You are on page 1of 94

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

BÙI HẢI ĐƯỜNG

SỰ LỰA CHỌN MÔ HÌNH BẢO HIẾN


Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

BÙI HẢI ĐƯỜNG

SỰ LỰA CHỌN MÔ HÌNH BẢO HIẾN


Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Lý luận - Lịch sử Nhà nước và pháp luật


Mã số : 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chủ tịch Hội đồng Người hướng dẫn

GS. TS Phạm Hồng Thái TS. Đặng Minh Tuấn

Hà Nội - 2015
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và
đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật -
Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có
thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

TÁC GIẢ

Bùi Hải Đường


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU------------------------------------------------------------------- 1
CHƯƠNG I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC
MÔ HÌNH BẢO HIẾN TRÊN THẾ GIỚI ----------------------------------- 8
1.1. Khái niệm, vị trí vai trò của bảo hiến ---------------------------------- 8
1.1.1 Khái niệm bảo hiến -------------------------------------------------------- 8
1.1.2. Vị trí, vai trò bảo hiến ---------------------------------------------------11
1.2. Sự hình thành và phát triển của các mô hình bảo hiến điển hình
trên thế giới. -----------------------------------------------------------------------13
1.2.1. Mô hình hội đồng Hiến pháp ở Cộng hòa Pháp ---------------------13
1.2.2. Mô hình bảo hiến bằng tòa án ở Hoa Kỳ -----------------------------19
1.2.3. Mô hình tòa án Hiến pháp ở Đức --------------------------------------23
1.2.4.Mô hình bảo hiến Quốc hội ---------------------------------------------25
1.3. Lý do lựa chọn mô hình bảo hiến trên thế giới------------------------26
1.3.1. Các yếu tố pháp luật -----------------------------------------------------27
1.3.2. Các yếu tố chính trị ------------------------------------------------------28
1.3.3. Sự ảnh hưởng mô hình bảo hiến nước ngoài -------------------------30
1.3.4. Ưu, nhược điểm của mô hình bảo hiến -------------------------------31
CHƯƠNG II: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA BẢO HIẾN
Ở VIỆT NAM --------------------------------------------------------------------- 34
2.1. Bảo hiến theo quy định của các Hiến pháp trong lịch sử -----------34
2.1.1. Những nền tảng ban đầu cho sự hình thành bảo hiến theo Hiến
pháp năm 1946 ------------------------------------------------------------------34
2.1.2. Bảo hiến theo Hiến pháp năm 1959 -----------------------------------36
2.1.3. Bảo hiến theo Hiến pháp năm 1980 -----------------------------------37
2.1.4. Bảo hiến theo Hiến pháp 1992 -----------------------------------------39
2.2. Mô hình bảo hiến theo Hiến pháp năm 2013 --------------------------40
2.3. Những ưu điểm và hạn chế của mô hình bảo hiến ở Việt Nam ----47
2.3.1. Ưu điểm -------------------------------------------------------------------49
2.3.2. Hạn chế--------------------------------------------------------------------50
CHƯƠNG III: ĐỀ XUẤT MÔ HÌNH BẢO HIẾN Ở VIỆT NAM -----57
3.1. Yêu cầu xây dựng cơ quan bảo hiến chuyên trách ở Việt Nam -----57
3.2. Cơ sở xây dựng cơ quan bảo hiến chuyên trách ở Việt Nam -------60
3.2.1. Tồn tại một bản Hiến pháp quy định tính pháp lý tối cao ----------60
3.2.2. Từng bước hoàn thiện và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam ----------------------------------------------------------61
3.2.3. Cơ chế phân quyền có sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền
lực nhà nước ---------------------------------------------------------------------63
3.2.4. Quyền con người, quyền công dân được từng bước ghi nhận ---------64
3.2.5. Sự thống nhất về tư tưởng hoàn thiện cơ chế bảo hiến -------------65
3.3. Đánh giá sự phù hợp của các mô hình bảo hiến ở Việt Nam -------66
3.4. Đề xuất mô hình hội đồng Hiến pháp ở Việt Nam -----------------------73
3.4.1. Mô hình hội đồng Hiến pháp ở Việt Nam ----------------------------75
3.4.2. Cách thức tổ chức hội đồng Hiến pháp -------------------------------78
3.4.3. Chức năng của hội đồng Hiến pháp -----------------------------------79
3.4.4.Trình tự, thủ tục hoạt động của hội đồng Hiến pháp -----------------83
KẾT LUẬN ------------------------------------------------------------------------ 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ------------------------------------ 88
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử pháp lý thế giới đã ghi nhận Hiến pháp xuất hiện nhằm mục
đích tạo sự cân bằng, kiểm soát quyền lực nhà nước, đặt ra một phạm vi
giới hạn mà nhà nước buộc phải tuân thủ để bảo vệ quyền công dân. Hiến
pháp đại diện cho nền dân chủ đối với mỗi quốc gia, thể hiện ý chí và
quyền lực nhân dân. Tuy nhiên, Hiến pháp ở nhiều quốc gia chưa được coi
trọng đúng giá trị. Khi Hiến pháp không được bảo vệ giá trị pháp lý tối cao,
không được ghi nhận là đạo luật nền tảng cho hệ thống pháp luật quốc gia
thì nhu cầu về cơ chế bảo vệ Hiến pháp xuất hiện. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp
nhằm mục đích bảo vệ Hiến pháp đồng thời bảo vệ nền dân chủ, bảo vệ
quyền lực mà nhân dân đã trao cho nhà nước. Hiến pháp và cơ chế bảo hiến
trở thành công cụ thiết yếu để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân trong bất cứ một mô hình nhà nước dân chủ ở mọi giai đoạn của lịch sử
nhân loại.
Xây dựng mô hình bảo hiến nhằm bảo vệ giá trị pháp lý tối cao của
Hiến pháp là một trong những nội dung quan trọng để hướng tới xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Đường lối và
chính sách của nhà nước nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật đã chỉ rõ mục
tiêu coi Hiến pháp là nền tảng hệ thống pháp luật, cần được bảo vệ giá trị
pháp lý. Nghị quyết 48 ngày 2/5/2005 của Bộ chính trị về chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2020: Xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh
bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng
và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp
phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập

1
quốc tế, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con
người, quyền tự do, dân chủ của công dân, góp phần đưa nước ta trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 [1].
Trên cơ sở nghị quyết 48 ngày 2/5/2005 của Bộ chính trị về chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2020, báo cáo
chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng - Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X năm 2006 của Đảng tiếp tục ghi nhận: “tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” xác định “xây
dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát và tính hợp hiến và hợp pháp
trong hoạt động và quyết định của cơ quan công quyền”, xây dựng cơ chế
phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành
pháp và tư pháp” [2].
Hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp đã là mục tiêu hướng đến trong
một khoảng thời gian rất dài tuy nhiên bởi nhiều lý do mà một cơ quan
chuyên trách bảo vệ Hiến pháp ở Việt Nam chưa thể hình thành. Việt Nam
mới hoàn thiện và ban hành Hiến pháp 2013 nhưng nhu cầu hình thành một
mô hình bảo hiến chuyên trách trong thời kỳ mới vẫn còn tồn tại. Hiến
pháp 2013 là bản Hiến pháp của thời kỳ mới; trên cơ sở quán triệt và thể
chế hoá các chủ trương, đường lối của Đảng; tạo cơ sở chính trị - pháp lý
cho việc thực hiện công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ đi lên chủ
nghĩa xã hội. Hiến pháp năm 2013 sẽ tiếp tục sứ mệnh lịch sử của mình:
Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh [3].
Hiện nay bối cảnh tình hình thế giới đã có nhiều biến chuyển sâu sắc;
trong khi đó ở Việt Nam quan điểm tôn trọng và tuân thủ tuyệt đối pháp
luật vẫn chưa tồn tại trên thực tế. Đối với hầu hết những công dân, người
được Hiến pháp trực tiếp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thì đều không

2
hiểu hết tầm quan trọng của Hiến pháp và nhu cầu cần hạn chế sự vi phạm
Hiến pháp.
Thực tế cho thấy, các hành vi bị nhận định vi hiến thường xuyên đến
từ phía cơ quan nhà nước, đơn cử trong lĩnh vực rõ ràng nhất là việc ban
hành các văn bản pháp luật. Hiến pháp 2013 không ghi nhận mô hình bảo
hiến chuyên trách khiến cho việc hạn chế, xử lý các hành vi hiến gặp nhiều
khó khăn. Thực trạng hiện nay, cần tìm ra mô hình bảo hiến chuyên trách
phù hợp cho Việt Nam nhằm đề xuất vào các bản Hiến pháp trong tương
lai. Theo Hiến pháp 2013, Việt Nam cũng đã có cơ chế bảo vệ Hiến pháp
thông qua hoạt động kiểm tra, giám sát giữa các cơ quan nhà nước, giữa
công dân với cơ quan nhà nước tuy nhiên cơ chế trên thực tế vừa không
đầy đủ, vừa yếu, lại không thống nhất, không đồng bộ, thiếu thủ tục trình tự
dẫn đến việc tuyên bố một quyết định vi hiến ở Việt Nam là một việc nằm
ngoài phạm vi thẩm quyền của cơ quan nhà nước. Trong bối cảnh hiện tại,
việc xây dựng một Hiến pháp tốt và xây dựng một cơ chế để bảo vệ Hiến
pháp hiệu quả là một nhu cầu chính đáng. "Lịch sử không ban tặng cho một
quốc gia nhiều cơ hội như thế và khi cơ hội đến, phải vượt qua các thách
thức vì tương lai của quốc gia bị đe dọa”[4]. Mô hình bảo hiến nào thực sự
cần thiết với Việt Nam, các quốc gia trên thế giới đã lựa chọn mô hình bảo
hiến thông qua những yếu tố như thế nào. Nghiên cứu nhằm đánh giá mô
hình phù hợp nhất với hoàn cảnh nước ta thời kỳ hiện tại.
Từ những lý do trên, tôi xin lựa chọn đề tài: “Sự lựa chọn mô hình
bảo hiến ở Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ chuyên nghành Lý luận lịch sử
nhà nước và pháp luật. Đây là đề tài có tính cần thiết, cấp bách, thời sự.
2. Tình hình nghiên cứu của luận văn
Nghiên cứu về Hiến pháp, đặc biệt về cơ chế bảo hiến không phải là
đề tài quá mới với các nhà nghiên cứu cả ở thế giới và Việt Nam. Đặc biệt
là trong giai đoạn sửa đổi Hiến pháp năm 1992, hàng loạt những hội nghị,

3
hội thảo, tọa đàm được tổ chức nhằm đưa ra những nghiên cứu, kiến nghị
về việc xây dựng mô hình bảo hiến chuyên trách trong Hiến pháp mới. Tuy
Hiến pháp 2013 không ghi nhận mô hình bảo hiến chuyên trách như kỳ
vọng nhưng những nghiên cứu về mô hình bảo hiến đã tạo nền tảng cho
việc tiếp tục xây dựng bảo hiến ở Việt Nam trong tương lai. Trong thời
gian qua đã có những nghiên cứu khoa học, công trình khoa học, bài viết,
chuyên đề, sách chuyên khảo nổi bật và đáng chú ý bao gồm:
GS.TS Nguyễn Đăng Dung, Chủ nghĩa Hiến pháp và vấn đề bảo
hiến ở Việt Nam, Kỷ yếu về Hội thảo quốc tế về bảo hiến, Văn phòng Quốc
hội năm, 2009.
GS.TSKH Đào Trí Úc, Tài phán Hiến pháp và xây dựng tài phán
Hiến pháp ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí nhà nước và pháp luật số 10, năm 2006.
Sách chuyên khảo Về pháp quyền và chủ nghĩa hợp hiến, đồng chủ
biên, nhà xuất bản Lao động - xã hội, năm 2012.
Sách chuyên khảo Mô hình tổ chức và hoạt động của Hội đồng Hiến
pháp ở một số nước trên thế giới, Ban Biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp
năm 1992, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2013.
Sách chuyên khảo Các thiết chế hiến định độc lập kinh nghiệm quốc
tế và triển vọng ở Việt Nam, Viện chính sách công và pháp luật, nhà xuất
bản Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2013.
Sách chuyên khảo Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Khoa luật - Đại
học Quốc gia Hà Nội, nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2011.
Tài liệu tham khảo Kỷ yếu Hội thảo quốc tế về bảo hiến, Văn phòng
Quốc hội, nhà xuất bản Thời đại, năm 2009.
Một số đề tài nghiên cứu thạc sỹ, tiến sĩ liên quan về đề tài bảo vệ
Hiến pháp như:

4
Luận án tiến sĩ chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp
luật “Bảo hiến trong nhà nước pháp quyền” của tác giả Nguyễn Mậu Tuân,
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2011.
Luận án tiến sĩ chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp
luật “Cơ chế bảo hiến trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” tác giả
Tào Thị Quyên, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh,
năm 2012.
Luận văn thạc sỹ chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp
luật: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp ở Việt Nam của tác giả Bùi Thanh Cương,
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2014.
Các công trình khoa học nghiên cứu tập trung vào những vấn đề lý
luận chung về bảo hiến, khái niệm, vai trò bảo hiến, cung cấp những nền
tảng cơ bản về mô hình bảo hiến trên thế giới, mô hình bảo hiến hiện tại ở
Việt Nam đồng thời chỉ rõ ra những kinh nghiệm Việt Nam có thể tham
khảo, cũng như lựa chọn cho mình một mô hình bảo hiến phù hợp với đặc
thù quốc gia. Những nghiên cứu đã thể hiện những ưu điểm, hạn chế của
mô hình bảo hiến Việt Nam hiện tại đồng thời đề xuất khắc phục hạn chế
nhằm hoàn thiện cơ chế bảo hiến từ đó tạo nền tảng cho việc xây dựng cơ
quan bảo hiến chuyên trách ở nước ta. Những nghiên cứu khoa học trên là
nguồn tham khảo, vận dụng và học hỏi quan trọng để đề tài luận văn có thể
thực hiện hoàn chỉnh. Bên cạnh đó, luận văn nghiên cứu những vấn đề liên
quan đến lịch sử bảo hiến ở nước ta, các yếu tố ảnh hưởng đến lựa chọn mô
hình bảo hiến… để đóng góp một phần ý nghĩa thực tiễn và lý luận về cơ
chế bảo hiến ở nước ta.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của nghiên cứu
Mục đích của luận văn nhằm tìm hiểu cơ bản về các mô hình bảo
hiến trên thế giới thông qua việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá những

5
khái niệm, vai trò của bảo hiến đối với mỗi quốc gia, làm rõ các yếu tố tác
động đến sự lựa chọn xây dựng mô hình bảo hiến ở mỗi quốc gia.
Đồng thời nghiên cứu xác định những ưu điểm và hạn chế của mô
hình bảo hiến hiện tại, xem xét nền tảng để hoàn thiện mục tiêu xây dựng
mô hình bảo hiến chuyên trách ở Việt Nam, đưa ra những minh chứng
chứng tỏ tầm quan trọng của mô hình bảo vệ Hiến pháp tại Việt Nam, nhu
cầu cần thiết phải tồn tại mô hình bảo hiến trong hoạt động của bộ máy nhà
nước. Trên cơ sở đó kiến nghị, đề xuất thiết chế bảo hiến chuyên trách ở
nước ta, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo vệ quyền công dân,
quyền con người, xây dựng nhà nước pháp quyền.
Để hoàn thành mục đích trên, luận văn cần thực hiện những nhiệm vụ:
- Nghiên cứu các đặc điểm của các cơ quan bảo vệ Hiến pháp trên
thế giới. Bên cạnh đó, tìm hiểu tại sao các quốc gia lại lựa chọn mô hình
bảo hiến đó, nhằm tìm ra những mô hình phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn ở
Việt Nam.
- Nghiên cứu cơ chế bảo hiến ở Việt Nam hiện nay, yêu cầu cần thiết
cho sự đổi mới của mô hình
- Nghiên cứu đưa ra các kiến nghị, kế thừa và phát triển một mô hình
bảo hiến chuyên trách phù hợp với đặc điểm quốc gia đối với Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; quan điểm đổi mới
nhà nước và pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu: đề tài vận dụng phương pháp của chủ
nghĩa duy vật biện chứng; đồng thời sử dụng một số phương pháp là so
sánh luật học, so sánh chính trị học

6
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một đề tài luận văn thạc sỹ, tôi xác định phạm
vi của đề tài tập trung nghiên cứu giải quyết những vấn đề pháp lý liên
quan đến việc hình thành mô hình bảo hiến chuyên trách ở Việt Nam;
những thuận lợi và khó khăn, thách thức trong việc xây dựng mô hình bảo
hiến, trên cơ sở đó đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm xây dựng
có hiệu quả mô hình bảo hiến.
6. Tính mới của nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trên nền tảng nhu cầu về mô hình bảo hiến
chuyên trách ở Việt Nam, đưa ra những luận điểm khoa học về sự cần thiết
phải tồn tại nhu cầu bảo hiến. Đồng thời, nghiên cứu những đặc điểm tác
động đến mô hình bảo hiến của một quốc gia, gắn với thực tiễn Việt Nam.
Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra đề xuất mô hình bảo hiến chuyên trách phù
hợp với yêu cầu trong hoàn cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở nước ta. Tác giả mong muốn luận văn có thể được sử dụng làm tài
liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu.
7. Kết cấu của luận văn
Về kết cấu, Luận văn bao gồm Phần mở đầu, Phần Kết luận và ba chương:
Chương I: Cơ sở hình thành và phát triển của các mô hình bảo hiến
trên thế giới.
Chương II: Sự hình thành và phát triển của bảo hiến ở Việt Nam.
Chương III: Đề xuất mô hình bảo hiến ở Việt Nam.

7
Chương I:
CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC MÔ HÌNH
BẢO HIẾN TRÊN THẾ GIỚI
1.1. Khái niệm, vị trí vai trò của bảo hiến
1.1.1 Khái niệm bảo hiến
Hiến pháp là đạo luật gốc, đạo luật tối cao của một quốc gia, Hiến
pháp ra đời thể hiện ý chí của nhân dân nhằm mục đích giới hạn quyền lực
nhà nước, bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhân dân. Hiến pháp là cơ sở để xem
xét tính pháp lý của mọi văn bản, mọi quyết định và mọi hành vi của bộ
máy nhà nước và công dân; là một dạng khế ước cam kết giữa nhân dân và
nhà nước. Nhân dân có quyền xem xét tính hợp hiến của pháp luật. Hiến
pháp xuất hiện trong một xã hội có nền dân chủ, có sự phân chia quyền lực
nhà nước, phân công và phối hợp giữa các cơ quan quyền lực nhà nước với
nhau. Hiến pháp đặt nền móng cho mọi hoạt động của bộ máy nhà nước,
nguyên tắc, chức năng, thẩm quyền bộ máy nhà nước đều theo sự điều
chỉnh của Hiến pháp.
Chủ nghĩa hợp hiến được hình thành bởi ý tưởng chính trị tự do ở
Tây Âu và Hoa Kỳ là hình thức bảo vệ quyền cá nhân đối với sức khỏe, tài
sản, tự do tôn giáo và ngôn luận. Để đảm bảo những quyền trên, người
soạn thảo Hiến pháp đã nhấn mạnh kiểm soát quyền lực nhà nước trong
mỗi ngành quyền lực. Bất cứ cơ quan nào sử dụng đủ quyền lực để bảo vệ
tôi khỏi bị hàng xóm cướp bóc, tất có thể sử dụng đủ quyền lực để phá hủy
hoặc nô lệ hóa tôi. Nghịch lý này nằm trong gốc rễ của lý thuyết hiện đại
về tình trạng tự nhiên: Làm sao chúng ta thoát khỏi tình trạng vô chính
phủ mà không sa vào chính thể chuyên quyền để điều khiển người bị trị mà
vẫn có thể ngăn ngừa quyền hành tích lũy này không bị lạm dụng?...Giải
pháp dân chủ tự do cho vấn nạn này chính là chủ nghĩa hợp hiến [4].

8
Hiện nay, trên thế giới chưa có một định nghĩa thống nhất, chính xác
nào về bảo hiến. Các thuật ngữ được dùng trong mỗi hoàn cảnh khác nhau
tùy thuộc vào hoàn cảnh quốc gia, điều kiện chính trị của quốc gia. Bảo
hiến hay cách gọi thông thường khác gọi là bảo vệ Hiến pháp hay tài phán
Hiến pháp có thể hiểu là cách thức đánh giá tính hợp hiến của các văn bản
pháp luật, các hành vi pháp lý của các cơ quan quyền lực nhà nước được
thực hiện bởi một cơ quan hiến định.
Theo nghĩa hẹp, bảo hiến được giải thích là bảo vệ tính hợp hiến của
các đạo luật, mục đích nhằm tìm ra sự phù hợp giữa Hiến pháp, đạo luật
gốc với những văn bản mang tính pháp lý khác, sự phù hợp ở đây không
mang tính khuyến cáo mà là sự chính xác. Mỗi văn bản có tính pháp lý
được ban hành ở bất kỳ cơ quan nào đều cần có sự tuân thủ tuyệt đối Hiến pháp.
Ở một góc độ theo nghĩa rộng hơn, bảo hiến là bảo vệ tinh thần và
nội dung của Hiến pháp. Tinh thần trong bản Hiến pháp mà các nhà lập
hiến đã truyền tải vảo bản Hiến pháp, bảo vệ mối liên hệ giữa hành pháp, tư
pháp và lập pháp, kiểm soát tính hợp hiến của các hành vi thực hiện bởi
thiết chế nhà nước được quy định trong Hiến pháp. Cơ chế bảo vệ Hiến
pháp chỉ cách thức tổ chức thực hiện bảo vệ Hiến pháp của một quốc gia
được thể hiện thông qua mô hình bảo hiến mà quốc gia đó lựa chọn. Cơ chế
bảo vệ Hiến pháp ở mỗi quốc gia thường không giống nhau nhưng vẫn có
điểm chung nhất định.
Nền móng của bảo hiến được cho là có thể xuất hiện vào thời Hy
Lạp cổ đại. Những hình thức sơ khai của mô hình bảo hiến xuất hiện ngày
càng nhiều ở châu Âu trung đại, các quốc gia bắt đầu có những điều luật
liên quan đến mô hình bảo hiến. Tuy không thành chế định bảo hiến cụ thể
nhưng lại có giá trị tham khảo rất lớn như: Đức, Pháp, Bồ Đầu Nha, Na Uy,
Đan Mạch, Hy Lạp, Áo, Rumani. Vương quốc Anh cũng có những đóng
góp nhất định vào sự phát triển của cơ chế bảo hiến. Anh quốc được coi là

9
quê hương của nền dân chủ, quê hương của nghị viện hiện đại. Với việc
xuất hiện bản "Đại Hiến chương" hay Magna Carta là một trong những văn
bản pháp luật quan trọng trong lịch sử nước Anh, không chỉ đơn thuần là
cột mốc cho tự do, dân chủ của nước Anh; mà người ta xem Đại Hiến
chương là một văn kiện đã góp phần không nhỏ trong sự phát triển của chủ
nghĩa tự do và nền dân chủ trên thế giới, được ban hành vào năm 1215. Sự
kiện này đã đánh dấu những bước chuyển biến lớn với lịch sử pháp luật
nước Anh, trong đó có quan điểm về tính tối cao của Hiến pháp, mặc dù
nước Anh không có một bản Hiến pháp thành văn. Người Anh đã khởi
xướng ra thủ tục luận tội quan chức nhà nước đồng thời đề xuất ra tính tối
thượng của pháp luật và quyền được tào án xem xét tính hợp pháp của hoạt
động chính phủ. Thế kỷ XVIII, tòa án đã ra một phán quyết tuyên bố các
luật của đế chế Anh không còn giá trị pháp lý trên lãnh thổ Hoa Kỳ. Sự
kiện xác nhận quyền bảo hiện của tòa án Hoa Kỳ mới được chính thức xác
nhận hình thành mô hình bảo hiến kiểu Hoa Kỳ do những tòa án thường
thực hiện.
Từ sự ra đời của chế định bảo hiến ở Hoa Kỳ, đã mở đường cho
hàng loạt các quốc gia khác với các bản Hiến pháp sau đó. Tây Ban Nha và
Bồ Đào Nha thế kỷ 19, dưới sự ảnh hưởng của Hiến pháp Hoa Kỳ năm
1812 tại Tây Ban Nha, Hiến pháp Cadiz đã ra đời. Sau đó, Hiến pháp này
lại làm nền tảng cho Hiến pháp Bồ Đào Nha ra đời năm 1822. Các bản
Hiến pháp này, dưới sự ảnh hưởng của Hiến pháp Hoa Kỳ đều mang
những mầm mống của cơ chế bảo vệ Hiến pháp - tính tối cao của Hiến
pháp trong hệ thống pháp luật quốc gia; Na Uy, Đan Mạch, Hy Lạp đưa
quyền giám sát Hiến pháp vào thế kỷ 19; năm 1867, Tòa án Liên bang Áo
được trao quyền giải quyết những tranh chấp về thẩm quyền, Tòa án Tiểu
bang được trao quyền ra quyết định với các vụ kiện vi phạm Hiến pháp...
Tới giai đoạn 1918 - 1939 mô hình bảo hiến của Áo nổi lên, giai
đoạn này được coi là "thời kỳ của nước Áo" (the Austrian Period). Nước
10
Áo áp dụng công trình của hai nhà khoa học Hans Kelsen và Adolf Merkl
sáng tạo ra mô hình bảo hiến tập trung. Mô hình này đã mở đường cho
hàng loạt các Tòa án Hiến pháp ở Châu Âu. Hiến pháp năm 1920 ở Áo xác
nhận nền tảng của Tòa án Hiến pháp. Mô hình Tòa án Hiến pháp chịu trách
nhiệm cơ bản bảo hiến như là một nhiệm vụ độc lập đã được xác nhận ở
Áo và phổ biến ra nhiều quốc gia khác nhất là ở châu Âu, trở thành một
trong những mô hình cơ bản về cơ chế bảo hiến trên thế giới.
Sau giai đoạn này, rất nhiều các quốc gia ở khắp các khu vực trên
thế giới thành lập cơ quan bảo vệ Hiến pháp theo những mô hình khác
nhau như Nhật Bản, Thái Lan, Ấn Độ, Myanma, Italia [5]… Ngoài tòa án
(tòa án thường và tòa án Hiến pháp) như ở Mỹ và Áo, ở một số nước, pháp
luật còn giao quyền bảo hiến cho một số cơ quan khác với những tên gọi,
ví dụ như hội đồng Hiến pháp, các tòa đặc biệt thuộc Toà án tối cao, hoặc
cho bản thân Nghị viện. Mô hình hội đồng Hiến pháp của Pháp năm 1958
và mô hình bảo hiến Quốc hội - nghị viện của Liên Xô đã mở ra thêm
nhiều sự lựa chọn phù hợp hơn hoàn cảnh của mỗi quốc gia.
Các mô hình bảo hiến trên thế giới hiện nay đã được phát triển
nhanh chóng, được đa số các quốc gia trên thế giới ghi nhận là một trong
những chế định bắt buộc tồn tại trong hệ thống pháp luật quốc gia, được
quy định trong văn bản có giá trị pháp lý cao nhất của quốc gia đó ở dạng
thành văn hoặc bất thành văn. Tính đến nay theo những số liệu không
chính thức đã có ít nhất hơn 80% các quốc gia trên thế giới quy định về
vấn đề bảo vệ Hiến pháp dưới những hình thức khác nhau.

1.1.2. Vị trí, vai trò bảo hiến


Bảo hiến đóng góp rất lớn cho sự hoàn thiện của pháp luật, nền dân
chủ quốc gia cũng như sự phát triển của quốc gia. Mô hình bảo hiến ở mỗi
quốc gia tùy thuộc vào hoàn cảnh nên có những đặc điểm riêng biệt nhưng

11
cơ bản bảo hiến được xây dựng với những vai trò và mục đích chung. Mô
hình bảo hiến được xây dựng với những mục tiêu cơ bản sau:
- Kiểm soát quyền lực nhà nước, duy trì hiệu quả hoạt động cả bộ máy
nhà nước, hoàn chỉnh chức năng của từng cơ quan trong bộ máy nhà nước.
- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Bảo hiến nhằm mục đích để bảo vệ giá trị pháp lý tối cao của Hiến
pháp, cũng như hoàn thiện các chế định pháp luật. Hiến pháp như tên gọi
của nó, sẽ bảo vệ những giá trị cốt lõi, những điểm căn bản nhất của quốc
gia cho dù bản Hiến pháp đó tồn tại ở bất kỳ dạng nào: thành văn hay bất
thành văn. Khi tiến hành xây dựng pháp luật, những văn bản pháp luật xây
dựng có thể không hoàn toàn dựa trên cái nhìn khách quan về vấn đề mà
còn mang nhiều tính hạn chế, cá nhân. Việc tồn tại những điểm sai sót,
không thống nhất, mâu thuẫn là điều không thể tránh khỏi trong thực tiễn.
Mô hình bảo hiến được hình thành sẽ bảo vệ xã hội khỏi những văn bản,
những điều luật mâu thuẫn, tạo nên sự thống nhất trong phạm vi của Hiến
pháp và pháp luật. Hiến pháp có thể hạn chế một phần hoặc toàn bộ những
vấn đề có thể phát sinh trong việc xây dựng, ban hành và thực thi pháp luật.
Bảo hiến bảo vệ hoàn chỉnh quy trình “Lập hiến - lập pháp”, đưa
quy trình vào trong thực tế và áp dụng. Hệ thống pháp luật sẽ được xây
dựng hoàn chỉnh, đúng trình tự, có sự giám sát chặt chẽ, có sự điều chỉnh
kịp thời khi cần. Hiến pháp điều chỉnh những mối quan hệ xã hội đúng theo
khuôn khổ pháp luật, theo những cốt lõi của Hiến pháp. Hiến pháp hạn chế
quyền lực của cơ quan nhà nước trong phạm vi mà Hiến pháp quy định,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, quyền công dân được xây dựng
hoàn thiện trong Hiến pháp được bảo vệ tuyệt đối. Nhân dân thông qua cơ
quan bảo hiến thực hiện quyền giám sát của mình, yêu cầu cơ quan bảo

12
hiến bảo vệ quyền và lợi ích của mình trước những văn bản vi hiến, hành vi
vi hiến của cơ quan quyền lực nhà nước hay của những cá nhân thẩm quyền.
Bảo hiến là điều kiện tiên quyết để có thể đưa Hiến pháp vào thực
tiễn cuộc sống, bảo đảm giá trị pháp lý của các quy phạm pháp luật, tạo
nên sự thống nhất trong toàn bộ quá trình xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống
pháp luật, khiến cho pháp luật có thể đi sâu vào thực tiễn. Bảo hiến xây
dựng một cơ chế cụ thể không chỉ bảo vệ tính pháp lý của Hiến pháp đồng
thời xây dựng cơ chế để công dân yêu cầu nhà nước xem xét tính hợp hiến
của một điều luật, một đạo luật hay một hành vi bất kỳ vi hiến xảy ra. Đối
tượng bảo vệ Hiến pháp ở hướng tới là những hành vi vi hiến và cả những
văn bản vi hiến.
1.2. Sự hình thành và phát triển của các mô hình bảo hiến điển
hình trên thế giới.
Mô hình bảo hiến trên thế giới có thể phân chia thành các kiểu mô
hình khác nhau. Nếu phân chia theo cách thức giám sát thì có mô hình giám
sát Hiến pháp tập trung và mô hình giám sát Hiến pháp phi tập trung. Cách
thức phân chia theo trình tự, thủ tục, thẩm quyền cơ quan bảo hiến thông
thường là cách phân chia được sử dụng nhiều nhất thì trên thế giới có bốn
mô hình bảo hiến điển hình được áp dụng như sau:
- Mô hình bảo hiến bằng tòa án Hiến pháp (điển hình tại Áo, Đức).
- Mô hình bảo hiến bằng tòa án tư pháp (điển hình tại Hoa Kỳ).
- Mô hình bảo hiến bằng hội đồng Hiến pháp (điển hình tại Pháp).
- Mô hình bảo hiến khác.
1.2.1. Mô hình hội đồng Hiến pháp ở Cộng hòa Pháp
Bối cảnh hình thành của mô hình: Cộng hòa Pháp là một quốc gia
có nền pháp luật dân chủ hàng đầu trên thế giới, mô hình tài phán Hiến
pháp cũng là một trong ba mô hình đặc thù được nhiều quốc gia lựa chọn
áp dụng.

13
Mô hình hội đồng Hiến pháp được hình thành đầu tiên ở cộng hòa
Pháp và dần dần phát triển đến nhiều quốc gia, đa phần là những quốc gia
chịu ảnh hưởng chính trị và pháp lý cũng như văn hóa từ cộng hòa Pháp.
Để có thể xây dựng và áp dụng hiệu quả được mô hình hội đồng Hiến pháp,
nước Pháp cũng đã phải trải qua một quá trình đấu tranh hàng trăm năm, bắt
nguồn từ thế kỷ 18.
Hiến pháp năm 1799 đã chính thức ghi nhận sự xuất hiện của cơ chế
bảo hiến với mục đích chính nhằm tìm sự cân bằng giữa hành pháp, lập
pháp và tư pháp. Hiến pháp 1799 quy định trao quyền bảo hiến cho một
trong hai viện thuộc nghị viện. Tuy còn nhiều hạn chế, nhưng nhà nước
Cộng hòa Pháp đã bắt đầu thừa nhận bảo hiến rất sớm. Thượng viện có
thẩm quyền kiểm tra tính hợp hiến, có thể tuyên bố hủy bỏ văn bản vi hiến
không có giá trị pháp lý (mô hình có đôi nét gần giống với mô hình bảo
hiến nghị viện của Liên Xô). Tất nhiên với trình tự và lập pháp vừa kiểm
tra thì việc thượng viện kiểm tra tính hợp hiến chắc chắn chỉ mang tính
hình thức. Đến Hiến pháp năm 1892, cộng hòa Pháp vẫn thừa nhận sự tồn
tại của bảo hiến thông qua Thượng viện. Thượng viện vẫn được trao quyền
kiểm tra, tuyên bố hủy bỏ văn bản không có giá trị pháp lý và thêm quyền
đình chỉ văn bản pháp luật đang thi hành. Quyền năng thì tăng lên nhưng
Thượng viện lại không sử dụng quyền năng của mình vào bảo vệ Hiến pháp
nên chỉ dừng lại ở những quy định mang đậm tính hình thức.
Thời kỳ cộng hòa đệ Tam: Hiến pháp 1985 đã không còn thừa nhận
cơ chế bảo vệ Hiến pháp của Thượng viện, quy định về tài phán Hiến pháp
hoàn toàn bị xóa bỏ trong bản Hiến pháp thời kỳ này. Tuy vậy, các học giả
đã bắt đầu tìm hiểu được tầm quan trọng của mô hình bảo hiến đối với sự
phát triển của cộng hòa Pháp. Hiến pháp năm 1946 đã quy định thành lập
một Ủy ban Hiến pháp do tổng thống đứng đầu, nhằm kiểm tra tính hợp
hiến của dự luật cho được thông qua của nghị viện. Đến thời điểm này mô
hình bảo hiến vẫn chỉ mang tính hình thức. Do nhiều nguyên nhân khi quy
14
định Hiến pháp không có giá trị thực tế để kiểm soát những đạo luật dễ gây
lên tình trạng vi hiến - vi phạm nghiêm trọng quyền về con người, gây lên
những ảnh hưởng xấu cho xã hội. Đến năm 1958, những mâu thuẫn bắt đầu
bùng nổ, xã hội Pháp trở nên vô cùng phức tạp, Pháp kiều ở Algieri liên lục
nổi dậy chống lại chính phủ Pháp. Chính phủ Pháp được sự ủng hộ của
nghị viện cũng không thể ổn định được tình hình xã hội. Giữa năm 1958,
chính phủ Pháp tuyên bố từ chức, nghị viện Pháp tìm mọi cách để thành lập
ra chính phủ mới nhưng đều không thành công. Bất ổn chính trị ở nước
Pháp kéo dài suốt từ sau chiến tranh thế giới thứ II đến thời điểm này khiến
cho lòng tin của nhân dân vào nghị viện và các Đảng phái chính trị hoàn
toàn không còn. Đứng trước hoàn cảnh khó khăn, nghị viện Pháp đã phải
thay đổi thể chế, hoàn thiện lại chế độ chính trị nhằm tìm ra lối thoát cho sự
khủng hoảng. Tháng 9 năm 1958, tướng Đờ Gôn được mời làm thủ tướng
cho một chính phủ mới, sự xuất hiện của anh hùng quốc gia với uy tín rất
cao đã khiến cho sự ủng hộ của nhân dân tăng cao cho chính phủ Pháp.
Hiến pháp năm 1958 [6] do tướng Đờ Gôn khởi xướng được thông qua đã
mở ra một thời kỳ mới cho cộng hòa Pháp đồng thời đầu cho một trong
những mô hình bảo hiến tiêu biểu trên thế giới được hình thành. Bản Hiến
pháp đã thiết lập nên một nền cộng hòa mới gắn liền với tướng Đờ gôn,
Hiến pháp 1958 ra đời đã tiến hành giải quyết hai vấn đề chủ chốt mà suốt
thời gian dài trước sức ép của nghị viện mà không thể tiến hành được
Thứ nhất, Hiến pháp 1958 đã tăng quyền hạn cho tổng thống, hạn
chế được sự tham gia của nghị viện vào mọi hoạt động của chính phủ.
Thứ hai, Hiến pháp 1958 đã quy định thành lập thành công hội đồng
Hiến pháp đúng nghĩa để có thể xem xét hoạt động lập pháp, vốn là hoạt
động quan trọng nhất của nghị viện. Nghị viện có rất nhiều quyền hạn vào
thời gian trước đã bị hạn chế thông qua bản Hiến pháp 1958 mang đậm
chất tổng thống Đờ gôn. Tại sao nước Pháp tại thời điểm đó lại lựa chọn

15
mô hình riêng biệt là hội đồng Hiến pháp chứ không đi theo những mô hình
tòa án Hiến pháp hay tòa án tư pháp đã tồn tại và phát triển trước đó [7].
Trong một khoảng thời gian dài, khoảng hơn hai thế kỷ, các nhà học
giả Pháp đã bắt đầu nghiên cứu để lựa chọn mô hình bảo hiến phù hợp. Sự
nghiên cứu, tích lũy phân tích trong giai đoạn đó đã tạo nên nhận thức pháp
lý khi xây dựng mô hình hội đồng Hiến pháp. Nhận thức pháp lý của nhân
dân Pháp tại thời điểm đó yêu cầu tồn tại mô hình bảo hiến để hạn chế
quyền lực của nghị viện. Mọi tầng lớp xã hội Pháp đều nhận thấy quyền và
lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm khi để nghị viện quá nhiều quyền
lực, cần thiết phải lên tiếng bảo vệ quyền lợi của mình. Hiến pháp 1958 thể
theo nguyện vọng nhân dân, xây dựng cơ chế đảm bảo sự phân chia quyền
lực giữa các cơ quan nhà nước với nhau. Cộng hòa Pháp với bản Hiến pháp
1958 đã thể hiện được sự nhìn nhận đúng đắn về tầm quan trọng của mô
hình bảo hiến và mục đích đúng đắn khi xây dựng mô hình bảo hiến.
Mô hình hội đồng Hiến pháp được xây dựng trong Hiến pháp 1958
đã đáp ứng được lợi ích của nhiều thành phần trong xã hội. Hội đồng Hiến
pháp trước hết hạn chế quyền lực nghị viện, phục vụ lợi ích của tổng thống
và chính phủ mới, đồng thời bảo vệ lợi ích chính trị của các tầng lớp trong
xã hội. Mô hình hội đồng Hiến pháp về cơ bản phục vụ phần lớn lợi ích của
số đông nhân dân và lợi ích chính trị của chính phủ mà tướng Đề gôn đã
xây dựng so với nghị viện.
Cộng hòa Pháp chịu ảnh hưởng sâu sắc từ nền pháp luật châu Âu lục
địa, đồng thời là những ảnh hưởng nhất định từ những nền pháp luật tiến bộ
khác như hệ thống pháp luật Anh - Mỹ. Khi đề cập đến việc xây dựng mô
hình bảo hiến, các nhà nghiên cứu khoa học Pháp đều hướng tới mô hình
bảo hiến theo kiểu Anh Mỹ, mô hình bảo hiến bằng tòa án thường với hệ
thống tòa án đã tồn tại ở Pháp. Tuy nhiên, nhận thấy mô hình tòa án không
thể phù hợp với hoàn cảnh xây dựng mô hình bảo hiến ở Pháp bởi vì: hệ

16
thống tòa án của cộng hòa Pháp không đủ khả năng để đảm nhận nhiệm vụ
bảo hiến khi gần như bị phụ thuộc hoàn toàn và nghị viện, tính độc lập của
tư pháp không tồn tại. Đồng thời, với truyền thống pháp lý lâu dài, nước
Pháp đã không cho phép mình rập khuôn mô hình nào khác mà lựa chọn
con đường khó khăn hơn rất nhiều là tự xây dựng cho mình mô hình bảo
hiến đặc thù, riêng biệt và phù hợp với hoàn cảnh quốc gia.
Đặc điểm của mô hình hội đồng Hiến pháp:
Mô hình hội đồng Hiến pháp mang tính đặc thù so với những mô
hình khác trên thế giới.
Thứ nhất, mô hình không chỉ mang bản chất đúng của tài phán Hiến
pháp, mà còn mang đậm yếu tố tổ chức chính trị ở trong đó. Mô hình hội
đồng Hiến pháp vận hành hoạt động theo một cơ chế đặc biệt không công
khai quy trình bảo hiến. Thành viên mô hình cũng không phải toàn bộ là
những nhà nghiên cứu pháp luật mà còn bao gồm những nhân vật được quy
định trong đó có cả những tổng thống đã hết nhiệm kỳ. Hội đồng Hiến pháp
thời gian đầu xây dựng chỉ có nhiệm vụ kiểm tra dự án luật chưa được
thông qua bởi nghị viện. Tuy nhiên, sau một thời gian dài nhận thấy việc
chỉ kiểm tra dự án đã làm mất đi tính thực tế của Hiến pháp. Nhiều vấn đề
pháp luật khi áp dụng và thực tiễn mới có thể phát hiện được sự vi hiến tồn
tại trong quy phạm pháp luật, đến khi sửa đổi Hiến pháp đã quy định đầy
đủ quyền hạn của hội đồng Hiến pháp trong việc thẩm tra những dự án luật
và cả những văn bản pháp luật đã được thông qua bởi nghị viện. Hội đồng
Hiến pháp sau khi thẩm tra được tuyên bố văn bản hay hành vi là vi hiến,
có thể hủy bỏ hoặc sửa đổi những văn bản hay hành vi pháp luật có sự vi
hiến. Khi mới đầu xây dựng, các nhà lập pháp đã không nhất quán ý tưởng,
cho rằng nhiều khả năng những quy định về hội đồng Hiến pháp mang tính
hình thức. Tuy nhiên, khi vận hành mô hình đã hoạt động mang lại sự hiệu
quả, trở thành mô hình tiêu biểu trong các mô hình bảo hiến.

17
Thứ hai, mô hình hội đồng Hiến pháp là mô hình có thể phù hợp với
hoàn cảnh đặc thù và khó có thể áp dụng rộng rãi được. Một thể chế mang
bản chất chính trị phải có những cách thức riêng mới có thể tránh được sự
ảnh hưởng của những cơ quan quyền lực nhà nước khác. Hội đồng Hiến
pháp là mô hình rất khó để áp dụng thành công nếu không thực sự phù hợp
quốc gia lựa chọn mô hình.
Sự phát triển của mô hình hội đồng Hiến pháp trên thế giới:
Mô hình hội đồng Hiến pháp đặc trưng về bảo hiến được hình thành
đầu tiên ở Pháp. Hội đồng Hiến pháp cũng có nhiều điểm tương đồng với mô
hình tòa án Hiến pháp, tuy nhiên hội đồng Hiến pháp được xây dựng theo xu
hướng một cơ quan thuộc hệ thống chính trị chức không thuộc ngành quyền
lực tài phán, một dạng của hệ thống Tư pháp. Hội đồng Hiến pháp đã được
phát triển trong một khoảng thời gian dài và được ghi nhận như một trong ba
mô hình bảo hiến lớn trên thế giới. Tuy nhiên, hội đồng Hiến pháp không
phải là dạng mô hình bảo hiến có thể phổ biến và lan tỏa mạnh mẽ như Tòa
án Hiến pháp hay tòa án bảo hiến kiểu Mỹ. Đây là mô hình chứa đựng
những điểm đặc thù, các quốc gia trên thế giới hiện nay áp dụng mô hình hội
đồng Hiến pháp không quá nhiều. Hầu hết các nước áp dụng mô hình là ở
Châu Phi, Trung Đông và Châu Á, Pháp là quốc gia duy nhất áp dụng mô
hình tại châu Âu.
Mô hình hội đồng bảo hiến mang đặc điểm của cơ quan chính trị trộn
lẫn với cơ chế bảo hiến. Chức năng, thẩm quyền và trình tự thực hiện bảo
hiến của hội đồng Hiến pháp đều không giống cơ chế tài phán thông thường.
Các quốc gia khi lựa chọn mô hình hội đồng Hiến pháp đều phải chấp nhận
những khó khăn nhất định. Những quốc gia lựa chọn hội đồng bảo hiến đa
phần chịu ảnh hưởng nhất định bởi cộng hòa Pháp như các nước Bắc Phi
hoặc tìm ra điểm phù hợp của mô hình hội đồng Hiến pháp. Trên thế giới đã

18
có các quốc gia áp dụng mô hình hội đồng Hiến pháp bao gồm: Pháp,
Tuynidi, Eetiopia, Senegal, Bờ Biển Ngà, Iran, Campuchia, Li băng…
1.2.2. Mô hình bảo hiến bằng tòa án ở Hoa Kỳ
Mô hình bảo hiến Hoa Kỳ là mô hình bảo hiến được áp dụng phổ
biến, hiệu quả trên toàn thế giới. Mô hình bảo hiến bằng tòa án tư pháp
được đánh giá đã thể hiện được toàn bộ giá trị cần có của cơ chế bảo vệ
Hiến pháp hiệu quả.
Bối cảnh hình thành của mô hình: Hoàn cảnh ra đời của mô hình
bảo hiến kiểu Hoa Kỳ cũng mang đúng bản chất sử dụng án lệ là nguồn
luật của hệ thống pháp luật khi mô hình được xây dựng từ vụ án cụ thể.
Đầu thế kỷ 19, trong cuộc bầu cử tổng thống John Adams và đảng
Federalist của ông thất cử, Thomas Jefferson người của đảng Dân chủ và
Cộng hòa Hoa Kỳ trúng cử Tổng thống. Trước khi rời khỏi ghế tổng thống,
nhằm đảm bảo cho sự quyền lợi của mình sau khi rời vị trí, John Adams đã
bổ nhiệm hàng loạt thành viên của đảng Federalist vào chức vụ thẩm phán
và thẩm phán hòa giải. Khi Jefferson lên làm tổng thống, các quyết định
của John Adams đã được ký và đóng dấu nhưng lại chưa được chuyển đi
hết. Jefferson chỉ đạo cho James Madison, lúc đó là bộ trưởng bộ Ngoại
giao không chuyển quyết định mà Adams đã ký cho những người có tên để
họ không thể nhận chức vụ Thẩm phán.Trong số những người không nhận
được quyết định đó có William Marbury. Khi không nhận được quyết định,
William Marbury đã khởi kiện James Madison yêu cầu giải thích lý do tại
sao các quyết định lại không được chuyển cho mình; đồng thời Marbury
yêu cầu tòa án tối cao quyết định buộc trao quyết định để những người có
liên quan thực thi nhiệm vụ của mình. Chánh án lúc đó là John Marshall
lúc đó, vì những tình huống chính trị, đã rất khó khăn khi giải quyết vụ
việc này. John Marshall đã đưa ra phán quyết cho vụ việc này:

19
Thứ nhất, Madison đã vi phạm pháp luật vì không chuyển giao
quyết định cho những người liên quan.
Thứ hai, Đạo luật thành lập các tòa án tư pháp năm 1789 cho phép
tòa án ban hành mệnh lệnh trên là trái với Hiến pháp. Marshall đã tuyên bố
tòa án tối cao liên bang không có quyền giải quyết vấn đề này, mặc dù mục
13 của Đạo luật Tư pháp liên bang trao cho tòa án thẩm quyền trong lĩnh
vực đó nhưng quy định này trái với điều 3 của Hiến pháp Hoa Kỳ năm
1787. Ông cho rằng Hiến pháp là luật cơ bản của nhà nước và có hiệu lực
pháp lý tối cao. Vì vậy khi một đạo luật thông thường trái với Hiến pháp
thì đạo luật đó phải bị tuyên bố là vô hiệu. Cuối cùng, John Marshall đã
đưa ra phán quyết lịch sử: Hiến pháp là luật tối cao của đất nước, những
luật hay quyết định được đưa ra bởi cơ quan lập pháp là một bộ phận của
Hiến pháp và không được trái với Hiến pháp. Thẩm phán, người đã từng
tuyên thệ bảo vệ Hiến pháp, phải tuyên bố hủy bỏ những luật, lệ quy định
nào của cơ quan lập pháp mâu thuẫn với Hiến pháp.
Ba phán quyết trên đây đã xác lập chức năng bảo vệ Hiến pháp của
tòa án và quyền tài phán của tòa án về các quyết định của lập pháp và hành
pháp liên quan đến Hiến pháp. Với những tuyên bố trên đây và những
đóng góp lớn lao cho ngành tư pháp, John Marshall được coi là Chánh án
tòa án Tối cao vĩ đại nhất của Hoa Kỳ. Ông đã thực sự khẳng định sức
mạnh của nhánh quyền lực thứ ba trong ba nhánh quyền lực nhà nước. Với
phán quyết trên, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến thế giới, tòa án có
quyền xem xét tính hợp hiến của một đạo luật đến từ hành pháp, đây được
coi là lần xuất hiện chính thức đầu tiên của chế định bảo vệ Hiến pháp. Vụ
việc này cũng dẫn những đặc trưng trong mô hình bảo hiến kiểu Mỹ sau
này. Đó là việc chứng minh một đạo luật vi hiến luôn luôn là trách nhiệm
của bên nguyên, và chỉ những người có quyền và lợi ích bị xâm phạm bởi
đạo luật hay hành vi mới được quyền khởi kiện xem xét tính vi hiến .

20
Đặc điểm của mô hình bảo hiến kiểu Hoa Kỳ:
Thứ nhất, cơ quan bảo hiến Hoa Kỳ hoạt động dựa trên mô hình tòa
án tư pháp thông thường. Từ tòa án địa phương cho đến tòa án liên bang
đều có thẩm quyền xét xử những vụ án liên quan đến vi hiến. Tuy quyền
hạn trao cho tất cả các tòa án các cấp quyền bảo hiến nhưng các quyết định
của các tòa án cấp cao nhất có ưu thế bởi chỉ những quyết định đó mới có
tính bắt buộc với mọi tòa khác. Sau khi tòa án cấp cao nhất phủ nhận tính
hợp hiến của đạo luật thì đạo luật đó trên thực tế mới mất hiệu lực pháp lý.
Thứ hai, tòa án thực hiện giám sát Hiến pháp sau khi văn bản pháp
luật được ban hành hoặc có hiệu lực. Đây là một cái nhìn thực tiễn sâu sắc,
mang màu sắc của án lệ, đặc trưng của hệ thống thông luật, mọi đạo luật
đều được kiểm nghiệm tính pháp lý thông qua thực tiễn chứ không phải chỉ
trên giấy tờ. Sự ảnh hưởng của đạo luật nhất định phải được chứng minh
bằng thực tiễn áp dụng.
Thứ ba, tòa án bảo vệ Hiến pháp trong từng sự việc cụ thể, điều này
một phần xuất phát từ triết lý chân lý luôn mang tính cụ thể của Hoa Kỳ.
Tòa án chỉ giám sát tính hợp hiến của văn bản pháp luật khi có những sự
kiện pháp lý nhất định, hay nói cách khác kiện tụng chính là tiền đề để Tòa
án phán xét tính hợp hiến của một đạo luật. Đây là ưu thế lớn của mô hình
bảo hiến kiểu Hoa Kỳ khi mà ngay cả việc hình thành cơ chế bảo vệ Hiến
pháp mang dáng dấp của án lệ (Án lệ đánh dấu sự ra đời của Hiến pháp
trong vụ kiến Marbury chống Madison với phán quyết của Chánh án Tòa
án Tối cao Marshall). Quyền bảo hiến chỉ được các Tòa án sử dụng trong
trường hợp tìm thấy sự liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp
của người đề nghị xem xét tính hợp hiến của các đạo luật. Đặc điểm này
xác định rõ ràng hơn phạm vi của quyền giám sát, tránh sự trừu tượng và
kém hiệu quả. Từ đây, mô hình này cho phép các bên có tranh chấp trong
vụ án bình thường, khi nhận ra những phán quyết hay những hành động

21
trái Hiến pháp của bên còn lại gây ảnh hưởng đến lợi ích của mình thì đều
có quyền đề nghị thực hiện quyền bảo vệ Hiến pháp (xuất phát từ một hành
vi vi hiến ảnh hưởng trực tiếp đến mình).
Sự phát triển của mô hình bảo hiến tòa án kiểu Hoa Kỳ
Mô hình bảo hiến Hoa Kỳ mang đúng bản chất mô hình tài phán Hiến
pháp khi tập trung hoàn toàn vào việc xét xử những vấn đề vi hiến. Có thể
khẳng định đây là một trong ba mô hình bảo vệ Hiến pháp lớn nhất trên thế
giới. Sau khi ra đời ở Hoa Kỳ, mô hình có sức lan tỏa vô cùng lớn, được rất
nhiều các quốc gia lựa chọn để học tập kinh nghiệm để tiến hành xây dựng.
Đánh giá về hiệu quả, mô hình bảo hiến kiểu Hoa Kỳ hoạt động hiệu
quả bảo vệ giá tối cao của Hiến pháp, mọi đạo luật có dấu hiệu vi hiến đều
bị xem xét và được xử lý. Có thể khẳng định đây là mô hình vô cùng hiệu
quả trong hoạt động bảo vệ Hiến pháp. Mô hình này sẽ giúp Hiến pháp
được bảo vệ giá trị pháp lý tối cao, quyền con người được bảo đảm và thực
hiện trên góc độ nhất định.
Cơ sở cho sự phát triển rộng rãi của mô hình chính là hiệu quả trong
việc bảo vệ Hiến pháp mà cơ chế bảo hiến mang lại, thừa nhận và lựa chọn
mô hình bảo hiến kiểu Hoa Kỳ đồng nghĩa với việc đảm bảo yêu cầu trong
hoạt động bảo vệ Hiến pháp.
Mô hình bảo hiến bằng tòa án tư pháp đã được lựa chọn áp dụng hiệu
quả ở rất nhiều quốc gia trên thế giới: Hoa Kỳ, các nước Trung Đông, Châu
Âu. Bắc Mỹ và các nước Mỹ La Tinh… Tuy nhiên, mô hình bảo hiến tòa án
tư pháp đòi hỏi yêu cầu rất khắt khe để các quốc gia lựa chọn có thể áp dụng
hiệu quả. Đó là yêu cầu về hệ thống pháp luật hoàn thiện, sử dụng án lệ làm
nguồn pháp luật, áp dụng cơ chế phân quyền, cách thức đào tạo và bổ nhiệm
thẩm phán luôn ở yêu cầu rất cao. Chính những yêu cầu trên vừa đem lại
hiệu quả cho mô hình và cũng là hạn chế đi sự phát triển, lan tỏa của mô
hình trên thế giới. Mô hình bảo hiến bằng tòa án kiểu Hoa Kỳ là mô hình chỉ

22
có thể áp dụng hiệu quả khi có thể đáp ứng đầy đủ những yêu cầu của mô
hình. Các nước khi xác định lựa chọn mô hình cần có sự nghiên cứu những
điều kiện cụ thể sao cho đáp ứng được những yêu cầu khắt khe của mô hình.
1.2.3. Mô hình tòa án Hiến pháp ở Đức
Bối cảnh hình thành của mô hình
Giai đoạn 1918 được coi là "thời kỳ của nước Áo" (the Austrian
Period). Nước Áo áp dụng công trình nghiên cứu của hai nhà khoa học
Hans Kelsen và Adolf Merkl hình thành ra mô hình bảo hiến Tòa án Hiến
pháp. Mô hình đã mở đường cho hàng loạt các Tòa án Hiến pháp xuất hiện
ở Châu Âu. Hiến pháp năm 1920 ở Áo xác nhận nền tảng của Tòa án Hiến
pháp quốc gia. Mô hình Tòa án Hiến pháp chịu trách nhiệm cơ bản bảo vệ
Hiến pháp như là một nhiệm vụ độc lập đã được xác nhận ở Áo và phổ
biến ra nhiều quốc gia khác nhất là ở châu Âu, trở thành một trong những
mô hình cơ bản về cơ chế bảo hiến trên thế giới. Sau đó tại Đức, dựa trên
những yêu cầu thực tiễn về một cơ quan bảo hiến chuyên trách nhằm bảo
vệ giá trị tối cao của Hiến pháp, đồng thời đánh giá những ưu nhược điểm
của mô hình bảo hiến Hoa Kỳ và cộng hòa Áo, năm 1949, Cộng hòa Đức
đã quyết định xây dựng cơ quan chuyên trách theo hướng tòa án Hiến
pháp, vẫn dựa vào học thuyết của Hans Kelsen và Adolf Merkl để đặt nền
tảng cho tòa án Hiến pháp ở Đức. Tại thời điểm Đức xây dựng mô hình
Tòa án Hiến pháp, cơ chế bảo hiến bằng tòa án kiểu Hoa Kỳ đang thể hiện
rất nhiều những nét ưu việt sau một thời gian sử dụng trong thực tiễn, nếu
có thể áp dụng sẽ đem lại những hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, mô hình
tòa án bảo hiến kiểu Hoa Kỳ nếu muốn áp dụng sẽ tồn tại rất nhiều khó
khăn bởi nguyên tắc “nghị viện tối cao” vẫn tồn tại rất mạnh mẽ ở châu Âu
và Đức. Quyền lực tối cao của nghị viện sẽ bị ảnh hưởng khi mọi tòa án
đều có quyền đưa ra những phán quyết về tính hợp hiến văn bản pháp luật
của nghị viện. Không những thế, nhận định mô hình bảo hiến Hoa Kỳ đòi

23
hỏi yêu cầu rất khắt khe về đội ngũ thẩm phán cũng như cần một hệ thống
nguồn pháp luật, án lệ hoàn chỉnh, mô hình này cũng đi ngược lại việc vẫn
đang sử dụng tập quán pháp trong hệ thống pháp luật tại Đức. Vậy nên, mô
hình bảo hiến Hoa Kỳ không được thừa nhận và áp dụng tại Đức. Từ
những nguyên nhân kể trên, dựa trên nền tảng mô hình bảo hiến của Áo,
nước Đức đã lựa chọn xây dựng tòa án Hiến pháp là cơ quan bảo hiến
chuyên trách với những điều chỉnh để phù hợp với bối cảnh đất nước.
Đặc điểm mô hình tòa án Hiến pháp ở Đức
Thứ nhất, tòa án Hiến pháp tiến hành hoạt động xem xét văn bản
pháp lý, hành vi, sự kiện một cách độc lập, có trình tự và thủ tục hoạt động
riêng, thống nhất và đồng bộ, không bị ảnh hưởng bởi hệ thống tư pháp.
Trình tự thủ tục bảo hiến được xây dựng theo tính đặc thù mô hình, không
bị trùng lập với bất kỳ thủ tục tố tụng dân sự, hình sự hay hành chính. Tòa
án Hiến pháp xem xét tất cả những vấn đề liên quan đến bảo vệ Hiến pháp,
thụ lý không chỉ những vụ việc mang tính cụ thể mà còn tiến hành xem xét
cả những vấn đề có dấu hiệu vi hiến. Tòa án Hiến pháp sẽ thụ lý tất cả
những vụ việc được yêu cầu đúng trình tự thủ tục tố tụng.
Thứ hai, tòa án Hiến pháp hoạt động độc lập với hệ thống cơ quan
quyền lực nhà nước, không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ nhánh quyền lực lập
pháp, hành pháp hay tư pháp. Tòa án Hiến pháp có quyền tuyên bố những
văn bản pháp lý là vi hiến, có quyền đình chỉ hay hủy bỏ văn bản pháp luật
đã có hiệu lực pháp luật.
Thứ ba, tòa án Hiến pháp là hoạt động trên nguyên tắc công khai,
thông thường hướng đến việc xem xét kiểm hiến sau, kiểm tra các văn bản
đã có hiệu lực pháp luật chứ không thực hiện nhiệm vụ kiểm hiến trước.
Điều này xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của nước Đức khi xây dựng cơ
quan chuyên trách, đặc điểm trên vừa mang tính đặc thù, vừa là hạn chế
của tòa án Hiến pháp.

24
Sự phát triển của mô hình tòa án Hiến pháp ở Đức
Mô hình bảo hiến bằng Tòa Hiến pháp với ưu điểm là một thiết chế tài
phán độc lập, riêng biệt, có quyền hạn đặc biệt so với hệ thống tư pháp cũng
như các cơ quan quyền lực nhà nước, là một trong những mô hình có thể áp
dụng một cách thống nhất và đồng bộ từ việc xây dựng cơ quan bảo hiến đến
trình tự, thủ tục xem xét mô hình tòa án Hiến pháp.
Mô hình tòa án Hiến pháp là mô hình bảo vệ Hiến pháp được nhiều
nước sử dụng nhất trên thế giới, có sự phát triển và lan tỏa rộng rãi trên toàn
thế giới. Mô hình tòa án Hiến pháp được đánh giá hiệu quả bậc nhất trong
hoạt động bảo hiến. Mô hình thể hiện được ưu điểm tối ưu của một thiết chế
bảo hiến tập trung với sức mạnh phán quyết của cơ quan tư pháp. Mọi quyết
định của tòa án Hiến pháp đều mang tính độc lập, có thẩm quyền quyết định
chung thẩm, bắt buộc với mọi đối tượng.
Mô hình tòa án Hiến pháp ra đời với những ưu điểm của mình đã
phát triển vô cùng mạnh mẽ ở châu Âu điển hình là Áo và Đức. Sau đó rất
nhiều các quốc gia trên thế giới lựa chọn và áp dụng cơ chế bảo vệ Hiến
pháp. Đến nay, tòa án Hiến pháp đã trở thành mô hình bảo hiến mà rất nhiều
quốc gia ở khắp các khu vực trên thế giới lựa chọn áp dụng: Đức, Tây Ban
Nha, Bỉ, Nga, Ba Lan, Séc, Hunggari, Hàn Quốc, Thái Lan….
1.2.4. Mô hình bảo hiến Quốc hội
Ngoài ba mô hình đặc thù đã nêu ở trên, thì trong lịch sử hình thành
và phát triển cơ chế bảo hiến trên thế giới cũng đã xuất hiện các mô hình
bảo hiến khác. Trong đó, mô hình bảo hiến nghị viện là mô hình được áp
dụng ở một số quốc gia và đem lại những giá trị nhất định.
Mô hình bảo hiến mà Quốc hội là cơ quan đại diện cho nhân dân có
quyền bảo hiến. Mô hình bảo hiến bằng nghị viện được áp dụng ở một số
quốc gia như Liên Xô, các nước Đông Âu cũ, ở Trung Quốc, Lào và Việt
Nam. Mô hình được áp dụng ở không nhiều quốc gia và đã bộc lộ nhiều

25
những nhược điểm khiến cho vấn đề bảo vệ Hiến pháp không được hiệu quả
ở các quốc gia áp dụng. Mô hình bảo hiến xây dựng cơ quan thuộc ngành
quyền lực lập pháp để xem xét những hành vi vi hiến. Bên cạnh đó, Quốc
hội là cơ quan không đủ trình tự và thủ tục đặc biệt để tiến hành xem xét vấn
đề vi hiến. Việc lựa chọn mô hình bảo hiến bằng Quốc hội sẽ đem lại rất
nhiều những hạn chế trong quá trình thực hiện chức năng Hiến pháp ở mỗi
quốc gia.
Mô hình bảo hiến Quốc hội tuy có những điểm hạn chế nhưng tại
thời điểm xây dựng thì đây có thể coi là mô hình phù hợp nhất với chế độ
chính trị Xã hội chủ nghĩa [8].
Quốc hội là cơ quan chuyên trách thực hiện hai chức năng bao gồm:
lập hiến và kiểm hiến. Quyền hạn Quốc hội là cao nhất, Quốc hội có thể tự
mình thực hiện việc bảo vệ Hiến pháp, kiểm tra văn bản pháp luật hoặc trao
quyền cho một ủy ban trực thuộc tiến hành bảo hiến. Thông thường Quốc
hội trao quyền cho ủy ban trực thuộc thực hiện bảo hiến.
Mô hình bảo hiến bằng Quốc hội có trình tự và thủ tục đặc biệt,
không được công bố rộng rãi. Cơ quan có thẩm quyền sẽ tự động xem xét
những hành vi, văn bản có dấu hiệu vi hiến và thông báo lại cho Quốc hội
xử lý nếu phát hiện sự vi hiến. Quốc hội là cơ quan cuối cùng quyết định
tính hợp hiến của vấn đề.
1.3. Lý do lựa chọn mô hình bảo hiến trên thế giới
Như đã nhận định ở trên, mô hình bảo vệ Hiến pháp tồn tại ở mỗi
quốc gia sẽ có những điểm khác biệt. Trong điều kiện xây dựng cơ chế bảo
hiến ở mỗi quốc gia, việc lựa chọn xây dựng mô hình bảo hiến nào phục
thuộc vào rất nhiều yếu tố tác động khác nhau. Bao gồm những yếu tố nội
tại của một quốc gia như hoàn cảnh xã hội, chế độ chính trị mà quốc gia
đấy lựa chọn hay sự tác động của những yếu tố từ bên ngoài, khách quan
mang lại. Sự tác động sẽ dẫn đến hình thành những mô hình bảo hiến khác

26
nhau. Xét tổng quan lại một mô hình bảo hiến có thể phải chịu những sự tác
động từ những yếu tố cơ bản sau [9].
1.3.1. Các yếu tố pháp luật
Hoàn thiện hệ thống pháp luật là yêu cầu quyết định trong việc xây
dựng và phát triển của một quốc gia. Quá trình hoàn thiện hệ thống pháp
luật bắt đầu từ xây dựng một bản Hiến pháp phù hợp với hoàn cảnh thực
tiễn quốc gia và được thừa nhận giá trị pháp lý. Hệ thống pháp luật cần
được xây dựng trên sự nhìn nhận đúng đắn về vai trò quan trọng của bảo vệ
Hiến pháp thì bảo hiến mới có thể xuất hiện, hướng đến sự phát triển hoàn
thiện của pháp luật. Bảo vệ Hiến pháp được xây dựng dựa trên nhu cầu cơ
bản của hệ thống pháp luật, cũng phải chịu sự tác động của các yếu tố pháp
luật. Mô hình bảo hiến được lựa chọn bởi sự nhận thức của những nhà lập
pháp về tính cần thiết của việc bảo vệ Hiến pháp.
Bảo vệ Hiến pháp không chỉ là bảo vệ riêng một bản khế ước giữa
nhân dân và nhà nước mà bảo vệ tính thống nhất của pháp luật. Sự tồn tại
của cơ chế bảo hiến sẽ khiến các yếu tố của pháp luật luôn được đặt trong
sự giới hạn bảo vệ mà mọi hành vi tác động của các chủ thể khác đều
không tiến tới được. Đánh giá đúng được vai trò của bảo vệ Hiến pháp là
vấn đề mà bất cứ hệ thống pháp luật cũng cần phải thực hiện. Các quy định
của pháp luật cần thiết phải hoàn thiện, thống nhất và đầy đủ để có thể đưa
cơ chế bảo hiến vào thực tiễn xã hội. Nếu các cơ quan xây dựng pháp luật
chưa nhìn nhận đúng vai trò của cơ quan tài phán Hiến pháp, chưa nhìn
nhận tầm quan trọng của Hiến pháp với hệ thống pháp luật sẽ khiến cho cơ
chế bảo hiến cho dù tồn tại cũng sẽ không hoạt động hiệu quả.
Sự du nhập pháp luật cũng ảnh hưởng nhất định đến sự hình thành cơ
chế tài phán Hiến pháp. Các quốc gia thông thường sẽ lựa chọn hệ thống
pháp luật tương ứng với chế độ chính trị mà quốc gia đã xây dựng. Việt
Nam và các nước Đông Âu chọn hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa của

27
Liên Xô để xây dựng hệ thống pháp luật của mình. Đến khi Liên Xô sụp đổ
mới bắt đầu có những thay đổi, hệ thống pháp luật của Liên Xô đề cao cơ
chế tập quyền nhà nước không nhìn nhận đúng đắn về vai trò của cơ chế
bảo hiến dẫn đến việc Việt Nam cũng đã từng có đường lối và định hướng
tương tự.
Mô hình bảo vệ Hiến pháp hiệu quả chỉ được xây dựng khi hệ thống
pháp luật của một quốc gia hướng tới sự hoàn chỉnh, khi yêu cầu hệ thống
pháp luật yêu cầu có sự bảo vệ Hiến pháp. Mô hình bảo vệ Hiến pháp sẽ
tương ứng phù hợp sẽ với độ nhận thức, tầm quan trọng của pháp luật.
Thực tế đã chứng minh không phải quốc gia nào cũng có thể nhận thức
đúng đắn vai trò của cơ chế bảo hiến. Tuy nhiên, sau từng bước nghiên cứu
và xây dựng sẽ khẳng định sự tồn tại của mô hình bảo hiến yêu cầu thiết thực.
1.3.2. Các yếu tố chính trị
Lợi ích chính trị là yếu tố đầu tiên mà giai cấp thống trị hướng tới
khi xây dựng nhà nước. Lợi ích chính trị có thể được hiểu là quyền lực của
một người (chế độ độc tài) của một nhóm người (chế độ tư sản) hay số
đông nhân dân (chế độ xã hội chủ nghĩa) dùng các công cụ, phương pháp
để quản lý xã hội nhằm phục vụ nhu cầu của nhóm đối tượng mình. Lợi ích
chính trị liên quan mật thiết đến bản chất, mục tiêu, nhiệm vụ, các điều kiện
về mặt kinh tế, xã hội hay đặc biệt là mức độ dân chủ của nhà nước. Các
nhóm đối tượng đã sử dụng nhiều cách thức để phục vụ lợi ích chính trị của
mình, thực hiện quyền lực nhà nước nhưng về cơ bản có hai phương pháp
chính để giai cấp thống trị thể hiện quyển lực của mình bao gồm [10]:
- Phương pháp dân chủ: chế độ nhà nước dân chủ (chế độ nhà nước
dân chủ chủ nô, nhà nước dân chủ phong kiến, nhà nước dân chủ tư sản,
nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa).

28
- Phương pháp phản dân chủ: chế độ nhà nước phản dân chủ (chế độ
nhà nước độc tài, chế độ nhà nước chuyên chế chủ nô, chế độ nhà nước độc
tài chuyên chế phong kiến, chế độ độc tài phát xít tư sản).
Bản chất của nhà nước quyết định đến mô hình bảo hiến mà quốc gia
đấy xây dựng. Nhà nước được hình thành là một tổ chức chính trị xã hội
đặc biệt có giai cấp, có chức năng quản lý xã hội để phục vụ lợi ích trước
hết cho giai cấp thống trị và thực hiện những hoạt động nảy sinh từ bản
chất của xã hội. Pháp luật là công cụ mạnh mẽ nhất để nhà nước sử dụng để
bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị đồng thời điều chỉnh những quan hệ xã
hội. Pháp luật được xây dựng dựa trên hệ tư tưởng của giai cấp thống trị.
Mô hình bảo hiến xây dựng nhằm mục đích cơ bản là bảo vệ Hiến pháp,
hạn chế sự lạm quyền của cơ quan nhà nước, phục vụ giai cấp thống trị và
bảo vệ lợi ích cho nhân dân. Vậy nên, xét cho cùng không phải trong bất kỳ
thực thể nhà nước nào, mô hình bảo hiến cũng có thể tồn tại đúng nghĩa, có
những chế độ mà mô hình bảo hiến gần như không thể hoặc có tồn tại cũng
chỉ mang nặng tính hình thức. Đặc biệt là những chế độ phản dân chủ khi
nhà nước chỉ được dựng lên trên danh nghĩa, chuyên phục vụ lợi ích cho
một cá nhân hay một nhóm người cụ thể. Trong chế độ như thế, sự lạm
quyền hay vi hiến (nếu tồn tại Hiến pháp) là điều xảy ra hết sức nghiêm
trọng. Hiến pháp có tồn tại thì cũng không thể can thiệp vào những mô hình
như thế.
Bởi vậy, chỉ có những chế độ nhà nước tiến bộ, hướng tới nền dân
chủ thì mới xây dựng và hoàn thiện được mô hình bảo hiến đúng nghĩa.
Như đã giải thích, một nhà nước bao giờ cũng mang bản chất phục vụ một
giai cấp nhất định. Tuy nhiên, lợi ích chính trị của giai cấp cần được điều
chỉnh phù hợp sao cho để có thể phục vụ lợi ích của số đông nhân dân. Mô
hình bảo hiến được xây dựng trong một chế độ dựa trên nền tảng dân chủ
(ở mức độ nhất định) trong đó lợi ích chính trị của giai cấp phải hài hòa với
lợi ích chính trị của nhân dân trong quốc gia. Các quốc gia khi xây dựng
29
mô hình bảo hiến cũng sẽ lựa chọn mô hình bảo hiến phù hợp với lợi ích
chính trị của giai cấp thống trị, đồng thời phục vụ cơ bản nhu cầu các giai
cấp còn lại. Mô hình bảo hiến sẽ chỉ được chấp nhận khi không gây ảnh
hưởng quá lớn đến lợi ích của giai cấp thống trị.
1.3.3. Sự ảnh hưởng mô hình bảo hiến nước ngoài
Các quốc gia khi lựa chọn xây dựng cơ chế bảo vệ Hiến pháp sẽ chịu
ảnh hưởng của những yếu tố từ chủ quan đến khách quan, đặc biệt là sự du
nhập các mô hình bảo hiến từ những quốc gia khác. Một số quốc gia chịu
ảnh hưởng từ sự du nhập bởi những yếu tố địa lý hay văn hóa, còn đa phần
thì chịu ảnh hưởng bởi sự du nhập thông qua con đường chính trị hay chiến
tranh, các quốc gia thuộc địa sau khi giành độc lập chắc chắn sẽ chịu ảnh
hưởng đa phần từ hệ thống pháp luật từ quốc gia khác. Điển hình như các
nước Bắc Phi luôn chịu ảnh hưởng bởi hệ thống pháp luật của Pháp, sự ảnh
hưởng còn bao hàm cả lĩnh vực kinh tế, văn hóa, tinh thần và xã hội. Nước
Nhật sau chiến tranh phụ thuộc hoàn toàn vào Hoa Kỳ, nên đã lựa chọn xây
dựng Hiến pháp sau chiến tranh có những đặc điểm cơ bản của hệ thống
pháp luật Hoa Kỳ.
Hệ thống pháp luật chịu sự du nhập thì mô hình bảo hiến cũng sẽ
chịu ảnh hưởng tương ứng. Thời điểm sau chiến tranh thế giới thứ II, các
quốc gia giành được độc lập bắt đầu xây dựng hệ thống pháp luật của quốc
gia mình, đồng thời các quốc gia từng bước lựa chọn mô hình tài phán phù
hợp để bảo vệ Hiến pháp. Nếu như hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa
thường đi theo mô hình tòa án Hiến pháp, các nước theo hệ thống thông
luật sẽ sử dụng mô hình bảo hiến kiểu Hoa Kỳ, các nước xã hội chủ nghĩa
lựa chọn mô hình bảo hiến nghị viện. Sự du nhập các mô hình bảo hiến có
thể mang đến mô hình bảo hiến nhưng không đồng nghĩa với việc đảm bảo
được phù hợp với mỗi quốc gia. Vì vậy luôn cần có sự điều chỉnh khi xây
dựng mô hình bảo hiến. Sự khác biệt giữa du nhập và áp dụng hoàn toàn

30
một mô hình là rất lớn, áp dụng rập khuôn một mô hình chắc chắn sẽ không
mang lại tính hiệu quả, các quốc gia cần có sự điều chỉnh trong mô hình tài
phán Hiến pháp để mô hình có thể thực sự hiệu quả trong vấn đề bảo vệ
Hiến pháp.
1.3.4. Ưu, nhược điểm của mô hình bảo hiến
Mỗi mô hình bảo hiến trên thế giới đều mang những ưu, nhược điểm
của riêng mình. Khi lựa chọn xây dựng mô hình bảo hiến các quốc gia đều
có nghiên cứu nhằm có sự điều chỉnh các đặc điểm cơ bản để phù hợp với
chế độ chính trị, hoàn cảnh xã hội. Sự điều chỉnh đều dựa trên những ưu,
nhược điểm của mô hình tài phán Hiến pháp được lựa chọn.Việc lựa chọn
mô hình bảo hiến đều hướng tới sự phù hợp với bối cảnh quốc gia, hạn chế
những nhược điểm và tận dụng những điểm mạnh của mô hình.
Đối với mô hình bảo hiến kiểu Hoa Kỳ thực hiện tài phán Hiến pháp
sẽ tồn tại những ưu điểm chung nhất bao gồm: Mô hình bảo hiến sử dụng
tòa án ngay trong hệ thống tòa án tư pháp mà không cần xây dựng mới bất
kỳ cơ quan mới để tiến hành xem xét những hành vi vi hiến, những vụ việc
liên quan đến vấn đề Hiến pháp. Mô hình được xây dựng một cách đồng
nhất, luôn đạt được hiệu quả cao trong việc bảo vệ Hiến pháp. Tuy nhiên,
mô hình bảo hiến bằng tòa án thường thì phán quyết của Tòa tối cao bao
giờ cũng có giá trị chung thẩm quyết định mọi vấn đề. Tòa án có thể tuyên
bố có sự vi hiến, không tiến hành sử dụng văn bản đó trong hoạt động tố
tụng của mình, khuyến cáo đến cơ quan lập pháp là nghị viện chứ không
thể tự mình tuyên bố văn bản đó không còn hiệu lực pháp lý do đây là thẩm
quyền cơ quan lập pháp hay Quốc hội.
Bên cạnh đó, mô hình Tòa án Tư pháp bảo hiến cần có những yêu
cầu khắt khe: hệ thống Tư pháp có đủ sự độc lập, đội ngũ thẩm phán có
năng lực, hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, sử dụng án lệ là nguồn pháp luật,

31
cơ chế phân quyền triệt để, tư pháp độc lập với lập pháp và hành pháp có
thẩm quyền tồn tại trong một cơ chế phân chia quyền lực rõ ràng
Việc lựa chọn mô hình cụ thể đều nhìn nhận từ những đặc điểm cơ
bản của mô hình, đồng thời luôn có sự sáng tạo trong việc áp dụng. Khi áp
dụng mô hình bảo hiến cụ thể thì cần phải xem những ưu điểm của mô hình
bảo hiến và đưa ra những yêu cầu điều chỉnh cụ thể với mô hình, nhắm
hướng tới việc chế độ chính trị, hoàn cảnh quốc gia mình có phù hợp được
yêu cầu của mô hình hay không. Đặc điểm của mô hình đó có khiến mô
hình đó áp dụng được hiệu quả hay không.

32
KẾT LUẬN CHƯƠNG I
Phần lớn các quốc gia trên thế giới đã thừa nhận tầm quan trọng của
bảo vệ Hiến pháp đối với việc xây dựng hệ thống pháp luật, cũng như sự
tôn trọng bảo vệ tính tối cao của Hiến pháp. Tư tưởng bảo vệ Hiến pháp đã
xuất hiện được một thời gian rất dài, ghi nhận thành nhiều mô hình bảo
hiến khác nhau nhưng đều chung mục đích đảm bảo giá trị pháp lý tối cao
của Hiến pháp. Các quốc gia lựa chọn mô hình bảo hiến không giống nhau
tuỳ thuộc vào những điều kiện tác động đến việc lựa chọn một cách khách
quan hay chủ quan.
Dựa trên mục đích, những đặc điểm cơ bản của mô hình bảo hiến các
quốc gia có thể nhận thấy việc lựa chọn mô hình bảo hiến thường dựa trên
bốn yếu tố bao gồm: các yếu tố chính trị, pháp luật, sự ảnh hưởng các mô
hình bảo hiến và các ưu, nhược điểm của mô hình. Sự hiệu quả của mô
hình bảo hiến không phải là yếu tố quyết định đến việc lựa chọn mô hình
do có thể điều chỉnh nhằm tăng tính hiệu quả trong quá trình hoạt động.
Điểm cốt yếu khi lựa chọn mô hình bảo hiến là tìm mô hình thực sự phù
hợp với quốc gia, thể chế chính trị và đảm bảo sự phát triển, ổn định cho
toàn xã hội.

33
CHƯƠNG II:
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA BẢO HIẾN
Ở VIỆT NAM
2.1. Bảo hiến theo quy định của các Hiến pháp trong lịch sử
2.1.1. Những nền tảng ban đầu cho sự hình thành bảo hiến theo
Hiến pháp năm 1946
Bối cảnh ra đời: Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp dân chủ đầu tiên
của nước ta được ra đời sau khi cách mạng tháng Tám thành công đã giành
lại chủ quyền cho đất nước, tự do cho nhân dân và lập ra nền dân chủ cộng
hoà. Hiến pháp 1946 được xây dựng trong hoàn cảnh chiến tranh vẫn đang
còn tiếp diễn, thù trong giặc ngoài vẫn còn đe dọa đến nền độc lập non trẻ
của đất nước. Việc ban hành Hiến pháp 1946 tại thời điểm là một cố gắng
rất lớn nhằm tạo dựng hệ thống pháp luật cho đất nước. Tuy được xây dựng
trong khoảng thời gian ngắn, gặp vô vàn những điều kiện khó khăn nhưng
Hiến pháp 1946 vẫn để lại những giá trị to lớn trong lịch sử lập hiến của đất
nước. Bản Hiến pháp thành văn đầu tiên được xây dựng trong những ngày
đầu đất nước, quy định những vấn đề cơ bản nhất của đất nước trong thời
kỳ đầu giành được độc lập.
Những nền tảng hình thành bảo hiến: Hiến pháp 1946 chưa ghi
nhận một mô hình bảo hiến cụ thể nhưng đã đánh giá chính xác tầm quan
trọng của Hiến pháp với thực tiễn. Hiến pháp năm 1946 không có điều
khoản ghi nhận giá trị pháp lý tối cao của Hiến pháp. Tuy nhiên, Hiến pháp
1946 cũng để lại những nền tảng nhất định về tư tưởng để có thể xây dựng
mô hình bảo hiến ở nước ta trong những giai đoạn sau. Thứ nhất, thông
qua những quy định về quyền hạn ban hành, sửa đổi, những quy định về thể
chế, nội dung thì có thể nhận thấy Hiến pháp 1946 là đạo luật nền tảng và
cơ bản của nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất [11]. Hiến pháp 1946
phân chia quyền lực nhà nước thành ba nghành quyền lực bao gồm: lập

34
pháp, hành pháp, tư pháp. Trong đó, nghị viên nhân dân là cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất thể hiện quyền làm chủ của nhân dân. Các cơ quan
nhà nước được trao quyền thông qua sự quy định của Hiến pháp, bộ máy và
hoạt động của các cơ quan nói trên đều tuân thủ quy định Hiến pháp.
Thứ hai, Hiến pháp 1946 đã ghi nhận quyền quyết định hiệu lực tồn
tại của Hiến pháp thông qua phúc quyết của nhân dân. Hiến pháp 1946 quy
định: Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ
đến vận mệnh quốc gia, theo Điều thứ 32 và 70 [11’].
Hiến pháp 1946 quy định là đạo luật cơ bản quốc gia trao quyền lực
cho Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, quy định quyền
nghĩa vụ công dân, cách thức tổ chức bộ máy nhà nước ở trung ương và địa
phương-cơ quan hành pháp và tư pháp. Về cơ bản, các cơ quan nhà nước thực
hiện và chấp hành đầy đủ quy định của Hiến pháp về quyền hạn và nghĩa vụ.
Thứ ba, Hiến pháp 1946 tuy không thể hiện mô hình bảo vệ Hiến
pháp cho quốc gia nhưng đã có quy định cụ thể và rõ ràng về cơ quan có
nhiệm vụ kiểm tra giám sát các văn bản quy phạm pháp luật tại điều 31
cũng như điều 36. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp tại giai đoạn đã bắt đầu ghi
nhận sự bảo vệ Hiến pháp thông qua cơ chế kiểm tra, giám sát của Quốc
hội với cơ quan trong bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, quyền kiểm tra giám
sát đối với các cơ quan nhà nước vẫn thường dựng lại ở mức khuyến nghị, sự
ràng buộc giữa những văn bản mang tính pháp lý và Hiến pháp chưa cao.
Quyền quyết định vẫn thuộc về các cơ quan ban hành văn bản. Hiến pháp
chưa được ghi nhận đúng giá trị, hệ thống pháp luật vẫn còn rất nhiều lỗ hổng.
Cơ chế bảo hiến chưa được ghi nhận trong Hiến pháp 1946 là do
những nguyên khách quan là chủ yếu. Hiến pháp xây dựng trong một
khoảng thời gian ngắn, chưa có sự tiếp cận những mô hình bảo hiến trên
thế giới do thời điểm đó các cơ chế tài phán Hiến pháp chưa được phổ biến
rộng rãi, bên cạnh đó hoàn cảnh chiến tranh nên không tránh khỏi những

35
hạn chế nhất định. Yêu cầu cơ chế bảo hiến dù là đơn giản vào thời điểm
đó là điều khó khăn.
Hiến pháp 1946 sau khi được thông qua cũng không được ghi nhận
và áp dụng vào thực tiễn do toàn quốc bước vào kháng chiến chống Pháp
kéo dài 9 năm. Nhưng những quy định Hiến pháp 1946 đã để lại những giá
trị to lớn cho toàn bộ hệ thống pháp luật Việt Nam, đồng thời đã có những
quy định làm nền tảng cho mô hình bảo hiến ở Việt Nam.
2.1.2. Bảo hiến theo Hiến pháp năm 1959
Bối cảnh ra đời: Hiến pháp 1959 được ban hành sau khi kháng chiến
chống Pháp kết thúc, miền Bắc hoàn toàn độc lập. Bản Hiến pháp đã được
Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà khoá thứ nhất, kỳ họp thứ 11,
nhất trí thông qua trong phiên họp ngày 31 tháng 12 năm 1959. Hiến pháp
1959 ra đời trong giai đoạn đất nước vẫn bị chia cắt, chiến tranh chưa chấm
dứt, hòa bình chưa được lập lại. Hiến pháp 1959 được xây dựng trên nền
tảng kế thừa, sửa đổi và bổ sung những quy định của Hiến pháp năm 1946.
Hiến pháp 1959 được xây dựng trong thời kỳ chiến tranh, mang đặc thù của
hệ thống pháp luật thời chiến, khi quân lệnh chiếm vị trí tối thượng trong
hệ thống quyền lực.
Hiến pháp 1959 đã ghi nhận bước đầu sự xuất hiện của cơ chế bảo
hiến đầu tiên ở Việt Nam. Cơ chế bảo hiến Quốc hội được xây dựng dựa
trên nền tảng những quy định của Hiến pháp 1946 cùng với sự tham khảo
học tập kinh nghiệm từ hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa. Đồng nghĩa
với việc Việt Nam sẽ hướng tới mô hình bảo hiến nghị viện mà các nước xã
hội chủ nghĩa đã lựa chọn. Hiến pháp 1959 và cơ chế bảo hiến đầu tiên ra
đời trong hoàn cảnh hệ thống pháp luật chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ pháp
luật xã hội chủ nghĩa một cách thụ động, máy móc và rập khuôn

36
Đặc điểm mô hình bảo hiến:
Mô hình bảo hiến theo theo Hiến pháp 1959 không tồn tại dưới dạng
một cơ quan bảo hiến chuyên trách. Cơ chế bảo hiến bước đầu dựa trên nền
tảng quy định cho một số cơ quan nhà nước nhất định có thẩm quyền kiểm
tra và giám sát các loại văn bản nhất định. Về cơ sở pháp lý để hoạt động
bảo hiến, Hiến pháp 1959 quy định gián tiếp giá trị pháp lý tối cao của
Hiến pháp so với những văn bản pháp lý được ban hành mà Quốc hội thông
qua, văn bản quy phạm pháp luật không được trái Hiến pháp. Hiến pháp
1959 quy định thẩm quyền cho Quốc hội xử lý văn bản quy phạm pháp
luật, đặc biệt làm quyền ban hành những văn bản pháp luật. Theo quy định
của điều 48 Các đạo luật và các nghị quyết của Quốc hội phải được quá
nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành, trừ trường hợp quy
định ở Điều 112 của Hiến pháp
Hiến pháp 1959 định những cơ quan ban hành sửa đổi, thủ tục thông
qua các văn bản pháp luật, cũng như gián tiếp quy định Hiến pháp là văn
bản có hiệu lực pháp lý cao nhất, tạo nên trình tự pháp lý nhất định buộc
các văn bản pháp luật dưới Hiến pháp buộc phải tuân thủ, tạo điều kiện cho
mô hình bảo hiến có thể hoạt động.
Tuy mô hình bảo hiến vẫn bị lu mờ so với các chế định cơ bản của
Hiến pháp khác nhưng Hiến pháp 1959 đã ghi nhận những giá trị bảo hiến
đầu tiên, mô hình bảo hiến tuy chỉ mới hình thành nhưng đó là bước tiến
lớn về tư tưởng lập hiến ở nước ta.
2.1.3. Bảo hiến theo Hiến pháp năm 1980
Bối cảnh ra đời: Hiến pháp 1980 được xây dựng khi đất nước hoàn
toàn độc lập, là điều kiện thuận lợi đưa đất nước đi lên con đường xã hội
chủ nghĩa. Hiến pháp 1980 là bản Hiến pháp đầu tiên có giá trị pháp lý trên
toàn quốc, được nhân dân đón nhận, khẳng định độc lập chủ quyền cũng
như con đường xã hội chủ nghĩa mà dân tộc đã lựa chọn.

37
Hiến pháp 1980 đã ghi nhận và kế thừa của cơ chế bảo hiến đã được
quy định ở Hiến pháp 1959. Cơ chế bảo hiến Quốc hội được xây dựng và
phát triển dựa trên nền tảng những quy định của Hiến pháp cùng với sự lựa
chọn những ưu điểm từ Hiến pháp 1959. Hiến pháp 1980 và cơ chế bảo
hiến Quốc hội đã bước đầu đi vào thực tiễn trong hoàn cảnh đất nước đã
hoàn toàn độc lập.
Đặc điểm mô hình bảo hiến: Hiến pháp 1980 vẫn quy định tiếp tục
sử dụng mô hình bảo hiến như Hiến pháp 1959, lấy Quốc hội làm trung
tâm, sử dụng cơ chế kiểm tra, giám sát để bảo vệ giá trị của Hiến pháp. Tại
khoản 3, Điều 83, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 1980 đã quy định: Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn thực hiện
quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật. Quốc hội
được xác định là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội thực
hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Căn
cứ vào thẩm quyền được quy định, Quốc hội vẫn tiếp tục là cơ quan bảo vệ
giá trị pháp lý tối cao của Hiến pháp.
Để bảo đảm thực hiện cơ chế bảo hiến, Hiến pháp 1980 đã quy định
đầy đủ và thống nhất giá trị pháp lý của Hiến pháp 1980. Điều 146, Hiến
pháp 1980 quy định: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là luật cơ bản của nhà nước, có giá trị pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp
luật khác phải phù hợp với Hiến pháp. Quy định được ghi nhận trong Hiến
pháp thể hiện rõ ràng giá trị pháp lý của Hiến pháp, tạo nền tảng, cơ sở để
đưa Hiến pháp vào thực tiễn xã hội và khiến cơ chế bảo hiến có thể được áp
dụng trong hệ thống pháp luật. Quy định ngắn gọn nhưng chứ đựng sự đổi
mới to lớn trong toàn bộ lịch sử lập hiến của nước ta, đưa Hiến pháp trở về
đúng với giá trị.

38
Mô hình bảo hiến Quốc hội được áp dụng, tuy nhiên không tồn tại
quy định pháp lý về trình tự, thủ tục xem xét xử lý các văn bản trái Hiến
pháp, đồng thời các văn bản quy phạm pháp luật trái Hiến pháp cũng chưa
có cách thức xử lý kịp thời nhằm đảm bảo giá trị tối cao của Hiến pháp. Từ
trung ương đến địa phương, các cơ quan nhà nước đều có nhiệm vụ, thẩm
quyền, giám sát kiểm tra Hiến pháp nhưng lại không có cơ quan chuyên
trách xử lý các vi phạm liên quan đến Hiến pháp.
Kế thừa những tinh hoa từ những bản Hiến pháp trước, Hiến pháp
1980 cũng qui định cơ chế về việc tuân thủ và thực hiện Hiến pháp của các
cơ quan nhà nước, các tổ chức, công dân. Tuy nhiên, mô hình bảo hiến theo
Hiến pháp 1980 vẫn mang tính hình thức, thiếu trình tự, khó đi vào hoạt
động hiệu quả. Tinh thần lập hiến và bảo vệ Hiến pháp đã được hình thành
nhưng do nhiều điều kiện khách quan mô hình bảo hiến vẫn chưa tồn tại
đúng bản chất.
2.1.4. Bảo hiến theo Hiến pháp 1992
Bối cảnh ra đời: Hiến pháp 1992 là bản Hiến pháp có giá trị thực
tiễn to lớn khi ban hành vào giai đoạn đất nước đang bắt đầu mở cửa hội
nhập toàn cầu, kinh tế trong nước đang chuyển từ hình thức tập trung bao
cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, xã hội
Việt Nam cũng có những bước chuyển mình to lớn.
Tiếp tục kế thừa và duy trì tư tưởng các bản Hiến pháp 1946, 1959,
1980, Hiến pháp 1992 vẫn lựa chọn mô hình bảo hiến quốc hội thông qua
cơ chế giám sát, kiểm tra pháp luật của Quốc hội làm cơ chế bảo vệ Hiến
pháp. Mô hình bảo hiến theo Hiến pháp 1992 thể chế hóa cụ thể và rõ ràng
hơn việc giám sát và thực thi pháp luật, quy định rõ những thẩm quyền cụ
thể của quốc hội, các cơ quan nhà nước khác trong viêc thi hành pháp luật.
Đặc điểm của mô hình: Hiến pháp năm 1992 xây dựng cơ chế bảo
hiến thông qua kiểm tra giám sát các cơ quan quyền lực nhà nước và nhân

39
dân đối với cơ quan quyền lực nhà nước, đây là cơ chế giám sát tương đối
toàn diện. Quốc hội thực hiện chức năng giám sát tối cao đối với toàn bộ
hoạt động của Nhà nước và giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật,
nghị quyết của Quốc hội. Bên cạnh đó, các cơ quan khác cũng thực hiện
chức năng giám sát việc tuân theo Hiến pháp và giám sát các văn bản quy
phạm pháp luật khác để nó không trái với nội dung Hiến pháp.
2.2. Mô hình bảo hiến theo Hiến pháp năm 2013
Bối cảnh ra đời: Hiến pháp 2013 được Quốc hội thông qua ngày 18
tháng 11 năm 2013, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2014. Hiến pháp
2013 là bản Hiến pháp thứ năm, là Hiến pháp mở ra thời kỳ mới của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiến pháp 2013 xây dựng trong hoàn
cảnh lịch sử đặc thù, trong giai đoạn thế giới và đất nước đang từng bước
thay đổi. Hiến pháp 2013 được xây dựng trên nền tảng nhất định, vững
chắc, kế thừa thành tựu của những bản Hiến pháp đã qua cùng với kinh
nghiệm lịch sử hơn 60 năm lập hiến, xuất phát từ yêu cầu cấp thiết của việc
sửa đổi Hiến pháp 1992 theo hướng hoàn thiện và tích cực hơn.
Hiến pháp 2013 đã thể chế hóa những vấn đề mới, nhằm hoàn thiện
hệ thống pháp luật trong thực tiễn. Hiến pháp 2013 chưa ghi nhận chế định
cơ quan bảo hiến chuyên trách, việc không ghi nhận một chế định liên quan
đến bảo vệ Hiến pháp có nghĩa vẫn tuân thủ những nét cơ bản, tiếp tục áp
dụng mô hình bảo vệ bảo hiến theo Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2001: mô
hình bảo hiến dựa trên cơ chế kiểm tra, giám sát của Quốc hội.
Trong suốt khoảng 10 năm trước thời điểm sửa đổi Hiến pháp 2013,
vấn đề bảo hiến đã đặt ra. Năm 2004 là thời điểm bắt đầu xuất hiện những
yêu cầu về cơ chế bảo vệ Hiến pháp khi có sự xuất hiện của văn bản pháp
lý thể hiện đầy đủ và rõ ràng sự vi phạm Hiến pháp. Bộ Công an ra Thông
tư số 02/2003/TT-BCA ngày 13/1/2003 quy định mỗi người chỉ được đăng
ký một mô tô hoặc xe máy. Hệ quả Thông tư gây nên những xáo trộn trong

40
xã hội, nhân dân tìm cách để tăng số lượng xe gắn máy được sở hữu mà
không chú ý đến quy định của Hiến pháp về quyền được sở hữu tài sản.
Thông tư được ban hành, thực hiện trong khoảng thời gian khoảng 2 năm
nhưng chỉ vấp phải sự phản đối của những chuyên gia trong lĩnh vực Hiến
pháp. Đến khi người dân vấp phải sự khó khăn quá lớn khi thực hiện đã
đồng loạt lên tiếng về sự bất cập của thông tư. Dựa vào những quy định về
quyền sở hữu tài sản trong Hiến pháp có thể nhận thấy Thông tư 02/2003
đã vi phạm Hiến pháp. Tại điều 58, Hiến pháp 1992 quy định Công dân có
quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh
hoạt, tư liệu sản xuất… Quy định của Thông tư đã hạn chế quyền sở hữu tư
liệu sinh hoạt của người dân, tài sản có được bằng những thu nhập hợp
pháp thì không thể bị giới hạn số lượng. Người dân có thể sở hữu một, hai
thậm chí nhiều hơn số xe mô tô gắn máy tùy vào điều kiện kinh tế của
mình. Trước sức ép của dư luận cũng như sự vi hiến rõ ràng của Thông tư,
Bộ Công an đã phải ban hành Thông tư số 17/2005/TT-BCA ngày
21/11/2005 về bãi bỏ quy định vi hiến kể trên. Tuy quy định đã không còn
có giá trị pháp lý nhưng khoảng thời gian quy định tồn tại trong thực tế đã
gây nên nhiều những hệ lụy mà cả xã hội phải chấp nhận. Chính từ thời
gian này, yêu cầu về cơ chế bảo hiến hiệu quả xuất hiện. Đảng và nhà nước
sau khoảng thời gian xem xét cũng đã có đánh giá bước đầu về tình hình
thực tiễn cũng như lý luận để xây dựng cơ chế bảo hiến. Quan điểm ban
đầu của Đảng và nhà nước ủng hộ việc hình thành cơ quan bảo hiến ở Việt
Nam bằng hàng loạt những văn bản có tính pháp lý quan trọng như Nghị
quyết 48 ngày 2/5/2005 của Bộ chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật đến năm 2020 và Báo cáo chính trị của Ban chấp
hành Trung ương Đảng - Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X năm 2006
của Đảng. Dưới sự ủng hộ về tư tưởng của Đảng và nhà nước, các nhà khoa
học hàng đầu Việt Nam về lĩnh vực Hiến pháp dưới sự giúp đỡ chuyên gia
nước ngoài bắt đầu xây dựng những cơ sở đầu tiên về mô hình bảo hiến cụ

41
thể mà Việt Nam có thể áp dụng. Giai đoạn ban đầu xuất hiện những
phương án về cơ chế tài phán Hiến pháp ở nước ta bao gồm:
Phương án thứ nhất: thành lập Ủy ban bảo vệ Hiến pháp trực thuộc
Quốc hội. Ủy ban bảo vệ Hiến pháp sẽ được tổ chức tương tự như các Ủy
ban khác của Quốc hội, thực hiện nhiệm xem xét tính hợp hiến của những
văn bản dưới luật của cá cơ quan nhà nước ban hành. Ủy ban không được
xem xét những văn bản pháp lý mà Quốc hội ban hành và thẩm quyền được
trao hoàn toàn mang tính tham vấn khi báo cáo kết quả xem xét tính hợp
hiến với Quốc hội.
Phương án thứ hai: trao nhiệm vụ bảo hiến cho cơ quan Tư pháp mà
chủ thể xác định là Tòa án nhân dân tối cao. Tòa án nhân dân tối cao được
trực tiếp trao quyền thực hiện nhiệm vụ bảo hiến, xem xét những văn bản
pháp lý của cơ quan quyền lực nhà nước.
Phương án thứ ba: thành lập cơ quan bảo hiến độc lập. Cơ quan bảo
hiến độc lập với Quốc hội, có thẩm quyền, trình tự và thủ tục bảo hiến
riêng. Ở phương án này hướng đến những mô hình bảo hiến hiệu quả ở
châu Âu bao gồm: Tòa án Hiến pháp và hội đồng Hiến pháp. Hai mô hình
lớn trên thế giới và đã có hiệu quả khi đưa vào hoạt động thực tiễn.
Những phương án được đưa ra, chưa bàn đến những ưu nhược điểm
hay hạn chế, vướng mắc có thể gặp phải khi thực hiện thì đây đều là những
mô hình nếu có thể xây dựng sẽ là bước tiến lớn về hoạt động bảo vệ Hiến
pháp ở nước ta. Bên cạnh sự ủng hộ xây dựng cơ chế bảo hiến mới ở nước
ta thì cũng xuất hiện ý kiến phản đối việc hình thành cơ chế bảo hiến mới.
Những cá nhân phản đối xây dựng mô hình bảo hiến mới đưa ra những lập
luận xuất phát từ suy nghĩ chủ quan về sự cần thiết tồn tại về cơ chế bảo
hiến mới.
Thứ nhất, mô hình bảo hiến quốc hội vẫn có thể tiếp tục tồn tại và
hoạt động bình thường. Tại sao cần có sự thay đổi khi những văn bản vi

42
hiến tồn tại không quá nhiều, sự thay đổi sẽ mang lại những hệ lụy không
tốt cho đất nước. Chỉ nên có sự thay đổi để làm tăng tính hiệu quả của cơ
chế bảo hiến Quốc hội chứ không thể thay đổi hoàn toàn và tiến hành xây
dựng mới.
Thứ hai, hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật hạn chế những sai
sót có thể mắc phải. Lập luận cho rằng hoàn thiện từ khâu xây dựng văn
bản pháp luật với trình tự, thủ tục, cơ quan ban hành được quy định đầy đủ,
chặt chẽ, rõ ràng, chính xác là sẽ hạn chế được vi hiến trong thực tiễn.
Thứ ba, đây cũng là lập luận phản đối được xem là quan trọng nhất
khi khẳng định xây dựng bất kỳ cơ quan bảo hiến dưới dạng thức như thế
nào cũng vi phạm nguyên tắc tập quyền theo kiểu Liên Xô. Khi xây dựng
cơ quan bảo hiến, quyền lực của Quốc hội sẽ bị đe dọa, nguyên tắc tập
trung quyền lực sẽ không được thực hiện đúng như định hướng. Lập luận
dựa trên nhìn nhận về một Hiến pháp với chức năng chính trị là chủ yếu khi
định hướng những quy định trong Hiến pháp chỉ tồn tại để thực hiện những
mục đích nhất định của hệ thống chính trị.
Quá trình tranh luận và đóng góp ý kiến về mô hình bảo hiến diễn ra
sôi nổi hơn vào thời điểm những năm bắt đầu quy trình sửa đổi Hiến pháp.
Các nhà khoa học cũng như người dân đều hy vọng cơ quan tài phán hay
một cơ chế bảo hiến bất kỳ có thể được xuất hiện trong Hiến pháp mới. Hy
vọng đó càng lớn khi tại dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 2012: mô hình hội
đồng Hiến pháp được ghi nhận như là một chương của dự thảo Hiến pháp.
Còn nhiều câu hỏi về thẩm quyền cũng như trình tự thủ tục, tính hiệu quả
của mô hình hội đồng Hiến pháp tuy nhiên so với cơ chế bảo hiến vẫn đang
tồn tại là bước tiến đáng được ghi nhận. Tuy nhiên được chờ đợi nhưng do
những nguyên nhân khác nhau mà chủ yếu là chủ quan mô hình hội đồng
bảo hiến đã không được ghi nhận vào Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 2013. Đồng thời không có bất cứ quy định nào về bảo

43
hiến được ghi nhận trong Hiến pháp mới, nước ta vẫn duy trì và tiếp tục sử
dụng mô hình bảo hiến Quốc hội đã sử dụng trong Hiến pháp 1992 để bảo
vệ giá trị tối cao của Hiến pháp.
Đặc điểm của mô hình:
Thứ nhất, Việt Nam hiện nay không tồn tại cơ quan bảo hiến chuyên
trách, không tồn tại hội đồng Hiến pháp, không tồn tại tòa án Hiến pháp và
hệ thống tòa án tư pháp cũng không có chức năng bảo hiến. Hiến pháp
2013 đã giao cho Quốc hội là chủ thể trung tâm trong việc thực hiện chức
năng bảo hiến. Do là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Quốc hội kiểm
soát và chi phối hoạt động của toàn bộ bộ máy nhà nước kể cả hoạt động
giám sát Hiến pháp. Quốc hội giám sát, bảo vệ Hiến pháp thông qua những
quy định của Hiến pháp và pháp luật. Hệ thống pháp luật quy định cơ chế
bảo hiến Việt Nam là hai cấp, thẩm quyền bảo hiến được trao rất nhiều cơ
quan từ trung ương đến địa phương. Ở trung ương, Quốc hội, Chính phủ, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Ủy ban pháp luật thuộc Quốc
hội, bộ Tư pháp thuộc chính phủ đều được trao thẩm quyền bảo hiến.
Thứ hai, đối tượng chủ yếu của cơ chế bảo hiến hiện tại hướng đến
việc xem xét tính hợp hiến những văn bản pháp lý được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền ban hành. Quy định về thẩm quyền đều hướng tới hình thức
kiểm tra, giám sát chéo nhau giữa các cơ quan nhà nước chứ không đề cập
đến yêu cầu bảo hiến của nhân dân. Quyền yêu cầu xem xét tính hợp hiến
của công dân không được đề cập đến trong quy định về bảo hiến hiện nay,
nhân dân sẽ đòi quyền lợi ích hợp pháp của mình ở đâu khi quyền và lợi ích
hợp pháp bị xâm hại bởi các văn bản hay hành vi vi phạm Hiến pháp.
Thứ ba, trình tự thủ tục của cơ chế bảo hiến hiện tại không rõ ràng
khi không tồn tại quy định nào về cách thức tiến hành hoạt động bảo hiến
của cơ quan nhà nước, không có sự công khai, thống nhất khi tiến hành bảo
vệ Hiến pháp. Trong điều kiện phát triển và hội nhập hiện nay đòi hỏi cần

44
tồn tại những quy định về trình tự, thủ tục bảo hiến để các cơ quan, cá nhân
và tổ chức có thể thực hiện được quyền và nghĩa vụ bảo hiến.
Thứ tư, Quốc hội đóng vai trò trung tâm trong cơ chế bảo hiến hiện
nay. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao mọi hoạt động giám sát thi
hành pháp luật, các cơ quan được phân công có nhiệm vụ thực hiện thẩm
quyền theo quy định của pháp luật. Tuy quy định số lượng lớn cơ quan thực
hiện bảo vệ Hiến pháp nhưng lại không có cơ quan chuyên trách thực hiện
quyền bảo hiến, rà soát tính hợp hiến. Ngay cả Quốc hội cũng chỉ mang
tính tham vấn trong vấn đề bảo hiến chứ không đi vào thực tiễn hoạt động
bảo vệ Hiến pháp.
Lịch sử lập hiến Việt Nam tính từ bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946
đến Hiến pháp mới 2013 đã trải qua 67 năm với 5 bản Hiến pháp thành
văn, tư tưởng lập hiến đã sự thay đổi tiến bộ theo thời gian, bản Hiến pháp
sau kế thừa đầy đủ tinh hoa của các bản Hiến pháp trước. Mô hình bảo
hiến Quốc hội được xây dựng từ bản Hiến pháp 1959 đến bản Hiến pháp
mới nhất năm 2013, xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản sau đây:
Thứ nhất, dưới tác động các yếu tố pháp luật. Cho dù đã có sự thay
đổi trong nhận thức bảo vệ Hiến pháp nhưng là vẫn chưa đủ để có thể tiến
hành xây dựng cơ quan bảo hiến chuyên trách. Đa phần nhân dân vẫn chưa
tìm hiểu đầy đủ về yêu cầu phải có Hiến pháp trong xã hội hiện tại. Đồng
thời, các quy định pháp luật hiện đều quy định cơ chế kiểm tra, giám sát
làm trọng tâm trong hoạt động bảo hiến. Bộ máy nhà nước vẫn tin tưởng
vào cơ chế hiện hành, sử dụng việc thực hiện quyền giám sát tối cao của
Quốc hội vào Hiến pháp. Cho dù, cơ chế bảo hiến hiện tại đã bộc lộ nhiều
điểm hạn chế chưa tạo thành vị thế xứng đáng cũng như không hiệu quả
trong hoạt động Hiến pháp.
Thứ hai, việc không xây dựng cơ quan bảo hiến chuyên trách nhằm
hướng tới việc ổn định lợi ích chính trị, ổn định xã hội, tránh những sự thay

45
đổi trong cơ chế kiểm soát quyền lực, Quốc hội đã không thông qua mô
hình bảo hiến chuyên trách trong Hiến pháp mới năm 2013. Việt Nam hiện
nay thực hiện nguyên tắc Đảng lãnh đạo với toàn bộ hoạt động nhà nước,
mọi thay đổi trong hệ thống các cơ quan nhà nước đều phải đảm bảo sự
lãnh đạo của Đảng, quyền lực của Quốc hội hay nhân dân. Mô hình cơ
quan bảo hiến Quốc hội đảm bảo đầy đủ những yêu cầu trên, lợi ích chính
trị cũng như quyền lực của Quốc hội vẫn được đảm bảo. Xây dựng cơ quan
bảo hiến chuyên trách sẽ khiến cơ chế quyền lực thống nhất hiện nay có sự
ảnh hưởng khi tồn tại cơ quan có thể thực hiện một phần nào đó chức năng
giám sát hoạt động của Quốc hội.
Thứ ba, do sự ảnh hưởng mô hình bảo hiến của pháp luật xã hội chủ
nghĩa. Việt Nam vẫn bị ảnh hưởng nhất định bởi truyền thống pháp luật xã
hội chủ nghĩa, áp dụng một cách tương đối máy móc va rập khuôn làm hạn
chế rất nhiều con đường xây dựng cơ quan bảo hiến chuyên trách. Định
hướng không có nghĩa là buộc phải tuân thủ hệ thống pháp luật xã hội chủ
nghĩa. Khi pháp luật xã hội chủ nghĩa đã không còn phù hợp thì cần mạnh
dạn thay đổi sao cho phù hợp với xu hướng thời đại mà không làm mất đi
bản chất của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Xây dựng mô hình
bảo hiến chuyên trách là yêu cầu tất yếu của hoàn thiện hệ thống pháp luật
đất nước và hội nhập toàn cầu hiện nay.
Thứ tư, thời điểm lịch sử khi ban hành các bản Hiến pháp ảnh hưởng
đến mô hình bảo hiến được lựa chọn, các bản Hiến pháp trước năm 1992
khi xây dựng đều trong những hoàn cảnh đặc thù khi đất nước đang đấu
tranh giành độc lập, bị chiến tranh tàn phá, bước đầu xây dựng đất nước.
Khi đó, điều kiện và nền tảng để hoàn thiện cơ chế bảo hiến là chưa đủ,
Hiến pháp cũng chưa có được giá trị pháp lý cao nhất nên khó có thể đòi
hỏi cơ chế bảo hiến hiệu quả. Đến Hiến pháp 1992, Hiến pháp của thời kỳ
mở cửa lại quá tập trung vào mục tiêu phát triển kinh tế mà quên đi những
yêu cầu về hệ thống pháp luật gây lên việc vẫn sử dụng cơ chế giám sát
46
không hiệu quả để bảo vệ Hiến pháp. Hiến pháp 2013 được xây dựng vào
thời nền kinh tế vẫn đang suy thoái, các chế định mới chưa đủ sức nặng để
đưa vào Hiến pháp mới. Mỗi thời kỳ đều có những nét đặc thù ảnh hưởng
đến mô hình bảo hiến, xây dựng mô hình bảo hiến hiệu quả là quá trình đòi
hỏi nhiều nguồn lực, thời gian, đúng thời điểm và quyết tâm thay đổi thì
mới có thể xây dựng mô hình bảo hiến chuyên trách hoạt động hiệu quả.
2.3. Những ưu điểm và hạn chế của mô hình bảo hiến ở Việt Nam
Do Việt Nam không tồn tại cơ quan bảo hiến chuyên trách nên hoạt
động bảo hiến ở nước ta được thực hiện thông qua hoạt động kiểm tra,
giám sát tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm sự
thống nhất của hệ thống pháp luật theo nguyên tắc đảm bảo tính tối cao của
Hiến pháp.
Với mô hình bảo hiến hiện nay, việc đảm bảo tính hợp hiến, thống
nhất của văn bản quy phạm pháp luật chủ yếu được thực hiện trong toàn bộ
những giai đoạn xây dựng văn bản quy phạm pháp luật:
Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Kiểm tra giám sát việc áp dụng văn bản pháp luật vào thực tiễn.
Trong giai đoạn xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, tính hợp hiến
và thống nhất được bảo đảm về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành cũng
như nội dung và hình thức xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Việc
thực hiện nhiệm vụ bảo hiến đối với văn bản pháp luật giai đoạn này đuợc
giao cho nhiều đơn vị phối hợp thực hiện. Quy trình lập pháp thường được
xây dựng theo trình tự thủ tục khép kín, được các cơ quan tham gia có trách
nhiệm đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp với hệ thống pháp luật. Tuy nhiên,
dưới những điều kiện khách quan và chủ quan khác nhau, với sự tác động
của yếu tố ngoại cảnh, mỗi dự án xây dựng văn bản quy phạm thuờng trải
qua rất nhiều giai đoạn và mang những hạn chế nhất định. Những văn bản

47
pháp luật của từng lĩnh vực vẫn mang tính chồng chéo lẫn nhau, mâu thuẫn
giữa những văn bản có cùng giá trị pháp lý và kể cả những văn bản quy
phạm có giá trị pháp lý thấp hơn cũng không đảm bảo tính thống nhất với
văn bản quy phạm có giá trị pháp lý cao hơn như nghị định trái luật, thông
tư trái nghị định, những văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên không được
cơ quan nhà nuớc cấp dưới lấy làm tiêu chuẩn để ban hành văn bản quy
phạm. Những văn bản quy phạm còn ban hành thiếu tính thực tế, cụ thể, chỉ
dừng lại ở vấn đề đưa khung pháp lý đồng thời là sự hạn chế nhất định
trong việc đưa ra văn bản giải thích pháp luật, hướng dẫn thi hành tạo ra
những cách hiểu sai lầm khi áp dụng và thực tiễn.
Sau khi kiểm tra tính hợp hiến, tính thống nhất trong hệ thống pháp
luật ở giai đoạn xây dựng văn bản pháp luật thì đến giai đoạn ban hành văn
bản quy phạm vào thực tiễn cụ thể vẫn có những điểm vuớng mắc nhất
định. Quy định được xây dựng trên nền tảng lý thuyết bao giờ cũng sẽ thiếu
tính thực tiễn ở một phần nào đó. Vậy nên, khi văn bản ban hành vẫn cần
sự giám sát kiểm tra hiệu lực của văn bản nhằm có những điều chính thực
sự phù hợp với thực tế xã hội. Bên cạnh hoạt động giám sát, kiểm tra tính
hợp hiến của các văn bản quy phạm, pháp luật quy định những hoạt động
Hiến pháp khác như: giải thích Hiến pháp pháp luật, bảo đảm cho quy định
của Hiến pháp được hiểu và áp dụng đúng đắn, thống nhất. Những hoạt
động này là thực sự cần thiết nhưng hiện giờ ở nước ta chưa có cơ quan
chuyên trách Hiến pháp cụ thể để thực hiện hoạt động tương tự.
Từ sự phân tích quy trình thực hiện bảo vệ Hiến pháp thông qua mô
hình bảo hiến Quốc hội có thể nhận thấy: Hiến pháp Việt Nam chưa từng
ghi nhận một cơ quan bảo hiến chuyên trách. Việt Nam xây dựng mô hình
bảo hiến thông qua cơ chế kiểm tra, giám sát lấy cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất - Quốc hội làm trung tâm. Qua một thời gian áp dụng, mô
hình bảo hiến Quốc hội đã thể hiện rõ những ưu, nhược điểm.

48
2.3.1. Ưu điểm
Mô hình bảo hiến hiện tại là mô hình đặc thù phù hợp có những
điểm phù hợp với hệ thống pháp luật quốc gia hiện nay.
Thứ nhất, mô hình dựa trên hoạt động giám sát kiểm tra tính hợp
hiến, hợp pháp của những văn bản pháp lý được ban hành cũng như trong
hoạt động của cơ quan nhà nước. Mô hình lấy nền tảng là Hiến pháp cùng
với sự hoạt động của Quốc hội trong vấn đề kiểm sát hoạt động của bộ máy
nhà nước. Phương thức hoạt động kiểm tra giám sát ở nước ta tương đối cụ
thể. Việc giám sát bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của
các văn bản quy phạm pháp luật là sự phối hợp giữa nhiều cơ quan khác
nhau trong bộ máy nhà nước từ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các bộ, ngành. Cơ chế được phân cấp
quản lý nhà nước rõ ràng, sự phối hợp được ghi nhận mang tính đồng bộ cao.
Thứ hai, cách thức xây dựng mô hình bảo hiến hiện nay đảm bảo
cho nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối
hợp và giám sát. Quyền lực của Quốc hội, cơ quan quyền lực cao nhất đại
diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân vẫn được giữ vững. Những
văn bản quy phạm quốc hội ban hành đều được đảm bảo tính pháp lý bởi
bản thân cơ quan ban hành. Tính pháp lý của văn bản quy phạm trong hệ
thống pháp luật cũng đáp ứng yêu cầu của mô hình bảo hiến chuyên trách.
Thứ ba, mô hình bảo hiến hoạt động đã bước đầu tạo ra những nền
tảng nhất định, từng bước trong việc xây dựng mô hình bảo hiến chuyên
trách trong tương lai. Nền tảng bảo hiến đến từ hoạt động phân công, phối
hợp giữa các cơ quan nhà nước với nhau và quy trình xây dựng quy trình
ban hành văn bản quy phạm đầy đủ, chi tiết khiến cơ quan chuyên trách
nếu được thành lập sẽ hoạt động một cách hiệu quả.

49
2.3.2. Hạn chế
Qua nghiên cứu các bản Hiến pháp và quy định của pháp luật, cũng
như hoạt động bảo hiến trên thực tiễn ở Việt Nam có thể khẳng định hoạt
động bảo hiến ở nước ta hiện nay còn những hạn chế nhất định:
Thứ nhất, mô hình bảo hiến Quốc hội không đủ khả năng để ngăn
chặn những hành vi vi hiến. Mô hình bảo hiến hiện nay cũng không tồn tại
quy định rõ ràng về thẩm quyền, trách nhiệm, về thủ tục hay trình tự bảo
hiến cụ thể. Tất cả chỉ ở mức ước chừng chứ không có văn bản cụ thể xác
định. Tính chất hình thức, không sử dụng Hiến pháp trong hoạt động nảy
sinh sự sai lầm trong nhận thức của toàn thể xã hội về cơ chế bảo hiến.
Thứ hai, cơ chế bảo hiến hiện nay Việt Nam, Quốc hội giữ hai vai
trò vô cùng quan trọng trong hoạt động bộ máy nhà nước: Quốc hội là cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại diện cho nhân dân toàn
quốc giữa chức năng lập hiến, lập pháp. Quốc hội giữ vai trò quyết định
vận mệnh quốc gia, những vấn đề quan trọng của đất nước. Quốc hội là cơ
quan giữ quyền kiểm sát pháp luật và hoạt động bộ máy nhà nước thông
qua cơ chế kiểm tra giám sát tối cao hoạt động nhà nước. Vừa giữ vai trò
xây dựng pháp luật vừa giữ vai trò kiểm soát pháp luật khiến cho hoạt động
bảo vệ Hiến pháp của Quốc hội gặp nhiều vấn đề khó khăn. Thực hiện xây
dựng văn bản pháp theo định hướng đã thông qua, ban hành có hiệu lực
trên thực tế rồi mới phát hiện ra những vấn đề vi hiến thì việc tuyên bố huỷ
bỏ một phần hay toàn bộ văn bản pháp luật sẽ không hề dễ dàng. Trên thực
tế, chưa có một văn bản quy phạm nào bị tuyên huỷ bộ một phần hay toàn
bộ văn bản trái Hiến pháp và luật.
Thứ ba, hoạt động xây dựng pháp luật do Quốc hội tự tiến hành trên
cơ chế quy định trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật tuy nhiên
Quốc hội mang bản chất là cơ quan nhà nước, là chủ thể xây dựng từ những
yếu tố con người nên không thể tránh khỏi những sai sót nhất là sai sót

50
trong việc thực hiện chức năng lập pháp. Những sai sót trong hoạt động lập
pháp sẽ gây ảnh hưởng lớn đến hoạt động Hành pháp và Tư pháp. Bộ máy
nhà nước thiếu hẳn cơ chế giám sát Quốc hội, ít ra là cơ chế giám sát hoạt
động xây dựng pháp luật của Quốc hội, cần có cơ quan chuyên trách độc
lập khác để thực hiện nhiệm vụ giám sát hoạt động xây dựng ban hành
hành và thực hiện pháp luật. Hiến pháp giao cho Quốc hội quyền ban hành
và sửa đổi Hiến pháp, các đạo luật, giám sát việc thực hiện Hiến pháp và
pháp luật. Hiến pháp và pháp luật không quy định trách nhiệm phát sinh từ
các văn bản vi hiến do Quốc hội ban hành. Quốc hội là cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất, cơ quan lập hiến, cơ quan lập pháp, cơ quan giám sát tối
cao, quyền lực của Quốc hội bao trùm lên toàn bộ hệ thống chính trị, không
có sự phân chia rạch ròi với hệ thống pháp luật cũng như Hiến pháp. Sự
chồng chéo, đan xen và mâu thuẫn về quyền hạn luôn diễn ra khi đặt vị trí
của Quốc hội rất cao trong hệ thống chính trị. Quốc hội giữ rất nhiều những
quyền năng quan trọng nhưng lại không thể thực hiện tốt và đầy đủ những
quyền năng đó. Bên cạnh đó, hoạt động của Quốc hội là những hoạt động
của đại biểu kiêm nhiệm, hoạt động theo nhiệm kỳ, giữ chức vụ nhất định
trong hệ thống bộ máy nhà nuớc, đa phần làm việc ở địa phương, bị tác
động bởi các ngành quyền lực hành pháp và lập pháp.
Đồng thời, hoạt động giải thích pháp luật của Quốc hội, nhiệm vụ
của Uỷ ban Thuờng vụ Quốc hội chưa được chú trọng thực hiện. Đặc biệt
là vấn đề giải thích quy định Hiến pháp. Hiến pháp chưa mang lại sự thống
nhất trong toàn bộ hệ thống pháp luật. Hiến pháp khi xây dựng còn nhiều
vấn đề chưa được chú trọng và làm sáng tỏ. Nhiệm vụ giải thích Hiến pháp
cần được giao cho cơ quan chuyên trách liên quan đến Hiến pháp thực hiện
là đảm bảo tính hiệu quả.
Thứ tư, hệ thống kiểm tra, giám sát hiện nay tồn tại nhiều chủ thể;
nhiều tầng giám sát làm hạn chế và làm lu mờ vai trò giám sát tối cao của
Quốc hội đồng thời giảm đi tính pháp lý, tính hiệu lực của các họat động
51
bảo hiến. Việc giám sát quá nhiều chủ thể dẫn đến tình trạng không hiệu
quả, hơn nữa quốc hội vừa là cơ quan lập pháp, vừa là cơ quan thực hiện
quyền giám sát tối cao việc tuân thủ Hiến pháp. Theo đó, Quốc hội vừa làm
luật, vừa giám sát, quyết định về việc một đạo luật do chính Quốc hội ban
hành là trái Hiến pháp, Quốc hội còn có trách nhiệm giải quyết việc tuân
thủ Hiến pháp trong họat động xét xử của Tòa án (quyền tư pháp). Quốc
hội làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số, cách thức như
vậy không đảm bảo đươc hiệu quả của cơ chế bảo hiến và thực tiễn cho
thấy cơ chế này chưa hiệu quả. Trên thực tế, đã có các trường hợp văn bản
Luật trái Hiến pháp và các văn bản luật cũng trái nhau nhưng không có cơ
quan nào đứng ra “phán quyết” hay hủy bỏ văn bản pháp luật không hợp
hiến, hợp pháp.
Thứ năm cũng là hạn chế lớn nhất và cũng là vấn đề mà hiện giờ
chúng ta buộc phải thừa nhận trong hệ thống pháp luật hiện nay. Hiến pháp
Việt Nam xây dựng là bản Hiến pháp thành văn có giá trị pháp lý cao nhất
nhưng không được coi trọng đúng giá trị. Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân
khi thực hiện hoạt động, nhiệm vụ đều mặc nhiên thừa nhận những văn bản
quy phạm dưới Hiến pháp có giá trị mà không đem quy chiếu với Hiến
pháp. Văn bản luật có thể vẫn thể chế hoá quy định của Hiến pháp nhưng
đến văn bản dưới luật đặc biệt là những văn bản mang tính địa phương thì
liệu còn thể hiện đầy đủ quy định của Hiến pháp. Hệ thống pháp luật chưa
ổn định, thống nhất, các cơ quan, tổ chức, cá nhân chưa coi trọng Hiến
pháp, cơ chế phân chia quyền lực ở địa phương rõ ràng còn mang nhiều
tính cục bộ. Vậy nên, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền cần có mô
hình bảo hiến cụ thể. Hiến pháp cần ấn định chủ thể tiến hành phán xét
hành vi vi hiến. Hiến pháp văn bản giới hạn quyền lực của quyền lực nhà
nước, bảo vệ công dân thông qua hoạt động tổ chức phân chia quyền lực,
hoạt động của bộ máy nhà nước. Khi cơ quan nhà nước không thực hiện
theo những quyền hiến định, quyền và nghĩa vụ của công dân bị vi phạm,

52
hành vi vi hiến xảy ra thì cần có cơ chế bảo vệ hữu hiệu quyền của nhân
dân. Về nguyên tắc, khi đã có Hiến pháp thì phải có chủ thể bảo vệ Hiến
pháp phải xuất hiện. Cơ chế bảo hiến hình thành để bảo vệ bản thân con
người tạo nên nền dân chủ vì vậy nên mô hình bảo hiến nhất thiết phải
được xây dựng. Tại thời điểm hiện tại, hội nhập quốc tế, xây dựng nhà
nước của dân, do dân và vì nhân dân xuất hiện nhu cầu xây dựng mô hình
bảo hiến phù hợp với những điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội và truyền
thống pháp luật của Việt Nam.
Những ví dụ điển hình: Thành phố Đà Nẵng trước sức ép của sự
phát triển đô thị về hạ tầng cơ sở, y tế, giáo dục, Hội đồng nhân dân thành
phố Đà Nẵng đã ban hành Nghị quyết 23 về những giải pháp phát triển
kinh tế - xã hội ngày 24/12/2011 để hạn chế nhập cư của một số đối tượng,
cụ thể là "tạm dừng giải quyết đăng ký thường trú mới vào khu vực nội
thành đối với các trường hợp chỗ ở là nhà thuê, mượn, ở nhờ mà không có
nghề nghiệp hoặc có nhiều tiền án, tiền sự". Mặc dù Nghị quyết hướng tới
xây dựng "một thành phố hấp dẫn và đáng sống", nhưng Nghị quyết 23 bị
coi là trái Hiến pháp. Cụ thể, Hiến pháp đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất
của Quốc gia, quy định "công dân có quyền tự do cư trú ở trong nước.
Công dân có quyền cư trú ở bất cứ nơi nào trong nước mà vẫn hưởng đầy
đủ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nhưng tại thành phố Đà Nẵng
khi không thể có hộ khẩu, những công dân "tạm trú" bị đối xử bất bình
đẳng với các công dân "thường trú". Việc phân loại và đối xử không bình
đẳng giữa hai hạng công dân "tạm trú" và "thường trú" tiếp tục vi phạm
quyền bình đẳng trước trước pháp luật của mọi công dân. Như vậy, việc
hạn chế đăng ký hộ khẩu thường trú theo Nghị định 23 có dấu hiệu vi phạm
quyền hiến định về tự do cư trú và quyền bình đẳng trước pháp luật của
công dân.
Bộ Y tế từng ban hành dự thảo trong đó cấm người không đủ chiều
cao và vòng ngực để điều khiển xe. Ngày 24/10, Cục Kiểm tra văn bản quy
53
phạm pháp luật (Bộ Tư pháp) đã có văn bản gửi Bộ Y tế về việc kiểm tra
quyết định số 33/QĐ – BYT của Bộ Y tế về việc ban hành tiêu chuẩn sức
khỏe của người điều khiển phương tiện giao thông cơ giới và quyết định
34/2008/QĐ – BYT về việc ban hành tiêu chuẩn sức khỏe người khuyết tật
điều khiển mô tô, xe ba bánh. Bộ Giao thông vận tải ban hành quy định
buộc các xã viên HTX vận tải phải chuyển quyền sở hữu phương tiện vào
HTX mới được quyền kinh doanh. Quy định của bộ Giao thông vận tải hạn
chế hai quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp thừa nhận là quyền tự
do kinh doanh và quyền tự do sở hữu tài sản của công dân, vi phạm hiến
pháp. Những văn bản này đã vi phạm cơ bản đến những quy định của Hiến
pháp, nó xâm phạm đến quyền công dân, quyền tự do kinh doanh, quyền
sở hữu tài sản.
Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội trước những đòi hỏi về ổn định
hệ thống giao thông công cộng đã đề xuất tăng gấp đôi mức xử phạt đối với
một số hành vi vi phạm giao thông trong nội thành thành phố. Lý giải cho
yêu cầu tăng mức xử phạt, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội cho rằng
mức phạt trước không đủ tính răn đe, quy định mức phạt mới sẽ tác động
đến ý thức của nhân dân trong việc tham gia giao thông. Vấn đề đáng bàn
là mức xử phạt chỉ tăng lên 200% ở thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí
Minh có đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Công dân có
quyền và nghĩa vụ bình đẳng khi tham gia giao thông, việc áp đặt mức phạt
khác nhau ở từng khu vực trên đất nước đã vi phạm quyền được đối xử
công bằng của công dân. Không thể tồn tại bất cứ quy định pháp lý làm
thay đổi quyền và lợi ích chính đáng của con người đã được ghi nhận trong
Hiến pháp.
Mô hình bảo hiến như hiện tại thực tế đã không còn đủ hiệu quả,
hoạt động bộc lộ hạn chế mà khó có thể khắc phục. Vì vậy, cần có cái nhìn
đúng đắn về sự thay đổi mô hình bảo hiến ở Việt Nam, những hạn chế và
ưu điểm đã làm rõ hơn tại sao chúng ta cần mô hình bảo hiến chuyên trách.
54
Nhìn nhận khách quan, việc xây dựng mô hình bảo hiến chuyên trách sẽ
gặp rất nhiều vấn đề khó khăn. Tuy nhiên, đa phần đều bắt nguồn từ
nguyên nhân chủ quan, ngại thay đổi, tránh những ảnh hưởng đến bộ máy
nhà nước và hệ thống pháp luật. Đã đến thời điểm cần có sự thay đổi.

55
KẾT LUẬN CHƯƠNG II
Hiến pháp là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất, là đạo luật cơ bản -
tối cao của quốc gia, việc bảo vệ giá trị pháp lý của Hiến pháp là nhiệm vụ
vô cùng quan trọng đã được Đảng và nhà nước đã ghi nhận. Việc bảo vệ
giá trị Hiến pháp coi thể thông qua nhiều cách thức khác nhau nhưng quan
trọng vẫn cần có cơ chế bảo hiến cụ thể. Mô hình bảo hiến dưới sự kiểm tra
giám sát của Quốc hội đã được hình thành và hoạt động trong một thời gian
rất dài. Tuy nhiên, việc bảo vệ giá trị của Hiến pháp đối với mô hình bảo
hiến Quốc hội vẫn còn nhiều hạn chế nhất định.
Tìm hiểu về thực trạng Việt Nam hiện hành nhận thấy cần thiết cơ
quan bảo hiến chuyên trách mang lại hiệu quả khi giải quyết những hành
vi, những văn bản vi hiến. Mô hình bảo hiến hiện tại chưa đáp ứng yêu cầu
xây dựng nhà nước của nhân, do nhân dân, và vì nhân dân. Từ những hạn
chế đã nêu ở trên cũng như những yêu cầu thực tế tại thời điểm hiện tại,
Việt Nam cần thiết phải tồn tại mô hình bảo hiến độc lập, có cơ quan
chuyên trách, được giao quyền hạn nhất định nhằm có thể xử lý hành vi vi
hiến, bảo vệ giá trị tối cao của Hiến pháp.

56
Chương III:
ĐỀ XUẤT MÔ HÌNH BẢO HIẾN Ở VIỆT NAM
3.1. Yêu cầu xây dựng cơ quan bảo hiến chuyên trách ở Việt Nam
Yêu cầu thứ nhất nhằm khắc phục những hạn chế của cơ chế bảo
hiến hiện nay. Có thể khẳng định, hoạt động bảo vệ Hiến pháp hiện nay ở
nước ta còn tồn tại những hạn chế nhất định, những hạn chế trên xuất phát
từ nhiều nguyên nhân, dẫn đến sự hoạt động không hiệu quả của mô hình
bảo hiến Quốc hội thông qua cơ chế kiểm tra, giám sát mà Việt Nam vẫn
đang áp dụng. Cơ chế bảo hiến Quốc hội thể hiện rõ sự không thống nhất,
rõ ràng, không được áp dụng hiệu quả trong hoạt động bảo vệ Hiến pháp.
Tuy văn bản quy phạm pháp luật đã quy định (từ những quy định
mang tính hiến định đến những quy định mang tính pháp định) về giá trị
pháp lý tối cao của Hiến pháp trong hệ thống pháp luật của nước ta. Nhưng
những quy định về bảo hiến trên không được áp dụng vào thực tiễn. Vì một
lý do nào đó các cơ quan xây dựng văn bản đã bỏ qua những quy định của
Hiến pháp, ban hành hàng loạt những văn bản vi hiến. Tồn tại cơ quan bảo
hiến chuyên trách sẽ giúp việc xử lý trách nhiệm pháp lý phát sinh, ngăn
chặn những văn bản vi hiến. Xuất phát từ vấn đề trên nhận thấy cần thiết
phải có mô hình bảo hiến chuyên trách. Nhiệm vụ của cơ quan bảo hiến
nhằm bảo vệ giá trị của Hiến pháp, kiểm tra, hạn chế và xử lý những văn
bản vi hiến và những hành vi đi ngược lại Hiến pháp đồng thời tạo dựng hệ
thống pháp luật thống nhất và hoàn thiện.
Yêu cầu thứ hai nhằm đảm bảo việc xây dựng nhà nước pháp
quyền trong thời kỳ mới. Đảng và nhà nước đã thống nhất định hướng, chủ
trương “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, một nhà nước của nhân dân, do nhân và vì nhân dân.” Nhà nước
Việt Nam xây dựng trên cơ sở tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn
dân, lấy liên minh giữa công nhân và nông dân cùng tầng lớp trí thức là nền

57
tảng. Xây dựng nhà nước pháp quyền là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Tư tưởng xây
dựng nhà nước pháp quyền được Hiến định khi quy định đầy đủ trong Hiến
pháp: “nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân, do nhân dân và vì nhân dân.”
Đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là tính
tối cao của Hiến pháp, pháp luật, trước hết là vị trí tối thượng của Hiến
pháp trong đời sống chính trị xã hội, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân. Điều tất yếu yêu cầu là cần xây dựng cơ chế bảo hiến
hiệu quả, hiệu lực đảm bảo xây dựng nhà nước tôn trọng pháp luật và thực
sự dân chủ. Để Hiến pháp được tôn trọng và bảo đảm trên thực tế, cần phải
có cơ chế hữu hiệu bảo vệ và khôi phục trật tự hiến định. Hiến pháp, tính
tối thượng của pháp luật không thể bị xâm phạm vì bất kỳ lí do gì. Do đó,
chúng ta cần phải có cơ chế bảo vệ Hiến pháp. Chúng ta xây dựng Nhà
nước pháp quyền cho nên cơ chế bảo vệ Hiến pháp trở thành một đòi hỏi
tất yếu. Nếu không có cơ chế bảo vệ Hiến pháp hoặc có nhưng cơ chế bảo
hiến không hiệu quả sẽ dẫn đến tính hiệu lực của Hiến pháp bị xâm hại.
Đặc trưng của Nhà nước pháp quyền không được đảm bảo và chúng ta sẽ
không có được Nhà nước pháp quyền. Nhà nước bảo đảm quyền và lợi ích
hợp pháp của nhân dân, thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình thông
qua những quy định của Hiến pháp - pháp luật. Hiến pháp phải trở thành
bản văn kiện pháp lý có giá trị cao nhất để nhà nước và công dân tuân thủ
thực hiện. Thực tế đã chứng minh không thể có sự tồn tại thụ động việc
tuân thủ Hiến pháp của mọi đối tượng do luôn xảy ra sự vi phạm trong
những giới hạn nhất định. Cơ quan chuyên trách bảo vệ Hiến pháp trong
nhà nước pháp quyền là yêu cầu tối cần thiết và quan trọng.
Yêu cầu thứ ba nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân. Xây dựng mô hình bảo hiến là bảo vệ giá trị pháp lý tối cao của Hiến
pháp, Hiến pháp đã quy định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân thành
58
một chế định quan trọng, trung tâm của đạo luật cơ bản đất nước. Cơ chế
bảo vệ Hiến pháp sẽ bảo vệ nhân quyền ở mức cao nhất, các quyền công
dân quy định ở Hiến pháp sẽ được bảo đảm tuyệt đối. Tồn tại cơ quan
chuyên trách bảo vệ Hiến pháp cũng có nghĩa tồn tại thêm cơ chế hiệu quả
bảo vệ quyền con người. Quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân được quy định ở Hiến pháp nhưng trên thực tiễn để áp dụng vẫn
gặp hạn chế nhất định. Bởi cơ sở pháp lý bảo vệ quyền con người sẽ cần
nhiều thời gian để hoàn thiện, bên cạnh đó cơ chế thủ tục hành chính vẫn
còn nhiều những bất cập [12]. Nhân dân cần cơ quan chuyên trách, có trình
tự thủ tục để có thể khởi đầu yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích cơ bản của
mình. Hình thành mô hình bảo hiến chuyên trách sẽ giải quyết được một
phần quan trọng trong yêu cầu bảo vệ quyền con người, quyền lợi ích hợp
pháp của công dân.
Yêu cầu thứ tư nhằm đáp ứng quá trình hội nhập quốc tế. Hoàn
thiện mô hình bảo hiến cũng là nhiệm vụ từng bước trong quá trình hội
nhập quốc tế. Hiện nay, Việt Nam đang từng bước hội nhập quốc tế, việc
xây dựng mô hình bảo vệ Hiện pháp nhằm mục đích tạo nền tảng để bảo vệ
hệ thống pháp luật Việt Nam. Sự thống nhất về hệ thống pháp luật là yêu
cầu cơ bản tạo nền tảng cho đất nước hội nhập toàn cầu. Không thể bắt đầu
hợp tác quốc tế khi nền tảng pháp luật quốc gia không đủ vững vàng, chưa
thể bảo vệ được các cá nhân tổ chức khi tham gia quan hệ quốc tế. Hoàn
thiện pháp luật quốc gia cần bắt đầu từ hoàn thiện mô hình bảo vệ Hiến
pháp. Cần tồn tại cơ quan bảo hiến chuyên trách để bảo vệ các giá trị nền
tảng [13]. Hiến pháp Việt Nam ghi nhận những giá trị nền tảng trong toàn
bộ hệ thống xã hội như quyền cơ bản công dân, công bằng xã hội, những
giá trị được ghi nhận đầy đủ trong Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Hình thành cơ quan bảo hiến chuyên trách và độc lập
nhằm đảm bảo cho sự tôn trọng các giá trị nền tảng của Hiến pháp. Các giá

59
trị nền tảng quốc gia luôn cần được bảo vệ tuyệt đối trước sự tác động của
vô vàn những yếu tố khác nhau.
3.2. Cơ sở xây dựng cơ quan bảo hiến chuyên trách ở Việt Nam
Hiến pháp là văn bản chính trị, xã hội, pháp lý thể hiện chủ quyền và
sự đồng thuận của nhân dân trong việc xác định độc lập và chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ, chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và ghi nhận những
quyền, nghĩa vụ căn bản của công dân. Hiến pháp là văn bản có giá trị pháp
lý tối cao, không thể có bất kỳ một sự xâm phạm. Nhu cầu bảo vệ Hiến
pháp là khách quan, xuất phát từ vị trí quan trọng của Hiến pháp trong thực
tiễn. Việt Nam có yêu cầu cấp thiết để xây dựng mô hình bảo hiến chuyên
trách hoạt dộng hiệu quả hơn. Tuy nhiên, việc xây dựng cơ quan bảo hiến
chuyên trách cần dựa trên nền tảng thực tiễn nhất định.
3.2.1. Tồn tại một bản Hiến pháp quy định tính pháp lý tối cao
Việt Nam đã xây dựng Hiến pháp thành văn và cũng đã tuyên bố về
tính tối cao trong hệ thống pháp luật. Hiến pháp 2013 đã ghi nhận tại điều
119, chương XI về “Hiến pháp là đạo luật cơ bản của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất, mọi văn bản pháp
luật khác đều phải phù hợp với Hiến pháp. Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp
đều bị xử lý”. Những quy định trên đã thể hiện rõ giá trị tối cao của Hiến
pháp so với toàn bộ hệ thống pháp luật, đồng thời tạo nền tảng pháp lý để
xây dựng cơ quan bảo hiến chuyên trách nhằm bảo vệ Hiến pháp.
Hiến pháp đã bước đầu đi sâu vào hoạt động thực tiễn của các cơ
quan nhà nước, công dân và các tổ chức. Mọi hoạt động từ đơn giản hay
phức tạp đều đã bắt đầu dự theo quy định của Hiến pháp. Các văn bản quy
phạm do các cơ quan trung ương hay địa phương ban hành đều đã tham vấn
rõ ràng quy định trong Hiến pháp, và đều trích dẫn những quy định của
Hiến pháp khi thấy cần thiết. Việc xây dựng văn bản pháp luật điều chỉnh
các vấn đề của đất nước đều được cơ quan nhà nước có thẩm quyền dựa

60
trên nội dung của Hiến pháp mà thực hiện. Nhân dân đã từng bước tham
gia sửa đổi Hiến pháp, đóng góp ý kiến nhằm tạo ra bản Hiến pháp mới
thực sự của nhân dân. Đồng thời đã tìm hiểu và vận dụng những quy định
của Hiến pháp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hiến pháp đã
từng bước mang tính nền tảng cho mọi hoạt động và đã áp dụng khả thi vào
thực tiễn cuộc sống. Hiến pháp đã giảm tính hình thức đi rất nhiều, quyền
lực của Hiến pháp là điều đã được ghi nhận. Qua các thời kỳ, Hiến pháp
ngày càng thể hiện được quyền năng của mình trong sự giới hạn quyền lực,
sự giới hạn thể hiện trong các quy định của Hiến pháp tạo nền tảng cho vệc
thực hiện xây dựng cơ quan bảo hiến chuyên trách bảo vệ lợi ích của nhân
dân, tránh những sự lạm quyền xuất hiện ở cơ quan nhà nước. Tính tối cao
của Hiến pháp chính là điều kiện cơ bản quan trọng nhất để có thể xây dựng
cơ quan bảo hiến chuyên trách ở nước ta hiện nay.
3.2.2. Từng bước hoàn thiện và xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Vấn đề bảo vệ Hiến pháp từ lâu đã được Đảng và Nhà nước ta hết
sức chú trọng, nhưng kể từ khi định hướng xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được đặt ra, chủ đề trên mới
thực sự trở nên "nóng bỏng" và thu hút được sự chú ý của toàn xã hội. Bởi
trong nhà nước pháp quyền, Hiến pháp được đặt ở vị trí cao nhất, được xem
như biểu tượng của nhà nước pháp quyền. Lý luận về nhà nước pháp quyền
khẳng định nhà nước pháp quyền sinh ra để bảo vệ các quyền tự do của
công dân được quy định trong nội dung Hiến pháp.
Tư tưởng chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam đã nhận định rõ sự
đổi mới trong việc xây dựng mô hình bảo hiến nhằm hoàn thiện các mục
tiêu khác để xây dựng nhà nước pháp quyền trong thời kỳ mới. Chủ trương
xây dựng nhà nước pháp đồng thời với việc xây dựng mô hình bảo hiến
hoàn chỉnh. Sự đổi mới trong tư duy chính trị là điều kiện tiên quyết trong

61
việc thành lập cơ quan chuyên trách bảo hiến, thiết chế bảo hiến sẽ trở
thành công cụ hữu hiệu để kiểm soát quyền lực nhà nước đảm bảo tính dân
chủ. Đảng Cộng sản Việt Nam đã định hướng thống nhất hoàn thiện chủ
trương về xây dựng hệ thống pháp luật trong nhà nước pháp quyền:
- Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân.
- Xây dựng cơ chế phán quyết về hành vi vi phạm Hiến pháp trong
lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp.
- Xây dựng chủ trương kiểm soát việc phân công - phối hợp thực hiện
các quyền lập pháp, tư pháp, hành pháp.
- Xây dựng nền dân chủ, tiếp tục hoàn thiện và làm rõ bản chất xã hội
chủ nghĩa tại Việt Nam.
Nhà nước pháp quyền mang bản chất nhà nước bị hạn chế quyền lực trong
hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp. Bản chất quan trọng nhất của nhà nước
pháp quyền thể hiện “tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật”. Pháp luật được
coi là cơ sở cho việc thực hiện quyền lực nhà nước, mọi vấn đề quan trọng của
quốc gia khi quyết định đều phải phụ thuộc vào pháp luật. Tính tối cao của
Hiến pháp và pháp luật đảm bảo mọi hoạt động trong đời sống xã hội đều phải
tuân thủ trong một phạm vi nhất định. Khi xây dựng nhà nước pháp quyền
đồng nghĩa với việc có nền tảng tất yếu cho việc bảo vệ giá trị Hiến pháp. Nhà
nước pháp quyền và mô hình bảo vệ Hiến pháp hiệu quả là điều kiện không thể
tách rời. Cơ quan bảo hiến chuyên trách là điều kiện cần để có thể hoàn thiện
quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Vậy nên, thống nhất định
hướng xây dựng nhà nước pháp quyền đồng nghĩa với việc tạo ra nền tảng tư
tưởng nhằm hoàn thiện mô hình bảo hiến chuyên trách ở nước ta.

62
3.2.3. Cơ chế phân quyền có sự phân công, phối hợp và kiểm soát
quyền lực nhà nước
Hiến pháp 2013 đã ghi nhận tại khoản 3, điều 3, chương I: Quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Điểm khó khăn nhất trong việc xây dựng mô hình bảo hiến cơ quan
chuyên trách ở nước ta chính là việc dung hòa sao cho phù hợp giữa bảo vệ
quyền lực nhà nước là thống nhất mà không làm mất đi bản chất của mô
hình bảo hiến. Thông thường nguyên tắc thống nhất quyền lực sẽ mang lại
những rào cản trong việc xây dựng cơ quan bảo hiến chuyên trách. Điều
này xuất phát từ mâu thuẫn giữa một bên là tính tối cao của Quốc hội
“Quốc hội cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất” và nguyên tắc thống
nhất quyền lực nhà nước với một bên là việc xem xét những giá trị pháp lý
của Quốc hội ban hành. Bộ máy nhà nước Việt Nam là bộ máy nhà nước tổ
chức và hoạt động theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đây là nguyên tắc hiến định nhằm
bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân. Quốc hội là
cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Có thể hiểu là cho dù
Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất cũng sẽ phải chịu sự
kiểm soát của cơ quan chuyên trách khác.Vấn đề sẽ rất phức tạp khi vừa sử
dụng nguyên tắc thống nhất quyền lực nhà nước vừa bảo vệ tính tối cao của
Hiến pháp.
Tuy nhiên, sự mâu thuẫn sẽ được giải quyết phần nào thông qua cách
hiểu mới về sự thống nhất quyền lực ở Việt Nam. Quyền lực tập trung vào
Quốc hội dựa trên cơ chế trao quyền của Hiến pháp có phân công giữa các
cơ quan quyền lực chứ không phải định hướng quyền lực tuyệt đối theo mô
hình “Xô Viết tối cao”. Yêu cầu cần thiết phải giữ cân bằng và ổn định
trong sự phân công thực hiện quyền lực nhà nước theo trật tự hiến định,
63
hạn chế mọi hành vi lạm quyền và vượt quyền từ bất cứ cơ quan nào. Khi
xảy ra sự lạm quyền, vượt quyền của các cơ quan nhà nước vi phạm thẩm
quyền hiến định thì phải có cơ chế để phán quyết những hành vi vi hiến. Sự
phân công, phối hợp sẽ giúp các ngành quyền lực có sự độc lâp nhất định
và tạo nền tảng cho việc tạo dựng cơ chế bảo hiến chuyên trách đặc thù
hơn, hiệu quả hơn.
3.2.4. Quyền con người, quyền công dân được từng bước ghi nhận
Hiến pháp 2013 đã ghi nhận chương II “Quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Những quy định trong Hiến pháp đã thể
hiện rõ tầm quan trọng của vấn đề quyền công dân trong thực tiễn xây dựng
đất nước và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Quyền công dân đang được đảm
bảo bằng những quy định của đạo luật tối cao, những quy định trong Hiến
pháp tạo ra một vòng giới hạn nhất định để bảo vệ nhân dân trước quyền
lực nhà nước. Trong phạm vi này, quyền của công dân là quyền lực tuyệt
đối, được bảo vệ khỏi mọi sự tác động từ cơ quan nhà nước. Những quyền
cơ bản của công dân được bảo vệ, đặc biệt là những quyền liên quan đến
quyền tự do của công dân.
Sự thay đổi cũng đến từ cách nhìn nhận về vấn đề quyền công dân.
Quyền công dân hiện nay không còn được coi là những quyền được ghi
nhận trong văn bản pháp lý mà được biết đến như những quyền tự nhiên mà
con người mặc nhiên được nhận khi sinh ra mà không cần bất kỳ sự ghi
nhận hay ban phát nào từ cơ quan quyền lực nhà nước. Nhà nước có trách
nhiệm dùng những quyền hạn của mình nhằm ngăn chặn sự vi phạm đến
quyền cơ bản con người. Việc quy định trong Hiến pháp nhằm tạo nên một
hệ thống pháp lý, một cơ chế cụ thể để bảo vệ quyền con người. Hiến pháp
có trách nhiệm ngăn chặn những hành vi vi phạm quyền con người thông
qua sự lạm quyền của các chủ thể thuộc quyền lực nhà nước. Quyền con
người được ghi nhận và bảo đảm sẽ hạn chế được sự phục thuộc của nhân

64
dân vào cơ quan nhà nước, biến nhân dân thành chủ thể có tiếng nói trong
hoạt động với cơ quan nhà nước tránh tình trạng tham nhũng, cửa quyền,
sách nhiễu.
Quyền con người được coi trọng đồng nghĩa với yêu cầu bảo đảm
tính pháp lý của Hiến pháp. Hiến pháp quy định quyền cơ bản của công dân
làm nền tảng cho sự hình thành và hoạt động của cơ quan bảo hiến chuyên
trách. Việc thành lập một cơ quan chuyên trách bảo vệ tính tối cao của
Hiến pháp và quyền hiến định của công dân trước khả năng xâm phạm của
cơ quan công quyền là xu thế tất yếu.
3.2.5. Sự thống nhất về tư tưởng hoàn thiện cơ chế bảo hiến
Hiện nay, chưa tồn tại bất kỳ một văn bản pháp lý chính thức nào ghi
nhận quan điểm của Đảng và nhà nước về việc xây dựng cơ quan bảo hiến
chuyên trách ở Việt Nam. Tuy nhiên, thông qua những quan điểm được ghi
nhận trong suốt thời gian dài, có thể nhận thấy, định hướng của Đảng và
nhà nước thống nhất với việc từng bước hoàn thiện cơ chế bảo hiến hiện
nay, tiếp tục nghiên cứu và xây dựng cơ quan bảo hiến chuyên trách nếu
điều kiện cho phép.
Nghị quyết 48 ngày 2/5/2005 của Bộ chính trị về chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2020: Xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh
bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng
và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp
phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập
quốc tế, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con
người, quyền tự do, dân chủ của công dân, góp phần đưa nước ta trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020[1]. Báo cáo chính trị

65
của Ban chấp hành Trung ương Đảng - Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X của Đảng tiếp tục ghi nhận: “tiếp tục xây dựng và hoàn thiện mô hình
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” xác định “ xây dựng và hoàn
thiện cơ chế kiểm tra, giám sát và tính hợp hiến và hợp pháp trong hoạt
động và quyết định của cơ quan công quyền”, xây dựng cơ chế phán quyết
về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư
pháp”[2]. Kết luận tại Hội nghị Trung ương 5 khóa XI ngày 25 tháng 5
năm 2012 đã chỉ rõ: “Nghiên cứu các mô hình cơ quan bảo vệ Hiến pháp
phù hợp với thể chế chính trị và điều kiện của Việt Nam”. Quan điểm xây
dựng và hoàn thiện mô hình bảo hiến đã được đề cập, từng bước hoàn thiện
và tạo cơ sở cho mô hình cơ quan bảo hiến chuyên trách ở Việt Nam.
3.3. Đánh giá sự phù hợp của các mô hình bảo hiến ở Việt Nam
Việc lựa chọn mô hình bảo hiến chuyên trách phù hợp tại Việt Nam
là câu hỏi rất khó có thể trả lời, những mô hình bảo hiến hoàn thiện trên thế
giới hiện nay đều tồn tại điểm không phù hợp với nền tảng chính trị và xã
hội Việt Nam. Xã hội Việt Nam luôn đề cao tính ổn định, mọi ảnh hưởng
dù nhỏ nhất đều gây lên những hậu quả xấu.
Điều cần thiết hiện tại là phải lựa chọn mô hình bảo hiến chuyên
trách phù hợp chứ không tiếp tục sử dụng mô hình bảo hiến kiêm nhiệm.
Mô hình bảo hiến Quốc hội mà cần thiết phải thay thế bởi cơ quan bảo hiến
chuyên trách có tính độc lập nhất định so với hệ thống quyền lực chính trị.
Mô hình bảo hiến chuyên trách cần phải hoạt động như thiết chế tài phán
(có khả năng đưa ra các phán quyết), có trình tự thủ tục nhất định, có quyền
đưa ra những phán quyết hợp pháp, có hiệu lực pháp lý. Việc xây dựng cơ
quan bảo hiến chuyên trách cần dựa trên yêu cầu cần thiết của xã hội cũng
như những nền tảng nhất định phù hợp với sự phát triển đất nước.
Có một số quan điểm cho rằng, Việt Nam hiện nay khó có thể thiết
lập một cơ chế bảo vệ Hiến pháp hoàn thiện tương tự các quốc gia khác

66
trên thế giới, vì vậy Việt Nam nên duy trì và tăng cường một cách hiệu quả
mô hình bảo hiến Quốc hội bằng cách sử dụng các biện pháp khác nhau
như nâng cao vai trò thẩm định, kiểm tra văn bản trước khi ban hành, thắt
chặt toàn bộ quy trình xây dựng văn bản pháp luật, hạn chế sự những quy
định trái với Hiến pháp. Quan điểm tuy có thể giúp duy trì tính ổn định của
hệ thống chính trị nhưng thiếu tính khách quan, hiện thực, không có sự đột
phá trong quá trình hoàn thiện và phát triển hệ thống pháp luật. Cơ chế
pháp luật luôn luôn cần sự thay đổi nhằm hoàn thiện hơn, sự thay đổi các
yếu tố pháp luật có thể đem lại những tác động hai mặt cả tốt và không tốt
nhưng chính sự thay đổi mới có thể hoàn thiện hệ thống pháp luật. Xây
dựng mô hình bảo hiến cần có sự nhìn nhận theo hướng sáng tạo, đổi mới
phù hợp với yêu cầu thực tiễn đồng thời dựa trên nền tảng pháp lý phù hợp,
kết hợp giữa những yếu tố nền tảng trong lý luận và sự đổi mới trong tư
duy là yêu cầu nhằm hướng tới mô hình bảo hiến mới, hiệu quả hơn.
Quan điểm xây dựng cơ quan bảo hiến chuyên trách ở Việt Nam
dưới hình thức là cơ quan chuyên trách đều có những điểm mới, sáng tạo
tuy nhiên những mô hình này cũng cần xây dựng có đặc điểm cơ bản, phù
hợp của mô hình bảo hiến đã xây dựng và hoàn thiện trên thế giới. Việc lựa
chọn mô hình phù hợp xuất pháp từ cách nhìn khoa học của những học giả
ở những góc độ và lập trường pháp lý khác nhau. Tồn tại nhiều hệ quan
điểm sẽ đem lại sự toàn diện nhằm tìm ra mô hình bảo hiến hoàn thiện với
Việt Nam. Hiện nay, tuy có những quan điểm khác nhau về xây dựng mô
hình bảo hiến ở Việt Nam. Mỗi mô hình có đặc điểm khác nhau, có yêu cầu
khác nhau khi xây dựng nhưng tựu chung lại những mô hình sau đã có sự
hiệu quả nhất định khi được xây dựng hoàn thiện trên thế giới.
Thứ nhất, trong trường hợp xây dựng mô hình bảo hiến bằng toà
án thuộc hệ thống tư pháp: cơ quan có thẩm quyền bảo hiến là một bộ
phận thuộc hệ thống tư pháp, một nhánh trong hệ thống quyền lực, hoạt
động bảo hiến được xem xét như hoạt động xét xử thông thường. Chức
67
năng bảo hiến khi đó sẽ trở thành biểu tượng mạnh mẽ của quyền lực tư
pháp đối với các nhánh quyền lực khác, giúp cơ quan tư pháp có thể thực
hiện việc giám sát đối với cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp một cách
hiệu quả.
Tuy nhiên, do bảo hiến chỉ là một chức năng trong hoạt động của toà
án nên không có tính chuyên môn hoá cao như mô hình khác. Thẩm quyền
của Toà án liên quan đến bảo hiến cũng hạn chế. Toà án thường không can
thiệp vào đạo luật khi đạo luật đó chưa có giá trị pháp lý, phán quyết của
toà án về các vấn đề vi hiến chỉ có hiệu lực với những vụ việc cụ thể, Toà
án do thực hiện kiểm hiến sau sẽ phù hợp hơn với việc giải quyết những vụ
việc cụ thể.
Đồng thời, mô hình toà án với thời gian xét xử kéo dài (do có nhiều
cấp xét xử) hiệu quả hoạt động xét xử với những vụ án hình sự, dân sự,
kinh tế hay hành chính đều chưa cao, lợi ích hợp pháp của nhân dân vẫn
chưa được thực sự bảo vệ. Án oan sai vẫn tồn tại suốt thời gian dài, điển
hình như trong thời gian qua, vụ kỳ án vườn Mít - Lê Bá Mai hay ông
Nguyễn Thanh Chấn bị xét xử mười năm tù oan để lại rất nhiều nỗi lo về
vấn đề xét xử của hệ thống tư pháp hiện nay. Hệ thống tư pháp Việt Nam
hiện nay trước hết cần hoàn thiện hoạt động xét xử trước khi có thể trao
thêm quyền lực, đặc biệt là quyền bảo hiến.
Thứ hai, trong trường hợp xây dựng mô hình bảo hiến Toà án
Hiến pháp: những phán quyết của tòa án Hiến pháp là những phán quyết
cuối cùng có giá trị cao nhất trong hoạt động bảo hiến, giúp cho việc tăng
hiệu quả trong đảm bảo hoạt động Hiến pháp trên thực tế. Mô hình đòi hỏi
sẽ xây dựng tòa án Hiến pháp hoàn toàn độc lập, một thế chế mới trong hệ
thống cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước ở nước ta, được thành lập để bảo vệ
Hiến pháp.

68
Tòa án Hiến pháp nhất thiết phải có tính độc lập trong hoạt động xét
xử, bảo vệ tính tối cao của Hiến pháp đồng thời xét xử chỉ tuân theo quy
định của pháp luật mà không chịu ảnh hưởng của bất kỳ yếu tố chủ quan
nào khác. Tòa án Hiến pháp độc lập là một trong những mô hình được
nhiều quốc gia trên thế giới sử dụng và đạt được những hiệu quả nhất định
trong hoạt động bảo vệ Hiến pháp. Mô hình toà án Hiến pháp có tính
chuyên môn hoá sâu, với cơ quan chuyên môn đảm trách Hiến pháp có
chức năng đảm bảo điều kiện tối ưu trong những hoạt động mô hình bảo
hiến. Toà án Hiến pháp là một mô hình tương đối độc lập so với các nhánh
quyền lực lập pháp, hành pháp cũng như tư pháp nên có thể đảm bảo tính
khách quan khi xem xét vấn đề có vi hiến.
Tuy nhiên, mô hình này cũng số những nhược điểm nhất định không
phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn của nước ta:
Mô hình hòa án Hiến pháp yêu cầu xây dựng một cơ quan hoàn toàn
mới trong hệ thống chính trị ở nước ta, có quyền lực rất lớn nhằm thực hiện
hiệu quả hoạt động bảo hiến nên sẽ yêu cầu rất cao về nguồn kinh phí, nhân
lực cũng như sự tác động mạnh mẽ đến sự ổn định của hệ thống chính trị,
không phù hợp với cơ chế quyền lực nhà nước là thống nhất hiện nay khi
những quyết định của toà án Hiến pháp có giá trị chung thẩm và không
mang tính tham vấn. Không thể phủ nhận đây là mô hình bảo hiến hiệu quả
trên thế giới nhưng để áp dụng vào thực tiễn Việt Nam thì không phù hợp.
Mặt khác, tòa án Hiến pháp yêu cầu hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, Việt
Nam hoàn toàn chưa đủ điều kiện và nền tảng để xây dựng mô hình cơ
quan chuyên trách tòa án Hiến pháp.
Thứ ba, trường hợp xây dựng mô hình bảo hiến hội đồng Hiến pháp,
đây là mô hình dung hoà được khá nhiều những yếu tố đặc thù từ các mô
hình bảo hiến trên thế giới. Hội đồng Hiến pháp là cơ quan chuyên trách
độc lập có thẩm quyền nhất định trong việc bảo vệ Hiến pháp, có đội ngũ

69
thành viên là những chuyên gia trong lĩnh vực Hiến pháp. Đây là mô hình
gọn nhẹ nhất và không gây ảnh hưởng đến cơ cấu hệ thống bộ máy nhà
nước hiện tại.
Thành lập hội đồng Hiến pháp sẽ đơn giản hơn so với việc xây dựng
tòa án Hiến pháp bởi hội đồng Hiến pháp khi đi vào hoạt động sẽ không
gây tác động quá lớn đến hệ thống pháp luật. Với những đặc điểm cụ thể,
mô hình sẽ phù hợp với quốc gia cần hạn chế sự thay đổi khi xây dựng cơ
quan bảo hiến chuyên trách. Ở mô hình này, Quốc hội sẽ giữ vững vai trò
của mình, là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thực hiện giám sát tối
cao và kiểm soát hoạt động cơ quan nhà nước. Tuy nhiên hội đồng Hiến
pháp cũng có những hạn chế nhất định khi mô hình mang bản chất nặng về
tính kinh nghiệm chứ không chứa đựng nội hàm như của cơ quan tài phán
thực thụ.
Mô hình hướng tới thực hiện bảo vệ Hiến pháp đồng thời dung hòa
quyền lực tối cao của Quốc hội. Mô hình hội đồng Hiến pháp cũng được
khuyến nghị thành lập dưới dạng một Ủy ban của Quốc hội. Đây là phương
án ít nhiều cần được tính toán trong giai đoạn bắt đầu xây dựng cơ quan
bảo hiến chuyên trách ở Việt Nam. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra khi thành lập
thẩm quyền và chức năng của cơ quan sẽ bị hạn chế, nên các phán quyết
của cơ quan bảo hiến đều chịu sự tác động của các nhân tố ngoài Hiến
pháp. Sức mạnh bảo vệ Hiến pháp vì thế cũng suy giảm và có những lúc
không còn được nắm những quyền lực thực tế. Hoàn cảnh hiện nay vừa nhu
cầu đòi hỏi cần có một cơ chế bảo vệ Hiến pháp độc lập, với thẩm quyền
lớn hơn để thực sự đảm nhiệm được chức năng Hiến pháp. Đồng thời
không làm thay đổi lớn về hệ thống chính trị mà vẫn có sự hoạt động hiệu
quả. Việc thành lập mô hình hội đồng Hiến pháp sẽ là bước đệm quan trọng
để hình thành cơ quan tài phán Hiến pháp, hoàn thiện mục đích phát triển
Hiến pháp trong tương lai ở nước ta.

70
Thứ tư, đôi nét về mô hình hội đồng bảo hiến theo dự thảo sửa đổi
Hiến pháp năm 2013. Hiến pháp 2013 đã được thông qua, đi vào thực tiễn
đời sống xã hội và đang trong quá trình đánh giá hiệu quả khoảng thời gian
ban đầu. Tuy nhiên, quá trình xây dựng Hiến pháp năm 2013 dựa trên nền
tảng Hiến pháp năm 1992 vẫn để lại những bài học kinh nghiệm vô cùng
giá trị, đặc biệt là về cơ chế bảo hiến. Dự thảo lấy ý kiến nhân dân ngày 2-
1-2013 đã đề xuất xây dựng mô hình bảo hiến chuyên trách lần đầu tiên ở
Việt Nam với rất nhiều những điểm tiến bộ, đáng ghi nhận. Tuy nhiên do
nhiều nguyên nhân mô hình bảo hiến đã không được đưa vào bản Hiến
pháp 2013. Tuy không ghi nhận được mô hình bảo hiến hoàn chỉnh nhưng
tại Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đã xuất hiện ý tưởng về một mô hình
bảo hiến cụ thể đó là hội đồng Hiến pháp. Mô hình bảo hiến được thiết lập
đầy đủ dù chỉ trên Dự thảo cũng có những nét thực sự đáng quan tâm.
(Điều 120) đã bổ sung thiết chế hội đồng Hiến pháp với các đặc điểm [15]:
Thứ nhất, về tổ chức, hội đồng Hiến pháp là cơ quan do Quốc hội
thành lập, gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các ủy viên. Hội đồng là cơ
quan có tính độc lập nhất định, không thuộc cơ cấu của Quốc hội như các
hội đồng, ủy ban của Quốc hội. Thành viên hội đồng công tác theo nhiệm
kỳ. Hội đồng là cơ quan làm việc theo chế độ tập thể. Không có các quy
định hội đồng Hiến pháp phải báo cáo, chịu trách nhiệm hay chịu sự chất
vấn của Quốc hội. Cơ chế trách nhiệm, thành phần, trật tự hình thành của
cơ quan này nhằm đảm bảo hoạt động có hiệu quả hoàn toàn không được
đề cập trong Hiến pháp mà để cho luật của Quốc hội quy định. Ðối tượng
kiểm tra tính hợp hiến của hội đồng Hiến pháp là các văn bản quy phạm
pháp luật do Quốc hội, Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao ban hành; điều ước quốc tế được ký kết nhân danh nhà nước
trước khi trình Quốc hội, Chủ tịch nước phê chuẩn.

71
Thứ hai, hội đồng Hiến pháp chỉ có chức năng giám sát sau, nhằm
đảm bảo tính hợp hiến của việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của
Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Khi phát hiện có hiện tượng vi hiến, hội đồng Hiến pháp có quyền đề nghị,
kiến nghị hoặc trình cơ quan có thẩm quyền hủy bỏ.
Thứ ba, phương thức xử lý văn bản quy phạm pháp luật vi hiến của
hội đồng là: trực tiếp “kiến nghị” Quốc hội “xem xét lại”, “yêu cầu” Chủ
tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,
Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao “sửa đổi, bổ sung”
văn bản vi hiến hoặc gián tiếp “đề nghị” cơ quan có thẩm quyền hủy văn
bản vi hiến. Ðối với các điều ước quốc tế, hội đồng thể hiện ý kiến, quan
điểm về tính hợp hiến trước khi trình Quốc hội, Chủ tịch nước phê chuẩn.
Mô hình hội đồng Hiến pháp với các đặc trưng như trên, nếu trở
thành hiện thực sẽ là một bước tiến đặc biệt quan trọng trong lịch sử lập
hiến nước ta. Lần đầu tiên, một bản Hiến pháp đã xác lập một thiết chế
chuyên biệt nhằm bảo vệ những giá trị được Hiến pháp ghi nhận. Vì những
điều kiện khách quan và chủ quan, mô hình hội đồng Hiến pháp theo dự
thảo đã không được thông qua. Mô hình bảo hiến chuyên trách đã không
được xây dựng trong bản Hiến pháp mới. Nhu cầu về một mô hình cơ quan
bảo hiến chuyên trách vẫn còn tồn tại nên coi việc thành lập Hội đồng Hiến
pháp theo dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là phương án khả thi. Xét
trên cơ sở đặc điểm và yêu cầu của mô hình hội đồng Hiến pháp theo dự
thảo thì cho dù hiện nay Hiến pháp 2013 đã có hiệu lực thì việc tiến hành
xây dựng mô hình bảo hiến hội đồng Hiến pháp theo dự thảo là hoàn toàn
có khả năng thực hiện được.
Tóm lại, trong những phương án được xây dựng ở trên, dưới nhìn
nhận thực tế bởi những yếu tố khách quan và chủ quan, nhằm không gây

72
ảnh hưởng lớn đến thể chế chính trị cũng như ổn định xã hội và từng bước
xây dựng mô hình bảo hiến hoàn thiện hơn, tôi ủng hộ việc thành lập mô
hình hội đồng Hiến pháp. Tuy vẫn còn nhiều điểm hạn chế, đánh giá thiếu
sự hiệu quả, tính khách quan nhưng thực tế mô hình này mới có thể hoạt
động một cách hiệu quả trong hoàn cảnh đặc thù như ở Việt Nam. Hiến
pháp cần được bảo vệ giá trị pháp lý, được xây dựng hoàn chỉnh các chế
định, quy định đầy đủ quyền và trình tự thủ tục của hoạt động bảo hiến một
cách ngắn gọn và chính xác.
3.4. Đề xuất mô hình hội đồng Hiến pháp ở Việt Nam
Từ sự nghiên cứu đánh giá về các mô hình bảo hiến trên thế giới
cùng với những nhận định cụ thể để có thể áp dụng hiệu quả mô hình Việt
Nam, tôi đề xuất mô hình “Hội đồng Hiến pháp”. Mô hình hội đồng Hiến
pháp là mô hình phù hợp và khả thi nhất cho Việt Nam, bởi những nguyên
nhân:
Thứ nhất, hệ thống pháp luật ở Việt Nam hiện nay khó có thể đáp
ứng được nhu cầu của bất kỳ một mô hình bảo hiến. Trong khi đó, nếu xây
dựng mô hình bảo hiến bằng hệ thống tư pháp - tòa án thì cần thiết phải
đảm bảo những yêu cầu cụ thể sau:
Hệ thống tư pháp độc lập với các ngành quyền lực khác.
Hệ thống Tòa án phải đủ khả năng để thực hiện nhiệm vụ Hiến pháp.
Truyền thống sử dụng và áp dụng án lệ ( với mô hình bảo hiến bằng
tòa án tư pháp thông thường).
Xét về tất cả những yêu cầu trên thì hệ thống tư pháp khó có thể đáp
ứng đầy đủ yêu cầu của một mô hình bảo hiến bằng tòa án. Trong khi đó,
Việt Nam là quốc gia quyền lực tập trung vào cơ quan quyền lực nhà nước
Quốc hội, cơ quan tư pháp chỉ giữ vai trò thực hiện nhiệm vụ được phân
công, chịu sự giám sát của Quốc hội, tính độc lập chưa cao. Hệ thống tư
pháp chưa được hoàn thiện khi bị phụ thuộc vào mặt địa giới hành chính

73
gây nên những ảnh hưởng không cần thiết khi tiến hành xét xử. Đồng thời,
mô hình tư pháp không thừa nhận án lệ là nguồn của pháp luật trong hoạt
động xét xử, đối với những vụ việc có bản chất giống nhau thì cơ quan tố
tụng cũng có thể xét xử ra những kết quả khác nhau. Nhìn nhận tại Việt
Nam về pháp cũng chưa đủ để có thể xây dựng ngay mô hình tòa án Hiến
pháp [14].
Thứ hai, Việt Nam nên lựa chọn mô hình hội đồng Hiến pháp vì
chúng ta vốn không có truyền thống bảo hiến bằng cơ quan chuyên trách
như đa phần các quốc gia khác trên thế giới. Việc hình thành mô hình bảo
hiến là theo yêu cầu thực tiễn của việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa. Khi xã hội thay đổi và phát triển, nền dân chủ và pháp quyền
được hình thành, nhu cầu Hiến pháp mới thực sự trở nên cần thiết nhằm
xây dựng đất nước trong thời kỳ mới, sự chuyển đổi này sẽ gây ra những
thay đổi trong hệ thống chính trị khó có thể lường trước được hết hậu quả.
Tuy nhiên, khi thể chế chính trị không thay đổi kịp thời theo nhu cầu thực
tế thì điều kiện cần là lựa chọn mô hình bảo hiến có thể phù hợp với sự
thay đổi chậm chạp của thể chế chính trị. Mô hình hội đồng Hiến pháp đáp
ứng nguyên vẹn điều kiện, đấy là mô hình có sự lựa chọn an toàn cho đất
nước. Thành lập hội đồng Hiến pháp ở một quốc gia sẽ tạo nên cơ quan hòa
hợp giữa chính trị và tài phán, là cơ quan có thể tạo nên sự hài hòa mềm
dẻo giữa vấn đề lợi ích giữa các nhóm đối tượng. Thành lập hội đồng Hiến
pháp sẽ giải quyết được hai vấn đề lớn: tồn tại cơ quan bảo hiến quốc gia
và lợi ích chính trị của giai cấp lãnh đạo vẫn được đảm bảo.
Thứ ba, Việt Nam vốn là quốc gia đã chịu ảnh hưởng ít nhiều từ
cộng hòa Pháp về cả văn hóa, xã hội, kiến trúc cũng như pháp luật. Việt
Nam đã dần thay đổi nhưng không thể phủ nhận sự ảnh hưởng của cộng
hòa Pháp trong suốt khoảng thời gian qua. Hiện nay nhận thấy pháp luật
Liên Xô hay mô hình bảo hiến Quốc hội không còn đảm bảo áp dụng phù
hợp thì mô hình hội đồng Hiến pháp của Pháp là lựa chọn thích hợp hơn cả.
74
Đây là mô hình tận dụng, kế thừa những sự ảnh hưởng pháp luật Pháp hiện
tại ở Việt Nam đặc biệt trong lĩnh vực như Hành chính - Hiến pháp.
Thứ tư, hội đồng Hiến pháp là sự dung hòa hợp lý giữa hai mô hình
cơ quan tài phán Hiến pháp và cơ quan chính trị, sự dung hòa này đem lại
phù hợp trong hoạt động tổ chức, trình tự, thẩm tục hay thẩm quyền
Mô hình hội đồng Hiến pháp không phải mô hình Tài phán đúng
nghĩa nên khó có thể giải quyết triệt để những vấn đề vi hiến khi vận hành
như cơ quan tư pháp. Nhiều trường hợp, mô hình hội đồng Hiến pháp chỉ
dừng lại ở mức “Tư vấn và đề nghị xem xét những vấn đề vi phạm Hiến
pháp”. Hiện nay, mô hình hội đồng Hiến pháp đang hướng tới xây dựng
mô hình về tài phán hiệu quả hơn, tuy nhiên đây là một quá trình lâu dài và
cần nhiều thời gian để hoàn thiện. Vì vậy, chấp nhận với bước đầu là mô
hình Hội đồng Hiến pháp thông thường để có sự thay đổi tại thời điểm
thích hợp sẽ là phù hợp hơn rất nhiều. Mô hình hội đồng Hiến pháp khi
được xây dựng vận hành ở Việt Nam sẽ mang tính hiệu quả, khả thi và phù
hợp với thể chế chính trị cũng như sự thay đổi từng bước của xã hội Việt Nam.
3.4.1. Mô hình hội đồng Hiến pháp ở Việt Nam
Mô hình hội đồng Hiến pháp được xây dựng dựa theo mô hình Hội
đồng Hiến pháp áp dụng ở một số quốc gia trên thế giới đặc biệt ở Cộng
hòa Pháp. Mô hình hội đồng Hiến pháp ở Việt Nam kế thừa những đặc
điểm cơ bản của mô hình hội đồng Hiến pháp nói chung, đồng thời đổi mới
sao cho phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam trên nền tảng những quy
định của pháp luật Việt Nam. Mô hình hội đồng Hiến pháp xây dựng sẽ
không mang quá nhiều sự thay đổi trong hệ thống pháp luật nhằm đem lại
sự ổn định cần thiết cho toàn xã hội nhưng cũng mô hình đáp ứng đầy đủ
những yêu cầu để hoạt động bảo vệ Hiến pháp hiệu quả.

75
Mô hình hội đồng Hiến pháp ở Việt Nam cần thiết phải được xây
dựng như một cơ quan tài phán - chính trị có tính độc lập với hệ thống
cơ quan quyền lực nhà nước ở Việt Nam. Hội đồng Hiến pháp không
thuộc Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước, không thuộc Chính phủ - cơ
quan Hành pháp, và không thuộc hệ thống cơ quan Tư pháp. Hội đồng
Hiến pháp được thành lập với tư cách là một cơ quan độc lập trong hoạt
động với toàn bộ hệ thống các cơ quan nhà nước Việt Nam nhằm đảm bảo
cho sự khách quan khi tiến hành hoạt động Hiến pháp. Tính độc lập của hội
đồng Hiến pháp cần được đảm bảo bằng sự tôn trọng các quy định của
pháp luật đối với cơ quan nhà nước.
Mô hình hội đồng Hiến pháp được xây dựng khi được ghi nhận
trong Hiến pháp, đây là cơ quan cần được thừa nhận bởi văn bản pháp
luật có giá trị pháp lý cao nhất. Chỉ khi ghi nhận đầy đủ vào Hiến pháp thì
mới đảm bảo được tính pháp lý của hoạt động Hiến pháp. Hội đồng Hiến
pháp là mô hình chỉ phát huy được hiệu quả nếu chỉ được thừa nhận bởi
Hiến pháp, thực hiện nhiệm vụ nếu như thẩm quyền được Hiến pháp ghi
nhận.
Mô hình hội đồng Hiến pháp được tổ chức mang tính chất đặc thù
riêng biệt, là cơ quan chuyên biệt để bảo vệ giá trị tối cao của Hiến pháp
nên mô hình hội đồng Hiến pháp chỉ được tổ chức thành một cơ quan
duy nhất tại Trung ương, chứ không được tổ chức thành hệ thống cơ quan
theo địa giới hành chính (cách thức tổ chức quyền lực thông thường ở nước
ta) như các ngành quyền lực khác. Hội đồng Hiến pháp là cơ quan duy nhất
về bảo hiến ở Việt Nam được xây dựng tại Trung ương, bên cạnh bộ máy
nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hội đồng Hiến pháp là cơ
quan duy nhất trên toàn lãnh thổ Việt Nam có thẩm quyền bảo vệ Hiến
pháp và được pháp luật Việt Nam thừa nhận.

76
Hội đồng Hiến pháp được thành lập và hoạt động dựa trên quy
định của Hiến pháp với nhũng nguyên tắc phù hợp với nguyên tắc xây
dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa. Hoạt động hội đồng Hiến pháp dựa theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai và đa số. Các mô hình có thể giống
nhau về một số yếu tố cơ bản nhưng vẫn phải chứa đựng sự phù hợp với
đặc điểm nhà nước áp dụng. Áp dụng rập khuôn, cứng nhắc sẽ khiến mô
hình bảo hiến trở thành bị áp đặt. Mô hình bảo hiến được xây dựng cần
thiết phải tuân thủ những nguyên tắc cụ thể phù hợp với hoàn cảnh chính trị
- xã hội ở Việt Nam.
Hội đồng Hiến pháp là cơ quan được trao quyền hạn trong việc bảo
vệ Hiến pháp, tuy nhiên quyền hạn của cơ quan này đến đâu vẫn là một vấn
đề cần được quan tâm. Hội đồng Hiến pháp hình thành với dạng là cơ quan
tài phán hay chỉ với dạng cơ quan tham vấn Hiến pháp.Với dạng cơ quan
tài phán, hội đồng Hiến pháp sẽ được có quyền quyết định những vấn đề
liên quan đến Hiến pháp, những phán quyết của hội đồng Hiến pháp về vụ
việc liên quan đến vấn đề vi hiến sẽ là những phán quyết cuối cùng, như
vậy sẽ kéo theo thẩm quyền tuyên bố một phần hay toàn bộ những quy định
của pháp luật liên quan đến vấn đề vi hiến là trái Hiến pháp cần phải được
hủy bỏ. Nếu xây dựng mô hình hội đồng Hiến pháp theo hướng cơ quan
tham vấn sẽ vẫn đảm bảo được quyền lực thống nhất nhà nước của Quốc
hội, Quốc hội sẽ nhận đề nghị của hội đồng Hiến pháp rồi đưa ra quyết
định về những quy phạm pháp luật, hay những hành vi pháp lý có phải là vi
hiến hay không? Tuy nhiên, theo hướng xây dựng cơ quan bảo hiến như
vây sẽ khiến hội đồng Hiến pháp không đủ thẩm quyền để thực hiện chức
năng của mình, khi đó hội đồng Hiến pháp sẽ trở thành Ủy ban trực thuộc
Quốc hội có chức năng tham vấn cho Quốc hội về vấn đề liên quan đến bảo
vệ Hiến pháp. Xét toàn diện, cần thiết trao cho hội đồng Hiến pháp nhũng
quyền hạn nhất định, đặc biệt là quyền tài phán ban hành những phán quyết
về hành vi vi hiến. Hội đồng Hiến pháp có thể tuyên bố hành vi hay những

77
quy phạm pháp luật là vi hiến và đề nghị Quốc hội xem xét đối với những
văn bản pháp luật chứa quy phạm vi hiến. Quốc hội có thể tuyên bố toàn bộ
văn bản pháp luật hoặc một phần văn bản không có giá trị pháp lý. Việc
quy định thẩm quyền của hội đồng Hiến pháp như làm sẽ hạn chế tính hiệu
quả trong hoạt động của cơ quan này, tuy nhiên điều đó sẽ giúp sự tác động
đến quyền hạn của cơ quan quyền lực nhà nước trong phạm vi có thể điều
chỉnh.
3.4.2. Cách thức tổ chức hội đồng Hiến pháp
Về cơ bản hội đồng Hiến pháp là cơ quan tập hợp của các ngành
quyền lực trong hệ thống quyền lực nhà nước, có vị trí độc lập trong hoạt
động bảo vệ tính tối cao của Hiến pháp. Hội đồng Hiến pháp về cơ bản cần
đáp ứng đầy đủ yêu cầu sau.
Về cách thức hình thành, hội đồng Hiến pháp khẳng định là cơ quan
độc lập về mặt cấu trúc, việc thành lập cần có trình tự, thủ tục rõ ràng về
việc bầu, bổ nhiệm và bãi miễn thành viên của hội đồng. Các quy định
thống nhất, rõ ràng thể hiện đầy đủ sự độc lập của hội đồng Hiến pháp so
với các hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước. Quốc hội bầu, bổ nhiệm và
bãi miễn thành viên hội đồng Hiến pháp theo đề nghị của Chủ tịch nước
dưới sự tham vấn của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ tư pháp và
Ủy ban pháp luật của Quốc hội. Hội đồng Hiến pháp đứng đầu là Chủ tịch
hội đồng do hội đồng Hiến pháp bầu ra từ 15 thành viên theo nguyên tắc
công khai, đa số. Chủ tịch hội đồng là người đứng đầu, chịu trách nhiệm
trong tất cả mọi hoạt động của hội đồng trước Quốc hội.
Số lượng thành viên của hội đồng quy định cụ thể và rõ ràng. Số
lượng thành viên là yếu tố hết sức quan trọng khiến có thể đảm bảo được
tính pháp lý, giá trị cũng như độ hiệu quả trong hoạt động của hội đồng
Hiến pháp. Số lượng người đảm bảo đầy đủ đại diện cao nhất của các
ngành quyền lực trong bộ máy nhà nước, có cơ chế bảo vệ cùng như cưỡng

78
chế thi hành đồng thời cần có sự đảm bảo về chuyên môn về bảo hiến. Hoạt
động hội đồng dựa trên nguyên tắc công bằng, công khai và quyết định
theo đa số nên số thành viên hội đồng cần thiết là số lượng lẻ. Hội đồng cần
đảm bảo đầy đủ về thành phần để tăng tính hiệu quả khi thực hiện bảo hiến.
Xét những yêu cầu trên đồng thời sau khi nghiên cứu các mô hình hội đồng
Hiến pháp ở một số quốc gia, tác giả đề nghị số lượng thành viên hội đồng
Hiến pháp sẽ bao gồm 15 thành viên bao gồm những chuyên gia hàng đầu
về các lĩnh vực liên quan đến Hiến pháp có uy tín và kinh nghiệm cao. Tiêu
chuẩn đối với các thành viên còn lại không giới hạn bởi trình độ học vấn,
độ tuổi nhưng phải thực sự là những chuyên gia có chuyên môn về Hiến
pháp và bảo hiến, có tư tưởng, lập trường, bản lĩnh chính trị vững vàng.
Ngoài những thành viên chính thức, hội đồng hiến pháp sẽ tiến hành
thành lập thêm các cơ quan giúp việc nhằm đảm bảo sự hoạt động bao gồm
nhiệm vụ hành chính và hỗ trợ trong việc thu thập, nghiên cứu tài liệu.
Để phù hợp và tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình hoạt động của
hội đồng, cũng như đảm bảo sự độc lập xin đề xuất nhiệm kỳ của hội đồng
thời gian 6 năm không cùng với thời gian nhiệm kỳ của Quốc hội. Theo
thông lệ nhằm đảm bảo tính hiệu quả cũng như nâng cao độc lập trong hoạt
động bảo vệ Hiến pháp, các thành viên hội đồng sẽ được thay thế sau thời
gian hoạt động. Sau 6 năm, sẽ tiến hành xây dựng hội đồng Hiến pháp với
các thành viên mới.
3.4.3. Chức năng của Hội đồng Hiến pháp
Hội đồng Hiến pháp là cơ quan chuyên trách độc lập, đảm bảo cho
cho cơ quan quyền lực nhà nước thực hiện đúng quyền hạn và nhiệm vụ
được phân công, phán xét hành vi vi hiến, phối hợp thực hiện hiệu quả mục
tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân. Hội đồng Hiến pháp bảo vệ tính tối cao của Hiến
pháp, sự thống nhất và hoàn thiện, phát triển của hệ thống pháp luật.

79
Hội đồng Hiến pháp là cơ quan có thẩm quyền hẹp hơn so với thẩm
quyền của Toà án Hiến pháp. Nhằm đạt mục đích đã đặt ra từ ban đầu, căn
cứ vào yêu cầu thực tiễn, hội đồng Hiến pháp được trao quyền thực hiện
kiểm tra tính hợp hiến của những văn bản pháp luật trước khi được ban
hành (kiểm soát trước văn bản), đồng thời hội đồng Hiến pháp cũng thực
hiện việc kiểm tra tính hợp hiến của những văn bản pháp luật khi được các
chủ thể yêu cầu (kiểm tra văn bản đã thi hành), bên cạnh đó hội đồng Hiến
pháp thực hiện nhiệm vụ giám sát các cuộc bầu cử, giải thích Hiến pháp, tư
vấn pháp luật.
Chức năng thứ nhất: Hội đồng Hiến pháp kiểm soát văn bản trước
khi ban hành nhằm hạn chế những văn bản không hợp hiến được ban hành,
tránh được việc phải huỷ bỏ văn bản đã có hiệu lực pháp lý, tránh lãnh phí
nguồn nhân lực và tài chính phục vụ xây dựng pháp luật, tạo nên sự ổn định
trong hệ thống pháp luật, tạo niềm tin của nhân dân vào cơ quan lập pháp.
Đây là nhiệm vụ quan trọng, chủ chốt của hội đồng Hiến pháp. Hội đồng
Hiến pháp có thể thực hiện chức năng này trong toàn bộ những khâu của
việc xây dựng văn bản pháp luật, đặc biệt là trong quá trình thẩm định văn
bản pháp luật trước khi thông qua. Hội đồng Hiến pháp cần được trao
quyền xem xét tất cả những văn bản pháp luật chưa được ban hành, đang
trong quá trình xây dựng, chuẩn bị được thông qua, nhằm đưa ra những ý
kiến, những tham vấn, những quyết định về tính hợp hiến của văn bản chưa
được ban hành. Sau khi kiểm tra tính hợp hiến của văn bản, việc ban hành
văn bản pháp luật sẽ chính xác tạo nền tảng xây dựng hệ thống pháp luật
chính xác, đầy đủ và thống nhất.
Chức năng thứ hai: Hội đồng Hiến pháp thực hiện kiểm tra những
văn bản pháp luật có dấu hiệu vi hiến, xem xét những hành vi có dấu hiệu
vi hiến. Chức năng này của hội đồng Hiến pháp không tự nhiên hình thành
như chức năng kiểm soát trước ban hành văn bản, mà chỉ hình thành trên

80
cơ sở khi có yêu cầu của những chủ thể có thẩm quyền đề nghị xem xét
hành vi, hay văn bản pháp lý có vi hiến.
Hội đồng Hiến pháp không tự động xem xét bất kỳ vấn đề vi hiến
nào nếu không có khiếu nại về vấn đề đó được đưa ra. Khi xuất hiện những
vấn đề nghiêm trọng có dấu hiệu vi hiến, cần được xem xét mức độ hợp
hiến của hành vi hay văn bản, các chủ thể yêu cầu hội đồng Hiến pháp
nghiên cứu xem xét vấn đề đồng thời đưa ra phán quyền về mức độ hợp
hiến của hành vi hay văn bản pháp lý, đồng thời đưa ra những khuyến nghị
về cách thức xử lý các trường hợp khẳng định vi phạm Hiến pháp. Hội
đồng Hiến pháp có quyền yêu cầu đình chỉ hiệu lực của văn bản pháp luật
vi hiến đồng thời yêu cầu Quốc hội xem xét lại tính hợp hiến của văn bản
đã ban hành. Quốc hội buộc phải xem xét những đề nghị của hội đồng bảo
hiến, sau một thời gian đề nghị nếu không có sự trả lời từ Quốc hội. Hội
đồng Hiến pháp có quyền tuyên bố hủy bỏ văn bản pháp luật vi hiến.
Chức năng thứ ba, hội đồng Hiến pháp không chỉ giữ vai trò kiểm
hiến, tài phán Hiến pháp mà còn kiêm luôn nhiệm vụ giải thích Hiến pháp.
Quyền giải thích Hiến pháp là quyền gắn liền với chức năng của hội đồng
Hiến pháp, quyền hạn này tự nhiên được thừa nhận cho dù có được quy
định trong Hiến pháp hay không? Một phần nguyên nhân dẫn đến có tình
trạng vi hiến xảy ra trên thực tế có nguyên nhân là do cách hiểu về Hiến
pháp của các đối tượng khi thi hành Hiến pháp là không giống nhau. Cách
hiểu quy định Hiến pháp không giống nhau xuất phát từ bản thân Hiến
pháp chưa thể hiện rõ tinh thần của Hiến pháp. Hiến pháp năm 2013 đã xây
dựng theo hướng ngắn gọn, cụ thể và rõ ràng, không mang nặng tính định
tính, tuyên ngôn, thể hiện đầy đủ mục đích ban hành.
Bên cạnh đó, cũng cần có những cách hiểu chính thức và thống nhất
về quy định của Hiến pháp nhằm áp dụng trong quá trình các chủ thể thi
hành pháp luật, tuân thủ Hiến pháp. Trong trường hợp, có những mâu thuẫn

81
giữa các cơ quan có thẩm quyền với nhau hay giữa những công dân với cơ
quan có thẩm quyền xuất phát từ việc hiểu không chính xác quy định Hiến
pháp. Hội đồng Hiến pháp dựa trên những điều kiện chính trị, xã hội, kinh
tế văn hoá, mục tiêu định hướng, được trao thẩm quyền giải thích Hiến
pháp nhằm cụ thể hoá quy định vướng mắc cho việc áp dụng trở nên gọn nhẹ
hơn.
Chức năng thứ tư của hội đồng Hiến pháp: đây là một trong những
chức năng cơ bản của nhằm bảo vệ giá trị của Hiến pháp. Đối với hoạt
động bầu cử, Hội đồng Hiến pháp chịu trách nhiệm giám sát toàn bộ quá
trình bầu cử, đặc biệt là quá trình bầu cử Quốc hội. Hội đồng Hiến pháp sẽ
giám sát tính hợp hiến của cuộc bầu cử. Hội đồng Hiến pháp được trao
quyền giải quyết tranh chấp trong cuộc bầu cử. Hội đồng Hiến pháp trao
quyền công bố kết quả bầu cử sau khi đảm bảo tính pháp lý, hợp hiến của
cuộc bầu cử.
Chức năng thứ năm của hội đồng Hiến pháp: Hội đồng Hiến pháp
chịu trách nhiệm nghiên cứu định hướng những vấn đề pháp luật quan
trọng để cùng với những cơ quan khác như Uỷ ban pháp luật, bộ Tư pháp
đưa ra những khuyến nghị định hướng trong quá trình xây dựng văn bản
pháp luật, hoàn thiện hệ thống pháp luật. Đặc biệt hội đồng Hiến pháp đề
xuất, tổ chức kết hợp với cơ quan trung ương, địa phương tiến hành hoạt
động phổ biến, thăm dò hiệu quả pháp lý của Hiến pháp, tạo tiền đề cho
Hiến pháp thực sự trở thành đạo luật gốc, đạo luật cơ bản trong hệ thống
pháp luật Việt Nam.
Hội đồng Hiến pháp muốn hoạt động hiệu quả trong thực tiễn cần có
sự ghi nhận đầy đủ các chức năng cần thiết. Các chức năng cơ bản có
những mối liên hệ chặt chẽ với nhau trong hoạt động bảo vệ giá trị pháp lý
tối cao của Hiến pháp. Những chức năng trên đã bao gồm gần như đầy đủ
những nhiệm vụ quan trọng nhất phải thực hiện của hội đồng Hiến pháp,

82
việc xây dựng hội đồng Hiến pháp trên thực tế có được tiến hành hay
không, nhìn nhận các chức năng đầy đủ các chức năng hay không tùy thuộc
vào quan điểm xây dựng mô hình bảo hiến của các nhà lập pháp.
Mô hình hội đồng Hiến pháp là mô hình không phổ biến như các mô
hình bảo hiến khác trên thế giới. Việc lựa chọn mô hình bảo hiến phù hợp
đối với mỗi quốc gia phải căn cứ vào rất nhiều các yếu tố, vậy nên các mô
hình phổ biến chưa chắc đã phù hợp với quốc gia. Sự khác nhau giữa các
mô hình đem lại sự ưu việt của mô hình trong những hoàn cảnh khác nhau,
phù hợp với các thể chế chính trị khác nhau, được các quốc gia lựa chọn.
Hội đồng Hiến pháp là mô hình phù hợp với quá trình quá độ, mang tính ổn
định, thích ưng với hoàn cảnh với các trường hợp cụ thể. Mô hình hội đồng
Hiến pháp áp dụng và từng bước có những thay đổi để phù hợp với thực
tiễn trong từng giai đoạn của quốc gia, nhằm đảm bảo hiệu lực pháp lý tối
cao của Hiến pháp.
3.4.4.Trình tự, thủ tục hoạt động của hội đồng Hiến pháp
Hội đồng Hiến pháp trình tự, thủ tục hoạt động đặc biệt liên quan
đến việc xem xét tính hợp hiến của một văn bản pháp luật hay hành vi của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trình tự và thủ tục hoạt động của hội
đồng Hiến pháp cần được ghi nhận đầy đủ trong các văn bản có giá trị pháp
lý nhằm tạo tiền đề để hội đồng Hiến pháp có thể tiến hành hoạt động bảo hiến.
Hoạt động hội đồng Hiến pháp gây nhiều điểm lưu ý nhất chính là
hoạt động kiểm soát các văn bản quy phạm đã được ban hành, có giá trị
pháp lý. Hội đồng Hiến pháp bắt đầu xem xét tính hợp hiến của một vấn đề
khi có yêu cầu xem xét tính hợp hiến của một văn bản hay một hành vi.
Công dân có quyền kiến nghị và yêu cầu kiểm tra xem có dấu hiệu vi hiến tồn
tại hay không.
Sau khi xác định vụ việc xem xét tính hợp hiến thuộc phạm vi xử lý
của hội đồng Hiến pháp, hội đồng sẽ tiếp nhận vụ việc và bắt đầu thực hiện

83
quy trình kiểm tra tính hợp hiến của vấn đề. Vấn đề sẽ được cơ quan giúp
việc thu thập thông tin, tài liệu sau đó dưới sự tư vấn của những nhà khoa
học Hiến pháp hàng đầu, hội đồng Hiến pháp sẽ đưa ra quyết định về tính
hợp hiến của vấn đề dựa trên nguyên tắc hoạt động của hội đồng: đa số, tập
thể và công khai. Hội đồng sau khi thống nhất sẽ thông báo quyết định của
mình đến các chủ thể có liên quan bao gồm: các chủ thể trực tiếp hoặc gián
tiếp liên quan đến việc yêu cầu kiểm tra tính hợp hiến của vấn đề, chủ thể
yêu cầu kiểm tra. Đồng thời báo cáo đưa ra khuyến nghị phương án giải
quyết lên cơ quan quyền lực nhà nước - Quốc hội nhằm có thể đảm bảo
tính hợp hiến. Để thể xử lý triệt để vấn đề, hội đồng Hiến pháp yêu cầu sự
phối hợp của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc bảo vệ tính
tối cao của Hiến pháp đặc biệt là Quốc hội.
Đối với hoạt động kiểm soát văn bản chưa ban hành và tư vấn pháp
lý, hội đồng Hiến pháp căn cứ theo thẩm quyền được quy định trong Hiến
pháp tiến hành chức năng của mình, đưa ra những ý kiến, đóng góp về tính
hợp hiến về chương trình, hiệu quả của việc xây dựng và hoàn thiện pháp
luật, đưa ra những gợi ý, biện pháp phối hợp để yêu cầu bảo đảm tính tối
cao của Hiến pháp khi xây dựng pháp luật. Hội đồng Hiến pháp tham gia ở
các khâu của quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật đặc biệt từ
khi thẩm định đến trước khi công bố nhằm đưa ra khuyến nghị kịp thời cho
Quốc hội nhằm hạn chế tối đa phải xử lý những văn bản không phù hợp
Hiến pháp sau khi đã có hiệu lực pháp luật với một trình tự thủ tục đặc
biệt, kéo dài và phức tạp.

84
KẾT LUẬN CHƯƠNG III
Mô hình hội đồng Hiến pháp tuy rằng không còn xa lạ với các quốc
gia trên thế giới nhưng ở Việt Nam đây là mô hình mới hoàn toàn. Dự thảo
sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã từng ghi nhận mô hình hội đồng Hiến pháp
tạo nền tảng cho cơ quan bảo hiến chuyên trách xuất hiện ở Việt Nam. Tuy
nhiên, bởi nhiều lý do, mô hình này đã không xuất hiện trong bản Hiến
pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Hội đồng Hiến
pháp là mô hình không được áp dụng ở quá nhiều các quốc gia trên thế
giới, tính hiệu quả của mô hình chỉ ở mức trung bình. Đề xuất mô hình hội
đồng Hiến pháp dựa trên sự đánh giá và nhìn nhận khách quan, thực tiễn để
phù hợp nhất với hoàn cảnh ở Việt Nam.
Mô hình hội đồng Hiến pháp được thành lập là cần thiết với nhu cầu
thực tiễn, dựa trên nền tảng về phương hướng và đường lối của nhà nước,
nhằm khắc phục những hạn chế của cơ chế bảo hiến hiện thời, kế thừa phát
huy tối đa giá trị pháp lý của Hiến pháp hiện hành. Mô hình hội đồng Hiến
pháp được khuyến nghị bao gồm đầy đủ: nhiệm vụ, chức năng cơ bản, cơ
cấu tổ chức - cách thức thành lập; trình tự thủ tục hoạt động của hội đồng,
hiệu lực pháp lý phán quyết của hội đồng. Tất cả những đề xuất trên dựa
trên sự phù hợp với quốc gia, bắt đầu xác nhận mô hình bảo hiến cơ quan
chuyên trách như Việt Nam và sẽ từng bước thay đổi để hoàn chỉnh cơ chế
bảo hiến.

85
KẾT LUẬN
Mô hình bảo hiến chuyên trách là nền tảng bắt buộc để xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là tiền đề để tạo nên một xã hội
thực sự dân chủ, là công cụ để bảo vệ quyền công dân mỗi quốc gia. Một
quốc gia có những đặc điểm khác nhau về thể chế chính trị, về thực trạng
xã hội, về đặc điểm của hệ thống pháp luật nên sẽ có những lựa chọn cách
thức xây dựng cơ quan bảo hiến khác nhau. Hoạt động các cơ quan bảo
hiến thực hiện các thẩm quyền hiến định không giống nhau ở từng quốc
gia, ở từng mô hình. Điều này phụ thuộc vào sự lựa chọn của quốc gia
trong mỗi mô hình, quan trọng hơn là các yếu tố về truyền thống, lịch sử,
văn hoá, chính trị. Thể chế sự lựa chọn mô hình bảo hiến ở mỗi quốc gia
phụ thuộc vào bốn yếu tố chính bao gồm:
- Các yếu tố pháp luật.
- Các yếu tố chính trị.
- Sự du nhập các mô hình bảo hiến.
- Ưu, nhược điểm mô hình bảo hiến.
Những yếu tố trên tạo nên sự đánh giá phù hợp về mô hình bảo hiến
với mỗi quốc gia. Sự lựa chọn mô hình bảo hiến phù hợp sẽ quyết định đến
hiệu quả trong hoạt động của mô hình. Trên cơ sở đánh giá các mô hình
bảo hiến tiêu biểu trên thế giới, áp dụng vào điều kiện khách quan cũng
như chủ quan ở Việt Nam, dựa vào thực trạng pháp luật Việt Nam cũng
như nhu cầu cần có mô hình bảo hiến, luận văn xin đề xuất mô hình cho
Việt Nam trong tương lai “Hội đồng Hiến pháp”.
Mô hình hội đồng Hiến pháp tuy không phải là mô hình tiêu biểu
nhất trên thế giới, tính hiệu quả trong hoạt động vẫn còn nhiều vấn đề
nhưng xét trên nhiều phương diện đây là mô hình thích hợp với Việt Nam.
Mô hình hội đồng Hiến pháp là lựa chọn an toàn nhất cho sự ổn định chính
trị, xã hội ở nước ta, đồng thời khi xây dựng mô hình này sẽ không cần

86
thay đổi quá nhiều nền tảng hệ thống pháp luật đã tồn tại. Việt Nam đang
đứng trước ngưỡng cửa của hội nhập và phát triển, chúng ta cần phải chọn
con đường định hướng đúng đắn, một mô hình bảo hiến phù hợp với đất
nước là cần thiết. Xây dựng mô hình bảo hiến chuyên trách là quá trình lâu
dài và khó khăn, chúng ta không nên nóng vội, máy móc, điểm cốt lõi là
lựa chọn chính xác mô hình bảo hiến và có sự điều chỉnh để phù hợp với
Việt Nam.

87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị, Nghị quyết 48 ngày 2/5/2005 về chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2020, Hà Nội.
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Báo cáo chính trị Trung ương
Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X năm 2006 của Đảng Cộng
sản Việt Nam, Hà Nội.
3. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013,
nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2014.
4. GS.TS Nguyễn Đăng Dung, GS.TS Phạm Hồng Thái, TS Vũ
Công Giao (Đồng chủ biên); Về Pháp quyền và chủ nghĩa hợp hiến; nhà
xuất bản Lao động - Xã hội, Hà Nội, năm 2012.
5. Văn phòng Quốc hội, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế về bảo hiến, nhà
xuất bản Thời đại, Hà Nội, năm 2009.
6. Hiến pháp Cộng hòa Pháp, Tuyển tập một số Hiến pháp trên thế
giới, nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, năm 2012.
7. TS. Nguyễn Ngọc Sơn, Bàn về thiết chế Hội đồng Hiến pháp, nhà
xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, năm 2013.
8. TS. Đặng Minh Tuấn, Trung Quốc và Việt Nam, truyền thống Xô
Viết tối cao; Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, năm 2012.
9. TS. Đỗ Minh Khôi, Các yếu tố ảnh hưởng đến cơ chế bảo hiến,
Hội thảo cơ chế bảo hiến một số nước trên thế giới và bài học cho Việt
Nam, Viên nghiên cứu lập pháp (Ủy ban Thường vụ Quốc hội), năm 2012.
10. PGS.TS Nguyễn Việt Hương (chủ biên), Giáo trình Lịch sử nhà
nước và pháp luật thế giới, nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2007.
11. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩ Việt Nam năm 1946,
nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

88
12. TS. Bùi Ngọc Sơn, Tiền cảnh chế độ bảo hiến ở Việt Nam, Khoa
Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, năm 2009.
13. TS. Võ Trí Hảo, Lựa chọn mô hình tài phán phán Hiến pháp,
những vấn đề phổ biến và đặc thù quốc gia - Đại học Luật Hà Nội, năm 2012.
14. TS. Nguyễn Đức Lam - Văn phòng Quốc hội, Các mô hình bảo
hiến trên thế giới và khả năng lực chọn của Việt Nam, năm 2012.
15. Ban biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Mô hình tổ
chức và hoạt động Hội đồng Hiến pháp một số nước trên thế giới, nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2013.
16. GS.TS Hoàng Thị Kim Quế - Khoa luật - Đại học quốc gia Hà
Nội (chủ biên), Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật thế giới, nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà nội, năm 2007.
17. Giáo trình Luật so sánh, Đại học Luật Hà Nội, nhà xuất bản
Công an nhân dân, năm 2011.
18. GS.TS Nguyễn Đăng Dung, GS.TS Phạm Hồng Thái, TS
Nguyễn Sĩ Dũng, TS Vũ Công Giao, TS Đặng Minh Tuấn (Đồng chủ
biên), Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992, những vấn đề lý luận và thực tiễn.
Tập II- Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
19. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hiến pháp những vấn đề
lý luận và thực tiễn, nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2011.
20. TS. Đặng Minh Tuấn, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội,
Bình luận các quy định dự thảo Hiến pháp về hội đồng Hiến pháp, năm 2013.
21. Giáo trình Luật Hiến pháp, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà
Nội, nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
22. Ủy ban Thường vụ Quốc hội :Tài liệu Hội thảo Cơ sở lý luận và
thực tiễn thành lập cơ quan bảo hiến phục vụ việc sửa đổi, bổ sung Hiến
pháp năm 1992, Hạ Long, năm 2011.

89

You might also like