You are on page 1of 11

c. Tính giai cấp của ý thức xã hội.

Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp có những điều kiện sinh
hoạt vật chất khác nhau, những lợi ích và địa vị xã hội khác
nhau thì ý thức xã hội của các giai cấp có nội dung và hình thức
phát triển khác nhau hoặc đối lập nhau.

Tính giai cấp của ý thức xã hội là một đặc điểm quan trọng
của ý thức xã hội, biểu hiện ở tâm lý xã hội lẫn ở hệ tư tưởng

Ý thức xã hội phản ánh lợi ích của các giai cấp khác nhau
trong xã hội: Giai cấp thống trị có ý thức hệ thống tư tưởng
nhằm duy trì sự thống trị của mình, trong khi giai cấp bị trị có ý
thức hệ thống tư tưởng nhằm đấu tranh cho sự giải phóng của
mình.

Ý thức xã hội được các giai cấp sử dụng làm công cụ để


đấu tranh giai cấp: Giai cấp thống trị sử dụng ý thức hệ thống
tư tưởng để tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, và thậm chí là
áp đặt ý chí của mình lên các giai cấp khác. Giai cấp bị trị sử
dụng ý thức hệ thống tư tưởng để giác ngộ giai cấp, đoàn kết
giai cấp và tổ chức đấu tranh.

Ví dụ:

Trong xã hội phong kiến: Giai cấp thống trị là giai cấp địa
chủ, có ý thức hệ Nho giáo nhằm đề cao đạo đức, trật tự xã hội
và sự trung thành với vua. Giai cấp nông dân là giai cấp bị trị, có
ý thức hệ Phật giáo nhằm an ủi tinh thần và hướng con người
đến kiếp sau.
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa: Giai cấp thống trị là giai cấp
tư sản, có ý thức hệ tư tưởng tự do, dân chủ và chủ nghĩa cá
nhân. Giai cấp vô sản là giai cấp bị trị, có ý thức hệ tư tưởng chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.

**Tính giai cấp của ý thức xã hội là một vấn đề phức tạp và
có nhiều tranh luận. Tuy nhiên, đây là một khái niệm quan trọng
giúp con người hiểu được bản chất của xã hội và sự phát triển
của lịch sử.

d. Các hình thái ý thức xã hội


Các hình thái ý thưc xã hội thể hiện các phương thức nắm bắt
khác nhau về mặt tinh thần đối với hiện thực xã hội.Vì vậy, ý
thuwcs xã hội tồn tại dưới nhiều hình thái khác nhau. Những
hình thái của ý thức xã hội bao gồm ý thức chính trị, ý thức pháp
quyền, ý thức đạo đức, ý thức khoa học, ý thức thẩm mỹ, ý thức
tôn giáo và triết học.

1. Ý thức chính trị


Hình thái ý thức chính trị là hình thái ý thức chỉ xuất hiện và
tồn tại trong các xã hội có giai cấp và nhà nước phản ánh các
mối quan hệ kinh tế của xã hội bằng ngôn ngữ chính trị cũng
như mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia và
thái độ của các giai cấp đối với quyền lực nhà nước.Ý thức
chính trị là sự nhận thức của con người về các vấn đề chính trị,
bao gồm:

Bản chất của chính trị: Vai trò của chính trị trong xã hội, các
giai cấp và đảng phái chính trị, các hệ thống chính trị,...
Các vấn đề chính trị: Các sự kiện chính trị trong nước và quốc
tế, các vấn đề nóng hổi trong xã hội,...
Quyền lợi và nghĩa vụ chính trị: Quyền bầu cử, quyền tự do
ngôn luận, nghĩa vụ tham gia bảo vệ Tổ quốc,...
Lập trường, quan điểm và thái độ đối với các vấn đề chính
trị: Ủng hộ hay phản đối một chính sách, một đảng phái,...
Ý thức chính trị được hình thành thông qua quá trình giáo dục,
học tập, rèn luyện và trải nghiệm thực tiễn của mỗi người.
Ý thức chính trị có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội:
Giúp con người tham gia vào đời sống chính trị: Bầu cử, tham
gia các hoạt động xã hội,...
Giúp con người bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình: Chống
lại các hành vi bất công, tham nhũng,...
Giúp con người xây dựng xã hội văn minh, tiến bộ: Góp phần
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Nhất là hệ tư tưởng chính trị, có vai trò rất quan trọng đối
với sự phát triển của xã hội .Hệ tư tưởng chính trị thể hiện trong
cương lĩnh chính trị, trong đường lối và các chính sách của đảng
chính trị, pháp luật của nhà nước, đồng thời cũng là công cụ
thống trị xã hội của giai cấp thống trị. Hệ tư tưởng chính trị tiến
bộ sẽ thúc đẩy mạnh mẽ sự phát

triển các mặt của đời sống xã hội; ngược lại, hệ tư tưởng chính
trị lạc hậu, phản động sẽ kìm hãm, thậm chí kéo lùi sự phát triển
đó.

Hệ tư tưởng chính trị giữ vai trò chủ đạo trong đời sống
tinh thần của xã hội và xâm nhập vào tất cả các hình thái ý
thức xã hội khác.
Trong thời đại hiện nay, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân là
hệ tư tưởng tiến bộ, cách mạng và khoa học đang dẫn dắt giai
cấp công nhân và nhân dân lao động đấu tranh nhằm xóa bỏ chế
độ người bóc lột người, tiến tới xây dựng xã hội mới tốt đẹp hơn
chế độ tư bản chủ nghĩa.

2. Ý thức pháp quyền


Ý thức pháp quyền có mối liên hệ chặt chẽ với ý thức chính
trị. Hình thái ý thức pháp quyền cũng phản ánh các mối quan hệ
kinh tế của xã hội bằng ngôn ngữ pháp luật
Giống như ý thức chính trị, ý thức pháp quyền ra đời cùng với
nhà nước. Giữa hai hình thái này có sự gần nhau về cả nội dung
và hình thức. ý thức pháp quyền phản ánh trực tiếp các quan hệ
kinh tế của xã hội, trước hết là các quan hệ sản xuất được thể
hiện trong hệ thống pháp luật.
Trong xã hội có giai cấp, ý thức pháp quyền là toàn bộ những
tư tưởng, quan điểm của một giai cấp về bản chất và vai trò của
pháp luật, về quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ của nhà nước, của
các tổ chức xã hội và của công dân, về tính hợp pháp và không
hợp pháp của hành vi con người trong xã hội.
Hệ tư tưởng pháp quyền tư sản coi pháp luật tư sản là biểu
hiện cao nhất về quyền tự nhiên của con người.
Pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được thể hiện thành
luật lệ, do đó mỗi chế độ xã hội, mỗi nhà nước chỉ có một hệ
thống pháp luật của giai cấp nắm chính quyền.Nhưng trong xã
hội có giai cấp đối kháng, các giai cấp khác nhau lại có những ý
thức khác nhau về pháp luật, phản ánh lợi ích của giai cấp mình.
Do đó, hiệu lực của pháp luật không những phụ thuộc vào sức
mạnh cưỡng chế của nhà nước mà còn phụ thuộc vào trình độ
hiểu biết và tâm lý pháp luật của xã hội.
3. Ý thức đạo đức
Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm, tri thức và các
trạng thái xúc cảm tâm lý chung của các cộng đồng người về các
giá trị thiện, ác, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng...
và về những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá
nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội.

Hình thái ý thức đạo đức là một trong những hình thái ý thức
ra đời từ rất sớm trong lịch sử, ngay từ xã hội nguyên thuỷ.

Sự phát triển của hình thái ý thức đạo đức không tách rời sự
phát triển của xã hội. Nó phản ánh tồn tại xã hội dưới dạng các
quy tắc điều chỉnh hành vi của con người. Sự ý thức về lương
tâm, danh dự và lòng tự trọng, v.v. phản ánh khả năng tự chủ
của con người là sức mạnh đặc biệt của đạo đức, là nét cơ bản
quy định gương mặt đạo đức của con người, cũng là biểu hiện
bản chất xã hội của con người. Với ý nghĩa đó, sự

phát triển ý thức đạo đức là nhân tố biểu hiện tiến bộ xã hội.

Trong ý thức đạo đức, yếu tố tình cảm đạo đức là yếu tố đặc
biệt quan trọng, nếu thiếu nó thì những khái niệm, phạm trù
đạo đức và mọi tri thức đạo đức thu nhận được bằng con đường
lý tính không thể chuyển hóa thành hành vi đạo đức.
Trong tiến trình phát triển của xã hội đã hình thành những giá
trị đạo đức mang tính toàn nhân loại, tồn tại trong mọi xã hội và
ở các hệ thống đạo đức khác nhau. Đó là những quy tắc đơn giản
nhằm điều chỉnh hành vi của con người, cần thiết cho việc giữ
gìn trật tự xã hội chung và sinh hoạt thường ngày của mọi
người.

**Tuy nhiên, từ xưa đến nay, trong tiến trình phát triển của
lịch sử nhân loại, các hệ thống đạo đức khác nhau, vẫn có những
yếu tố chung mang tính toàn nhân loại. Đó là những quy tắc ứng
xử nhằm điều chỉnh hành vi của con người, nhằm duy trì trật tự
xã hội hiện hành và các sinh hoạt thường ngày của con người
trong cộng đồng xã hội. Những quy tắc chung mang tính toàn
nhân loại này đã từng tồn tại rất lâu, và chắc chắn sẽ còn tồn tại
lâu dài cùng với sự tồn tại của con người suốt trong lịch sử
nhân loại.

4. Ý thức nghệ thuật hay ý thức thẩm mỹ


Ý thức nghệ thuật (còn được gọi là ý thức thẩm mỹ) mỹ là sự
phản ánh hiện thực vào ý thức con người trong quan hệ với nhu
cầu thưởng thức và sáng tạo, hình thành từ rất sớm trước khi xã
hội có sự phân chia giai cấp, cùng với sự ra đời của các hình thái
nghệ thuật.

Cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, ý thức thẩm mỹ
phản ánh tồn tại xã hội. Khác với khoa học và triết học, phản
ánh thế giới hiện thực bằng khái niệm, phạm trù, quy luật, nghệ
thuật phản ánh thế giới một cách sinh động, cụ thể bằng hình
tượng nghệ thuật. Hình tượng nghệ thuật cũng nhận thức cái
chung trong cái riêng, cái bản chất trong cái hiện tượng, cái phổ
biến trong cái cá biệt, song cái cá biệt trong nghệ thuật phải là
cái cá biệt có tính điển hình

Nhớ rằng, nghệ thuật không phải bao giờ cũng phản ánh hiện
thực xã hội một cách trực tiếp. C.Mác viết: "Đối với nghệ thuật,
người ta biết rằng những thời kỳ hưng thịnh nhất của nó hoàn
toàn không tương ứng với sự phát triển chung của xã hội, do đó
cũng không tương ứng với sự phát triển của cơ sở vật chất của
xã hội, cơ sở này dường như cấu thành cái xương sống của tổ
chức xã hội". Nghệ thuật chân chính gắn bó với đời sống hiện
thực của nhân dân; là nhân tố thúc đẩy mạnh mẽ tiến bộ xã hội
thông qua việc đáp ứng những nhu cầu thẩm mỹ của con người.

Trong xã hội có giai cấp, nghệ thuật bao giờ cũng mang tính
giai cấp, không chịu sự tác động của thế giới quan, các quan
điểm chính trị của một giai cấp, không thể đứng ngoài chính trị
và các quan hệ kinh tế. Có những nền nghệ thuật của một dân
tộc nhất định nhưng đã trở thành những giá trị văn hóa tiêu biểu
của cả nhân loại. Tác phẩm nghệ thuật mà giá trị của chúng
được lưu truyền khắp thế giới qua các thời đại, mặc dù tác giả là
đại biểu của một giai cấp nhất định. Nghệ thuật tiến bộ đồng
thời vừa phục vụ cho dân tộc minh; vừa phục vụ cho nhân loại;
vừa phục vụ cho thế hệ hiện tại lẫn cho cả các thế hệ tương lai.

5. Ý thức tôn giáo


Ý thức tôn giáo với tính cách là hình thái ý thức xã hội bao
gồm tâm lý tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo.
Tâm lý tôn giáo là toàn bộ những biểu tượng, tình cảm, tâm
trạng thói quen của quần chúng về tín ngưỡng tôn giáo. Hệ tư
tưởng tôn giáo là hệ thống giáo lý do các giáo sĩ, các nhà thần
học tạo ra và truyền bá trong xã hội.
Các nhà duy vật trước Mác mặc dù đã tìm nhiều cách khác
nhau để giải thích nguồn gốc ra đời và bản chất của tôn giáo
nhưng tất cả đều sai lầm.
Đối với C.Mác và Ph.Ăngghen, tôn giáo có trước triết học; nó
là một hình thái ý thức xã hội trực tiếp thể hiện thế giới quan
của con người. Khác với tất cả các hình thái ý thức xã hội khác,
tôn giáo là sự phản ánh hư ảo sức mạnh của giới tự nhiên bên
ngoài lẫn các quan hệ xã hội vào đầu óc con người.
C.Mác viết: “Trình độ phát triển thấp kém của những sức sản
xuất của lao động và tính chất hạn chế tương ứng của các quan
hệ của con người trong khuôn khổ quá trình sản xuất ra đời sống
vật chất, tức là tính chất hạn chế của tất cả các mối quan hệ giữa
người ta với nhau và với thiên nhiên … đã phản ánh vào trong
những tôn giáo cổ đại, thần thánh hóa của thiên nhiên, và vào
trong tín ngưỡng của nhân dân”. Tương tự như vậy,
Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự
phản ánh hư ảo - vào trong đầu óc của con người - của những
lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ
là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang
hình thức những lực lượng siêu trần thế”.
Chức năng chủ yếu của ý thức tôn giáo là chức năng đền bù -
hư ảo. Chức năng này làm cho tôn giáo có sức sống lâu dài trong
xã hội. Nó gây ra ảo tưởng về sự đền bù ở thế giới bên kia
những gì mà con người không thể đạt được trong cuộc sống hiện
thực mà con người đang sống. Vì vậy, hình thái ý thức xã hội
này mang tính chất tiêu cực, cản trở sự nhận thức đúng đắn của
con người về thế giới, về xã hội, về bản thân mình để rồi luôn bị
các giai cấp thống trị lợi dụng. Theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác, muốn xóa bỏ tôn giáo thì phải xóa bỏ nguồn gốc xã hội
của nó, đồng thời phải nâng cao năng lực nhận thức, trình độ
học vấn của con người.
6. Ý thức Khoa học
Khoa học hình thành và phát triển ở một giai đoạn nhất định
của sự phát triển xã hội, của nhu cầu sản xuất xã hội và sự phát
triển năng lực tư duy của con người.
ý thức khoa học vừa là một hình thái ý thức xã hội, vừa là một
hiện tượng xã hộiđặc biệt. Xem xét khoa học như một hình thái
ý thức xã hội không thể tách rời xem xét nó như một hiện tượng
xã hội.
ý thức khoa học - với tính cách là một hình thái ý thức xã hội -
là hệ thống tri thức phản ánh chân thực dưới dạng lôgic trừu
tượng về thế giới đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn. Đối tượng
phản ánh của ý thức khoa học bao quát mọi lĩnh vực của tự
nhiên, xã hội và tư duy. Đó là một trong những sự khác biệt giữa
ý thức khoa học với các hình thái ý thức xã hội khác.
Hình thức biểu hiện chủ yếu của tri thức khoa học là phạm trù,
định luật, quy luật.
Tri thức khoa học thâm nhập vào các hình thái ý thức xã hội
khác, hình thành các khoa học tương ứng với từng hình thái ý
thức đó. Thí dụ: ý thức chính trị và chính trị học,ý thức đạo đức
và đạo đức học, ý thức nghệ thuật và nghệ thuật học, ý thức tôn
giáo và tôn giáo học.
Xét về đối tượng, các khoa học chia thành những khoa học tự
nhiên - kỹ thuật, nghiên cứu các quy luật của tự nhiên, các
phương thức chinh phục và cải tạo tự nhiên; và những khoa học
xã hội nghiên cứu những hiện tượng xã hội khác nhau, các quy
luật vận động, phát triển của chúng và cả bản thân con người
như là một thực thể xã hội. Cũng có khoa học nghiên cứu những
vấn đề chung, quy luật chung, đó là triết học.
Trong mỗi khoa học người ta phân thành các cấp độ: kinh
nghiệm, tức là những tư liệu hiện thực đã tích luỹ được - sự tổng
kết các quan sát và thí nghiệm; lý luận là sự khái quát kinh
nghiệm thể hiện trong những lý thuyết về quy luật và nguyên lý
tương ứng, cấp độ lý luận của các khoa học cụ thể hợp lực với
nhau trong sự giải thích các nguyên lý và quy luật đã phát hiện
trên bình diện lý luận chung - bình diện triết học, hình thành mặt
thế giới quan và phương pháp luận của toàn bộ nhận thức khoa
học.
Nguồn gốc sâu xa của sự hình thành khoa học là do nhu cầu
phát triển sản xuất.
Ngày nay, trong sự tự động hóa sản xuất, tri thức khoa học
được kết tinh trong mọi nhân tố của lực lượng sản xuất - trong
đối tượng lao động, kỹ thuật, mà chủ yếu là vận dụng tri thức
khoa học để điều khiển quá trình sản xuất; khoa học cho phép
hoàn thiện các phương pháp sản xuất, hoàn thiện việc quản lý
kinh tế.
hoạt động sản xuất với quy mô ngày càng lớn, bao hàm hàng
loạt các viện, phòng thí nghiệm, trạm, trại, xí nghiệp với số cán
bộ khoa học ngày càng tăng, vốn đầu tư ngày càng lớn, hiệu quả
đầu tư ngày càng cao. Do những biến đổi căn bản về vai trò của
khoa học đối với sản xuất mà khoa học trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp.
7. Ý thức triết học
Hình thức đặc biệt và cao nhất của tri thức cũng như của ý
thức xã hội là triết học. Nếu như các ngành khoa học riêng lẻ
nghiên cứu thế giới từ các khía cạnh, từ những mặt nhất định
của thế giới đó thì triết học, nhất là triết học Mác - Lênin, cung
cấp cho con người tri thức về thế giới như một chỉnh thể thông
qua việc tổng kết toàn bộ lịch sử phát triển của khoa học và của
chính bản thân triết học.
Đặc biệt, với C.Mác thì “vì mọi triết học chân chính đều là
tinh hoa về mặt tinh thần của thời đại mình, nên nhất định sẽ có
thời kỳ mà triết học, không chỉ về bên trong, theo nội dung của
nó, mà cả về bên ngoài, theo sự biểu hiện của nó, sẽ tiếp xúc và
tác động qua lại tới thế giới hiện thực của thời đại mình. Lúc đó,
triết học sẽ không còn là một hệ thống nhất định đối với các hệ
thống nhất định khác, nó trở thành triết học nói chung đối với
thế giới, trở thành triết học của thế giới hiện đại. Những biểu
hiện bên ngoài chứng minh rằng triết học đã có ý nghĩa khiến
cho nó trở thành linh hồn sống của văn hóa...
Tư cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học nói chung và
nhất là triết học duy vật biện chứng, có sứ mệnh trở thành thế
giới quan, mà cơ sở và hạt nhân của thế giới quan chính là tri
thức. Triết học duy vật biện chứng có vai trò to lớn để nhận
thức đúng đắn ý nghĩa và vai trò của các hình thái ý thức xã
hội khác; để xác định đúng đắn vị trí của những hình thái ấy
trong cuộc sống của xã hội và để nhận thức tính quy luật cùng
nhng đặc điểm và sự phát triển của chúng.

linh hồn sống của văn hóa...”

You might also like