Professional Documents
Culture Documents
*Khái Niệm:
-Tồn tại xã hội là khái niệm triết học dùng để chỉ toàn bộ những sinh hoạt vật
chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội trong những giai đoạn
lịch sử nhất định.
*Khái Niệm
Ý thức xã hội là khái niệm triết học dùng để chỉ các mặt, các bộ phận khác nhau
của lĩnh vực tinh thần xã hội như quan điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm trạng, truyền
thống... của cộng đồng xã hội; mà những bộ phận này nảy sinh từ tồn tại xã hội và
phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định
*Kết cấu
Ý thức xã hội gồm nhiều cấp độ khác nhau: Ý thức sinh hoạt đời thường và ý thức lý
luận, tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.
+ Ý thức sinh hoạt đời thường và ý thức lý luận: sự phân chia này dựa vào sự khác
nhau giữa nhân sinh quan trong thực tiễn cuộc sống chưa được hệ thống hóa với tập
hợp những tư tưởng đã nghiên cứu một cách sáng tạo được hệ thống hóa thành lý
luận thành học thuyết.
Ý thức sinh hoạt đời thường không có nghĩa là tầm thường tự phát, hoang dã hay ít có
giá trị, mà nó lại bao hàm nội dung rộng lớn của cuộc sống. Tuy nó chưa có tính hệ
thống, tính hợp lý và tính khoa học nhưng nó lại mang tính đầy đủ toàn vẹn của cảm
giác sống, nó gắn với hiện thực trực tiếp của đời sống, phản ánh được những chi tiết
gần gũi của đời sống. Chính kinh nghiệm của ý thức đời thường là cái kho để các khoa
học tìm kiếm nội dung của mình.
Ý thức lý luận là toàn bộ tư tưởng, quan điểm của xã hội được hệ thống hóa thành hệ
thống một cách hợp lý, thành chỉnh thể trong những khoa học cụ thể, nghệ thuật, triết
học… Đặc điểm của ý thức lý luận là tính hệ thống, tính hợp lý, tính có hiểu biết về
những mối liên hệ bản chất tất yếu của các hiện tượng xã hội, tính phản ánh trừu
tượng khái quát bằng các phạm trù khái niệm.
- Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.
+ Tâm lý xã hội là một bộ phận ở cấp độ ý thức sinh hoạt đời thường, trong đó xuất
hiện những quan niệm và sự đánh giá đa dạng các hiện tượng xã hội, những lý tưởng,
thị hiếu thẩm mỹ, những phong tục truyền thống, những thiên hướng và những hứng
thú, hình ảnh, ước mơ…
Đặc điểm của tâm lý xã hội phản ánh trực tiếp điều kiện sống hàng ngày, phản ánh bề
mặt của tồn tại xã hội, không có khả năng vạch ra bản chất và những nguyên nhân sâu
xa các mối quan hệ vật chất xã hội. Nó mang tính chất kinh nghiệm chưa được thể hiện
về mặt lý luận, những yếu tố trí tuệ thường trộn lẫn với những yếu tố tình cảm.
+ Hệ tư tưởng là bộ phận ở cấp độ ý thức lý luận, trong đó bao gồm sự đánh giá một
cách có hệ thống về hiện thực xã hội, trên lập trường, quan điểm của một giai cấp, một
Đảng nhất định, nêu ra nhiệm vụ và mục đích chính trị-xã hội: xây dựng hệ thống
những quan điểm về quyền lực của giai cấp, của đảng phái đó.
Hệ tư tưởng phản ánh một cách sâu sắc về những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã
hội, nó là sự nhận thức lý luận về tồn tại xã hội dựa trên cơ sở khái quát những kinh
nghiệm xã hội đã được tích lũy của những giai cấp, tập đoàn xã hội nhất định.
Hệ tư tưởng có thể là tư tưởng khoa học, cũng có thể phản khoa học tùy vào việc nó có
phản ánh đúng đắn các mối quan hệ vật chất của xã hội hay không.
+ Giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội có mối quan hệ tác động lẫn nhau, do có
chung một nguồn gốc là tồn tại xã hội và cùng phản ánh tồn tại xã hội. Tâm lý xã hội tạo
điều kiện thuận lợi cho việc tiếp thu hệ tư tưởng xã hội. Ngược lại, hệ tư tưởng xã hội
lại củng cố và phát triển tâm lý xã hội. Nhưng hệ tư tưởng không nảy sinh trực tiếp từ
tâm lý xã hội và cũng không là sự “cô đặc” của tâm lý xã hội.
- Ý thức xã hội là sự phản ánh điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, vì thế, trong xã
hội có giai cấp, ý thức xã hội luôn mang tính giai cấp. Trong xã hội có giai cấp đối
kháng, tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng là tư tưởng của giai cấp thống
trị về kinh tế và chính trị của thời đại đó, các giai cấp khác thường chịu ảnh hưởng tư
tưởng của giai cấp thống trị. Ý thức xã hội, ý thức giai cấp, ý thức cá nhân không phải
bao giờ cũng là những khái niệm đồng nhất.
Câu 3: Vai trò của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội?
Tồn tại xã hội quyết định đến sự hình thành và phát triển của ý thức xã hội,
tồn tại xã hội có trước rồi ý thức xã hội có sau. Tồn tại xã hội phát triển theo
chiều hướng như thế nào thì ý thức xã hội sẽ phát triển theo chiều hướng
như thế. C.Mác và Ănghen đã chứng minh rằng đời sốn tinh thần của xã hội
hình thành và phát triển trên cơ sở của đời sống vật chất, không thể tìm
nguồn gốc tư tưởng, tâm lý xã hội trong chính bản thân nó.
Sự biến đổi của một thời đại nào đó cũng sẽ không thể giải thích được nếu
chỉ căn cứ vào ý thức của cả thời đại đó. Ví dụ, trong xã hội cộng sản
nguyên thủy, do trình độ của lực lượng sản xuất còn yếu kém, hoạt động lao
động được diễn ra đồng nhất và của cải đều được chia đều cho mọi người.
Tuy nhiên khi chế độ công xã nguyên thủy tan rã, quan hệ sản xuất chiếm
hữu nô lệ dần xuất hiện, xã hội đã bắt đầu có sự phân chia giàu nghèo.
Từ đây mà mầm mống của sự bóc lột bắt đầu hình thành, kéo theo sự ra
đời của chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng chủ nô. Khi quan hệ sản xuất phong
kiến bị quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dần thay thế thì vị trí đặc trưng
trong đời sống tinh thần xã hội của hệ tư tưởng phong kiến bị xóa bỏ, được
thay thế hoàn toàn bởi hệ tư tưởng tư sản.
Những luận điểm của C.Mác đã bác bỏ hoàn toàn những quan điểm sai
lầm của chủ nghĩa duy tâm trước đó là muốn đi tìm ý thức tư tưởng trong
bản thân ý thức tư tưởng, xác định tinh thần, tư tưởng là nguồn gốc của xã
hội, quyết định ý thức xã hội, chính là sự phản ánh của tồn tại xã hội, phụ
thuộc vào tồn tại xã hội, ý thức xã hội.
Ngoài ra, giữa hình thái ý thức xã hội và tồn tại xã hội vẫn luôn có sự tác
động quan lại lẫn nhau. Cụ thể trong mỗi thời đại tùy vào từng hoàn cảnh
lịch sử, có những hình thái ý thức xã hội nào đó nổi lên hàng đầu tác động
và chi phối các hình thái ý thức xã hội khác. Điều này nói lên rằng, các hình
thái ý thức xã hội không chỉ chịu sự tác động quyết định của tồn tại xã hội,
ngoài ra còn chịu sự tác động qua lại lẫn nhau. Sự tác động này làm cho
mỗi hình thái ý thức xã hội có những tính chất và những mặt không thể giải
thích trực tiếp bằng các quan hệ vật chất.