You are on page 1of 9

Khái niệm, kết cấu, tính giai cấp, các hình thái của ý thức xã hội:

a) Khái niệm ý thức xã hội:

- Ý thức xã hội là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử được vận dụng để giải

quyết vấn đề cơ bản của triết học trong lĩnh vực xã hội.

- Nếu “ý thức…không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại được ý thức”

thì ý thức xã hội chính là xã hội tự nhận thức về mình, về sự tồn tại xã hội của

mình và về hiện thực xung quanh mình.

Nói cách khác, ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, là bộ phận

hợp thành của văn hóa tinh thần xã hội.

b) Kết cấu của ý thức xã hội:

- Ý thức xã hội bao gồm tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội. Trong hệ tư tưởng

xã hội, quan trọng nhất là các quan điểm, các học thuyết và các tư tưởng. Trong

tâm lý xã hội có tình cảm, tâm trạng, truyền thống… nảy sinh từ tồn tại xã hội

và phản ánh tồn tại xã hội ở những giai đoạn phát triển nhất định.

- Ý thức xã hội và ý thức cá nhân tồn tại trong mối quan hệ hữu cơ, biện chứng

với nhau, cùng phản ánh tồn tại xã hội, song giữa ý thức xã hội và ý thức cá

nhân vẫn có sự khác nhaun tương đối vì chúng thuộc hai trình độ khác nhau.

- Ý thức cá nhân là thế giới tinh thần của các cá nhân riêng lẻ và cụ thể (tôi, anh,

cậu ta). Ý thức của các cá nhân khác nhau đều phản ánh tồn tại xã hội ở các

mức độ khác nhau, song không phải bao giờ nó cũng đại diện cho quan điểm

chung, phổ biến của một cộng đồng người, của một tập đoàn xã hội hay một

thời đại xã hội nhất định nào đó.

- Về mặt hình thức, ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội dưới nhiều hình thức

khác nhau. Tùy vào góc độ xem xét, người ta thường chia ý thức xã hội thành

những dạng hình thức sau:

- Ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận:

- Ý thức xã hội thông thường là những tri thức, những quan niệm của con người

hình thành một cách trực tiếp trong các hoạt động trực tiếp hằng ngày nhưng

chưa được hệ thống hóa và khái quát hóa.


- Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan niệm được tổng hợp, được hệ thống hóa

và khái quát hóa thành các học thuyết xã hội dưới dạng những khái niệm, phạm

trù, quy luật.

- Ý thức xã hội thông thường phản ánh sinh động và trực tiếp các mặt khác nhau của cuộc sống hằng
ngày của con người. Trình độ ý thức thông thường tuy thấp hơn ý thức lý luận nhưng lại phong phú hơn
ý thức lý luận. Chính tri thức kinh nghiệm phong phú của ý thức thông thường là tiền đề quan trọng cho
sự hình thành ý thức lý luận.- Ý thức lý luận (ý thức khoa học) có khả năng phản ánh hiện thực khách
quan một cách khái quát, sâu sắc và chính xác, vạch ra mối liên hệ khách quan bản chất, tất yếu mang
tính quy luật của các sự vật và các quá trình xã hội.

*Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng:

-Tâm lý xã hội là ý thức xã hội thể hiện trong ý thức các nhân. Tâm lý xã hội bao gồm toàn bộ tư tưởng,
tình cảm, tâm trạng, ước muốn, thói quen, tập quán…của một người, của một bộ phận xã hội hoặc của
toàn xã hội hình thành dưới tác động trực tiếp của cuộc sống hằng ngày của họ và phản ánh cuộc sống
đó.

- Đặc điểm của tâm lý xã hội:

* Phản ánh một cách trực tiếp điều kiện cuộc sống hằng ngày của con người.

* Là sự phản ánh có tính tự phát, thường ghi lại những gì dễ thấy, những gì nằm trên bề mặt của tồn tại
xã hội.

* Chưa đủ khả năng để vạch ra những mối liên hệ khách quan, bản chất, tất yếu mang tính quy luật của
các sự vật và các quá trình xã hội.

- Tuy nhiên, cần coi trọng vai trò của tâm lý xã hội trong việc phát triển ý thức xãhội, nhất là việc sớm
nắm bắt những dư luận xã hội thể hiện trạng thái tâm lý vànhu cầu xã hội đa dạng của nhân dân trong
hoàn cảnh và điều kiện khác nhau.

- Hệ tư tưởng là giai đoạn phát triển cao hơn của ý thức xã hội, là sự nhận thức lý luận về tồn tại xã hội.

- Đặc điểm của hệ tư tưởng:

* Được hình thành khi con người nhận thức sâu sắc về sự vật, hiện tượng.

* Có khả năng đi sâu vào bản chất của mọi mối quan hệ xã hội.

* Là kết quả của sự tổng kết, sự khái quát hóa các kinh nghiệm xã hội để hình thành nên những quan
điểm, những tư tưởng về chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo…

- Trong lịch sử nhân loại đã và đang tồn tại cả hệ tư tưởng khoa học và hệ tư tưởng không khoa học. Hệ
tư tưởng không khoa học phản ánh các mối quan hệ vật chất một cách hư ảo, sai lầm hoặc xuyên tạc thì
ngược lại, hệ tư tưởng khoa học phản ánh một cách khách quan, chính xác. Cả hai loại hệ tư tưởng này
đều có ảnh hưởng đối với sự phát triển của khoa học.

-> Mối quan hệ giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng: Tuy là hai trình độ, hai phương thức phản ánh khác
nhau của ý thức xã hội nhưng chúng vẫn có mối liên hệ qua lại lẫn nhau. Nếu tâm lý xã hội có thể thúc
đẩy hoặc cản trở sự hình thành và sự tiếp nhận của một hệ tư tưởng nào đó; có thể giúp hệ tư tưởng
bớt xơ cứng, bớt sai lầm, thì trái lại, hệ tư tưởng khoa học có thể làm gia tăng yếu tố trí tuệ cho tâm lý xã
hội, góp phần thúc đẩy tâm lý xã hội phát triển theo chiều hướng tích cực.

c) Tính giai cấp của ý thức xã hội:

- Trong những xã hội có giai cấp, các giai cấp khác nhau có điều kiện vật chất khác nhau, có lợi ích và địa
vị xã hội khác nhau thì ý thức xã hội của các giai cấp đó cũng khác nhau.

- Tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện ở tâm lý xã hội lẫn ở hệ tư tưởng:

* Về trình độ tâm lý xã hội, mỗi giai cấp đều có tình cảm, tâm trạng, thói quen, thiện cảm hay ác cảm
riêng.

* Ở trình độ hệ tư tưởng, tính gai cấp thể hiện rõ rệt và sâu sắc hơn nhiều. Ở trình độ này sự đối lập giữa
các hệ tư tưởng của những giai cấp khác nhau thường không dung hòa nhau. Khi đó, hệ tư tưởng thống
trị trong xã hội là hệ tư tưởng của giai cấp thống trị.

* Về điều này C.Mác và Ph.Angghen viết: “Trong mọi thời đại, những tư tưởng của giai cấp thống trị là
những tư tưởng thống trị. Điều đó có nghĩa là giai cấp nào là lực lượng vật chất thống trị trong xã hội thì
cũng là lực lượngtinh thần thống trị trong xã hội. Giai cấp nào chi phối những tư liệu sản xuất vật chất thì
cũng chi phối luôn cả những tư liệu sản xuất tinh thần”.

- Nếu hệ tư tưởng của giai cấp thống trị có giai cấp đối kháng bao giờ cũng bảo vệ địa vị và lợi ích của giai
cấp đó thì hệ tư tưởng của giai cấp bị trị bao giờ cũng bảo vệ quyền lợi của những người bị bóc lột, của
đông đảo quần chúng nhân dân bị áp bức nhằm lật đổ chế độ người bóc lột người đó.

- Khi khẳng định tính giai cấp của ý thức xã hội thì quan niệm duy vật về lịch sửcho rằng, ý thức của các
giai cấp trong xã hội có sự tác động qua lại với nhau. Giai cấp thống trị cũng chịu ảnh hưởng của giai cấp
bị trị. Điều này thường xảy ra trong giai đoạn phong trào cách mạng của giai cấp bị thống trị lên cao. Khi
đó, một số người trong giai cấp thống trị, nhất là những trí thức, sẽ từ bỏ giai cấp xuất thân để chuyển
sang hàng ngũ của giai cấp cách mạng. Đặc biệt, một số người đã trở thành nhà tư tưởng của giai cấp
cách mạng.

d) Các hình thái ý thức xã hội: -Các hình thái ý thức của xã hội thể hiện các phương thức nắm bắt
khác nhau về mặt tinh thần đối với hiện thực xã hội, bởi vậy ý thức xã hội tồn tại dưới nhiều hình thái
khác nhau.

-Những hình thái chủ yếu của ý thức xã hội bao gồm ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức,
ý thức khoa học, ý thức thẩm mỹ, ý thức tôn giáo và triết học.

-Tính phong phú, đa dạng của các hình thái ý thức xã hội phản ánh tính phong phú đa dạng của bản thân
đời sống xã hội.

1. Ý thức chính trị


a. Nguồn gốc, bản chất:

-Hình thái ý thức chính trị là hình thái ý thức chỉ xuất hiện và tồn tại trong các xã hội có giai cấp và nhà
nước.
-Trong ý thức chính trị có hệ tư tưởng chính trị. Hệ tư tưởng chính trị: là một hệ thống các quan điểm
chính trị của một giai cấp nhất định được diễn tả dưới dạng các học thuyết chính trị - xã hội. Hệ tư tưởng
chính trị được cụ thể hóa trong đường lối, cương lĩnh của chính đảng, luật pháp, chính sách của Nhà
nước.

-Nguồn gốc của hệ tư tưởng chính trị phản ánh tập trung kinh tế, phản ánh lợi ích của một giai cấp nhất
định trong đó lợi ích kinh tế là trước nhất.

b. Đặc điểm:

-Ý thức chính trị mang tính giai cấp sâu sắc, biểu hiện tập trung ở vai trò Nhà nước.

-Tư tưởng chính trị sẽ mất đi khi không còn giai cấp nữa.

c. Vai trò:

Ý thức chính trị tác động đến sự phát triển kinh tế và xâm nhập vào các hình thái ý thức xã hội khác.
Đặc biệt, hệ tư tưởng của giai cấp thống trị giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội. Sự
tác động trở lại của hệ tưởng chính trị đối với tồn tại xã hội tùy thuộc vào:

-Hệ tư tưởng đó thuộc giai cấp nào và vai trò lịch sử của giai cấp đó. (Nếu giai cấp tiến bộ, tư tưởng
chính trị tiến bộ thì thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển, ngược lại tư tưởng chính trị bảo thủ, lỗi thời của
giai cấp bảo thủ thì có tác độngkìm hãm sự phát triển của xã hội.)

-Mức độ thâm nhập của hệ tư tưởng chính trị đó vào quần chúng nhân dân.

-Ngày nay, hệ tư tưởng của giai cấp vô sản Việt Nam là chủ nghĩa MacLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đây là hệ thống các quan điểm mang tính cách mạng khoa học một khi thâm nhập vào quần chúng nhân
dân sẽ trở thành sức mạnh vật chất to lớn làm động lực cải biến xã hội cũ và xây dựng xã hội mới

2. Ý thức pháp quyền


a. Nguồn gốc bản chất:

-Ý thức pháp quyền là toàn bộ các tư tưởng, quan điểm của một giai cấp về bản chất và vai trò của pháp
luật, về quyền và nghĩa vụ của nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân, về tính hợp pháp và không hợp
pháp của hành vi con người trong xã hội, cùng với nhận thức và tình cảm của con người trong việc thực
thi luật pháp của Nhà nước.Cũng như ý thức chính trị, ý thức pháp quyền ra đời cùng với nhà nước. Giữa
hai hình thái này có sự gần nhau về cả nội dung và hình thức.

-Nguồn gốc: ý thức pháp quyền xuất phát từ nhu cầu điều chỉnh quan hệ xã hội theo ý chí của giai cấp
cầm quyền

b. Đặc điểm:

-Ý thức pháp quyền phản ánh trực tiếp các quan hệ kinh tế của xã hội, trước hết là các quan hệ sản xuất
được thể hiện trong hệ thống pháp luật.

-Ý thức pháp quyền cũng như ý thức chính trị thể hiện tính giai cấp rõ rệt. Mỗi giai cấp khác nhau có một
quan điểm của mình về pháp luật.
-Ý thức pháp quyền quan hệ chặt chẽ với ý thức chính trị. ý thức pháp quyền củagiai cấp thống trị do hệ
tư tưởng của giai cấp thống trị quyết định.

-Ý thức pháp quyền được thể chế hóa qua pháp luật.

c. Vai trò:

Ý thức pháp quyền của giai cấp thống trị vó vai trò chỉ đạo quá trình xây dựng luật pháp, bảo vệ luật
pháp ban hành, cũng như chỉ đạo quá trình tổ chức thực hiện pháp luật.

3. Ý thức đạo đức


a. Nguồn gốc, bản chất:

-Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm, tri thức và các trạng thái xúc cảm tâm lý chung của các
cộng đồng người về các giá trị thiện, ác, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng… và về những
quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân trong xã
hội.

-Hình thái ý thức đạo đức là một trong những hình thái ý thức ra đời từ rất sớm trong lịch sử, ngay từ xã
hội nguyên thuỷ

-Sự ý thức về lương tâm, danh dự và lòng tự trọng… phản ánh khả năng tự chủ của con người là sức
mạnh đặc biệt của đạo đức, là nét cơ bản quy định gương mặt đạo đức của con người, cũng là biểu hiện
bản chất xã hội của con người. Với ý nghĩa đó, sự phát triển ý thức đạo đức là nhân tố biểu hiện tiến bộ
xã hội.

-Trong ý thức đạo đức, yếu tố tình cảm đạo đức là yếu tố đặc biệt quan trọng, nếu thiếu nó thì những
khái niệm, phạm trù đạo đức và mọi tri thức đạo đức thu nhận được bằng con đường lý tính không thể
chuyển hóa thành hành vi đạo đức.

Trong tiến trình phát triển của xã hội đã hình thành những giá trị đạo đức mang tính toàn nhân loại,
tồn tại trong mọi xã hội và ở các hệ thống đạo đức khác nhau.

-Đó là những quy tắc đơn giản nhằm điều chỉnh hành vi của con người, cần thiếtcho việc giữ gìn trật tự
xã hội chung và sinh hoạt thường ngày của mọi người. Tuy nhiên, trong xã hội có giai cấp và đấu tranh
giai cấp thì nội dung chủ yếu của đạo đức phản ánh quan hệ giai cấp, nó có tính giai cấp. Trong các phạm
trù đạo đức luôn luôn phản ánh địa vị và lợi ích của giai cấp. Mỗi giai cấp trong những giai đoạn phát
triển nhất định của lịch sử xã hội đều có những quan niệmđạo đức riêng của mình.

-Giai cấp tiêu biểu cho xu thế phát triển đi lên của xã hội thì đại diện cho một nền đạo đức tiến bộ, còn
các giai cấp phản động thì đại diện cho một nền đạo đức suy thoái.

Ph.Ăngghen viết:

“Xét cho đến cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình
kinh tế của xã hội lúc bấy giờ. Và vì cho tới nay xã hội đã vận động trong những sự đối lập giai cấp, cho
nên đạo đức cũng luôn luôn là đạo đức của giai cấp: hoặc là nó biện hộ cho sự thống trị và lợi ích của giai
cấp thống trị, hoặc là, khi giai cấp bị trị đã trở nên khá mạnh thì nó tiêu biểu cho sự nổi dậy chống lại sự
thống trị nói trên và tiêu biểu cho lợi ích tương lai của những người bị áp bức”.

b. Đặc điểm:

-Ý thức đạo đức tồn tại mãi trong xã hội loài người.

-Ý thức đạo đức có tính giai cấp trong xã hội có giai cấp

c. Vai trò:

-Đạo đức điều chỉnh hành vi con người trên cơ sở tự nguyện, tự giác vì nội hàm của nguyên tắc và chuẩn
mực đạo đức bao giờ cũng đề ra một tiêu chuẩn để hướng hành động, đồng thời nguyên tắc và chuẩn
mực đạo đức bao hàm giá trị của lời khuyên con người hướng đến cái thiện.

-Sự tác động trở lại của ý thức đạo đức đối với xã hội thông qua sức mạnh của lương tâm.

4. Ý thức nghệ thuật


a. Nguồn gốc, bản chất:

Ý thức thẩm mỹ là toàn bộ những cảm xúc, thị hiếu, quan điểm và lý tưởng về cái đẹp.

-Nghệ thuật: Là hình thức biểu hiện cao nhất của ý thức thẩm mỹ vì là dạng cao nhất của hoạt động
thẩm mỹ.

-Trong nghệ thuật, cái thẩm mỹ vừa là nội dung, phương thức và mục đích của nghệ thuật

Ý thức thẩm mỹ: có nguồn gốc từ hiện thực của xã hội. Nó phản ánh hiện thực vào ý thức con người
trong quan hệ với nhu cầu thưởng thức và sáng tạo cái đẹp.

Trong các hình thức hoạt động thưởng thức và sáng tạo cái đẹp thì nghệ thuật là hình thức biểu hiện
cao nhất của ý thức thẩm mỹ.

b. Đặc điểm:

-Phản ánh hiện thực một cách gián tiếp bằng hình tượng nghệ thuật (không phải lúc nào nghệ thuật
cũng phản ánh trực tiếp tồn tại xã hội)

-Tồn tại mãi với xã hội loài người

-Trong xã hội có giai cấp nghệ thuật có tính giai cấp.

c. Vai trò:

-Giáo dục thẩm mỹ, giáo dục nhận thức

-Nghệ thuật chân chính gắn bó với đời sống hiện thực của nhân dân; là nhân tố thúc đẩy mạnh mẽ tiến
bộ xã hội thông qua việc đáp ứng những nhu cầu thẩm mỹ của con người.

-Nghệ thuật là phương tiện nhận thức hiện thực, giáo dục tư tưởng, tình cảm, nâng cao trình độ thẩm
mỹ của con người.

5. Ý thức tôn giáo


a. Nguồn gốc, bản chất:

Nguồn gốc của tôn giáo.

-Tôn giáo xuất hiện từ thời nguyên thủy do sự bất lực của con người trước sức mạnh của tự nhiên và xã
hội. Do những hạn chế về nhận thức của con người trước sức mạnh bên ngoài con người chi phối cuộc
sống hằng ngày của họ (thiên tai, chiến tranh tàn khốc những cảnh phân hóa giàu nghèo, kẻ thống trị
người bị trị, những may rủi trong làm ăn...). Khi chưa hiểu được bản chất của những sức mạnh đó và
chừng nào con người còn bất lực trước những sức mạnh đó thì con người thường tìm đến với sức mạnh
siêu tự nhiên, đến với niềm tin tôn giáo, tin vào sự giúp sức của đấng tối cao với tài năng và đức độ tuyệt
mỹ. Lênin viết: “Sự sợ hãi đã tạo ra thần linh”

-Tôn giáo thể hiện nguyện vọng của quần chúng bị áp bức muốn thoát khỏi mọi bất công đi đến một xã
hội tốt đẹp, công bằng. Niềm tin tôn giáo mang lại cho họ một niềm an ủi tinh thần, một niềm hạnh phúc
"hư ảo", một sự bù đắp về tinh thần cho những gì thiếu thốn trong đời thường.

Bản chất của ý thức tôn giáo là sự phản ánh một cách hư ảo vào đầu óc con người sức mạnh ở
bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ.

Ý thức tôn giáo với tính cách là hình thái ý thức xã hội bao gồm tâm lý tôn giáo và hệ tư tưởng tôn
giáo.

Tâm lý tôn giáo là toàn bộ những biểu tượng, tình cảm, tâm trạng thói quen của quần chúng về tín
ngưỡng tôn giáo. Hệ tư tưởng tôn giáo là hệ thống giáo lý do các giáo sĩ, các nhà thần học tạo ra và
truyền bá trong xã hội.

b. Đặc điểm

Tôn giáo có tính lịch sử - xã hội; tính duy tâm - thần bí.

c. Ảnh hưởng của tôn giáo

Ý thức tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội thực hiện chức năng chủ yếu của mình là chức năng
đền bù – hư ảo trong một xã hội cần đến sự đền bù – hư ảo.

Chức năng đó làm cho tôn giáo có một đời sống lâu dài, một vị trí đặc biệt trong xã hội.

Chức năng đền bù – hư ảo nói lên khả năng của tôn giáo có thể bù đắp, bổ sung một cách hư ảo
cái hiện thực mà trong đó con người còn bất lực trước những sức mạnh tự nhiên và những điều kiện
khách quan của đời sống xã hội.Những mâu thuẫn của đời sống hiện thực, những bất lực thực tiễn của
con người được giải quyết một cách hư ảo trong ý thức họ.Vì vậy, tôn giáo luôn được các giai cấp thống
trị sử dụng như một công cụ áp bức tinh thần, một phương tiện củng cố địa vị thống trị họ. Chủ nghĩa
Mác – Lênin cho rằng điều kiện tiên quyết để khắc phục tôn giáo như một hình thái ý thức có tính chất
tiêu cực là phải xoá bỏ nguồn gốc xã hội của nó, nghĩa là phải tiến hành một cuộc cách mạng xã hội triệt
để nhằm cải tạo cả tồn tại xã hội lẫn ý thức xã hội.

6. Ý thức khoa học


a. Nguồn gốc, bản chất:
-Ý thức khoa học vừa là một hình thái ý thức xã hội, vừa là một hiện tượng xã hội đặc biệt. Xem xét khoa
học như một hình thái ý thức xã hội không thể tách rời xem xét nó như một hiện tượng xã hội.

-Ý thức khoa học phản ánh mọi lĩnh vực của tự nhiên, xã hội và tư duy. Nguồn gốc sâu xa của sự hình
thành khoa học từ nhu cầu phát triển sản xuất. Do vậy, khoa học phát triển cùng với sự phát triển của
sản xuất và thực tiễn.

b. Đặc điểm:

-Hình thức biểu hiện chủ yếu của tri thức khoa học là phạm trù, định luật, quy luật.

-Được phân chia thành nhiều ngành: dựa trên đối tượng của khoa học đó (Khoa học tự nhiên - kĩ thuật,
khoa học xã hội, triết học), dựa trên vai trò tác dụng của tri thức khoa học (khoa học cơ bản, khoa học
ứng dụng), dựa trên sự giáp ranh về đối tượng (các môn khoa học liên ngành).

c. Vai trò của khoa học:

-Tri thức khoa học thâm nhập vào các hình thái ý thức xã hội khác, hình thành các khoa học tương ứng
với từng hình thái ý thức đó.

-Ví dụ: Ý thức chính trị và chính trị học, ý thức đạo đức và đạo đức học, ý thức nghệ thuật và nghệ thuật
học, ý thức tôn giáo và tôn giáo học. Nhờ tri thức khoa học, con người không ngừng vươn tới cái mới
“sáng tạo ra một thế giới mới” và ngày càng làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ bản thân mình.

Nguồn gốc sâu xa của sự hình thành khoa học là do nhu cầu phát triển sản xuất.

-Cùng với sự phát triển của sản xuất và thực tiễn xã hội, khoa học cũng không ngừng phát triển. Trong
quá trình đó, vai trò của khoa học trong đời sống xã hội ngày càng tăng lên. Ngày nay, trong sự tự động
hóa sản xuất, tri thức khoa học được kết tinh trong mọi nhân tố của lực lượng sản xuất – trong đối
tượng lao động, kỹ thuật, quá trình công nghệ và cả trong những hình thức tổ chức tương ứng của sản
xuất; người lao động không còn là nhân tố thao tác trực tiếp trong hệ thống kỹ thuật mà chủ yếu là vận
dụng tri thức khoa học để điều khiển quá trình sản xuất; khoa học cho phép hoàn thiện các phương
pháp sản xuất, hoàn thiện việc quản lý kinh tế.

-Hơn nữa khoa học còn trở thành một ngành hoạt động sản xuất với quy mô ngày càng lớn, bao hàm
hàng loạt các viện, phòng thí nghiệm, trạm, trại, xí nghiệp với số cán bộ khoa học ngày càng tăng, vốn
đầu tư ngày càng lớn, hiệu quả đầu tư ngày càng cao. Do những biến đổi căn bản về vai trò của khoa học
đối với sản xuất mà khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.

7. Ý thức triết học


- Là hình thức đặc biệt và cao nhất của tri thức cũng như ý thức xã hội

- Vai trò:

* Cung cấp cho con người tri thức về thế giới như một chỉnh thể

Khi đánh giá mối liên hệ của tinh thần với triết học, Hegel khẳng định rằng:” xét từ góc độ tinh
thần của chúng ta có thể gọi triết học là cái cần thiết nhất.
Đặc biệt, với C.Mác “vì mọi triết học chân chính đều là tinh hoa về mặt tinh thần của thời đại mình
(T.G nhấn mạnh), nên nhất định sẽ có thời kỳ mà triết học, không chỉ về bên trong, theo nội dung của nó,
mà cả về bên ngoài, theo sự biểu hiện của nó, sẽ tiếp xúc và tác động qua lại tới thế giới hiện thực của
thời đại của mình.

* Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học nói chung và nhất là triết học duy vật biện chứng
nói riêng có sứ mệnh trở thành thế giới quan, mà cơ sở hạt nhân của thế giới quan chính là tri thức.

* Thế giới quan triết học bao hàm trong nó cả nhân sinh quan.

Triết học duy vật biện chứng có vai trò to lớn để nhận thức đúng đắn ý nghĩa vàvai trò của các
hình thái ý thức xã hội khác; để xác định đúng đắn vị trí của những hình thái ấy trong cuộc sống của xã
hội và để nhận thức tính quy luật cùng những đặc điểm và sự phát triển của chúng.

You might also like