu quả nêu trong mục 2.3,
trong thực tiễn lịch sử quan niệm này lại rất bất cập, chủ quan và gây hậu quả lớn
khi vừa không tự bảo vệ được Tổ quốc mà còn mất nước, dân chúng lầm than lạc
hậu.
Hiện nay, dưới sự tác động của xu hướng toàn cầu hóa, cuộc cách mạng
khoa học – công nghệ, cùng với công cuộc đổi mới đất nước, việc mở rộng giao
lưu và tiếp biến với những giá trị văn hóa của các dân tộc khác trên thế giới được
đặt ra như một tất yếu. Văn hóa của dân tộc được truyền bá ra bên ngoài, được tiếp
xúc nhiều hơn với các nền văn hóa khác để học hỏi, trao đổi, so sánh, tiếp nhận,
tiếp biến, làm phong phú thêm truyền thống văn hóa của dân tộc. Chẳng hạn,
truyền thống quân sự Việt Nam là một trong những giá trị đặc sắc và độc đáo của
truyền thống văn hóa dân tộc mà cả thế giới phải thừa nhận. Trong cái đặc sắc và
độc đáo đó có sự giao lưu và tiếp biến, kế thừa sáng tạo và gộp của những tinh hoa
quân sự trên thế giới. Nếu không có quá trình này thì không thể tạo ra cái đặc sắc
và độc đáo trong truyền thống quân sự Việt Nam. Hay Việt Nam từ một đất nước
thuần nông, lạc hậu đã đi lên trình độ công nghiệp, ngày một văn minh, hiện đại và
tiên tiến. Công nghệ càng hiện đại thì đồng nghĩa với nó là càng hội nhập, mở cửa,
phát triển nền văn hóa. Vì vậy mà qua các kênh giao lưu, hợp tác quốc tế, hay
trang mạng xã hội các giá trị văn hóa không chỉ được bảo tồn, kế thừa mà còn phát
triển, truyền bá trên thế giới, được tiếp xúc nhiều hơn với các nền văn hóa khác.
Vì thế, ta có thể thấy được rằng giá trị truyền thống muốn tồn tại và phát
triển, thì tất yếu phải mở rộng giao lưu và học hỏi với những tinh hoa hiện đại,
khoa học của thế giới. Tiếp thu trong tư thế chủ động là điều kiện của việc xử lý
mối quan hệ biện chứng nội sinh, ngoại sinh. Nguyên tắc tiếp thu là lấy bản sắc
13
văn hoá của mình làm gốc, lấy tiêu chí văn hoá làm bộ lọc, tiếp thu các văn hoá
hiện đại của thế giới, lấy cái tiến bộ bổ sung cho cái thiếu hụt trong văn hoá truyền
thống, tạo thuận lợi cho văn hoá dân tộc phát triển.

14
KẾT LUẬN
Từ những vấn đề đã được làm rõ ở trên, ta có thể nhận thấy được tầm quan
trọng, tính cần thiết vấn đề kế thừa, phát triển và sáng tạo các giá trị truyền thống
nhất là trong thời kì hiện đại hóa, một thời kỳ với những bước ngoặt, sự thay đổi
chóng mặt. Thế giới đang chuyển đồi từng giờ, từng phút với tốc độ chóng mặt.
Cùng với sự phát triển ngày càng cao của khoa học kĩ thuật, của đời sống và xã hội
là sự xuất hiện những giá trị hiện đại đối với từng quốc gia, từng dân tộc. Vấn đề
được đặt ra ở đây là đất nước ta phải làm thế nào để giảm, hạn chế đi những tác
động tiêu cực đến các giá trị truyền thống thì hiện nay vẫn còn là vấn đề rất nan
giải và chưa thể giải quyết triệt để.
Muốn giải quyết được vấn đề này cần phải có khả năng, phân tích, đánh giá.
Dựa vào giá trị truyền thống dân tộc với tư cách là cơ sở nền tảng, chúng ta có thể
thực hiện được điều trên, giá trị truyền thống là cùng một loại với giá trị nhân loại.
Giá trị nhân loại khi vào nước ta sẽ cùng với giá trị truyền thống làm nên giá trị
mới của dân tộc. Giá trị nhân loại có thể là một nhân tố nâng cao giá trị truyền
thống, làm cho giá trị truyền thống mang bộ mặt hiện đại, đáp ứng yêu cầu của con
người hiện đại nhiều hơn. Mặt khác, giá trị nhân loại khi được con người dân tộc
chấp nhận, được lặp đi lặp lại qua một vài thế hệ cũng có thể trở thành giá trị
truyền thống. Cứ như thế, giá trị truyền thống ngày càng một phong phú thêm,
nâng cao hơn.
Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức đúng đắn về xu
hướng phát triển của sự vật. Quá trình phát triển của bất kỳ sự vật nào cũng không
bao giờ đi theo đường thắng mà diễn ra quanh co, phức tạp trong đó bao gồm
nhiều chu kỳ khác nhau. Chu kỳ sau bao giờ cũng tiến bộ hơn chu kỳ trước. Vì
vậy, quá trình kế thừa và phát triển giá trị truyền thống của nước ta cùng đều diễn
ra theo chiều hướng đó.

15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình "Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac-Lênin", Nxb Chính
trịQuốc gia, Hà Nội, 2010

2. V.I.Lênin: "Toàn tập", Nxb Tiến bộ, Matxcova, 1981

3. Trần Văn Giàu, "Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam", Nxb
Khoahọc xã hội, Hà Nội, 1980

4. Kim Dung, Hoà nhập văn hoá và nỗi lo "hoà tan", http://vov.vn/van-hoa/hoa-
nhap-van-hoa-va-noi-lo-hoa-tan-263938.vov

5. Công nghiệp hóa – hiện đại hóa và vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc –
Nguyễn Văn Huyên

6. Giáo trình triết học Mác – Lênin ( dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận
chính trị )

16

You might also like