You are on page 1of 13

MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU................................................................................................................1
B. NỘI DUNG............................................................................................................1
I. VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG............................................................................1
1. Khái niệm tồn tại xã hội và các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội......................1
a. Khái niệm “tồn tại xã hội”...........................................................................1
b. Các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội.............................................................2
2. Khái niệm, kết cấu, tính giai cấp, các hình thái của ý thức xã hội........................2
a. Khái niệm “ý thức xã hội”............................................................................2
b. Kết cấu của ý thức xã hội..............................................................................3
3. Quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội..................................4
a. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.........................................................4
b. Ý thức xã hội có tính độc lập tương đối........................................................5
II. Ý NGHĨA CỦA BIỆN CHỨNG GIỮA TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý THỨC
XÃ HỘI ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY.........7
1. Thực tiễn đời sống học tập của sinh viên hiện nay...........................................7
2. Ý nghĩa đối với sinh viên hiện nay...................................................................8
a. Trong đời sống học tập, sinh viên cần tránh.................................................8
b. Trong đời sống học tập, sinh viên cần thực hiện...........................................9
C. KẾT LUẬN..........................................................................................................10

1
A. MỞ ĐẦU

Trong Triết học Mác – Lênin, biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã
hội phản ánh những mặt, những tính chất và những mối liên hệ chung nhất của
hiện thực khách quan, qua đó giúp con người trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn của họ. Mối quan hệ biện chứng chỉ ra tính hai chiều trong việc xây dựng
đời sống vật chất và tinh thần giúp cải tạo xã hội và xây dựng con người.

Trong cái nhìn tổng quan của Triết học, sinh viên là người học tập tại các
trường đại học, cao đẳng, trung cấp, họ được truyền đạt kiến thức bài bản về một
ngành nghề, chuẩn bị cho công việc sau này của họ, họ được xã hội công nhận
qua những bằng cấp đạt được trong quá trình học và là lực lượng lao động tương
lại. Xuất phát từ ý nghĩa trên, với đề tài “Biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý
thức xã hội trong Triết học Mác - Lênin và ý nghĩa của nó đối với đời sống học
tập của sinh viên hiện nay”, tác giả mong muôn sẽ phần nào luận giải những
vấn đề lý luận chung về mối liên hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, cũng
như ý nghĩa của nó đối với quá trình học tập, hoạt động của sinh viên Việt Nam
hiện nay.

B. NỘI DUNG
I. VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1. Khái niệm tồn tại xã hội và các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội

a. Khái niệm “tồn tại xã hội”

Theo Triết học Mác – Lênin, tồn tại xã hội của con người là thực tại xã
hội khách quan, là một kiểu vật chất xã hội, là các quan hệ xã hội vật chất được
ý thức xã hội phản ánh. Trong các quan hệ xã hội vật chất ấy thì quan hệ giữa
con người với giới tự nhiên và quan hệ giữa con người với con người là những
quan hệ cơ bản nhất quyết định sự tồn tại và phát triển của con người.

Về khái niệm có thể hiểu, tồn tại xã hội dùng để chỉ phương diện sinh
hoạt vật chất và các điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội của mỗi cộng đồng

1
người trong những điều kiện lịch sử xác định.1

b. Các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội

Tồn tại xã hội bao gồm các yếu tố cơ bản là phương thức sản xuất vật
chất, điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân số,...; trong đó
phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất. Các yếu tố cơ bản của tồn
tại xã hội được hiểu như sau:

Thứ nhất, điều kiện tự nhiên là điều kiện sinh sống tất yếu, thường xuyên
của sự tồn tại và phát triển của xã hội, có ảnh hưởng quan trọng đến đời sống
của con người và sự tiến bộ của xã hội. Bao gồm những điều kiện địa lý tự nhiên
và tài nguyên thiên nhiên.

Thứ hai, dân số là điều kiện tất yếu và thường xuyên của sự tồn tại và phát
triển của xã hội vì mỗi quốc gia, dân tộc đều cần có một số dân nhất định để xây
dựng, phát triển và bảo vệ quốc gia. Dân số và tốc độ phát triển dân số của mỗi
nước có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển mọi mặt của nước đó.

Thứ ba, phương thức sản xuất là cách thức con người làm ra của cái vật chất
trong những giai đoạn nhất định của lịch sử, bao gồm lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất2. Lực lượng sản xuất là sự thống nhất giữa tư liệu sản xuất và người sử
dụng tư liệu ấy để sản xuất ra của cải vật chất và tư liệu sản xuất gồm có tư liệu lao
động và đối tượng lao động.

2. Khái niệm, kết cấu, tính giai cấp, các hình thái của ý thức xã hội

a. Khái niệm “ý thức xã hội”

Cùng với phạm trù tồn tại xã hội, ý thức xã hội là phạm trù của chủ nghĩa
duy vật lịch sử được vận dụng để giải quyết vấn đề cơ bản của triết học trong
lĩnh vực xã hội. Nếu “ý thức... không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự tồn
tại được ý thức”3 thì ý thức xã hội chính là xã hội tự nhận thức về mình, về sự
1
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Triết học Mác – Lênin (Dành cho bậc đại học chuyên ngành lý luận
chính trị), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, trang 412.
2
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Triết học Mác – Lênin (Dành cho bậc đại học chuyên ngành lý luận
chính trị), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, trang 310.
3
C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Sđd, t.3, tr.37.
2
tồn tại xã hội của mình và về hiện thực xung quanh mình.

Do đó, có thể hiểu, ý thức xã hội dùng để chỉ phương diện sinh hoạt tinh thần
của xã hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ảnh tồn tại xã hội trong những giai đoạn
phát triển nhất định.4

b. Kết cấu của ý thức xã hội

Có thể phân tích từ những góc độ khác nhau tuỳ theo góc độ xem xét, ý
thức xã hội được phân chia thành: Ý thức xã hội thông thường và ý thức lý
luận; tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội. Theo quan điểm trên có thể nhìn
nhận kết cấu ý thức ở các dạng:

Thứ nhất, theo trình độ phản ánh của ý thức xã hội đối với tồn tại xã
hội có thể phân biệt ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận.

Ý thức xã hội thông thường hay ý thức thường ngày là những tri thức,
những quan niệm của con người hình thành một cách trực tiếp trong các hoạt
động trực tiếp hằng ngày nhưng chưa được hệ thống hóa, chưa được tổng
hợp và khái quát hóa.

Ý thức lý luận hay ý thức khoa học là những tư tưởng, những quan điểm
được tổng hợp, được hệ thống hóa và khái quát hóa thành các học thuyết xã hội
dưới dạng các khái niệm, các phạm trù và các quy luật.

Ý thức xã hội thông thường phản ánh một cách sinh động và trực tiếp các
mặt khác nhau của cuộc sống hằng ngày của con người ở trình độ thấp hơn ý
thức lý luận nhưng lại phong phú hơn ý thức lý luận. Tuy nhiên, chính những tri
thức kinh nghiệm phong phú của ý thức thông thường trở thành chất liệu, là cơ
sở và tiền đề quan trọng cho sự hình thành ý thức lý luận. Ngược lại, ý thức lý
luận hay là ý thức khoa học có khả năng phản ánh hiện thực khách quan một
cách sâu sắc, chính xác, bao quát và vạch ra được những mối liên hệ khách
quan, bản chất, tất yếu mang tính quy luật của các sự vật và các quá trình xã hội.
Ngoài ra, ý thức khoa học còn có khả năng phản ánh vượt trước hiện thực.
4
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Triết học Mác – Lênin (Dành cho bậc đại học chuyên ngành lý luận
chính trị), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, trang 413
3
Thứ hai, kết cấu ý thức xã hội còn được xác định theo hai trình độ và hai
phương thức phản ánh đối với tồn tại xã hội là tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.

Tâm lý xã hội là ý thức xã hội thể hiện trong ý thức cá nhân. Tâm lý xã
hội bao gồm toàn bộ tư tưởng, tình cảm, tâm trạng, thói quen, nếp sống, nếp
nghĩ, phong tục, tập quán, ước muốn,... của một người, một tập đoàn người, một
bộ phận xã hội hay của toàn thể xã hội hình thành dưới tác động trực tiếp của
cuộc sống hằng ngày của họ và phản ánh cuộc sống đó.

Hệ tư tưởng là giai đoạn phát triển cao hơn của ý thức xã hội, là sự nhận
thức lý luận về tồn tại xã hội. Hệ tư tưởng có khả năng đi sâu vào bản chất của
mọi mối quan hệ xã hội; là kết quả của sự tổng kết, sự khái quát hóa các kinh
nghiệm xã hội để hình thành nên những quan điểm, những tư tưởng về chính trị,
pháp luật, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo…

Mặc dù tâm lý xã hội và hệ tư tưởng thuộc hai trình độ khác nhau của ý
thức xã hội nhưng chúng có mối liên hệ qua lại và tác động qua lại lẫn nhau.
Nếu tâm lý xã hội có thể thúc đẩy hoặc cản trở sự hình thành và sự tiếp nhận
một hệ tư tưởng nào đó; có thể giảm bớt sự xơ cứng hoặc công thức cứng nhắc
của hệ tư tưởng, thì trái lại, hệ tư tưởng khoa học có thể bổ sung, làm gia tăng
hàm lượng trí tuệ cho tâm lý xã hội, góp phần thúc đẩy tâm lý xã hội phát triển
theo chiều hướng tích cực.

3. Quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội

Quan điểm duy vật lịch sử khẳng định rằng, ý thức xã hội và tồn tại xã hội
có mối quan hệ biện chứng, mỗi hình thái ý thức xã hội đều có sự tác động
ngược trở lại tồn tại xã hội và ngược lại, trước hết là tác động trở lại cơ sở kinh
tế. Đồng thời, các hình thái ý thức xã hội cũng tác động lẫn nhau theo những
cách thức khác nhau. Cụ thể gồm:

a. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội

Tồn tại xã hội quyết định nội dung, tính chất, đặc điểm, xu hướng vận
động, sự biến đổi và sự phát triển của các hình thái ý thức xã hội. Nếu xã hội
4
còn tồn tại sự phân chia giai cấp thì ý thức xã hội nhất định cũng mang tính giai
cấp. Khi tồn tại xã hội, nhất là phương thức sản xuất thay đổi thì những tư
tưởng, quan điểm về chính trị, pháp luật, triết học và cả quan điểm thẩm mỹ lẫn
đạo đức dù sớm hay muộn cũng sẽ có những sự thay đổi nhất định.

Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội không thể hiện một cách đơn giản
trực tiếp mà thường thông qua những bước, những khâu trung gian. Vai trò
quyết định tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội không thể hiện một cách đơn giản
trực tiếp, thường thông qua những bước, những khâu trung gian. Không phải bất
kỳ tư tưởng quan niệm và tác phẩm văn học nghệ thuật nào cũng phản ảnh rõ
ràng trực tiếp những quan hệ kinh tế của thời đại đó và chỉ đến khi xét tới cùng
thì người ta mới thấy được các quan hệ kinh tế đã được phản ảnh bằng cách này
hay cách khác vào trong các hình thái ý thức xã hội.

Tồn tại xã hội không chỉ quyết định sự hình thành của ý thức xã hội mà
còn quyết định cả nội dung và hình thức biểu hiện của nó. Mỗi yếu tố của tồn tại
xã hội có thể được các hình thái ý thức xã hội khác nhau phản ánh từ các góc độ
khác nhau theo những cách thức khác nhau. Tuy nhiên, đến lượt mình, các hình
thái ý thức này cũng sẽ tác động, ảnh hưởng ngược trở lại tồn tại xã hội. Đó
chính là tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.

b. Ý thức xã hội có tính độc lập tương đối.

Ý thức xã hội không phải là yếu tố hoàn toàn thụ động hoặc tiêu cực. Mặc
dù chịu sự quy định và chi phối của tồn tại xã hội nhưng ý thức xã hội không
những có tính độc lập tương đối, có thể tác động trở lại mạnh mẽ đối với tồn tại
xã hội, mà đặc biệt ý thức xã hội còn có thể vượt trước tồn tại xã hội, thậm chí
có thể vượt trước rất xa tồn tại xã hội. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
thể hiện ở những điểm sau đây:

Một là, ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội. Điều này biểu hiện
rõ nhất ở các khía cạnh khác nhau của tâm lý xã hội như truyền thống, thói quen và
nhất là tập quán. Những nguyên nhân làm cho ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn
tại xã hội là do tác động mạnh mẽ và nhiều mặt trong hoạt động thực tiễn của con
5
người nên tồn tại xã hội diễn ra với tốc độ nhanh hơn khả năng phản ánh của ý thức
xã hội. Bên cạnh đó còn do sức mạnh của thói quen, tập quán, truyền thống và do
cả tính bảo thủ của hình thái ý thức xã hội. Hơn nữa, những điều kiện tồn tại xã
hội mới cũng chưa đủ để làm cho những thói quen, tập quán và truyền thống cũ
hoàn toàn mất đi. Ngoài ra, ý thức xã hội gắn liền với lợi ích của những tập đoàn
người, của các giai cấp nào đó trong xã hội. Các tập đoàn hay giai cấp lạc hậu
thường níu kéo, bám chặt vào những tư tưởng lạc hậu để bảo vệ và duy trì
quyền lợi ích kỷ của họ, để chống lại các lực lượng tiến bộ trong xã hội.

Hai là, ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội. Thực tế, trong
những điều kiện nhất định, nhiều tư tưởng khoa học và triết học có thể vượt
trước tồn tại xã hội của thời đại rất xa. Sở dĩ ý thức xã hội có khả năng đó là do
nó phản ánh đúng những mối liên hệ lôgíc, khách quan, tất yếu, bản chất của tồn
tại xã hội. Lịch sử đã cho thấy nhiều dự báo của các nhà tư tưởng lớn phải sau
một thời gian, có thể ngắn hoặc rất dài, mới được thực tiễn xác nhận.

Ba là, ý thức xã hội có tính kế thừa. Tiến trình phát triển đời sống tinh
thần của xã hội loài người cho thấy rằng, các quan điểm lý luận, các tư tưởng
lớn của thời đại sau bao giờ cũng dựa vào những tiền đề đã có từ các giai đoạn
lịch sử trước đó. Chính C. Mác và Ph. Ăngghen cũng đã thừa nhận rằng: “Ngay
cả chủ nghĩa cộng sản phát triển cũng trực tiếp bắt nguồn từ chủ nghĩa duy
vật Pháp”5 và “nếu trước đó không có triết học Đức, đặc biệt là triết học
Hêghen, thì sẽ không bao giờ có chủ nghĩa xã hội khoa học Đức, chủ nghĩa xã
hội duy nhất khoa học tồn tại từ trước đến nay”6.

Bốn là, sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội. Các hình thái
ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội theo những cách khác nhau, có vai trò khác
nhau trong xã hội và trong đời sống của con người. Tuy nhiên, ở các thời đại
lịch sử khác nhau, trong những hoàn cảnh khác nhau dù vai trò của các hình thái
ý thức xã hội không giống nhau nhưng chúng vẫn có sự tác động qua lại với
nhau.
5
. C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Sđd, t.2, tr.200.
6
. C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Sđd, t.18, tr.698.
6
Năm là, ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội. Tồn tại xã hội chịu
sự tác động trở lại của ý thức xã hội là một biểu hiện khác của tính độc lập
tương đối của ý thức xã hội. Quan niệm duy vật về lịch sử thừa nhận biểu hiện
này về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội đối lập hoàn toàn cả với chủ nghĩa
duy tâm tuyệt đối hóa vai trò của ý thức xã hội lẫn chủ nghĩa duy vật tầm thường
chỉ coi trọng vai trò của kinh tế, còn phủ nhận hoàn toàn vai trò tích cực của ý thức
xã hội.

Sự tác động trở lại đối với tồn tại xã hội của các hình thái ý thức xã hội
mạnh hay yếu còn phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể, vào các quan
hệ kinh tế vốn là cơ sở hình thành các hình thái ý thức xã hội; vào trình độ phản
ánh và sức lan tỏa của ý thức đối với các nhu cầu khác nhau của sự phát triển xã
hội; đặc biệt là vào vai trò lịch sử của giai cấp đại diện cho ngọn cờ tư tưởng đó.
Vì vậy, cần phân biệt ý thức xã hội tiến bộ với ý thức xã hội lạc hậu, cản trở sự
tiến bộ xã hội.

II. Ý NGHĨA CỦA BIỆN CHỨNG GIỮA TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý


THỨC XÃ HỘI ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
HIỆN NAY
1. Thực tiễn đời sống học tập của sinh viên hiện nay

So với chương trình học ở cấp trung học phổ thông, khối lượng kiến thức
ở cấp độ Đại học tăng lên một cách đáng kể. Mỗi sinh viên sẽ phải tham gia rất
nhiều hoạt động nhóm, thuyết trình, ngoại khoá... Không chỉ vậy, các môn học
lúc này sẽ rất đa dạng và mới mẻ, ngoài việc đọc giáo trình, bản thân còn phải
tìm thêm nhiều nguồn thông tin từ trong sách, báo, tài liệu liên quan. Chính sự
thay đổi về khối lượng kiến thức, thời gian và phương pháp học đã khiến không
ít sinh viên gặp khó khăn và lung lay tư tưởng trong môi trường học tập mới.

Môi trường học tập mới đòi hỏi những tích lũy mới hơn để phục vụ các kì
thi, thực tập và phục vụ cho tương lai của chính bản thân mình. Do đó, để thành
công, bản thân mỗi sinh viên phải luôn tự nhắc nhở mình phải xây dựng kế
hoạch học tập một cách cụ thể, đồng thời, có thể vận dụng toàn bộ các quy luật
7
của Triết học để thực hiện kế hoạch đã đặt ra, đặc biệt là áp dụng mối liên hệ
biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội của Triết học Mác - Lênin trong
thực tiễn một cách nghiêm túc để tối ưu hóa tính hiệu quả.

2. Ý nghĩa đối với sinh viên hiện nay

Có thể coi học tập là quá trình tích lũy không ngừng và luôn chuyển động
theo sự chuyển động của đời sống. Do đó, trong hoạt động nhận thức, học tập
của bản thân, sinh viên phải biết khai thác tính tích cực của mối liên hệ giữa tồn
tại xã hội và ý thức xã hội trong đó đề cao tính quyết định của tồn tại xã hội
trong hình thành và phát triển ý thức sinh viên, đồng thời xây dựng cơ sở để vận
dụng vào đời sống. Việc nghiên cứu về mối liên hệ biện chứng này có thể rút ra
một vài kết luận có ý nghĩa phương pháp luận với việc học tập và rèn luyện của
sinh viên hiện nay như sau:

a. Trong đời sống học tập, sinh viên cần tránh

Thứ nhất, vì ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội do đó cần
tránh tư tưởng chủ quan bảo thủ, trì trệ. Quá trình học tập chỉ sau khi học những
kiến thức cơ bản, tức là khi có sự biến đổi về chất thì mới có thể tiếp tục nghiên
cứu những kiến thức khó hơn. Việc tiếp thu kiến thức từ cơ bản đến nâng cao là
phương pháp học tập khoa học. Tuy nhiên, vấn đề mà một số sinh viên khác gặp
phải đó là chỉ trân trọng kiến thức trong sách vở mà không quan sát vận dụng
những kiến thức do sự chuyển động của đời sống xã hội mang lại. Điều này dẫn
đến việc nhiều sinh viên sau khi học ra trường không biết vận dụng kiến thức
của mình vào quá trình làm việc như thế nào và sinh ra tâm lý coi thường quá
trình học tập tại đại học. Quy luật này đã giải thích được hậu quả của việc chủ
quan đó.

Thứ hai, vì tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội do đó cần tránh nóng
vội, duy ý chí, đốt cháy giai đọan. Trong khi đời sống hằng ngày của sinh viên
có nhiều điều kiện khác để lo lắng nhưng có nhiều sinh viên có sức học trung
bình nhưng lại muốn đăng kí nhiều môn học trong cùng một năm hay một học
kỳ để được ra trường sớm hơn những người khác, dẫn đến không có môn học
8
nào được hoàn thiện, mất thêm thời gian và tiền bạc để học lại, thi lại. Việc lựa
chọn và sắp xếp môn học phải xuất phát từ năng lực hiện tại của bản thân, từ
việc quan sát điều kiện cuộc sống cũng như khả năng của ý thức để có những
bước đi hợp lý tránh chủ quan, nóng vội.

Thứ ba, ý thưc xã hội còn có thể tác động ngược lại tồn tại xã hội do đó
tránh tư tưởng ỷ lại dàn trải, thụ động trong quá trình học tập, phó mặc cho
khách quan mà không có nỗ lực cá nhân. Việc chây ì, không có bản lĩnh, không
có nỗ lực sẽ kéo lùi khả năng tư duy của sinh viên, giảm sự năng động sáng tạo
của ý thức và kéo theo nhiều hệ lụy trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Việc
phủ nhận khả năng của bản thân chính là nguyên nhân dẫn đến việc chậm tiến,
kém phát triển của nhiều sinh viên.

Thứ tư, vì mối liên hệ là sự tác động hai chiều vì vậy cần tránh tuyệt đối
hóa một mặt của mối liên hệ là tồn tại xã hội hoặc ý thức xã hội. Trong học tập
và rèn luyện cần tránh chỉ nhìn thấy việc học mà quên việc tích lũy thực tiễn
hoặc chỉ dựa vào đời sống thực tế mà dẫn đến đánh giá phiến diện về đời sống ý
thức hay giá trị của quá trình học tập, không chịu bồi tụ giá trị văn hóa cho bản
thân.

b. Trong đời sống học tập, sinh viên cần thực hiện
Một là, ý thức xã hội có khả năng tác động thay đổi tồn tại xã hội do đó
cần có niềm tin vào quá trình học tập. Quá trình học tập và nghiên cứu cần tiến
hành từng bước, tránh nóng vội đốt cháy giai đoạn bản thân cần phải có niềm tin
vào việc tích lũy kiến thức hằng ngày chính là nền tảng để có lượng kiến thức
vững chãi vượt qua các kỳ thi và vận dụng và đời sống. Việc tin tưởng và kiên
trì hoàn thiện chương trình học tập với sự rèn luyện chăm chỉ để tích lũy kiến
thức, tích lũy kinh nghiệm qua thầy cô, qua những lần đi thực tập... sẽ là nền
tảng để có đồng thời kiến thức chuyên môn và trải nghiệm thực tế để phục vụ
công việc trong tương lai. Bên cạnh đó cần lựa chọn kiến thức phù hợp với điều
kiện xã hội hiện tại để phát triển.
Hai là, ý thức có tính kế thừa nên cần có kế hoạch khoa học trong học tập
9
rèn luyện. Quá trình học tập phải được tích luỹ từ từ, đầy đủ kiến thức, hoàn
thiện kỹ năng; không được bỏ qua kiến thức cơ bản. Việc bỏ bước trong tích luỹ
sẽ dẫn đến sự không hoàn thiện về độ, việc thực hiện bước nhảy sẽ không thành
công và không thể hình thành chất mới. Do đó từng bước tích luỹ kiến thức phải
được thực hiện một cách chính xác, đầy đủ. Việc kế thừa kiến thức từ khóa này
sang khóa khác và từ năm này qua năm khác ở sinh viên giúp tích lũy để thành
công trong quá trình học tâp. Cứ như vậy, sinh viên liên tục phấn đấu không
ngừng, giúp vững bước trong hành trang cuộc đời mình.

Ba là, ý thức xã hội có khả năng vượt trước tồn tại xã hội nên phải có nghị
lực tự học tập và rèn luyện tính tích cực, tự chủ, nghiêm túc, trung thực. Quá
trình học tập chắc chắn sẽ gặp phải những khó khăn do điều kiện khách quan
hoặc chủ quan khác nhau. Trong điều kiện đó, yếu tố chủ quan là ý chí cá nhân
chính là chìa khóa để bản thân có thể vực dậy và tiếp tục con dường tích lũy
kiến thức. Có một nghị lực tốt và động cơ chân chính trong hoc tập sẽ giúp bản
thân vượt qua được những chông gai thử thách để tiếp tục khai phá hết tiềm
năng tri thức, kho dữ liệu và ứng dụng vào thực tiễn.

C. KẾT LUẬN

Nhìn chung, tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất
biện chứng của đời sống xã hội, vì vậy, công cuộc cải tạo và xây dựng xã hội
phải được tiến hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Ngoài ra, ý nghĩa của mối liên hệ biện chứng còn có ý nghĩa to lớn trong quá
trình học tập của sinh viên hiện nay.

Ý thức được tầm quan trọng của tồn tại xã hội và ý thức xã hội, với đề tài
“Biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội trong Triết học Mác - Lênin và
ý nghĩa của nó đối với đời sống học tập của sinh viên hiện nay”, tác giả hi vọng
rằng có thể định hướng cho sinh viên biết cách khai thác có hiệu quả mối liên hệ
tác động qua lại của tồn tại xã hội cùng với ý thức xã hội trong quá trình tích luỹ
kiến thức ở cấp đại học, đồng thời khẳng định việc áp dụng thành thục mối quan
hệ biện chứng giữa chúng có thể giúp sinh viên đạt được nhiều thành tích trong
10
đời sống và học tập, xa hơn nữa, có thể gặt hái được nhiều thành tựu lớn lao
trong sự nghiệp tương lai.

11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Triết học Mác – Lê nin (Dành cho bậc đại
học chuyên ngành lý luận chính trị), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật,
Hà Nội, 2021.

2. C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập tập hai, Nhà xuất bản Chính trị Sự thật, Hà
Nội, 2002.

12

You might also like