You are on page 1of 35

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA: LUẬT
...………○0○………...

TIỂU LUẬN MÔN HỌC


LUẬT HIẾN PHÁP

ĐÁNH GIÁ MÔ HÌNH CƠ CHẾ BẢO HIẾN HIẾN PHÁP NĂM 2013

NGƯỜI THỰC HIỆN: LÊ THỊ HỒNG ÁNH


MÃ SINH VIÊN: 2214610015
NGÀNH HỌC: LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

Hà Nội, 2022
MỤC LỤC

1
PHẦN MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử pháp lý thế giới đã ghi nhận Hiến pháp xuất hiện nhằm mục đích
tạo sự cân bằng, kiểm soát quyền lực nhà nước, đặt ra một phạm vi giới hạn mà
nhà nước buộc phải tuân thủ để bảo vệ quyền công dân. Căn cứ vào Hiến pháp,
các quy phạm pháp luật và các chính sách để quản lý xã hội được ban hành nhằm
đáp ứng nguyện vọng vủa nhân dân. Hiến pháp đại diện cho nền dân chủ đối với
mỗi quốc gia, thể hiện ý chí và quyền lực nhân dân. Tuy nhiên, Hiến pháp cũng
mang tính nhạy cảm và mong manh, dễ trở thành công cụ để cho những thế lực
chính trị thao túng, nô dịch số đông còn lại để phục vụ những mưu đồ riêng của
mình. Vì sự quan trọng đó, Hiến pháp cần sự bảo vệ của tất cả các công dân và
của cả hệ thống pháp luật với những thiết chế đủ mạnh để Hiến pháp thực sự
được tôn trọng và vì con người; từ đó, nhu cầu về cơ chế bảo vệ Hiến pháp xuất
hiện. Cơ chế bảo hiến nhằm mục đích bảo vệ Hiến pháp đồng thời bảo vệ nền dân
chủ, bảo vệ quyền lực mà nhân dân đã trao cho nhà nước. Hiến pháp và cơ chế
bảo hiến trở thành công cụ thiết yếu để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân trong bất cứ một mô hình nhà nước dân chủ ở mọi giai đoạn của lịch sử
nhân loại.
Với mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
hơn lúc nào hết vấn đề xây dựng và hoàn thiện mô hình bảo hiến nhằm bảo vệ giá
trị pháp lý tối cao của Hiến pháp cần được tiếp tục đặt ra và nghiên cứu một cách
nghiêm túc. Đường lối và chính sách của nhà nước nhằm hoàn thiện hệ thống
pháp luật đã chỉ rõ mục tiêu coi Hiến pháp là nền tảng hệ thống pháp luật, cần
được bảo vệ giá trị pháp lý. Nghị quyết 48 ngày 2/5/2005 của Bộ chính trị về
chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2020: Xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh
bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp
luật; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ
vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập 2 quốc tế, xây dựng Nhà nước
trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của
công dân, góp phần đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại
vào năm 2020 [1].
Trên cơ sở nghị quyết 48 ngày 2/5/2005 của Bộ chính trị về chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2020, báo cáo chính trị của Ban
chấp hành Trung ương Đảng - Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X năm 2006 của
Đảng tiếp tục ghi nhận: “tiếp tục xây dựng và hoàn thiện mô hình Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa” xác định “xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám
sát và tính hợp hiến và hợp pháp trong hoạt động và quyết định của cơ quan công
quyền”, xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt
động lập pháp, hành pháp và tư pháp” [2].

2
Hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp đã là mục tiêu hướng đến trong một
khoảng thời gian rất dài tuy nhiên bởi nhiều lý do mà một cơ quan chuyên trách
bảo vệ Hiến pháp ở Việt Nam chưa thể hình thành. Việt Nam mới hoàn thiện và
ban hành Hiến pháp 2013 nhưng nhu cầu hình thành một mô hình bảo hiến
chuyên trách trong thời kỳ mới vẫn còn tồn tại. Hiến pháp 2013 là bản Hiến pháp
của thời kỳ mới; trên cơ sở quán triệt và thể chế hoá các chủ trương, đường lối
của Đảng; tạo cơ sở chính trị - pháp lý cho việc thực hiện công cuộc xây dựng đất
nước trong thời kỳ đi lên chủ nghĩa xã hội. Hiến pháp năm 2013 sẽ tiếp tục sứ
mệnh lịch sử của mình: Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến
pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh [3].
Ở nước ta hiện nay, vấn đề bảo vệ Hiến pháp đã được đặt ra từ lâu với sự
tham gia của chuyên gia pháp lý và những nhân sĩ có tâm huyết. Tuy nhiên, trên
thực tế vẫn chưa xây dựng được những thiết chế cụ thể và rõ ràng mang tính Luật
định hoặc cao hơn là Hiến định để có cơ chế thực sự hiệu quả bảo vệ Hiến pháp,
bảo vệ nhân dân trước sự vi hiến mà ở đây chủ yếu đến từ các cơ quan nhà nước
và người có trách nhiệm và có cơ chế xử lý các hành vi vi hiến ngày càng có
chiều hướng ra tăng. Vì thế nên, việc xây dựng một Hiến pháp tốt và xây dựng
một cơ chế để bảo vệ Hiến pháp hiệu quả là một nhu cầu chính đáng. "Lịch sử
không ban tặng cho một quốc gia nhiều cơ hội như thế và khi cơ hội đến, phải
vượt qua các thách thức vì tương lai của quốc gia bị đe dọa”[4].
Hiến pháp năm 2013 ra đời với hy vọng sẽ có quy định cụ thể mang tính
Hiến định về cơ chế bảo hiến để từ đó xây dựng hệ thống các quy định pháp luật
tạo cơ chế càn thiết để xử lý các hành vi vi hiến.
Nhận thức được tầm quan trọng và sự khó khăn trong việc xây dựng và
hoàn thiện mô hình bảo hiến ở Việt Nam, em xin lựa chọn đề tài: “Đánh giá mô
hình bảo hiến theo tinh thần Hiến pháp năm 2013 ở Việt Nam hiện nay”.
Lịch sử nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu về Hiến pháp, đặc biệt về cơ chế bảo hiến không phải là đề tài
quá mới với các nhà nghiên cứu cả ở thế giới và Việt Nam. Đặc biệt là trong giai
đoạn sửa đổi Hiến pháp năm 1992, hàng loạt những hội nghị, hội thảo, tọa đàm
được tổ chức nhằm đưa ra những nghiên cứu, kiến nghị về việc xây dựng mô hình
bảo hiến chuyên trách trong Hiến pháp mới. Tuy Hiến pháp 2013 không ghi nhận
mô hình bảo hiến chuyên trách như kỳ vọng nhưng những nghiên cứu về mô hình
bảo hiến đã tạo nền tảng cho việc tiếp tục xây dựng bảo hiến ở Việt Nam trong
tương lai. Trong thời gian qua đã có những nghiên cứu khoa học, công trình khoa
học, bài viết, chuyên đề, sách chuyên khảo nổi bật và đáng chú ý bao gồm:
GS.TS Nguyễn Đăng Dung, Chủ nghĩa Hiến pháp và vấn đề bảo hiến ở Việt
Nam, Kỷ yếu về Hội thảo quốc tế về bảo hiến, Văn phòng Quốc hội năm 2009.
Sách chuyên khảo Mô hình tổ chức và hoạt động của Hội đồng Hiến pháp ở một
số nước trên thế giới, Ban Biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2013.
3
Tài liệu tham khảo Kỷ yếu Hội thảo quốc tế về bảo hiến, Văn phòng Quốc hội,
nhà xuất bản Thời đại, năm 2009.
Một số đề tài nghiên cứu thạc sỹ, tiến sĩ liên quan về đề tài bảo vệ Hiến pháp
như:
Luận án tiến sĩ chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật “Bảo hiến
trong nhà nước pháp quyền” của tác giả Nguyễn Mậu Tuân, Khoa Luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội, năm 2011.
Luận án tiến sĩ chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật “Cơ chế
bảo hiến trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” tác giả Tào Thị Quyên,
Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2012.
Luận văn thạc sỹ chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật: Cơ chế
bảo vệ Hiến pháp ở Việt Nam của tác giả Bùi Thanh Cương, Khoa Luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội, năm 2014.
Các công trình khoa học nghiên cứu tập trung vào những vấn đề lý luận
chung về bảo hiến, khái niệm, vai trò bảo hiến, cung cấp những nền tảng cơ bản
về mô hình bảo hiến trên thế giới, mô hình bảo hiến hiện tại ở Việt Nam đồng
thời chỉ rõ ra những kinh nghiệm Việt Nam có thể tham khảo, cũng như lựa chọn
cho mình một mô hình bảo hiến phù hợp với đặc thù quốc gia. Những nghiên cứu
đã thể hiện những ưu điểm, hạn chế của mô hình bảo hiến Việt Nam hiện tại đồng
thời đề xuất khắc phục hạn chế nhằm hoàn thiện cơ chế bảo hiến từ đó tạo nền
tảng cho việc xây dựng cơ quan bảo hiến chuyên trách ở nước ta. Những nghiên
cứu khoa học trên là nguồn tham khảo, vận dụng và học hỏi quan trọng để đề tài
tiểu luận có thể thực hiện hoàn chỉnh.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là đánh giá mô hình bảo hiến theo tinh thần của bản
Hiến pháp năm 2013, trên cơ sở những giá trị kế thừa, sự hình thành và phát triển,
tham khảo từ lịch sử bảo hiến ở Việt Nam và trên thế giới, đề xuất một số kiến
nghị nhằm hoàn thiện mô hình bảo hiến ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để hoàn thành mục đích trên, luận văn cần thực hiện những nhiệm vụ:
- Nghiên cứu các đặc điểm của các cơ quan bảo vệ Hiến pháp trên thế giới. Bên
cạnh đó, tìm hiểu tại sao các quốc gia lại lựa chọn mô hình bảo hiến đó, nhằm tìm
ra những mô hình phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn ở Việt Nam.
- Nghiên cứu cơ chế bảo hiến ở Việt Nam theo Hiến pháp năm 2013, đánh giá sự
phù hợp, ưu điểm, hạn chế của mô hình.

4
- Nghiên cứu đưa ra các kiến nghị, kế thừa và phát triển một mô hình bảo hiến
chuyên trách phù hợp với đặc điểm quốc gia đối với Việt Nam theo tinh thần Hiến
pháp năm 2013.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Bài tiểu luận nghiên cứu lý thuyết về cơ chế bảo vệ hiến pháp ở Việt Nam
và trên thế giới; từ đó, đánh giá mô hình bảo hiến dưới góc độ Hiến pháp năm
2013 và thực tiễn áp dụng cơ chế bảo hiến ở Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu lý thuyết về cơ chế bảo vệ hiến pháp ở Việt Nam gồm:
quy định hiến pháp và quy định luật về bảo vệ Hiến pháp (thể chế, thiết chế và cơ
chế vận hành), trong đó tập trung chủ yếu vào Hiến pháp năm 2013 và các luật có
liên quan. Đồng thời nghiên cứu về các mô hình hội đông Hiến pháp, Thành lập
Tòa án Hiến pháp, Thành lập cơ quan bảo vệ Hiến pháp trực thuộc Quốc hội,…
Nghiên cứu đánh giá thực tiễn áp dụng cơ chế bảo hiến cũng chủ yếu tập
trung vào thời gian từ năm 2013 tơi nay, theo tinh thần bảo hiến của Hiến pháp
năm 2013 nhằm xâc định những thuận lợi và khó khăn, thách thức trong việc xây
dựng mô hình bảo hiến, trên cơ sở đó đề xuất một số phương hướng, giải pháp
nhằm hoàn thiện cơ chế bảo hiến ở Việt Nam.
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Bài tiểu luận đã đề cập khá toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn của cơ
chế bảo hiến ở Việt Nam hiện nay, đã đưa ra những luận điểm khoa học về sự cần
thiết phải tồn tại nhu cầu bảo hiến. Đồng thời, nghiên cứu những đặc điểm tác
động đến mô hình bảo hiến của một quốc gia, gắn với thực tiễn Việt Nam. Trên
cơ sở đó, bài tiểu luận đưa ra một số đề xuất mô hình bảo hiến chuyên trách phù
hợp với yêu cầu hoàn cảnh, xây dựng và hoàn thiện cơ chế bảo hiến ở nước ta.

5
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC
MÔ HÌNH BẢO HIẾN TRÊN THẾ GIỚI
1. Khái niệm, vị trí vai trò của bảo hiến
1.1. Khái niệm bảo hiến
Hiện nay, trên thế giới chưa có một định nghĩa thống nhất, chính xác nào
về bảo hiến. Các thuật ngữ được dùng trong mỗi hoàn cảnh khác nhau tùy thuộc
vào hoàn cảnh quốc gia, điều kiện chính trị của quốc gia. Bảo hiến hay cách gọi
thông thường khác gọi là bảo vệ Hiến pháp hay tài phán Hiến pháp có thể hiểu là
cách thức đánh giá tính hợp hiến của các văn bản pháp luật, các hành vi pháp lý
của các cơ quan quyền lực nhà nước được thực hiện bởi một cơ quan hiến định.
Theo nghĩa hẹp, bảo hiến được giải thích là bảo vệ tính hợp hiến của các
đạo luật, mục đích nhằm tìm ra sự phù hợp giữa Hiến pháp, đạo luật gốc với
những văn bản mang tính pháp lý khác, sự phù hợp ở đây không mang tính
khuyến cáo mà là sự chính xác. Mỗi văn bản có tính pháp lý được ban hành ở bất
kỳ cơ quan nào đều cần có sự tuân thủ tuyệt đối Hiến pháp.
Ở một góc độ theo nghĩa rộng hơn, bảo hiến là bảo vệ tinh thần và nội
dung của Hiến pháp. Tinh thần trong bản Hiến pháp mà các nhà lập hiến đã
truyền tải vảo bản Hiến pháp, bảo vệ mối liên hệ giữa hành pháp, tư pháp và lập
pháp, kiểm soát tính hợp hiến của các hành vi thực hiện bởi thiết chế nhà nước
được quy định trong Hiến pháp. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp chỉ cách thức tổ chức
thực hiện bảo vệ Hiến pháp của một quốc gia được thể hiện thông qua mô hình
bảo hiến mà quốc gia đó lựa chọn. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp ở mỗi quốc gia
thường không giống nhau nhưng vẫn có điểm chung nhất định.
1.2. Vị trí, vai trò của bảo hiến
Bảo hiến đóng góp rất lớn cho sự hoàn thiện của pháp luật, nền dân chủ
quốc gia cũng như sự phát triển của quốc gia. Mô hình bảo hiến ở mỗi quốc gia
6
tùy thuộc vào hoàn cảnh nên có những đặc điểm riêng biệt nhưng cơ bản bảo hiến
được xây dựng với những vai trò và mục đích chung. Mô hình bảo hiến được xây
dựng với những mục tiêu cơ bản sau:
- Kiểm soát quyền lực nhà nước, duy trì hiệu quả hoạt động cả bộ máy nhà nước,
hoàn chỉnh chức năng của từng cơ quan trong bộ máy nhà nước.
- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Bảo hiến nhằm mục đích để bảo vệ giá trị pháp lý tối cao của Hiến pháp,
cũng như hoàn thiện các chế định pháp luật. Hiến pháp như tên gọi của nó, sẽ
bảo vệ những giá trị cốt lõi, những điểm căn bản nhất của quốc gia cho dù bản
Hiến pháp đó tồn tại ở bất kỳ dạng nào: thành văn hay bất thành văn. Khi tiến
hành xây dựng pháp luật, những văn bản pháp luật xây dựng có thể không hoàn
toàn dựa trên cái nhìn khách quan về vấn đề mà còn mang nhiều tính hạn chế, cá
nhân. Việc tồn tại những điểm sai sót, không thống nhất, mâu thuẫn là điều không
thể tránh khỏi trong thực tiễn. Mô hình bảo hiến được hình thành sẽ bảo vệ xã hội
khỏi những văn bản, những điều luật mâu thuẫn, tạo nên sự thống nhất trong
phạm vi của Hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp có thể hạn chế một phần hoặc
toàn bộ những vấn đề có thể phát sinh trong việc xây dựng, ban hành và thực thi
pháp luật.
Bảo hiến bảo vệ hoàn chỉnh quy trình “Lập hiến - lập pháp”, đưa quy
trình vào trong thực tế và áp dụng. Hệ thống pháp luật sẽ được xây dựng hoàn
chỉnh, đúng trình tự, có sự giám sát chặt chẽ, có sự điều chỉnh kịp thời khi cần.
Hiến pháp điều chỉnh những mối quan hệ xã hội đúng theo khuôn khổ pháp luật,
theo những cốt lõi của Hiến pháp. Hiến pháp hạn chế quyền lực của cơ quan nhà
nước trong phạm vi mà Hiến pháp quy định, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, quyền công dân được xây dựng hoàn thiện trong Hiến pháp được bảo vệ
tuyệt đối. Nhân dân thông qua cơ quan bảo hiến thực hiện quyền giám sát của
mình, yêu cầu cơ quan bảo hiến bảo vệ quyền và lợi ích của mình trước những
văn bản vi hiến, hành vi vi hiến của cơ quan quyền lực nhà nước hay của những
cá nhân thẩm quyền.
Bảo hiến là điều kiện tiên quyết để có thể đưa Hiến pháp vào thực tiễn
cuộc sống, bảo đảm giá trị pháp lý của các quy phạm pháp luật, tạo nên sự thống
nhất trong toàn bộ quá trình xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, khiến cho
pháp luật có thể đi sâu vào thực tiễn. Bảo hiến xây dựng một cơ chế cụ thể không
chỉ bảo vệ tính pháp lý của Hiến pháp đồng thời xây dựng cơ chế để công dân yêu
cầu nhà nước xem xét tính hợp hiến của một điều luật, một đạo luật hay một hành
vi bất kỳ vi hiến xảy ra. Đối tượng bảo vệ Hiến pháp ở hướng tới là những hành
vi vi hiến và cả những văn bản vi hiến

7
2. Sự hình thành và phát triển của các mô hình bảo hiến điển hình trên thế
giới.
Nền móng của bảo hiến được cho là có thể xuất hiện vào thời Hy Lạp cổ
đại. Những hình thức sơ khai của mô hình bảo hiến xuất hiện ngày càng nhiều ở
châu Âu trung đại, các quốc gia bắt đầu có những điều luật liên quan đến mô hình
bảo hiến. Tuy không thành chế định bảo hiến cụ thể nhưng lại có giá trị tham
khảo rất lớn như: Đức, Pháp, Bồ Đầu Nha, Na Uy, Đan Mạch, Hy Lạp, Áo,
Rumani. Vương quốc Anh cũng có những đóng góp nhất định vào sự phát triển
của cơ chế bảo hiến. Anh quốc được coi là quê hương của nền dân chủ, quê
hương của nghị viện hiện đại. trong đó có quan điểm về tính tối cao của Hiến
pháp, mặc dù nước Anh không có một bản Hiến pháp thành văn.
Mô hình bảo hiến trên thế giới có thể phân chia thành các kiểu mô hình
khác nhau. Nếu phân chia theo cách thức giám sát thì có mô hình giám sát Hiến
pháp tập trung và mô hình giám sát Hiến pháp phi tập trung. Cách thức phân chia
theo trình tự, thủ tục, thẩm quyền cơ quan bảo hiến thông thường là cách phân
chia được sử dụng nhiều nhất thì trên thế giới có bốn mô hình bảo hiến điển hình
được áp dụng như sau:
- Mô hình bảo hiến bằng tòa án Hiến pháp (điển hình tại Áo, Đức).
- Mô hình bảo hiến bằng tòa án tư pháp (điển hình tại Hoa Kỳ).
- Mô hình bảo hiến bằng hội đồng Hiến pháp (điển hình tại Pháp).
- Mô hình bảo hiến khác.
Từ năm 1918 – 1939, mô hình bảo hiến của Áo nổi lên, giai đoạn này được
coi là "thời kỳ của nước Áo" (the Austrian Period). Nước Áo áp dụng công trình
của hai nhà khoa học Hans Kelsen và Adolf Merkl sáng tạo ra mô hình bảo hiến
tập trung. Mô hình này đã mở đường cho hàng loạt các Tòa án Hiến pháp ở Châu
Âu. Hiến pháp năm 1920 ở Áo xác nhận nền tảng của Tòa án Hiến pháp. Mô hình
Tòa án Hiến pháp chịu trách nhiệm cơ bản bảo hiến như là một nhiệm vụ độc lập
đã được xác nhận ở Áo và phổ biến ra nhiều quốc gia khác nhất là ở châu Âu, trở
thành một trong những mô hình cơ bản về cơ chế bảo hiến trên thế giới.
Sau giai đoạn này, rất nhiều các quốc gia ở khắp các khu vực trên thế giới
thành lập cơ quan bảo vệ Hiến pháp theo những mô hình khác nhau như Nhật
Bản, Thái Lan, Ấn Độ, Myanma, Italia [5]… Ngoài tòa án (tòa án thường và tòa
án Hiến pháp) như ở Mỹ và Áo, ở một số nước, pháp luật còn giao quyền bảo
hiến cho một số cơ quan khác với những tên gọi, ví dụ như hội đồng Hiến pháp,
các tòa đặc biệt thuộc Toà án tối cao, hoặc cho bản thân Nghị viện. Mô hình hội
đồng Hiến pháp của Pháp năm 1958 và mô hình bảo hiến Quốc hội - nghị viện
của Liên Xô đã mở ra thêm nhiều sự lựa chọn phù hợp hơn hoàn cảnh của mỗi
quốc gia.
Các mô hình bảo hiến trên thế giới hiện nay đã được phát triển nhanh
chóng, được đa số các quốc gia trên thế giới ghi nhận là một trong những chế
8
định bắt buộc tồn tại trong hệ thống pháp luật quốc gia, được quy định trong văn
bản có giá trị pháp lý cao nhất của quốc gia đó ở dạng thành văn hoặc bất thành
văn. Tính đến nay theo những số liệu không chính thức đã có ít nhất hơn 80% các
quốc gia trên thế giới quy định về vấn đề bảo vệ Hiến pháp dưới những hình thức
khác nhau.
2.1. Mô hình hội đồng Hiến pháp
a) Đặc điểm của mô hình hội đồng Hiến pháp:
Mô hình hội đồng Hiến pháp mang tính đặc thù so với những mô hình khác trên
thế giới:
Thứ nhất, mô hình không chỉ mang bản chất đúng của tài phán Hiến pháp,
mà còn mang đậm yếu tố tổ chức chính trị ở trong đó. Mô hình hội đồng Hiến
pháp vận hành hoạt động theo một cơ chế đặc biệt không công khai quy trình bảo
hiến. Thành viên mô hình cũng không phải toàn bộ là những nhà nghiên cứu pháp
luật mà còn bao gồm những nhân vật được quy định trong đó có cả những tổng
thống đã hết nhiệm kỳ. Hội đồng Hiến pháp thời gian đầu xây dựng chỉ có nhiệm
vụ kiểm tra dự án luật chưa được thông qua bởi nghị viện. Tuy nhiên, sau một
thời gian dài nhận thấy việc chỉ kiểm tra dự án đã làm mất đi tính thực tế của
Hiến pháp. Nhiều vấn đề pháp luật khi áp dụng và thực tiễn mới có thể phát hiện
được sự vi hiến tồn tại trong quy phạm pháp luật, đến khi sửa đổi, Hiến pháp đã
quy định đầy đủ quyền hạn của hội đồng Hiến pháp trong việc thẩm tra những dự
án luật và cả những văn bản pháp luật đã được thông qua bởi nghị viện. Hội đồng
Hiến pháp sau khi thẩm tra được tuyên bố văn bản hay hành vi là vi hiến, có thể
hủy bỏ hoặc sửa đổi những văn bản hay hành vi pháp luật có sự vi hiến. Khi mới
đầu xây dựng, các nhà lập pháp đã không nhất quán ý tưởng, cho rằng nhiều khả
năng những quy định về hội đồng Hiến pháp mang tính hình thức. Tuy nhiên, khi
vận hành mô hình đã hoạt động mang lại sự hiệu quả, trở thành mô hình tiêu biểu
trong các mô hình bảo hiến.
Thứ hai, mô hình hội đồng Hiến pháp là mô hình có thể phù hợp với hoàn
cảnh đặc thù và khó có thể áp dụng rộng rãi được. Một thể chế mang bản chất
chính trị phải có những cách thức riêng mới có thể tránh được sự ảnh hưởng của
những cơ quan quyền lực nhà nước khác. Hội đồng Hiến pháp là mô hình rất khó
để áp dụng thành công nếu không thực sự phù hợp quốc gia lựa chọn mô hình.
b) Sự phát triển của mô hình hội đồng Hiến pháp trên thế giới:
Mô hình hội đồng Hiến pháp đặc trưng về bảo hiến được hình thành đầu
tiên ở Pháp. Hội đồng Hiến pháp cũng có nhiều điểm tương đồng với mô hình tòa
án Hiến pháp, tuy nhiên hội đồng Hiến pháp được xây dựng theo xu hướng một
cơ quan thuộc hệ thống chính trị chức không thuộc ngành quyền lực tài phán, một
dạng của hệ thống Tư pháp. Hội đồng Hiến pháp đã được phát triển trong một
khoảng thời gian dài và được ghi nhận như một trong ba mô hình bảo hiến lớn
trên thế giới. Tuy nhiên, hội đồng Hiến pháp không phải là dạng mô hình bảo
hiến có thể phổ biến và lan tỏa mạnh mẽ như Tòa án Hiến pháp hay tòa án bảo
9
hiến kiểu Mỹ. Đây là mô hình chứa đựng những điểm đặc thù, các quốc gia trên
thế giới hiện nay áp dụng mô hình hội đồng Hiến pháp không quá nhiều. Hầu hết
các nước áp dụng mô hình là ở Châu Phi, Trung Đông và Châu Á, Pháp là quốc
gia duy nhất áp dụng mô hình tại châu Âu.
Mô hình hội đồng bảo hiến mang đặc điểm của cơ quan chính trị trộn lẫn
với cơ chế bảo hiến. Chức năng, thẩm quyền và trình tự thực hiện bảo hiến của
hội đồng Hiến pháp đều không giống cơ chế tài phán thông thường. Các quốc gia
khi lựa chọn mô hình hội đồng Hiến pháp đều phải chấp nhận những khó khăn
nhất định. Những quốc gia lựa chọn hội đồng bảo hiến đa phần chịu ảnh hưởng
nhất định bởi cộng hòa Pháp như các nước Bắc Phi hoặc tìm ra điểm phù hợp của
mô hình hội đồng Hiến pháp. Trên thế giới đã có các quốc gia áp dụng mô hình
hội đồng Hiến pháp bao gồm: Pháp, Tuynidi, Eetiopia, Senegal, Bờ Biển Ngà,
Iran, Campuchia, Li băng…
2.2. Mô hình bảo hiến bằng Tòa án ở Hoa Kỳ
a) Đặc điểm của mô hình bảo hiến kiểu Hoa Kỳ:
Thứ nhất, cơ quan bảo hiến Hoa Kỳ hoạt động dựa trên mô hình tòa án tư
pháp thông thường. Từ tòa án địa phương cho đến tòa án liên bang đều có thẩm
quyền xét xử những vụ án liên quan đến vi hiến. Tuy quyền hạn trao cho tất cả
các tòa án các cấp quyền bảo hiến nhưng các quyết định của các tòa án cấp cao
nhất có ưu thế bởi chỉ những quyết định đó mới có tính bắt buộc với mọi tòa
khác. Sau khi tòa án cấp cao nhất phủ nhận tính hợp hiến của đạo luật thì đạo luật
đó trên thực tế mới mất hiệu lực pháp lý.
Thứ hai, tòa án thực hiện giám sát Hiến pháp sau khi văn bản pháp luật được
ban hành hoặc có hiệu lực. Đây là một cái nhìn thực tiễn sâu sắc, mang màu sắc
của án lệ, đặc trưng của hệ thống thông luật, mọi đạo luật đều được kiểm nghiệm
tính pháp lý thông qua thực tiễn chứ không phải chỉ trên giấy tờ. Sự ảnh hưởng
của đạo luật nhất định phải được chứng minh bằng thực tiễn áp dụng.
Thứ ba, tòa án bảo vệ Hiến pháp trong từng sự việc cụ thể, điều này một
phần xuất phát từ triết lý chân lý luôn mang tính cụ thể của Hoa Kỳ. Tòa án chỉ
giám sát tính hợp hiến của văn bản pháp luật khi có những sự kiện pháp lý nhất
định, hay nói cách khác kiện tụng chính là tiền đề để Tòa án phán xét tính hợp
hiến của một đạo luật. Đây là ưu thế lớn của mô hình bảo hiến kiểu Hoa Kỳ khi
mà ngay cả việc hình thành cơ chế bảo vệ Hiến pháp mang dáng dấp của án lệ
(Án lệ đánh dấu sự ra đời của Hiến pháp trong vụ kiến Marbury chống Madison
với phán quyết của Chánh án Tòa án Tối cao Marshall). Quyền bảo hiến chỉ được
các Tòa án sử dụng trong trường hợp tìm thấy sự liên quan trực tiếp đến quyền và
lợi ích hợp pháp của người đề nghị xem xét tính hợp hiến của các đạo luật. Đặc
điểm này xác định rõ ràng hơn phạm vi của quyền giám sát, tránh sự trừu tượng
và kém hiệu quả. Từ đây, mô hình này cho phép các bên có tranh chấp trong vụ
án bình thường, khi nhận ra những phán quyết hay những hành động 22 trái Hiến
pháp của bên còn lại gây ảnh hưởng đến lợi ích của mình thì đều có quyền đề

10
nghị thực hiện quyền bảo vệ Hiến pháp (xuất phát từ một hành vi vi hiến ảnh
hưởng trực tiếp đến mình).
b) Sự phát triển của mô hình bảo hiến tòa án kiểu Hoa Kỳ
Mô hình bảo hiến Hoa Kỳ mang đúng bản chất mô hình tài phán Hiến
pháp khi tập trung hoàn toàn vào việc xét xử những vấn đề vi hiến. Có thể khẳng
định đây là một trong ba mô hình bảo vệ Hiến pháp lớn nhất trên thế giới. Sau khi
ra đời ở Hoa Kỳ, mô hình có sức lan tỏa vô cùng lớn, được rất nhiều các quốc gia
lựa chọn để học tập kinh nghiệm để tiến hành xây dựng.
Đánh giá về hiệu quả, mô hình bảo hiến kiểu Hoa Kỳ hoạt động hiệu quả
bảo vệ giá tối cao của Hiến pháp, mọi đạo luật có dấu hiệu vi hiến đều bị xem xét
và được xử lý. Có thể khẳng định đây là mô hình vô cùng hiệu quả trong hoạt
động bảo vệ Hiến pháp. Mô hình này sẽ giúp Hiến pháp được bảo vệ giá trị pháp
lý tối cao, quyền con người được bảo đảm và thực hiện trên góc độ nhất định.
Cơ sở cho sự phát triển rộng rãi của mô hình chính là hiệu quả trong việc
bảo vệ Hiến pháp mà cơ chế bảo hiến mang lại, thừa nhận và lựa chọn mô hình
bảo hiến kiểu Hoa Kỳ đồng nghĩa với việc đảm bảo yêu cầu trong hoạt động bảo
vệ Hiến pháp.
Mô hình bảo hiến bằng tòa án tư pháp đã được lựa chọn áp dụng hiệu quả
ở rất nhiều quốc gia trên thế giới: Hoa Kỳ, các nước Trung Đông, Châu Âu. Bắc
Mỹ và các nước Mỹ La Tinh… Tuy nhiên, mô hình bảo hiến tòa án tư pháp đòi
hỏi yêu cầu rất khắt khe để các quốc gia lựa chọn có thể áp dụng hiệu quả. Đó là
yêu cầu về hệ thống pháp luật hoàn thiện, sử dụng án lệ làm nguồn pháp luật, áp
dụng cơ chế phân quyền, cách thức đào tạo và bổ nhiệm thẩm phán luôn ở yêu
cầu rất cao. Chính những yêu cầu trên vừa đem lại hiệu quả cho mô hình và cũng
là hạn chế đi sự phát triển, lan tỏa của mô hình trên thế giới. Mô hình bảo hiến
bằng tòa án kiểu Hoa Kỳ là mô hình chỉ có thể áp dụng hiệu quả khi có thể đáp
ứng đầy đủ những yêu cầu của mô hình. Các nước khi xác định lựa chọn mô hình
cần có sự nghiên cứu những điều kiện cụ thể sao cho đáp ứng được những yêu
cầu khắt khe của mô hình.
2.3. Mô hình Tòa án Hiến pháp ở Đức
a) Đặc điểm mô hình tòa án Hiến pháp ở Đức
Thứ nhất, tòa án Hiến pháp tiến hành hoạt động xem xét văn bản pháp lý,
hành vi, sự kiện một cách độc lập, có trình tự và thủ tục hoạt động riêng, thống
nhất và đồng bộ, không bị ảnh hưởng bởi hệ thống tư pháp. Trình tự thủ tục bảo
hiến được xây dựng theo tính đặc thù mô hình, không bị trùng lặp với bất kỳ thủ
tục tố tụng dân sự, hình sự hay hành chính. Tòa án Hiến pháp xem xét tất cả
những vấn đề liên quan đến bảo vệ Hiến pháp, thụ lý không chỉ những vụ việc
mang tính cụ thể mà còn tiến hành xem xét cả những vấn đề có dấu hiệu vi hiến.
Tòa án Hiến pháp sẽ thụ lý tất cả những vụ việc được yêu cầu đúng trình tự thủ
tục tố tụng.

11
Thứ hai, tòa án Hiến pháp hoạt động độc lập với hệ thống cơ quan quyền
lực nhà nước, không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ nhánh quyền lực lập pháp, hành
pháp hay tư pháp. Tòa án Hiến pháp có quyền tuyên bố những văn bản pháp lý là
vi hiến, có quyền đình chỉ hay hủy bỏ văn bản pháp luật đã có hiệu lực pháp luật.
Thứ ba, tòa án Hiến pháp là hoạt động trên nguyên tắc công khai, thông
thường hướng đến việc xem xét kiểm hiến sau, kiểm tra các văn bản đã có hiệu
lực pháp luật chứ không thực hiện nhiệm vụ kiểm hiến trước. Điều này xuất phát
từ yêu cầu thực tiễn của nước Đức khi xây dựng cơ quan chuyên trách, đặc điểm
trên vừa mang tính đặc thù, vừa là hạn chế của tòa án Hiến pháp.
b) Sự phát triển của mô hình tòa án Hiến pháp ở Đức
Mô hình bảo hiến bằng Tòa Hiến pháp với ưu điểm là một thiết chế tài
phán độc lập, riêng biệt, có quyền hạn đặc biệt so với hệ thống tư pháp cũng như
các cơ quan quyền lực nhà nước, là một trong những mô hình có thể áp dụng một
cách thống nhất và đồng bộ từ việc xây dựng cơ quan bảo hiến đến trình tự, thủ
tục xem xét mô hình tòa án Hiến pháp.
Mô hình tòa án Hiến pháp là mô hình bảo vệ Hiến pháp được nhiều nước
sử dụng nhất trên thế giới, có sự phát triển và lan tỏa rộng rãi trên toàn thế giới.
Mô hình tòa án Hiến pháp được đánh giá hiệu quả bậc nhất trong hoạt động bảo
hiến. Mô hình thể hiện được ưu điểm tối ưu của một thiết chế bảo hiến tập trung
với sức mạnh phán quyết của cơ quan tư pháp. Mọi quyết định của tòa án Hiến
pháp đều mang tính độc lập, có thẩm quyền quyết định chung thẩm, bắt buộc với
mọi đối tượng.
Mô hình tòa án Hiến pháp ra đời với những ưu điểm của mình đã phát triển
vô cùng mạnh mẽ ở châu Âu điển hình là Áo và Đức. Sau đó rất nhiều các quốc
gia trên thế giới lựa chọn và áp dụng cơ chế bảo vệ Hiến pháp. Đến nay, tòa án
Hiến pháp đã trở thành mô hình bảo hiến mà rất nhiều quốc gia ở khắp các khu
vực trên thế giới lựa chọn áp dụng: Đức, Tây Ban Nha, Bỉ, Nga, Ba Lan, Séc,
Hunggari, Hàn Quốc, Thái Lan….
2.4. Mô hình bảo hiến Quốc hội
Ngoài ba mô hình đặc thù đã nêu ở trên, thì trong lịch sử hình thành và
phát triển cơ chế bảo hiến trên thế giới cũng đã xuất hiện các mô hình bảo hiến
khác. Trong đó, mô hình bảo hiến nghị viện là mô hình được áp dụng ở một số
quốc gia và đem lại những giá trị nhất định.
Mô hình bảo hiến mà Quốc hội là cơ quan đại diện cho nhân dân có quyền
bảo hiến. Mô hình bảo hiến bằng nghị viện được áp dụng ở một số quốc gia như
Liên Xô, các nước Đông Âu cũ, ở Trung Quốc, Lào và Việt Nam. Mô hình được
áp dụng ở không nhiều quốc gia và đã bộc lộ nhiều những nhược điểm khiến cho
vấn đề bảo vệ Hiến pháp không được hiệu quả ở các quốc gia áp dụng. Mô hình
bảo hiến xây dựng cơ quan thuộc ngành quyền lực lập pháp để xem xét những
hành vi vi hiến. Bên cạnh đó, Quốc hội là cơ quan không đủ trình tự và thủ tục
đặc biệt để tiến hành xem xét vấn đề vi hiến. Việc lựa chọn mô hình bảo hiến
12
bằng Quốc hội sẽ đem lại rất nhiều những hạn chế trong quá trình thực hiện chức
năng Hiến pháp ở mỗi quốc gia.
Mô hình bảo hiến Quốc hội tuy có những điểm hạn chế nhưng tại thời
điểm xây dựng thì đây có thể coi là mô hình phù hợp nhất với chế độ chính trị Xã
hội chủ nghĩa [8].
Quốc hội là cơ quan chuyên trách thực hiện hai chức năng bao gồm: lập
hiến và kiểm hiến. Quyền hạn Quốc hội là cao nhất, Quốc hội có thể tự mình thực
hiện việc bảo vệ Hiến pháp, kiểm tra văn bản pháp luật hoặc trao quyền cho một
ủy ban trực thuộc tiến hành bảo hiến. Thông thường Quốc hội trao quyền cho ủy
ban trực thuộc thực hiện bảo hiến.
Mô hình bảo hiến bằng Quốc hội có trình tự và thủ tục đặc biệt, không
được công bố rộng rãi. Cơ quan có thẩm quyền sẽ tự động xem xét những hành
vi, văn bản có dấu hiệu vi hiến và thông báo lại cho Quốc hội xử lý nếu phát hiện
sự vi hiến. Quốc hội là cơ quan cuối cùng quyết định tính hợp hiến của vấn đề.

13
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CƠ CHẾ BẢO HIẾN Ở
VIỆT NAM
1. Sơ lược về các mô hình bảo hiến theo quy định của các Hiến pháp qua các
giai đoạn
1.1. Những nền tảng ban đầu cho sự hình thành bảo hiến theo Hiến pháp
năm 1946
Bối cảnh ra đời: Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp dân chủ đầu tiên của
nước ta được ra đời sau khi cách mạng tháng Tám thành công đã giành lại chủ
quyền cho đất nước, tự do cho nhân dân và lập ra nền dân chủ cộng hoà. Hiến
pháp 1946 được xây dựng trong hoàn cảnh chiến tranh vẫn đang còn tiếp diễn,
thù trong giặc ngoài vẫn còn đe dọa đến nền độc lập non trẻ của đất nước. Tuy
được xây dựng trong khoảng thời gian ngắn, gặp vô vàn những điều kiện khó
khăn nhưng Hiến pháp 1946 vẫn để lại những giá trị to lớn trong lịch sử lập hiến
của đất nước. Bản Hiến pháp thành văn đầu tiên được xây dựng trong những ngày
đầu đất nước, quy định những vấn đề cơ bản nhất của đất nước trong thời kỳ đầu
giành được độc lập.
Những nền tảng hình thành bảo hiến: Hiến pháp 1946 chưa ghi nhận
một mô hình bảo hiến cụ thể nhưng đã đánh giá chính xác tầm quan trọng của
Hiến pháp với thực tiễn. Hiến pháp năm 1946 không có điều khoản ghi nhận giá
trị pháp lý tối cao của Hiến pháp. Tuy nhiên, Hiến pháp 1946 cũng để lại những
nền tảng nhất định về tư tưởng để có thể xây dựng mô hình bảo hiến ở nước ta
trong những giai đoạn sau:
Thứ nhất, thông qua những quy định về quyền hạn ban hành, sửa đổi,
những quy định về thể chế, nội dung thì có thể nhận thấy Hiến pháp 1946 là đạo
luật nền tảng và cơ bản của nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Hiến pháp
1946 phân chia quyền lực nhà nước thành ba nghành quyền lực bao gồm: lập
pháp, hành pháp, tư pháp. Trong đó, nghị viên nhân dân là cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất thể hiện quyền làm chủ của nhân dân. Các cơ quan nhà nước được
trao quyền thông qua sự quy định của Hiến pháp, bộ máy và hoạt động của các cơ
quan nói trên đều tuân thủ quy định Hiến pháp.
Thứ hai, Hiến pháp 1946 đã ghi nhận quyền quyết định hiệu lực tồn tại
của Hiến pháp thông qua phúc quyết của nhân dân. Hiến pháp 1946 quy định:
Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận
mệnh quốc gia, theo Điều thứ 32 và 70.
Hiến pháp 1946 là đạo luật cơ bản quốc gia trao quyền lực cho Quốc hội là
cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, quy định quyền nghĩa vụ công dân, cách
thức tổ chức bộ máy nhà nước ở trung ương và địa phương-cơ quan hành pháp và
tư pháp. Về cơ bản, các cơ quan nhà nước thực hiện và chấp hành đầy đủ quy
định của Hiến pháp về quyền hạn và nghĩa vụ.

14
Thứ ba, Hiến pháp 1946 tuy không thể hiện mô hình bảo vệ Hiến pháp cho
quốc gia nhưng đã có quy định cụ thể và rõ ràng về cơ quan có nhiệm vụ kiểm tra
giám sát các văn bản quy phạm pháp luật tại điều 31 cũng như điều 36. Cơ chế
bảo vệ Hiến pháp tại giai đoạn đã bắt đầu ghi nhận sự bảo vệ Hiến pháp thông
qua cơ chế kiểm tra, giám sát của Quốc hội với cơ quan trong bộ máy nhà nước.
Tuy nhiên, quyền kiểm tra giám sát đối với các cơ quan nhà nước vẫn thường
dựng lại ở mức khuyến nghị, sự ràng buộc giữa những văn bản mang tính pháp lý
và Hiến pháp chưa cao. Quyền quyết định vẫn thuộc về các cơ quan ban hành văn
bản. Hiến pháp chưa được ghi nhận đúng giá trị, hệ thống pháp luật vẫn còn rất
nhiều lỗ hổng.
Hiến pháp 1946 sau khi được thông qua cũng không được ghi nhận và áp
dụng vào thực tiễn do toàn quốc bước vào kháng chiến chống Pháp kéo dài 9
năm. Nhưng những quy định Hiến pháp 1946 đã để lại những giá trị to lớn cho
toàn bộ hệ thống pháp luật Việt Nam, đồng thời đã có những quy định làm nền
tảng cho mô hình bảo hiến ở Việt Nam.
1.2. Bảo hiến theo Hiến pháp năm 1959
Bối cảnh ra đời: Hiến pháp 1959 được ban hành sau khi kháng chiến
chống Pháp kết thúc, miền Bắc hoàn toàn độc lập. Bản Hiến pháp đã được Quốc
hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà khoá thứ nhất, kỳ họp thứ 11, nhất trí thông
qua trong phiên họp ngày 31 tháng 12 năm 1959. Hiến pháp 1959 được xây dựng
trên nền tảng kế thừa, sửa đổi và bổ sung những quy định của Hiến pháp năm
1946. Hiến pháp 1959 được xây dựng trong thời kỳ chiến tranh, mang đặc thù của
hệ thống pháp luật thời chiến, khi quân lệnh chiếm vị trí tối thượng trong hệ
thống quyền lực.
Hiến pháp 1959 đã ghi nhận bước đầu sự xuất hiện của cơ chế bảo hiến
đầu tiên ở Việt Nam. Cơ chế bảo hiến Quốc hội được xây dựng dựa trên nền tảng
những quy định của Hiến pháp 1946 cùng với sự tham khảo học tập kinh nghiệm
từ hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa. Đồng nghĩa với việc Việt Nam sẽ hướng
tới mô hình bảo hiến nghị viện mà các nước xã hội chủ nghĩa đã lựa chọn. Hiến
pháp 1959 và cơ chế bảo hiến đầu tiên ra đời trong hoàn cảnh hệ thống pháp luật
chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ pháp luật xã hội chủ nghĩa một cách thụ động, máy
móc và rập khuôn
Đặc điểm mô hình bảo hiến:
Mô hình bảo hiến theo Hiến pháp 1959 không tồn tại dưới dạng một cơ
quan bảo hiến chuyên trách. Cơ chế bảo hiến bước đầu dựa trên nền tảng quy
định cho một số cơ quan nhà nước nhất định có thẩm quyền kiểm tra và giám sát
các loại văn bản nhất định. Về cơ sở pháp lý để hoạt động bảo hiến, Hiến pháp
1959 quy định gián tiếp giá trị pháp lý tối cao của Hiến pháp so với những văn
bản pháp lý được ban hành mà Quốc hội thông qua, văn bản quy phạm pháp luật
không được trái Hiến pháp. Hiến pháp 1959 quy định thẩm quyền cho Quốc hội
xử lý văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt làm quyền ban hành những văn bản
pháp luật. Theo quy định của điều 48: “Các đạo luật và các nghị quyết của Quốc
15
hội phải được quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành, trừ
trường hợp quy định ở Điều 112 của Hiến pháp”.
Hiến pháp 1959 quy định những cơ quan ban hành sửa đổi, thủ tục thông
qua các văn bản pháp luật, cũng như gián tiếp quy định Hiến pháp là văn bản có
hiệu lực pháp lý cao nhất, tạo nên trình tự pháp lý nhất định buộc các văn bản
pháp luật dưới Hiến pháp buộc phải tuân thủ, tạo điều kiện cho mô hình bảo hiến
có thể hoạt động.
Tuy mô hình bảo hiến vẫn bị lu mờ so với các chế định cơ bản của Hiến
pháp khác nhưng Hiến pháp 1959 đã ghi nhận những giá trị bảo hiến đầu tiên, mô
hình bảo hiến tuy chỉ mới hình thành nhưng đó là bước tiến lớn về tư tưởng lập
hiến ở nước ta
1.3. Bảo hiến theo Hiến pháp năm 1980
Bối cảnh ra đời: Hiến pháp 1980 được xây dựng khi đất nước hoàn toàn
độc lập, là điều kiện thuận lợi đưa đất nước đi lên con đường xã hội chủ nghĩa.
Hiến pháp 1980 là bản Hiến pháp đầu tiên có giá trị pháp lý trên toàn quốc, được
nhân dân đón nhận, khẳng định độc lập chủ quyền cũng như con đường xã hội
chủ nghĩa mà dân tộc đã lựa chọn.
Hiến pháp 1980 đã ghi nhận và kế thừa của cơ chế bảo hiến đã được quy
định ở Hiến pháp 1959. Cơ chế bảo hiến Quốc hội được xây dựng và phát triển
dựa trên nền tảng những quy định của Hiến pháp cùng với sự lựa chọn những ưu
điểm từ Hiến pháp 1959. Hiến pháp 1980 và cơ chế bảo hiến Quốc hội đã bước
đầu đi vào thực tiễn trong hoàn cảnh đất nước đã hoàn toàn độc lập.
Đặc điểm mô hình bảo hiến: Hiến pháp 1980 vẫn quy định tiếp tục sử
dụng mô hình bảo hiến như Hiến pháp 1959, lấy Quốc hội làm trung tâm, sử dụng
cơ chế kiểm tra, giám sát để bảo vệ giá trị của Hiến pháp. Tại khoản 3, Điều 83,
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980 đã quy định:
“Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân
theo Hiến pháp và pháp luật. Quốc hội được xác định là cơ quan đại biểu cao
nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập
pháp. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của
Nhà nước”. Căn cứ vào thẩm quyền được quy định, Quốc hội vẫn tiếp tục là cơ
quan bảo vệ giá trị pháp lý tối cao của Hiến pháp.
Để bảo đảm thực hiện cơ chế bảo hiến, Hiến pháp 1980 đã quy định đầy đủ
và thống nhất giá trị pháp lý của bản hiến pháp. Điều 146, Hiến pháp 1980 quy
định: “Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của
nhà nước, có giá trị pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp
với Hiến pháp”. Quy định được ghi nhận trong Hiến pháp thể hiện rõ ràng giá trị
pháp lý của Hiến pháp, tạo nền tảng, cơ sở để đưa Hiến pháp vào thực tiễn xã hội
và khiến cơ chế bảo hiến có thể được áp dụng trong hệ thống pháp luật.

16
Kế thừa những tinh hoa từ những bản Hiến pháp trước, Hiến pháp 1980
cũng qui định cơ chế về việc tuân thủ và thực hiện Hiến pháp của các cơ quan nhà
nước, các tổ chức, công dân. Tuy nhiên, mô hình bảo hiến theo Hiến pháp 1980
vẫn mang tính hình thức, thiếu trình tự, khó đi vào hoạt động hiệu quả. Tinh thần
lập hiến và bảo vệ Hiến pháp đã được hình thành nhưng do nhiều điều kiện khách
quan mô hình bảo hiến vẫn chưa tồn tại đúng bản chất.
1.4. Bảo hiến theo Hiến pháp 1992
Bối cảnh ra đời: Hiến pháp 1992 là bản Hiến pháp có giá trị thực tiễn to
lớn khi ban hành vào giai đoạn đất nước đang bắt đầu mở cửa hội nhập toàn cầu,
kinh tế trong nước đang chuyển từ hình thức tập trung bao cấp sang nền kinh tế
nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, xã hội Việt Nam cũng có những
bước chuyển mình to lớn.
Tiếp tục kế thừa và duy trì tư tưởng các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980,
Hiến pháp 1992 vẫn lựa chọn mô hình bảo hiến quốc hội thông qua cơ chế giám
sát, kiểm tra pháp luật của Quốc hội làm cơ chế bảo vệ Hiến pháp. Mô hình bảo
hiến theo Hiến pháp 1992 thể chế hóa cụ thể và rõ ràng hơn việc giám sát và thực
thi pháp luật, quy định rõ những thẩm quyền cụ thể của quốc hội, các cơ quan nhà
nước khác trong viêc thi hành pháp luật.
Đặc điểm của mô hình: Hiến pháp năm 1992 xây dựng cơ chế bảo hiến
thông qua kiểm tra giám sát các cơ quan quyền lực nhà nước và nhân dân đối với
cơ quan quyền lực nhà nước, đây là cơ chế giám sát tương đối toàn diện. Quốc
hội thực hiện chức năng giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước
và giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội. Bên
cạnh đó, các cơ quan khác cũng thực hiện chức năng giám sát việc tuân theo Hiến
pháp và giám sát các văn bản quy phạm pháp luật khác để nó không trái với nội
dung Hiến pháp.
2. Mô hình bảo hiến theo tinh thần Hiến pháp năm 2013 ở Việt Nam hiện nay
2.1. Khái quát về Hiến pháp năm 2013 và mô hình bảo hiến theo Hiến pháp
2013
Hiến pháp 2013 được Quốc hội thông qua ngày 18 tháng 11 năm 2013, có
hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2014. Hiến pháp 2013 là bản Hiến pháp thứ
năm, là Hiến pháp mở ra thời kỳ mới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Hiến pháp 2013 xây dựng trong hoàn cảnh lịch sử đặc thù, trong giai đoạn
thế giới và đất nước đang từng bước thay đổi.
Hiến pháp 2013 được xây dựng trên nền tảng nhất định, vững chắc, kế
thừa thành tựu của những bản Hiến pháp đã qua cùng với kinh nghiệm lịch sử
hơn 60 năm lập hiến, xuất phát từ yêu cầu cấp thiết của việc sửa đổi Hiến pháp
1992 theo hướng hoàn thiện và tích cực hơn. Hiến pháp 2013 đã thể chế hóa
những vấn đề mới, nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật trong thực tiễn. Hiến pháp
2013 chưa ghi nhận chế định cơ quan bảo hiến chuyên trách, việc không ghi nhận
một chế định liên quan đến bảo vệ Hiến pháp có nghĩa vẫn tuân thủ những nét cơ
17
bản, tiếp tục áp dụng mô hình bảo vệ bảo hiến theo Hiến pháp 1992 sửa đổi năm
2001: mô hình bảo hiến dựa trên cơ chế kiểm tra, giám sát của Quốc hội.
Trong suốt khoảng 10 năm trước thời điểm sửa đổi Hiến pháp 2013, vấn đề
bảo hiến đã đặt ra. Năm 2004 là thời điểm bắt đầu xuất hiện những yêu cầu về cơ
chế bảo vệ Hiến pháp khi có sự xuất hiện của văn bản pháp lý thể hiện đầy đủ và
rõ ràng sự vi phạm Hiến pháp. Bộ Công an ra Thông tư số 02/2003/TT-BCA ngày
13/1/2003 quy định mỗi người chỉ được đăng ký một mô tô hoặc xe máy. Hệ quả
Thông tư gây nên những xáo trộn trong xã hội, nhân dân tìm cách để tăng số
lượng xe gắn máy được sở hữu mà không chú ý đến quy định của Hiến pháp về
quyền được sở hữu tài sản. Thông tư được ban hành, thực hiện trong khoảng thời
gian khoảng 2 năm nhưng chỉ vấp phải sự phản đối của những chuyên gia trong
lĩnh vực Hiến pháp. Đến khi người dân vấp phải sự khó khăn quá lớn khi thực
hiện đã đồng loạt lên tiếng về sự bất cập của thông tư. Dựa vào những quy định
về quyền sở hữu tài sản trong Hiến pháp có thể nhận thấy Thông tư 02/2003 đã vi
phạm Hiến pháp. Tại điều 58, Hiến pháp 1992 quy định Công dân có quyền sở
hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản
xuất… Quy định của Thông tư đã hạn chế quyền sở hữu tư liệu sinh hoạt của
người dân, tài sản có được bằng những thu nhập hợp pháp thì không thể bị giới
hạn số lượng. Người dân có thể sở hữu một, hai thậm chí nhiều hơn số xe mô tô
gắn máy tùy vào điều kiện kinh tế của mình. Trước sức ép của dư luận cũng như
sự vi hiến rõ ràng của Thông tư, Bộ Công an đã phải ban hành Thông tư số
17/2005/TT-BCA ngày 21/11/2005 về bãi bỏ quy định vi hiến kể trên. Tuy quy
định đã không còn có giá trị pháp lý nhưng khoảng thời gian quy định tồn tại
trong thực tế đã gây nên nhiều những hệ lụy mà cả xã hội phải chấp nhận. Chính
từ thời gian này, yêu cầu về cơ chế bảo hiến hiệu quả xuất hiện. Đảng và nhà
nước sau khoảng thời gian xem xét cũng đã có đánh giá bước đầu về tình hình
thực tiễn cũng như lý luận để xây dựng cơ chế bảo hiến. Quan điểm ban đầu của
Đảng và nhà nước ủng hộ việc hình thành cơ quan bảo hiến ở Việt Nam bằng
hàng loạt những văn bản có tính pháp lý quan trọng như Nghị quyết 48 ngày
2/5/2005 của Bộ chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật đến năm 2020 và Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng -
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X năm 2006 của Đảng. Dưới sự ủng hộ về tư
tưởng của Đảng và nhà nước, các nhà khoa học hàng đầu Việt Nam về lĩnh vực
Hiến pháp dưới sự giúp đỡ chuyên gia nước ngoài bắt đầu xây dựng những cơ sở
đầu tiên về mô hình bảo hiến cụ thể mà Việt Nam có thể áp dụng. Giai đoạn ban
đầu xuất hiện những phương án về cơ chế tài phán Hiến pháp ở nước ta bao gồm:
Phương án thứ nhất: thành lập Ủy ban bảo vệ Hiến pháp trực thuộc Quốc
hội. Ủy ban bảo vệ Hiến pháp sẽ được tổ chức tương tự như các Ủy ban khác của
Quốc hội, thực hiện nhiệm xem xét tính hợp hiến của những văn bản dưới luật
của cá cơ quan nhà nước ban hành. Ủy ban không được xem xét những văn bản
pháp lý mà Quốc hội ban hành và thẩm quyền được trao hoàn toàn mang tính
tham vấn khi báo cáo kết quả xem xét tính hợp hiến với Quốc hội.

18
Phương án thứ hai: trao nhiệm vụ bảo hiến cho cơ quan Tư pháp mà chủ
thể xác định là Tòa án nhân dân tối cao. Tòa án nhân dân tối cao được trực tiếp
trao quyền thực hiện nhiệm vụ bảo hiến, xem xét những văn bản pháp lý của cơ
quan quyền lực nhà nước.
Phương án thứ ba: thành lập cơ quan bảo hiến độc lập. Cơ quan bảo hiến
độc lập với Quốc hội, có thẩm quyền, trình tự và thủ tục bảo hiến riêng. Ở
phương án này hướng đến những mô hình bảo hiến hiệu quả ở châu Âu bao gồm:
Tòa án Hiến pháp và hội đồng Hiến pháp. Hai mô hình lớn trên thế giới và đã có
hiệu quả khi đưa vào hoạt động thực tiễn.
Những phương án được đưa ra, chưa bàn đến những ưu nhược điểm hay
hạn chế, vướng mắc có thể gặp phải khi thực hiện thì đây đều là những mô hình
nếu có thể xây dựng sẽ là bước tiến lớn về hoạt động bảo vệ Hiến pháp ở nước ta.
Bên cạnh sự ủng hộ xây dựng cơ chế bảo hiến mới ở nước ta thì cũng xuất hiện ý
kiến phản đối việc hình thành cơ chế bảo hiến mới. Những cá nhân phản đối xây
dựng mô hình bảo hiến mới đưa ra những lập luận xuất phát từ suy nghĩ chủ quan
về sự cần thiết tồn tại về cơ chế bảo hiến mới.
2.2. Đặc điểm của mô hình:
Thứ nhất, Việt Nam hiện nay không tồn tại cơ quan bảo hiến chuyên trách,
không tồn tại hội đồng Hiến pháp, không tồn tại tòa án Hiến pháp và hệ thống tòa
án tư pháp cũng không có chức năng bảo hiến. Hiến pháp 2013 đã giao cho Quốc
hội là chủ thể trung tâm trong việc thực hiện chức năng bảo hiến. Do là cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất, Quốc hội kiểm soát và chi phối hoạt động của toàn
bộ bộ máy nhà nước kể cả hoạt động giám sát Hiến pháp. Quốc hội giám sát, bảo
vệ Hiến pháp thông qua những quy định của Hiến pháp và pháp luật. Hệ thống
pháp luật quy định cơ chế bảo hiến Việt Nam là hai cấp, thẩm quyền bảo hiến
được trao rất nhiều cơ quan từ trung ương đến địa phương. Ở trung ương, Quốc
hội, Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Ủy ban
pháp luật thuộc Quốc hội, bộ Tư pháp thuộc chính phủ đều được trao thẩm quyền
bảo hiến.
Thứ hai, đối tượng chủ yếu của cơ chế bảo hiến hiện tại hướng đến việc
xem xét tính hợp hiến những văn bản pháp lý được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành. Quy định về thẩm quyền đều hướng tới hình thức kiểm tra, giám
sát chéo nhau giữa các cơ quan nhà nước chứ không đề cập đến yêu cầu bảo hiến
của nhân dân. Quyền yêu cầu xem xét tính hợp hiến của công dân không được đề
cập đến trong quy định về bảo hiến hiện nay, nhân dân sẽ đòi quyền lợi ích hợp
pháp của mình ở đâu khi quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại bởi các văn bản
hay hành vi vi phạm Hiến pháp.
Thứ ba, trình tự thủ tục của cơ chế bảo hiến hiện tại không rõ ràng khi
không tồn tại quy định nào về cách thức tiến hành hoạt động bảo hiến của cơ
quan nhà nước, không có sự công khai, thống nhất khi tiến hành bảo vệ Hiến
pháp. Trong điều kiện phát triển và hội nhập hiện nay đòi hỏi cần tồn tại những

19
quy định về trình tự, thủ tục bảo hiến để các cơ quan, cá nhân và tổ chức có thể
thực hiện được quyền và nghĩa vụ bảo hiến.
Thứ tư, Quốc hội đóng vai trò trung tâm trong cơ chế bảo hiến hiện nay.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao mọi hoạt động giám sát thi hành pháp
luật, các cơ quan được phân công có nhiệm vụ thực hiện thẩm quyền theo quy
định của pháp luật. Tuy quy định số lượng lớn cơ quan thực hiện bảo vệ Hiến
pháp nhưng lại không có cơ quan chuyên trách thực hiện quyền bảo hiến, rà soát
tính hợp hiến. Ngay cả Quốc hội cũng chỉ mang tính tham vấn trong vấn đề bảo
hiến chứ không đi vào thực tiễn hoạt động bảo vệ Hiến pháp.
Hiện nay, Hiến pháp 2013 đã được thông qua, đi vào thực tiễn đời sống xã
hội và đang trong quá trình đánh giá hiệu quả khoảng thời gian ban đầu. Tuy
nhiên, quá trình xây dựng Hiến pháp năm 2013 dựa trên nền tảng Hiến pháp năm
1992 vẫn để lại những bài học kinh nghiệm vô cùng giá trị, đặc biệt là về cơ chế
bảo hiến. Dự thảo lấy ý kiến nhân dân ngày 2 – 1 – 2013 đã đề xuất xây dựng mô
hình bảo hiến chuyên trách lần đầu tiên ở Việt Nam với rất nhiều những điểm tiến
bộ, đáng ghi nhận. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân mô hình bảo hiến đã không
được đưa vào bản Hiến pháp 2013. Tuy không ghi nhận được mô hình bảo hiến
hoàn chỉnh nhưng tại Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đã xuất hiện ý tưởng về
một mô hình bảo hiến cụ thể đó là hội đồng Hiến pháp. Mô hình bảo hiến được
thiết lập đầy đủ dù chỉ trên Dự thảo cũng có những nét thực sự đáng quan tâm.
Điều 120 Hiến pháp 2013 đã bổ sung thiết chế hội đồng Hiến pháp với các đặc
điểm :
Thứ nhất, về tổ chức, hội đồng Hiến pháp là cơ quan do Quốc hội thành
lập, gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các ủy viên. Hội đồng là cơ quan có tính
độc lập nhất định, không thuộc cơ cấu của Quốc hội như các hội đồng, ủy ban của
Quốc hội. Thành viên hội đồng công tác theo nhiệm kỳ. Hội đồng là cơ quan làm
việc theo chế độ tập thể. Không có các quy định hội đồng Hiến pháp phải báo
cáo, chịu trách nhiệm hay chịu sự chất vấn của Quốc hội. Cơ chế trách nhiệm,
thành phần, trật tự hình thành của cơ quan này nhằm đảm bảo hoạt động có hiệu
quả hoàn toàn không được đề cập trong Hiến pháp mà để cho luật của Quốc hội
quy định. Ðối tượng kiểm tra tính hợp hiến của hội đồng Hiến pháp là các văn
bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao ban hành; điều ước quốc tế được ký kết nhân danh nhà nước
trước khi trình Quốc hội, Chủ tịch nước phê chuẩn.
Thứ hai, hội đồng Hiến pháp chỉ có chức năng giám sát sau, nhằm đảm bảo
tính hợp hiến của việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa
án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Khi phát hiện có hiện tượng
vi hiến, hội đồng Hiến pháp có quyền đề nghị, kiến nghị hoặc trình cơ quan có
thẩm quyền hủy bỏ.

20
Thứ ba, phương thức xử lý văn bản quy phạm pháp luật vi hiến của hội
đồng là: trực tiếp “kiến nghị” Quốc hội “xem xét lại”, “yêu cầu” Chủ tịch nước,
Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân
tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao “sửa đổi, bổ sung” văn bản vi hiến hoặc
gián tiếp “đề nghị” cơ quan có thẩm quyền hủy văn bản vi hiến. Ðối với các điều
ước quốc tế, hội đồng thể hiện ý kiến, quan điểm về tính hợp hiến trước khi trình
Quốc hội, Chủ tịch nước phê chuẩn.
Mô hình hội đồng Hiến pháp với các đặc trưng như trên, nếu trở thành hiện
thực sẽ là một bước tiến đặc biệt quan trọng trong lịch sử lập hiến nước ta. Lần
đầu tiên, một bản Hiến pháp đã xác lập một thiết chế chuyên biệt nhằm bảo vệ
những giá trị được Hiến pháp ghi nhận. Vì những điều kiện khách quan và chủ
quan, mô hình hội đồng Hiến pháp theo dự thảo đã không được thông qua. Mô
hình bảo hiến chuyên trách đã không được xây dựng trong bản Hiến pháp mới.
Nhu cầu về một mô hình cơ quan bảo hiến chuyên trách vẫn còn tồn tại nên coi
việc thành lập Hội đồng Hiến pháp theo dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là
phương án khả thi. Xét trên cơ sở đặc điểm và yêu cầu của mô hình hội đồng
Hiến pháp theo dự thảo thì cho dù hiện nay Hiến pháp 2013 đã có hiệu lực thì
việc tiến hành xây dựng mô hình bảo hiến hội đồng Hiến pháp theo dự thảo là
hoàn toàn có khả năng thực hiện được.
Tóm lại, trong những phương án được xây dựng ở trên, dưới nhìn nhận
thực tế bởi những yếu tố khách quan và chủ quan, nhằm không gây ảnh hưởng
lớn đến thể chế chính trị cũng như ổn định xã hội và từng bước xây dựng mô hình
bảo hiến hoàn thiện hơn, tôi ủng hộ việc thành lập mô hình hội đồng Hiến pháp.
Tuy vẫn còn nhiều điểm hạn chế, đánh giá thiếu sự hiệu quả, tính khách quan
nhưng thực tế mô hình này mới có thể hoạt động một cách hiệu quả trong hoàn
cảnh đặc thù như ở Việt Nam. Hiến pháp cần được bảo vệ giá trị pháp lý, được
xây dựng hoàn chỉnh các chế định, quy định đầy đủ quyền và trình tự thủ tục của
hoạt động bảo hiến một cách ngắn gọn và chính xác.
2.3. Đánh giá chung về mô hình bảo hiến ở Việt Nam hiện nay
Lịch sử lập hiến Việt Nam tính từ bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 đến
Hiến pháp mới 2013 đã trải qua 67 năm với 5 bản Hiến pháp thành văn, tư tưởng
lập hiến đã sự thay đổi tiến bộ theo thời gian, bản Hiến pháp sau kế thừa đầy đủ
tinh hoa của các bản Hiến pháp trước.
Về cơ bản, Hiến pháp năm 2013 không đưa ra được mô hình bảo hiến với
các cơ chế và thiết chế bảo hiến cụ thể. Tuy nhiên, một điểm cần lưu ý trong Hiến
pháp 2013 đã quy định ở Khoản 2 Điều 119 về vấn đề cơ chế bảo vệ hiến pháp là
do luật định: “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ,
Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà
nước và toàn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp”. Trên thực tế, khi
ban hành Hiến pháp 2013, các luật được ban hành nhằm cụ thể hóa hiến pháp
trong việc tổ chức bộ máy nhà nước như: Luật Tổ chức Quốc hội 2014, Luật Tổ
chức tòa án nhân dân 2014, Luật Tổ chức Chính phủ 2015, Luật Tổ chức Chính
21
quyền địa phương 2015, không có điểu khoản nào cụ thể hóa khoản 2 Điêu 119
Hiến pháp. Như vậy, vấn đề bảo hiến theo Hiến pháp 2013 vẫn không có nhiều
chuyển biến so với các bản Hiến pháp trước. Cơ chế bảo hiến phân tán, phi tập
trung và kém hiệu quả nhưng đã xuất hiện tiền đề để xuất hiện cơ chế bảo hiến
khi thừa nhận nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lập hiến và khi Hiến pháp là
của nhân dân thi vấn đề bảo hiến được đặt ra.
Với mô hình bảo hiến hiện nay, việc đảm bảo tính hợp hiến, thống nhất của
văn bản quy phạm pháp luật chủ yếu được thực hiện trong toàn bộ những giai
đoạn xây dựng văn bản quy phạm pháp luật:
- Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật
- Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
- Kiểm tra giám sát việc áp dụng văn bản pháp luật vào thực tiễn.
2.4. Những ưu điểm và hạn chế của mô hình bảo hiến ở Việt Nam hiện nay
2.4.1. Ưu điểm
Mô hình bảo hiến hiện tại là mô hình đặc thù phù hợp có những điểm phù
hợp với hệ thống pháp luật quốc gia hiện nay.
Thứ nhất, mô hình dựa trên hoạt động giám sát kiểm tra tính hợp hiến, hợp
pháp của những văn bản pháp lý được ban hành cũng như trong hoạt động của cơ
quan nhà nước. Mô hình lấy nền tảng là Hiến pháp cùng với sự hoạt động của
Quốc hội trong vấn đề kiểm sát hoạt động của bộ máy nhà nước. Phương thức
hoạt động kiểm tra giám sát ở nước ta tương đối cụ thể. Việc giám sát bảo đảm
tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của các văn bản quy phạm pháp luật là
sự phối hợp giữa nhiều cơ quan khác nhau trong bộ máy nhà nước từ Quốc hội,
Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các bộ,
ngành. Cơ chế được phân cấp quản lý nhà nước rõ ràng, sự phối hợp được ghi
nhận mang tính đồng bộ cao.
Thứ hai, cách thức xây dựng mô hình bảo hiến hiện nay đảm bảo cho
nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp và giám
sát. Quyền lực của Quốc hội, cơ quan quyền lực cao nhất đại diện cho ý chí và
nguyện vọng của nhân dân vẫn được giữ vững. Những văn bản quy phạm quốc
hội ban hành đều được đảm bảo tính pháp lý bởi bản thân cơ quan ban hành. Tính
pháp lý của văn bản quy phạm trong hệ thống pháp luật cũng đáp ứng yêu cầu của
mô hình bảo hiến chuyên trách.
Thứ ba, mô hình bảo hiến hoạt động đã bước đầu tạo ra những nền tảng
nhất định, từng bước trong việc xây dựng mô hình bảo hiến chuyên trách trong
tương lai. Nền tảng bảo hiến đến từ hoạt động phân công, phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước với nhau và quy trình xây dựng quy trình ban hành văn bản quy
phạm đầy đủ, chi tiết khiến cơ quan chuyên trách nếu được thành lập sẽ hoạt động
một cách hiệu quả.

22
2.4.2. Hạn chế
Qua nghiên cứu các bản Hiến pháp và quy định của pháp luật, cũng như hoạt
động bảo hiến trên thực tiễn ở Việt Nam có thể khẳng định hoạt động bảo hiến ở
nước ta hiện nay còn những hạn chế nhất định:
Thứ nhất, mô hình bảo hiến Quốc hội không đủ khả năng để ngăn chặn những
hành vi vi hiến. Mô hình bảo hiến hiện nay cũng không tồn tại quy định rõ ràng
về thẩm quyền, trách nhiệm, về thủ tục hay trình tự bảo hiến cụ thể. Tất cả chỉ ở
mức ước chừng chứ không có văn bản cụ thể xác định. Tính chất hình thức,
không sử dụng Hiến pháp trong hoạt động nảy sinh sự sai lầm trong nhận thức
của toàn thể xã hội về cơ chế bảo hiến.
Thứ hai, cơ chế bảo hiến hiện nay Việt Nam, Quốc hội giữ hai vai trò vô cùng
quan trọng trong hoạt động bộ máy nhà nước: Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất, cơ quan đại diện cho nhân dân toàn quốc giữa chức năng lập hiến,
lập pháp. Quốc hội giữ vai trò quyết định vận mệnh quốc gia, những vấn đề quan
trọng của đất nước. Quốc hội là cơ quan giữ quyền kiểm sát pháp luật và hoạt
động bộ máy nhà nước thông qua cơ chế kiểm tra giám sát tối cao hoạt động nhà
nước. Vừa giữ vai trò xây dựng pháp luật vừa giữ vai trò kiểm soát pháp luật
khiến cho hoạt động bảo vệ Hiến pháp của Quốc hội gặp nhiều vấn đề khó khăn.
Thực hiện xây dựng văn bản pháp theo định hướng đã thông qua, ban hành có
hiệu lực trên thực tế rồi mới phát hiện ra những vấn đề vi hiến thì việc tuyên bố
huỷ bỏ một phần hay toàn bộ văn bản pháp luật sẽ không hề dễ dàng. Trên thực
tế, chưa có một văn bản quy phạm nào bị tuyên huỷ bộ một phần hay toàn bộ văn
bản trái Hiến pháp và luật.
Thứ ba, hoạt động xây dựng pháp luật do Quốc hội tự tiến hành trên cơ chế quy
định trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật tuy nhiên Quốc hội mang
bản chất là cơ quan nhà nước, là chủ thể xây dựng từ những yếu tố con người nên
không thể tránh khỏi những sai sót nhất là sai sót trong việc thực hiện chức năng
lập pháp. Những sai sót trong hoạt động lập pháp sẽ gây ảnh hưởng lớn đến hoạt
động Hành pháp và Tư pháp. Bộ máy nhà nước thiếu hẳn cơ chế giám sát Quốc
hội, ít ra là cơ chế giám sát hoạt động xây dựng pháp luật của Quốc hội, cần có cơ
quan chuyên trách độc lập khác để thực hiện nhiệm vụ giám sát hoạt động xây
dựng ban hành hành và thực hiện pháp luật. Hiến pháp giao cho Quốc hội quyền
ban hành và sửa đổi Hiến pháp, các đạo luật, giám sát việc thực hiện Hiến pháp
và pháp luật. Hiến pháp và pháp luật không quy định trách nhiệm phát sinh từ các
văn bản vi hiến do Quốc hội ban hành. Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất, cơ quan lập hiến, cơ quan lập pháp, cơ quan giám sát tối cao, quyền lực
của Quốc hội bao trùm lên toàn bộ hệ thống chính trị, không có sự phân chia rạch
ròi với hệ thống pháp luật cũng như Hiến pháp. Sự chồng chéo, đan xen và mâu
thuẫn về quyền hạn luôn diễn ra khi đặt vị trí của Quốc hội rất cao trong hệ thống
chính trị. Quốc hội giữ rất nhiều những quyền năng quan trọng nhưng lại không
thể thực hiện tốt và đầy đủ những quyền năng đó. Bên cạnh đó, hoạt động của
Quốc hội là những hoạt động của đại biểu kiêm nhiệm, hoạt động theo nhiệm kỳ,

23
giữ chức vụ nhất định trong hệ thống bộ máy nhà nuớc, đa phần làm việc ở địa
phương, bị tác động bởi các ngành quyền lực hành pháp và lập pháp.
Đồng thời, hoạt động giải thích pháp luật của Quốc hội, nhiệm vụ của Uỷ ban
Thuờng vụ Quốc hội chưa được chú trọng thực hiện. Đặc biệt là vấn đề giải thích
quy định Hiến pháp. Hiến pháp chưa mang lại sự thống nhất trong toàn bộ hệ
thống pháp luật. Hiến pháp khi xây dựng còn nhiều vấn đề chưa được chú trọng
và làm sáng tỏ. Nhiệm vụ giải thích Hiến pháp cần được giao cho cơ quan chuyên
trách liên quan đến Hiến pháp thực hiện là đảm bảo tính hiệu quả.
Thứ tư, hệ thống kiểm tra, giám sát hiện nay tồn tại nhiều chủ thể; nhiều tầng
giám sát làm hạn chế và làm lu mờ vai trò giám sát tối cao của Quốc hội đồng
thời giảm đi tính pháp lý, tính hiệu lực của các họat động bảo hiến. Việc giám sát
quá nhiều chủ thể dẫn đến tình trạng không hiệu quả, hơn nữa quốc hội vừa là cơ
quan lập pháp, vừa là cơ quan thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân thủ Hiến
pháp. Theo đó, Quốc hội vừa làm luật, vừa giám sát, quyết định về việc một đạo
luật do chính Quốc hội ban hành là trái Hiến pháp, Quốc hội còn có trách nhiệm
giải quyết việc tuân thủ Hiến pháp trong họat động xét xử của Tòa án (quyền tư
pháp). Quốc hội làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số, cách thức
như vậy không đảm bảo đươc hiệu quả của cơ chế bảo hiến và thực tiễn cho thấy
cơ chế này chưa hiệu quả. Trên thực tế, đã có các trường hợp văn bản Luật trái
Hiến pháp và các văn bản luật cũng trái nhau nhưng không có cơ quan nào đứng
ra “phán quyết” hay hủy bỏ văn bản pháp luật không hợp hiến, hợp pháp.
Thứ năm cũng là hạn chế lớn nhất và cũng là vấn đề mà hiện giờ chúng ta buộc
phải thừa nhận trong hệ thống pháp luật hiện nay. Hiến pháp Việt Nam xây dựng
là bản Hiến pháp thành văn có giá trị pháp lý cao nhất nhưng không được coi
trọng đúng giá trị. Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân khi thực hiện hoạt động, nhiệm
vụ đều mặc nhiên thừa nhận những văn bản quy phạm dưới Hiến pháp có giá trị
mà không đem quy chiếu với Hiến pháp. Văn bản luật có thể vẫn thể chế hoá quy
định của Hiến pháp nhưng đến văn bản dưới luật đặc biệt là những văn bản mang
tính địa phương thì liệu còn thể hiện đầy đủ quy định của Hiến pháp. Hệ thống
pháp luật chưa ổn định, thống nhất, các cơ quan, tổ chức, cá nhân chưa coi trọng
Hiến pháp, cơ chế phân chia quyền lực ở địa phương rõ ràng còn mang nhiều tính
cục bộ. Vậy nên, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền cần có mô hình bảo
hiến cụ thể. Hiến pháp cần ấn định chủ thể tiến hành phán xét hành vi vi hiến.
Hiến pháp văn bản giới hạn quyền lực của quyền lực nhà nước, bảo vệ công dân
thông qua hoạt động tổ chức phân chia quyền lực, hoạt động của bộ máy nhà
nước. Khi cơ quan nhà nước không thực hiện theo những quyền hiến định, quyền
và nghĩa vụ của công dân bị vi phạm, hành vi vi hiến xảy ra thì cần có cơ chế bảo
vệ hữu hiệu quyền của nhân dân. Về nguyên tắc, khi đã có Hiến pháp thì phải có
chủ thể bảo vệ Hiến pháp phải xuất hiện. Cơ chế bảo hiến hình thành để bảo vệ
bản thân con người tạo nên nền dân chủ vì vậy nên mô hình bảo hiến nhất thiết
phải được xây dựng. Tại thời điểm hiện tại, hội nhập quốc tế, xây dựng nhà nước
của dân, do dân và vì nhân dân xuất hiện nhu cầu xây dựng mô hình bảo hiến phù

24
hợp với những điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội và truyền thống pháp luật của
Việt Nam.
Những ví dụ điển hình:
Thành phố Đà Nẵng trước sức ép của sự phát triển đô thị về hạ tầng cơ sở, y tế,
giáo dục, Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng đã ban hành Nghị quyết 23 về
những giải pháp phát triển kinh tế - xã hội ngày 24 – 12 – 2011 để hạn chế nhập
cư của một số đối tượng, cụ thể là "tạm dừng giải quyết đăng ký thường trú mới
vào khu vực nội thành đối với các trường hợp chỗ ở là nhà thuê, mượn, ở nhờ mà
không có nghề nghiệp hoặc có nhiều tiền án, tiền sự". Mặc dù Nghị quyết hướng
tới xây dựng "một thành phố hấp dẫn và đáng sống", nhưng Nghị quyết 23 bị coi
là trái Hiến pháp. Cụ thể, Hiến pháp đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất của Quốc
gia, quy định "công dân có quyền tự do cư trú ở trong nước. Công dân có quyền
cư trú ở bất cứ nơi nào trong nước mà vẫn hưởng đầy đủ các quyền và lợi ích hợp
pháp của mình. Nhưng tại thành phố Đà Nẵng khi không thể có hộ khẩu, những
công dân "tạm trú" bị đối xử bất bình đẳng với các công dân "thường trú". Việc
phân loại và đối xử không bình đẳng giữa hai hạng công dân "tạm trú" và "thường
trú" tiếp tục vi phạm quyền bình đẳng trước trước pháp luật của mọi công dân.
Như vậy, việc hạn chế đăng ký hộ khẩu thường trú theo Nghị định 23 có dấu hiệu
vi phạm quyền hiến định về tự do cư trú và quyền bình đẳng trước pháp luật của
công dân.
Bộ Y tế từng ban hành dự thảo trong đó cấm người không đủ chiều cao và vòng
ngực để điều khiển xe. Ngày 24/10, Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật
(Bộ Tư pháp) đã có văn bản gửi Bộ Y tế về việc kiểm tra quyết định số 33/QĐ –
BYT của Bộ Y tế về việc ban hành tiêu chuẩn sức khỏe của người điều khiển
phương tiện giao thông cơ giới và quyết định 34/2008/QĐ – BYT về việc ban
hành tiêu chuẩn sức khỏe người khuyết tật điều khiển mô tô, xe ba bánh. Bộ Giao
thông vận tải ban hành quy định buộc các xã viên HTX vận tải phải chuyển quyền
sở hữu phương tiện vào HTX mới được quyền kinh doanh. Quy định của bộ Giao
thông vận tải hạn chế hai quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp thừa nhận
là quyền tự do kinh doanh và quyền tự do sở hữu tài sản của công dân, vi phạm
hiến pháp. Những văn bản này đã vi phạm cơ bản đến những quy định của Hiến
pháp, nó xâm phạm đến quyền công dân, quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu
tài sản.
Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội trước những đòi hỏi về ổn định hệ thống giao
thông công cộng đã đề xuất tăng gấp đôi mức xử phạt đối với một số hành vi vi
phạm giao thông trong nội thành thành phố. Lý giải cho yêu cầu tăng mức xử
phạt, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội cho rằng mức phạt trước không đủ tính
răn đe, quy định mức phạt mới sẽ tác động đến ý thức của nhân dân trong việc
tham gia giao thông. Vấn đề đáng bàn là mức xử phạt chỉ tăng lên 200% ở thành
phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh có đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân. Công dân có quyền và nghĩa vụ bình đẳng khi tham gia giao thông,
việc áp đặt mức phạt khác nhau ở từng khu vực trên đất nước đã vi phạm quyền
được đối xử công bằng của công dân. Không thể tồn tại bất cứ quy định pháp lý
25
làm thay đổi quyền và lợi ích chính đáng của con người đã được ghi nhận trong
Hiến pháp.
Mô hình bảo hiến như hiện tại thực tế đã không còn đủ hiệu quả, hoạt động bộc lộ
hạn chế mà khó có thể khắc phục. Vì vậy, cần có cái nhìn đúng đắn về sự thay đổi
mô hình bảo hiến ở Việt Nam, những hạn chế và ưu điểm đã làm rõ hơn tại sao
chúng ta cần mô hình bảo hiến chuyên trách. Nhìn nhận khách quan, việc xây
dựng mô hình bảo hiến chuyên trách sẽ gặp rất nhiều vấn đề khó khăn. Tuy nhiên,
đa phần đều bắt nguồn từ nguyên nhân chủ quan, ngại thay đổi, tránh những ảnh
hưởng đến bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật. Đã đến thời điểm cần có sự
thay đổi.

ĐỀ XUẤT MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN MÔ HÌNH


BẢO HIẾN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Vấn đề bảo vệ Hiến pháp từ lâu đã được Đảng và Nhà nước ta hết sức chú
trọng, nhưng kể từ khi định hướng xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam được đặt ra, chủ đề trên mới thực sự trở nên "nóng
bỏng" và thu hút được sự chú ý của toàn xã hội. Bởi trong nhà nước pháp quyền,
Hiến pháp được đặt ở vị trí cao nhất, được xem như biểu tượng của nhà nước
pháp quyền. Tư tưởng chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam đã nhận định rõ sự
đổi mới trong việc xây dựng mô hình bảo hiến nhằm hoàn thiện các mục tiêu
khác để xây dựng nhà nước pháp quyền trong thời kỳ mới. Sự đổi mới trong tư
duy chính trị là điều kiện tiên quyết trong việc thành lập cơ quan chuyên trách
bảo hiến, thiết chế bảo hiến sẽ trở thành công cụ hữu hiệu để kiểm soát quyền lực
nhà nước đảm bảo tính dân chủ.
Cơ quan bảo hiến chuyên trách ở nước ta được đề xuất xây dựng dựa trên những
cơ sở sau đây:
- Tồn tại một bản Hiến pháp quy định tính pháp lý tối cao của cơ quan bảo
hiến.
- Từng bước hoàn thiện và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam.
- Cơ chế phân quyền có sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà
nước.

26
- Quyền con người, quyền công dân được từng bước ghi nhận.
Từ đây, em xin có một số kiến nghị với mong muốn hoàn thiện mô hình bảo hiến
ở Việt Nam hiện nay bằng các cơ quan chuyên trách như sau:
- Thành lập cơ quan bảo vệ Hiến pháp trực thuộc Quốc hội.
- Trao quyền bảo hiến cho Tòa an Nhân dân Tối cao.
- Thành lập Tòa án Hiến pháp.
1. Áp dụng mô hình hội đồng Hiến pháp ở Việt Nam
Từ sự nghiên cứu đánh giá về các mô hình bảo hiến trên thế giới cùng với
những nhận định cụ thể để có thể áp dụng hiệu quả mô hình Việt Nam, em xin đề
xuất mô hình “Hội đồng Hiến pháp”. Mô hình hội đồng Hiến pháp là mô hình
phù hợp và khả thi nhất cho Việt Nam, bởi những nguyên nhân:
Thứ nhất, hệ thống pháp luật ở Việt Nam hiện nay khó có thể đáp ứng
được nhu cầu của bất kỳ một mô hình bảo hiến. Trong khi đó, nếu xây dựng mô
hình bảo hiến bằng hệ thống tư pháp - tòa án thì cần thiết phải đảm bảo những
yêu cầu cụ thể sau:
Hệ thống tư pháp độc lập với các ngành quyền lực khác.
Hệ thống Tòa án phải đủ khả năng để thực hiện nhiệm vụ Hiến pháp.
Truyền thống sử dụng và áp dụng án lệ (với mô hình bảo hiến bằng tòa án
tư pháp thông thường).
Xét về tất cả những yêu cầu trên thì hệ thống tư pháp khó có thể đáp ứng
đầy đủ yêu cầu của một mô hình bảo hiến bằng tòa án. Trong khi đó, Việt Nam là
quốc gia quyền lực tập trung vào cơ quan quyền lực nhà nước Quốc hội, cơ quan
tư pháp chỉ giữ vai trò thực hiện nhiệm vụ được phân công, chịu sự giám sát của
Quốc hội, tính độc lập chưa cao. Hệ thống tư pháp chưa được hoàn thiện khi bị
phụ thuộc vào mặt địa giới hành chính gây nên những ảnh hưởng không cần thiết
khi tiến hành xét xử. Đồng thời, mô hình tư pháp không thừa nhận án lệ là nguồn
của pháp luật trong hoạt động xét xử, đối với những vụ việc có bản chất giống
nhau thì cơ quan tố tụng cũng có thể xét xử ra những kết quả khác nhau. Nhìn
nhận tại Việt Nam về pháp cũng chưa đủ để có thể xây dựng ngay mô hình tòa án
Hiến pháp [14].
Thứ hai, Việt Nam nên lựa chọn mô hình hội đồng Hiến pháp vì chúng ta
vốn không có truyền thống bảo hiến bằng cơ quan chuyên trách như đa phần các
quốc gia khác trên thế giới. Việc hình thành mô hình bảo hiến là theo yêu cầu
thực tiễn của việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Khi xã hội
thay đổi và phát triển, nền dân chủ và pháp quyền được hình thành, nhu cầu Hiến
pháp mới thực sự trở nên cần thiết nhằm xây dựng đất nước trong thời kỳ mới, sự
chuyển đổi này sẽ gây ra những thay đổi trong hệ thống chính trị khó có thể
lường trước được hết hậu quả. Tuy nhiên, khi thể chế chính trị không thay đổi kịp

27
thời theo nhu cầu thực tế thì điều kiện cần là lựa chọn mô hình bảo hiến có thể
phù hợp với sự thay đổi chậm chạp của thể chế chính trị. Mô hình hội đồng Hiến
pháp đáp ứng nguyên vẹn điều kiện, đấy là mô hình có sự lựa chọn an toàn cho
đất nước. Thành lập hội đồng Hiến pháp ở một quốc gia sẽ tạo nên cơ quan hòa
hợp giữa chính trị và tài phán, là cơ quan có thể tạo nên sự hài hòa mềm dẻo giữa
vấn đề lợi ích giữa các nhóm đối tượng. Thành lập hội đồng Hiến pháp sẽ giải
quyết được hai vấn đề lớn: tồn tại cơ quan bảo hiến quốc gia và lợi ích chính trị
của giai cấp lãnh đạo vẫn được đảm bảo.
Thứ ba, Việt Nam vốn là quốc gia đã chịu ảnh hưởng ít nhiều từ cộng hòa
Pháp về cả văn hóa, xã hội, kiến trúc cũng như pháp luật. Việt Nam đã dần thay
đổi nhưng không thể phủ nhận sự ảnh hưởng của cộng hòa Pháp trong suốt
khoảng thời gian qua. Hiện nay nhận thấy pháp luật Liên Xô hay mô hình bảo
hiến Quốc hội không còn đảm bảo áp dụng phù hợp thì mô hình hội đồng Hiến
pháp của Pháp là lựa chọn thích hợp hơn cả. Đây là mô hình tận dụng, kế thừa
những sự ảnh hưởng pháp luật Pháp hiện tại ở Việt Nam đặc biệt trong lĩnh vực
như Hành chính - Hiến pháp.
Thứ tư, hội đồng Hiến pháp là sự dung hòa hợp lý giữa hai mô hình cơ
quan tài phán Hiến pháp và cơ quan chính trị, sự dung hòa này đem lại phù hợp
trong hoạt động tổ chức, trình tự, thẩm tục hay thẩm quyền.
Mô hình hội đồng Hiến pháp không phải mô hình Tài phán đúng nghĩa nên
khó có thể giải quyết triệt để những vấn đề vi hiến khi vận hành như cơ quan tư
pháp. Nhiều trường hợp, mô hình hội đồng Hiến pháp chỉ dừng lại ở mức “Tư
vấn và đề nghị xem xét những vấn đề vi phạm Hiến pháp”. Hiện nay, mô hình hội
đồng Hiến pháp đang hướng tới xây dựng mô hình về tài phán hiệu quả hơn, tuy
nhiên đây là một quá trình lâu dài và cần nhiều thời gian để hoàn thiện. Vì vậy,
chấp nhận với bước đầu là mô hình Hội đồng Hiến pháp thông thường để có sự
thay đổi tại thời điểm thích hợp sẽ là phù hợp hơn rất nhiều. Mô hình hội đồng
Hiến pháp khi được xây dựng vận hành ở Việt Nam sẽ mang tính hiệu quả, khả
thi và phù hợp với thể chế chính trị cũng như sự thay đổi từng bước của xã hội
Việt Nam.
2. Thành lập cơ quan bảo vệ Hiến pháp trực thuộc Quốc hội
Chức năng của cơ quan này là giúp việc cho Quốc hội thực hiện bảo hiến
đối với các văn bản dưới luật do Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước,
Chính phủ, Thủ tướng, Tòa án nhân dân tối cao, Chính quyền địa phương. Ủy ban
này có nhiệm vụ trình kết quả giám sát để Quốc hội xem xét quyết định.
Theo Hiến pháp Việt Nam, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đại diện cho ý chí và quyền
lực của nhân dân, do nhân dân bầu ra nên không thể có một cơ quan nào được
đứng trên Quốc hội. Đồng thời, với nguyên tắc Hiến định về sự lãnh đạo mọi mặt
của Đảng, sự giám sát của một tổ chức với hoạt động của Đảng có tính phán
quyết liệu có mâu thuẫn? Vì vậy, một Ủy ban thuộc Quốc hội chỉ có chức năng
tham vấn và giám sát giải quyết được việc không phát sinh bộ máy mới cồng
28
kềnh và sự mâu thuẫn về lý luận. Thế nên, việc thành lập Ủy ban giám sát Hiến
pháp cũng như việc lập các Ủy ban khác của Quốc hội sẽ thể hiện được chức
năng và quyền hạn của Quốc hội. Hơn nữa, việc thành lập cơ quan này không cần
sửa đổi Hiến pháp mà chỉ cần sửa đổi Luật tổ chức Quốc hội, Quốc hội vẫn giữ
được vai trò là cơ quan quyền lực nhà nước thực hiện chức năng giám sát tối cao
đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước, trong đó có giám sát tối cao việc tuân
theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội.[12]
3. Trao quyền bảo hiến cho Tòa án Nhân dân Tối cao.
Thực tiễn bảo hiến ở Mỹ cho thấy đây là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống
tòa án nhưng thực chất do yếu tố thủ tục tố tụng, các vụ án thường được đẩy lên
cấp xét xử cao nhất là tòa án tối cao. Vì vậy, chức năng bảo hiến ở Mỹ chủ yếu do
tòa án tối cao tiến hành. Vì vậy, việc vận dụng kinh nghiệm bảo hiến của các
nước có lịch sử tư pháp lâu đời là rất cần thiết để áp dụng đối với nước ta.
Với mô hình này, ta dễ dàng nhận thấy tòa án với bộ má cán bộ và các
thẩm phán là những người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, chuyên trong
lĩnh vực tư pháp. Các vấn đề pháp lý nảy sinh không nơi nào giải quyết tốt hơn cơ
quan tòa án và phán quyết của tòa án về hình thức và nội dung đều mang tính
pháp lý cao, có giá trị bắt buộc phải thi hành.
Trên thế giới, mô hình bảo hiến bằng tòa án chuyên trách, tòa án Hiến pháp
rất phổ biến và đã chứng minh được tính hiệu quả thực tiễn việc thành lập Tòa án
Hiến pháp chuyên thực hiện bảo hiến sẽ đảm bảo được tính khách quan, hoạt
động chuyên trách theo thủ tục tố tụng Hiến pháp. Chỉ cơ quan có tính chất độc
lập này mới có quyền phát quyết về những vi phạm trong hoạt động của lập pháp,
hành pháp và tư pháp và cả hoạt động của Đảng cầm quyền theo đúng phương
châm của Đảng: “Mọi tổ chức hoạt động của Đảng đều trong khuôn khổ pháp
luật”.
4. Thành lập Tòa án Hiến pháp.
Tòa án Hiến pháp có vị trí độc lập với quyền hạn thực hiện bảo hiến tất cả
các nhánh quyền lực, bao gồm cả cơ quan lập pháp là Quốc hội. Và việc thành lập
Tòa án Hiến pháp là phương án khá phổ biến trong nhiều nhà nước pháp quyền
tiến bộ trên thế giới mà ở đó tính độc lập của cơ quan bảo vệ Hiến pháp được đảm
bảo bởi tính cân bằng quyền lực giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Về bản chất, các yếu tố hợp thành quyền lực nhà nước ở bất kỳ
đâu đều là thống nhất để thực hiện quyền lực nhân dân và chúng có vị thế và
nhiệm vụ khác nhau và có tầm quan trọng tương đương. Giữa các nhánh quyền
lực luôn có xu hướng muốn mở rộng quyền lực của mình để áp chế các nhánh
khác bởi vì đề có thể vận hành và sử dụng quyền lực thì chỉ có một chủ thể duy
nhất đó là con người. Vì thế, sự cân bằng quyền lực sẽ tạo cơ hội và điều kiện để
đảm bảo cho quyền lực nhà nước, quyền kực nhân dân, thực sự vận hành, tổ chức
có hiệu quả nhất.

29
Vấn đề thành lập cơ quan bảo hiến độc lập – Tòa án Hiến pháp tuân theo
đúng nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nguyên tắc xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng
bởi suy cho cùng sự bảo vệ Hiến pháp của Tòa án Hiến pháp chính là để bảo vệ
các nguyên tắc Hiến định đó. Tòa án Hiến pháp, không phải là tổ chức đứng trên
tất cả mà chỉ là một cơ quan được lập ra với thẩm quyền theo hiến định và luật
định nhằm đảm bảo sự cân bằng quyền lực nhà nước và đảm bảo tính tối cao của
Hiến pháp.
Ở Việt Nam, thẩm quyền của Tòa án Hiến pháp khi được thành lập phụ
thuộc rất nhiều vào nhận thức đổi mới của chúng ta, nhất là của Đảng về vị trí, vai
trò của các cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương; vị trí, vai trò mối quan hệ
của Tòa án Hiến pháp với các thiết chế quyền lực nhà nước nêu trên cũng như
tiêu chuẩn, nhiệm kỳ, cách thức bổ nhiệm thẩm phán của tòa án Hiến pháp. Nếu
được thành lập, xét về nhu cầu thực tiễn của tòa án Hiến pháp ở Việt nam cần
phải được trao những thẩm quyền sau thì mới có thể đảm bảo bảo hiến có hiệu
quả:
- Xem xét tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật trước và sau khi
ban hành để trách trường hợp can thiệp vào công việc của nhánh quyền lực và
cũng để hạn chế cá văn bản quy phạm pháp luật ban hành như vi hiến gây tổn hại
đến các lợi ích chung. Việc xem xét không chỉ ở nội dung văn bản mà bao gồm cả
tính hợp hiến cả về quy trình, thủ tục ban hành. Khi kết luận là vi hiến, Tòa án
Hiến pháp có quyền tuyên buộc đình chỉ tiêu hiệu lực và hủy bỏ các văn bản.
- Giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền giữa các cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất ở trung ương; giữa chính quyền trung ương với chính quyền cấp
tỉnh.
- Kiểm tra tính hợp hiến của các đạo luật đã và đang được áp dụng liên quan
đến các khiếu kiện về vi phạm các quyền và tự do cơ bản của công dân đã được
Hiến pháp quy định hoặc theo yêu cầu của các Tòa án.
- Xác nhận kết quả bầu cử Quốc hội và kết quả trưng cầu dân ý để khắc phục
tình trạng Hội đồng bầu cử quốc gia có nhiệm vụ xác nhận kết quả bầu cử lại là
thành viên thuộc nhánh lập pháp và hành pháp bên cạnh thành viên một số tổ
chức chính trị xã hội nên có thể không đảm bảo khách quan. Sự xác nhận của Tòa
án Hiến pháp đảm bảo tính tuân thủ Hiến pháp của toàn bộ quá trình bầu cử, đảm
bảo quyền công dân được tôn trọng. Thẩm quyền này sẽ khẳng định quyền phổ
thông đầu phiếu thực sự được coi trọng, tạo ra một sơ chế thiết thực đảm bảo
quyền công dân, đảm bảo hoạt động bầu cử mang tính thực chất, tạo lòng tin cho
nhân dân vào lá phiếu.
- Với trình độ pháp lý cao, Tòa án Hiến pháp thực hiện việc giải thích Hiến
pháp để đảm bảo hiệu quả, kịp thời, tránh việc giải thích theo hướng có lợi cho
nhánh quyền lực bất kỳ kể cả của lập pháp. Đồng thời tạo thẩm quyền riêng sẽ
đảm bả sự chuyên tâm, không trốn tránh và phân tán trách nhiệm như hiên nay

30
khi giao quyền cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhưng thực hiện không hiệu quả
(Điều 74 Hiến pháp 2013).
Tóm lại, Tòa án Hiến pháp với tư cách là một thiết chế bảo hiến độc lập sẽ
nâng cao hiệu quả bảo vệ Hiến pháp trên cơ sở giải quyết triệt để các vi phạm
hiến pháp và là thiết chế thực hiện đủ thẩm quyền tố tụng cần thiết để cơ quan, tổ
chứcvà cá nhân khi có yêu cầu bảo vệ các quyền hiến định tìm tới để có hành lang
pháp lý phù hợp bảo vệ các quyền và nghĩa vụ hợp pháp của mình.

31
KẾT LUẬN
Mô hình bảo hiến chuyên trách là nền tảng bắt buộc để xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là tiền đề để tạo nên một xã hội thực sự dân chủ, là
công cụ để bảo vệ quyền công dân mỗi quốc gia. Tuy nhiên, Hiến pháp Việt Nam
hiện nay lại đưa ra cơ chế bảo hiến nặng về hình thức và thực chất đã biến Hiến
pháp nước ta trở nên xa vời và không đi vào cuộc sống. Trước những thách thức
trong thực tế mà Hiến pháp nước ta đang gặp phải thì việc nghiên cứu lý luận và
thực tiễn vầ bảo hiến là vô cùng quan trọng và cần thiết. Và muốn cơ chế bảo hiến
có hiệu lực và hiệu quả, chúng ta cần phải làm rõ các yếu tố cấu thành của cơ chế
bảo vệ Hiến pháp, đưa ra được những nền tảng lý luận để dựa vào đó tạo dựng cơ
chế bảo hiến được tổ chức khoa học, có sự liên kết với các thiết chế khác và
không ảnh hưởng tới nhân dân. Đồng thời phải tuân thủ nguyên tắc Đảng lãnh
đạo tránh xu hướng lợi dụng hoạt động bảo hiến làm chệch hướng chính trị gây
mất trật tự an ninh xã hội và thực sự phải xuất phát từ mục tiêu đảm bảo mọi
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Như vậy, cơ chế bảo hiến mới phát huy
được tối đa giá trị vốn có của nó trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam hiện nay.
Việt Nam đang đứng trước ngưỡng cửa của hội nhập và phát triển, chúng
ta cần phải chọn con đường định hướng đúng đắn, một mô hình bảo hiến phù hợp
với đất nước là cần thiết. Xây dựng mô hình bảo hiến chuyên trách là quá trình
lâu dài và khó khăn, chúng ta không nên nóng vội, máy móc, điểm cốt lõi là lựa
chọn chính xác mô hình bảo hiến và có sự điều chỉnh để phù hợp với Việt Nam.
Và tất cả những đề xuất kiến nghị trên đều đang dựa trên sự phù hợp với quốc
gia, bắt đầu xác nhận mô hình bảo hiến cơ quan chuyên trách như Việt Nam và sẽ
từng bước thay đổi để hoàn chỉnh cơ chế bảo hiến.
Trong khuôn khổ bài viết, ngoài những nghiên cứu được sưu tầm ở các báo
cáo, các công trình nghiên cứu khoa học, bài viết, chuyên đề và các thông tin
thống kê từ các trang web đáng tin cậy, em có đưa ra một vài đề xuất kiến nghị
với mục đích nhằm góp phần hoàn thiện cơ chế bảo hiến ở Việt Nam hiện nay của
mình. Vì với tầm nhìn còn hạn chế, em không thể tránh khỏi những thiếu sót,
kính trong nhữn được những lời góp ý từ cổ.

32
Em xin chân thành cảm ơn!
1. Bộ Chính trị, Nghị quyết 48 ngày 2/5/2005 về chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật đến năm 2020, Hà Nội. 2. Ban Chấp hành Trung
ương Đảng, Báo cáo chính trị Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X năm 2006 của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội. 3. Hiến
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2014. 4. GS.TS Nguyễn Đăng Dung,
GS.TS Phạm Hồng Thái, TS Vũ Công Giao (Đồng chủ biên); Về Pháp
quyền và chủ nghĩa hợp hiến; nhà xuất bản Lao động - Xã hội, Hà Nội,
năm 2012. 5.Văn phòng Quốc hội, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế về bảo hiến,
nhà xuất bản Thời đại, Hà Nội, năm 2009. 6. Hiến pháp Cộng hòa Pháp,
Tuyển tập một số Hiến pháp trên thế giới, nhà xuất bản Thống kê, Hà
Nội, năm 2012. 7. TS. Nguyễn Ngọc Sơn, Bàn về thiết chế Hội đồng Hiến
pháp, nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, năm 2013. 8. TS.
Đặng Minh Tuấn, Trung Quốc và Việt Nam, truyền thống Xô Viết tối cao;
Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, năm 2012. 9. TS. Đỗ Minh
Khôi, Các yếu tố ảnh hưởng đến cơ chế bảo hiến, Hội thảo cơ chế bảo
hiến một số nước trên thế giới và bài học cho Việt Nam, Viên nghiên cứu
lập pháp (Ủy ban Thường vụ Quốc hội), năm 2012. 10. PGS.TS Nguyễn
Việt Hương (chủ biên), Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới,
nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2007. 11. Hiến pháp nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩ Việt Nam năm 1946, nhà xuất bản Chính trị quốc gia
Hà Nội, Hà Nội. 89 12. TS. Bùi Ngọc Sơn, Tiền cảnh chế độ bảo hiến ở
Việt Nam, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, năm 2009. 13.
TS. Võ Trí Hảo, Lựa chọn mô hình tài phán phán Hiến pháp, những vấn
đề phổ biến và đặc thù quốc gia - Đại học Luật Hà Nội, năm 2012. 14. TS.
Nguyễn Đức Lam - Văn phòng Quốc hội, Các mô hình bảo hiến trên thế
giới và khả năng lực chọn của Việt Nam, năm 2012. 15. Ban biên tập dự
thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Mô hình tổ chức và hoạt động Hội
đồng Hiến pháp một số nước trên thế giới, nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội, năm 2013. 16. GS.TS Hoàng Thị Kim Quế - Khoa luật - Đại
học quốc gia Hà Nội (chủ biên), Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật
thế giới, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà nội, năm 2007. 17. Giáo
trình Luật so sánh, Đại học Luật Hà Nội, nhà xuất bản Công an nhân
dân, năm 2011. 18. GS.TS Nguyễn Đăng Dung, GS.TS Phạm Hồng Thái,
TS Nguyễn Sĩ Dũng, TS Vũ Công Giao, TS Đặng Minh Tuấn (Đồng chủ
biên), Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992, những vấn đề lý luận và thực
tiễn. Tập II- Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. 19. Khoa Luật - Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hiến pháp những vấn đề lý luận và thực tiễn, nhà
xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2011. 20. TS. Đặng Minh Tuấn,
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Bình luận các quy định dự thảo
Hiến pháp về hội đồng Hiến pháp, năm 2013. 21. Giáo trình Luật Hiến
pháp, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, nhà xuất bản Đại học Quốc
gia Hà Nội. 22. Ủy ban Thường vụ Quốc hội :Tài liệu Hội thảo Cơ sở lý
33
luận và thực tiễn thành lập cơ quan bảo hiến phục vụ việc sửa đổi, bổ
sung Hiến pháp năm 1992, Hạ Long, năm 2011.

34

You might also like