You are on page 1of 9

ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Nhóm 12:
Đề Tài nghiên cứu: Trong bài nói chuyện với anh chị em học viên, cán bộ, công
nhân viên Trường Đại học Nhân dân Việt Nam (khóa 3) ngày 18/01/1958, Bác Hồ
viết: “Để cải tạo xã hội, một mặt phải cải tạo vật chất như tăng gia sản xuất, một
mặt phải cải tạo tư tưởng. Nếu không có tư tưởng xã hội chủ nghĩa thì không làm
việc xã hội chủ nghĩa được” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H.2002, tr.24).
Dựa vào mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, anh/chị hãy giải thích
luận điểm trên và nêu ý nghĩa của vấn đề này trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.

1
Thành viên nhóm:
Phan Anh Duy MSSV: 23247016
Phạm Minh Nhật MSSV: 23247095
La Nguyên Nhã MSSV: 23247094
Quan Tú Toàn MSSV: 23247121
Võ Nguyễn Hoàng Thương MSSV: 23247118
Trần Bảo Lâm MSSV: 23247077

1. TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI


1.1. TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ CÁC YẾU TỐ CƠ BẢN
1.1.1. Khái niệm tồn tại xã hội:
Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất
của xã hội. Tồn tại xã hội của con người là thực tại xã hội khách quan, là một kiểu vật
chất xã hội, là các quan hệ xã hội vật chất được ý thức xã hội phản ánh. Trong các quan
hệ xã hội vật chất ấy thì quan hệ giữa con người với giới tự nhiên và quan hệ giữa con
người với con người là những quan hệ cơ bản nhất.
1.1.2. Các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội:
Một là, phương thức sản xuất ra của cải vật chất của xã hội đó.
Ví dụ: phương thức kỹ thuật canh nông lúa nước là nhân tố cơ bản tạo thành điều
kiện sinh hoạt vật chất truyền thống của người Việt Nam.
Hai là, các yếu tố thuộc về điều kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý, như: các điều kiện
khí hậu, đất đai, sông hồ,... tạo nên đặc điểm riêng có của không gian sinh tồn của cộng
đồng xã hội.
Ba là, các yếu tố dân cư, bao gồm: cách thức tổ chức dân cư, tính chất lưu dân cư,
mô hình tổ chức dân cư,...
Các yếu tố đó tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng, tác động lẫn nhau
tạo thành điều kiện sinh tồn và phát triển của xã hội, trong đó phương thức sản xuất vật
chất là yếu tố cơ bản nhất. Bởi vì: trình độ của phương thức sản xuất như thế nào sẽ quyết
định sự tác động của con người đến môi trường tự nhiên và quy mô phát triển dân số như
thế ấy.
Ví dụ: Trong điều kiện địa lý tự nhiên nhiệt đới, gió mùa, nhiều sông ngòi,... tất yếu
làm hình thành nên phương thức canh tác lúa nước là thích hợp nhất đối với người Việt
Nam. Để tiến hành được phương thức đó, người Việt buộc phải co cụm lại thành tổ chức
dân cư làng, xã, có tính ổn định bền vững,...
1.2. Ý THỨC XÃ HỘI VÀ KẾT CẤU Ý THỨC XÃ HỘI
1.2.1. Thế nào là ý thức xã hội?
Ý thức xã hội là khái niệm triết học dùng để chỉ toàn bộ phương diện sinh hoạt tinh
thần của xã hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai
đoạn phát triển nhất định.
Mặt tinh thần của xã hội bao gồm những tư tưởng, quan điểm, tình cảm, tâm lý, thói
quen, phong tục, tập quán, truyền thống,…
Ý thức xã hội gồm những hiện tượng tinh thần, những bộ phận, những hình thái
khác nhau phản ánh tồn tại xã hội bằng những phương thức khác nhau.

2
Ta có thể lấy ví dụ về ý thức xã hội: truyền thống yêu nước, nhân đạo nhân nghĩa
của dân tộc.
Theo trình độ phản ánh của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội có thể phân biệt ý
thức xã hội thông thường và ý thức lý luận.
Ý thức xã hội thông thường là toàn bộ những tri thức, những quan niệm,… của
những con người trong một cộng đồng người nhất định, được hình thành một cách trực
tiếp từ hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống hóa, khái quát hóa thành lý
luận.
Cũng có thể phân tích ý thức xã hội theo hai trình độ và hai phương thức phản ánh
đối với tồn tại xã hội, đó là tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội.
1.2.2. Thế nào là tâm lý xã hội?
Tâm lý xã hội là khái niệm chỉ toàn bộ tình cảm, ước muốn, thói quen, tập quán…
của con người, của một bộ phận xã hội hoặc của toàn xã hội hình thành dưới ảnh hưởng
trực tiếp của đời sống hàng ngày của họ và phản ánh đời sống đó.
Đặc điểm của tâm lý xã hội:
+ Phản ánh một cách ngày trực tiếp điều kiện sống hàng ngày của con người.
+ Là sự phản ánh có tính tự phát, thường ghi lại những mặt bề ngoài của tồn tại xã
hội.
+ Không có khả năng vạch ra đầy đủ, rõ ràng, sâu sắc bản chất các mối quan hệ xã
hội của con người.
+ Còn mang tính kinh nghiệm, chưa được thể hiện về mặt lý luận, còn yếu tố trí tuệ
thì đan xen với yếu tố tình cảm. Tuy nhiên, không thể phủ nhận vai trò quan trọng của
tâm lý xã hội trong sự phát triển của ý thức xã hội.
1.2.3. Thế nào là hệ tư tưởng xã hội?
Hệ tư tưởng xã hội là khái niệm chỉ trình độ cao của ý thức xã hội, được hình thành
khi con người nhận thức sâu sắc về những điều kiện sinh hoạt vật chất của mình, là toàn
bộ các hệ thống quan niệm, quan điểm xã hội như: chính trị, triết học, đạo đức, tôn giáo.
Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội là hai trình độ, hai phương thức phản ánh khác nhau
của ý thức xã hội đối với cùng một tồn tại xã hội, chúng có mối quan hệ biện chứng với
nhau, tuy nhiên, không phải tâm lý xã hội tự nó sản sinh ra hệ tư tưởng xã hội.
Đặc điểm của hệ tư tưởng:
+ Được hình thành khi con người nhận thức sâu sắc về sự vật, hiện tượng.
+ Có khả năng đi sâu vào bản chất các mối quan hệ xã hội.
+ Được hình thành tự giác bởi các nhà tư tưởng của những giai cấp nhất định và
truyền bá trong xã hội.
+ Hệ tư tưởng là nhận thức lý luận về tồn tại xã hội, là hệ thống những quan điểm,
tư tưởng (chính trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo…), kết quả sự khái quát hóa
những kinh nghiệm xã hội.
2. MỐI QUAN HỆ GIỮA TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI
2.1. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.
Theo quan điểm thế giới quan duy vật thì vật chất có trước, nó sinh ra và quyết định
ý thức. Trong lĩnh vực xã hội thì quan hệ này được biểu hiện là tồn tại xã hội có trước, nó
sinh ra và quyết định ý thức xã hội.

3
Tồn tại xã hội nào thì sinh ra ý thức xã hội ấy. Tức là người ta không thể tìm nguồn
gốc tư tưởng ấy trong đầu óc con người, mà phải tìm nó trong chính tồn tại xã hội. Do đó,
tồn tại xã hội để lý giải cho ý thức xã hội.
Khi tồn tại xã hội thay đổi một cách căn bản, nhất là khi phương thức sản xuất đã
thay đổi thì sớm hay muộn ý thức xã hội cũng phải thay đổi theo.
Ví dụ: Thời tiền sử là các bộ lạc săn bắt (bán), hái lượm, dùng đá cuội để chế tác
công cụ. Công cụ còn rất thô sơ song đã có những bước tiến lớn trong kỹ thuật chế tác, đã
có nhiều hình loại ổn định nhằm phục vụ đời sống. Thời kì này con người nhận biết, tận
dụng và sử dụng nhiều loại nguyên vật liệu như đá, đất sét, xương, sừng, tre, gỗ,...
2.2. Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội.
Lịch sử cho thấy khi xã hội cũ mất đi thậm chí đã mất rất lâu, nhưng ý thức xã hội
cũ đó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng. Tính độc lập tương đối này biểu hiện đặc biệt rõ trong
lĩnh vực tâm lý xã hội như trong truyền thống, tập quán, thói quen.
Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội do những nguyên nhân
sau đây:
- Sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ, thường xuyên và trực tiếp của
những hoạt động thực tiễn của con người; thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã
hội có thể không phản ánh kịp thời và trở nên lạc hậu.
- Hơn nữa, ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội nên nói chúng chỉ biến đổi
sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội.
- Do sức mạnh của thói quen truyền thống, tập quán cũng như do tính lạc hậu, bảo
thủ của một số hình thái xã hội.
- Ý thức xã hội luôn gắn với những lợi ích nhóm, những tập đoàn người, những giai
cấp nhất định trong xã hội.
Ví dụ: Thả rông gia súc gia cầm, Tình trạng này xảy ra ở các làng đồng bào dân tộc
thiểu số, như: Xơ đăng, Gia rai, Giẻ-Triêng,… Lối chăn nuôi gia súc, gia cầm theo hình
thức thả rông để vật nuôi tự kiếm ăn, không chăn dắt, không làm chuồng trại rất phổ biến
trong đồng bào các dân tộc thiểu số, nhất là các làng đồng bào ở vùng sâu, vùng xa.
Trường hợp, vật nuôi của gia đình này đến phá hoại hoa màu của gia đình khác thì phải
đền bù với giá trị cao hơn so với năng suất thực tế sau khi thu hoạch hoặc gia đình có hoa
màu bị phá hoại giết chết vật nuôi, chia đều cho hai bên gia đình.

2.3. Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội.


Trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người đặc biệt là những tư
tưởng khoa học tiên tiến, có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo được
tương lai, và có tác dụng tổ chức chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người, hướng hoạt
động đó vào hướng giải quyết những nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi của đời
sống vật chất

Ví dụ: Benjamin Franklin, ông là một trong những người thành lập Hoa Kỳ. Không
chỉ vậy ông còn là một chính trị gia, nhà khoa học, ngoại giao, triết gia, nhà phát
minh,… Ông cho rằng trong tương lai việc vận chuyển sẽ trở nên dễ dàng, nền nông

4
nghiệp có thể giảm thiểu lao động và tăng năng suất, phương pháp y học cải tiến
giúp con người sống lâu hơn.

2.4. Ý thức xã hội tác động lên tồn tại xã hội.

Do có tính độc lập tương đối nên ý thức xã hội có thể tác động trở lại lên tồn tại xã
hội theo 2 xu hướng:
+ Nếu ý thức xã hội phản ánh đúng đắn các quy luật khách quan của tồn tại xã hội
thì nó có thể thúc đẩy sự phát triển của tồn tại xã hội. Vai trò này thuộc về ý thức của
những giai cấp tiến bộ và cách mạng.
+ Nếu ý thức xã hội phản ánh sai lệch, xuyên tạc các quy luật khách quan của tồn tại
xã hội thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội. Tác động này thuộc về ý thức
của những giai cấp cũ, lạc hậu, phản động. Sự tác động của ý thức xã hội lên tồn tại xã
hội phụ thuộc vào mức độ thâm nhập của nó vào trong phong trào của quần chúng nhân
dân.
Mức độ, tính chất và hiệu quả tác động của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như tính tiến bộ, cách mạng hay lạc hậu, phản động của chủ thể
mang ý thức xã hội, tức là địa vị lịch sử của giai cấp, mức độ thâm nhập của ý thức xã hội
vào quảng đại quần chúng nhân dân, năng lực triển khai, hiện thực hóa ý thức xã hội vào
hoạt động thực tiễn của chủ thể lãnh đạo, quản lý, . . .

3. LÀM RÕ LUẬN ĐIỂM


Tư tưởng xã hội chủ nghĩa là một hệ thống những quan niệm phản ánh nhu cầu, ước
mơ, nguyện vọng của các giai cấp lao động về một xã hội không có áp bức bóc lột, mọi
người đều bình đẳng và có cuộc sống ấm no, hạnh phúc; là những thành tựu của con
người đạt được trong quá trình đấu tranh giải phóng giai cấp; là chế độ xã hội không có
áp bức bóc lột, mọi người đều được tự do, bình đẳng, có điều kiện phát triển toàn diện.
Nói tóm tắt là phải đặt lợi ích chung của cả nước lên trước hết, lên trên lợi ích của cá
nhân mình. Muốn cải tạo xã hội thì phải cải tạo mình vì tư tưởng xã hội chủ nghĩa và tư
tưởng cá nhân chủ nghĩa chống đối nhau, nếu cứ lo cho mình không lo cho làng, cho
nước thì không thể có tư tưởng xã hội chủ nghĩa được.
Bác thấy được tầm quan trọng của chủ nghĩa xã hội trong công cuộc cải tạo xã hội
từ sự thành công của cuộc cách mạng tháng 10 Nga năm 1917. Trước đó, Liên Xô chỉ là
một nước nông nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng nề; nhưng sau nhiều lần cải
cách dưới sự lãnh đạo của Đảng Bôn-Sê-Vích, Liên Xô đã trở thành quốc gia đứng đầu
Châu Âu về mọi mặt. Công cuộc cải tạo xã hội ở Liên Xô khó khǎn hơn ở ta vì trước đây
chỉ có một mình Liên Xô là nước xã hội chủ nghĩa, bị các nước tư bản và đế quốc bao
vây xung quanh. Nước ta dễ dàng hơn một chừng nào đó, vì ngoài sự cố gắng của bản
thân mình, ta còn có sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em trong đại
gia đình xã hội chủ nghĩa.
Sau năm 1954, miền Bắc hoàn toàn giải phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội. Miền Bắc
bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa từ xuất phát điểm rất thấp, với nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh tàn

5
phá nặng nề. Cơ sở vật chất – kỹ thuật nghèo nàn. Trình độ, năng suất lao động thấp, đội
ngũ cán bộ khoa học – kỹ thuật vừa ít về số lượng, vừa hạn chế về năng lực và kinh
nghiệm điều hành, quản lý. Miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều
kiện đất nước bị chia cắt làm hai miền, vừa có hòa bình, vừa có chiến tranh. Tình hình thế
giới phức tạp. Hệ thống xã hội chủ nghĩa bộc lộ một số khó khăn, bất đồng, mâu thuẫn.
Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải cải tạo xã hội cũ thành một xã hội mới, một
xã hội không có chế độ người bóc lột người, một xã hội bình đẳng, nghĩa là ai cũng phải
lao động và có quyền lao động, ai làm nhiều thì hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm
không hưởng. Muốn xã hội giàu thì mỗi cá nhân, mỗi gia đình cho đến cả nước phải tǎng
gia sản xuất, thực hành tiết kiệm. Tǎng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm sẽ giúp cho
cuộc sống người dân no đủ và dư dả hơn. Lúc đó là lúc ai cũng đưa hết tài nǎng của mình
cống hiến cho xã hội, cho đất nước.
Sở dĩ cần phải cải tạo tư tưởng là vì mỗi chế độ sẽ có mỗi tư tưởng khác nhau từ chế
độ phong kiến đến chế độ thực dân áp bức. Chúng ta sinh trưởng khá lâu dưới chế độ
thực dân và phong kiến, chịu ảnh hưởng chế độ ấy khá sâu, vô tình nhiễm vào những cái
xấu cũng khá nhiều, trong bản thân chúng ta tư tưởng cũ còn nhiều. Mỗi người phải có tư
tưởng xã hội chủ nghĩa đúng đắn, thì mới có thể góp phần xứng đáng vào việc xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Theo Bác, mục đích cải tạo là làm cho những người trí thức chúng ta
trở thành những người trí thức của giai cấp công nhân, hết lòng hết sức phục vụ công
nông, góp phần xứng đáng và vẻ vang vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Bác Hồ đã nhấn mạnh mối quan hệ chặt chẽ giữa cải tạo xã hội và cả hai khía
cạnh: vật chất và tư tưởng.
Theo Bác, để cải tạo xã hội thì:
- Một mặt phải cải tạo vật chất, tức là phải tăng cường sản xuất, nâng cao năng suất
lao động, phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng,...
- Một mặt phải cải tạo tư tưởng, tức là phải đào tạo, giáo dục, truyền bá, vận động
nhân dân nhận thức và thực hiện tư tưởng xã hội chủ nghĩa, loại bỏ những tư tưởng lạc
hậu, phản động, bảo thủ,…. Đây là một nhiệm vụ khó khăn và phức tạp, là điều kiện để
thực hiện xã hội chủ nghĩa. Nếu không có tư tưởng xã hội chủ nghĩa thì không làm việc
xã hội chủ nghĩa được, có nghĩa là không có ý thức xã hội chủ nghĩa thì không thể thay
đổi tồn tại xã hội theo hướng xã hội chủ nghĩa được. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa là nguồn
động lực, là kim chỉ nam, là tiêu chuẩn đánh giá cho hoạt động cải tạo xã hội.

Về mặt tư tưởng: Bác muốn xây dựng một nền tư tưởng xã hội chủ nghĩa, phản đối
mọi hình thức chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa phong kiến, chủ nghĩa thực
dân và chủ nghĩa đế quốc. Cũng như khẳng định vai trò của tư tưởng xã hội chủ nghĩa là
nguồn động lực, là kim chỉ nam, là tiêu chuẩn đánh giá cho hoạt động cải tạo xã hội.
Cải tạo vật chất thông qua công nghiệp hoá cần đi đôi với cải tạo tư tưởng để xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, và bền vững. Để thực hiện được công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, cần phải có sự đồng thuận, đoàn kết, nỗ lực của toàn dân, toàn Đảng,
toàn quân và toàn hệ thống chính trị.

6
Bên cạnh đó, tư tưởng xã hội chủ nghĩa sẽ là công cụ để phát hiện, phòng ngừa và
khắc phục những sai lầm, khuyết điểm, tồn tại trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Là cơ sở để xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
phản ánh giá trị cao nhất của con người trong xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng xã hội chủ nghĩa cũng trở thành một yếu tố quan trọng để tạo ra những đột
phá trong khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh và tự
chủ của nền kinh tế.
Về vật chất: Bác muốn xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, phát triển các
ngành công nghiệp, nông nghiệp, khoa học kỹ thuật, văn hóa giáo dục, nâng cao đời sống
kinh tế của nhân dân.
Về tinh thần: Tuyên truyền cho nhân dân Việt Nam và thế giới về mục tiêu cao cả
của Bác Hồ là xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và
giàu mạnh và góp phần thắng lợi cho sự nghiệp cách mạng thế giới. Khuyên các trí thức
cũ, phải tranh thủ nghiên cứu, học tập những tư tưởng tốt, đấu tranh với cái xấu để tiến
bộ, để trở thành những người trí thức của giai cấp công nhân, hết lòng hết sức phục vụ
công nông, góp phần xứng đáng và vẻ vang vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tạo thêm nhiều điều kiện và khuyến khích con người phát huy tối đa tiềm năng, sáng tạo,
khát vọng vươn lên, đóng góp cho sự phát triển chung của xã hội.
Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện chứng của đời
sống xã hội. Vì vậy, công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải được tiến
hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
4. VẤN ĐỀ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG
Công tác tư tưởng là một trong những hoạt động quan trọng nhất của Đảng Cộng
Sản và Nhà nước Xã hội chủ nghĩa nhằm xác lập, phát triển hệ thống tư tưởng xã hội chủ
nghĩa, hình thành niềm tin, định hướng giá trị, xây dựng thế giới quan khoa học cho cán
bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trong toàn xã hội, thúc đẩy mọi người hành động
tích cực, sáng tạo, thực hiện thắng lợi mục tiêu xã hội chủ nghĩa.
Thế giới đương đại đang trải qua những biến động phức tạp, khó lường. Cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư cùng với quá trình toàn cầu hóa đang chi phối mạnh mẽ đời
sống kinh tế - chính trị của nhân loại, đem đến nhiều thay đổi vượt bậc về chất lượng lao
động và sản xuất, chất lượng cuộc sống, tạo ra thời cơ phát triển cho các nước, đi kèm
nguy cơ tụt hậu nếu không kịp thời nắm bắt. Những cuộc xung đột dân tộc, tôn giáo,
tranh chấp lãnh thổ, khủng bố, chiến tranh cục bộ, chiến tranh kinh tế, chiến tranh mạng
diễn ra theo hình thức mới, tinh vi và gay gắt. Chủ nghĩa cường quyền, chủ nghĩa dân tộc
cực đoan, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch, chủ nghĩa dân túy tác động
mạnh đến quan hệ quốc tế. Vấn đề toàn cầu (biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh) và an
ninh phi truyền thống (an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước, an
ninh tài chính, an ninh mạng) đặt ra nhiều thách thức trong việc ứng phó. Những vấn đề
này đang gây nhiều bức xúc, trở ngại cho việc tìm kiếm, duy trì hòa bình, ổn định trong
hợp tác và phát triển bền vững giữa các quốc gia, dân tộc trên phạm vi toàn thế giới
Ở Việt Nam, sau công cuộc đổi mới, từ một đất nước nghèo nàn, cơ sở vật chất - kỹ
thuật, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội lạc hậu, trình độ thấp. Đến nay, Việt Nam đã vươn
lên trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình; văn hóa, xã hội tiếp tục phát

7
triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện; công tác xây dựng Đảng
và hệ thống chính trị có bước đột phá; khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được
củng cố; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng - an ninh, độc lập, chủ quyền được giữ
vững; vị thế và uy tín của đất nước ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Việt
Nam đang thực hiện có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, từng bước
ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ. Niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ tăng lên. Dù
vậy, chúng ta vẫn đang đứng trước rất nhiều khó khăn, thách thức, nguy cơ, như chệch
hướng xã hội chủ nghĩa; sự tụt hậu xa hơn về kinh tế; nạn tham nhũng, lãng phí; sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên; sự phân
cực giàu nghèo; tình trạng ô nhiễm môi trường... Những vấn đề này đã và đang ảnh
hưởng, tác động một cách tiêu cực đến chất lượng của công tác tư tưởng. Yêu cầu đặt ra
là cần phải tăng cường nghiên cứu, học tập về lý luận và thực tiễn hoạt động tư tưởng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh; đổi mới công tác tư tưởng đáp ứng đòi hỏi cách mạng của Đảng
trong tình hình mới.

5. Ý NGHĨA VÀ LIÊN HỆ CỦA VẤN ĐỀ NÀY TRONG THỜI KỲ CÔNG


NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA (CNH-HĐH).
Liên hệ của vấn đề này trong thời kỳ CNH-HĐH:
- Trong quá trình CNH-HĐH, mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội có
ảnh hưởng lẫn nhau một cách phức tạp.
- Tồn tại xã hội và ý thức xã hội như động lực của CNH-HĐH: ý thức xã hội ảnh
hưởng đến hướng phát triển của xã hội và nền kinh tế. Trong quá trình CNH-HĐH ý thức
xã hội thường được thay đổi và định hình lại theo nhu cầu của nền kinh tế mới và đôi khi
cũng làm thay đổi cấu trúc xã hội.
- Ảnh hưởng của tồn tại xã hội đến quá trình CNH-HĐH: các yếu tố như cấu trúc
giai cấp, hệ thống giáo dục và phân phối tài nguyên xã hội đều có ảnh hưởng đến việc
phát triển công nghiệp. Ví dụ, một xã hội có cấu trúc giai cấp linh hoạt và sự di chuyển
dễ dàng giữa các tầng lớp có thể tạo ra sự đổi mới và sáng tạo thúc đẩy sự phát triển của
công nghiệp.
-Tác động của CNH-HĐH đến ý thức xã hội: sự thay đổi trong nền kinh tế thường
đi kèm với sự thay đổi trong ý thức xã hội. CNH-HĐH có thể tạo ra các giá trị mới, như
công bằng xã hội, quyền lợi lao động, và quan tâm đến môi trường. Nó cũng có thể gây ra
các mâu thuẫn và bất ổn xã hội khi một số nhóm xã hội cảm thấy bị tổn thương hoặc bị
loại trừ trong quá trình này.
-Phản ứng của xã hội đối với CNH-HĐH: ý thức xã hội thường đóng vai trò quan
trọng trong việc hình thành phản ứng của xã hội đối với CNH-HĐH. Sự phản đối hoặc
ủng hộ từ phía công chúng có thể tạo ra sự chậm trễ hoặc tăng tốc cho quá trình CNH-
HĐH, tùy thuộc vào mức độ chấp nhận và sự đồng thuận của cộng đồng.
-Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội trong thời kỳ CNH-HĐH là quá
trình tương tác phức tạp, trong đó cả hai yếu tố đều ảnh hưởng lẫn nhau và có vai trò
quan trọng trong việc hình thành và thay đổi xã hội.
Ý nghĩa của vấn đề này trong thời kỳ CNH-HĐH

8
-Thay đổi tồn tại xã hội, CNH-HĐH tác động đến ý thức xã hội. Ta có thể thấy
rằng, quá trình CNH-HĐH ở nước ta đã tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật làm thay đổi những
điều kiện kinh tế cũng như tạo ra cơ sở và môi trường xã hội. Điều này làm thay đổi
mạnh mẽ tư duy, nếp nghĩ, thay đổi thói quen, lối sống... của từng cá nhân và cả cộng
đồng xã hội.
-Ý thức xã hội tiến bộ thúc đẩy quá trình CNH-HĐH. Chủ thể của quá trình CNH-
HĐH chính là con người. Cho nên tham gia vào quá trình này đòi hỏi con người phải thay
đổi, bởi lẽ một khi tư tưởng tiêu cực vẫn còn tồn tại, thì con người chưa thể thông suốt
tiếp thu cái mới, và con đường đi lên xã hội chủ nghĩa thông qua quá trình CNH-HĐH
vẫn chưa thể trơn tru được.

You might also like