You are on page 1of 28

TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ ĐỐI NGOẠI

KHOA THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

BÀI TIỂU LUẬN


MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC. LIÊN
HỆ VỚI VIỆC HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY

Bộ môn: CHÍNH TRỊ


Giảng viên: NGUYỄN THỊ QUẾ
Sinh viên thực hiện: NGUYỄN HOÀNG YẾN NHI
Lớp: CĐKDXK24M
Mssv: 2002039
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến cô Nguyễn Thị Quế.
Trong quá trình học tập và tìm hiểu bộ môn Chính Trị, em nhận được sự quan tâm giúp
đỡ, hướng dẫn rất tận tình, tâm huyết của cô. Cô đã giúp em tích lũy thêm nhiều kiến
thức để có cái nhìn sâu sắc và hoàn thiện hơn trong cuộc sống. Từ những kiến thức mà
cô truyền tải, em đã dần trả lời được những câu hỏi trong cuộc sống thông qua những Tư
tưởng Triết học Mác-Lênin. Thông qua bài tiểu luận này, em xin trình bày lại những gì
mình đã tìm hiểu vấn đề “Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Liên hệ với việc học tập
của sinh viên hiện nay.”
Có lẽ kiến thức là vô hạn mà sự tiếp nhận kiến thức của bản thân mỗi người luôn
tồn tại nhưng hạn chế nhất định. Do đó, trong quá trình hoàn thành bài tiểu luận, chắc
chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Bản thân em rất mong nhận được những góp ý
đến từ cô để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn.
Kính chúc cô nhiều sức khỏe, đặc biệt trong mùa dịch Covid này, hạnh phúc,
thành công trên con đường sự nghiệp giảng dạy. Và mong có thể hai 2 cô trò sớm gặp
lại nhau vào những môn khác.
Em xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU ...................................................................................................... 3


CHƯƠNG 1 - LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT
VÀ Ý THỨC .................................................................................................................... 4
1.1 Vật chất ................................................................................................ 4
1.1.1 Định nghĩa vật chất ................................................................ 4
1.1.2 Các hình thức tồn tại của vật chất .......................................... 5
1.2 Kết cấu, nguồn gốc và bản chất của ý thức: ........................................ 8
1.2.1 Kết cấu cúa ý thức.................................................................. 8
1.2.2 Nguồn gốc của ý thức ............................................................ 9
1.2.3 Bản chất của ý thức .............................................................. 10
1.3 Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức .................................................. 12
1.3.1 Vật chất quyết định ý thức ................................................... 12
1.3.2 Vật chất quyết định hình thức biểu hiện, mọi sự biến đổi của
ý thức........................................................................................................ 13
1.3.3 Sự tác động trở lại của ý thức với vật chất .......................... 13
CHƯƠNG 2 - VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
VỚI VIỆC HỌC VÀ HÀNH CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY ....................................... 15
2.1 Những mặt tích cực ............................................................................ 15
2.2 Mặt hạn chế ........................................................................................ 15
2.3 Sự quan tâm của Đảng Nhà nước tới nền giáo dục đại học ............... 17
2.4 Giải pháp ............................................................................................ 18
2.4.1 Giải pháp nâng cao việc học và hành của sinh viên hiện nay.
.................................................................................................................. 18
2.4.2 Kiến nghị về phát triển giáo dục đại học ............................. 19

1
CHƯƠNG 3 - VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT
CHẤT – Ý THỨC TRONG CUỘC SỐNG HỌC TẬP CỦA BẢN THÂN .................. 22
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................... 26

2
LỜI NÓI ĐẦU
Những thành tựu trong công cuộc đổi mới trong thời gian qua đã và đang tạo ra
một thế lực mới để nước ta bước vào một thời kì phát triển mới. Nhiều tiền để cần thiết
về cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa đã được tạo ra, quan hệ giữa nước ta và các
nước trên thế giới ngày càng được mở rộng. Khả năng giữ vững độc lập trong hội nhập
với cộng đồng thế giới được tăng lên. Cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát
triển với trình độ ngày càng cao, thúc đẩy quá trình chuyển dịch kinh tế và đời sống xã
hội.
Các nước đều có cơ hội phát triển. Tuy nhiên, do ưu thế công nghệ và thị
trường mục thuộc về các nước phát triển khiến cho các nước chậm phát triển đứng
trước một thách thức to lớn. Nguy cơ tụt hậu ngày càng cao, mà điểm xuất phát của
nước ta quá thấp, lại phải đi lên từ môi trường cạnh tranh quyết liệt.
Trước tình hình đó, cùng với xu thế phát triển của thời đại, Đảng và nhà nước
cần tiếp tục tiến hành đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trong đó đổi
mới kinh tế đóng vai trò then chốt, giữ vai trò chủ đạo. Đồng thời đổi mới kinh tế là
một vấn đề cấp bách, bởi giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị có mối quan hệ
giàng buộc chặt chẽ với nhau không thể tách rời nhau. Chính vì vậy tìm hiểu mối quan
hệ giữa vật chất và ý thức sẽ cho chúng ta phép vận dụng vào mối quan hệ giữa kinh tế
và chính trị, giúp cho công cuộc đổi mới của đất nước ngày càng giàu mạnh.
Với ý nghĩa đó sau nột thời gian nghiên cứu và học tập, cùng với sự hướng dẫn
nhiệt tình của cô giáo em đã lựa chọn đề tài “ Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Liên hệ với việc học tập của sinh viên hiên nay”.

3
CHƯƠNG 1 - LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1.1 Vật chất
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vật chất: Trên cơ sở phân tích một cách
sâu sắc và khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên, kế thức tư tưởng
chủ nghĩ Mác-Anghen về đối lập giữa vật chất và ý thức vể bản chất và tính thống nhất
của thế giới, về khái quát của phạm trù vật chất và sự tồn tại của vật chất dưới các dạng
cụ thể … vào năm 1908. Trong tác phẩm chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm
phê phán Lênin đã nêu ra định nghĩa khoa học và hoàn chỉnh về vật chất.
1.1.1 Định nghĩa vật chất
Vật chất là phạm trù triết học phức tạp và có nhiều quan niệm khác nhau về nó.
Nhưng theo Lênin định nghĩa: “ Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại
khách quan đem lại cho con người trong cảm giác, được cản giác của chúng ta chép
lại,chụp lại,phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Lênin chỉ rõ ràng,để định nghĩa vật chất không thể theo khái niệm thông
thường vì khái niệm vật chất là khái niệm rộng nhất. Để định nghĩa vật chất Lênin đã đối
lập vật chất có ý thức, hiểu vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác,vật chất tồn tại độc lập với cảm giác, ý thức,còn cảm giác, ý thức phụ
thuộc vào vật chất phản ánh khách quan
Khi đinh nghĩa vật chất là phạm trù triết học, Lênin một mặt muốn chỉ rõ vật
chất là khái niệm rộng nhất, muốn phân biệt tư cách là phạm trù triết học, là kết quả của
sự khái quát và trừu tượng với những dạng vật chất cụ thể, với những “ hạt nhân cảm
tính”. Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học không có những đặc tính cụ thể có
thể cảm thụ được. Định nghĩa vật chất như vậy khắc phục được những quan niệm siêu
hình của chủ nghĩa duy vật đồng nhất vật chất với hình thức biểu hiện cụ thể của nó.

4
Lênin cho rằng vật chất vốn tự nó có, không thể tiêu diệt được, nó tồn tại bên
ngoài và không lệ thuộc vào cảm giác, ý thức con người, vật chất là một thực tại khách
quan. Khác với quan niệm ý niêm tuyệt đối của CNDTKQ, “ thượng đế” của tôn giáo…
Vật chất không phải là lực lượng siêu tự nhiên tồn tại lơ lửng ở đâu đó, trái lại phạm trù
vật chất là kết quả của sự khái quát sự vật, hiện tượng cụ thể và do đó các đối tượng vật
chất có thật, hiện thực đó có khả năng tác động vào giác quan để gây ra cảm giác, và nhờ
đó mà ta có thể biết được, hiểu được và nắm bắt sự vật này. Định nghĩa của Lênin đã
khẳng định được câu trả lời về hai mặt của vấn đề cơ bản của triết học.
Hơn thế nữa Lênin còn khẳng định cảm giác chép lại,chụp lại,phản ánh và tồn
tại không lệ thuộc vào cảm giác. Khẳng định như vậy một mặt muốn nhấn mạnh tính thứ
nhất của vật chất, vai trò quyết định của nó với vật chất, và mặt khác khẳng định khả
năng nhận thức thế giới khách quan của con người. Nó không chỉ phân biệt chủ nghĩa
duy vật với chủ nghĩa duy tâm, với thuyết không thể biết mà còn phân biệt chủ nghĩa
duy vật với nhị nguyên luận.
Như vậy, chúng ta thấy rằng định nghĩa vật chất của Lênin là hoàn toàn triệt để,
nó giúp chúng ta xác định được nhân tố vật chất trong đời sống xã hội, có ý nghĩa trực
tiếp định hướng cho nghiên cứu khoa học tự nhiên giúp ngày càng đi sâu vào các dạng
cụ thể của vật chất trong giới vi mô. Nó giúp chúng ta có thái độ khách quan trong suy
nghĩa và hành động.
1.1.2 Các hình thức tồn tại của vật chất
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng vật chất tồn tại bằng vận động và vận
động của vật chất diễn ra trong không gian và thời gian vì vậy vận động, không gian và
thời gian là hình thức tồn tại của vật chất
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất và là thuộc tính cố hữu của vật
chất: Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là sự biến đổi nói
chung, chứ không phải là sự chuyển dịch trong không gian. Ăngghen cho rằng vận động
là một phương thức tồn tại vật chất, là thuộc tính cố hữu của vất chất, gồm tất cả mọi sự

5
thay đổi trong mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ. Vận động có 5 hình thức vận động
chính là cơ-hóa-lý-sinh-xã hội. Các hình thức vận động này có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, một hình thức vận động này thực hiện là tác động qua lại với những hình thức vận
động khác, trong đó vận động cao bao gồm vận thấp nhưng không thể coi hình thức vận
cao là tổng số đơn các hình thức vận đông thấp.
Thế giới khách quan bao giờ cũng tồn tại không ngừng không thể có vật chất
không vận đọng, tức vật chất tồn tại. Vật chất thông qua vận động mà biểu hiện sự tồn
tại của mình. Ăngghen nhận định rằng các hình thức và các dạng khác nhau của vật chất,
chỉ có thể nhận thức được thông qua vận động mới có thể thấy được thuộc tính của nó.
Trong thế giới vật chất từ các hạt cơ bản trong vi mô trong hệ thống hành tinh khổng lồ.
Bất cứ một dạng vật chất nào cũng là một thể thống nhất có kết cấu xác định
gồm những bộ phận nhân tố khác nhau, cùng tồn tại ảnh hưởng và tác động lẫn nhau gây
ra nhiều biến đổi. Nguồn gốc vận động do những nguyên nhân bên trong, vận động vật
chất là tự thân vận động.
Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, không thể có vận động bên ngoài
vật chất. Nó không do ai sáng tạo ra và không thể tiêu diệt được do nó được bảo toàn cả
số lượng. Khoa học đã chứng minh rằng nếu một hình thức vận động nào đó của sự vật
mất đi thì tất yếu nó nảy sinh một hình thức vận động khác thay thế. Các hình thức vận
động chuyển hóa lẫn nhau còn vận động của vật chất vĩnh viễn tồn tại.
Mặc dù vận động luôn ở trong quá trình không ngừng,nhưng điều đó không loại
trừ mà còn bao hàm cả hiện tượng đứng im tương đối, không có nó thì không có sự phân
hóa thế giới vật chất thành các sự vật, hiện tượng phong phú và đa dạng. Ăngghen khẳng
định rằng khả năng đứng im tương đối của các vật thể, khả năng cân bằng tạm thời là
những điều kiện chủ yếu của sự phân hóa vật chất. Nếu vận động là biến đổi của các sự
vật hiện tượng thì đứng im là sự ổn định, là sự bảo toàn tính quy định sự vật hiện tượng.
Đứng im chỉ một trạng thái vận động, vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương
đối. Trạng thái đứng im còn được biểu hiện như là một quá trình vận động trong phạm

6
vi sự vật ổn định, chưa biến đổi, chỉ là tạm thời vì nó chỉ xảy ra trong một thời gian nhất
định. Vận đọng riêng biệt có xu hướng phá hoạt sự cân bằng còn vận động toàn thể lại
phá hoại sự cân bằng riêng biệt làm cho các sự vật luôn biến đổi, chuyển hóa nhau.
Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất: Vật chất
luôn vận động và phát triển, sự vận động ấy không ở đâu khác. “Ngoài không gian và
thời gian”. Không gian và thời gian là một thuộc tính khách quan của vật chất, gắn liền
với sự vận động của vật chất. Mọi sự vật tồn tại khách quan đều có vị trí, có hình thức
kết cấu, có độ dài ngắn, ngang dọc, cao thấp của nó, tất cả những thuộc tính đó được gọi
là không gian. Mọi sự vật đều ở trong trạng thái không ngừng biến đổi, mà mọi sự biến
đổi diễn ra đều có quá trình, có độ dài của sự diễn biến, nhanh, chậm kế tiếp nhau, tất cả
những thuộc tính đó được gọi là thời gian. Như vậy, không gian và thời gian là thuộc
tính khách quan, nội tại của bản thân vật chất. Không gian là hình thức tồn tại của vật
chất vận động về mặt vị trí, quảng tính, kết cấu, còn thời gian là hình thức tồn tại của vật
chất vận động về mặt độ dài diễn biến, sự kế tiếp nhau của quá trình.
Chính vì vậy Lênin viết: “ trong thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận
động và vật chất đang vận động ấy không thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời
gian”.
Tính thống nhất vật chất thế giới: Chỉ có một thế giới thống nhất và duy nhất
là thế giới vật chất. Thế giới vật chất tồn tại khách quan có trước và độc lập với ý thức
của con người.
Mọi sự vật hiện tượng của thế giới đều có mối liên hệ vật chất với nhau, chúng
đều là những dạng cụ thể của vật chất.
Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn và vô tận. Trong thế giới đó không có gì khác
ngoài vật chất đang biến đổi và chuyển hóa lẫn nhau theo quy luật khách quan của thế
giới vật chất.
Tính vật chất của thế giới được biểu hiện cụ thể trong đời sống hiện thực của con
người. Đó là con người không bao giờ bằng ý thức của mình sản sinh ra được các đối

7
tượng vật chất khác con người có ý thức chỉ có thể nhận thức được quy luật vận động,
phát triển của thế giới vật chất, cải biến thế giới vật chất theo những quy luật khách quan
vốn có của nó.

1.2 Kết cấu, nguồn gốc và bản chất của ý thức:


1.2.1 Kết cấu cúa ý thức
Cũng như vật chất có rất nhiều quan niệm về ý thức theo các trường phái khác
nhau. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là đặc
tính và là sản phẩm của vật chất, là sự phản ánh khách quan vào bộ óc con người thông
qua lao động và ngôn ngữ. Mác nhận mạnh rằng tinh thần ý thức là chẳng qua chỉ là cái
vật chất được di chuyển vào bộ óc con người và được cải biến trong đó. Ý thức là một
hiện tượng tâm lý xã hội có kết cấu phức tạp gồm ý thức, tri thức, tình cảm, ý chí trong
đó tri thức là quan trọng nhất, là phương thức tồn tại của ý thức, vì sự hình thành và phát
triển của ý thức có liên quan mật thiết với quá trình con người nhận thức cà cải biến giới
tự nhiên. Tri thức càng được tích lũy con người càng đi sâu vào bản chất của sự vật và
cải tạo sự vật có hiệu quả hơn, tính năng động của ý thức nhờ đó mà tăng hơn. Việc nhấn
mạnh tri thức là yếu tố cơ bản quan trọng có ý nghĩa chống quan điểm đơn giản coi ý
thức là tình cảm, niềm tin… Quan điểm đó chính là bệnh chủ quan duy ý chí của niềm
tin mù quáng. Tuy nhiên việc nhấn mạnh yếu tố tri thức cũng không đồng nghĩa với việc
phủ nhận coi nhẹ yếu tố vai trò tình cảm ý chí.
Tự ý thức cũng là một yếu tố quan trọng mà chủ nghĩa duy tâm coi nó là một
thực thể độc lập có sẵn trong cá nhân, biểu hiện xu hướng về bản thân mình, tự khẳng
định cái tôi riêng biệt tách rời xã hội. Trái lại chủ nghĩa duy vật biện chứng tự ý thức là
hý thức hướng về nhận thức bản thân mình thông qua quan hệ với thế giới bên ngoài.
Khi phản ánh thế giới khách quan con người tự phân biệt mình, đối lập mìn với thế giới
đó là sự nhận thức mình như là một thực thể vận động, có cảm giác, tư duy có các hành
8
vi đạo đức và vị trí xã hội đòi hỏi con người nhận rõ bản thân mình và tự điều chỉnh theo
các quy tắc tiêu chuẩn mà xã hội đề ra. Ngoài ra văn hóa cũng đóng vai trò của gương
soi giúp cho con người tự ý thức bản thân.
Vô thức là một hiện tượng tâm lý, nhưng có liên quan đến hoạt động xảy ra ở
ngoài phạm vi của ý thức. Có 2 loại vô thức: loại thứ nhất liên quan đến các hành vi chưa
được con nguồi ý thức, loại thứ hai liên quan đến các hành vi trước kia đã được ý thức
nhưng do lặp lại nên trở thành thói quen, có thể diễn ra tự động bên ngoài sự chỉ đạo của
ý thức. Vô thức ảnh hưởng đến nhiều phạm vi hoạt động của con người. Trong những
hoàn cảnh nó có thể giúp con nguồi giảm bớt sự căng thẳng trong hoạt động. Việc tăng
cường rèn luyện để biến thành hành vi tích cực thành thói quen, có vai trò quan trọng
trong đời sống.
1.2.2 Nguồn gốc của ý thức
Nguồn gốc tự nhiên: Ý thức ra đời là kết quả của sự phát triển lâu dài của gới tự
nhiên cho tới khi xuất hiện con người và bộ óc. Khoa học chứng minh rằng thế giới vật
chất nói chung và trái đất nói riêng đã từng tồn tại rất kaau trước khi xuất hiện con người,
rằng hoạt động ý thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thầnh kinh bộ
não người. Không thể tách rời ý thức ra khỏi bộ não vì ý thức là chức năng bộ não, bộ
não là khí quản của ý thức. Sự phụ thuộc ý thức vào hoạt động não bộ thể hiện khi bộ
não bị tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ bị rối loạn. Tuy nhiên không thể quy một cách
đơn giản ý thức về quá trình sinh lý bởi vì óc chỉ là cơ quan phản ánh. Sự xuất hiện của
ý thức gắn liền sự phát triển đăc tính phản ánh, nó phát triển cùng với sự phát triển của
tự nhiên. Sự xuất hiện của xã hội loài người đưa lại hình thức cao nhất của sự phản ánh,
đó là sự phản ánh ý thức luôn gắn liền với việc làm cho tự nhiên thích nghi với nhu cầu
phát triển của xã hội.
Nguồn gốc xã hội: Sự ra đời của ý thức gắn liền hình thành với sự phát triển của
bộ óc con người dưới ảnh hưởng của lao động và giao tiếp quan hệ xã hội.

9
Lao động của con người là nguồn gốc vật chất có tính xã hội nhằm cải tạo tự
nhiên, thỏa mãn nhu cầu và phục vụ mục đích bản thân con người. Nhờ nó mà con người
và xã hội loài người mới hình thành và phát triển. Lao động là phương thức tồn tại cơ
bản đầu tiên của con người, đồng thời ngay từ đầu đã liên kết con người với nhau trong
mối quan hệ khách quan, tất yếu; mối quan hệ này đến lượt nó nảy sinh nhu cầu trao đổi
kinh nghiệm và tổ chức lao động, nhu cầu. Và kết quả là ngôn ngữ ra đời. Ngôn ngữ
được coi là cái vỏ vật chất của tư duy, với sự xuất hiện của ngôn ngữ, tư tưởng con người
có khả năng biểu hiện thành hiện thức trực tiếp, trở thành tín hiệu vật chất tác động tới
giác quan của con người và gây ra cảm giác. Nhờ có nó mà con người có thể giao tiếp,
trao đổi, truyền đạt kinh nghiệm cho nhau, thông qua đó mà ý thức cá nhân trở thành ý
thức xã hội, và ngược lại. Chính nhờ trừu tượng hóa và khái quát hóa tức là quá trình
hình thành thực hiện ý thức, chính nhờ nó mà con người có thể đi sâu vào bản chất của
sự vật, hiện tượng đồng thời tổng kết hoạt động của mình trong toàn bộ quá trình phát
triển lịch sử.
1.2.3 Bản chất của ý thức
Ý thức là cái phản ảnh thế giới khách quan, nhưng nó là cái thuộc phạm vi chủ
quan, là thực tại chủ quan, không có tính vật chất. Ý thức là hình ảnh phi cảm tính của
các đối tượng vật chất có tồn tại cảm tính. Nếu coi ý thức cũng là một hiện tượng vật
chất thì sẽ lẫn lộn giữa vật chất và ý thức , làm mất ý nghĩa của sự đối lập giữa vật chất
và ý thức, từ đó dẫn đến làm mất đi sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy
tâm. Tuy nhiên, ý thức không phải là bản sao giản đơn, thụ động máy móc của sự vật. Ý
thức là của con người, mà con người là một thực thể xã hội năng động sáng tạo. Ý thức
phản ảnh thế giới khách quan trong quá trình con người tác động cải tạo thế giới. Do đó,
ý thức con người là sự phản ảnh có tính năng động, sáng tạo. Ý thức là sự phản ảnh sáng
tạo lại hiện thực, theo nhu cầu thực tiển xã hội, vì vậy ý thức “Chẳng qua chỉ là vật chất
được đem chuyển vào trong đầu óc con người, và được cải biến đi ở trong đó”. Nói cách
khác, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Ý thức là sự phản ánh hiện

10
thực khách quan vào bộ óc con người, song đây là sự phản ảnh đặc biệt – phản ảnh trong
quá trình con người, cải tạo thế giới. Quá trình ý thức là quá trình thống nhất của 3 mặt
sau đây :
 Một là trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao đổi
này mang tính chất hai chiều, có định hướng và chọn lọc các thông tin cần
thiết.
 Hai là, mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần.
Thực chất đây là quá trình “Sáng tạo lại” hiện tượng của ý thức, theo nghĩa
mã hóa các đối tượng vật chất thành các ý thức tinh thần phi vật chất.
 Ba là, chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức quá trình
hiện thực hóa tư tưởng, thông qua hoạt động thực tiển biến cái quan niệm
thành cái thực tại, biến các ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các
dạng vật chất ngoài hiện thực. Trong giai đoạn này con người lựa chọn
những phương pháp, phương tiện, công cụ để tác động vào hiện thực
khách quan nhằm thực hiện mục đích của mình. Điều đó càng nói lên tính
năng động sáng tạo của ý thức.
Tính sáng tạo của ý thức không có nghĩa là ý thức đẻ ra vật chất. Tính sáng tạo
của ý thức thể hiện ở chỗ nó không chụp lại một cách thụ động nguyên xi mà gắn liền
với cải biến, quá trình thu nhập thông tin gắn liền với quá trình xử lý thông tin. Tính sáng
tạo của ý thức còn thể hiện ở khả năng gián tiếp khái quát thế giới khách quan ở quá
trình chủ động, tác động vào thế giới đó. Phản ánh và sáng tạo liên quan chặt chẽ với
nhau, không thể tách rời, không có phản ánh thì không có sáng tạo vì phản ánh là điểm
xuất phát là cơ sở của sáng tạo. Đó là mối quan hệ biện chứng giữa thu nhận xử lý thông
tin, là sự thống nhất mặt khách quan, chủ quan của ý thức.
Ý thức chỉ được nảy sinh trong lao động, hoạt động cải tạo thế giới của con người.
Hoạt động đó không thể là hoạt động đơn lẻ mà là hoạt động xã hội. Ý thức trước hết là
nhận thức con người về xã hội và hoàn cảnh và những gì đang diễn ra ở thế giới khách

11
quan về mối liên hệ giữa người và người trong quan hệ xã hội. Do đó ý thức xã hội hình
thành và bị chi phối bởi tồn tại xã hội và các quy luật của tồn tại xã hội đó… ý thức của
mỗi cá nhân mang trong lòng nó ý thức xã hội. Bản tính xã hội của ý thức cũng thống
nhất với bản tính phản ánh trong sáng tạo. Sự thống nhất đó thể hiện ở tính năng động
chủ quan của ý thức, ở quan hệ giữa nhân tố vật chất và nhân tố ý thức trong hoạt động
cải tạo thế giới quan của con người. Ý thức trong bất cứ trường hợp nào - cũng là sự
phản ánh và chính thực tiển xã hội của con người tạo ra sự phản ánh phức tạp, năng động,
sáng tạo của bộ óc.
1.3 Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Theo chủ nghĩa duy tâm: ý thức có trước, vật chất có sau. Họ cho rằng ý thức
quyết định vật chất. Theo chủ nghĩa vật tầm thường: vật chất có trước, ý thức có sau. Do
đó vật chất quyết định ý thức nhưng lại không thấy sự tác động trở lại của ý thức với vật
chất. Triết học Mác-Lênin khẳng định trong mối quan hệ giữa vật chất va ý thức thì vật
chất quyết định ý thức và ý thức có tác động trở lại vật chất.
1.3.1 Vật chất quyết định ý thức
Vật chất là những tiền đề, cơ sở nguồn gốc cho sự ra đời tồn tjai và phát triển của
ý thức.
Điều kiện vật chất như thế nào thì ý thức như thế đó. Khi cơ sở vật chất thay đổi
thì ý thức cũng thay đổi theo. Như vậy cật chất quyết định ý thức là quyết định cả nội
dung, khuynh hướng vận động, phát triển của ý thức. Cơ sở vật chất, điều kiện vật chất
hình thành nên các công cụ, phương tiện “ nối dài” các giác quan của con người để nhận
thức thế giới.
Cơ sở, điều kiện vật chất môi trường sống còn là nơi kiểm nghiệm nhận thức của
con người, xây dựng nhận thức đúng, bác bỏ nhận thức sai. Điều đó chứng tỏ rằng trong
mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thì vật chất quyết định ý thức.

12
Về mặt sinh học, ý thức là một trong hoạt động đặc biệt của não bộ con người,
thông qua sự liên kết giữa các nơtron thần kinh mà có. Các nơtron này cũng chỉ là hợp
chất hữu cơ, được cấu thành từ thế giới vật chất.
Về mặt xã hội, ý thức phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh về thế giới vật chất,
nội dung của ý thức là do thế giới vật chất bên ngoài cung cấp
Về mặt triết học, thông qua sự phát triển lâu dài của khoa học về giới tự nhiên đã
chứng minh được rằng ý thức không phải do một thế lực siêu hình nào mà ý thức là của
con người, con người lại là sản phẩm của thế giới vật chất nên ý thức có nguồn gốc và
nội dung từ vật chất.
1.3.2 Vật chất quyết định hình thức biểu hiện, mọi sự biến đổi của ý thức
Ý thức cơ bản gồm tri thức, tình cảm, ý chí. Dù ý thức có biểu hiện ở khía cạnh
nào thì nó cũng chỉ là sự phản ánh vật chất, hướng tới thế giới vật chất.
Thế giới vật chất còn là nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi của ý thức.
 Khi thế giới có sự thay đổi về khí hậu, con người có ý thức hơn trong việc
bảo vệ môi trường
 Khi kinh tế phát triển, tiêu chuẩn sống nâng cao, ý thức cuộc sống cũng
thay đổi, từ quan niệm “ ăn no mặc ấm” thành “ ăn ngon mặc đẹp”.
 Khi xã hội chuyển biến từ chế độ phong kiến sang xã hội chủ nghĩa, ý thức
về quyền con người cũng thay đổi. Quan niệm “ trai năm thê bảy thiếp gái
chính chuyên một chồng” được cho là sai lầm,…
Trong hoạt động con người, nhữn gnhu cầu vật chất xét đến cùng bao giờ cũng
giữ vai trò quyết định, chi phối và quy định mục đích hoạt động của con người vì nhân
tố vật chất quy định khả năng các nhân tố tinh thần có thể tham gia vào hoạt động của
con người, tạo điều kiện cho nhân tố tinh thần biến thành hiện thực và qua đó quy định
mục đích chủ trương biện pháp mà con người đề ra hoạt động của mình bằng cách chọn
lọc, sữa chữa, bổ sung cụ thể hóa mục đích chủ trương biện pháp.
1.3.3 Sự tác động trở lại của ý thức với vật chất
13
Triết học Mác-Lênin khẳng định ý thức do vật chất sinh ra và quyết định. Song ý
thức có tác động trở lại đối với vật chất: biểu hiện nếu con người nhận thức đúng có tri
thức khoa học, phù hợp với các quy luật khách quan thì ý thức có tác động tích cực trong
việc cải tạo thế giới khách quan. Nếu con người phản ánh không đúng hiện thực khách
quan, bản chất, quy luật khách quan thì sẽ có tác động tiêu cực đối với hoạt động thực
tiễn, hiện thực khách quan.
Ý thức giúp con người hiểu bản chất quy luật vận động phát triển của sự vật hiện
tượng. Ý thức giúp con người biết lựa chọn những khả năng thực tế phù hợp và thúc đẩy
sự vật đi lên phát triển. Sự tác động của ý thức đối với vật chất chỉ xét trong giới hạn
hoạt động lịch sử của con người.
Ý thức chỉ tác dụng đối với hiện thực thông qua hoạt động thực tiễn.Ý thức có thể
cải biến được tự nhiên, thâm nhập vào sự vật, không có khả năng tự biến thành hiện thực,
nhưng thông qua hoạt động thực tiễn của con người, ý thức có thể cải tiến được, thâm
nhập vào sự vật, hiện thực hóa những mục đích mà nó đề ra cho hoạt động của mình.
Điều này bắt nguồn từ chính ngay bản tính phản ánh, sáng tạo và xã hội của ý thức và
chính nhờ bản tính đó mà chỉ có con người có ý thức mới có khả năng cải biến và thống
trị tự nhiên, bắt nó phục vụ con người.
Kết luận: Ý thức luôn bị vật chất quyết định. Ý thức phản ánh đúng hiện thức
khác quan thì nó tác động lên thiện thực thúc đẩy hiện thực khách quan phát triển, còn
nếu phản ánh sai lệch các hiện thực khách quan thì nó kìm hãm sự phát triển của hiện
thực khách quan. Ý thức chủ quan, hiện thực khách quan được phản ánh vào bộ óc con
người giúp con người hiểu được bản chất, quy luật vận động của sự vật hiện tượng.

14
CHƯƠNG 2 - VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT
VÀ Ý THỨC VỚI VIỆC HỌC VÀ HÀNH CỦA SINH VIÊN
HIỆN NAY
2.1 Những mặt tích cực
Người Việt ta cũng có tiếng là thông minh, hiếu học. Nền giáo dục Việt Nam ta
mặc dù gặp khó khăn, thiếu thốn về co sở vật chất trước, trong và sau chiến tranh, đã đạt
được nhiều thành tựu đáng tự hào. Ta đã đào tạo được một đội ngũ nghiên cứu khoa hoa
và cống hiến quan trọng trong cộng đồng khoa học quốc tế có thể nói sinh viên Việt Nam
khác thông minh, sáng tạo, có khả năng nhận tri thức khá tốt.
2.2 Mặt hạn chế
Sinh viên ra mắc “ bệnh” thụ động trong học tập, sinh viên không chịu tìm tòi
sách, tài liệu phục vụ cho chuyên môn của mình, mặc dù trong phương pháp giảng dạy
đjai học nhiều thầy cô lên lớp chỉ hướng dẫn và đưa ra những tư liệu đầu sách cần thiết
cho sinh viên tìm kiếm tham khảo.
Phần lớn sinh viên Việt Nam thiếu khả năng sáng tạo. Một kết quả nghiên cứu
gần đây về tính sáng tạo của sinh viên ở một trường đại học lớn của Việt Nam cho biết
trong một mẫu điều tra khá lớn gồm hàng ngàn học sinh viên, chỉ có khoảng 20% sinh
viên đạt hoặc vượt mức sáng tạo trung bình của tụ giới. Như vậy có tới 80% sinh viên
có tính sáng tạo thấp hơn mức trung bình.
“ Lười đọc…” là lời tự thú của nhiều sinh viên thời hiện đại. Khảo sát ngẫu nhiên
một số sinh viên các trường đại học, cao đẳng về việc đọc sách báo của họ, số đồng đều
ngắc ngư rằng “có đọc” nhưng chỉ đọc một số cuốn theo phong trào và chỉ xem sách
chuyên ngành khi bị thúc bách về mặt bài vở, có sinh viên sắp ra trường vẫn chưa một
15
lần ghé thăm thư viện. Một số đông sinh viên ít đọc có nhiều nguyên nhân chủ quan và
khách quan nhưng nói chung họ rất thụ động trong việc học. Thụ động bởi sinh viên chỉ
đợi giảng viên yêu cầu thuyết trình một đề tài, viết một bài tiểu luận hoặc khi được
khuyết khích bởi một người khác về một cuốn sách hay nào đó, tức chỉ khi bị áp chế
hoặc được truyền cho niềm tin thì họ mới đổ xô đi đọc.
Có quá nhiều sinh viên vừa học, vừa chơi và cũng có nhiều sinh viên quên mọi
thứ trên đời để học. Cả hai kiểu học như thế đều mang lại những kết quả tiêu cực khác
nhau. Một bên là sự hụt hẩng về kiến thức, thường xuyên đối mặt với nguy cơ bị đuổi
học còn bên kia lại là sự mệt mỏi, căng thẳng, những lo âu chồng chất trong những năm
đại học khiến sức khỏe bị suy sụp, lạc lõng với những diễn biến xung quanh xã hội, lạ
lẫm với những điều đang tác động đến cuộc sống hằng ngày.
Đa phần sinh viên mới chỉ học theo kiểu “học vẹt”, “học đối phó” và “thi đối phó”
để lấy cho được minh bằng thế thôi ,thiếu tính thực tiễn. Nhìn vào hiện trạng của các của
nền giáo dục cao đẳng-đại học hiện nay có thể thấy rằng hình như xã hội “không mê”
các sản phẩm này. Thế nhưng những con số đó muốn nói với chúng ta điều gì? Đó là sản
phẩm của nền giáo dục “khoa cử”. Tại sao có nhiều người có trình độ Đại học-Cao đẳng
phải đi tìm việc như thế: Theo lẽ thường tình người ta hay nghĩ rằng có học vấn vàng
cao càng có nhiều cơ hội có việc làm, thế nhưng nay câu chuyện hoàn toàn ngược lại:
Học vấn càng cao càng phải đi tìm việc nhiều, càng thất nghiệp. Tại sao vậy?
Có nhiều lí do nhưng có một lí do đó là chất lượng của các lao động có trình độ
đại học chưa đáp ứng được các nhu cầu của nền sản xuất kinh tế công nghiệp tiên tiến.
Hiện nay, bởi họ chỉ là sản phẩm của nề giáo dục “khoa cử rất mạnh về học để thi nhưng
kém về “học để làm” và “học để sáng tạo” dẫn đến không đáp ứng dược yêu cầu của
thực tiễn.
Xét về trình độ thực tế của sinh viên tốt nghiệp thì quá là còn yếu kém một số
ngành rất yếu. Về kiến thức, kỹ năng thực hành, tính chủ động, sáng tạo, về kĩ năng diễn

16
đạt bằng nói hay viết sinh viên ta đều kém. Tuy có những người xuất sắc, nhưng số này
không nhiều cũng chẳng có gì lạ, vì nhiều nơi coi đại học là “học đại”.

2.3 Sự quan tâm của Đảng Nhà nước tới nền giáo dục đại học
Đại hội đại biểu toán quốc lần thứ X của Đảng khắng định yêu cầu mới của nền
giáo dục là: chuyển từ chủ trương mọi người đều phải thực hiện việc học tập suốt đời.
Vấn đề mấu chốt trong đổi mới sự nghiệp giáo dục Việt Nam mà Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X của Đảng khắng định là “chuyển dần mô hình hiện nay sang mô hình
giáo dục mở-mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời đào tạo liên tục, liên
thông giữa các bậc học, ngành học, xây dựng và phát triển hệ thống học tập cho mọi
người và những hình thức học tập, thực hành linh hoạt, đáp ứng nhu cầu học tập thường
tạo nhiều khả năng cơ hội khác nhau cho người học, bảo đảm sự công bằng xã hội trong
giáo dục.
Đến thăm lớp nghiên cứu chính trị khóa I trường Đại học nhân dân Việt Nam, chủ
tịch Hồ Chí Minh nói: “Học là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời gắn liền lý luận
với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi biết hết rồi. Thế giới
ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, chúng ta phải tiếp tục học và hành để
tiến bộ kịp nhân dân.
Để đáp ứng yêu cầu đổi mới và phát triển hệ đại học mà Đại hội X của Đảng đã
đề ra, chúng ta cần đánh giá cho đúng vai trò của trường đại học trong thế giới hiện đại.
Giáo dục đại học là một động lực mạnh để phát triển kinh tế- một động lực mà giáo dục
trung học không thể tạo ra được song cũng phải thừa nhận rằng giáo dục đại học luôn là
tiêu điểm của việc học trong xã hội. Trường đại học vừa lưu giữ , vừa sáng tạo những trí
thức, lại là một chuyến trải nghiệm văn hóa và khoa học-công nghệ chó các thế hệ theo
học. Giáo dục thường xuyên phải gắn với cộng đồng, mục tiêu của nó nhằm tạo nguồn

17
nhân lực phục vụ những nhiệm vụ kinh tế-xã hội của từng địa phương nên cách tổ chức
của nó thường bám chắc trong từng cộng đồng.

2.4 Giải pháp


2.4.1 Giải pháp nâng cao việc học và hành của sinh viên hiện nay.
Tự học để tiếp cận với sáng tạo. Sinh viên phải luyện độ tìm tòi và kĩ năng ứng
biến. Đó là tiêu chí cần thiết để phân định sự thông thái của một chủ thể nhận thức đồng
thời là chur dề sáng tạ. Trí thông minh và óc sáng tạo của mỗi người được thể hiện chủ
yếu bằng hành động, thay vì chỉ dừng lại ở ý thức được thể hiện chủ yếu bằng sự đáp
ứng những thử thách trong quá trình vận dụng kiến thức thay vì chỉ quanh quẩn ở việc
vun bồi kiến thức.
Như vậy thái độ tìm tòi trong khoa học và kĩ thuật tạo nên sự khai phá nhận thức
khi tiếm cận được thông tin, giúp chủ thể nhận thức tự thể hiện và làm nên những cá tính
sắc sảo khi vận dụng kiến thức.
Để sinh viên dễ dàng hơn trong việc thu kiến thức, phương pháp học thì phải đưa
vào chương trình học của sinh viên, những bài học từ thực tế. Thay đổi cách học theo
kiểu kiểm tra bài, rồi lịch học và lịch thi cử dày đặc, đan xen lẫn nhau. Định hướng cho
việc học của sinh viên là một yêu cầu cực kì quan trọng, quan trọng không kém nữa là
việc thiết lập một thời gian biểu hợp lí cho sinh viên trong lúc học lẫn lúc thi.
Muốn học, muốn hiểu sâu một chủ đề nào, điều quan trọng nhất là phải tự mình
chạm tới nó trước, phải tự mình khai mở trước trong đầu, như gieo mầm cho việc tiếp
thu, thẩm thấu của mình. Bản chất của tự học là tự làm việc với chính mình trước, nghiên
cứu tài liệu trao đổi với bạn bè theo cách học nhóm và được thầy khơi gợi, hướng dẫn.
Có thể nói viết lại là cách tiếp thu tốt và truyền đạt lại cho người khác là một cách nắm

18
vấn đề tốt nhất. Điều này sinh viên trau dồi kĩ năng độc và viết qua việc hướng dẫn đọc
mau, nắm vững các ý chính và viết ngắn gọc xúc tích và có chứng minh.
Một trong những vấn đề ta thường gặp ở Việt Nam là sinh viên học sinh ra trường
chưa đủ khả năng sẵn sàng để đảm nhận được các công tác, chức vụ mà đáng lẽ họ phải
có khả năng ứng xử độc lập. Vì vậy mà sinh viên phải phát triển cho mình khả năng phát
hiện vấn đề và giải quyết vấn đề có óc thực tế, không định kiến không câu nề thành kiến.
Muốn bắt kịp đà tiếm của khoa học kĩ thuật thì sinh viên mình cần thay đổi phương pháp
học tập lấy người học làm trung tâm. Muốn được như thế dĩ nhiên không chỉ cần có sự
thay đổi tư duy của người học mà còn phải có sự thay đổi phù hợp trong hệ thống giáo
dục và đào tạo nước ta.
Ngày nay công nghệ thông tin được công nhân là một bộ phận khống thiểu thiếu
được trong giáo dục. Sinh viên tích cực tiếp cận truy cập Internet để có được những
thông tin khoa học mới nhất hay có cơ hội trao đổi ý kiến với bạn bè thế giới.
Phải biết vận dụng những tri thức lĩnh hội vào thực tế, không chi toàn là lý thuyết.
Vận dụng chúng vào sản xuất nghiên cứu.
2.4.2 Kiến nghị về phát triển giáo dục đại học
Trong thời đại Cách mạng công nghệ, Đại học có vai trò chỉ đạo trong toàn bộ hệ
thống giáo dục của một nước. Nhưng so với thế giới và trong khu vực, giáo dục đại học
của ta còn quá yếu kém, tụt hậu còn xa hơn giáo dục phổ thông. Trước đây ta xây dựng
đại học theo mô hình Liên xô cũ, nay nền đại học không còn thích hợp với giai đoạn phát
triển mới của đát nước, song những biện pháp sửa đổi , chắp vá và thời gian qua đã phá
vở tính hệ thống của nó, rốt cuộc tạo ra cảnh tượng lộn xộn không còn chuẩn mực. Không
theo quy cũ, tùy tiện và kém hiệu quả. Muốn thoát ra khỏi tình trạng này cần có thời gian
và một lộ trình hiện đại hóa thích hợp. Trước mắt để tạo điều kiện thuận lợi cho toàn
booh công cuộc hiện đại hóa nên tập trung chính đốn một số khâu then chốt đang tác
động tiêu cực đến sự phát triển bình thường của đại học. Đồng thời xây dựng mới một
đại học thực sự hiện đại làm hoa tiêu hướng dẫn và thúc đẩy sự đổi mới trong toàn ngành.

19
Trước hết cần phải cải cách mạnh mẽ việc thi cử và đánh giá chuyển toàn bộ việc
học theo hệ thống tín chỉ, thi kiểm tra nghiêm túc từng chặng trong suốt khoa học thay
vì dồn hết vào một kì thi tốt nghiệp nặng nề mà ít tác dụng. Về tuyển sinh đại học, cao
đẳng nên bỏ kì thi hiện nay, nặng nề, căng thẳng, tốn kém mà hiệu quả thấp để thay vào
đó một kì thi nhẹ nhàng chỉ nhằm mục đích sơ tuyển để loại những học sinh chưa đủ
trình độ tối thiểu cần thiết theo học đại học. Sau đó, việc tuyển chọn vào đại học nào do
đại học ấy tự làm, chủ yếu dựa trên hồ sơ học THPT và thẩm vấn hoặc thi nếu cần thiết.
Chấn chỉnh việc đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ. Bằng thạc sĩ và tiến sĩ theo yêu cầu quốc
tế, không thể tùy tiện đào tạo cẩu thả, chạy theo số lượng mà phải theo chất lượng, trình
độ làm tiêu chí hàng đầu. Thạc sĩ và tiến sĩ là lực lượng lao động, khoa học cốt cán, nếu
đào tạo dối trá trình độ quá thấp thì không chỉ tai hại cho giáo dục, khoa học mà còn ảnh
hưởng tiêu cực lâu dài đến nhiều lĩnh vực hoạt động quan trọng khác, nhất là trong một
xã hội còn quá chuộng bằng cấp như chúng ta. Vì vậy cần chấn chỉnh từ gốc, rà soát lại
để hạn chế chặt chẽ số đơn vị, ngành được phép đào tạo, đơn vị nào, ngành nào còn chủ
yếu thì cương quyết dừng lại việc đào tạo ở nước ngoài và chuẩn bị thêm điều kiện.
Cải thiện chính sách sử dụng giảng viên đại học. Tình trạng phổ biến hiện nay ở
các Đại học là giảng viên dạy quá nhiều giờ( 25-30 giờ mỗi tuần không phải là hiếm).
Kể cả giờ dạy trong trường, ngoài trường, dưới nhiều hình thức khác nhau, dạy “liên kết”
ở các địa phương, dạy tu, luyện thi…. Do đó, ngay ở các đại học lớn, cũng rất ít nghiên
cứu khoa học và nhiều người đã lâu không có thói quen cập nhật kiến thức nâng cao trình
độ nhưng lại sản xuất đều đều cử nhân.
Đổi các trường sư phạm và chính sách đào tạo giáo viên phổ thông. Cần nghiên
cứu lại chủ trương xây dựng những trường sư phạm trọng điểm vì theo kình nghiệm các
nước, chỉ giáo viên mẫu giáo, tiểu học mới cần được đào tạo kỹ về nghiệp vụ sư phạm,
còn giáo viên THCS và THPT trở lên thì trước hết phải được đào tạo vững vàng về
chuyên môn khoa học rồi mới bổ túc kiến thức về kỹ năng sư phạm. Do đó, phải thay
đổi cách đào tạo ở các trường sư phạm , chú trọng hơn phần chuyên môn khoa học. Đồng

20
thời, phải mở rộng đối tượng tuyển dụng giáo viên phổ thông từ cử nhân hay thạc sĩ sau
mọt khóa bổ túc ngắn hạn về nghiệp vụ sư phạm. Các Đại học sư phạm nên dần dần
chuyển thành Đại học đa ngành trong đó có sư phạm( giáo dục) chuyên lo về nghiệp vụ
giảng dạy và khoa học sư phạm.
Xây dựng “ mới” một Đại học đa ngành hiện đại làm “ hoa tiêu” cho cải cách
Đại học sau này. Song song với những biện pháp cấp bách kể trên, cần bắt tay xây dựng
ngay một đại học đa ngành thật hiện đại, theo chuẩn mực quốc tế và sánh kịp với các đại
học tiên tiến nhất trong khu vực, làm “ hoa tiêu” cho toàn bộ công cuộc hiện đại hóa.
Đại học cần xây dựng hoàn toàn “ mới” đại học này nghĩa là không phải ghép chung lại
một số đại học đã có sẵn. Lúc đầu không nhất thiết đủ hết mọi ngành và quy mô có thể
hạn chế trong số mấy trăm sinh viên nhưng đại học mới này phải được xây dựng theo
đúng các chuẩn mực quốc tế về mọi mặt. Cơ sở vật chất thiết bị, điều kiện ăn ở học tập
của sinh viên, trình độ giảng viên.
Tăng đầu tư cho đại học, đi đôi với chấn chỉnh việc sử dụng đầu tư. Cần cải cách
chế độ lương thấp và phụ cấp, bảo đảm cho giảng viên đại học một mức thu nhập phù
hợp và năng suất và trình độ từng người để họ co thể dồn tâm lực vào nhiệm vụ chính
trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học mà không phải lo toan, xoay xở cho đời sống
quá nhiều, tạo mọi điều kiện cho họ có thể cập nhật tri thức theo kịp khoa học công nghệ
thế giới và khu vực.

21
CHƯƠNG 3 - VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA
VẬT CHẤT – Ý THỨC TRONG CUỘC SỐNG HỌC TẬP
CỦA BẢN THÂN
Thứ nhất, vì vật chất quyết định ý thức nên trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn đòi hỏi phải xuất phát từ thực tế khách quan. Đầu tiên, bản thân mỗi người phải tự
xác định được các điều kiện khách quan ảnh hưởng đến cuộc sống học tập của bản thân.
Là sinh viên năm nhất kinh tế, học theo học chế tín chỉ, sống trong đất nước Việt Nam-
một đất nước đang phát triển nằm trên bán đảo Đông Dương, tôi tự nhận thức được rằng
điều kiện của đất nước còn khó khăn, cơ sở vật chất vẫn chưa hoàn thiện và hiện đại để
đáp ứng nhu cầu của sinh viên. Ví dụ như trong trường Cao đẳng Kinh Tế Đối Ngoại
thành phố Hồ Chí Minh vì lý do thiếu giảng viên nên một số tiết học phải lùi vào buổi
chiều tối để tiện cho việc giảng dạy hay đối với những bộ môn chuyên ngành ở khoa
thương mại quốc tế, do thiếu thốn về trang thiết bị nên quá trình giảng dạy của giảng
viên và quá trình học tập của sinh viên đều bị ảnh hưởng.
Mặt khác, mỗi người cần phải đặc biệt chú ý tôn trọng tính khách quan và hành
động theo các qui luật mang tính khách quan, thể hiện qua một số hành động như: tuân
theo thời khóa biểu mà mỗi khoa đã giao cho sinh viên để đi học đúng giờ, tham dự các
tiết học đầy đủ đồng thời làm theo những lời mà giảng viên hướng dẫn. Ngoài ra, cần
phải tuân thủ theo đúng nội qui nhà trường, chấp hành đúng kỷ luật đặc biệt là những
quy chế về việc cấm thi, học lại…
Thứ hai, vì ý thức có sự tác động trở lại đối với vật chất nên cần phải phát huy
tính năng động chủ quan tức là phải phát huy tính tích cực, năng động và sáng tạo của ý
thức. Theo qui định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trường Cao đẳng Kinh Tế Đối Ngoại
thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện tổ chức đăng ký học phần vì vậy bản thân cần phải
chủ động hơn, năng nổ trong từng tiết học.
Trong kết cấu của ý thức thì tri thức là yếu tố quan trọng nhất. Tri thức là phương
thức vận động và tồn tại của ý thức. Chính vì vậy, sinh viên cần phải tích cực trong học
22
tập, chủ động tìm hiểu và khai thác vấn đề, khi học bài không quá phụ thuộc vào giản
viên mà thay vào đó nên suy nghĩ những ý tưởng mới của riêng mình. Ví dụ như những
buổi học nhóm hay thảo luận kỹ năng, bản thân tôi thường tìm đến kho kiến thức của thư
viện hoặc tài liệu trong kho sách của khoa để trau dồi vốn kiến thức chuyên ngành. Tuy
nhiên những tri thức tiếp thu từ sách vở là chưa đủ, xã hội luôn đòi hỏi mỗi người phải
có một vốn kỹ năng sống dày dặn. Muốn làm được như vậy thì chúng ta cần tham gia
vào các hoạt động tình nguyện ngoài trời hay tìm kiếm một công việc làm thêm phù hợp
để hiểu được giá trị của đồng tiền.
Tình cảm là những rung động của con người trong các mối quan hệ với hiện
thực. Nhờ có tình cảm mà tri thức mới có sức mạnh và sau đó trở thành cơ sở cho hành
động. Nói cách khác, tình cảm là động lực lớn nhất thúc đẩy chúng ta đi đến thành công.
Đối với sinh viên khoa thương mại Thương Mại Quốc Tế như tôi, để đạt thành tích tốt
trong học tập cũng như phát triển trong tương lai, cần phải có niềm đam mê đối với mỗi
môn học bất kể là môn chuyên ngành hay môn đại cương. Thiết nghĩ cần phải tạo cảm
giác thoải mái và tinh thần vui vẻ khi học tập từ đó mới tạo ra được hứng thú để tìm tòi
vọng của cha mẹ, tình cảm gia đình góp phần giúp bản thân vượt qua những khó khăn
để tiếp tục con đường học tập .
Niềm tin là động cơ tinh thần định hướng cho những hoạt động con người. Là
một sinh viên tốt thì cần phải biết đặt niềm tin vào nhiều thứ. Đầu tiên, cần phải có niềm
tin ở bản thân mình, phải có những hoài bão, ước mơ nhưng không được quên việc thực
hiện nó bằng những kế hoạch chắc chắn. Có niềm tin thì chắc chắn sẽ có những động lực
để phấn đấu vươn lên nhằm đạt được những mục tiêu cao đẹp. Cụ thể là mục tiêu bây
giờ của tôi chính là tốt nghiệp đại học với tấm bằng loại khá trở lên nhưng muốn thực
hiện điều đó thì phải lập kế hoạch và thời gian biểu học tập cụ thể với một phương pháp
học đúng đắn kèm theo.
Ý chí biểu hiện cho sức mạnh tinh thần của con người, giúp con người vượt qua
những khó khăn, trở ngại để đạt được những mục tiêu đã đặt ra. Môi trường đại học ẩn

23
chứa nhiều thử thách và cám dỗ. Vì vậy chúng ta cần phải xây dujwg cho mình một ý
chí kiên định để tránh xa những thói hư tật xấu. Ví dụ như cuỗ sống sinh viên tự do đòi
hỏi tôi phải lập ra những qui tắc riêng cho bản thân để giữ vững lập trường của mình
trước những cạm bẫy trước mắt; tránh tụ tập nhậu nhẹt sa đà. Không vì lười biếng mà
cúp học, chưa học bài xong chưa đi ngủ chưa học bài đủ chưa đi chơi. Không nên chạy
theo những công việc chỉ sinh ra lợi ích tức thời mà bỏ bê việc học, nên thọc theo tinh
thần của câu nói: “ Học, học nữa, học mãi” của Lê-nin.
Thứ ba, cần phải chống lại bệnh chủ quan duy ý chí như bệnh bảo thủ trì tuệ. Cụ
thể là cần phải tiếp thu có chọn lọc những ý kiến mới, việc hôm nay không nên để ngày
mai. Không chủ quan trước mọi tình huống , phải biết lắng nghe và tiếp thu sự góp ý của
người khác. Ví dụ như sau một bài thuyết trình thì phải nán lại lặng nghe ý kiến chỉnh
sửa của cả lớp và giảng viên. Hay khi làm bài hoặc họp nhóm cần phải sáng tạo, đột phá,
cải tiến cái cũ nhưng không nên quá cầu toàn. Khi đăng kí học phần không nên đăng kí
quá nhiều tráng việc không kham nỗi.
Thứ tư, khi giải thích các hiện tượng xã hội cần phải tính đến các điều kiện vật
chất lẫn yếu tố tinh thần, điều kiện khách quan lẫn yếu tố khách quan. Ví dụ đối với việc
đăng kí học phần, sinh viên cần phải tính đến năng lực học tập của bản thân, điều kiện
tài chính của gia đình, cân nhắc quỹ thời gian, không đăng kí học phần một cách tràn lan
với mục đích tốt nghiệp sớm tránh trường hợp học không theo kịp. Dẫn đến hao phí thời
gian, công sức mà kết quả không được như ý muốn.

24
KẾT LUẬN
Nói tóm lại, vật chất bao giờ cũng đóng vai trò quyết định đối với ý thức, nó là
cái có trước ý thức, nhưng ý thức có tính lực năng động tác động trở lại vật chất. Mối tác
động qua lại này chỉ được thực hiện thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Chúng
ta nâng cao vai trò của ý thức với vật chất chính là ở chỗ nâng cao năng lực nhận thức
các quy luật khách quan và vận dụng các quy luật khách quan trong hoạt động thực tiễn
con người.
Có thể nói trong thời đại cách mạng công nghệ, đại học có vai trò chủ đạo trong
toàn bộ hệ thống giáo dục của một nước. Nhưng so với thế giới và khu vực, giáo dục,
đại học của ta còn quá yếu kém, tụt hậu.
Phát triển con người là vấn đề trọng tâm của mỗi quốc gia. Hầu hết các nước
trên thế giới đều giương cao khẩu hiệu “ gióa dục là quốc sách hàng đầu và dành nhiều
tâm sức để xây dựng và phát triển gióa dục nhằm đào tạo cho xã hội lực lượng lao động
có năng lực chuyên môn và khả năng thích ứng, thỏa mãn được yêu cầu của thị trường
về tiêu chuẩn văn hóa, chuyên môn-nghiệp vụ của thị trường.
Một nền giáo dục đại học chỉ được xem thành ông khi nền giáo dục ấy đóng góp
cho xã hội những cá nhân có đầy đủ trí và lực, đáp ứng được những nhu cầu về lao động
trình độ cao và nghiên cứu khoa học nhằm góp phàn thúc đẩy sự phát triển của xã hội,
đất nước.
Vì vậy mà việc nghiên cứu quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Vận
dụng thúc đẩy việc học và hành của sinh viên hiện nay mang một ý nghĩa vô cùng to lớn
có ý nghĩa thực tiễn cao. Sinh viên phải có được phương pháp để tiếp thu tri thức thời
đại, rồi vận dụng thật tốt những tri thức đó vào thực tế góp phần xây dựng một xã hội
ngay càng phồn vinh, tươi đẹp.

25
TÀI LIỆU THAM KHẢO
 https://khotrithucso.com/doc/p/moi-quan-he-bien-chung-giua-vat-chat-
vay-thuc-lien-he-voi-227368
 https://m.tailieu.vn/doc/tieu-luan-triet-hoc-moi-quan-he-bien-chung-giua-
vat-chat-va-y-thuc-lien-he-voi-viec-hoc-tap-cua-sin-1502833.html
 https://123docz.net/document/315709-hoc-thuyet-ve-vat-chat-va-y-thuc-
cua-chu-nghia-mac-lenin.htm
 http://giaoanmau.com/giao-an/tieu-luan-moi-quan-he-bien-chung-giua-
vat-chat-va-y-thuc-su-van-dung-cua-dang-ta-trong-qua-trinh-doi-moi-
dat-nuoc-43031/

26

You might also like