You are on page 1of 788

Mã số: TPG/K - 20 - 12

1277-2020/CXBIPH/12-150/TP
CHỦ BIÊN
PGS.TS. Nguyễn Minh Hằng - ThS. Nguyễn Thị Hạnh

TẬP THỂ TÁC GIẢ

ThS. Nguyễn Thị Hạnh Mục 1; tiết 2.1, 2.2 mục 2


Chương 1; tiết 2.2, 2.3 mục 2
Chương 4
ThS. Lê Thị Nhàn Tiết 2.3 mục 2 Chương 1
PGS.TS. Nguyễn Minh Hằng Chương 2; mục 1, tiết 2.1 mục 2
Chương 4
ThS. LS. Ân Thanh Sơn Mục 1, tiết 2.1 mục 2 Chương 3
ThS. TP. Trần Trung Trực Tiết 2.2, 2.3 mục 2 Chương 3
ThS. Trần Minh Tiến Chương 5
PGS.TS. Nguyễn Thị Hoài Phương Mục 1 Chương 6
ThS.TP. Nguyễn Văn Vụ Tiết 2.2, 2.3 mục 2 Chương 6
LS. Trần Hồng Phúc Tiết 2.1 mục 2 Chương 6
ThS.TP. Lê Thị Bích Lan Tiết 2.2, 2.3 mục 2 Chương 7
TS. Nguyễn Thị Vân Anh Mục 1, tiết 2.1 mục 2 Chương 7
PGS.TS. Trần Anh Tuấn Chương 8
TS. Lê Thị Hà Chương 9
TS. Nguyễn Hải An Tiết 2.2, 2.3 mục 2 Chương 10
ThS. Nguyễn Thị An Na Mục 1, tiết 2.1 mục 2 Chương 10
ThS. Nguyễn Thị Phíp Mục 1, tiết 2.1 mục 2 Chương 11
ThS. Bùi Nguyễn Phương Lê Tiết 2.2 mục 2 Chương 11
ThS. Cao Thị Kim Trinh Tiết 2.3 mục 2 Chương 11

5
HỘI ĐỒNG THẨM ĐỊNH
(Theo Quyết định số 1264/QĐ-HVTP ngày 28/11/2016
của Giám đốc Học viện Tư pháp)

Chủ tịch Hội đồng:


TS. NGUYỄN XUÂN THU
Phó Giám đốc Học viện Tư pháp
Phản biện 1:
TS. NGUYỄN VĂN CƯỜNG
Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội
Phản biện 2:
PGS.TS. VŨ THỊ HỒNG VÂN
Phó hiệu trưởng Đại học Kiểm sát Hà Nội
Ủy viên:
LS. NGUYỄN THỊ HẰNG NGA
Trưởng văn phòng luật sư Nguyễn Thị Hằng Nga, Đoàn Luật sư
thành phố Hà Nội
Ủy viên Thư ký:
TS. NGUYỄN THANH PHÚ
Trưởng phòng Quản lý khoa học và Trị sự tạp chí Nghề luật,
Học viện Tư pháp

6
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLTTDS : BLTTDS
BLDS : Bộ luật Dân sự
HĐTP : Hội đồng thẩm phán
TAND : Tòa án nhân dân
TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao

7
LỜI GIỚI THIỆU

Cuốn “Giáo trình Kỹ năng giải quyết vụ việc dân sự” được biên
soạn và xuất bản lần đầu năm 2007, là kết quả của quan hệ hợp tác
giữa Học viện Tư pháp với Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA)
trong hoạt động hỗ trợ thể chế và cải cách pháp luật. Giáo trình này đã
trở thành tài liệu hữu ích, phục vụ trực tiếp cho hoạt động giảng dạy và
học tập của các lớp đào tạo nghiệp vụ xét xử, đào tạo nghiệp vụ kiểm
sát và đào tạo nghề luật sư tại Học viện Tư pháp.
Kế thừa những thành công của “Giáo trình Kỹ năng giải quyết vụ
việc dân sự” năm 2007, phát triển hoàn thiện giáo trình đảm bảo tính
thời sự, hiện đại, phù hợp với việc chuyển từ hình thức đào tạo theo
niên chế sang đào tạo theo hệ thống tín chỉ của Chương trình đào tạo
chung nguồn Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư, Học viện Tư pháp
biên soạn mới “Giáo trình Kỹ năng của Thẩm phán, Kiểm sát viên,
Luật sư trong giải quyết vụ, việc dân sự (Tập 1- Phần cơ bản)”. Giáo
trình gồm 11 chương, đề cập các kỹ năng cơ bản nhất của Thẩm phán,
Kiểm sát viên, Luật sư từ giai đoạn khởi kiện, thụ lý vụ, việc dân sự
đến thi hành án dân sự, theo cả ba thủ tục giải quyết vụ án dân sự, thủ
tục giải quyết việc dân sự và theo thủ tục rút gọn, nhưng trọng tâm ở
giai đoạn xét xử sơ thẩm.
Giáo trình được biên soạn bởi tập thể tác giả là giảng viên, nhà
nghiên cứu, một số Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư giàu kinh
nghiệm, đã gắn bó nhiều năm với hoạt động đào tạo Thẩm phán, Kiểm
sát viên, Luật sư tại Học viện Tư pháp. Với sự công phu, cẩn trọng
trong quá trình biên soạn, các tác giả hy vọng cuốn Giáo trình tái bản
lần thứ nhất tiếp tục là tài liệu giảng dạy và học tập hữu ích cho các lớp
đào tạo nghiệp vụ xét xử, nghiệp vụ kiểm sát và nghề luật sư, cũng như

9
là tài liệu tham khảo có giá trị cho các giảng viên, học viên, sinh viên
chuyên ngành luật và những người quan tâm tới hoạt động giải quyết
vụ, việc dân sự. Mặc dù tập thể tác giả đã rất nỗ lực và tâm huyết hoàn
thành Giáo trình, tuy vậy, khó tránh khỏi những thiếu sót nhất định,
rất mong nhận được ý kiến góp ý để Giáo trình của Học viện Tư pháp
ngày càng hoàn thiện.
Trân trọng giới thiệu cuốn Giáo trình cùng bạn đọc.
Hà Nội, tháng 4 năm 2020
HỌC VIỆN TƯ PHÁP

10
Chương 1
KHỞI KIỆN VÀ THỤ LÝ VỤ ÁN

Mục tiêu của bài học: Nội dung:


Chương này trang bị cho người học: 1. Một số vấn đề chung về điều
Về kiến thức, người học có được kiện khởi kiện, điều kiện thụ lý vụ
những kiến thức, kỹ năng nghề án dân sự
nghiệp cơ bản trong khởi kiện, thụ lý 1.1. Điều kiện khởi kiện vụ án dân sự
vụ án tương ứng với từng chức danh 1.2. Điều kiện thụ lý vụ án dân sự
Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên.
2. Kỹ năng của Luật sư, Thẩm phán,
Về kỹ năng, người học vận dụng Kiểm sát viên trong khởi kiện và
được những kỹ năng riêng biệt thụ lý vụ án dân sự
cho từng chức danh Luật sư,
Thẩm phán, Kiểm sát viên. 2.1. Kỹ năng khởi kiện vụ án dân sự
của Luật sư
Về thái độ, trên cơ sở kiến thức và
kỹ năng có được, người học có thái 2.2. Kỹ năng thụ lý vụ án dân sự
độ, ý thức chuyên nghiệp trong hoạt của Thẩm phán
động nghề nghiệp sau này. 2.3. Kỹ năng kiểm sát việc thụ lý vụ
án dân sự của Kiểm sát viên
3. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
1. Một số vấn đề chung về điều kiện khởi kiện, điều kiện thụ
lý vụ án dân sự
Kỹ năng xác định điều kiện khởi kiện, điều kiện thụ lý vụ án dân
sự là những vấn đề chung Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư cần phải
nắm vững. Trên cơ sở đó, Thẩm phán, Kiểm sát viên và Luật sư thực
hiện các hoạt động nghề nghiệp tương ứng với từng chức danh. Luật
sư thực hiện kỹ năng khởi kiện vụ án dân sự, Thẩm phán thực hiện kỹ
năng thụ lý vụ án dân sự và Kiểm sát viên thực hiện kỹ năng kiểm sát
việc thụ lý vụ án dân sự.

11
1.1. Điều kiện khởi kiện vụ án dân sự
Khi quyền dân sự của cá nhân, cơ quan, tổ chức bị xâm phạm
thì chủ thể của quan hệ pháp luật có quyền tự bảo vệ hoặc yêu cầu
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền: công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo
đảm quyền dân sự của mình; buộc chấm dứt hành vi vi phạm; buộc
xin lỗi, cải chính công khai; buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự; buộc bồi
thường thiệt hại; hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ
chức, người có thẩm quyền và yêu cầu khác theo quy định của pháp
luật. BLTTDS 2015 quy định cá nhân, cơ quan, tổ chức (người khởi
kiện) có quyền khởi kiện vụ án dân sự yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác, lợi ích công cộng,
lợi ích của Nhà nước. Khởi kiện vụ án dân sự là việc cá nhân, cơ
quan, tổ chức có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật
yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mình, của người khác hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi
ích của Nhà nước.
Việc khởi kiện vụ án dân sự phải bảo đảm điều kiện khởi kiện
theo quy định của pháp luật. Xác định điều kiện khởi kiện vụ án dân
sự căn cứ quy định tại Điều 192 BLTTDS 2015 và các quy định khác
của pháp luật.
1.1.1. Điều kiện về chủ thể khởi kiện
Điểm a khoản 1 Điều 192 BLTTDS 2015 quy định: Thẩm phán
trả lại đơn khởi kiện trong trường hợp người khởi kiện không có quyền
khởi kiện theo quy định tại Điều 186 và Điều 187 của BLTTDS hoặc
không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Như vậy, trước tiên, để
khởi kiện vụ án dân sự chủ thể khởi kiện phải có quyền khởi kiện và
có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Đây là điều kiện cần và đủ về
điều kiện chủ thể khởi kiện vụ án dân sự.
Thứ nhất, về quyền khởi kiện của người khởi kiện được xác định
như sau: họ phải là người có quyền, lợi ích hợp pháp về dân sự; hôn
nhân và gia đình; kinh doanh, thương mại; lao động (viết tắt là dân sự).
Về nguyên tắc, quyền, lợi ích hợp pháp về dân sự chỉ có được khi chủ

12
thể tham gia vào quan hệ pháp luật nội dung: quan hệ dân sự, hôn nhân
và gia đình; kinh doanh, thương mại, lao động (viết tắt là quan hệ dân
sự). Chủ thể không có quyền, lợi ích dân sự không có quyền khởi kiện
trừ một số trường hợp theo quy định của pháp luật.
Ví dụ:
Giữa khuôn viên nhà ông A và ông B có một diện tích đất trống.
Diện tích đất trống này là đất công, thuộc quyền sử dụng của Nhà
nước. Ông B đã tiến hành xây dựng một bức tường trên diện tích
đất này, làm cho khuôn viên nhà ông A không được thông thoáng
như trước. Ông A đã làm đơn khởi kiện vụ án dân sự, khởi kiện ông
B, yêu cầu ông B phải tháo dỡ bức tường, trả lại nguyên trạng diện
tích đất trống và sự thông thoáng cho nhà ông.
Trong trường hợp này, do không có quyền dân sự nên ông A
không có quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu ông B tháo dỡ bức
tường, trả lại nguyên trạng diện tích đất trống. Việc ông B xây dựng
trên diện tích đất thuộc quyền sử dụng của Nhà nước là hành vi vi
phạm pháp luật hành chính, thuộc quan hệ pháp luật hành chính.
Như vậy, có quyền, lợi ích dân sự hợp pháp chỉ là điều kiện cần
trong quyền khởi kiện của chủ thể khởi kiện. Mặc dù, người khởi kiện
có quyền, lợi ích dân sự nhưng quyền, lợi ích đó không hoặc chưa bị
xâm phạm thì cũng chưa đủ điều kiện khởi kiện vụ án dân sự.
Ví dụ:
Ông A cho vợ chồng ông B, bà C vay số tiền 200.000.000 đồng
ngày 01/01/2015. Trong hợp đồng vay, hai bên thỏa thuận thời hạn
vay là 18 tháng, lãi 1%/tháng, trả hàng tháng vào ngày đầu tiên của
tháng tiếp theo. Đến thời điểm tháng 01/2016, vợ chồng ông B, bà C
mâu thuẫn, ông B muốn khởi kiện ly hôn bà C. Biết được thông tin đó,
ngày 02/02/2016 ông A khởi kiện ông B, bà C yêu cầu Tòa án buộc
ông B, bà C thực hiện trả tiền vay gốc. Trong khi đó ông B, bà C thực
hiện đúng nghĩa vụ trả lãi theo thỏa thuận trong hợp đồng vay.
Trong tình huống này, ông A có quyền dân sự phát sinh từ quan
hệ hợp đồng vay tài sản nhưng quyền dân sự của ông chưa bị xâm

13
phạm nên ông A chưa có quyền khởi kiện ông B, bà C. Nếu đến thời
hạn thực hiện nghĩa vụ mà ông B, bà C không trả tiền vay gốc hoặc
trong thời hạn vay vợ chồng ông B, bà C vi phạm nghĩa vụ trả lãi
thì quyền dân sự của ông A mới bị xâm phạm.
Như vậy, quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khởi kiện bị xâm
phạm là điều kiện cần và đủ của quyền khởi kiện, là căn nguyên của yêu
cầu khởi kiện. Tòa án chỉ thụ lý vụ án khi người khởi kiện có căn cứ ban
đầu chứng minh được mình có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm.
Ngoài cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền, lợi ích bị xâm phạm
có quyền khởi kiện để yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi của mình thì
pháp luật còn quy định quyền khởi kiện của các cá nhân, cơ quan, tổ
chức để bảo vệ quyền hay lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bảo vệ
lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách,
trong một số trường hợp đặc biệt, bao gồm:
- Quyền khởi kiện của cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ
quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong
trường hợp cần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của những người quy
định tại khoản 5 Điều 84; khoản 2 Điều 86; khoản 3 Điều 102; khoản
2 Điều 119 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Cụ thể, các cơ quan, tổ
chức này được quyền khởi kiện yêu cầu:
+ Thay đổi người trực tiếp nuôi con; hạn chế quyền của cha, mẹ
đối với con chưa thành niên;
+ Xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên
mất năng lực hành vi dân sự; xác định con cho cha, mẹ chưa thành niên
hoặc mất năng lực hành vi dân sự;
+ Trường hợp buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ
cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ.
Đối với các trường hợp trên, người được cơ quan quản lý nhà
nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp
phụ nữ Việt Nam khởi kiện để bảo vệ quyền lợi là nguyên đơn trong
vụ án dân sự.

14
- Quyền khởi kiện của tổ chức đại diện tập thể lao động để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động hoặc khi được
người lao động ủy quyền. Tổ chức đại diện tập thể lao động thực hiện
việc khởi kiện theo quy định của Bộ luật Lao động 2012.
- Quyền khởi kiện của tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng. Tổ chức này có quyền đại diện cho người tiêu dùng
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng hoặc tự mình khởi kiện vì lợi ích
công cộng. Để có quyền khởi kiện, tổ chức xã hội tham gia bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng phải bảo đảm hai tiêu chí theo quy định tại
Điều 27 Luật Bảo vệ người tiêu dùng 2010.
- Quyền khởi kiện của cơ quan, tổ chức (trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình), yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích
của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách hoặc theo quy định của
pháp luật. Cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện phải đáp ứng đủ các
điều kiện sau:
+ Cơ quan, tổ chức đó có những nhiệm vụ, quyền hạn trong việc
thực hiện chức năng quản lý nhà nước, quản lý xã hội về một lĩnh vực
nhất định.
+ Lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước cần yêu cầu Tòa án
bảo vệ phải thuộc lĩnh vực do cơ quan, tổ chức đó phụ trách.
- Quyền khởi kiện vụ án của cơ quan Tài nguyên và Môi trường
yêu cầu Tòa án buộc cá nhân, cơ quan, tổ chức có hành vi gây ô nhiễm
môi trường phải bồi thường thiệt hại, khắc phục sự cố gây ô nhiễm môi
trường công cộng.
- Quyền khởi kiện của cơ quan Văn hóa - Thông tin yêu cầu Tòa
án buộc cá nhân, cơ quan, tổ chức có hành vi xâm phạm di sản văn hóa
thuộc sở hữu toàn dân phải bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm
gây ra.
Bên cạnh đó Luật Hôn nhân và gia đình 2014, BLTTDS 2015
còn bổ sung quy định: cá nhân không có quyền dân sự bị xâm phạm
nhưng có quyền khởi kiện vụ án hôn nhân và gia đình để bảo vệ

15
quyền, lợi ích hợp pháp của người khác theo quy định tại khoản 2 Điều 51;
khoản 5 Điều 84; khoản 2 Điều 86; Điều 92; khoản 3 Điều 102; khoản 2
Điều 119 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Cụ thể, phạm vi những
người có quyền khởi kiện gồm: cha, mẹ, người thân thích, người giám
hộ của những người có quyền và lợi ích được khởi kiện yêu cầu Tòa
án bảo vệ. Theo giải thích tại khoản 1 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia
đình 2014 người có quan hệ hôn nhân, nuôi dưỡng, người có cùng
dòng máu về trực hệ và người có họ trong phạm vi ba đời là người
thân thích. Theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 102 Luật Hôn nhân
và gia đình 2014, chỉ cha, mẹ, con, người giám hộ mới có quyền khởi
kiện xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất
năng lực hành vi dân sự; xác định con cho cha, mẹ chưa thành niên
hoặc mất năng lực hành vi dân sự.
Thứ hai, người khởi kiện phải có đủ năng lực hành vi tố tụng dân
sự. Năng lực hành vi tố tụng dân sự là khả năng tự mình thực hiện quyền,
nghĩa vụ tố tụng dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng
dân sự. Người không có khả năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ
tố tụng dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng dân
sự là người không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự theo quy định
tại Điều 69 BLTTDS 2015.
Cá nhân khởi kiện phải là con người cụ thể, không phân biệt là
người nước ngoài hay người Việt Nam ở trong nước hay người Việt
Nam định cư, làm ăn, học tập, công tác ở nước ngoài hoặc người nước
ngoài không ở Việt Nam có mặt tại Việt Nam đều có quyền khởi kiện.
Cá nhân có đủ năng lực hành vi dân sự đồng thời có đủ năng lực hành
vi tố tụng dân sự, họ phải là người đạt độ tuổi nhất định, không bị mất
khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình. Căn cứ
vào quy định tại Điều 69 BLTTDS 2015 để xác định năng lực hành vi
tố tụng dân sự của cá nhân, từ đó xem xét họ có được khởi kiện hay
không. Người từ đủ mười tám tuổi trở lên có đầy đủ năng lực hành vi
tố tụng dân sự, trừ người mất năng lực hành vi dân sự hoặc pháp luật
có quy định khác.

16
Khi cá nhân có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự đầy đủ họ
được tự mình thực hiện quyền khởi kiện. Trường hợp cá nhân là người
chưa có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự, mất năng lực hành vi dân
sự, người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi dân sự do
họ không thể thực hiện được quyền khởi kiện nên người đại diện hợp
pháp thực hiện quyền khởi kiện. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 6
Điều 69 BLTTDS 2015, người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi mặc
dù năng lực hành vi tố tụng dân sự chưa đầy đủ nhưng họ vẫn là chủ
thể khởi kiện.
Ví dụ:
Ông A có vợ hợp pháp là bà N. Cháu C là con ngoài giá thú của
ông A, bà B. Bà B trực tiếp nuôi dưỡng cháu C. Khi cháu C được 5
tuổi ông A chết để lại di sản thừa kế nhà, đất. Cháu C là người có
quyền thừa kế di sản của ông A nhưng do cháu mới 5 tuổi, không
có năng lực hành vi tố tụng dân sự để thực hiện quyền khởi kiện
yêu cầu chia di sản thừa kế của ông A. Theo quy định của BLDS,
bà B là người đại diện hợp pháp của cháu C (đại diện theo pháp
luật) nên bà B đại diện cho cháu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa
kế của ông A cho cháu C.
Cơ quan, tổ chức thực hiện quyền khởi kiện thông qua người
đại diện hợp pháp. Người đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo
ủy quyền là người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức. Căn cứ
vào điều lệ của pháp nhân; giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh,
đăng ký doanh nghiệp hoặc quyết định thành lập pháp nhân để xác
định người đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Do đó, căn cứ
năng lực hành vi tố tụng dân sự của cá nhân người đại diện hợp pháp
của cơ quan, tổ chức để xác định năng lực hành vi tố tụng dân sự
cơ quan, tổ chức. Nếu cơ quan, tổ chức bị sáp nhập, phân chia, giải
thể thì cơ quan, tổ chức, cá nhân kế thừa quyền và nghĩa vụ được
thực hiện quyền khởi kiện. Cơ quan, tổ chức muốn thực hiện quyền
khởi kiện phải có tư cách pháp nhân1. Một tổ chức được công nhận là
1
Vấn đề pháp nhân được quy định tại các điều từ Điều 74 đến Điều 96 Chương IV Phần thứ nhất
“Những quy định chung” của BLDS 2015.

17
pháp nhân khi có đủ các điều kiện: (i) Được thành lập theo quy định
của BLDS 2015, luật khác có liên quan; (ii) Có cơ cấu tổ chức theo
quy định tại Điều 83 BLDS 2015; (iii) Có tài sản độc lập với cá nhân,
pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình; (iv)
Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập (Điều 74
BLDS 2015). Các đơn vị phụ thuộc của pháp nhân như chi nhánh, văn
phòng đại diện không có quyền khởi kiện vụ án dân sự. Pháp luật
cũng quy định cụ thể việc khởi kiện bảo vệ quyền lợi của hộ gia đình, tổ
hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân. Hộ gia đình, tổ hợp
tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự
thì các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư
cách pháp nhân là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự
hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia xác lập, thực hiện giao dịch
dân sự (Điều 101 BLDS 2015). Vì vậy, việc khởi kiện trong trường
hợp này do cá nhân thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác
không có tư cách pháp nhân thực hiện. Ví dụ, theo quy định của Luật
Doanh nghiệp 2014, doanh nghiệp tư nhân là một tổ chức không có
tư cách pháp nhân do đó người khởi kiện là chủ doanh nghiệp tư
nhân. Chủ thể khởi kiện không phải là doanh nghiệp tư nhân.
1.1.2. Có đủ điều kiện khởi kiện
Điểm b khoản 1 Điều 192 BLTTDS 2015 quy định Thẩm phán
trả lại đơn khởi kiện trong trường hợp:“chưa có đủ điều kiện khởi kiện
theo quy định của pháp luật. Chưa có đủ điều kiện khởi kiện là trường
hợp pháp luật có quy định về các điều kiện khởi kiện nhưng người khởi
kiện đã khởi kiện đến Toà án khi còn thiếu một trong các điều kiện đó”.
Trước đây, khoản 3 Điều 8 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn thi hành
một số quy định trong phần thứ hai “thủ tục giải quyết vụ án tại tòa án
cấp sơ thẩm” của BLTTDS được sửa đổi, bổ sung theo luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của BLTTDS năm 2011 đã hướng dẫn: Chưa có đủ
điều kiện khởi kiện là trường hợp các đương sự có thoả thuận hoặc pháp
luật có quy định về các điều kiện để khởi kiện (kể cả quy định về hình
thức, nội dung đơn kiện), nhưng đương sự đã khởi kiện khi còn thiếu

18
một trong các điều kiện đó. So với nội dung hướng dẫn trên, điều cần
chú ý là BLTTDS 2015 chỉ quy định điều kiện khởi kiện do pháp luật
quy định, không quy định điều kiện khởi kiện do các đương sự có thoả
thuận. Xác định điều kiện khởi kiện do pháp luật quy định cần nghiên
cứu quy định của pháp luật nội dung.
Tranh chấp đất đai phải thông qua hòa giải ở cơ sở theo quy định
của Luật Đất đai 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Điều 203
Luật Đất đai 2013 quy định tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy
ban nhân dân cấp xã mà không thành thì đương sự có quyền khởi kiện
đến Tòa án. Do đó, nếu chưa qua thủ tục hòa giải ở cơ sở theo quy định
của Luật Đất đai thì chưa đủ điều kiện khởi kiện. Đối với tranh chấp
về bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ của Nhà nước gây ra
trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án trong thời hạn
15 ngày kể từ ngày hết thời hạn ra quyết định giải quyết bồi thường
quy định tại Điều 20 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước mà
cơ quan có trách nhiệm bồi thường không ra quyết định hoặc kể từ
ngày người bị thiệt hại nhận được quyết định nhưng không đồng ý thì
người bị thiệt hại có quyền khởi kiện ra Toà án có thẩm quyền để yêu
cầu giải quyết bồi thường.
Tranh chấp lao động cá nhân (trừ 05 loại tranh chấp lao động được
liệt kê từ điểm a đến điểm đ khoản 1 Điều 32 BLTTDS 2015 các bên
tranh chấp có quyền khởi kiện đến Tòa án ngay khi tranh chấp phát
sinh) chỉ được khởi kiện khi tranh chấp đã qua thủ tục hòa giải của hòa
giải viên lao động nhưng các bên không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng kết quả hòa giải; hòa giải viên lao động đã tiến hành hòa giải
nhưng không thành hoặc hòa giải viên không hòa giải trong thời hạn 05
ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu hòa giải. Tranh chấp lao động
tập thể về quyền chỉ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khi tranh
chấp đó đã được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện giải quyết mà tập
thể lao động hoặc người sử dụng lao động không đồng ý với quyết định
giải quyết đó hoặc quá thời hạn 05 ngày làm việc mà Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân cấp huyện không giải quyết vụ tranh chấp. Quy định này là
phù hợp với Điều 201 và Điều 204 Bộ luật Lao động 2012.

19
Đối với một số loại tranh chấp như đòi nhà cho thuê, cho mượn,
cho ở nhờ… theo quy định của Nghị quyết số 1037/2006/NQ-UBTVQH11
ngày 27/7/2006 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về
nhà ở được xác lập trước ngày 01/7/1991 có người Việt Nam định cư
ở nước ngoài tham gia thì khi chủ nhà muốn lấy lại phải thực hiện thủ
tục thông báo bằng văn bản cho phía bên kia trước một thời hạn từ 06
đến 12 tháng. Nếu người khởi kiện chưa thực hiện việc thông báo cho
bên kia thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện.
Ngoài ra, pháp luật còn quy định về trường hợp người khởi kiện
bị hạn chế quyền khởi kiện trong một thời hạn nhất định. Đây là những
trường hợp người khởi kiện có quyền khởi kiện, nhưng tại một thời
điểm nhất định, họ chưa được thực hiện quyền khởi kiện. Việc hạn chế
quyền khởi kiện được quy định cụ thể trong pháp luật hôn nhân và gia
đình, BLDS, cụ thể: theo khoản 3 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình 2014
thì“Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang
có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi”. Luật Hôn
nhân và gia đình 2014 (khoản 3 Điều 66) và BLDS 2015 (Điều 661)
cũng có quy định về hạn chế quyền khởi kiện vụ án thừa kế trong một
thời hạn khi có yêu cầu phân chia di sản thừa kế.
Ngoài các quy định của pháp luật nêu trên về điều kiện khởi kiện,
cần xác định các trường hợp khác mà pháp luật có quy định tranh chấp
cần phải được giải quyết bởi cơ quan, tổ chức khác trước khi khởi kiện
vụ án dân sự.
1.1.3. Sự việc chưa được Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm
quyền giải quyết bằng một bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp
luật hoặc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Tòa án nhưng người khởi kiện có quyền khởi kiện lại
theo quy định của pháp luật
Đây là điều kiện được pháp luật quy định nhằm đảm bảo hiệu
lực của bản án, quyết định, sự ổn định của các quan hệ xã hội. Khi
sự việc chưa được Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải
quyết bằng một bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc trong

20
trường hợp sự việc đã được Tòa án giải quyết bằng bản án, quyết định
có hiệu lực nhưng theo quy định của pháp luật thì người khởi kiện có
quyền khởi kiện lại trong các trường hợp sau:
- Yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp
dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, yêu cầu thay đổi người quản lý tài
sản, thay đổi người quản lý di sản, thay đổi người giám hộ hoặc vụ
án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử
dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà trước đó Tòa án chưa chấp
nhận yêu cầu mà theo quy định của pháp luật được quyền khởi kiện lại
(điểm b khoản 3 Điều 192 BLTTDS 2015);
- Trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 192 và điểm c
khoản 1 Điều 217 BLTTDS 2015, Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết
vụ án.
- Đối với tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài, nếu vụ việc
đã được giải quyết bằng bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài
hoặc phán quyết của Trọng tài nước ngoài thì người khởi kiện không
có quyền khởi kiện lại. Theo quy định tại Điều 472 BLTTDS 2015,
trường hợp bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài, phán quyết
của Trọng tài nước ngoài không được Tòa án Việt Nam công nhận thì
người khởi kiện vẫn có quyền khởi kiện lại tại Tòa án Việt Nam.
- Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Đây là các
trường hợp được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật khác
hoặc trong các điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là thành viên.
1.1.4. Yêu cầu khởi kiện phải thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án
Yêu cầu khởi kiện phải thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
là một trong những điều kiện quan trọng để khởi kiện vụ án dân sự.
Điều kiện này liên quan đến việc xác định thẩm quyền giải quyết của
Tòa án. Theo quy định tại Điều 192 BLTTDS 2015 thì Tòa án trả lại
đơn khởi kiện trong trường hợp:“Vụ án không thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án”. Theo giải thích của TANDTC thì vụ án không

21
thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án là trường hợp theo quy định
của pháp luật, tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan,
tổ chức khác.
Điều 26, 28, 30 và 32 BLTTDS 2015 quy định cụ thể các tranh
chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Theo đó, tranh chấp
phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự (Điều 26 BLTTDS 2015), tranh
chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình (Điều 28
BLTTDS 2015), tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật kinh doanh,
thương mại (Điều 30 BLTTDS 2015), những tranh chấp phát sinh từ
quan hệ pháp luật lao động (Điều 32 BLTTDS 2015) thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án.
So với quy định của BLTTDS 2004, sửa đổi, bổ sung 2011, thẩm
quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh chấp dân sự; hôn nhân
và gia đình; kinh doanh, thương mại; lao động được mở rộng hơn, phù
hợp với các quy định của luật nội dung như BLDS 2015, Luật Hôn
nhân gia đình 2014, Bộ luật Lao động 2012, Luật Đất đai 2013; Luật
Thi hành án dân sự... Đồng thời, với quy định theo phương pháp loại
trừ thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết tất cả các tranh chấp dân sự,
hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động trừ những tranh
chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác.
Ví dụ:
Các tranh chấp giữa viên chức và đơn vị sự nghiệp công lập
không được liệt kê trong các loại tranh chấp lao động quy định
tại Điều 32 BLTTDS nhưng theo quy định tại Điều 30, khoản 6
Điều 56 Luật Viên chức 2012, sửa đổi, bổ sung năm 2019, tranh chấp
này không thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác mà
đây là tranh chấp lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Ngoài ra, với quy định Tòa án “không được từ chối yêu cầu giải
quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng” (khoản 2
Điều 4 BLTTDS 2015), thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự; hôn
nhân và gia đình; kinh doanh, thương mại; lao động (viết tắt là tranh
chấp dân sự) của Tòa án rất rộng. Đây là quy định mới mang tính đột

22
phá của BLTTDS 2015. Mục tiêu của việc bổ sung quy định này phù
hợp với nguyên tắc của nhà nước pháp quyền, với quy định của Hiến
pháp 2013 về quyền con người, quyền tư pháp. Từ đó đảm bảo mọi
tranh chấp dân sự đều phải được Tòa án thụ lý, giải quyết; quyền được
tiếp cận công lý của chủ thể quan hệ pháp luật khi có tranh chấp được
bảo đảm.
Phân biệt thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự của Tòa án
với thẩm quyền giải quyết vụ việc của các cơ quan, tổ chức khác (cơ
quan hành chính nhà nước, Trọng tài thương mại) là một nội dung
quan trọng trong xác định điều kiện thẩm quyền giải quyết của Tòa
án. Các chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính khi có tranh chấp có
quyền khiếu nại, yêu cầu cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền
giải quyết tranh chấp. Cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền
giải quyết tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của chủ thể phát sinh từ
quan hệ pháp luật hành chính, vì vậy không thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án. Trọng tài thương mại có thẩm quyền giải quyết tranh
chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; tranh chấp phát
sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại;
hoặc các tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải
quyết bằng Trọng tài nếu các bên có thoả thuận trọng tài. Theo quy
định tại khoản 1 Điều 5 Luật Trọng tài thương mại 2010, thỏa thuận
trọng tài có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp. Do đó,
khi có tranh chấp các bên không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án
giải quyết trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu theo quy định
tại Điều 18 Luật Trọng tài thương mại 2010 hoặc thoả thuận trọng tài
không thể thực hiện được.
Xác định điều kiện về thẩm quyền của Tòa án đối với giải quyết
tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài cần chú ý các quy định của
BLTTDS 2015 về thẩm quyền chung của Tòa án Việt Nam trong
giải quyết các tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài (Điều 469
BLTTDS 2015); thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Việt Nam
(Điều 470 BLTTDS 2015), thỏa thuận của các bên đương sự về lựa
chọn Trọng tài, Tòa án nước ngoài (Điều 472 BLTTDS 2015).

23
1.1.5. Điều kiện về đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ
BLTTDS 2015 quy định, Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện trong
trường hợp: người khởi kiện không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện
theo yêu cầu của Thẩm phán quy định tại khoản 2 Điều 193 BLTTDS
và kèm theo đơn khởi kiện phải có tài liệu, chứng cứ chứng minh
quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm (khoản 5
Điều 189 BLTTDS 2015).
a) Điều kiện về đơn khởi kiện
Pháp luật tố tụng dân sự trước đây và BLTTDS 2015 chỉ thừa
nhận một hình thức khởi kiện duy nhất là đơn khởi kiện phải viết bằng
tiếng Việt, không thừa nhận việc khởi kiện bằng lời nói hoặc hình thức
khác không phải là văn bản và thể hiện bằng các ký hiệu, ngôn ngữ
khác không phải là tiếng Việt. So với quy định của pháp luật tố tụng
dân sự trước đây thì quy định về hình thức, nội dung đơn khởi kiện tại
BLTTDS 2015 đã được sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định cụ thể
cách thức làm đơn khởi kiện đối với từng chủ thể là cá nhân, cơ quan,
tổ chức và tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện. Điều này giúp
cho các chủ thể thực hiện quyền khởi kiện dễ dàng, thuận lợi hơn và
tạo sự thống nhất trong việc áp dụng của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Điều 189 BLTTDS 2015 đã quy định cụ thể về hình thức và nội dung
đơn khởi kiện vụ án dân sự. Do đó đơn khởi kiện phải bảo đảm yêu
cầu về hình thức cũng như nội dung theo quy định tại Điều 189
BLTTDS 2015.
- Điều kiện về hình thức đơn khởi kiện: Hình thức đơn khởi
kiện phải thực hiện theo đúng quy định tại khoản 1, 2, 3 Điều 189
BLTTDS 2015. Tùy thuộc từng trường hợp người khởi kiện là cá
nhân hay cơ quan, tổ chức mà hình thức đơn khởi kiện phải đáp ứng
yêu cầu khác nhau.
Cá nhân khởi kiện thì tại mục tên, địa chỉ nơi cư trú của người
khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ nơi cư trú của cá nhân
đó. Ở cuối đơn, chính cá nhân đó phải ký tên hoặc điểm chỉ. Việc
BLTTDS 2015 quy định người khởi kiện phải ký tên hoặc điểm chỉ để

24
bảo đảm việc thể hiện trực tiếp ý chí về việc khởi kiện của người khởi
kiện. Tại mục tên, địa chỉ của người khởi kiện phải ghi họ tên, địa chỉ
của cá nhân đó. Trường hợp người khởi kiện là người chưa thành niên,
người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi thì người đại diện hợp pháp của họ có thể tự
mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên,
địa chỉ nơi cư trú của người khởi kiện phải ghi họ tên, địa chỉ nơi cư trú
của người đại diện hợp pháp của cá nhân đó; ở phần cuối đơn, người
đại diện hợp pháp đó phải ký tên hoặc điểm chỉ.
Trường hợp cá nhân là người đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi đã
tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng
tài sản riêng của mình thì họ là người khởi kiện về những việc có liên
quan đến quan hệ lao động hoặc quan hệ dân sự đó vì vậy tại mục tên,
địa chỉ của người khởi kiện trong đơn khởi kiện phải ghi họ tên; địa
chỉ của họ, ở phần cuối đơn, họ phải ký tên hoặc điểm chỉ. Đối với
cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự hoặc cá nhân là
người đại diện hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng
lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành
vi (người khởi kiện) là người không biết chữ, người khuyết tật nhìn,
người không thể tự mình làm đơn khởi kiện hay không thể tự mình
ký tên hoặc điểm chỉ thì có thể nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện
và bắt buộc phải có người làm chứng là người có đủ năng lực hành
vi dân sự theo quy định tại Điều 69 BLTTDS 2015. Người làm chứng
phải ký xác nhận vào đơn khởi kiện. Theo quy định tại Điều 69
BLTTDS 2015 người làm chứng phải là người có đầy đủ năng lực
hành vi tố tụng dân sự.
Trường hợp cơ quan, tổ chức khởi kiện thì tại mục tên, địa chỉ
của người khởi kiện phải ghi tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức và họ,
tên, chức vụ của người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó; ở
phần cuối đơn, người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức phải ký
tên và đóng dấu của cơ quan, tổ chức đó. Tổ chức khởi kiện là doanh
nghiệp thì việc sử dụng con dấu theo quy định của Luật Doanh nghiệp.
Đơn khởi kiện của pháp nhân là doanh nghiệp có nhiều người đại

25
diện theo pháp luật thì căn cứ vào Điều lệ doanh nghiệp để xác định
người ký đơn khởi kiện. Điều lệ doanh nghiệp có nhiều người đại
diện theo pháp luật quy định cụ thể về số lượng, chức danh quản
lý, quyền và nghĩa vụ của từng người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp.
- Điều kiện về nội dung đơn khởi kiện: quy định tại khoản 4
Điều 189 BLTTDS 2015, đơn khởi kiện phải có đầy đủ các nội dung
chính sau đây:
+ Ngày, tháng, năm làm đơn khởi kiện;
+ Tên Tòa án nhận đơn khởi kiện;
+ Tên, nơi cư trú, làm việc của người khởi kiện là cá nhân hoặc
trụ sở của người khởi kiện là cơ quan, tổ chức; số điện thoại, fax và
địa chỉ thư điện tử (nếu có). Trường hợp các bên thỏa thuận địa chỉ
để Tòa án liên hệ thì trong nội dung đơn khởi kiện phải ghi cụ thể
địa chỉ đó;
+ Tên, nơi cư trú, làm việc của người có quyền và lợi ích được bảo
vệ là cá nhân hoặc trụ sở của người có quyền và lợi ích được bảo vệ là
cơ quan, tổ chức; số điện thoại, fax và địa chỉ thư điện tử (nếu có);
+ Tên, nơi cư trú, làm việc của người bị kiện là cá nhân hoặc
trụ sở của người bị kiện là cơ quan, tổ chức; số điện thoại, fax và địa
chỉ thư điện tử (nếu có). Trường hợp không rõ nơi cư trú, làm việc
hoặc trụ sở của người bị kiện thì trong nội dung đơn khởi kiện ghi
cụ thể địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở cuối cùng của
người bị kiện;
+ Tên, nơi cư trú, làm việc của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan là cá nhân hoặc trụ sở của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
là cơ quan, tổ chức; số điện thoại, fax và địa chỉ thư điện tử (nếu có).
Trường hợp không rõ nơi cư trú, làm việc hoặc trụ sở của người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì trong nội dung đơn khởi kiện ghi
cụ thể địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở cuối cùng của
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;

26
+ Quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm;
những vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết đối với người bị kiện,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
+ Họ, tên, địa chỉ của người làm chứng (nếu có);
+ Danh mục tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện.
So với quy định về hình thức, nội dung đơn khởi kiện của pháp
luật tố tụng dân sự trước đây thì trong quy định về nội dung đơn khởi
kiện BLTTDS 2015 đã bổ sung một số nội dung như số điện thoại,
fax và địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người khởi kiện, người bị kiện,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và địa chỉ do các bên thỏa thuận
để Tòa án liên hệ. Đồng thời, Điều 189 cũng quy định bổ sung trường
hợp không rõ nơi cư trú, làm việc hoặc trụ sở của người bị kiện, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì ghi rõ địa chỉ nơi cư trú, làm việc
hoặc nơi có trụ sở cuối cùng của người bị kiện, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan. Bổ sung các quy định này, BLTTDS 2015 đã khắc
phục vướng mắc và giải quyết không thống nhất đối với trường hợp
không rõ nơi cư trú, làm việc hoặc trụ sở của người bị kiện, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Đơn khởi kiện vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, ngoài việc tuân
thủ quy định về nội dung và hình thức tại Điều 189 BLTTDS 2015
còn phải ghi rõ quốc tịch của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan ở nước ngoài. Ngoài việc thực hiện đúng quy định tại
Điều 189 BLTTDS 2015, đơn khởi kiện còn phải theo mẫu đơn khởi
kiện theo hướng dẫn của TANDTC.
b) Điều kiện về tài liệu, chứng cứ nộp kèm theo đơn khởi kiện
Kèm theo đơn khởi kiện, người khởi kiện phải nộp các tài liệu,
chứng cứ chứng minh yêu cầu khởi kiện là có căn cứ. Các tài liệu,
chứng cứ này phải bảo đảm tính đầy đủ và tính hợp pháp. Do đó, điều
kiện cần và đủ khi đánh giá điều kiện về tài liệu, chứng cứ là tính đầy
đủ và tính hợp pháp. Về tính đầy đủ, yêu cầu đặt ra là các tài liệu,
chứng cứ này phải phù hợp với hình thức, nội dung đơn khởi kiện, yêu

27
cầu khởi kiện. Yêu cầu về tài liệu, chứng cứ phù hợp tùy thuộc vào
từng loại tranh chấp và từng tranh chấp cụ thể. Tuy nhiên, người khởi
kiện đều phải có các tài liệu, chứng cứ chứng minh tư cách của chủ thể
khởi kiện và chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện
bị xâm phạm, yêu cầu khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp khi khởi kiện
bất kỳ tranh chấp nào.
Người khởi kiện là cá nhân khác với người khởi kiện là cơ quan,
tổ chức trong việc xác định các tài liệu chứng minh tư cách chủ thể
khởi kiện. Cá nhân khởi kiện phải có chứng minh thư, sổ hộ khẩu hoặc
các tài liệu hợp lệ khác. Người khởi kiện là pháp nhân phải có hồ sơ
pháp nhân. Tùy thuộc vào từng loại tranh chấp cũng như từng tranh
chấp cụ thể để xác định tài liệu, chứng cứ chứng minh yêu cầu khởi
kiện. Ví dụ, người khởi kiện phải nộp giấy chứng nhận kết hôn hoặc
giấy tờ hợp lệ khác chứng minh quan hệ hôn nhân hợp pháp đối với
tranh chấp ly hôn; người khởi kiện phải có tài liệu, chứng cứ chứng
minh việc xác lập quan hệ hợp đồng giữa các bên trong trường hợp
khởi kiện tranh chấp hợp đồng... Căn cứ quy định của pháp luật tố tụng
dân sự (Điều 95 BLTTDS 2015 và các quy định khác của BLTTDS
2015) để xác định tính hợp pháp của tài liệu, chứng cứ mà người khởi
kiện nộp kèm theo đơn khởi kiện.
Khi gửi đơn khởi kiện cho Tòa án, về nguyên tắc người khởi kiện
phải gửi kèm theo các tài liệu, chứng cứ để chứng minh họ là người có
quyền khởi kiện và những yêu cầu của họ là có căn cứ và hợp pháp.
Tuy nhiên, người khởi kiện vì lý do khách quan nếu không thể thu thập
được tài liệu, chứng cứ để nộp đầy đủ ngay khi khởi kiện thì họ phải
nộp tài liệu, chứng cứ hiện có để chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp
bị xâm phạm. Trong quá trình giải quyết vụ án, người khởi kiện bổ
sung hoặc giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ khác theo yêu cầu của
Tòa án. Từ đó, cần lưu ý rằng tài liệu, chứng cứ nộp kèm theo đơn khởi
kiện không phải là tất cả tài liệu, chứng cứ để giải quyết vụ án mà chỉ
là những tài liệu, chứng cứ đủ để Tòa án thụ lý vụ án. BLTTDS 2015
quy định người khởi kiện chỉ cần nộp tài liệu, chứng cứ hiện có nhằm

28
tránh việc gây khó khăn, phiền hà quá mức cho người khởi kiện cũng
như sự tùy tiện trong việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án đã xảy ra
trong thực tế, bảo đảm tối đa việc thực hiện quyền khởi kiện của các
chủ thể trong thực tế.
1.2. Điều kiện thụ lý vụ án dân sự
Tòa án chỉ tiến hành thụ lý vụ án dân sự khi có đủ điều kiện thụ
lý. Điều kiện thụ lý vụ án dân sự bao gồm điều kiện khởi kiện vụ án
dân sự và các điều kiện khác theo quy định của BLTTDS 2015. Các
điều kiện khác cần xác định liên quan đến điều kiện về thẩm quyền giải
quyết của Tòa án và người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí trừ
trường hợp họ được miễn nộp toàn bộ hoặc không phải nộp tiền tạm
ứng án phí.
1.2.1. Điều kiện về thẩm quyền giải quyết của Tòa án
Tiếp cận ở góc độ điều kiện thụ lý vụ án cần xem xét điều kiện
thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo cả ba loại: Thẩm quyền theo
loại việc, thẩm quyền của Toà án các cấp và thẩm quyền theo lãnh thổ.
a) Thẩm quyền theo loại việc của Tòa án
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự theo loại việc của Tòa
án được xác định theo Điều 28, 30, 32 BLTTDS 2015. Trên cơ sở đó,
đáp ứng các điều kiện thụ lý khác, Tòa án thụ lý các tranh chấp theo
loại vụ án dân sự; hôn nhân và gia đình; kinh doanh, thương mại, lao
động. Ngoài ra, Tòa án còn có thẩm quyền hủy quyết định cá biệt trái
pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong quá trình
giải quyết vụ án dân sự.
Xác định thẩm quyền theo loại việc của Tòa án khi thụ lý vụ án
dân sự ngoài việc phân biệt thẩm quyền của Tòa án với cơ quan, tổ
chức khác còn yêu cầu phân biệt với thẩm quyền giải quyết vụ án hành
chính của Tòa án. Thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính thực hiện
theo quy định tại Điều 31 và Điều 32 Luật Tố tụng hành chính 2015 và
các quy định khác của pháp luật.

29
Ví dụ:
Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp về bảo hiểm xã hội giữa
người lao động, người sử dụng lao động với cơ quan bảo hiểm
xã hội, khoản 8 Điều 18 và khoản 2 Điều 20 Luật Bảo hiểm xã
hội quy định người lao động và người sử dụng lao động có quyền
khiếu nại, tố cáo và khởi kiện về bảo hiểm xã hội theo quy định của
pháp luật. Theo quy định tại Điều 118 và Điều 119 của Luật Bảo
hiểm xã hội 2014 thì người lao động và người sử dụng lao động
có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết
định, hành vi hành chính của tổ chức bảo hiểm xã hội khi có căn
cứ cho rằng quyết định, hành vi đó vi phạm pháp luật về bảo hiểm
xã hội, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Vì vậy,
trong trường hợp này, nếu có việc khởi kiện thì xem xét thụ lý vụ án
hành chính; không thụ lý vụ án lao động.
b) Thẩm quyền của Tòa án các cấp
Phân định thẩm quyền giữa các cấp Tòa án bảo đảm cho việc thụ lý,
giải quyết vụ việc dân sự tránh sự chồng chéo giữa các cấp Tòa án. Theo
quy định của Hiến pháp 2013, Luật Tổ chức TAND 2014 thì hệ thống tổ
chức của TAND bao gồm TANDTC, TAND cấp cao, TAND tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương (Tòa án cấp tỉnh) và TAND huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh (Tòa án cấp huyện). Luật Tổ chức TAND 2014
cũng quy định bổ sung về cơ cấu tổ chức và thẩm quyền của Tòa án
các cấp, theo đó thành lập các Tòa chuyên trách thuộc TAND cấp
huyện và TAND cấp tỉnh. Phù hợp với Hiến pháp 2013, Luật Tổ
chức TAND 2014, BLTTDS 2015 đã sửa đổi, bổ sung quy định về thẩm
quyền giải quyết các vụ việc dân sự. Các tranh chấp dân sự có thể được
giải quyết theo thủ tục sơ thẩm ở Toà án cấp huyện hoặc Toà án cấp tỉnh.
Bởi vậy, cần xác định chính xác tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết
sơ thẩm của Toà án cấp nào. Thẩm quyền theo cấp của Tòa án được quy
định tại Điều 35, 36, 37, 38 BLTTDS 2015.
- Thẩm quyền của Tòa án cấp huyện: Điều 35 BLTTDS 2015 quy
định: Tòa án cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm
đối với hầu hết các tranh chấp dân sự được quy định tại Điều 26, Điều 28,

30
Điều 30, Điều 32 BLTTDS 2015 trừ tranh chấp về bồi thường thiệt hại do
áp dụng biện pháp ngăn chặn hành chính không đúng theo pháp luật về
cạnh tranh quy định tại khoản 7 Điều 26 BLTTDS 2015 thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án cấp tỉnh. Trong trường hợp yêu cầu bồi thường thiệt
hại được giải quyết trong vụ án hành chính thì không thuộc thẩm quyền
giải quyết tranh chấp dân sự của TAND cấp huyện. Những tranh chấp có
tính chất phức tạp trong các lĩnh vực kinh doanh, thương mại hoặc những
tranh chấp có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác
tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở
nước ngoài, cho Tòa án, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thì không
thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện. Tuy nhiên, có trường hợp ngoại
lệ, đó là các tranh chấp về ly hôn, về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng; cha
mẹ và con; về nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi và giám hộ giữa công dân
Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng
cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam do Tòa án cấp huyện nơi cư
trú của công dân Việt Nam thụ lý, giải quyết (Điều 123 Luật Hôn nhân và
gia đình 2014; khoản 4 Điều 35 BLTTDS 2015).
Theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014 thì về cơ cấu tổ chức
của Tòa án cấp huyện có các Tòa chuyên trách là Tòa dân sự; Tòa gia
đình và người chưa thành niên, do vậy Điều 36 BLTTDS 2015 đã quy
định thẩm quyền của các Tòa chuyên trách Tòa án cấp huyện như sau:
“Tòa dân sự TAND cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo
thủ tục sơ thẩm những vụ việc về dân sự, kinh doanh, thương mại, lao
động thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện quy định tại Điều 35 của
Bộ luật này.
Tòa gia đình và người chưa thành niên TAND cấp huyện có thẩm
quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc về hôn nhân và
gia đình thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện quy định tại Điều 35
của Bộ luật này”.
- Tòa án cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp dân sự
quy định tại khoản 3 Điều 35, khoản 2 Điều 37 BLTTDS 2015. Cụ thể,
Tòa án cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp sau:

31
Thứ nhất, các tranh chấp có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài
hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án, cơ quan có thẩm
quyền của nước ngoài không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
cấp huyện, trừ các tranh chấp về hôn nhân và gia đình giữa công dân
Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng
cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam theo quy định tại khoản 4
Điều 35 BLTTDS 2015, Điều 123 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.
Đương sự ở nước ngoài theo giải thích của TANDTC được xác
định là người nước ngoài không định cư, làm ăn, học tập, công tác ở
Việt Nam có mặt hoặc không có mặt tại Việt Nam vào thời điểm Tòa
án thụ lý vụ án dân sự; là người Việt Nam định cư, làm ăn, học tập,
công tác ở nước ngoài có mặt hoặc không có mặt tại Việt Nam vào
thời điểm Tòa án thụ lý vụ án dân sự; là người nước ngoài định cư,
làm ăn, học tập, công tác ở Việt Nam nhưng không có mặt tại Việt
Nam vào thời điểm Tòa án thụ lý vụ án dân sự; là người Việt Nam
định cư, làm ăn, học tập, công tác ở Việt Nam nhưng không có mặt
tại Việt Nam vào thời điểm Tòa án thụ lý vụ việc dân sự. Cơ quan, tổ
chức không phân biệt là cơ quan, tổ chức nước ngoài hay cơ quan, tổ
chức Việt Nam mà không có trụ sở, chi nhánh, văn phòng đại diện tại
Việt Nam vào thời điểm Tòa án thụ lý vụ án dân sự. Tài sản ở nước
ngoài là tài sản được xác định theo quy định của BLDS là ở ngoài
biên giới lãnh thổ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại
thời điểm Tòa án thụ lý vụ việc dân sự. Cần phải ủy thác tư pháp cho
cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước
ngoài, cho Tòa án, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài là trường
hợp trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự cần phải tiến hành một
hoặc một số hoạt động tố tụng dân sự ở nước ngoài mà Tòa án Việt
Nam không thể thực hiện được, cần phải yêu cầu cơ quan đại diện
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài thực hiện
hoặc đề nghị Tòa án, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thực
hiện theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên
hoặc theo nguyên tắc có đi có lại.

32
Thứ hai, những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án cấp huyện mà Tòa án cấp tỉnh tự mình lấy lên giải quyết khi xét
thấy cần thiết hoặc theo đề nghị của Tòa án cấp huyện.
BLTTDS 2015 không quy định cụ thể những tranh chấp nào
thuộc trường hợp Tòa án cấp tỉnh xét thấy cần thiết hoặc Tòa án cấp
huyện đề nghị Tòa án cấp tỉnh giải quyết. Tuy nhiên, cần lưu ý đối
với những vụ án phức tạp, việc xác minh, thu thập chứng cứ có nhiều
khó khăn hoặc cần đảm bảo tính khách quan trong quá trình giải
quyết; phải giám định kỹ thuật phức tạp; vụ án liên quan tới nhiều
đương sự, tài sản tranh chấp ở nhiều địa phương khác nhau; đương
sự là cán bộ chủ chốt ở địa phương, những người có uy tín trong tôn
giáo mà xét thấy việc xét xử ở Tòa án cấp huyện không đáp ứng yêu
cầu về tính chính trị hoặc vụ việc có liên quan đến Thẩm phán, Phó
Chánh án, Chánh án tòa cấp huyện; vụ án được dư luận xã hội đặc
biệt quan tâm.
Về hệ thống tổ chức của Tòa án cấp tỉnh có Tòa gia đình và người
chưa thành niên, Tòa dân sự, Tòa kinh tế, Tòa lao động nên có những
vụ việc dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh - thương mại, lao động
thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh được phân định cho các Tòa
chuyên trách xét xử theo quy định tại Điều 38 BLTTDS 2015.
Một vấn đề cần lưu ý liên quan đến điều kiện thẩm quyền của TAND
các cấp khi giải quyết vụ án dân sự có việc xem xét hủy quyết định cá biệt
trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền là BLTTDS 2015
đã sửa đổi về thẩm quyền theo cấp của Tòa án trong trường hợp xem xét
hủy quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền. Theo
đó, thẩm quyền theo cấp Tòa án giải quyết vụ việc dân sự trong trường
hợp có xem xét việc hủy quyết định cá biệt được xác định theo quy định
tương ứng của Luật Tố tụng hành chính về thẩm quyền của Tòa án cấp
huyện, Tòa án cấp tỉnh (khoản 4 Điều 34 BLTTDS).
c) Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ
Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ là việc xác định một tranh
chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án địa phương cụ thể

33
nào. Việc phân định thẩm quyền giải quyết việc dân sự của Tòa án theo
lãnh thổ nhằm xác định thẩm quyền giải quyết các việc dân sự giữa các
Tòa án cùng cấp với nhau. Việc phân định này xuất phát từ cách tổ chức
hệ thống Tòa án theo địa giới hành chính của nước ta. Xác định thẩm
quyền của Tòa án theo lãnh thổ căn cứ vào Điều 39 BLTTDS 2015.
Theo đó, thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ đối với các tranh chấp
dân sự được xác định như sau:
- Đối với tranh chấp có đối tượng tranh chấp là bất động sản,
Tòa án có thẩm quyền giải quyết chỉ là Tòa án nơi có bất động sản.
BLTTDS năm 2015 quy định: “đối tượng tranh chấp là bất động sản
thì chỉ Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết”. Xác
định thế nào là bất động sản căn cứ vào quy định của BLDS. Đối với
các tranh chấp có đối tượng tranh chấp là bất động sản, các bên đương
sự không có quyền thỏa thuận về việc yêu cầu Tòa án nơi không có bất
động sản giải quyết. Do đó, nguyên tắc xác định thẩm quyền giải quyết
của Tòa án đối với tranh chấp có đối tượng là bất động sản đã loại trừ
thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn (trường hợp
bất động sản có ở nhiều địa phương khác nhau thì nguyên đơn cũng chỉ
được lựa chọn Tòa án nơi có một trong các bất động sản giải quyết),
theo thỏa thuận của các bên đương sự.
Ví dụ:
Nguyên đơn cư trú ở quận A, thành phố ĐN, bị đơn cư trú ở
huyện TĐ, tỉnh LĐ. Nguyên đơn yêu cầu xác định ngôi nhà tại số 12
đường N, quận T, thành phố H do bị đơn đang chiếm hữu, sử dụng
thuộc quyền sở hữu của nguyên đơn, buộc bị đơn phải trả lại nhà
cho nguyên đơn. Đây là tranh chấp về quyền sở hữu nhà ở thuộc
quận T, thành phố H, có đối tượng tranh chấp là bất động sản nên
chỉ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án quận T, thành phố H.
Chỉ Tòa án nơi có bất động sản mới có thẩm quyền giải quyết tranh
chấp có đối tượng tranh chấp là bất động sản. Vì vậy, các tranh chấp
liên quan đến bất động sản (không phải là tranh chấp có đối tượng tranh
chấp là bất động sản như trong vụ án về hôn nhân và gia đình, thừa kế tài

34
sản...) mà yêu cầu của các bên có liên quan đến việc giải quyết bất động
sản thì thẩm quyền giải quyết của Tòa án được áp dụng theo nguyên tắc
nơi cư trú của bị đơn; hoặc tranh chấp hợp đồng có đối tượng là bất động
sản thì thẩm quyền được xác định theo lựa chọn của nguyên đơn, theo
thỏa thuận của các bên (nếu có); theo nơi cư trú của bị đơn.
Ví dụ:
Anh A và chị B là vợ chồng hợp pháp. Anh A, chị B đều cư trú
ở quận T, thành phố H. Anh A làm đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn
chị B đồng thời yêu cầu Tòa án chia tài sản chung của vợ chồng
là nhà đất của vợ chồng ở thị trấn N, huyện B, tỉnh HT. Đây là
tranh chấp về ly hôn, không phải là tranh chấp có đối tượng
tranh chấp là bất động sản nên Tòa án có thẩm quyền giải quyết
là Tòa án quận T, thành phố H, nơi chị B cư trú.
- Đối với các tranh chấp có đối tượng tranh chấp không phải
là bất động sản, thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án được xác định
như sau:
+ Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn (nếu nguyên
đơn là cá nhân) hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn (nếu nguyên đơn
là cơ quan, tổ chức) trong trường hợp các đương sự có thoả thuận
với nhau bằng văn bản về Tòa án nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có
trụ sở của nguyên đơn là Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án.
Trụ sở của pháp nhân là nơi đặt cơ quan điều hành của pháp nhân.
Cần lưu ý, thỏa thuận của các đương sự không trái quy định của
pháp luật tố tụng dân sự về thẩm quyền của Tòa án các cấp và thẩm
quyền của Tòa án về giải quyết tranh chấp có đối tượng là bất động
sản. Trong giai đoạn khởi kiện, thụ lý vụ án, văn bản thỏa thuận của
các bên tranh chấp phải được nộp cho Tòa án cùng với đơn khởi kiện
và các tài liệu, chứng cứ khác để làm căn cứ xác định thẩm quyền
theo lãnh thổ của Tòa án.
Ví dụ:
Một bên đương sự cư trú, làm việc ở quận B, thành phố Hà Nội
tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản với một bên đương sự cư trú,

35
làm việc ở quận TX, thành phố Hà Nội. Tài sản mua bán không ở
nước ngoài. Hai bên đương sự thỏa thuận trong hợp đồng TAND
thành phố Hà Nội giải quyết tranh chấp thì thỏa thuận này trái
với quy định của pháp luật về thẩm quyền của Tòa án các cấp nên
vô hiệu.
+ Trường hợp nguyên đơn có quyền lựa chọn Tòa án giải quyết
thì việc lựa chọn phải theo quy định tại Điều 40 BLTTDS 2015.
Nguyên đơn chỉ được lựa chọn Tòa án giải quyết khi có các điều kiện
cụ thể mà pháp luật quy định như tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp
đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi hợp đồng được thực
hiện giải quyết.
Ví dụ:
Ngày 25/3/2016 ông Nguyễn Thanh H cư trú ở quận B, thành
phố Hà Nội và ông Nguyễn Văn N cư trú ở quận T, thành phố Hà
Nội giao kết hợp đồng mua giống cây trồng trong thời hạn 01 năm.
Trong hợp đồng không thoả thuận về Tòa án có thẩm quyền giải
quyết tranh chấp. Hợp đồng được thực hiện ở huyện Đ, tỉnh Hòa
Bình. Trong quá trình thực hiện hợp đồng ông N đã không thanh
toán đầy đủ tiền cho ông H, dẫn đến tranh chấp. Căn cứ điểm b
khoản 1 Điều 40 BLTTDS 2015 ông H có quyền lựa chọn Tòa án
nơi cư trú của bị đơn (quận T) hoặc Tòa án nơi thực hiện hợp đồng
(huyện Đ) giải quyết tranh chấp.
+ Trường hợp không có thỏa thuận của các bên đương sự hoặc
có thỏa thuận nhưng thỏa thuận đó vô hiệu, không thuộc trường hợp
nguyên đơn có quyền lựa chọn Tòa án giải quyết thì Tòa án nơi bị đơn
cư trú, làm việc (nếu là cá nhân) hoặc nơi bị đơn có trụ sở (nếu là cơ
quan, tổ chức) có thẩm quyền giải quyết.
1.2.2. Điều kiện người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí trừ
trường hợp được miễn hoặc không phải nộp
Tạm ứng án phí là khoản tiền mà người khởi kiện có nghĩa vụ
phải nộp để Tòa án thụ lý giải quyết vụ án. Điểm d khoản 1 Điều 192
BLTTDS 2015 quy định: Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện khi hết thời

36
hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được giấy báo của Tòa án về việc nộp
tiền tạm ứng án phí mà người khởi kiện không nộp biên lai thu tiền
tạm ứng án phí cho Tòa án, trừ trường hợp người khởi kiện được miễn
hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí hoặc có trở ngại khách quan,
sự kiện bất khả kháng. Như vậy, Tòa án chỉ thụ lý vụ án khi người khởi
kiện xuất trình biên lai tạm nộp án phí dân sự sơ thẩm (trừ trường hợp
được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí).
Sau khi kiểm tra đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo
xác định được đã đáp ứng đầy đủ các điều kiện khởi kiện và tranh chấp
thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án, Thẩm phán được phân công
xem xét đơn khởi kiện, thông báo bằng văn bản cho người khởi kiện
biết để họ làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí.
Thẩm phán căn cứ vào yêu cầu khởi kiện, quan hệ pháp luật tranh
chấp và các quy định của BLTTDS 2015; Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa
án năm 2009 và Nghị quyết số 01/2012/NQ-HĐTP ngày 13/6/2012
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn một số
quy định của pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án để xác định nghĩa vụ
nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm, số tiền tạm ứng án phí người khởi
kiện phải nộp; các trường hợp người khởi kiện không phải nộp tiền
tạm ứng án phí, được miễn nộp tiền tạm ứng án phí.
2. Kỹ năng của Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên trong
khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự
2.1. Kỹ năng khởi kiện vụ án dân sự của Luật sư
Khởi kiện theo quy định của BLTTDS bao gồm khởi kiện của
người khởi kiện (khởi kiện của nguyên đơn), khởi kiện của bị đơn
(trong trường hợp có yêu cầu phản tố) và khởi kiện của người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan (trong trường hợp có yêu cầu độc lập). Tuy
nhiên, do chỉ đề cập đến nội dung khởi kiện vụ án dân sự nên chương
này không phân tích kỹ năng khởi kiện của bị đơn; người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan.
Sự tham gia của Luật sư trong giai đoạn khởi kiện vụ án dân
sự có ý nghĩa quan trọng trong việc giúp khách hàng xác định những

37
thuận lợi, khó khăn khi khởi kiện, từ đó tư vấn cho khách hàng quyết
định khởi kiện hay không khởi kiện trên cơ sở đánh giá điều kiện khởi
kiện vụ án dân sự. Trong trường hợp khách hàng quyết định việc khởi
kiện, Luật sư hỗ trợ về mặt pháp lý cho họ. Điều này đặt ra yêu cầu
Luật sư phải thực hiện tốt các kỹ năng cơ bản sau: tiếp xúc, trao đổi
với khách hàng; chuẩn bị hồ sơ khởi kiện; nộp hồ sơ khởi kiện và tư
vấn khiếu nại khi Tòa án trả lại đơn khởi kiện.
2.1.1. Kỹ năng tiếp xúc, trao đổi với khách hàng và chuẩn bị hồ
sơ khởi kiện
a) Kỹ năng tiếp xúc, trao đổi với khách hàng
Trong tham gia giải quyết tranh chấp dân sự, tiếp xúc, trao
đổi với khách hàng là một nghệ thuật. Khi tiếp xúc với khách hàng
ở giai đoạn khởi kiện vụ án, Luật sư cần có kỹ năng lắng nghe lời
trình bày của khách hàng về các tình tiết vụ việc, xác định yêu cầu
của khách hàng và nội dung tranh chấp. Trên cơ sở đó, Luật sư đối
chiếu tài liệu, chứng cứ do khách hàng cung cấp và trao đổi, về
những tình tiết của tranh chấp mà khách hàng chưa trình bày, trình
bày còn thiếu, có sự mâu thuẫn. Ví dụ: khách hàng chỉ trình bày về
đối tượng tranh chấp là nhà, đất thì Luật sư phải xác định được các
tình tiết khách hàng trình bày còn thiếu là nguồn gốc nhà, đất; nhà,
đất tọa lạc tại đâu, đặc điểm của nhà, đất như: diện tích, chiều dài,
rộng, các chiều tiếp giáp, giấy tờ về quyền sở hữu, sử dụng nhà, đất
như thế nào; những ai đang quản lý, sử dụng nhà, đất tranh chấp...
Từ đó, Luật sư sử dụng kỹ năng hỏi, xác định thêm các tình tiết này
mới có thể hiểu rõ được tương đối đầy đủ về đối tượng tranh chấp.
Xác định yêu cầu khởi kiện của khách hàng là nội dung quan
trọng trong kỹ năng của Luật sư khi tiếp xúc, trao đổi với họ. Ngoài
yếu tố là cơ sở để đánh giá Luật sư hoàn thành hay không hoàn thành
công việc theo hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách hàng, yêu cầu khởi
kiện của khách hàng còn là cơ sở để xác định quan hệ pháp luật tranh
chấp, thẩm quyền giải quyết của Toà án và tài liệu, chứng cứ để chứng
minh cho yêu cầu khởi kiện. Vì vậy, Luật sư phải xác định chính xác

38
các yêu cầu khởi kiện của khách hàng dưới góc độ pháp lý. Đồng thời,
Luật sư cần trao đổi xác định đầy đủ các tình tiết khác, cần lưu ý xác
định các tình tiết liên quan đến bối cảnh của tranh chấp, cũng như
mong muốn, nguyện vọng, yêu cầu cụ thể ban đầu của khách hàng.
Đó là các tình tiết liên quan đến chủ thể tranh chấp, nguyên nhân tranh
chấp... Nhiều tranh chấp dân sự có chủ thể là người già, trẻ em, phụ nữ;
người dân tộc thiểu số, một số ít vụ án dân sự có đương sự là người có
nhược điểm về thể chất, tâm thần như người tàn tật, người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi, người mất năng lực hành vi dân sự.
Đây là những khách hàng thuộc nhóm người yếu thế trong xã hội so
với chủ thể dân sự khác. Điều này đòi hỏi Luật sư có sự tận tâm, chân
thành và kỹ năng đặc biệt trong tiếp xúc với các khách hàng thuộc nhóm
người yếu thế, tạo niềm tin cho họ.
Tùy thuộc vào từng tranh chấp mà cần xác định tình tiết. Trong
tranh chấp dân sự, thông thường Luật sư cần xác định:
- Các tình tiết xác định việc xác lập quan hệ pháp luật nội dung
phát sinh tranh chấp;
- Các tình tiết xác định việc thực hiện quan hệ pháp luật nội dung;
- Các tình tiết xác định nguyên nhân tranh chấp;
- Các tình tiết xác định người bị kiện; người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan (họ tên, nơi cư trú, làm việc, nơi có trụ sở);
- Các tình tiết xác định đối tượng tranh chấp, quá trình giải quyết
tranh chấp, thủ tục tiền tố tụng (nếu có);
- Các tình tiết xác định thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự. Mặc dù
thời hiệu khởi kiện không còn là điều kiện thụ lý vụ án dân sự, tuy nhiên,
Luật sư vẫn phải xác định để có sự tư vấn phù hợp cho khách hàng.
Ví dụ:
Ngày 15/6/2016 bà A và Công ty TNHH cơ khí khuôn mẫu bách
khoa N.V (Công ty N.V) ký hợp đồng về việc thiết kế, chế tạo khuôn
quạt, tổng giá trị thanh toán là 176.000.000 đồng với thời gian
thực hiện là 02 tháng, cộng trừ 15 ngày. Quá trình thực hiện hợp

39
đồng, bà đã giao cho Công ty N.V 50.000.000 đồng, nhưng phía
Công ty N.V đã không giao hàng đúng hạn. Sau đó, Công ty N.V
yêu cầu kéo dài thời hạn hợp đồng thêm 15 ngày nữa và nếu không
thực hiện được thì sẽ bồi thường 50.000.000 đồng. Tuy nhiên, hết
thời hạn theo thỏa thuận Công ty N.V vẫn không thực hiện đúng
thỏa thuận trong hợp đồng. Do Công ty N.V vi phạm nghĩa vụ hợp
đồng, gây thiệt hại đến quyền lợi của bà, vì vậy bà muốn khởi kiện
Công ty N.V yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp.
* Với tình huống trên các vấn đề Luật sư cần trao đổi với bà A
xác định các tình tiết sau:
- Bà A có giấy phép kinh doanh không?
- Chủ thể ký hợp đồng là ai?
- Số tiền 50 triệu là tiền trả trước hay đặt cọc?
- Việc Công ty N.V vi phạm có gây thiệt hại cho bà A không?
- Nội dung thỏa thuận cụ thể của các bên trong hợp đồng ngày
15/6/2016 như thế nào về hủy hợp đồng và phạt vi phạm đối với
hành vi vi phạm hợp đồng?
- Vi phạm của Công ty N.V là vi phạm gì: thực hiện việc thiết kế,
chế tạo khuôn quạt có đúng theo thỏa thuận? Công ty đã giao hàng
cho bà A chưa, nếu đã giao thì giao bao nhiêu? Thời điểm giao?
- Bà A và Công ty N.V có thỏa thuận bổ sung hợp đồng: (gia hạn
thực hiện hợp đồng, chỉnh sửa, thay đổi thiết kế) không?
- Người đại diện theo pháp luật của Công ty N.V là ai, trụ
sở của Công ty NV đặt ở đâu?...
Để xác định được chính xác các tình tiết ban đầu của sự việc,
Luật sư cần đối chiếu các tình tiết khách hàng trình bày với các tài liệu,
chứng cứ mà khách hàng cung cấp. Sau khi xác định được các tình
tiết, Luật sư xâu chuỗi các tình tiết, bước đầu đánh giá nội dung tranh
chấp, quan hệ pháp luật tranh chấp, thẩm quyền giải quyết của Tòa
án, yêu cầu của khách hàng và điều kiện khởi kiện vụ án dân sự. Nếu
như xác định điều kiện thụ lý là trách nhiệm của Tòa án (Thẩm phán)

40
thì xác định điều kiện khởi kiện thuộc trách nhiệm của người khởi
kiện. Trường hợp xác định điều kiện khởi kiện không chính xác thì
hậu quả pháp lý là Toà án trả lại đơn khởi kiện nếu chưa thụ lý vụ án;
nếu đã thụ lý thì Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án và trả
lại đơn khởi kiện. Vì thế, khi thực hiện kỹ năng khởi kiện một vụ án
dân sự, Luật sư cần chú ý phân tích, xác định điều kiện khởi kiện trong
từng vụ án cụ thể. Từ đó, Luật sư mới tư vấn cho khách hàng việc khởi
kiện hay không khởi kiện và nếu khởi kiện thì các thủ tục phải thực
hiện, việc lựa chọn quan hệ pháp luật tranh chấp để khởi kiện và đưa ra
yêu cầu khởi kiện như thế nào; cung cấp các tài liệu, chứng cứ ra sao
cũng như nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí của người khởi kiện (trong
trường hợp họ phải nộp tiền tạm ứng án phí) và nộp đơn khởi kiện đến
Tòa án có thẩm quyền giải quyết nào. Ví dụ, đối với tranh chấp về
quyền sử dụng đất, Luật sư tư vấn cho khách hàng trước khi khởi kiện
yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp, người khởi kiện phải chủ động
gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã đề nghị hòa giải ở cơ sở theo quy
định của Luật Đất đai.
Ví dụ:
Qua tiếp xúc, trao đổi với khách hàng là anh A, anh A trình bày
muốn khởi kiện Công ty B yêu cầu bồi thường thiệt hại về hành vi
tố cáo anh A sai sự thật, xâm phạm đến danh dự, uy tín của anh,
trừ lương trong thời gian anh A phải thực hiện nghĩa vụ công dân
và ra quyết định thi hành kỷ luật lao động bằng hình thức kỷ luật
sa thải trái pháp luật đối với anh A. Đồng thời anh A muốn yêu
cầu Tòa án buộc Công ty B phải hủy quyết định kỷ luật sa thải anh,
nhận anh trở lại làm việc.
Theo tình huống trên, Luật sư cần tư vấn cho anh A: Giữa Công
ty B và anh A có hai quan hệ pháp luật tranh chấp, đó là tranh
chấp dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và tranh chấp
lao động (tranh chấp kỷ luật sa thải). Tòa án không thụ lý, giải
quyết đồng thời hai quan hệ này trong một vụ án bởi đây là hai
quan hệ pháp luật hoàn toàn khác nhau, không có liên quan với
nhau. Do đó phải tách nội dung yêu cầu khởi kiện về quyết định kỷ

41
luật sa thải của Công ty B riêng để yêu cầu giải quyết tranh chấp
lao động. Nếu việc không trả lương của Công ty có liên quan đến
quyết định kỷ luật sa thải thì anh A có quyền yêu cầu giải quyết
trong tranh chấp lao động. Nếu Công ty B có hành vi đưa ra các
thông tin sai về anh A, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của anh A
thì anh A có quyền khởi kiện vụ án dân sự về bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng do xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm.
Nếu có đủ điều kiện khởi kiện, Luật sư phân tích các ưu điểm cũng
như phương án giải quyết tranh chấp khác như thương lượng, hòa giải
ngoài tố tụng giữa bên tranh chấp cho khách hàng để họ lựa chọn cách
thương lượng, hòa giải ngoài tố tụng hay khởi kiện vụ án dân sự. Trường
hợp khách hàng quyết định khởi kiện, trước hết Luật sư phân tích để
khách hàng hiểu những điểm lợi thế và bất lợi của việc khởi kiện cũng
như quyền lợi của họ theo quy định của pháp luật, các thủ tục họ phải
thực hiện và tiền tạm ứng án phí họ phải nộp (trừ trường hợp họ không
phải nộp hoặc được miễn nộp tiền tạm ứng án phí). Sau đó, Luật sư tư
vấn cho khách hàng về yêu cầu khởi kiện. Trong thực tiễn, khách hàng
có trình độ, nhận thức pháp lý rất khác nhau. Sự hiểu biết, cách trình
bày mong muốn, các yêu cầu khởi kiện của khách hàng cũng khác nhau.
Khách hàng do không hoặc thiếu hiểu biết về pháp luật nên có thể họ
đưa ra những yêu cầu không phù hợp với quy định của pháp luật hoặc
không đảm bảo được lợi ích của mình. Luật sư phân tích cho người khởi
kiện biết được họ có quyền yêu cầu như thế nào, khả năng yêu cầu nào
được chấp nhận, yêu cầu nào không được chấp nhận hoặc yêu cầu nào
được chấp nhận một phần, yêu cầu nào được chấp nhận toàn bộ trên cơ
sở bảo đảm được tốt nhất quyền lợi của họ. Khi tư vấn cho khách hàng
về yêu cầu khởi kiện, Luật sư cần tư vấn cụ thể cho khách hàng cần đưa
ra yêu cầu khởi kiện gì (ví dụ: yêu cầu chia di sản thừa kế; yêu cầu hủy
hợp đồng…); yêu cầu đối với ai? (liên quan đến tư vấn về người bị kiện)
và phạm vi của yêu cầu như thế nào. Trường hợp xác định có quyết định
cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm
phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện, Luật sư tư vấn cho
họ về yêu cầu hủy quyết định cá biệt ngay từ khi khởi kiện.

42
Ví dụ:
Năm 1999, ông A và bà B có quan hệ tình cảm và có con chung
là cháu C (sinh năm 2005). Năm 2006 ông sang nước Đức làm
ăn một thời gian. Trong thời gian ở nước Đức, năm 2008 ông đã
gửi tiền về để bà B mua nền đất thổ cư diện tích 128m2 tại số 340
Nguyễn Trung Trực, thành phố RG, tỉnh K với giá 2.000.000.000
đồng. Năm 2010 ông A về nước chung sống với bà B không có
đăng ký kết hôn, bà B đã bỏ tiền ra xây dựng nhà số 340 Nguyễn
Trung Trực khoảng 1.500.000.000 đồng. Tranh chấp xảy ra, ông A
muốn khởi kiện bà B yêu cầu huỷ hôn nhân thực tế giữa ông và
bà B, xác định cháu C là con của ông và yêu cầu bà B trả tiền ông
gửi từ nước Đức về cho bà B.
* Với tình huống trên, Luật sư nên tư vấn cho ông A về yêu cầu
khởi kiện như sau:
- Về yêu cầu huỷ hôn nhân thực tế giữa ông A và bà B: Do ông A
và bà B không có việc kết hôn trái pháp luật nên không thể yêu cầu
hủy việc hôn nhân thực tế. Ông A và bà B chung sống với nhau như
vợ chồng, không có đăng ký kết hôn nên thuộc trường hợp không
công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định của Luật Hôn nhân và
gia đình 2000, Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10.
- Khi giải quyết vụ án không công nhận quan hệ vợ chồng, Tòa
án giải quyết cả về quan hệ về con chung và tài sản nên ông A có
quyền yêu cầu xác định cháu C là con chung của bà B và ông A nếu
giấy khai sinh cháu C phần ghi người cha không xác định ông A là
cha, nếu giấy khai sinh đã xác định ông A là cha cháu C thì không
cần thiết phải yêu cầu xác định cháu C là con của ông A. Ông A
có quyền yêu cầu nuôi con chung và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con;
- Tiền ông A gửi từ nước Đức về cho bà B nếu có chứng cứ
chứng minh việc cho bà B vay thì ông có quyền yêu cầu bà B trả
tiền vay gốc và lãi (nếu có thỏa thuận lãi). Nếu giá trị đất so với
năm 2008 cao hơn nhiều thì không nên yêu cầu bà B trả tiền mà
cần yêu cầu chia tài sản chung là nhà số 340 Nguyễn Trung Trực
theo tỷ lệ ông A góp tiền mua đất và bà B xây dựng nhà.

43
Thực hiện tốt kỹ năng tư vấn yêu cầu cho khách hàng đảm bảo
được quyền lợi của họ, Luật sư phải thông hiểu được các quy định của
pháp luật có nội dung liên quan đến quyền dân sự. Việc tư vấn yêu cầu
khởi kiện gắn liền với tư vấn cho khách hàng lựa chọn quan hệ pháp
luật tranh chấp để khởi kiện; người bị kiện; người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan cũng như số tiền tạm ứng án phí mà khách hàng phải
nộp (trừ trường hợp họ được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng
án phí). Điều này đòi hỏi Luật sư phải có kỹ năng xác định chính xác
quan hệ pháp luật tranh chấp. Có hai yếu tố căn bản để xác định quan
hệ pháp luật tranh chấp. Yếu tố thứ nhất là bản chất của quan hệ pháp
luật tồn tại giữa các bên tranh chấp. Yếu tố thứ hai là nội dung yêu cầu
của khách hàng.
Ví dụ:
Vợ chồng ông A, bà B có 3 người con chung là: chị N, anh M,
anh Q. Ông A, bà B có nhà đất tại phố QT, quận H, thành phố ĐN.
Năm 1998, anh M kết hôn với chị H, sinh được một con chung là
cháu P năm 2004.
Năm 2006, anh M và chị H ly hôn, Tòa án giao cháu P cho chị H
trực tiếp nuôi. Từ đó, anh M ở cùng với bố, mẹ, chị N và vợ chồng
anh Q tại số nhà 20, phố QT, quận H. Tháng 4 năm 2007 ông A,
bà B bán nhà số 20 phố QT, quận H. Số tiền bán nhà ông A, bà B
chia cho các con, trong đó anh M được chia 40 lạng vàng 9999.
Ngày 10/10/2007 ông A chết. Ngày 12/01/2008 bà B chết. Ngày 11/9/2008
chị N cùng anh M đã giao dịch mua 1 ngôi nhà diện tích 40 m2 của
bà C tại số 19 ngách 129/86, phố Đ, quận TX với giá 40 lượng vàng
9999 được ông A bà B chia. Hợp đồng mua bán nhà, anh M là người
đứng tên bên mua. Anh M ở nhà này đến đầu năm 2012 thì vợ chồng
anh Q dọn đến ở cùng. Ngày 18/6/2013 anh M chết. Sau khi anh M
chết, nhà đất do vợ chồng anh Q trực tiếp sử dụng và mỗi tháng đưa
cho cháu P 2.000.000 đồng. Cuối năm 2014, anh Q chuyển đến chỗ
ở khác và giao nhà đất này cho chị N quản lý, sử dụng.
Năm 2015 chị H đã gặp chị N yêu cầu trả nhà cho cháu P
nhưng chị N không đồng ý vì cho rằng nhà, đất này là của bố mẹ

44
chị. Do đó chị H muốn khởi kiện yêu cầu Toà án xác định cháu P
là người thừa kế duy nhất của anh M.
* Luật sư tư vấn cho chị N: nếu yêu cầu khởi kiện xác định cháu
P là người thừa kế duy nhất của anh M thì đây là tranh chấp thừa
kế. Yêu cầu này không cần thiết vì cháu P đương nhiên được xác
định là người thừa kế duy nhất của anh M, điều này được chứng
minh trong giấy khai sinh của cháu P và bản án của Tòa án giải
quyết việc ly hôn giữa chị H và anh M. Do đó chị H không nên lựa
chọn khởi kiện theo quan hệ pháp luật tranh chấp về thừa kế, mà
chị H nên lựa chọn khởi kiện theo quan hệ pháp luật tranh chấp
về quyền sở hữu tài sản. Từ đó chị H cần có yêu cầu khởi kiện là:
yêu cầu xác định ngôi nhà số 19 ngách 129/86, phố Đ, quận TX,
thành phố ĐN là tài sản của anh M và buộc chị N phải trả lại ngôi
nhà cho cháu P.
Ngoài ra, Luật sư cần xác định và tư vấn cho khách hàng Tòa án
có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Trong trường hợp người khởi
kiện được quyền lựa chọn Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh
chấp, Luật sư tư vấn cho họ lựa chọn Tòa án để nộp đơn khởi kiện
và các tài liệu, chứng cứ kèm theo. Lựa chọn Tòa án có thẩm quyền
giải quyết cần được xác định trên cơ sở nguyên tắc bảo đảm sự thuận
lợi cho người khởi kiện trong việc bảo vệ cho quyền và lợi ích hợp
pháp của họ.
Đối với trường hợp khởi kiện vụ án dân sự có yếu tố nước
ngoài, trường hợp không xác định được địa chỉ của người bị kiện;
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ở nước ngoài thì Luật sư tư
vấn cho khách hàng (người khởi kiện) có thể yêu cầu Tòa án Việt
Nam đề nghị cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài xác định địa chỉ
của họ hoặc có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tìm kiếm người
vắng mặt tại nơi cư trú hoặc yêu cầu Tòa án Việt Nam hoặc cơ quan
có thẩm quyền của nước ngoài tuyên bố họ mất tích hoặc đã chết theo
quy định của pháp luật Việt Nam hoặc pháp luật nước ngoài hoặc
điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên (Điều 473 BLTTDS 2015).

45
Ngoài ra, Luật sư hướng dẫn khách hàng xác định và thu thập
các tài liệu, chứng cứ cần thiết cho việc khởi kiện vụ án dân sự. Có
những tài liệu, chứng cứ khách hàng không lưu giữ mà đang lưu giữ
tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các cá nhân, tổ chức và khách
hàng không thể tự thu thập được. Ví dụ: hồ sơ về quyền sử dụng đất;
hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, các giấy tờ liên quan
đến quá trình sử dụng đất… Vì vậy, Luật sư có thể trợ giúp khách
hàng thu thập tài liệu, chứng cứ làm cơ sở cho việc khởi kiện vụ án
dân sự. Thực hiện tốt kỹ năng trao đổi, tư vấn về yêu cầu, quan hệ
pháp luật tranh chấp, Tòa án có thẩm quyền giải quyết là tiền đề để
Luật sư thực hiện tốt các kỹ năng tiếp theo trong giai đoạn khởi kiện
như soạn thảo đơn khởi kiện, chuẩn bị các tài liệu, chứng cứ nộp kèm
theo đơn khởi kiện…
b) Kỹ năng chuẩn bị hồ sơ khởi kiện vụ án dân sự
Hồ sơ khởi kiện gồm đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ nộp
kèm theo. Khi chuẩn bị hồ sơ khởi kiện cho khách hàng, Luật sư cần
đảm bảo rằng việc khởi kiện của đương sự là có đủ điều kiện khởi kiện
và Toà án phải thụ lý vụ việc. Luật sư cần chú ý rằng các tài liệu nộp
kèm theo đơn khởi kiện phải đảm bảo tính đầy đủ và tính hợp pháp,
phù hợp với hình thức và các nội dung, tình tiết, yêu cầu trình bày
trong đơn khởi kiện.
Thứ nhất, xem xét tính đầy đủ của tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ
khởi kiện
Tùy thuộc vào từng loại tranh chấp và từng tranh chấp cụ thể mà
yêu cầu về tính đầy đủ của hồ sơ khởi kiện có sự khác nhau. Thông
thường, hồ sơ khởi kiện vụ án dân sự phải có các tài liệu, chứng cứ sau:
* Đơn khởi kiện vụ án dân sự: Soạn thảo đơn khởi kiện là một
công việc quan trọng của Luật sư. Nếu việc soạn thảo đơn khởi kiện
không tốt, không đầy đủ và đáp ứng yêu cầu mà quy định pháp luật đặt
ra thì Toà án sẽ yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện. Nếu không sửa
đổi, bổ sung thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện. Người làm đơn khởi kiện
phải soạn thảo đơn khởi kiện. Tuy nhiên nếu tham gia từ giai đoạn khởi

46
kiện bảo vệ quyền lợi cho khách hàng thì việc soạn thảo đơn khởi kiện
là trách nhiệm của Luật sư. Đơn khởi kiện vụ án dân sự phải bảo đảm
điều kiện về hình thức và nội dung quy định tại Điều 189 BLTTDS 2015
và theo đúng mẫu đơn khởi kiện do TANDTC ban hành. Điều kiện
về hình thức và nội dung đơn khởi kiện đã được trình bày cụ thể tại
mục 1.1.5. Luật sư chú ý khi soạn thảo nội dung đơn khởi kiện cần
rõ ràng, chứa đựng phần trình bày về lý do khởi kiện, chi tiết vụ việc,
những vấn đề cụ thể yêu cầu Toà án giải quyết đối với bị đơn và các
quy định của pháp luật làm căn cứ cho yêu cầu khởi kiện. Đối với
trường hợp người khởi kiện là doanh nghiệp có nhiều người đại diện
theo pháp luật, Luật sư căn cứ vào điều lệ hoạt động; giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp xác định
phạm vi đại diện và thẩm quyền ký đơn khởi kiện để từ đó xác định
được chính xác người có thẩm quyền ký đơn khởi kiện, bảo đảm tính
chính xác về hình thức đơn khởi kiện.
Ví dụ:
Công ty cổ phần A có đại diện theo pháp luật trong giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh và Điều lệ của Công ty là
ông B - Chủ tịch hội đồng quản trị, nhưng tại quyết định bổ
nhiệm giám đốc (ông C) do ông B ký lại ghi là: “bổ nhiệm
giám đốc (ông C) là đại diện theo pháp luật của Công ty cổ
phần A”. Công ty A có tranh chấp hợp đồng mua bán hàng
hóa với Công ty P. Công ty A muốn khởi kiện yêu cầu Tòa án
giải quyết tranh chấp. Xác định người có thẩm quyền ký đơn
khởi kiện như thế nào?
Trường hợp này, Luật sư căn cứ vào giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh; Điều lệ của Công ty A để xác định
người đại diện theo pháp luật là ông B, bởi lẽ việc thay đổi
người đại diện theo pháp luật của Công ty không chỉ do
Chủ tịch Hội đồng quản trị quyết định là được mà phải căn
cứ theo Điều lệ của công ty và phải thực hiện thủ tục thay
đổi người đại diện theo pháp luật theo quy định của pháp
luật. Nội dung quyết định bổ nhiệm giám đốc: “bổ nhiệm

47
giám đốc (ông C), đại diện theo pháp luật của Công ty cổ
phần A” do ông B ký không đúng quy định của pháp luật nên
không có giá trị pháp lý. Đơn khởi kiện của Công ty A phải
do ông B ký hoặc ông B có quyền ủy quyền cho người khác
ký theo quy định của pháp luật.
Yêu cầu đặt ra khi soạn thảo nội dung đơn khởi kiện là phải
bảo đảm điều kiện về nội dung đơn khởi kiện quy định tại khoản 4
Điều 189 BLTTDS 2015. Tại các mục tên, nơi cư trú, làm việc (đối
với cá nhân), trụ sở (đối với pháp nhân) của người khởi kiện; người
bị kiện; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (nếu có); người có
quyền và lợi ích được bảo vệ (nếu có) Luật sư cần chú ý ghi đầy đủ,
cụ thể, đúng tên, địa chỉ của họ phù hợp với các tài liệu nộp kèm theo
đơn khởi kiện, là cơ sở để Tòa án thực hiện được việc cấp, tống đạt
các văn bản tố tụng cho các đương sự trong quá trình giải quyết vụ
án. Soạn thảo chính xác nội dung này, đòi hỏi Luật sư có kỹ năng
xác định chính xác nơi cư trú, làm việc (đối với cá nhân); nơi có trụ
sở (đối với pháp nhân) của người bị kiện; người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan. Nơi cư trú của cá nhân được xác định theo nguyên tắc
được quy định tại Điều 40 BLDS 2015 và Điều 12 Luật Cư trú là nơi
người đó thường xuyên sinh sống. Trường hợp không xác định được
nơi cư trú của cá nhân là nơi thường xuyên sinh sống thì nơi cư trú là
nơi người đó đang sinh sống. Trường hợp một bên trong quan hệ dân
sự thay đổi nơi cư trú gắn với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ thì phải
thông báo cho bên kia biết về nơi cư trú mới. Nơi cư trú của người
chưa thành niên; nơi cư trú của người được giám hộ; nơi cư trú của
vợ, chồng; nơi cư trú của cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân và Công
an nhân dân, nơi cư trú của người làm nghề lưu động được xác định
theo quy định tại Điều 41, 42, 43, 44, 45 BLDS 2015 và Điều 13,
14, 15, 16, 17 Luật Cư trú. Trụ sở của pháp nhân được xác định theo
Điều 79 BLDS 2015. Căn cứ vào quyết định thành lập, giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh, giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận
doanh nghiệp, Luật sư xác định trụ sở của pháp nhân khởi kiện, bị
kiện, có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Nếu không xác định được nơi

48
cư trú, làm việc, trụ sở của người bị kiện; người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan thì Luật sư ghi địa chỉ của người bị kiện; người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan là nơi cư trú, làm việc cuối cùng, nơi có trụ sở
cuối cùng hoặc nơi người bị kiện có tài sản giải quyết theo quy định
tại điểm a khoản 1 Điều 40 BLTTDS. Ngoài ra, Điều 189 BLTTDS 2015
còn yêu cầu ghi rõ số điện thoại, fax và địa chỉ thư điện tử (nếu có)
của người khởi kiện, người có quyền và lợi ích được bảo vệ, người
bị kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong đơn khởi kiện
để tạo điều kiện thuận lợi cho việc liên hệ giữa Tòa án và các bên
đương sự trong quá trình giải quyết vụ án.
Liên quan đến vấn đề ghi địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện;
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Luật sư cần lưu ý khi người
bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có địa chỉ nơi cư trú
nhưng họ không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư
trú, trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật về cư trú làm cho người khởi kiện
không biết được nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ
đối với người khởi kiện. Đối với trường hợp này, trong đơn khởi kiện
Luật sư ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và trình bày rõ việc họ không có nơi
cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sở và họ không
thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định
của pháp luật về cư trú dẫn đến việc người khởi kiện không biết được
nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi
kiện. Theo quy định bổ sung của BLTTDS 2015, Thẩm phán không trả
lại đơn khởi kiện mà xác định người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan cố tình giấu địa chỉ và tiến hành thụ lý, giải quyết theo
thủ tục chung.
Tại mục quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm
phạm; những vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết đối với người bị
kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Luật sư cần chú ý trình
bày nội dung tranh chấp, yêu cầu khởi kiện, lưu ý việc sắp xếp các tình
tiết của tranh chấp và yêu cầu khởi kiện theo trật tự logíc sau:

49
- Tóm tắt các tình tiết về xác lập quan hệ pháp luật nội dung giữa
các chủ thể tranh chấp;
- Tóm tắt các tình tiết về việc thực hiện quan hệ pháp luật nội
dung của các chủ thể;
- Tóm tắt các tình tiết về quá trình tranh chấp và giải quyết tranh
chấp tiền tố tụng (nếu có);
- Các yêu cầu đối với người bị kiện; người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan: Đây là các yêu cầu khởi kiện sau khi tư vấn và thống nhất
với khách hàng. Luật sư cần ghi cụ thể, rõ ràng; tránh việc ghi yêu cầu
chung chung như đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp
luật. Trường hợp người khởi kiện có nhiều yêu cầu, việc sắp xếp các
yêu cầu cần theo một trật tự logic. Trường hợp có yêu cầu hủy quyết
định cá biệt của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền thì ghi rõ hủy
quyết định số..., ngày, tháng, năm của cơ quan, tổ chức nào. Đối với
yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải thực hiện theo thủ
tục riêng, không viết trong mục này của đơn khởi kiện.
Ví dụ:
Ngày 12/3/2003 bà A lập giấy giao kết chuyển nhượng quyền
sử dụng đất cho ông T với diện tích là 500m2 nằm trong tổng diện
tích 1.050m2, thuộc một phần thửa 198-13, tờ bản đồ địa chính số
9B, xã T, huyện N, thành phố H với giá là 900.000.000 đồng là
tài sản chung của vợ chồng bà A, ông B. Khi hai bên giao kết hợp
đồng, đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở.
Ông B thời điểm này đang ở nước ngoài nên không ký giấy giao
kết chuyển nhượng cũng không biết việc bà A tự ý chuyển nhượng
đất. Bà A đã nhận của ông T số tiền 300.000.000 đồng. Còn lại
600.000.000 đồng bà A nhiều lần yêu cầu ông T giao tiền nhưng
ông T không thực hiện. Tháng 8/2016 bà A muốn khởi kiện ông T
yêu cầu hủy hợp đồng và đồng ý trả cho ông T 300.000.000 đồng.
Ông T đã được UBND huyện H cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số BX 21345 ngày 15/10/2010. Ông T và Công ty N đang
quản lý đất tranh chấp.

50
Sau khi tư vấn cho khách hàng về yêu cầu khởi kiện, Luật sư
cần trình bày về yêu cầu khởi kiện theo thứ tự sau:
- Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất xác lập
ngày 12/3/2014 giữa bà A và ông T vô hiệu.
- Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BX 21345 ngày
15/10/2010 do UBND huyện H cấp cho ông T.
- Buộc ông T và Công ty N trả lại diện tích là 500m2 thuộc thửa
198-13, tờ bản đồ địa chính số 9B, xã T, huyện N, thành phố H cho
bà A, ông B.
* Các tài liệu, chứng cứ nộp kèm theo đơn khởi kiện: Các tài
liệu, chứng cứ nộp kèm theo đơn khởi kiện để chứng minh hình thức,
nội dung đơn khởi kiện, yêu cầu khởi kiện và là cơ sở để Tòa án thụ
lý vụ án nên có ý nghĩa rất quan trọng. Tùy thuộc từng loại tranh chấp
và người khởi kiện là cá nhân hay pháp nhân mà đòi hỏi các tài liệu,
chứng cứ phù hợp. Nhìn chung, các tài liệu, chứng cứ cần nộp cho Tòa
án ở giai đoạn khởi kiện gồm:
- Tài liệu chứng minh tư cách pháp lý của chủ thể khởi kiện:
+ Trường hợp người khởi kiện là cá nhân: chứng minh thư nhân
dân của người khởi kiện, sổ hộ khẩu gia đình, hộ chiếu hoặc giấy tờ
hợp lệ thay thế.
+ Đối với pháp nhân: quyết định thành lập, giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh; giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, giấy phép kinh
doanh, giấy phép đầu tư, giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, giấy chứng
nhận ưu đãi đầu tư hoặc giấy tờ có giá trị pháp lý tương đương, điều lệ
hoạt động, quyết định bổ nhiệm người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp, văn bản ủy quyền của người đại diện theo pháp luật (nếu có)...
- Tài liệu, chứng cứ chứng minh việc xác lập quan hệ pháp luật
tranh chấp giữa các bên, đối tượng tranh chấp. Các tài liệu, chứng
cứ này có ý nghĩa chứng minh các tình tiết trình bày trong đơn khởi
kiện và yêu cầu khởi kiện. Các tài liệu, chứng cứ này khác nhau phù
hợp với từng loại tranh chấp: Ví dụ tranh chấp hợp đồng phải có hợp

51
đồng hoặc các tài liệu, chứng cứ khác chứng minh việc xác lập quan
hệ hợp đồng; tranh chấp thừa kế phải có tài liệu, chứng cứ chứng
minh có quan hệ thừa kế giữa các chủ thể, thời điểm mở thừa kế (giấy
chứng tử hoặc giấy tờ hợp lệ khác; giấy khai sinh hoặc giấy tờ hợp lệ
khác); tài liệu, chứng cứ chứng minh di sản thừa kế: giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, sở hữu tài sản của người để lại di sản, giấy tờ chứng
minh nguồn gốc di sản của người để lại di sản; giấy tờ về giao dịch dân
sự có đối tượng là di sản thừa kế (nếu có)...
- Các tài liệu, chứng cứ chứng minh đã thực hiện điều kiện khởi
kiện do pháp luật quy định (đối với các tranh chấp phải bảo đảm điều
kiện khởi kiện do pháp luật quy định): biên bản hòa giải tranh chấp đất
đai của UBND xã, phường, thị trấn...
Cần lưu ý đối với trường hợp khởi kiện vụ án dân sự có yếu tố
nước ngoài, Luật sư cần hướng dẫn người khởi kiện thu thập và nộp
kèm theo đơn khởi kiện các giấy tờ, tài liệu xác thực quốc tịch của
người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ở nước ngoài
(Điều 473 BLTTDS 2015).
Trường hợp vì lý do khách quan mà người khởi kiện không thể
nộp đầy đủ tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện ngoài các tài
liệu, chứng cứ hiện có để chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của
người khởi kiện bị xâm phạm, Luật sư giúp khách hàng soạn thảo văn
bản giải trình rõ lý do khách quan họ chưa thể thu thập được tài liệu,
chứng cứ và nộp văn bản này cùng với đơn khởi kiện.
Ngoài các tài liệu, chứng cứ trên, trong hồ sơ khởi kiện còn phải
có bản kê danh mục các tài liệu, chứng cứ nộp kèm theo đơn khởi kiện.
Bản kê này ghi rõ tên gọi, hình thức, nội dung, đặc điểm của tài liệu,
chứng cứ; số bản, số trang của từng tài liệu, chứng cứ. Luật sư hướng
dẫn đương sự lập và sắp xếp hồ sơ khởi kiện. Hồ sơ khởi kiện phải
được sắp xếp khoa học, có tính hệ thống và theo thứ tự phù hợp thể
hiện cơ sở pháp lý của yêu cầu khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp. Hồ
sơ khởi kiện nên lập ít nhất 03 bộ: 01 bộ gửi cho Toà án có thẩm quyền
giải quyết; người khởi kiện giữ 01 bộ và 01 bộ của Luật sư.

52
Thứ hai, xem xét tính hợp pháp của tài liệu, chứng cứ trong hồ
sơ khởi kiện
Luật sư căn cứ quy định tại Điều 95 BLTTDS 2015 về xác định
chứng cứ và các quy định khác có liên quan của BLTTDS để xác định
tính hợp pháp của tài liệu, chứng cứ, cụ thể:
- Đối với các tài liệu đọc được nội dung phải là bản chính hoặc
bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền cung cấp, xác nhận. Bản chính có thể là bản gốc hoặc
bản được dùng làm cơ sở lập ra các bản sao. Trường hợp giấy tờ, tài
liệu do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nước ngoài lập, cấp, xác nhận
thì phải là bản dịch tiếng Việt có công chứng, chứng thực đã được hợp
pháp hóa lãnh sự. Giấy tờ, tài liệu đó được miễn hợp pháp hóa lãnh sự
theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên thì phải là bản dịch ra
tiếng Việt có công chứng, chứng thực hợp pháp. Giấy tờ, tài liệu lập
bằng tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngoài phải kèm theo bản dịch
sang tiếng Việt, được công chứng, chứng thực hợp pháp.
- Các tài liệu nghe được, nhìn được phải kèm theo văn bản xác
nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc
thu âm, thu hình đó. Các tài liệu này có thể là băng ghi âm, đĩa ghi âm,
băng ghi hình, đĩa ghi hình, phim, ảnh...
- Thông điệp dữ liệu điện tử là thông tin được tạo ra, được gửi đi,
được nhận và được lưu trữ bằng phương tiện điện tử. Thông điệp dữ
liệu có giá trị như văn bản trong trường hợp pháp luật yêu cầu thông
tin phải được thể hiện bằng văn bản thì thông điệp dữ liệu được xem là
đáp ứng yêu cầu này nếu thông tin chứa trong thông điệp dữ liệu đó có
thể truy cập và sử dụng được để tham chiếu khi cần thiết.
- Vật chứng phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc dân sự;
nếu không phải là hiện vật gốc hoặc không liên quan đến vụ việc thì
không phải là chứng cứ trong vụ việc dân sự đó.
- Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng nếu được

53
ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình
hoặc khai bằng lời tại phiên tòa.
- Kết luận giám định, nếu việc giám định đó được tiến hành theo
đúng thủ tục quy định tại Luật Giám định tư pháp 2012 và Nghị định
số 85/2013/NĐ-CP ngày 29/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và
biện pháp thi hành Luật Giám định tư pháp.
- Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ, nếu việc thẩm định
tại chỗ được tiến hành theo đúng thủ tục quy định tại Điều 101 của
BLTTDS 2015.
- Kết quả định giá tài sản là kết quả xác định giá tài sản đang tranh
chấp do Hội đồng định giá đưa ra, nếu việc định giá tài sản được tiến
hành theo đúng thủ tục quy định tại khoản 4 Điều 104 BLTTDS 2015.
- Kết quả thẩm định giá tài sản là kết quả xác định giá tài sản đang
tranh chấp do tổ chức thẩm định giá tài sản tiến hành thẩm định giá đưa
ra, nếu việc thẩm định giá tài sản được tiến hành theo đúng thủ tục quy
định tại Nghị định số 89/2013/NĐ-CP ngày 06/8/2013 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Giá về thẩm định giá.
- Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức
năng lập tại chỗ, ví dụ như vi bằng, nếu việc lập vi bằng được tiến hành
theo đúng thủ tục quy định tại Văn bản hợp nhất số 7821/VBHN-BTP
ngày 25/11/2013 của Bộ Tư pháp về tổ chức và hoạt động của Thừa
phát lại thực hiện thí điểm tại một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương. Vi bằng là văn bản do Thừa phát lại lập, ghi nhận sự kiện, hành
vi được dùng làm tài liệu, chứng cứ để khởi kiện.
- Văn bản công chứng được coi là chứng cứ nếu việc công chứng
được thực hiện theo đúng thủ tục do Luật Công chứng 2016 quy định.
- Văn bản chứng thực được coi là chứng cứ nếu việc công chứng,
chứng thực được thực hiện theo đúng thủ tục quy định tại Nghị định
số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính phủ về cấp bản sao từ
sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng
thực hợp đồng, giao dịch.

54
c) Nộp hồ sơ khởi kiện; tư vấn khiếu nại việc trả lại đơn khởi kiện
* Nộp hồ sơ khởi kiện
Người nộp đơn khởi kiện có thể là người khởi kiện hoặc người
được ủy quyền của người khởi kiện. Do đó, người khởi kiện có thể
trực tiếp nộp đơn khởi kiện hoặc Luật sư nộp đơn khởi kiện theo sự ủy
quyền của khách hàng. Tùy thuộc từng trường hợp cụ thể, Luật sư tư
vấn cho khách hàng các phương thức nộp hồ sơ khởi kiện và các thủ
tục thực hiện theo quy định của BLTTDS 2015.
Việc nộp hồ sơ khởi kiện được thực hiện theo ba phương thức:
nộp trực tiếp tại Tòa án; gửi đến Tòa án qua đường dịch vụ bưu chính
và gửi trực tuyến bằng hình thức điện tử qua Cổng thông tin điện tử
của Tòa án (nếu có). Phương thức gửi đơn khởi kiện trực tuyến bằng
hình thức điện tử thông qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu
có) là một phương thức nộp đơn khởi kiện mới được quy định bổ sung
trong BLTTDS năm 2015. Việc cho phép gửi đơn khởi kiện bằng hình
thức thư điện tử là một bước phát triển trong quá trình điện tử hóa thủ
tục hành chính. Với phương thức khởi kiện trực tuyến bằng hình thức
điện tử, người khởi kiện chỉ cần có một thiết bị điện tử có kết nối mạng
là có thể gửi đơn khởi kiện đến Tòa án. Quy định bổ sung này phù hợp
và đáp ứng yêu cầu của thực tiễn phát triển của xã hội, thực hiện mục
tiêu xây dựng Tòa án điện tử, nhằm nâng cao quyền tiếp cận công lý
của người dân. Trong điều kiện hiện nay, không phải Tòa án nào cũng
có đầy đủ điều kiện để thiết lập Cổng thông tin điện tử nên người khởi
kiện chỉ có thể áp dụng phương thức gửi hồ sơ khởi kiện trực tuyến
đối với Tòa án có cổng thông tin điện tử. Do đó, về mặt kỹ năng Luật
sư cần nắm bắt thông tin, xác định Tòa án có thẩm quyền giải quyết
tranh chấp nào có Cổng thông tin điện tử để tư vấn cho khách hàng
thực hiện việc lựa chọn gửi đơn và hồ sơ khởi kiện theo phương thức
gửi trực tuyến.
Về mặt kỹ năng, người nộp đơn khởi kiện nộp hồ sơ khởi kiện trực
tiếp tại Tòa án, gửi đến Tòa án theo đường dịch vụ bưu chính hoặc gửi
trực tuyến bằng hình thức điện tử qua Cổng thông tin điện tử của Tòa

55
án đều cần phải lưu giữ tài liệu chứng minh việc đã nộp và thời điểm
(ngày, tháng, năm) nộp hồ sơ khởi kiện. Đó chính là giấy xác nhận đã
nhận đơn khởi kiện (theo mẫu của TANDTC ban hành). Nếu nộp hồ sơ
khởi kiện thông qua dịch vụ bưu chính phải lưu giữ tài liệu chứng minh
việc gửi, thời điểm gửi và giấy báo nhận đơn khởi kiện do Tòa án gửi
cho người khởi kiện thông qua dịch vụ bưu chính. Gửi hồ sơ khởi kiện
theo phương thức gửi trực tuyến bằng hình thức điện tử qua Cổng thông
tin điện tử của Tòa án, cần lưu giữ dữ liệu điện tử chứng minh thời điểm
nộp và thông báo của Tòa án về việc nhận đơn cho người khởi kiện qua
Cổng thông tin điện tử của Tòa án (thông báo bằng hình thức điện tử
thông qua Cổng thông tin điện tử hoặc hình thức khác).
Khi giao nộp tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện Luật sư
cần lưu ý nếu tài liệu đọc được là văn bản không được phép chứng
thực thì có thể sử dụng bản sao nhưng khi nộp phải mang bản chính
đến để Thẩm phán đối chiếu và ghi rõ vào bản sao đã đối chiếu với bản
chính. Khi nộp tài liệu, chứng cứ Luật sư chú ý yêu cầu Tòa án cung
cấp biên bản giao nhận tài liệu, chứng cứ theo quy định tại khoản 2
Điều 96 BLTTDS. Biên bản này phải được người có thẩm quyền ký
tên xác nhận và đóng dấu của Tòa án.
* Tư vấn khiếu nại việc trả lại đơn khởi kiện
Tòa án từ chối thụ lý yêu cầu của người khởi kiện, không giải
quyết tranh chấp dân sự bằng việc trả lại đơn khởi kiện. BLTTDS 2015
có nhiều sửa đổi, bổ sung quan trọng về khiếu nại, kiến nghị và thủ
tục giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện tại
Điều 194 BLTTDS 2015 nhằm bảo đảm quyền khởi kiện của cá nhân,
cơ quan, tổ chức. Thẩm quyền trả lại đơn khởi kiện được BLTTDS 2015
quy định cụ thể thuộc về Thẩm phán được phân công xem xét đơn mà
không quy định chung chung là Tòa án như trước đây. Căn cứ vào
quy định của Điều 192, 193, 194 các quy định khác có liên quan của
BLTTDS 2015 và pháp luật nội dung Luật sư thực hiện kỹ năng tư vấn
khiếu nại việc trả lại đơn khởi kiện. Thời hạn khiếu nại, kiến nghị; thời
hạn giải quyết khiếu nại, kiến nghị; thẩm quyền, trình tự thủ tục giải

56
quyết khiếu nại, kiến nghị lần một, lần hai là những nội dung cơ bản,
quan trọng liên quan đến trả lại đơn khởi kiện mà Luật sư cần tư vấn
cho khách hàng. Đồng thời, soạn thảo đơn khiếu nại về việc trả lại đơn
khởi kiện và đơn khiếu nại đối với quyết định trả lời khiếu nại về việc
trả lại đơn khởi kiện giúp khách hàng là một kỹ năng quan trọng của
Luật sư.
Để thực hiện tốt kỹ năng tư vấn khiếu nại về việc Tòa án trả
lại đơn khởi kiện của khách hàng, Luật sư đối chiếu hồ sơ khởi kiện
và biên lai nộp tiền tạm ứng án phí với nội dung các quy định của
BLTTDS, pháp luật nội dung để tư vấn chính xác cho người khởi kiện
thực hiện việc khiếu nại về trả lại đơn khởi kiện.
Điều 194 BLTTDS 2015 có nhiều quy định sửa đổi, bổ sung so
với pháp luật tố tụng trước đây về thời hạn khiếu nại, kiến nghị; thời
hạn giải quyết khiếu nại, kiến nghị; thẩm quyền, trình tự thủ tục giải
quyết khiếu nại, kiến nghị lần một, lần hai.
Trước hết, Luật sư nghiên cứu kỹ nội dung văn bản trả lại đơn
khởi kiện của Tòa án. Luật sư căn cứ các quy định của pháp luật phân
tích, đánh giá việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án. Tập trung nghiên
cứu căn cứ Tòa án trả lại đơn khởi kiện của khách hàng là điểm cần
chú ý về mặt kỹ năng của Luật sư khi thực hiện hoạt động này. Người
khởi kiện không có quyền khởi kiện, vụ án không thuộc thẩm quyền
của Tòa án, chưa đủ điều kiện khởi kiện, sự việc đã được giải quyết
bằng bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án… là các căn cứ thường
được nêu ra trong văn bản trả lại đơn khởi kiện. Đồng thời, Luật sư
đánh giá điều kiện thụ lý vụ án sau khi nghiên cứu nội dung đơn khởi
kiện; các tài liệu, chứng cứ. Cuối cùng, Luật sư đối chiếu điều kiện thụ
lý vụ án với căn cứ Tòa án trả lại đơn khởi kiện để kết luận việc trả lại
đơn khởi kiện là đúng hay không đúng pháp luật.
Nếu Tòa án trả lại đơn khởi kiện không đúng pháp luật, Luật sư
thực hiện việc soạn thảo đơn khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện.
Theo quy định của BLTTDS 2015 đơn khiếu nại được gửi đến Chánh
án Tòa án cấp sơ thẩm yêu cầu xem xét việc trả lại đơn khởi kiện. Nội

57
dung của đơn khiếu nại phải ghi rõ ngày, tháng, năm; họ, tên, địa chỉ
của người khiếu nại; nội dung, lý do khiếu nại, yêu cầu của người
khiếu nại, nếu người khiếu nại là cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ,
nếu là tổ chức, cơ quan ký tên người đại diện hợp pháp và đóng dấu.
Luật sư đánh giá, sử dụng tài liệu, chứng cứ người khởi kiện nộp
kèm theo đơn khởi kiện và phân tích về hình thức, nội dung đơn khởi
kiện, yêu cầu khởi kiện, viện dẫn các quy định của pháp luật nội dung,
tố tụng đề nghị Tòa án nhận lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ
kèm theo, tiến hành việc thụ lý vụ án. Theo quy định tại Điều 194
BLTTDS 2015 thì ngay sau khi nhận được khiếu nại, kiến nghị về
việc trả lại đơn khởi kiện, Chánh án Tòa án phải phân công một Thẩm
phán khác xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị. Trong thời hạn 05
ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải mở phiên
họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi
kiện. Phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị có sự tham gia
của đại diện Viện kiểm sát cùng cấp và đương sự có khiếu nại. Đây là
quy định hoàn toàn mới được bổ sung trong BLTTDS 2015, bảo đảm
sự minh bạch trong giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn
khởi kiện, quyền được tham gia vào hoạt động tố tụng của người khởi
kiện. Tại phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc
trả lại đơn khởi kiện, người khởi kiện trình bày ý kiến về việc trả lại
đơn khởi kiện, đề nghị Thẩm phán nhận lại đơn khởi kiện và tài liệu,
chứng cứ kèm theo, tiến hành việc thụ lý vụ án. Ý kiến trình bày và
đề nghị của người khởi kiện dựa trên cơ sở các căn cứ pháp lý và căn
cứ thực tế đã được phân tích đơn khiếu nại về việc trả lại đơn khởi
kiện. Thẩm phán, Kiểm sát viên cũng nghiên cứu đơn khiếu nại, xem
xét các căn cứ và đề nghị của người khiếu nại. Kiểm sát viên tham
gia phiên họp phải phát biểu ý kiến về việc trả lại đơn khởi kiện. Do
đó đơn khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện là văn bản quan trọng.
Ví dụ:
Theo quyết định tại bản án dân sự phúc thẩm của TAND tỉnh N
về vụ án “Tranh chấp di sản thừa kế” giữa nguyên đơn là bà L với
bị đơn là ông T và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông N

58
thì ông T, ông N được hưởng 1/3 diện tích đất vườn trong thửa đất
có diện tích 6 sào 14 thước 5 tấc tại thôn Đông, xã VP, thành phố
NT, tỉnh K; phần diện tích đất còn lại bà L được hưởng. Ông T và
ông N do sinh sống ở thành phố nên nhờ gia đình bà L trông coi
giúp đất vườn được chia nhưng sau khi ông T và ông N chết năm
2009 thì gia đình bà L chặt cây cối để xây dựng nhà ở. Năm 2016,
bà Đ (vợ ông T) và bà M (vợ ông N) khởi kiện yêu cầu bà L trả lại
phần đất vườn mà ông T, ông N được chia.
Tòa án thành phố NT đã áp dụng điểm c khoản 1 Điều 192
BLTTDS 2015:“Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án” để trả lại đơn khởi kiện
của bà M, bà Đ.
Luật sư cần phân tích căn cứ trả lại đơn khởi kiện của Tòa án
thành phố NT không đúng pháp luật. Đây không phải là trường
hợp “Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án”. Trong vụ án này do yêu cầu khởi
kiện là đòi lại tài sản đang do người khác chiếm giữ không yêu cầu
chia thừa kế nên là quan hệ tranh chấp quyền sở hữu tài sản. Quan
hệ tranh chấp thừa kế đã được giải quyết tại bản án dân sự phúc
thẩm. Bản án dân sự phúc thẩm đã xác lập quyền tài sản (quyền
sử dụng đất) cho ông T và ông N dù chưa có việc thi hành án giao
nhận đất. Ông T, ông N đã có quyền sử dụng đất, nay ông T và ông
N chết thì quyền tài sản này được thừa kế nên các thừa kế của ông
T, ông N có quyền khởi kiện yêu cầu người đang chiếm giữ tài sản
thừa kế trái pháp luật trả lại tài sản. Thời hiệu yêu cầu thi hành án
đã hết thì những người được thi hành án không còn quyền yêu cầu
cơ quan thi hành án thi hành bản án thừa kế chứ không phải hết
thời hiệu thi hành án thì bản án không còn giá trị hiệu lực và người
có quyền dân sự bị mất quyền dân sự.
Nếu không đồng ý với quyết định trả lời khiếu nại về việc trả lại
đơn khởi kiện của Thẩm phán và Thẩm phán vẫn giữ nguyên quyết
định trả lại đơn kiện thì theo BLTTDS 2015 quy định người khởi kiện
có quyền tiếp tục khiếu nại với Chánh án Tòa án cấp trên một cấp
trực tiếp xem xét, giải quyết. Vì vậy, Luật sư tư vấn cho người khởi

59
kiện tiếp tục khiếu nại quyết định giải quyết khiếu nại lần một này lên
Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp để xem xét, giải quyết. Thời hạn
thực hiện quyền khiếu nại lần hai là 10 ngày, kể từ ngày nhận được
quyết định trả lời khiếu nại, kiến nghị lần một. Luật sư giúp người khởi
kiện soạn thảo đơn khiếu nại đối với quyết định trả lời khiếu nại về
việc trả lại đơn khởi kiện lần một. Trong nội dung đơn, Luật sư phân
tích các căn cứ không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại về
việc trả lại đơn lần một của Chánh án Tòa án cấp sơ thẩm sau khi đối
chiếu với điều kiện thụ lý vụ án để đề nghị cụ thể với Chánh án Tòa án
trên một cấp yêu cầu Tòa án cấp sơ thẩm nhận lại đơn khởi kiện và tài
liệu, chứng cứ kèm theo, tiến hành việc thụ lý vụ án.
BLTTDS 2015 quy định: “Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến
nghị của Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp có hiệu lực thi
hành và được gửi ngay cho người khởi kiện, Viện kiểm sát cùng cấp,
Viện kiểm sát đã kiến nghị và Tòa án đã ra quyết định trả lại đơn
khởi kiện” (khoản 6 Điều 194). Khác với nội dung khoản 4 Điều 170
BLTTDS 2004, sửa đổi, bổ sung 2011 quy định quyết định giải quyết
khiếu nại, kiến nghị của Chánh án Tòa án cấp trên trực tiếp là quyết
định giải quyết khiếu nại, kiến nghị cuối cùng, BLTTDS 2015 chỉ quy
định: quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Chánh án Tòa
án trên một cấp có hiệu lực thi hành mà chưa phải là quyết định cuối
cùng. Đương sự, Viện kiểm sát có quyền tiếp tục khiếu nại, kiến nghị
lên Chánh án Tòa án cấp cao (đối với quyết định giải quyết khiếu nại,
kiến nghị của Chánh án Tòa án cấp tỉnh) hoặc Chánh án Tòa án Tối
cao (đối với quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Chánh án
Tòa án cấp cao) theo quy định khoản 7 Điều 194 BLTTDS 2015.
Như vậy, theo quy định của BLTTDS 2015 về giải quyết khiếu nại,
kiến nghị việc trả lại đơn khởi kiện thì quyết định giải quyết khiếu nại,
kiến nghị của Chánh án Tòa án cấp cao và quyết định giải quyết khiếu
nại, kiến nghị của Chánh án Tòa án tối cao mới là quyết định giải quyết
cuối cùng. Do đó, Luật sư tư vấn cho khách hàng tiếp tục làm đơn khiếu
nại gửi đến Chánh án Tòa án cấp cao hoặc Chánh án Tòa án tối cao nếu
không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của Chánh án Tòa án

60
cấp trên trực tiếp. Nội dung đơn khiếu nại này vẫn tiếp tục khẳng định
quyết định giải quyết khiếu nại lần một, lần hai là không đúng pháp luật
trên cơ sở phân tích các điều kiện thụ lý vụ án, các căn cứ trả lại đơn khởi
kiện của Tòa án cấp sơ thẩm là không đúng pháp luật. Đồng thời, trong
đơn đề nghị Chánh án Tòa án cấp cao, Chánh án Tòa án tối cao yêu cầu
Tòa án sơ thẩm phải nhận lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm
theo, tiến hành việc thụ lý vụ án.
2.2. Kỹ năng thụ lý vụ án dân sự của Thẩm phán
Thụ lý vụ án dân sự là việc Tòa án tiếp nhận, xem xét, kiểm tra đơn
khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo, xác định điều kiện thụ lý và
tiến hành vào sổ thụ lý giải quyết vụ án dân sự theo quy định của pháp
luật tố tụng dân sự. Nếu như xác định điều kiện khởi kiện thuộc trách
nhiệm của người khởi kiện thì xác định điều kiện thụ lý vụ án thuộc
trách nhiệm của Tòa án mà trực tiếp là Thẩm phán được phân công xem
xét việc thụ lý vụ án. Thụ lý vụ án dân sự đúng có ý nghĩa quan trọng,
bảo đảm quyền tiếp cận công lý của các chủ thể trong quan hệ pháp luật
dân sự khi có tranh chấp, đồng thời tránh được việc phải giải quyết hậu
quả của việc thụ lý vụ án không đúng dẫn đến tốn kém về tiền, công sức
của đương sự cũng như thời gian, công sức của Tòa án. Thụ lý vụ án dân
sự phải được thực hiện theo quy định của BLTTDS 2015. Để thực hiện
tốt hoạt động thụ lý vụ án, tạo tiền đề giải quyết vụ án đúng pháp luật,
nhanh chóng và hiệu quả, Thẩm phán cần nắm vững các kỹ năng cơ bản.
Các kỹ năng này bao gồm: tiếp nhận đơn khởi kiện, các tài liệu, chứng
cứ kèm theo; xem xét, kiểm tra đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ;
yêu cầu người khởi kiện sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện, bổ sung tài liệu,
chứng cứ; xác định các điều kiện để thụ lý vụ án; trả lại đơn khởi kiện và
tài liệu, chứng cứ kèm theo; chuyển đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ
kèm theo; vào sổ thụ lý vụ án dân sự.
2.2.1. Kỹ năng tiếp nhận, kiểm tra đơn khởi kiện và các tài liệu,
chứng cứ kèm theo
a) Kỹ năng tiếp nhận đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo
Tiếp nhận đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo

61
trong 03 trường hợp người khởi kiện nộp trực tiếp tại Tòa án; gửi đến
Tòa án theo đường dịch vụ bưu chính và gửi trực tuyến bằng hình
thức điện tử qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án có những điểm
giống và khác nhau.
- Trường hợp người khởi kiện nộp đơn khởi kiện và tài liệu,
chứng cứ kèm theo theo phương thức nộp trực tiếp tại Tòa án thì bộ
phận tiếp nhận đơn phải có trách nhiệm tiếp nhận và ghi cụ thể thời
điểm người khởi kiện nộp đơn vào Sổ nhận đơn (ngày, tháng, năm).
Ngày khởi kiện được xác định là ngày nộp đơn khởi kiện. Sau khi
nhận và vào Sổ nhận đơn, thủ tục tiếp theo là Tòa án có trách nhiệm
cấp ngay văn bản xác nhận đã nhận đơn khởi kiện cho người khởi
kiện. Trong văn bản này phải ghi rõ ngày, tháng, năm nhận đơn; Tòa
án nhận đơn; người nộp đơn; các giấy tờ, tài liệu người khởi kiện nộp
kèm theo đơn khởi kiện. Các nội dung này đồng thời cũng phải được
ghi vào Sổ nhận đơn.
- Trường hợp đơn khởi kiện được gửi đến Tòa án thông qua dịch
vụ bưu chính thì khi nhận đơn khởi kiện, Tòa án cũng phải ghi ngày,
tháng, năm nhận đơn do bưu điện chuyển đến và ngày, tháng, năm
đương sự gửi đơn theo ngày, tháng, năm được ghi trên dấu của tổ chức
dịch vụ bưu chính nơi gửi đơn và vào Sổ nhận đơn. Vào Sổ nhận đơn,
ngoài việc ghi những nội dung như đối với trường hợp nhận đơn khởi
kiện nộp trực tiếp tại Tòa án thì cán bộ nhận đơn còn phải ghi thêm
ngày khởi kiện theo ngày có dấu bưu điện nơi gửi. Phong bì có dấu
bưu điện phải được đính kèm theo đơn khởi kiện. Một điểm cần lưu
ý là trường hợp không xác định được ngày, tháng, năm theo dấu bưu
chính trên phong bì thì phải ghi chú trong sổ nhận đơn là “không xác
định được ngày, tháng, năm theo dấu bưu điện”.
- Trường hợp, người khởi kiện gửi đơn khởi kiện theo phương
thức gửi trực tuyến bằng hình thức điện tử qua cổng thông tin điện tử
của Tòa án thì phải in ra giấy và phải ghi vào Sổ nhận đơn trong đó
cũng ghi rõ ngày, tháng, năm Tòa án nhận được đơn khởi kiện của
người khởi kiện qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án.

62
Tiếp nhận đơn khởi kiện theo hai phương thức nhận trực tiếp hoặc
nhận theo đường dịch vụ bưu chính, Tòa án đều phải thực hiện việc
cấp giấy báo nhận đơn khởi kiện theo mẫu của TANDTC ban hành cho
người khởi kiện. Trường hợp nhận đơn khởi kiện theo phương thức
gửi trực tuyến bằng hình thức điện tử Tòa án phải thông báo ngay việc
nhận đơn cho người khởi kiện qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án.
Cùng với việc tiếp nhận đơn khởi kiện, cán bộ Tòa án được phân
công nhận đơn phải thực hiện việc tiếp nhận tài liệu, chứng cứ người
khởi kiện nộp kèm theo đơn. Kỹ năng thực hiện việc tiếp nhận các tài
liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện cũng được thực hiện tương tự
như khi tiếp nhận đơn khởi kiện của người khởi kiện nhưng cần lưu
ý là có điểm khác với kỹ năng tiếp nhận đơn khởi kiện. Đó là thủ tục
nhận tài liệu, chứng cứ kèm đơn khởi kiện phải lập biên bản về việc
giao nhận tài liệu, chứng cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 96
BLTTDS 2015. Việc lập biên bản này thực hiện theo mẫu của TANDTC
ban hành. Nội dung biên bản nên sắp xếp lập danh mục tài liệu, chứng
cứ theo thời gian và miêu tả đầy đủ, chi tiết về tài liệu, chứng cứ. Mặt
khác, phải ghi rõ, chi tiết tên gọi của từng tài liệu, chứng cứ (ví dụ: hợp
đồng mua bán nhà, giấy biên nhận tiền, hóa đơn giá trị gia tăng, giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất...); hình thức, nội dung, đặc điểm của
tài liệu, chứng cứ (ví dụ: tên gọi, số hoặc ngày tháng của tài liệu, bản
sao, bản dịch, băng ghi âm, ghi hình...); số bản; số trang của tài liệu,
chứng cứ và thời gian nhận. Biên bản này phải có chữ ký hoặc điểm
chỉ của người giao nộp, chữ ký của người nhận và đóng dấu của Toà
án. Biên bản lập thành 02 bản, 01 bản lưu vào hồ sơ vụ án dân sự và
01 bản giao cho người giao nộp tài liệu, chứng cứ giữ.
Trường hợp người khởi kiện gửi tài liệu, chứng cứ kèm đơn khởi
kiện theo đường dịch vụ bưu chính, cán bộ Tòa án phải đối chiếu tài
liệu, chứng cứ thực tế gửi kèm theo đơn khởi kiện với danh mục tài
liệu, chứng cứ ghi trong đơn khởi kiện. Nếu thấy tài liệu, chứng cứ
nào còn thiếu hoặc không đầy đủ so với danh mục thì thông báo bằng
văn bản ngay cho người khởi kiện biết để họ giao nộp bổ sung tài liệu,
chứng cứ còn thiếu đó. Khi người khởi kiện gửi tài liệu, chứng cứ là

63
thông điệp dữ liệu điện tử theo phương thức gửi trực tuyến bằng hình
thức điện tử qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có) thì về
nguyên tắc Tòa án cũng phải thông báo việc nhận tài liệu, chứng cứ đó
cho người khởi kiện qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có).
b) Kỹ năng kiểm tra đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo
Sau khi thực hiện thủ tục nhận hồ sơ khởi kiện, Tòa án phải có
trách nhiệm xem xét đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo
(hồ sơ khởi kiện). Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận
đơn khởi kiện, Chánh án Tòa án phân công một Thẩm phán xem xét,
kiểm tra hồ sơ khởi kiện. Kiểm tra hồ sơ khởi kiện nhằm mục đích
đánh giá, xác định các điều kiện thụ lý vụ án dân sự và thực hiện các
kỹ năng nghiệp vụ tiếp theo nên đây là một kỹ năng rất quan trọng của
Thẩm phán. Chính vì vậy, BLTTDS 2015 quy định việc xem xét đơn
khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo chỉ do Thẩm phán được phân
công thực hiện (Điều 191 BLTTDS 2015). Kết quả xem xét, kiểm tra,
xử lý của Thẩm phán phải được thông báo cho người khởi kiện, phải
ghi chú vào sổ nhận đơn và thông báo trên Cổng thông tin điện tử của
Tòa án (nếu có). Thực hiện tốt kỹ năng này đặt ra yêu cầu Thẩm phán
phải nghiên cứu đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo. Việc
kiểm tra đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo nên thực hiện
đồng thời. Theo đó, Thẩm phán tiến hành nghiên cứu, so sánh đối
chiếu, xem xét sự phù hợp, mâu thuẫn giữa hình thức, nội dung đơn
khởi kiện với tài liệu, chứng cứ người khởi kiện.
Thẩm phán kiểm tra cả về hình thức và nội dung đơn khởi kiện.
Điều này đòi hỏi Thẩm phán phải nắm vững điều kiện hình thức và nội
dung đơn khởi kiện được trình bày tại mục 1.1.5. Tiếp cận theo góc độ
kỹ năng, Thẩm phán cần lưu ý kiểm tra kỹ các nội dung sau:
- Mục tên của người khởi kiện là cá nhân, cơ quan, tổ chức: Pháp
luật không cho phép ủy quyền khởi kiện nên nếu cá nhân khởi kiện
thì họ tên người khởi kiện và họ tên, chữ ký, điểm chỉ của người khởi
kiện ở phần cuối đơn phải có sự thống nhất và đối chiếu với các giấy tờ
chứng minh tư cách chủ thể khởi kiện để xác định. Nếu người đại diện

64
hợp pháp của cá nhân khởi kiện phải đối chiếu các tài liệu chứng minh
quyền đại diện theo quy định của pháp luật (các giấy tờ về hộ tịch: giấy
khai sinh, sổ hộ khẩu; giấy chứng nhận kết hôn…) để xác định tính hợp
pháp của đơn khởi kiện. Nếu cơ quan, tổ chức khởi kiện thì mục khởi
kiện có tên cơ quan, tổ chức, phần cuối đơn người đại diện theo pháp
luật hoặc ủy quyền của cơ quan, tổ chức phải ký tên và đóng dấu của cơ
quan, tổ chức. Thẩm phán đối chiếu các tài liệu, chứng cứ chứng minh
người đại diện theo pháp luật để xác định (quyết định thành lập, Điều lệ
hoạt động, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh…). Trong trường hợp
người đại diện theo ủy quyền ký đơn khởi kiện, Thẩm phán cần kiểm
tra, đối chiếu văn bản ủy quyền của người đại diện theo pháp luật để xác
định tính hợp pháp của việc ký đơn khởi kiện.
- Về nội dung tên, địa chỉ cư trú của người khởi kiện; của người
bị kiện; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: địa chỉ cư trú (đối với
cá nhân) hoặc nơi có trụ sở (đối với pháp nhân) phải cụ thể, rõ ràng,
đầy đủ, chính xác, đặc biệt chú ý khi kiểm tra địa chỉ cư trú của người
bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Xác định chính xác
nơi cư trú của người bị kiện; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
có ý nghĩa hết sức quan trọng ở giai đoạn thụ lý vụ án, bởi lẽ liên quan
đến việc xác định thẩm quyền thụ lý vụ án theo lãnh thổ, theo cấp Tòa
án... Nếu trong đơn khởi kiện ghi địa chỉ của người bị kiện; người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là nơi cư trú, làm việc cuối cùng, nơi có
trụ sở cuối cùng hoặc nơi người bị kiện có tài sản giải quyết thì Thẩm
phán cần lưu ý đối chiếu với tài liệu chứng minh căn cứ người khởi
kiện được lựa chọn Toà án theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 40
BLTTDS 2015. Ngoài ra, tại các mục này trong đơn khởi kiện cũng
cần kiểm tra, xác định số điện thoại, fax và địa chỉ thư điện tử (nếu có)
của người khởi kiện, người có quyền và lợi ích được bảo vệ, người bị
kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cơ sở để liên hệ với
đương sự trong quá trình giải quyết vụ án.
- Đối với mục “Quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện
bị xâm phạm và những vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết đối với
người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”:

65
Tại mục này, Thẩm phán cần đối chiếu các tình tiết về nội dung
tranh chấp người khởi kiện trình bày trong đơn khởi kiện với tài liệu,
chứng cứ. Đồng thời, Thẩm phán lưu ý kiểm tra kỹ yêu cầu của người
khởi kiện. Yêu cầu khởi kiện phải đáp ứng đầy đủ các yếu tố đã trình
bày tại mục 2.1 đồng thời phải cụ thể, rõ ràng, phù hợp với nội dung
tranh chấp, phù hợp với chứng cứ nộp kèm theo đơn khởi kiện chứng
minh yêu cầu. Thẩm phán kiểm tra, xác định từng yêu cầu cụ thể cũng
như phạm vi từng yêu cầu của người khởi kiện đối với người bị kiện;
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Điều này có ý nghĩa quan trọng
trong việc xác định phạm vi khởi kiện, xác định nghĩa vụ và mức tiền
tạm ứng án phí mà người khởi kiện phải nộp theo quy định của pháp
luật, đồng thời còn là cơ sở ban đầu để Tòa án xác định quan hệ pháp
luật phát sinh tranh chấp; đánh giá, xác định các tài liệu, chứng cứ mà
người khởi kiện phải nộp kèm theo đơn khởi kiện.
Đối với việc kiểm tra các tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi
kiện: Xác định những tài liệu, chứng cứ nộp kèm theo đơn khởi kiện
phù hợp với hình thức và nội dung đơn khởi kiện là một kỹ năng rất
quan trọng của Thẩm phán, là cơ sở đánh giá điều kiện thụ lý vụ án. Về
nguyên tắc, người khởi kiện phải nộp các tài liệu, chứng cứ chứng minh
cho yêu cầu khởi kiện là có căn cứ, tuy nhiên cần lưu ý người khởi kiện
nếu vì lý do khách quan mà không thể nộp đầy đủ tài liệu, chứng cứ thì
phải nộp các tài liệu, chứng cứ hiện có để chứng minh quyền và lợi ích
hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm (Điều 189 BLTTDS 2015).
Do vậy, Thẩm phán được phân công xem xét việc thụ lý vụ án cần phân
biệt sự khác nhau giữa việc xác định tài liệu, chứng cứ để giải quyết vụ
án với tài liệu, chứng cứ để thụ lý vụ án nhằm tránh gây phiền hà cho
đương sự. Từ đó Thẩm phán cần xác định tính đầy đủ của tài liệu, chứng
cứ phải đặt trong bối cảnh đủ để thụ lý vụ án. Bởi lẽ, quá trình giải quyết
vụ án đòi hỏi các chứng cứ được thu thập ở những thời điểm khác nhau,
từ nhiều nguồn khác nhau theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Trong trường hợp vì lý do khách quan người khởi kiện không thể nộp
đầy đủ tài liệu, chứng cứ, Thẩm phán hướng dẫn họ viết và nộp văn bản
giải trình lý do khách quan không thu thập được tài liệu, chứng cứ.

66
Ngoài việc kiểm tra tính đầy đủ của tài liệu, chứng cứ người khởi
kiện nộp kèm theo đơn, Thẩm phán còn phải kiểm tra, xác định tính
hợp pháp của các tài liệu, chứng cứ này. Tính hợp pháp của tài liệu,
chứng cứ đã được trình bày tại mục 1.1.5. Thẩm phán lưu ý khi kiểm
tra tính hợp pháp của các tài liệu đọc được đối với trường hợp người
khởi kiện chỉ có một bản duy nhất và không thực hiện được việc chứng
thực bản sao thì trong thực tế Thẩm phán có thể chấp nhận bản sao và
yêu cầu người khởi kiện cung cấp bản chính, tiến hành việc đối chiếu
và ghi rõ đã đối chiếu với bản chính bên góc trái bản sao. Thực tiễn thụ
lý, giải quyết vụ án dân sự, tài liệu đọc được này cũng được coi là hợp
pháp. Về kỹ năng, Thẩm phán đối chiếu các tài liệu, chứng cứ kèm theo
đơn khởi kiện với nội dung và hình thức đơn khởi kiện để xác định tính
đầy đủ và tính hợp pháp của các tài liệu, chứng cứ.
BLTTDS 2015 đã quy định việc thụ lý, giải quyết vụ án theo thủ
tục thông thường và thủ tục rút gọn. Do đó, trường hợp sau khi xem
xét, kiểm tra đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ nếu phát hiện tranh
chấp đảm bảo điều kiện thụ lý vụ án theo thủ tục rút gọn quy định tại
khoản 1 Điều 317 BLTTDS 2015 thì Thẩm phán xem xét đơn khởi
kiện ra quyết định thụ lý vụ án theo thủ tục rút gọn.
2.2.2. Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện; bổ sung tài liệu,
chứng cứ
Sau khi xem xét, kiểm tra toàn bộ hồ sơ khởi kiện, trường hợp
đơn khởi kiện không bảo đảm hình thức và nội dung theo quy định tại
khoản 4 Điều 189 BLTTDS 2015 cũng như tài liệu, chứng cứ kèm theo
chưa đủ cơ sở để thụ lý vụ án thì Thẩm phán phải thực hiện thông báo
cho người khởi kiện biết. Việc thông báo phải được lập thành văn bản và
nêu rõ, cụ thể những vấn đề người khởi kiện cần sửa đổi, bổ sung trong
đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ cụ thể người khởi kiện cần nộp
bổ sung. Thẩm phán nên lập theo danh mục và đánh số thứ tự về các vấn
đề cụ thể yêu cầu người khởi kiện sửa đổi, bổ sung trong đơn khởi kiện
và các tài liệu, chứng cứ cần bổ sung. Trong nội dung thông báo Thẩm
phán cần ấn định thời hạn cụ thể nhưng không quá 01 tháng. Trường

67
hợp đặc biệt, Thẩm phán có thể gia hạn nhưng không quá 15 ngày. Đồng
thời, thông báo phải có nội dung xác định rõ hậu quả của việc không sửa
đổi, bổ sung đúng thời hạn thì giải quyết theo quy định tại điểm e khoản 1
Điều 192 và khoản 2 Điều 193 BLTTDS 2015. Hậu quả trong trường
hợp này cần ghi rõ là trả lại đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ kèm theo.
Ngoài việc yêu cầu người khởi kiện sửa đổi, bổ sung đơn khởi
kiện; bổ sung tài liệu, chứng cứ thể hiện trong thông báo; Thẩm phán
cần hướng dẫn cụ thể cho người khởi kiện để họ thu thập các tài liệu,
chứng cứ cần bổ sung. Ví dụ, trong trường hợp khởi kiện tranh chấp
quyền sử dụng đất, người khởi kiện chưa thực hiện thủ tục hòa giải thì
Thẩm phán cần hướng dẫn họ thực hiện thủ tục hòa giải theo đúng quy
định của pháp luật đất đai.
Nếu tranh chấp nguyên đơn có quyền lựa chọn nhiều Toà án có
thẩm quyền giải quyết thì Thẩm phán hướng dẫn người khởi kiện cam
kết trong đơn khởi kiện chỉ khởi kiện ở Toà án họ đã lựa chọn mà
không khởi kiện tại các Toà án khác.
Văn bản thông báo sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện được giao
trực tiếp, gửi trực tuyến hoặc gửi cho người khởi kiện qua dịch vụ bưu
chính. Việc giao hoặc gửi này phải có sổ theo dõi. Theo nội dung quy
định tại khoản 1 Điều 193 BLTTDS 2015 là phải ghi chú vào sổ nhận
đơn để theo dõi. Thời gian thực hiện việc sửa đổi, bổ sung đơn khởi
kiện không được tính vào thời hiệu khởi kiện, ngày khởi kiện vẫn tính
là ngày nộp đơn khởi kiện trực tiếp, qua Cổng thông tin điện tử hoặc
dấu bưu điện nơi gửi. Trong trường hợp người khởi kiện đã sửa đổi,
bổ sung theo đúng nội dung thông báo thì Toà án thụ lý vụ án (khoản 2
Điều 193 BLTTDS 2015). Trường hợp người khởi kiện không thực
hiện việc sửa đổi, bổ sung đơn thì khi hết thời hạn ghi trong thông báo,
Tòa án ra thông báo trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện. Trong
thực tế, các Toà án thường thông báo bằng miệng cho các đương sự và
yêu cầu họ sửa đổi, bổ sung ngay, điều này dẫn đến tình trạng không
có căn cứ theo dõi quá trình giải quyết đơn khởi kiện và tài liệu, chứng
cứ kèm theo đơn của Thẩm phán.

68
2.2.3. Kiểm tra, xác định điều kiện thụ lý, thụ lý vụ án
a) Kiểm tra, xác định điều kiện thụ lý
Kiểm tra, xác định các điều kiện thụ lý vụ án dân sự không tách
rời với kỹ năng xem xét, kiểm tra đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ
kèm theo. Để thực hiện tốt kỹ năng kiểm tra, đánh giá điều kiện thụ lý
vụ án dân sự, Thẩm phán phải nắm vững các điều kiện thụ lý vụ án.
Điều kiện thụ lý vụ án đã được trình bày tại các mục 1.1 và 1.2. Trên
cơ sở đó, Thẩm phán thực hiện các kỹ năng nghiệp vụ và cần chú ý các
trường hợp sau:
Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ
và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan nhưng họ không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay
đổi nơi cư trú, trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan,
người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về cư trú làm cho
người khởi kiện không biết được nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn
tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện thì Thẩm phán không trả lại
đơn khởi kiện mà xác định người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan cố tình giấu địa chỉ và tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ
tục chung (điểm e khoản 1 Điều 192 BLTTDS 2015).
Trong thực tế, do trình độ hiểu biết pháp luật còn chưa cao nên
nhiều người dân đã gửi đơn khởi kiện vụ án dân sự đến các cơ quan
khác nhau như Ủy ban nhân dân, công an, cơ quan thanh tra... yêu cầu
giải quyết tranh chấp. Các cơ quan này đã chuyển đơn của họ đến Tòa
án để giải quyết theo thẩm quyền. Hoặc người khởi kiện gửi đơn đến
Tòa án yêu cầu giải quyết tranh chấp nhưng ghi là đơn khiếu nại...
Những trường hợp này đơn không đảm bảo về hình thức và nội dung
của đơn khởi kiện, do đó Tòa án phải hướng dẫn cho họ thực hiện đúng
theo quy định của BLTTDS.
Thẩm phán đối chiếu địa chỉ của người bị kiện; người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan; đối tượng tranh chấp, yêu cầu khởi kiện trình
bày trong nội dung đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ người khởi
kiện nộp kèm theo để kiểm tra điều kiện về thẩm quyền của Tòa án.

69
Trong đơn khởi kiện có yêu cầu hủy quyết định cá biệt, Thẩm phán cần
có kỹ năng nhận biết quyết định yêu cầu hủy có phải là quyết định cá
biệt không? Quyết định cá biệt có thể bị Tòa án tuyên hủy vì rõ ràng
trái pháp luật là các quyết định thuộc đối tượng có thể bị khiếu kiện
theo quy định của Luật Tố tụng hành chính 2015. Quyết định cá biệt
rõ ràng trái pháp luật khi quyết định đó được ban hành không đúng
thẩm quyền, trình tự, thủ tục hoặc nội dung do pháp luật quy định, xâm
phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự
mà Tòa án đang có nhiệm vụ giải quyết; có ảnh hưởng trực tiếp đến
kết quả giải quyết vụ việc dân sự đó. Đồng thời, Thẩm phán cần kiểm
tra xem khi khởi kiện vụ án dân sự có yêu cầu hủy quyết định cá biệt
thì người khởi kiện vụ án dân sự đã khởi kiện vụ án hành chính hay
khiếu nại theo thủ tục hành chính về quyết định cá biệt đó hay chưa?
Trong trường hợp họ không khởi kiện vụ án hành chính hay khiếu nại
theo thủ tục hành chính thì Tòa án mới xem xét yêu cầu hủy quyết
định cá biệt đó trong cùng một vụ án dân sự. Nếu khi khởi kiện vụ án
dân sự có một người khởi kiện nhưng họ vừa có yêu cầu hủy quyết
định cá biệt vừa khiếu nại theo thủ tục hành chính và khởi kiện vụ án
hành chính thì Thẩm phán phải yêu cầu người khởi kiện làm văn bản
lựa chọn một trong ba loại tài phán đó. Trường hợp quyết định cá biệt
có liên quan đến nhiều người mà có người khởi kiện vụ án dân sự, có
người có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại,
có người khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền thì Toà
án có văn bản yêu cầu các đương sự thỏa thuận bằng văn bản lựa chọn
thủ tục tố tụng giải quyết đối với quyết định cá biệt để khẳng định việc
sẽ tiếp tục khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại hay
khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án có thẩm quyền hoặc đề nghị giải
quyết trong vụ án dân sự.
Đối với tranh chấp về quyền sử dụng đất, nếu đất tranh chấp
không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy
tờ quy định tại Điều 100 Luật Đất đai 2013 thì người khởi kiện được
lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai là nộp
đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm

70
quyền hoặc khởi kiện vụ án dân sự (Điều 203 Luật Đất đai 2013). Do
đó, trước khi thụ lý vụ án dân sự Thẩm phán cần kiểm tra, xác định rõ
người khởi kiện có yêu cầu Ủy ban nhân dân có thẩm quyền giải quyết
đồng thời khởi kiện ra Tòa án không hoặc đã có kết quả giải quyết của
Ủy ban nhân dân chưa. Tòa án chỉ thụ lý vụ án khi sự việc chưa được
Ủy ban nhân dân giải quyết và người khởi kiện chỉ khởi kiện vụ án
dân sự.
Trường hợp các bên tranh chấp vừa có thỏa thuận trọng tài, vừa
có thỏa thuận Tòa án là cơ quan giải quyết tranh chấp mà các bên
không có thỏa thuận lại hoặc thỏa thuận mới về cơ quan có thẩm quyền
giải quyết tranh chấp và không thuộc trường hợp Tòa án có thẩm quyền
giải quyết khi có thỏa thuận trọng tài thì thực hiện theo hướng dẫn tại
khoản 4 Điều 2 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/3/2014
của HĐTP TANDTC như sau: (i) Trường hợp người khởi kiện yêu cầu
Trọng tài giải quyết trước khi yêu cầu Tòa giải quyết hoặc trước khi
Tòa thụ lý thì Tòa phải từ chối. Khi nhận được đơn khởi kiện, Tòa phải
trả lại đơn khởi kiện. (ii) Trường hợp người khởi kiện yêu cầu Tòa giải
quyết, Tòa án phải xác định một trong các bên đã yêu cầu Trọng tài
giải quyết hay chưa. Nếu Tòa án xác định người bị kiện, người khởi
kiện đã yêu cầu Trọng tài giải quyết thì trả lại đơn cho người khởi kiện.
Trường hợp người khởi kiện chưa yêu cầu Trọng tài giải quyết thì Tòa
xem xét thụ lý giải quyết theo thủ tục chung.
Về điều kiện khởi kiện do pháp luật quy định khi người chồng
khởi kiện xin ly hôn, quá trình xem xét đơn khởi kiện và tài liệu, chứng
cứ kèm theo, Thẩm phán cần xác định thông tin về tình trạng mang thai
hoặc sinh con, nuôi con dưới 12 tháng tuổi của người vợ, tránh thụ lý
vụ án khi người chồng bị hạn chế quyền khởi kiện. Khoản 3 Điều 51
Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định: “Chồng không có quyền
yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh hoặc đang nuôi
con dưới 12 tháng tuổi”. Đối với việc khởi kiện yêu cầu phân chia di
sản thừa kế Thẩm phán cần kiểm tra, xác định những người thừa kế có
thỏa thuận việc chia di sản sau một thời hạn không hoặc việc chia di
sản có ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng

71
còn sống và gia đình không. Việc chia di sản thừa kế có ảnh hưởng
nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia
đình là trường hợp người chết có để lại di sản, nhưng nếu đem di sản
này chia cho những người thừa kế được hưởng thì vợ hoặc chồng còn
sống và gia đình gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống như: không
có chỗ ở, mất nguồn tư liệu sản xuất duy nhất... Khi xác định thuộc
trường hợp hạn chế phân chia di sản, Thẩm phán cần giải thích cho
người có yêu cầu chia di sản thừa kế biết là họ mới chỉ có quyền yêu
cầu xác định phần di sản mà họ được hưởng và quyền yêu cầu chia di
sản họ chỉ có sau một thời hạn nhất định. Nếu họ có yêu cầu xác định
phần di sản mà họ được hưởng thì Toà án thụ lý để giải quyết nếu bảo
đảm điều kiện thụ lý.
Ví dụ:
Anh C và chị D kết hôn hợp pháp, trong quá trình chung sống,
vợ chồng anh chị tạo lập được ngôi nhà có diện tích 30m2 trên diện
tích 30m2 đất. Sau khi sinh được một người con thì anh C bị chết và
không để lại di chúc. Thời điểm anh C chết, người con chung của
vợ chồng anh chị chưa thành niên, chị D lại thường xuyên ốm đau,
sức khỏe yếu, thu nhập không ổn định. Bố mẹ của anh C yêu cầu
chia di sản do anh C để lại. Chị D và con không có chỗ ở nào khác,
trong khi đó ngôi nhà này nếu chia bằng hiện vật thì không bảo đảm
cho việc sinh hoạt tối thiểu của chị D và con; nếu buộc chị D phải
thanh toán bằng tiền phần thừa kế mà bố mẹ anh C được hưởng thì
chị D cũng không có khả năng. Trong trường hợp này việc chia di
sản thừa kế phần nhà của anh C trong ngôi nhà có diện tích 30m2 sẽ
ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của chị D và con nên thuộc
trường hợp hạn chế phân chia di sản thừa kế của anh C.
Tranh chấp đất đai có nhiều loại, do đó Thẩm phán cần có kỹ
năng phân biệt các loại tranh chấp để thụ lý vụ án đúng pháp luật. Đối
với tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất mà chưa tiến hành
hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp
theo quy định tại Điều 202 của Luật Đất đai 2013 thì được xác định
là chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định tại điểm b khoản 1

72
Điều 192 BLTTDS 2015. Các tranh chấp khác liên quan đến quyền sử
dụng đất như: tranh chấp về giao dịch có đối tượng là quyền sử dụng
đất, tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất, chia tài sản chung của vợ
chồng là quyền sử dụng đất… thì thủ tục hòa giải tại Ủy ban nhân dân
xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp không phải là điều kiện khởi
kiện vụ án dân sự.
Khi thụ lý giải quyết tranh chấp lao động cá nhân thuộc loại bắt
buộc phải hòa giải, Thẩm phán cần lưu ý kiểm tra xem việc hòa giải
tranh chấp lao động cá nhân do hòa giải viên lao động hòa giải có được
tiến hành khi còn trong thời hiệu yêu cầu hòa giải là 06 tháng, kể từ
ngày phát hiện ra hành vi mà mỗi bên tranh chấp cho rằng quyền, lợi
ích hợp pháp của mình bị vi phạm không?1.
Đối với điều kiện người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí,
xác định người có nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí, những trường
hợp người khởi kiện không phải nộp, được miễn nộp tiền tạm ứng án
phí và dự tính số tiền tạm ứng án phí là những kỹ năng quan trọng
của Thẩm phán. Xác định người khởi kiện có nghĩa vụ phải nộp tiền
tạm ứng án phí cũng như mức tiền tạm ứng án phí căn cứ vào nội
dung tranh chấp, đối tượng tranh chấp, phạm vi yêu cầu của người
khởi kiện cũng như các quy định của pháp luật về án phí, cụ thể là các
điều: 143, 146, 147 BLTTDS 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức
thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Căn cứ trên cơ sở tính chất của vụ án dân sự khác nhau pháp
luật quy định hai loại án phí dân sự sơ thẩm khác nhau: Án phí dân
sự sơ thẩm đối với vụ án dân sự không có giá ngạch và án phí dân
sự sơ thẩm đối với vụ án dân sự có giá ngạch. Vụ án dân sự không
có giá ngạch là vụ án mà trong đó yêu cầu của đương sự không phải
là một số tiền hoặc không thể xác định được giá trị bằng một số tiền
cụ thể nên pháp luật quy định một mức án phí dân sự sơ thẩm chung

1
Xem: Khoản 1 Điều 202 Bộ luật Lao động 2012.

73
đối với vụ án dân sự không có giá ngạch1. Các vụ án dân sự không
có giá ngạch là các vụ án ly hôn không có yêu cầu chia tài sản, yêu
cầu cấp dưỡng trong các vụ án ly hôn, tranh chấp về đòi tài sản cho
mượn, cho ở nhờ... Vụ án dân sự có giá ngạch là vụ án mà trong đó
yêu cầu của đương sự là một số tiền hoặc là tài sản có thể xác định
được bằng một số tiền cụ thể nên mức án phí đối với vụ án dân sự có
giá ngạch. Tùy vào tính chất của từng loại tranh chấp (dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động) mà mức án phí
dân sự sơ thẩm khởi điểm đối với mỗi loại vụ án dân sự là khác nhau
(Danh mục mức án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14).
Cách tính tiền tạm ứng án phí: Thẩm phán được phân công xem
xét việc thụ lý vụ án có trách nhiệm xác định số tiền tạm ứng án phí
người khởi kiện phải nộp. Vụ án dân sự không có giá ngạch, người
khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm bằng mức án
phí dân sự sơ thẩm.
Đối với vụ án dân sự có giá ngạch, người khởi kiện phải nộp tiền
tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm bằng 50% mức án phí dân sự sơ thẩm
thì Thẩm phán dự tính theo giá trị tài sản có tranh chấp mà họ yêu cầu
giải quyết. Thông thường, Thẩm phán căn cứ vào đơn khởi kiện, phạm
vi yêu cầu và các tài liệu, chứng cứ kèm theo để xác định số tiền tạm
ứng án phí mà người khởi kiện phải nộp. Tuy nhiên không phải trường
hợp nào cũng có thể dễ dàng xác định được số tiền tạm ứng án phí cụ
thể, nhất là các tranh chấp tài sản cần xác định giá trị. Trong trường
hợp như vậy, Thẩm phán tính tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm theo
các căn cứ sau:
- Giá tài sản theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
- Bảng giá của các tổ chức thẩm định giá.
- Giá tài sản tại thị trường địa phương.

1
Hiện nay, theo quy định của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 thì mức án phí đối với vụ án dân
sự không có giá ngạch là 300.000 đồng.

74
Trong trường hợp không thể xác định được theo các căn cứ trên,
Thẩm phán soạn thảo công văn gửi cơ quan tài chính, cơ quan chuyên
môn khác đề nghị có ý kiến về việc xác định giá tài sản. Nếu tài sản
tranh chấp là hiện vật, Thẩm phán cần yêu cầu người khởi kiện tự xác
định giá trị tài sản, kiểm tra, xem xét nếu phù hợp với giá thị trường và
quy định của pháp luật thì Thẩm phán chấp nhận, nếu không phù hợp
Thẩm phán phải xác định lại theo căn cứ nêu trên. Trường hợp vụ án có
nhiều người khởi kiện mà mỗi người khởi kiện có yêu cầu độc lập thì
từng người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí theo yêu cầu riêng
của họ; nếu tất cả người khởi kiện cùng chung một yêu cầu thì họ phải
nộp chung tiền tạm ứng án phí.
Xác định các trường hợp không phải nộp tiền tạm ứng án phí,
Thẩm phán căn cứ yêu cầu khởi kiện, quan hệ pháp luật tranh chấp và
quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14. Đối với trường hợp
người khởi kiện được miễn nộp tiền tạm ứng án phí (miễn nộp toàn bộ
hoặc một phần tiền tạm ứng án phí) Thẩm phán kiểm tra đơn đề nghị
miễn nộp tiền tạm ứng án phí và các tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn
của người khởi kiện, đối chiếu với các quy định của pháp luật về án
phí Tòa án để quyết định chấp nhận việc miễn nộp tiền tạm ứng án phí.
Đơn đề nghị miễn nộp tiền tạm ứng án phí có đầy đủ các nội dung theo
quy định của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14. Nộp kèm theo
đơn là các tài liệu, chứng cứ chứng minh thuộc trường hợp được miễn
theo quy định của pháp luật. Đơn đề nghị miễn nộp một phần tiền tạm
ứng án phí phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
nơi người khởi kiện cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người khởi kiện
làm việc đối với trường hợp người có khó khăn về kinh tế.
Sau khi xác định nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm và
dự tính số tiền tạm ứng án phí, Thẩm phán ghi vào phiếu báo và giao
cho người khởi kiện để họ nộp tiền tạm ứng án phí (khoản 2 Điều 195
BLTTDS 2015). Trong phiếu báo phải ấn định thời hạn trong vòng 07
ngày, kể từ ngày nhận được giấy báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm
ứng án phí, người khởi kiện phải nộp tiền án phí tại cơ quan thi hành
án cùng cấp và nộp cho Tòa án biên lai thu tiền tạm ứng án phí. Như

75
vậy, cùng với thông báo nộp tiền tạm ứng án phí thì Thẩm phán phải
có phiếu báo ghi số tiền tạm ứng án phí để người khởi kiện làm căn
cứ nộp tại cơ quan thi hành án dân sự. Thẩm phán sử dụng mẫu thông
báo nộp tiền tạm ứng án phí do TANDTC ban hành. Trong trường hợp
người khởi kiện không nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí cho Tòa án
trong thời hạn quy định mà họ chứng minh được do có trở ngại khách
quan, sự kiện bất khả kháng thì thời gian đó không tính vào thời hạn
nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí cho Tòa án (điểm d khoản 1 Điều 192
BLTTDS 2015). Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh
khách quan tác động như: thiên tai, địch họa, nhu cầu chiến đấu, phục
vụ chiến đấu. Bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan
không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã
áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép. Ví dụ: do ốm
đau, tai nạn phải điều trị tại bệnh viện... nằm ngoài tầm kiểm soát của
người khởi kiện nên họ không thể thực hiện được việc nộp tiền tạm
ứng án phí đúng thời hạn pháp luật quy định. Vì vậy, về nguyên tắc
khi người khởi kiện nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí quá thời hạn,
Thẩm phán phải kiểm tra văn bản giải trình việc nộp chậm và tài liệu,
chứng cứ chứng minh sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan.
b) Thụ lý vụ án dân sự
Sau khi kiểm tra, xác định đủ điều kiện thụ lý, Thẩm phán tiến
hành thủ tục thụ lý vụ án dân sự bằng cách vào sổ thụ lý. Việc vào sổ
thụ lý vụ án có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định trách nhiệm của
Tòa án đối với việc giải quyết vụ án, là căn cứ để tính thời hạn chuẩn
bị xét xử vụ án dân sự cũng như xác định tính hợp pháp của hoạt động
xác minh, thu thập chứng cứ xây dựng hồ sơ vụ án của Thẩm phán.
Tùy thuộc loại tranh chấp là tranh chấp dân sự, kinh doanh, thương
mại, lao động, hôn nhân và gia đình mà Thẩm phán tiến hành vào sổ
thụ lý vụ án dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, hôn nhân và
gia đình.
Thẩm phán phải ghi đầy đủ các thông tin về vụ án vào sổ thụ
lý vụ án. Thông tin thứ nhất là ngày, tháng, năm vào sổ thụ lý. Ngày

76
vào sổ thụ lý chính là ngày thụ lý. Ngày thụ lý vụ án là ngày người
khởi kiện nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí cho Tòa án. Trường hợp
người khởi kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí
thì ngày thụ lý vụ án được xác định khi đủ các điều kiện thụ lý trừ điều
kiện nộp tiền tạm ứng án phí. Ngoài việc ghi ngày, tháng, năm, Thẩm
phán còn phải ghi vào sổ thụ lý và bìa hồ sơ vụ án theo quy định của
TANDTC các thông tin như quan hệ pháp luật tranh chấp; họ tên, địa
chỉ, năm sinh của người khởi kiện; họ tên, địa chỉ, năm sinh của người
bị kiện; họ tên, địa chỉ, năm sinh của người có có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan.
Ngoài ra, Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự không
chỉ nhận đơn khởi kiện của người khởi kiện mà còn nhận toàn bộ hồ sơ
vụ việc dân sự của Tòa án đã thụ lý không thuộc thẩm quyền chuyển
đến thì theo quy định tại khoản 4 Điều 190 BLTTDS thì Tòa án cũng
phải vào sổ thụ lý.
2.2.4. Trả lại đơn khởi kiện; giải quyết khiếu nại, kiến nghị về
việc trả lại đơn khởi kiện
a) Trả lại đơn khởi kiện
Trả lại đơn khởi kiện là hành vi tố tụng của Tòa án, theo đó Tòa
án trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo khi thiếu một
trong các điều kiện thụ lý vụ án. Những căn cứ trả lại đơn khởi kiện
quy định tại Điều 192 BLTTDS 2015. Thẩm phán kiểm tra điều kiện
thụ lý vụ án, đối chiếu với các căn cứ trả lại đơn khởi kiện để quyết
định việc trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người
khởi kiện. Nắm vững kỹ năng kiểm tra hồ sơ khởi kiện, xác định điều
kiện thụ lý vụ án là tiền đề để Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện chính
xác, đúng pháp luật. Khi trả lại đơn khởi kiện, Thẩm phán cần lưu ý các
trường hợp sau:
- Trả lại đơn khởi kiện trong trường hợp vụ án không thuộc thẩm
quyền giải quyết của Toà án. Thẩm phán chỉ trả lại đơn khởi kiện khi
yêu cầu khởi kiện không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Ngoài ra, Thẩm phán còn trả lại đơn khởi kiện khi cũng nội dung tranh

77
chấp, yêu cầu khởi kiện đó, cũng các đương sự đó nhưng đang được
Toà án khác xem xét, giải quyết. Đây là các loại tranh chấp nhiều Toà
án có thẩm quyền giải quyết, các bên tranh chấp đều khởi kiện ra Toà
án để yêu cầu giải quyết và một trong các Toà án có thẩm quyền đã
thụ lý, giải quyết vụ án. Toà án có thẩm quyền đã thụ lý đầu tiên theo
thời gian có thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự. Các Toà án khác nếu
chưa thụ lý thì căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 192 BLTTDS 2015 trả lại
đơn khởi kiện.
- Người khởi kiện không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện là trường
hợp họ đã nhận được văn bản của Toà án thông báo sửa đổi, bổ sung
đơn khởi kiện; bổ sung tài liệu, chứng cứ nhưng họ không tiến hành
sửa đổi, bổ sung theo yêu cầu của Toà án trong thời hạn quy định tại
khoản 2 Điều 193 BLTTDS 2015.
- Người khởi kiện rút đơn kiện, cần lưu ý đây là trường hợp
người khởi kiện rút đơn khởi kiện trước khi Toà án thụ lý vụ án. Đây
là căn cứ mới được quy định bổ sung trong BLTTDS 2015 trên nguyên
tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự. Khi người khởi kiện
rút đơn khởi kiện, Thẩm phán cần hướng dẫn họ làm đơn xin rút đơn
khởi kiện. Sau khi nhận đơn xin rút đơn khởi kiện, Thẩm phán lập
biên bản trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo cho
người khởi kiện.
Khi trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho
người khởi kiện Thẩm phán phải soạn thảo văn bản nêu rõ căn cứ
trả lại đơn khởi kiện và gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp. Thẩm phán
sử dụng mẫu thông báo trả lại đơn khởi kiện do TANDTC ban hành.
Trong thông báo trả lại đơn khởi kiện, Thẩm phán đánh giá, sử dụng
tài liệu, chứng cứ và viện dẫn các quy định của pháp luật tố tụng,
nội dung phân tích các căn cứ trả lại đơn khởi kiện. Các căn cứ trả
lại đơn khởi kiện cần lưu ý không có sự mâu thuẫn với nhau. Ví dụ:
căn cứ trả lại đơn khởi kiện không thể đồng thời vừa có căn cứ người
khởi kiện không có quyền khởi kiện, vừa có căn cứ chưa đủ điều kiện
khởi kiện.

78
Toà án có thể gửi đơn khởi kiện và toàn bộ tài liệu, chứng cứ kèm
theo qua đường bưu điện hoặc báo cho người khởi kiện biết để họ trực
tiếp đến Toà án nhận hoặc thông báo trên Cổng thông tin điện tử của
Tòa án (nếu có). Việc giao hoặc gửi thông báo phải có sổ theo dõi và
ký xác nhận việc đã nhận đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ của người
khởi kiện.
Đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ mà Thẩm phán trả lại cho
người khởi kiện phải được sao chụp và lưu tại Tòa án. Đây là quy định
mới của BLTTDS năm 2015, Thẩm phán cần lưu ý thực hiện, làm cơ
sở giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện.
b) Giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện
Khi người khởi kiện khiếu nại, Viện kiểm sát kiến nghị về việc
trả lại đơn khởi kiện thì sẽ mở ra quy trình giải quyết khiếu nại, kiến
nghị. Với quy định được bổ sung tại Điều 194 BLTTDS 2015, sau
khi nhận được đơn khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện,
không phải Thẩm phán đã ra thông báo trả lại đơn khởi kiện cho người
khởi kiện mà Thẩm phán khác do Chánh án Toà án phân công xem xét,
giải quyết khiếu nại, kiến nghị. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ
ngày được phân công, Thẩm phán phải tổ chức phiên họp xem xét giải
quyết khiếu nại, kiến nghị. Đây là một quy định mới so với quy định
tại Điều 170 BLTTDS 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011, bảo đảm tính
khách quan và minh bạch trong giải quyết khiếu nại, kiến nghị việc
trả lại đơn khởi kiện cũng như bảo đảm quyền tiếp cận công lý của
cá nhân, cơ quan, tổ chức. Phiên họp phải có sự tham gia của đại diện
Viện kiểm sát và đương sự khiếu nại, Thẩm phán là người điều hành
toàn bộ phiên họp. Do đó, trước khi mở phiên họp, Thẩm phán phải
thực hiện thủ tục gửi thông báo về việc mở phiên họp xét đơn khiếu
nại, văn bản kiến nghị để đương sự và đại diện Viện kiểm sát cùng cấp
biết được thời gian, địa điểm diễn ra phiên họp, bảo đảm quyền tham
gia phiên họp của đương sự, đại diện Viện kiểm sát. Đồng thời, Thẩm
phán chuẩn bị tài liệu, chứng cứ và văn bản pháp luật tố tụng, nội dung
cho việc tiến hành phiên họp. Do BLTTDS 2015 không có quy định

79
về hoãn phiên họp nên trường hợp đương sự khiếu nại vắng mặt, thì
Thẩm phán vẫn tiến hành phiên họp. Tại phiên họp, Thẩm phán điều
hành phiên họp theo đúng trình tự, thủ tục BLTTDS 2015 quy định.
Theo đó, đương sự và đại diện Viện kiểm sát được quyền phát biểu
ý kiến tại phiên họp. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có liên quan
đến việc trả lại đơn khởi kiện, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, của
đương sự có khiếu nại và quy định của pháp luật nếu xét thấy việc trả
lại đơn khởi kiện là có căn cứ, đúng pháp luật thì Thẩm phán ra quyết
định giữ nguyên việc trả lại đơn khởi kiện và thông báo cho đương sự,
Viện kiểm sát cùng cấp biết. Nếu thấy việc trả lại đơn khởi kiện không
đúng pháp luật, đủ điều kiện thụ lý vụ án thì Thẩm phán ra quyết định
nhận lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, tiến hành thủ
tục thụ lý vụ án.
Sau khi có quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị lần một về
việc trả lại đơn khởi kiện, trường hợp đương sự tiếp tục khiếu nại lên
Chánh án Tòa án trên một cấp, Thẩm phán thực hiện thủ tục chuyển hồ
sơ giải quyết khiếu nại lên Tòa án cấp trên. Quyết định giải quyết khiếu
nại, kiến nghị của Chánh án Tòa án trên một cấp có hiệu lực thi hành.
Quyết định của Chánh án Tòa án trên một cấp phải được gửi ngay cho
người khởi kiện, Viện kiểm sát cùng cấp, Viện kiểm sát đã kiến nghị và
Tòa án đã ra quyết định trả lại đơn khởi kiện. Trường hợp có căn cứ xác
định quyết định giải quyết khiếu nại của Chánh án Tòa án trên một cấp
trực tiếp nêu trên có vi phạm pháp luật thì trong thời hạn 10 ngày, kể từ
ngày nhận được quyết định, đương sự có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát
có quyền kiến nghị với Chánh án TAND cấp cao nếu quyết định bị khiếu
nại là của Chánh án TAND cấp tỉnh hoặc với Chánh án TANDTC nếu
quyết định bị khiếu nại, kiến nghị là của Chánh án TAND cấp cao. Trong
thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị của đương
sự, kiến nghị của Viện kiểm sát thì Chánh án phải giải quyết. Quyết định
của Chánh án là quyết định cuối cùng.
2.2.5. Chuyển đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho
Tòa án khác có thẩm quyền giải quyết
Chuyển đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho Tòa án

80
khác có thẩm quyền giải quyết quy định tại điểm c khoản 3 Điều 191
BLTTDS 2015. Theo nội dung quy định này, Thẩm phán được phân
công xem xét đơn khởi kiện chỉ quyết định chuyển đơn khởi kiện và
tài liệu, chứng cứ kèm theo cho Tòa án khác có thẩm quyền giải quyết
khi người khởi kiện có đủ điều kiện khởi kiện, nhưng tranh chấp đó
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác (theo cấp, theo lãnh
thổ). Thủ tục chuyển đơn khởi kiện được thực hiện theo quy định tại
Điều 41, điểm c khoản 3 Điều 191 BLTTDS 2015. Theo đó, Toà án
phải ra quyết định chuyển đơn khởi kiện cho Toà án có thẩm quyền.
Quyết định này phải được gửi ngay cho đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ
chức có liên quan. Thẩm phán phải liệt kê danh mục tài liệu, chứng cứ,
đánh số thứ tự và phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng
cấp và người khởi kiện biết để họ thực hiện quyền kiến nghị, khiếu nại
theo quy định của pháp luật. Kèm theo quyết định chuyển đơn khởi
kiện là toàn bộ hồ sơ khởi kiện phải được gửi chuyển đến Tòa án có
thẩm quyền giải quyết.
Thực tiễn thụ lý vụ án dân sự cho thấy, có trường hợp Tòa án trả
lại đơn khởi kiện và hướng dẫn người khởi kiện nộp đơn tại Tòa án có
thẩm quyền khi tranh chấp thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện
khác, hoặc vụ án có đương sự ở nước ngoài thuộc thẩm quyền của Tòa
án cấp tỉnh là chưa đúng quy định của pháp luật. Đây là những trường
hợp Tòa án phải “chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền”
nên trong các trường hợp trên, Tòa án phải nhận đơn khởi kiện, tài liệu,
chứng cứ kèm theo. Sau khi Thẩm phán được phân công xem xét đơn
khởi kiện kiểm tra, xác định không thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án mình thì phải thực hiện thủ tục chuyển đơn khởi kiện.
2.3. Kỹ năng kiểm sát việc thụ lý vụ án dân sự của Kiểm sát viên
Kiểm sát việc thụ lý vụ án dân sự; kinh doanh, thương mại; lao
động (viết tắt là vụ án dân sự) là một hoạt động nghiệp vụ quan trọng
của Viện kiểm sát trong công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân
sự. Kiểm sát viên thực hiện kiểm sát việc thụ lý vụ án dân sự căn cứ
quy định của BLTTDS 2015, hướng dẫn cụ thể tại Thông tư liên tịch

81
số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016 của Viện kiểm
sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao quy định việc phối
hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân trong việc thi
hành một số quy định của BLTTDS (viết tắt là Thông tư liên tịch số
02/2016/TTLT) và Quy chế công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ
việc dân sự (viết tắt là Quy chế KSDS) ban hành kèm theo Quyết định
số 364/QĐ-VKSTC ngày 02/10/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao.
Kỹ năng của Kiểm sát viên trong kiểm sát thụ lý vụ án dân sự
bao gồm các hoạt động nghiệp vụ cơ bản sau: Kiểm sát hoạt động thụ
lý vụ án; kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện và kiểm sát việc chuyển
đơn khởi kiện.
2.3.1. Kiểm sát hoạt động thụ lý vụ án
Khi tiến hành kiểm sát hoạt động thụ lý vụ án, Kiểm sát viên
thực hiện việc kiểm sát thông báo thụ lý vụ án của Tòa án, trên cơ sở
đó kiểm tra, đánh giá điều kiện thụ lý vụ án của Tòa án từ đó kết luận
việc thụ lý vụ án đúng hay không đúng pháp luật, đồng thời tiến hành
lập phiếu kiểm sát thông báo thụ lý vụ án và các hoạt động nghiệp vụ
khác. Để thực hiện tốt hoạt động kiểm sát việc thụ lý vụ án của Tòa
án, Kiểm sát viên cần nắm vững điều kiện thụ lý vụ án dân sự, các quy
định của pháp luật nội dung và tố tụng về thụ lý vụ án dân sự.
a) Kiểm sát thông báo thụ lý vụ án
Theo quy định tại Điều 196 BLTTDS 2015, trong thời hạn 3 ngày
làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán phải thông báo bằng văn
bản cho nguyên đơn, bị đơn, cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ án, cho Viện kiểm sát cùng
cấp. Như vậy, hoạt động kiểm sát thông báo thụ lý vụ án dân sự được
xác định từ khi Tòa án gửi văn bản thông báo thụ lý vụ án dân sự cho
Viện kiểm sát.
Khi nhận được thông báo thụ lý vụ án dân sự do Tòa án chuyển
đến, trước hết cán bộ Viện kiểm sát được giao nhiệm vụ phải vào sổ

82
thụ lý giải quyết tranh chấp dân sự sau đó báo cáo Lãnh đạo Viện
kiểm sát phân công Kiểm sát viên phụ trách việc kiểm sát giải quyết
vụ án dân sự. Kiểm sát viên được phân công kiểm sát giải quyết vụ
án dân sự thực hiện các kỹ năng nghiệp vụ như: kiểm sát thông báo
thụ lý vụ án dân sự; lập phiếu kiểm sát thông báo thụ lý; xác định vi
phạm tổng hợp kiến nghị với Tòa án và báo cáo Lãnh đạo Viện kiểm
sát phụ trách công tác kiểm sát vụ án dân sự ra văn bản kiến nghị
yêu cầu Tòa án khắc phục vi phạm theo quy định tại khoản 1 Điều 21
BLTTDS (nếu văn bản thông báo thụ lý việc dân sự của Tòa án có vi
phạm pháp luật).
Khi kiểm sát thông báo thụ lý vụ án dân sự, Kiểm sát viên cần
kiểm tra về hình thức và nội dung của thông báo thụ lý vụ án. Căn
cứ để Kiểm sát viên thực hiện kỹ năng này là quy định tại Điều 196
BLTTDS 2015 và mẫu thông báo thụ lý vụ án dân sự do TANDTC ban
hành. Về nội dung, Kiểm sát viên cần chú ý xác định xem nội dung
thông báo thụ lý vụ án dân sự Tòa án gửi sang Viện kiểm sát có đầy
đủ các nội dung theo quy định của Điều 196 BLTTDS 2015 không.
Khoản 2 Điều 196 BLTTDS 2015 quy định thông báo thụ lý phải có
đầy đủ các nội dung chính sau:
- Ngày, tháng, năm làm văn bản thông báo;
- Tên, địa chỉ Tòa án đã thụ lý vụ án;
- Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của
ng­ười khởi kiện;
- Những vấn đề cụ thể của ng­ười khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết;
- Vụ án được thụ lý theo thủ tục thông thường hay thủ tục rút gọn;
- Danh mục tài liệu, chứng cứ ngư­ời khởi kiện nộp kèm theo đơn
khởi kiện;
- Thời hạn bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải có
ý kiến bằng văn bản nộp cho Tòa án đối với yêu cầu của người khởi
kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập
(nếu có);

83
- Hậu quả pháp lý của việc bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan không nộp cho Tòa án văn bản về ý kiến của mình đối với
yêu cầu khởi kiện.
Theo quy định của BLTTDS 2015, trong giai đoạn này, Tòa án
chỉ có trách nhiệm gửi cho Viện kiểm sát thông báo thụ lý vụ án với
các nội dung như trên mà không phải gửi đơn khởi kiện và các tài liệu,
chứng cứ kèm theo. Điều này dẫn đến kiểm sát việc thụ lý vụ án dân
sự có sự khó khăn. Tuy nhiên, cần lưu ý trên cơ sở các tài liệu, chứng
cứ do đương sự cung cấp khi họ có khiếu nại về việc thụ lý vụ án của
Tòa án và thông tin từ các nguồn khác, Kiểm sát viên thực hiện kiểm
sát thông báo thụ lý. Trước hết, Kiểm sát viên cần nghiên cứu kỹ các
nội dung trong thông báo thụ lý vụ án, đặc biệt là những vấn đề cụ thể
người khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết, danh mục tài liệu, chứng
cứ gửi kèm theo đơn khởi kiện; tên, địa chỉ của người khởi kiện; người
bị kiện. Trên cơ sở đó, Kiểm sát viên mới có thể thực hiện hoạt động
kiểm sát việc thông báo thụ lý vụ án chính xác, đúng pháp luật. Nghiên
cứu yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Kiểm sát viên cần đối chiếu
với danh mục tài liệu, chứng cứ nguyên đơn nộp kèm theo đơn khởi
kiện để xác định việc Tòa án thụ lý yêu cầu đó là đúng hay không đúng
pháp luật; yêu cầu đó là gì, phạm vi yêu cầu như thế nào, có sự phù
hợp với chứng cứ nộp kèm theo đơn khởi kiện không. Việc nghiên cứu
các nội dung trên bước đầu giúp Kiểm sát viên xác định được quan hệ
pháp luật tranh chấp, đánh giá điều kiện thụ lý vụ án nhằm phát hiện
kịp thời các vi phạm trong việc thụ lý của Tòa án.
Ví dụ:
Trong thông báo thụ lý vụ án dân sự, Tòa án huyện Y gửi Viện
kiểm sát huyện Y, tại mục “Những vấn đề cụ thể của ng­ười khởi
kiện yêu cầu Tòa án giải quyết” ghi: buộc ông Nguyễn Văn B và
bà Lê Thị N phải trả lại quyền sử dụng 100 m2 đất tại thửa số..., tờ
bản đồ số ..., xóm T, xã N, huyện Y...” nhưng tại mục “danh mục
tài liệu, chứng cứ ngư­ời khởi kiện nộp kèm theo đơn khởi kiện” lại
không có biên bản hòa giải tranh chấp đất đai của Ủy ban nhân
dân xã N. Tòa án huyện N đã thụ lý vụ án là không đúng quy định

84
tại điểm b khoản 1 Điều 192 BLTTDS 2015. Trong trường hợp
này, Kiểm sát viên căn cứ quy định của điểm g khoản 1 Điều 217
BLTTDS 2015 yêu cầu Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vì
chưa có đủ điều kiện khởi kiện.
Thực tiễn kiểm sát thông báo thụ lý vụ án dân sự cho thấy, nhiều
thông báo thụ lý vụ án gửi cho Viện kiểm sát, Tòa án ghi yêu cầu khởi
kiện một cách chung chung, không cụ thể hoặc không ghi địa chỉ của
người bị kiện... Đây cũng là những thiếu sót trong việc thông báo thụ
lý của Tòa án, Kiểm sát viên cần ghi chép, tổng hợp các thiếu sót, vi
phạm này là cơ sở kiến nghị, yêu cầu Tòa án khắc phục vi phạm. Đồng
thời với việc nghiên cứu thông báo thụ lý vụ án, Kiểm sát viên cần đối
chiếu ngày, tháng, năm gửi thông báo với thời hạn thụ lý vụ án quy
định tại khoản 1 Điều 196 BLTTDS 2015 (03 ngày làm việc, kể từ
ngày thụ lý vụ án) để xác định Tòa án có vi phạm thời hạn gửi thông
báo hay không.
Sau khi nghiên cứu thông báo thụ lý vụ án dân sự, Kiểm sát viên
phân tích, đánh giá thấy có các vi phạm như: vi phạm về thời hạn gửi
thông báo; nội dung, hình thức thông báo cần tập hợp các vi phạm để
báo cáo lãnh đạo Viện kiểm sát xem xét việc kiến nghị, yêu cầu Tòa án
thực hiện theo quy định của pháp luật, khắc phục vi phạm. Khi soạn thảo
văn bản kiến nghị, Kiểm sát viên sử dụng mẫu văn bản kiến nghị do
VKSNDTC ban hành. Trong nội dung văn bản kiến nghị cần nêu rõ Tòa
án đã vi phạm quy định nào của BLTTDS 2015 cần rút kinh nghiệm.
Cùng với kiến nghị khắc phục vi phạm (nếu có), Kiểm sát viên
thực hiện việc lập phiếu kiểm sát thông báo thụ lý vụ án dân sự, gửi
cho Tòa án. Hình thức và nội dung phiếu kiểm sát thông báo thụ lý vụ
án dân sự Kiểm sát viên soạn theo mẫu do VKSNDTC ban hành.
Khi kiểm sát việc thông báo thụ lý vụ án dân sự của Tòa án, Kiểm
sát viên cần lưu ý trường hợp vụ án đã đ­ược thụ lý và thông báo cho
Viện kiểm sát, nhưng sau đó lại đ­ược chuyển cho Tòa án khác có thẩm
quyền giải quyết theo quy định tại khoản 1 Điều 41 BLTTDS 2015.
Trường hợp này, Tòa án đã thụ lý vụ án dân sự gửi ngay quyết định

85
chuyển hồ sơ vụ án dân sự cho Viện kiểm sát cùng cấp để Viện kiểm
sát thực hiện hoạt động kiểm sát.
b) Kiểm tra điều kiện thụ lý vụ án dân sự
Về nguyên tắc, Kiểm sát viên chỉ có thể thực hiện được hoạt
động kiểm tra, đánh giá điều kiện thụ lý vụ án dân sự của Tòa án khi
được nghiên cứu toàn bộ hồ sơ khởi kiện vụ án dân sự. Tuy nhiên,
BLTTDS 2015 quy định Tòa án phải gửi văn bản thông báo thụ lý vụ
án cho Viện kiểm sát mà không có quy định Tòa án phải gửi cho Viện
kiểm sát hồ sơ khởi kiện để Viện kiểm sát thực hiện hoạt động kiểm
tra, đánh giá điều kiện thụ lý vụ án. Việc tiếp cận hồ sơ khởi kiện của
Kiểm sát viên chỉ xảy ra trong trường hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện
mà Viện kiểm sát cần xem xét kiến nghị việc trả lại đơn khởi kiện,
hoặc khi người khởi kiện có khiếu nại về việc Tòa án trả lại đơn khởi
kiện của họ mà người khởi kiện gửi đơn khiếu nại về việc trả lại đơn
khởi kiện đến cả Tòa án và Viện kiểm sát. Điều này dẫn đến những khó
khăn cho Kiểm sát viên trong hoạt động kiểm tra, đánh giá điều kiện
thụ lý vụ án dân sự nói riêng và kiểm sát thụ lý vụ án dân sự nói chung.
Tuy nhiên, thông qua hoạt động kiểm sát thông báo thụ lý vụ án
dân sự và các hoạt động nghiệp vụ khác để Kiểm sát viên kiểm tra,
đánh giá điều kiện thụ lý vụ án dân sự. Để thực hiện tốt hoạt động
kiểm tra, đánh giá điều kiện thụ lý vụ án dân sự, Kiểm sát viên phải
nắm vững điều kiện thụ lý vụ án dân sự đã được trình bày tại mục 1.2
của chương này. Kiểm sát viên cần rà soát từng điều kiện thụ lý vụ
án, từ đó kết luận việc Tòa án thụ lý đúng hay không đúng pháp luật.
Qua việc kiểm tra, đánh giá điều kiện thụ lý nếu phát hiện các vi phạm
của Tòa án trong việc thụ lý vụ án như thụ lý sai thẩm quyền (vụ án
thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác hoặc của Tòa
án khác theo cấp, theo lãnh thổ), hay người khởi kiện không có quyền
khởi kiện hoặc chưa đủ điều kiện khởi kiện... Kiểm sát viên cần báo
cáo lãnh đạo Viện kiểm sát yêu cầu Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án.
Yêu cầu của Viện kiểm sát thể hiện bằng văn bản theo mẫu chung về
văn bản yêu cầu do VKSNDTC ban hành.

86
Ví dụ:
Ngày 20/11/2009, vợ chồng ông Lã Hồng Đ và bà Giáp Thị Đ
có nhờ anh Nguyễn Văn T mua hộ 1 lô đất. Do biết ông Nguyễn
Xuân M có nhu cầu bán đất và ông M đang nợ anh T số tiền
163.000.000 đồng nên ba bên có thỏa thuận với nhau theo đó ông
M đồng ý chuyển nhượng 96m2 đất thuộc thửa số 57, tờ bản đồ số
26 và nhà trên đất thuộc thôn CN1, phường TX, thành phố BG với
giá 163.000.000 đồng (Một trăm sáu mươi ba triệu đồng) cho vợ
chồng ông Đ, bà Đ và vợ chồng ông Đ, bà Đ sẽ trả luôn số tiền
163.000.000 đồng cho anh T. Thực hiện hợp đồng, vợ chồng ông
Đ, bà Đ đã trả cho ông T 163.000.000 đồng nhưng ông M chưa
bàn giao nhà đất do đất đang có tranh chấp. Sau nhiều lần yêu cầu
ông M thực hiện việc bàn giao đất nhưng ông M trốn tránh, không
chịu thực hiện nghĩa vụ theo thỏa thuận, ngày 10/4/2012, vợ chồng
ông Đ, bà Đ làm đơn khởi kiện gửi TAND thành phố BG với yêu
cầu ông M trả lại 163.000.000 đồng từ giấy vay của ông T chuyển
sang và tiền lãi của 163.000.000 đồng. Ngày 14/5/2012, TAND
thành phố BG có thông báo thụ lý số 32/TB-TLVA theo đó Tòa án
xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là tranh chấp hợp đồng vay
tài sản và kèm theo đơn khởi kiện là tài liệu, chứng cứ sau: giấy
biên nhận vay tiền giữa anh T và ông M và giấy giao kèo bán đất
giữa ông M và vợ chồng ông Đ, bà Đ.
Việc Tòa án thụ lý vụ án và xác định quan hệ pháp luật tranh
chấp như trên là không đúng do người khởi kiện không có quyền
khởi kiện đối với quan hệ vay giữa ông M và anh T (không
phải là bên có quyền và lợi ích bị xâm phạm theo quy định tại
Điều 186 BLTTDS).
Việc kiểm tra, đánh giá điều kiện thụ lý vụ án ở giai đoạn này
ngoài mục đích thực hiện tốt hoạt động kiểm sát việc thụ lý vụ án dân
sự của Tòa án đồng thời còn là cơ sở để Kiểm sát viên thực hiện tốt các
hoạt động nghiệp vụ tiếp theo như kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện
của Tòa án. Mặt khác, kiểm tra đánh giá điều kiện thụ lý vụ án cũng
giúp Kiểm sát viên chuẩn bị tốt cho bài phát biểu khi thực hiện hoạt

87
động kiểm sát tại phiên tòa sơ thẩm. Ngoài ra, trong trường hợp phát
hiện có vi phạm nghiêm trọng về mặt tố tụng trong quá trình thụ lý vụ
án của Tòa án, Viện kiểm sát đã có văn bản yêu cầu Tòa án thực hiện
theo đúng quy định của pháp luật nhưng Tòa án không thực hiện thì
đây cũng là căn cứ để Viện kiểm sát thực hiện hoạt động kháng nghị
đối với bản án sơ thẩm.
Hoạt động kiểm tra, đánh giá các điều kiện khởi kiện, điều kiện
thụ lý vụ án dân sự gắn liền với kỹ năng nghiên cứu, kiểm tra đơn khởi
kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo. Kỹ năng kiểm tra đơn khởi kiện và
tài liệu, chứng cứ kèm theo Kiểm sát viên thực hiện giống như Thẩm
phán. Kỹ năng nghiên cứu, kiểm tra đơn khởi kiện và tài liệu, chứng
cứ kèm theo đã được trình bày tại mục 2.2.1 của chương này.
2.3.2. Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện
Trả lại đơn khởi kiện vụ án dân sự không đúng pháp luật ảnh
hưởng đến quyền lợi hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức có tranh
chấp, không bảo đảm quyền được tiếp cận công lý của họ. Chính vì
vậy, BLTTDS 2015 đã quy định chặt chẽ về trả lại đơn khởi kiện và
sửa đổi, bổ sung các quy định về khiếu nại, kiến nghị và giải quyết
khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện. Điều này đặt ra yêu
cầu đòi hỏi Kiểm sát viên, Kiểm tra viên được phân công phải kiểm sát
chặt chẽ việc trả lại đơn khởi kiện. Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện
của Tòa án, Kiểm sát viên thực hiện hai kỹ năng cơ bản, đó là: Kiểm
sát căn cứ trả lại đơn khởi kiện và tham gia phiên họp giải quyết khiếu
nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện.
a) Kiểm sát văn bản trả lại đơn khởi kiện
Sau khi nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện của Tòa án,
trước hết Kiểm sát viên cần nghiên cứu ngay nội dung văn bản này.
Về kỹ năng nghiệp vụ, Kiểm sát viên cần tập trung nghiên cứu căn cứ
Tòa án trả lại đơn khởi kiện. Thực tiễn, Tòa án thường trả lại đơn khởi
kiện với các căn cứ: chưa có đủ điều kiện khởi kiện, không thuộc thẩm
quyền của Tòa án, người khởi kiện không có quyền khởi kiện. Nhiều
trường hợp Tòa án chỉ gửi cho Viện kiểm sát thông báo trả lại đơn khởi

88
kiện với nội dung ngắn gọn, chung chung. Đặc biệt với căn cứ chưa
có đủ điều kiện khởi kiện Tòa án không nêu rõ chưa đủ điều kiện khởi
kiện nào, dẫn đến khó khăn của Kiểm sát viên trong việc xác định căn
cứ cụ thể của việc trả lại đơn khởi kiện. Để xác định được việc trả lại
đơn khởi kiện của Tòa án có đúng pháp luật không, ngoài văn bản trả
lại đơn khởi kiện, Kiểm sát viên phải nghiên cứu đơn khởi kiện và tài
liệu, chứng cứ kèm theo đơn. BLTTDS 2015 chỉ quy định Tòa án phải
gửi văn bản trả lại đơn khởi kiện cho Viện kiểm sát mà không có quy
định Tòa án phải gửi cho Viện kiểm sát bản sao toàn bộ hồ sơ khởi kiện
để Viện kiểm sát thực hiện hoạt động kiểm sát việc trả lại đơn khởi
kiện. Tuy nhiên với nội dung hướng dẫn tại Điều 21 Thông tư liên tịch
số 02/2016/TTLT về quyền yêu cầu Tòa án cho sao chụp bản sao đơn
khởi kiện, đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ trong trường hợp trả lại
đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đã đảm bảo cho Kiểm sát viên thực hiện
tốt kỹ năng kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện. Cụ thể: “1. Trường hợp
Viện kiểm sát cần xem xét kiến nghị việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu
cầu hoặc sau khi nhận được thông báo mở phiên họp giải quyết khiếu
nại về việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu thì Viện kiểm sát gửi văn
bản yêu cầu Tòa án cho sao chụp một số hoặc toàn bộ bản sao đơn
khởi kiện, đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ.
2. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được yêu cầu của Viện
kiểm sát, Tòa án giao cho Viện kiểm sát văn bản cần sao chụp theo
yêu cầu tại trụ sở Tòa án. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được
văn bản cần sao chụp, Viện kiểm sát phải trả lại văn bản cho Tòa án”.
Căn cứ nội dung hướng dẫn trên, ngay sau khi nhận được văn
bản trả lại đơn khởi kiện của Tòa án, Kiểm sát viên soạn thảo văn bản
gửi Tòa án yêu cầu Tòa án cho sao chụp bản sao đơn khởi kiện và tài
liệu, chứng cứ người khởi kiện nộp kèm theo đơn. Theo hướng dẫn của
Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT thì Kiểm sát viên yêu cầu Tòa án
cho sao chụp một số hoặc toàn bộ đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ
nhưng để thực hiện tốt, có hiệu quả hoạt động kiểm sát việc trả lại đơn
khởi kiện thì Kiểm sát viên cần yêu cầu Tòa án cho sao chụp toàn bộ
đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ. Đồng thời do thời hạn sao chụp

89
hồ sơ khởi kiện, kiến nghị rất ngắn nên đòi hỏi Kiểm sát viên cần tiến
hành sao chụp ngay sau khi nhận được hồ sơ khởi kiện.
Sau khi sao chụp toàn bộ hồ sơ khởi kiện, Kiểm sát viên nghiên
cứu đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo và tiến hành phân
tích, đánh giá điều kiện thụ lý vụ án. Sau đó, Kiểm sát viên đối
chiếu điều kiện thụ lý vụ án với căn cứ trả lại đơn khởi kiện trình
bày trong văn bản trả lại đơn khởi kiện của Tòa án và quy định của
pháp luật tố tụng, nội dung. Trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát có
thể phải mời người khởi kiện đến để làm rõ căn cứ trả lại đơn khởi
kiện. Trên cơ sở đó, Kiểm sát viên kết luận việc trả lại đơn khởi
kiện đúng hay không đúng pháp luật. Điều 192 BLTTDS 2015 là căn
cứ pháp lý để Kiểm sát viên kiểm sát căn cứ trả lại đơn khởi kiện
của Tòa án.
Kiểm sát viên nghiên cứu xác định việc trả lại đơn khởi kiện
không đúng pháp luật cần báo cáo lãnh đạo Viện kiểm sát kiến nghị về
việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án. Thời hạn kiến nghị là 10 ngày, kể
từ ngày nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện. Văn bản kiến nghị về
việc trả lại đơn khởi kiện do Kiểm sát viên soạn thảo cần phân tích cụ
thể các căn cứ kiến nghị, viện dẫn các quy định của pháp luật tố tụng,
nội dung và yêu cầu Tòa án nhận lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng
cứ kèm theo để tiến hành việc thụ lý vụ án.
b) Tham gia phiên họp xem xét giải quyết khiếu nại, kiến nghị về
việc trả lại đơn khởi kiện
Để tham gia phiên họp giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả
lại đơn khởi kiện có hiệu quả, Kiểm sát viên cần có các kỹ năng sau:
Thứ nhất, dự thảo văn bản phát biểu ý kiến trong đó Kiểm sát
viên nhận định về căn cứ khiếu nại việc trả lại đơn của người khởi kiện
để đề xuất giữ nguyên việc trả đơn khởi kiện hay đề xuất Tòa án nhận
lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn; nhận định các
căn cứ kiến nghị của Viện kiểm sát và đề xuất Tòa án nhận lại đơn và
tài liệu, chứng cứ để tiếp tục thụ lý vụ án (nếu có kiến nghị của Viện
kiểm sát).

90
Thứ hai, chuẩn bị đầy đủ tài liệu, chứng cứ và văn bản pháp luật cho
việc tham gia phiên họp. Kiểm sát viên phải lập hồ sơ kiểm sát để tham gia
phiên họp. Hồ sơ kiểm sát tham gia phiên họp bao gồm: bản sao toàn bộ
hồ sơ khởi kiện mà Kiểm sát viên yêu cầu Tòa án cho sao chụp và tài liệu,
chứng cứ Viện kiểm sát thu thập bổ sung (nếu có); văn bản trả lại đơn khởi
kiện; văn bản kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện (nếu Viện kiểm sát
kiến nghị); đơn khiếu nại của người khởi kiện (nếu có); dự thảo văn bản
phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát tại phiên họp. Kiểm sát viên chuẩn bị
văn bản pháp luật về tố tụng và nội dung tham gia phiên họp và cần đánh
dấu các điểm, khoản, điều luật trực tiếp liên quan đến việc trả lại đơn khởi
kiện để khi cần thiết dễ dàng tra cứu, viện dẫn.
Thứ ba, kiểm sát về thời hạn mở phiên họp. Theo quy định tại
Điều 194 BLTTDS 2015, thì trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ
ngày được phân công xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị, Thẩm
phán phải mở phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị. Nếu
Thẩm phán được phân công thực hiện không đúng quy định của pháp
luật về thời hạn mở phiên họp, thành phần tham gia phiên họp, Kiểm
sát viên căn cứ quy định tại Điều 194 yêu cầu Thẩm phán thực hiện
đúng quy định của pháp luật.
Thứ tư, kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên họp, bao
gồm kiểm sát thành phần tham gia phiên họp; trình tự thủ tục tiến
hành phiên họp. Theo quy định tại Điều 194 BLTTDS 2015, đương sự
khiếu nại, Viện kiểm sát cùng cấp là thành phần tham gia phiên họp
xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị. Do đó, sau khi Tòa án quyết
định mở phiên họp, đương sự, Viện kiểm sát phải được Tòa án thông
báo về thời gian, địa điểm mở phiên họp để đảm bảo quyền tham gia
phiên họp. Kiểm sát viên cần lưu ý trường hợp đương sự vắng mặt thì
phải kiểm tra xem họ đã được thông báo về việc tham gia phiên họp
chưa. Bởi vì theo quy định của BLTTDS 2015 thì trường hợp đương
sự vắng mặt dù có lý do chính đáng hay không có lý do thì Thẩm phán
vẫn tiến hành phiên họp. Trường hợp sau khi kiểm tra, nếu có căn cứ
xác định Tòa án chưa thông báo cho đương sự, Kiểm sát viên cần yêu
cầu Tòa án hoãn phiên họp, thực hiện việc thông báo cho đương sự về

91
việc tham gia phiên họp để bảo đảm quyền lợi hợp pháp của họ. Trình
tự, thủ tục tiến hành phiên họp được thực hiện như sau: đại diện Viện
kiểm sát; đương sự có khiếu nại phát biểu ý kiến về việc giải quyết
khiếu nại, kiến nghị; Thẩm phán xem xét tài liệu, chứng cứ; ý kiến của
đại diện Viện kiểm sát và đương sự có khiếu nại và Thẩm phán phải
ra một trong các quyết định sau đây: Giữ nguyên việc trả lại đơn khởi
kiện và thông báo cho đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp; nhận lại đơn
khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo để tiến hành việc thụ lý vụ án.
Thứ năm, phát biểu ý kiến tại phiên họp. Tại phiên họp, Kiểm sát
viên phải phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về giải quyết khiếu nại, kiến
nghị về việc trả lại đơn khởi kiện. Ý kiến của Kiểm sát viên dựa trên cơ
sở bài phát biểu chuẩn bị trước và được bổ sung nếu tại phiên họp có sự
bổ sung tài liệu, chứng cứ. Trường hợp chỉ có khiếu nại của đương sự,
tùy thuộc vào việc đánh giá điều kiện thụ lý vụ án, Kiểm sát viên có thể
đề nghị Tòa án chấp nhận khiếu nại của đương sự, đề nghị Tòa án nhận
lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo để tiến hành việc thụ
lý vụ án hoặc giữ nguyên việc trả lại đơn khởi kiện. Trường hợp vừa có
khiếu nại của đương sự, vừa có kiến nghị của Viện kiểm sát về cơ bản
ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên cần theo hướng đề nghị Tòa án nhận
lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo để tiến hành việc thụ lý
vụ án. Phát biểu của Kiểm sát viên phải có căn cứ thực tế (đánh giá tài
liệu, chứng cứ, yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện) và căn cứ pháp
lý (viện dẫn các quy định của pháp luật tố tụng và nội dung).
2.3.3. Kiểm sát việc chuyển đơn khởi kiện
Khi Tòa án đang tiến hành thủ tục thụ lý, nếu Thẩm phán được
phân công xem xét đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn
nhận thấy yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện thuộc thẩm quyền của
Tòa án nhưng không thuộc thẩm quyền của Tòa án mình mà thuộc thẩm
quyền của Tòa án khác (cùng cấp hoặc cấp trên trực tiếp) thì Thẩm phán
sẽ quyết định chuyển đơn khởi kiện căn cứ điểm c khoản 3 Điều 191
BLTTDS 2015. BLTTDS 2015 chỉ quy định Tòa án chuyển đơn khởi
kiện cho Tòa án có thẩm quyền và thông báo cho người khởi kiện nếu vụ

92
án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác mà không quy định Tòa
án phải gửi thông báo về việc chuyển đơn khởi kiện cho Viện kiểm sát.
Trường hợp đương sự có khiếu nại về việc chuyển đơn khởi kiện gửi đến
Viện kiểm sát, Viện kiểm sát mới có thể thực hiện kiểm sát việc chuyển
đơn khởi kiện của Tòa án. Nắm vững kỹ năng xác định thẩm quyền của
Tòa án theo cấp và theo lãnh thổ của Tòa án là cơ sở để Kiểm sát viên
kiểm sát tốt việc chuyển đơn khởi kiện.
3. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
Ngày 15/11/2015 tại nhà chị Nguyễn Thị H, anh Lê Văn Q (ở
số 4, cụm 2 tổ 13, phường X, quận T, thành phố Đ), chị Lê Thùy L và
chồng là anh Nguyễn Tuấn H đã vay của vợ chồng anh Q, chị H số
tiền 100.000 USD (Một trăm nghìn đô la Mỹ) và 200.000.000 đồng
(Hai trăm triệu đồng tiền Việt Nam); thời hạn vay 01 năm; lãi vay tiền
đô la Mỹ là 2%/tháng, lãi tiền Việt Nam: 4%/tháng. Để đảm bảo cho
khoản vay trên, vợ chồng chị L đã giao cho anh Q, chị H giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở ngôi nhà số 25/32
đường N, phường M, quận H, thành phố Đ đứng tên vợ chồng chị L,
anh H. Khi nào trả hết số tiền gốc và lãi bên cho vay tiền sẽ hoàn lại
mọi thủ tục, giấy tờ giữ của bên vay. Nếu bên vay tiền không trả tiền
gốc và tiền lãi theo thỏa thuận thì nhà, đất trên thuộc quyền sở hữu của
vợ chồng chị H, anh Q. Việc viết giấy vay tiền, giao tiền và giao giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở được thực hiện
tại nhà anh Q, chị H.
Quá thời hạn 01 năm, vợ chồng chị L, anh H không trả được số
tiền vay gốc và lãi nên vợ chồng anh Q, chị H muốn khởi kiện chị L,
anh H yêu cầu trả tiền gốc và lãi theo thỏa thuận trong giấy vay tiền
đến thời điểm xét xử sơ thẩm. Trường hợp chị L, anh H không trả được
tiền thì yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm là ngôi nhà số 25/32 đường N,
phường M, quận H, thành phố Đ.
1. Anh/chị hãy tư vấn cho anh Q, chị H về yêu cầu khởi kiện và
chuẩn bị hồ sơ khởi kiện cho chị H, anh Q.
2. Phân tích điều kiện thụ lý vụ án dân sự trên.

93
Chương 2
THU THẬP CHỨNG CỨ

Mục tiêu của bài học: Nội dung:
Chương này trang bị cho người học:
Về kiến thức, người học phân tích, 1. Một số vấn đề chung về
đánh giá một cách khoa học các vấn chứng cứ và chứng minh trong
đề cơ bản của pháp luật tố tụng dân tố tụng dân sự
sự về chứng cứ và chứng minh trong 2. Kỹ năng của Luật sư, Thẩm
tố tụng dân sự bao gồm: xác định phán, Kiểm sát viên trong hoạt
chứng cứ; xác định đối tượng chứng động thu thập chứng cứ
minh, các vấn đề không cần phải 2.1. Kỹ năng của Luật sư trong
chứng minh; các biện pháp thu thập hoạt động thu thập và hướng
chứng cứ, đánh giá được mối quan dẫn đương sự cung cấp, giao
hệ giữa hoạt động thu thập chứng nộp chứng cứ
cứ với các hoạt động khác trong quá 2.2. Kỹ năng của Thẩm phán
trình chứng minh. trong hoạt động xác minh, thu
thập chứng cứ
Về kỹ năng, người học vận dụng 2.3. Kỹ năng của Kiểm sát viên
được các kỹ năng cơ bản của Luật trong kiểm sát hoạt động thu
sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên trong thập chứng cứ
hoạt động thu thập chứng cứ.
3. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
Về thái độ, người học có thái độ,
ứng xử chuẩn mực phù hợp với
quy tắc đạo đức của Luật sư, Thẩm
phán, Kiểm sát viên trong quá trình
thực hiện hoạt động thu thập chứng
cứ tham gia giải quyết tranh chấp
dân sự.

94
1. Một số vấn đề chung về chứng cứ và chứng minh trong tố
tụng dân sự
Xác minh, thu thập chứng cứ là tổng hợp các hoạt động phát
hiện, lưu giữ, tập hợp, ghi nhận và bảo quản chứng cứ liên quan đến
vụ việc dân sự theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm hỗ trợ
đương sự thực hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh và bảo
đảm cho Tòa án giải quyết vụ án dân sự được chính xác, khách quan,
đúng thời hạn luật định. Hoạt động thu thập chứng cứ là hoạt động
khởi nguồn, quyết định tới các hoạt động khác trong quá trình chứng
minh mà cơ sở của hoạt động này xuất phát từ nguyên tắc “quyền tự
định đoạt của đương sự” trong tố tụng dân sự. Hoạt động chứng minh,
suy cho cùng là hoạt động sử dụng chứng cứ trên cơ sở tổng hợp của
các hoạt động cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ.
Chứng cứ là cơ sở duy nhất và cũng là phương tiện duy nhất để chứng
minh trong các vụ, việc dân sự.
1.1. Chứng cứ
Việc phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các
đương sự gắn liền với những sự kiện pháp lý nhất định. Do đó, khi có
tranh chấp và các đương sự yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của họ, thì việc đưa ra những chứng cứ chứng minh sự tồn tại của
sự kiện pháp lý nào đó làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ
pháp luật dân sự đang tranh chấp mang ý nghĩa quyết định. Khi thụ lý
giải quyết vụ, việc dân sự, Tòa án phải làm sáng tỏ những tình tiết liên
quan đến vụ, việc như: việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự giữa các
bên dựa trên quan hệ pháp luật nào? Có những sự việc, sự kiện pháp
lý nào liên quan đến việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự đó? Có hình
thức nào (như văn bản, lời nói hay các dấu vết...) ghi nhận lại sự kiện,
sự việc hay hành vi liên quan đến việc phát sinh quyền, nghĩa vụ dân
sự đó? Để thực hiện việc này, Tòa án nghiên cứu những chứng cứ khác
nhau do đương sự cung cấp, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp,
xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập
được theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng dân sự quy định để xác

95
định những tình tiết khách quan của vụ việc, yêu cầu hay sự phản đối
của đương sự là có căn cứ và hợp pháp.
Điều 93 BLTTDS 2015 ghi nhận: “Chứng cứ trong vụ việc dân
sự là những gì có thật được đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân
khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do
Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định
và được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách
quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của
đương sự là có căn cứ và hợp pháp”. Trong ngôn ngữ của Việt Nam,
chứng cứ có thể được hiểu theo hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất là những
“thông tin” (dấu vết phi vật chất mang tính trừu tượng) mà dựa vào
đó Tòa án suy đoán hoặc rút ra kết luận một “sự kiện pháp lý khách
quan” nào đó tồn tại hay không tồn tại. Theo nghĩa này, chứng cứ là
các dấu vết phi vật chất, liên quan đến các tình tiết của vụ việc dân
sự được phản ánh vào ý thức của con người. Sự việc khách quan này
(cái chết của một người, thời điểm chết, sự tồn tại của một giao dịch
dân sự v.v.) không phải là chứng cứ mà là đối tượng chứng minh.
Nghĩa thứ hai là các dấu vết vật chất (mang tính vật chất cụ thể như
văn bản, vật chứng v.v.) chứa đựng những thông tin nói trên. Trong
nhiều trường hợp, chứng cứ được hiểu theo nghĩa thứ hai. Thực tiễn
cho thấy, ở nhiều vụ việc, chứng cứ (thông tin hay những dấu vết
vật chất) mà các bên giao nộp, xuất trình không chứng minh “trực
tiếp sự kiện pháp lý chính” mà lại nhằm chứng minh những “sự kiện
trung gian” và từ những sự kiện trung gian này, cho phép suy đoán
sự tồn tại của sự kiện pháp lý chính. Theo tác giả, xét về bản chất
pháp lý, những sự kiện trung gian này không phải là chứng cứ mà là
đối tượng chứng minh. Chứng cứ ở đây là những tình tiết được rút
ra từ lời khai của những người làm chứng chứng kiến vụ việc hoặc
những tình tiết, sự kiện có thật được rút ra từ kết luận giám định, từ
biên bản định giá v.v.
Ở khía cạnh thứ hai, chứng cứ với ý nghĩa là “dấu vết vật chất”
có thể được sao chụp lại, chép lại hoặc thể hiện lại dưới một dạng khác,
cứ như vậy tiếp diễn mãi. Chẳng hạn như các thông tin được phản ánh

96
trong bộ não con người, sự phản ánh đó có thể được thể hiện lại dưới
dạng dấu vết vật chất như lời khai do người làm chứng tự viết ra. Rồi
lời khai của người làm chứng có thể được sao chép lại (bản chụp lời
khai nhận) hoặc do những người khác phản ánh lại (nhân chứng nghe
nói lại hoặc nghe thuật lại)... Những chứng cứ sao chụp lại chỉ có ý
nghĩa cho phép suy đoán sự tồn tại của chứng cứ gốc ban đầu (chứng
cứ để chứng minh sự tồn tại của chứng cứ), chứ không nhằm chứng
minh một sự kiện (cho dù là sự kiện pháp lý chính hay sự kiện trung
gian). Chẳng hạn như giấy tờ sở hữu nhà là chứng cứ cho phép xác lập
sự kiện một người là chủ sở hữu căn nhà đó (sự kiện pháp lý). Nhưng
giấy tờ nhà có thể đã mất. Người ta phải căn cứ vào những chứng cứ
sao chụp lại (lời khai của những người làm chứng đã nhìn thấy giấy tờ
sở hữu nhà mang tên ai đó, sao lục lại hồ sơ địa chính...) để suy đoán
rằng giấy tờ gốc đã tồn tại.
Chứng cứ là những gì có thật tồn tại trong thế giới vật chất có thể
dưới các dấu vết phi vật chất, liên quan đến các tình tiết của vụ việc
dân sự được phản ánh vào ý thức của con người hoặc thể hiện ở các
dấu vết vật chất. Các dấu vết này chính là sự phản ánh các mặt riêng lẻ
của sự thật về vụ việc dân sự. Chứng cứ chỉ phục vụ cho một sự việc
có thể xảy ra hoặc đang được giải quyết. Giữa những sự kiện, tình tiết
có thật đã được thu thập được xác định là chứng cứ và đưa vào sử dụng
trong quá trình chứng minh thì nó đều là chứng cứ có giá trị chứng
minh các tình tiết cần phải chứng minh trong vụ kiện. Giá trị chứng
minh của chứng cứ phải nhìn nhận ở cả 2 phương diện:
(i) Có thể là sự chứng minh tính đúng đắn hoặc không đúng đắn
của tình tiết, sự kiện được gọi là các tình tiết khách quan của vụ án.
Theo đó, mọi sự vật, hiện tượng chứng minh tính chân lý của vụ kiện
đều là chứng cứ. Như vậy, chứng cứ là những gì phản ánh sự thật
khách quan được thu thập theo đúng quy định của BLTTDS, được
dùng chứng minh sự tồn tại của sự kiện hoặc chứng minh tình tiết
khách quan, làm căn cứ để giải quyết đúng đắn vụ, việc dân sự. Sự
hình thành một sự kiện, một tình tiết có thể xuất phát từ nhiều nguyên
nhân, trong đó có hành vi của con người, nhưng một khi sự kiện, tình

97
tiết đó đã ra đời và được coi là chứng cứ của vụ, việc thì nó tồn tại
khách quan với ý thức của con người. Ở một góc độ nào đó, chứng cứ
tồn tại khách quan dưới những hình thức khác nhau, nó có thể sinh
ra, thay đổi về hình thức và nội dung, vì vậy con người có thể tìm ra
chứng cứ chứ không thể tạo ra chứng cứ. Bên cạnh đó, cũng cần hiểu
rằng, tính hợp pháp của chứng cứ còn thể hiện ở chỗ chúng phải được
thu thập từ những nguồn do pháp luật tố tụng dân sự quy định. Trong
nhiều trường hợp, những thông tin thực tế sẽ không được thừa nhận là
những chứng cứ nếu được rút ra từ các nguồn bị pháp luật hạn chế. Chỉ
những sự kiện, tình tiết được chứa đựng trong nguồn chứng cứ mới có
giá trị chứng minh.
(ii) Chứng minh tính có cơ sở hoặc không có cơ sở trong yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn hoặc yêu cầu
của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.
1.2. Nguồn chứng cứ
Việc phân biệt chứng cứ, nguồn chứng cứ không chỉ có ý nghĩa
về lý luận mà còn có ý nghĩa quan trọng về thực tiễn. Nguồn được hiểu
là nơi bắt đầu, nơi phát sinh hoặc nơi có thể cung cấp hay rút ra được
một điều gì. Nguồn chứng cứ chính là hình thức chứa đựng những gì
phản ánh sự thật khách quan có liên quan đến đối tượng chứng minh
trong vụ, việc dân sự. Chứng cứ được rút ra từ các nguồn chứng cứ.
Chứng cứ là các “sự kiện”, “tình tiết” còn nguồn phản ánh chứng cứ là
những cái chứa đựng các “sự kiện”, “tình tiết” ấy. Chứng cứ là cái chi
tiết, cụ thể còn nguồn chứng cứ là cái bao quát chung. Cơ sở để xác
định chứng cứ phụ thuộc vào từng loại nguồn chứng cứ với những đặc
trưng riêng trong việc xác định. Để được xác định là chứng cứ theo
quy định tại Điều 94, Điều 95 BLTTDS 2015, chứng cứ phải được
xác định từ các nguồn được pháp luật quy định.
Thứ nhất, đối với các tài liệu đọc được nội dung được coi là
chứng cứ nếu là bản chính như hợp đồng mua bán, vay tài sản, thuê tài
sản, hợp đồng tặng cho tài sản… Trong trường hợp không có bản gốc,
có thể nộp bản sao các tài liệu đó nhưng bản sao phải có công chứng,

98
chứng thực hợp pháp hoặc bản sao do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
cung cấp, xác nhận. Bản chính có thể là bản gốc hoặc bản được dùng
làm cơ sở để lập ra các bản sao. Theo từ điển tiếng Việt “bản gốc được
hiểu là bản viết đầu tiên, là văn bản pháp lý được dùng để làm cơ sở
lập ra các bản sao”1.
Trường hợp tài liệu đọc được nội dung được viết bằng tiếng dân
tộc thiểu số, tiếng nước ngoài thì phải dịch sang tiếng Việt và gửi kèm
theo tài liệu này bản dịch sang tiếng Việt, được công chứng, chứng
thực hợp pháp.
Thứ hai, các tài liệu nghe được, nhìn được được coi là chứng cứ
nếu được xuất trình kèm theo văn bản trình bày của người có tài liệu
đó về xuất xứ của tài liệu nếu họ tự thu âm, thu hình hoặc văn bản có
xác nhận của người đã cung cấp cho người xuất trình về xuất xứ của
tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình
đó. Trường hợp người có tài liệu tự thu âm, thu hình thì trực tiếp trình
bày về xuất xứ của tài liệu. Trường hợp người khác cung cấp, thì phải
có văn bản xác nhận của người đã cung cấp cho người xuất trình về sự
việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó.
Các tài liệu nghe được, nhìn được là một nguồn chứng cứ đặc
biệt quan trọng, vì trong các tài liệu, giấy tờ liên quan đến vụ kiện
bao giờ cũng chứa đựng những thông tin, những sự kiện liên quan đến
những tình tiết của vụ, việc dân sự. Từ nguồn chứng cứ này cho phép
các chủ thể chứng minh, đặc biệt là Tòa án rút ra được những chứng cứ
quan trọng sử dụng để giải quyết vụ, việc dân sự. Đặc điểm đặc trưng
nhất của những chứng cứ rút ra từ nguồn tài liệu, giấy tờ chứa đựng
chứng cứ là có thể giữ gìn trong một thời gian dài mà không bị thay
đổi nội dung, Tòa án có thể sử dụng nhiều lần.
Ví dụ:
Ông A cho ông B vay năm triệu đồng với thời hạn 12 tháng.
Việc vay tài sản không lập thành văn bản, nhưng được ông A

Viện ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 1996, tr. 28.
1 ­

99
ghi âm lại toàn bộ nội dung thoả thuận về việc vay tài sản, việc
giao nhận tiền và thời điểm thanh toán nợ giữa ông A và ông
B để làm bằng chứng cho việc vay tài sản của ông B. Đến hạn
trả nợ, ông B không trả số tiền đó cho ông A. Ông A khởi kiện
ông B ra Toà án. Trong trường hợp này, cùng với việc giao nộp
băng ghi âm, ông A phải gửi văn bản trình bày về sự việc liên
quan tới việc thu âm đó.
Thứ ba, các thông điệp dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình
thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín,
điện báo, fax và các hình thức tương tự khác theo quy định của pháp
luật về giao dịch điện tử. Ngày 29/11/2005, Quốc hội đã ban hành Luật
Giao dịch điện tử. Luật Giao dịch điện tử 2005 đã thừa nhận giá trị
pháp lý của các chứng cứ điện tử theo xu hướng chung đã được thừa
nhận rộng rãi trên thế giới, đó là thông điệp dữ liệu, chữ ký điện tử có
giá trị chứng cứ như tất cả các loại chứng cứ thông thường khác và nó
không thể bị phủ nhận chỉ vì lý do đó là một thông điệp dữ liệu điện tử
hay chữ ký điện tử.
Thứ tư, vật chứng. Vật chứng là những vật khác nhau của thế giới
vật chất, trong vụ việc dân sự, vật chứng phải luôn là hiện vật gốc có
tính đặc định, liên quan đến vụ việc dân sự thì mới có giá trị pháp lý.
Việc nghiên cứu các vật chứng nhằm xác định những đặc điểm riêng
về hình dạng, tính chất của chúng để từ đó rút ra các chứng cứ cần
thiết để giải quyết vụ, việc dân sự. Các vật chứng trở thành phương
tiện chứng minh khi những vật này được thu thập, củng cố, nghiên cứu
và đánh giá theo đúng trình tự luật định, đáp ứng ba đặc tính: khách
quan, liên quan, hợp pháp của chứng cứ. Giá trị chứng minh của các
vật chứng thể hiện ở tính đặc định của các vật đó (phân biệt với các
vật cùng loại). Nếu vật chứng không được bảo quản tốt để giữ gìn tính
đặc định của vật thì vật chứng sẽ mất hết hoặc giảm giá trị chứng minh.
Khi thu thập các vật chứng, chủ thể chứng minh phải lập biên bản hoặc
miêu tả chi tiết hình thức và các tính chất lý hóa của vật, đặc biệt là
các dấu vết thể hiện trên vật chứng đó. Đối với những vật mau hỏng
cần phải xem xét kịp thời và phản ánh đầy đủ trong quá trình xem xét

100
(bằng biên bản, chụp hình, ghi hình). Đối với những vật khó di chuyển,
có thể đề nghị Tòa án đến xem xét thẩm định tại chỗ.
Thứ năm, lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng.
Đương sự là người có quyền và lợi ích gắn liền với vụ, việc dân sự. Họ
tham gia trực tiếp vào quan hệ pháp luật đang có tranh chấp để bảo vệ
quyền lợi của chính bản thân mình.
Khác với đương sự, người làm chứng là người biết những thông
tin liên quan đến vụ kiện nhưng lại không có quyền lợi trong vụ kiện
đó, vì vậy lời khai của người làm chứng thường thể hiện được yếu tố
khách quan hơn. Mặc dù trong lời khai của người làm chứng chứa
đựng nhiều thông tin về những tình tiết cần chứng minh nhằm giúp
Tòa án tìm ra sự thật khách quan của vụ kiện, nhưng trong quá trình
thu thập cũng như nghiên cứu về nguồn chứng cứ này vẫn cần có một
sự thận trọng khi xem xét, đánh giá. Những chứng cứ rút ra từ lời khai
này có thể bị sai lệch, không phù hợp với thực tế khách quan trong
những trường hợp như người làm chứng bị dụ dỗ, bị mua chuộc hoặc
thậm chí bị đe dọa, bị hành hung để đưa ra lời khai có lợi cho một bên
đương sự nào đó, hoặc trong trường hợp người làm chứng cố ý khai
gian dối, không thể nhớ lại đúng như những gì đã được chứng kiến.
Thứ sáu, kết luận giám định được xác định là chứng cứ nếu việc
giám định đó được tiến hành theo đúng thủ tục quy định của pháp luật,
cụ thể được ghi nhận tại Luật Giám định tư pháp 2012 và Nghị định
số 85/2013/NĐ-CP ngày 29/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và
biện pháp thi hành Luật Giám định tư pháp.
Trong nhiều vụ việc dân sự, để làm sáng tỏ một số tình tiết nhất
định đòi hỏi phải sử dụng những kiến thức chuyên môn cần thiết với sự
hỗ trợ của giám định viên. Kết luận của giám định viên là một kết luận
khoa học về chuyên môn được thể hiện dưới hình thức một văn bản
hoặc được trình bày tại phiên tòa, được đưa ra sau khi đã nghiên cứu
những vấn đề cần vận dụng kiến thức chuyên môn trả lời cho những
vấn đề do Tòa án trưng cầu. Trong trường hợp việc đánh giá chứng cứ
cần phải sử dụng các kiến thức chuyên môn như xác định chữ viết,

101
chữ ký, vân tay của một người nào đó hay cần xác định nguyên nhân
gây thiệt hại trong xây dựng, xác định ADN… và theo sự thỏa thuận
lựa chọn của các bên đương sự hoặc có yêu cầu của đương sự về việc
trưng cầu giám định thì Tòa án tiến hành trưng cầu giám định khoa
học. Đây là một nguồn chứng cứ quan trọng làm cơ sở cho việc giải
quyết vụ việc dân sự, thậm chí trong nhiều vụ kiện, kết luận giám định
có tính chất quyết định đối với phán quyết của Tòa án.
Thứ bảy, biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ được coi là
chứng cứ nếu việc thẩm định được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp
luật quy định. Những vụ án mà đối tượng tranh chấp là bất động sản,
vật không thể di chuyển hoặc trường hợp cần nắm vững hiện trường
xảy ra sự việc tranh chấp nhằm đảm bảo cho bản án, quyết định của
Tòa án được chính xác và bảo đảm khả năng thi hành án nếu đương
sự có yêu cầu xem xét, thẩm định tại chỗ và xét thấy cần thiết thì
Thẩm phán tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ. Cụ thể là, đương sự
phải có đơn yêu cầu và trình bày căn cứ đối với yêu cầu của mình để
đề nghị Tòa án xem xét thẩm định tại chỗ. Tòa án xem xét và ra quyết
định xem xét, thẩm định tại chỗ. Quyết định này được gửi cho Ủy ban
nhân dân cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét,
được giao hoặc gửi cho đương sự.
Thứ tám, kết quả định giá tài sản, kết quả thẩm định giá tài sản
được coi là chứng cứ nếu việc định giá, thẩm định giá được tiến hành
theo đúng thủ tục do pháp luật quy định. Theo yêu cầu của một hoặc
các bên đương sự, Toà án yêu cầu tổ chức thẩm định giá tài sản tiến
hành thẩm định giá1. Các bên có quyền tự thỏa thuận về việc xác định
giá tài sản, lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản.
Việc thẩm định giá tài sản được thực hiện theo quy định của pháp
luật về thẩm định giá tài sản. Kết quả thẩm định giá tài sản được coi là
chứng cứ nếu việc thẩm định giá được tiến hành đúng theo quy định
của pháp luật.

1
Xem Nghị định số 89/2013/NĐ-CP ngày 06/8/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Giá về thẩm định giá.

102
Thứ chín, văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người
có chức năng lập tại chỗ được coi là chứng cứ nếu việc lập văn bản
ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý được tiến hành theo đúng thủ tục do
pháp luật quy định.
Ví dụ:
Vi bằng là văn bản do Thừa phát lại lập, ghi nhận sự kiện, hành
vi được dùng làm chứng cứ trong xét xử và trong các quan hệ pháp
lý. Vi bằng có giá trị chứng cứ để Tòa án xem xét khi giải quyết
vụ án và là căn cứ để thực hiện các giao dịch hợp pháp khác theo
quy định của pháp luật. Văn bản ghi nhận sự kiện hành vi pháp lý
như: vi bằng chứng thực sự kiện, hành vi xảy ra theo yêu cầu của
tổ chức, cá nhân: sự kiện giao nhận tiền, gửi thông báo đòi nhà,
đòi nợ, xác lập hợp đồng, lập di chúc; hành vi vi phạm pháp luật
của người khác, hành vi sử dụng nhà thuê không đúng mục đích;
Vi bằng ghi nhận hiện trạng các công trình liền kề, lân cận, dùng
để lập hồ sơ xây dựng; Vi bằng dùng làm chứng cứ để yêu cầu cơ
quan bảo hiểm bồi thường.
Thứ mười, văn bản công chứng, chứng thực được coi là chứng
cứ nếu việc công chứng, chứng thực được thực hiện theo đúng thủ tục
do pháp luật quy định. Khi công chứng, người thực hiện công chứng
phải tuân theo quy định của pháp luật về công chứng cũng như các quy
định khác có liên quan. Công chứng viên dù là công chức nhà nước
làm việc tại các phòng công chứng hay là công chứng viên làm việc tại
văn phòng công chứng đều là chức danh tư pháp được nhà nước trao
quyền thực hiện việc chứng nhận giao dịch. Quy định này nhằm khẳng
định rõ giá trị pháp lý của các giấy tờ, tài liệu đã được các cơ quan nhà
nước công chứng, chứng thực hợp pháp.
Thứ mười một, các nguồn khác mà pháp luật có quy định được
xác định là chứng cứ theo điều kiện, thủ tục mà pháp luật quy định. So
với BLTTDS 2004, sửa đổi, bổ sung 2011 thì BLTTDS 2015 đã bỏ quy
định về nguồn chứng cứ và xác định chứng cứ là tập quán. Với quy
định mới của luật, tập quán có thể được xác định là một nguồn khác
mà pháp luật có quy định.

103
1.3. Xác định đối tượng chứng minh và những tình tiết, sự kiện
không cần phải chứng minh
Chứng minh là hoạt động hướng tới một đối tượng cụ thể. Theo
Từ điển tiếng Việt “Đối tượng là người, vật, hiện tượng mà con người
nhằm vào trong suy nghĩ và hành động”1. Đối tượng chứng minh là
tổng hợp những sự kiện, tình tiết làm cơ sở cho yêu cầu của đương sự
và những sự kiện, tình tiết khác có ý nghĩa để giải quyết đúng vụ việc
dân sự cần được xác định bằng chứng cứ trong quá trình giải quyết các
vụ, việc dân sự.
Khi giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án phải xác định được quan
hệ pháp luật tranh chấp cũng như tất cả các sự kiện, tình tiết liên
quan đến vụ việc dân sự, lựa chọn và áp dụng quy phạm pháp luật
nội dung phù hợp để ban hành phán quyết bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các đương sự. Mục đích của hoạt động thu thập chứng
cứ nhằm đạt được sự khẳng định những vấn đề về nội dung của đối
tượng chứng minh là đúng đắn và xác thực. Trong tố tụng dân sự, đối
tượng chứng minh là một vấn đề hết sức quan trọng giúp cho hoạt
động chứng minh được tập trung. Xác định đúng đối tượng chứng
minh là cơ sở cho việc nhận thức đúng đắn vụ việc dân sự - căn cứ
định hướng cho quá trình thu thập nhằm mục đích sử dụng chứng cứ
để chứng minh. Với từng vụ việc dân sự cụ thể khác nhau thì các sự
kiện, tình tiết tạo thành đối tượng chứng minh cũng khác nhau. Sự
khác nhau này được xác định bởi nội dung yêu cầu hay phản đối yêu
cầu của đương sự phía bên kia và các quy phạm pháp luật nội dung
áp dụng để giải quyết vụ việc dân sự.
Mỗi vụ kiện dân sự phát sinh tại Tòa án thường chứa đựng những
mâu thuẫn nhất định giữa các bên đương sự nên rất phức tạp. Để giải
quyết được vụ, việc dân sự thì mọi vấn đề của vụ, việc dân sự đều phải
được làm sáng tỏ trước khi Tòa án quyết định giải quyết vụ, việc dân
sự. Trong khoa học pháp lý, các hoạt động tố tụng của các chủ thể tố
tụng tiến hành theo quy định của pháp luật trong việc làm rõ các tình

1
Viện ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, 2003, tr. 328.

104
tiết, sự kiện của vụ việc dân sự được gọi là chứng minh trong tố tụng
dân sự. Để có sự nhận thức thống nhất về bản chất của khái niệm đối
tượng chứng minh trong tố tụng dân sự, trước tiên cần có sự phân biệt
giữa “sự kiện” với “tình tiết” của vụ việc dân sự. Theo quan điểm của
các nhà ngôn ngữ học, tình tiết là “sự việc nhỏ có quan hệ chặt chẽ
trong quá trình diễn biến của sự kiện”1 và sự kiện là “sự việc có ý
nghĩa ít nhiều quan trọng đã xảy ra”2. Dưới lăng kính tố tụng, sự kiện
và tình tiết luôn gắn kết cùng nhau. Các quan hệ pháp luật dân sự phát
sinh, thay đổi hay chấm dứt do những sự kiện nhất định mà ngôn ngữ
pháp lý gọi là sự kiện pháp lý. Khi những sự kiện này xảy ra trong thực
tế, pháp luật dự liệu làm phát sinh các hậu quả pháp lý. Với từng loại
vụ việc dân sự cụ thể, đối tượng chứng minh còn có những đặc trưng
riêng phụ thuộc vào các tình tiết, sự kiện của từng vụ việc cụ thể. Nội
dung của đối tượng chứng minh bao gồm tất cả những tình tiết, sự kiện
pháp lý khác nhau mà các chủ thể căn cứ vào đó đưa ra yêu cầu hay
phản đối yêu cầu của người khác và những tình tiết, sự kiện có ý nghĩa
cho việc giải quyết vụ việc dân sự. Đối tượng chứng minh của vụ, việc
dân sự không chỉ bao gồm sự kiện có tính chất khẳng định mà còn bao
gồm cả những sự kiện có tính chất phủ định.
Muốn tìm ra sự thật khách quan thì trước tiên Tòa án và các chủ
thể chứng minh cần phải xác định được quan hệ pháp luật và những
vấn đề cần phải chứng minh. Về lý luận, đối tượng chứng minh là tổng
hợp những tình tiết, sự kiện cần phải chứng minh để làm rõ nội dung
và bản chất quan hệ pháp luật giữa các bên đương sự đã xảy ra. Tổng
hợp các tình tiết, sự kiện đó tạo cơ sở cho việc xác định quyền, nghĩa
vụ của các bên và áp dụng quy định của pháp luật nội dung để giải
quyết tranh chấp. Tuy nhiên, để giải quyết vụ việc dân sự khách quan,
chính xác, đúng pháp luật, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự thì không chỉ những tình tiết, sự kiện thuộc đối tượng chứng
minh mà cả những tình tiết, sự kiện có ý nghĩa đối với việc giải quyết
đúng đắn vụ việc dân sự dưới khía cạnh tố tụng cũng cần phải được

1
Viện ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, 1996, tr. 963.
2
Viện ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, 1996, tr. 846.

105
chứng minh, như: những tình tiết, sự kiện làm căn cứ cho việc Tòa
án ban hành quyết định đình chỉ, quyết định tạm đình chỉ, quyết định
chuyển vụ việc dân sự; những tình tiết, sự kiện làm căn cứ cho việc
xác định thẩm quyền thụ lý vụ việc dân sự của Tòa án… Cùng với đối
tượng chứng minh, những tình tiết, sự kiện này tập hợp thành giới hạn
chứng minh hay phạm vi chứng minh trong tố tụng dân sự.
Có thể nói, phạm vi các sự kiện cần chứng minh rộng hơn các sự
kiện thuộc đối tượng chứng minh, cụ thể bao gồm:
Những sự kiện pháp lý làm cơ sở cho yêu cầu của nguyên đơn,
yêu cầu phản tố của bị đơn hay yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan có yêu cầu độc lập. Đây là nhóm tình tiết, sự kiện phải
chứng minh mang tính chất luật nội dung (các tình tiết, sự kiện thuộc
đối tượng chứng minh). Đối tượng chứng minh được hình thành từ đặc
trưng của loại vụ việc dân sự, căn cứ vào những quy định của pháp luật
nội dung đối với từng loại vụ việc mà xác định đối tượng phải chứng
minh trong từng vụ việc dân sự cụ thể. Bên cạnh những tình tiết, sự
kiện về nội dung, còn phải chứng minh những tình tiết, sự kiện mang
tính chất thuần túy “tố tụng”.
Quy định về đối tượng chứng minh trong BLTTDS 2015 có sự
phân biệt rõ ràng giữa giá trị chứng cứ và giá trị chứng minh. Những
tình tiết sự kiện không phải chứng minh thì đương nhiên có giá trị
chứng cứ. Những tình tiết sự kiện phải chứng minh thì chỉ có giá trị
chứng cứ sau khi những tình tiết, sự kiện đó đã được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền xác định. Về cơ bản, tất cả các tình tiết sự kiện
đều cần phải chứng minh, trừ những tình tiết, sự kiện sau thì không
phải chứng minh:
- Những tình tiết, sự kiện mọi người đều biết và được Tòa án thừa
nhận. Mục đích hướng tới của hoạt động chứng minh nhằm làm rõ tình
tiết, sự kiện liên quan đến vụ việc dân sự để giải quyết đúng đắn vụ
việc dân sự. Những tình tiết, sự kiện này không chứng minh thì mọi
người cũng đã biết rõ. Ví dụ, sự kiện bão, lụt, động đất, chiến tranh…
và phải được Tòa án thừa nhận. Đây là quy định nhằm xác định tính rõ

106
ràng của tình tiết, sự kiện. Quyền thừa nhận một sự kiện nào đó là sự
kiện mọi người đều biết không cần chứng minh phải thuộc về Tòa án,
vì Tòa án là cơ quan chịu trách nhiệm giải quyết vụ việc dân sự. Thực
tế mức độ phổ biến của các tình tiết, sự kiện mọi người đều biết có thể
rất khác nhau, có tình tiết, sự kiện phổ biến ở phạm vi rất rộng, có thể
cả thế giới biết, nhưng cũng có tình tiết, sự kiện chỉ phổ biến ở phạm
vi hẹp (một tỉnh, một huyện thậm chí là phạm vi của một cụm dân cư).
Vấn đề đặt ra là tình tiết, sự kiện phổ biến ở mức độ nào thì không phải
chứng minh? Thực tiễn xét xử tại các Tòa án cho thấy không thể xác
định được chính xác những người biết được tình tiết, sự kiện. Vì thế,
việc đánh giá mức độ phổ biến của tình tiết, sự kiện mọi người đều biết
chỉ mang tính tương đối nên BLTTDS không thể quy định giới hạn tối
thiểu về mức độ phổ biến của tình tiết, sự kiện không cần chứng minh.
Khi đương sự viện dẫn việc xác định tình tiết, sự kiện mọi người đều
biết không cần phải chứng minh trong mỗi một trường hợp cụ thể, cần
phải căn cứ vào thời gian xảy ra tình tiết, sự kiện. Bởi vì, tính chất rõ
ràng của tình tiết, sự kiện có thể mất dần đi theo thời gian trong trí nhớ
của con người. Do đó, một sự kiện lúc đầu có thể là sự kiện mọi người
đều biết không cần phải chứng minh nhưng nếu xảy ra lâu rồi thì vẫn
có thể phải chứng minh lại trong quá trình tố tụng. Vì vậy, cần xem xét
từng trường hợp cụ thể về mức độ phổ biến tin tức của các tình tiết, sự
kiện. Trường hợp sử dụng các sự kiện phổ biến ở phạm vi lãnh thổ nhất
định để giải quyết vụ việc dân sự thì phải thuyết phục được Tòa án vì
sao sự kiện này không phải chứng minh để tránh trường hợp có những
vụ việc dân sự được Tòa án xét xử lại ở cấp xét xử khác mà ở cấp xét
xử đó Tòa án chưa chắc đã biết rõ về sự kiện này. Ngoài ra, trên cơ sở
yêu cầu của việc công khai, minh bạch các hoạt động xét xử, đương sự
đề xuất Tòa án quyết định thừa nhận hay không thừa nhận các tình tiết,
sự kiện mà mọi người đều biết.
- Những tình tiết, sự kiện đã được xác định trong các bản án,
quyết định của Toà án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền đã có hiệu lực pháp luật. Một sự kiện xảy ra có thể làm phát
sinh, thay đổi hay chấm dứt một hoặc nhiều quan hệ pháp luật. Những

107
quan hệ pháp luật này có thể được xem xét ở những thời điểm khác
nhau, trong những vụ án khác nhau, thậm chí ở những Tòa án khác
nhau. Việc thừa nhận sự kiện, tình tiết không cần chứng minh phải là
sự kiện trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật với những
chứng cứ đã được kiểm tra, xác minh. Điều này có ý nghĩa đảm bảo
cho công tác xét xử của Tòa án được nhanh chóng, chính xác, đồng
thời khắc phục tình trạng có thể xảy ra mâu thuẫn giữa những quyết
định của Toà án và các cơ quan có thẩm quyền về cùng một vấn đề.
Mặc dù không phải chứng minh nhưng khi sử dụng những sự kiện
không cần phải chứng minh, đương sự phải nêu rõ nguồn gốc, xuất xứ
của những sự kiện đó… Hơn nữa, việc chứng minh lại một tình tiết, sự
kiện còn có khả năng dẫn đến sự phức tạp trong việc giải quyết vụ việc
dân sự, kéo dài thủ tục tố tụng dân sự.
Mặc dù không xem xét lại tình tiết, sự kiện đã được xác định
trong những bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật,
tuy nhiên, trong những trường hợp cá biệt khi có nghi ngờ về tính đúng
đắn của tình tiết, sự kiện thì tùy từng trường hợp, đương sự có thể đề
nghị chủ thể có thẩm quyền kháng nghị xem xét lại bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm.
- Những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản và được
công chứng, chứng thực hợp pháp; trường hợp có dấu hiệu nghi ngờ
tính khách quan của những tình tiết, sự kiện này hoặc tính khách quan
của văn bản công chứng, chứng thực thì Thẩm phán có thể yêu cầu
đương sự, cơ quan công chứng, chứng thực xuất trình bản gốc. Lịch sử
công chứng là lịch sử phát triển của chứng cứ viết (văn bản) đã dần dần
thay thế chứng cứ lời nói. Những tình tiết, sự kiện này khi được ghi lại
trong văn bản và văn bản này được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
công chứng, chứng thực hợp pháp gọi là văn bản công chứng. Văn bản
công chứng không có giá trị chứng cứ nếu văn bản đó không hợp pháp,
thực hiện không đúng thẩm quyền, không tuân theo quy định của pháp
luật về công chứng hoặc bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu. Trường hợp
có dấu hiệu nghi ngờ tính khách quan của những tình tiết, sự kiện này
hoặc tính khách quan của văn bản công chứng, chứng thực thì Thẩm

108
phán có thể yêu cầu đương sự, cơ quan công chứng, chứng thực xuất
trình bản gốc. Quy định sửa đổi, bổ sung này phù hợp với quy định
về giá trị pháp lý của văn bản công chứng được ghi nhận tại khoản 3
Điều 5 Luật Công chứng 2014: “Hợp đồng, giao dịch được công chứng
có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao dịch
được công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án
tuyên bố là vô hiệu”, đồng thời phù hợp cả về lý luận, thực tiễn cũng
như thông lệ quốc tế về giá trị chứng cứ của văn bản công chứng.
Khi vận dụng, viện dẫn tình tiết, sự kiện này trong quá trình
chứng minh, các đương sự phải cân nhắc kiểm tra để xác định có
cần đưa ra yêu cầu Tòa án tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu hay
không, khi xem xét những tình tiết, sự kiện mà văn bản công chứng vi
phạm điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự nói chung và điều kiện
đặc thù của giao dịch công chứng nói riêng.
- Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình
tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà
bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh.
Sự thừa nhận của một bên đương sự hay người đại diện của họ có giá
trị loại trừ cho đương sự phía bên kia khỏi nghĩa vụ chứng minh. Điều
này xuất phát từ một vấn đề thuộc bản chất của chứng minh là làm cho
đương sự bên kia thấy rõ sự tồn tại của các tình tiết, sự kiện liên quan
đến vụ việc dân sự. Khoản 2 Điều 92 BLTTDS 2015 bổ sung sự thừa
nhận của đương sự về “tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên
môn” so với quy định tại khoản 2 Điều 80 BLTTDS 2004 sửa đổi, bổ
sung 2011 nhằm khẳng định rõ hơn về quyền tự định đoạt cũng như
nghĩa vụ chứng minh của đương sự bên đối lập.
- Đương sự có người đại diện tham gia tố tụng thì sự thừa nhận
của người đại diện được coi là sự thừa nhận của đương sự nếu không
vượt quá phạm vi đại diện. Việc tham gia tố tụng của người đại diện
của đương sự trong tố tụng dân sự nói chung và người đại diện theo ủy
quyền nói riêng có ý nghĩa rất lớn đối với việc giải quyết các vụ việc
dân sự. Khi không thể trực tiếp tham gia tố tụng dân sự, đương sự có

109
thể ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng. Người
đại diện theo ủy quyền thực hiện hành vi nhân danh người đại diện
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự theo sự ủy quyền
trong tố tụng dân sự. Bên đại diện và bên được đại diện biểu hiện ý chí
thông qua hợp đồng ủy quyền hoặc giấy ủy quyền. Nội dung ủy quyền,
phạm vi ủy quyền đại diện và trách nhiệm của người đại diện theo ủy
quyền được xác định thông qua sự thỏa thuận của người đại diện và
người được đại diện. Đương sự có người đại diện tham gia tố tụng thì
sự thừa nhận của người đại diện được coi là sự thừa nhận của đương
sự nếu không vượt quá phạm vi đại diện, phù hợp với quy định về đại
diện được ghi nhận từ pháp luật nội dung đến pháp luật tố tụng dân sự.
1.4. Nghĩa vụ chứng minh của đương sự
Nguyên tắc chung đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình; cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện để bảo
vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước hoặc yêu cầu Tòa án bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác phải thu thập, cung cấp,
giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó
là có căn cứ và hợp pháp. Ngoài các đương sự, cơ quan, tổ chức trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân
sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước
cũng có nghĩa vụ chứng minh. Tuy không có quyền và lợi ích gắn liền
với vụ việc dân sự như đương sự, nhưng các cá nhân, cơ quan, tổ chức
này cũng đưa ra yêu cầu và biết rõ sự việc. Tương tự như đương sự, cá
nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện yêu cầu Toà án bảo vệ lợi ích công
cộng, lợi ích của Nhà nước hoặc quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác cũng có nghĩa vụ chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn
cứ và hợp pháp. Trong trường hợp các cá nhân, cơ quan, tổ chức này
không thực hiện được nghĩa vụ chứng minh của mình sẽ dẫn đến sự
bất lợi cho các đương sự.
Nghĩa vụ chứng minh của đương sự cần được hiểu là đương sự
phải có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, đưa ra các căn cứ pháp lý, lý lẽ,
lập luận để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp

110
pháp. Điều đó có nghĩa, khi đương sự không thể tự thu thập được
chứng cứ và có đơn yêu cầu hoặc các trường hợp Tòa án buộc phải
chủ động thu thập chứng cứ mới có thể giải quyết được vụ án thì Tòa
án mới xác minh, thu thập chứng cứ. Mức độ hỗ trợ của Tòa án đối
với hoạt động chứng minh của các đương sự phụ thuộc rất nhiều vào
trình độ hiểu biết pháp luật của đương sự, mức độ tham gia tố tụng của
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, cơ chế tố tụng
và các điều kiện kinh tế - xã hội khác. Sự hỗ trợ của Toà án đối với
việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh của đương sự nhằm bảo đảm tìm
ra chân lý, có thể làm giảm được những hậu quả bất lợi cho đương sự
trong trường hợp họ không thực hiện được nghĩa vụ chứng minh của
mình chứ không phải Tòa án làm thay đương sự.
BLTTDS 2015 ghi nhận các trường hợp loại trừ cho đương sự
khỏi nghĩa vụ chứng minh. Cụ thể là:
- Người tiêu dùng khởi kiện không có nghĩa vụ chứng minh lỗi
của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tổ chức, cá nhân
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bị kiện có nghĩa vụ chứng minh mình
không có lỗi gây ra thiệt hại theo quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng 2010;
- Đương sự là người lao động trong vụ án lao động mà không
cung cấp, giao nộp được cho Tòa án tài liệu, chứng cứ vì lý do tài liệu,
chứng cứ đó đang do người sử dụng lao động quản lý thì người sử
dụng lao động có trách nhiệm cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ đó
cho Tòa án;
- Người lao động khởi kiện vụ án đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động thuộc trường hợp người sử dụng lao động không được
thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc trường
hợp không được xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động theo
quy định của pháp luật về lao động thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về
người sử dụng lao động;
- Các trường hợp pháp luật có quy định khác về nghĩa vụ
chứng minh.

111
Việc loại trừ nghĩa vụ chứng minh trong các trường hợp trên
một mặt phù hợp với quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng 2010, Bộ luật Lao động 2012, là công cụ mạnh mẽ, cần thiết
đối với bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, bảo vệ các nhà sản xuất
kinh doanh chân chính, bảo vệ người lao động.
Trong quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, nguyên đơn được quyền
khởi kiện là cơ sở để mở ra một quá trình tố tụng tại Tòa án. Toàn bộ
quá trình tố tụng dân sự kể từ khi Tòa án thụ lý vụ, việc dân sự cho
đến khi kết thúc bằng một bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp
luật của Tòa án thể hiện quyền tự định đoạt và ý chí của đương sự rất
nhiều. Khi các bên đương sự có tranh chấp, đương sự là người hiểu
hơn ai hết vấn đề của họ, mâu thuẫn của họ. Đương sự cũng là người
nắm bắt sâu sắc nhất tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ việc dân sự
của mình là gì và đang ở đâu. Trong mối tương quan giữa các đương
sự thì nguyên đơn phải chứng minh trước sau đó đến bị đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Nguyên đơn đưa ra yêu cầu phải đưa ra các chứng cứ, căn cứ
pháp lý để chứng minh trên cơ sở đó quyền và lợi ích hợp pháp của
nguyên đơn được xác lập. Việc chứng minh tính hợp pháp của yêu cầu
gắn liền với việc xuất trình chứng cứ cũng như việc chỉ ra các căn cứ
pháp lý (các quy định của pháp luật) mà từ đó là cơ sở để Tòa án chấp
nhận yêu cầu của họ.
Bị đơn phản đối lại yêu cầu của nguyên đơn thì phải đưa ra các
chứng cứ, căn cứ pháp lý làm cơ sở cho sự phản đối của mình. Người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng phải chứng minh cho yêu cầu hay
sự phản đối yêu cầu của họ. Như vậy, các đương sự được bình đẳng về
quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ đồng thời đây là cơ sở pháp lý
để thiết lập quyền bình đẳng về nghĩa vụ chứng minh. BLTTDS 2015
đã sửa đổi quy định về nghĩa vụ chứng minh của đương sự, khắc phục
những tranh cãi trong các quan điểm học thuật trước đây, quy định
nghĩa vụ chứng minh không đồng nhất chỉ là nghĩa vụ cung cấp chứng
cứ. Ngoài ra, hậu quả của việc đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ

112
để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ
chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ án dân sự theo những chứng cứ đã
thu thập được lần đầu tiên được pháp điển hóa chính thức trong luật.
1.5. Thời điểm giao nộp chứng cứ
BLTTDS 2015 bổ sung quy định về thời gian giao nộp chứng cứ.
Theo đó, thời hạn giao nộp chứng cứ do Thẩm phán được phân công giải
quyết vụ việc ấn định nhưng không được vượt quá thời hạn chuẩn bị xét
xử theo thủ tục sơ thẩm, thời hạn chuẩn bị giải quyết việc dân sự theo quy
định của Bộ luật này. Luật cũng ghi nhận quy định mở “Trường hợp sau
khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, quyết định
mở phiên họp giải quyết việc dân sự, đương sự mới cung cấp, giao nộp
tài liệu, chứng cứ mà Tòa án đã yêu cầu giao nộp nhưng đương sự
không giao nộp được vì có lý do chính đáng thì đương sự phải chứng
minh lý do của việc chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ đó. Đối với tài
liệu, chứng cứ mà trước đó Tòa án không yêu cầu đương sự giao nộp
hoặc tài liệu, chứng cứ mà đương sự không thể biết được trong quá
trình giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm thì đương sự có quyền
giao nộp, trình bày tại phiên toà sơ thẩm phiên họp giải quyết việc dân
sự hoặc các giai đoạn tố tụng tiếp theo của việc giải quyết vụ việc dân
sự” (khoản 4 Điều 96). Quy định này nhằm đảm bảo cho các đương
sự thời gian nghiên cứu, phân tích chứng cứ, tài liệu liên quan của các
bên, đó là khoảng thời gian chờ mở phiên tòa xét xử. Nếu đương sự
chứng minh và được Tòa án chấp nhận chứng cứ trong khoảng thời
gian chờ mở phiên tòa xét xử hoặc tại phiên tòa xét xử thì đương sự
bên kia có quyền được biết chứng cứ đó và có thể yêu cầu Tòa án kéo
dài thời gian xét xử để nghiên cứu, phân tích, thẩm định chứng cứ. Bên
cạnh việc quy định vai trò hỗ trợ của Tòa án đối với việc thực hiện
nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của đương sự, thời hạn
cung cấp chứng cứ của đương sự cho Tòa án, pháp luật tố tụng dân sự
ghi nhận các bên đương sự có nghĩa vụ phải cung cấp thông tin, tài
liệu, chứng cứ của vụ việc cho nhau để hạn chế thấp nhất những bất
ngờ, những chứng cứ mới mà các bên đương sự xuất trình bất cứ lúc
nào khi muốn. Như vậy, Tòa án sẽ không quá bị lệ thuộc vào thời gian

113
chờ đợi đương sự cung cấp chứng cứ ảnh hưởng đến quá trình tố tụng
của vụ án.
Trong trường hợp, đương sự không đưa ra được hoặc đưa ra
không đầy đủ chứng cứ chứng minh cho yêu cầu, phản đối yêu cầu của
phía đối tụng, Toà án vẫn tiến hành giải quyết vụ án dân sự theo thủ
tục chung, ra quyết định trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ đã thu thập
được có trong hồ sơ vụ việc dân sự và được kiểm tra, xem xét tại phiên
toà, kết quả việc hỏi tại phiên toà và ý kiến của người tham gia tố tụng,
Kiểm sát viên. Với quy định này thì có thể hiểu rằng hậu quả của việc
các đương sự không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ chứng cứ
cho Tòa án thì đương sự phải chấp nhận phán quyết của Tòa án mà
không có căn cứ chứng cứ do mình không cung cấp. Mặc dù pháp luật
tố tụng dân sự đã quy định trách nhiệm thông báo bằng văn bản và nêu
rõ lý do việc không cung cấp chứng cứ của đương sự nhưng thực tế
khó có thể xác định việc đương sự cố tình không cung cấp chứng cứ
và cũng chưa có cơ chế xử lý sự vi phạm trong những trường hợp này.
Trước đây, quy định thời hạn giao nộp chứng cứ chưa rõ ràng, dẫn đến
việc các đương sự lạm dụng, cung cấp chứng cứ ở bất cứ giai đoạn
nào và khi có chứng cứ mới thì việc xét xử lại vẫn diễn ra trên thực
tế. Do đó, quy định mới bổ sung về thời hạn cung cấp chứng cứ trong
BLTTDS năm 2015 về cơ bản tránh tình trạng lạm dụng của các đương
sự trong việc giao nộp chứng cứ. Đồng thời đảm bảo quyền giao nộp
chứng cứ của đương sự, đảm bảo sự thật của vụ án được sáng tỏ.
Khi đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án thì họ phải
sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác hoặc người đại diện
hợp pháp của đương sự khác; đối với tài liệu, chứng cứ quy định tại
khoản 2 Điều 109 BLTTDS 2015 về “công bố và sử dụng tài liệu,
chứng cứ” hoặc tài liệu, chứng cứ không thể sao gửi được thì phải
thông báo bằng văn bản cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp
pháp của đương sự khác biết nhằm tạo điều kiện tốt hơn cho đương sự
khác thực hiện nghĩa vụ chứng minh. Đồng thời đảm bảo thực thi có
hiệu quả nguyên tắc đảm bảo tranh tụng trong xét xử được ghi nhận tại
Điều 24 BLTTDS 2015.

114
2. Kỹ năng của Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên trong
hoạt động thu thập chứng cứ
2.1. Kỹ năng của Luật sư trong hoạt động thu thập chứng cứ
2.2.1. Kỹ năng của Luật sư trong hoạt động thu thập và hướng
dẫn đương sự cung cấp, giao nộp chứng cứ
Về lý luận, có thể tách bạch hoạt động cung cấp, thu thập, nghiên
cứu và đánh giá chứng cứ thành những nội dung riêng biệt nhằm nắm
bắt bản chất của hoạt động tư duy và hướng tới tìm hiểu cặn kẽ, tỉ mỉ
các bước của quá trình chứng minh. Song trên thực tế thì việc thu thập,
nghiên cứu và đánh giá chứng cứ luôn đan xen trong suốt quá trình liên
tục của tư duy. Quá trình thu thập, nghiên cứu chứng cứ diễn ra đồng
thời với quá trình đánh giá chứng cứ và có mối quan hệ biện chứng với
nhau. Luật sư cần lưu ý phân tích với khách hàng về nghĩa vụ chứng
minh của đương sự và hậu quả pháp lý của việc đương sự không thực
hiện được nghĩa vụ chứng minh.
Để chuẩn bị cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
đư­ợc tốt, đương sự cần chuẩn bị cho mình những chứng cứ cần thiết.
Những chứng cứ đó đương sự phải tự mình thu thập. Việc các đương
sự phải cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu của mình trong
quan hệ pháp luật tố tụng dân sự là một trong những nguyên tắc xuất
phát từ cơ sở quyền tự định đoạt của đương sự.
Các chứng cứ mà đ­ương sự có thể tự thu thập được bao gồm: Hồ
sơ cá nhân mà đương sự thường giữ một bản như các bản hợp đồng,
bản di chúc, giấy chứng nhận kết hôn, giấy khai sinh, biên bản bàn
giao tài sản, các giấy tờ về quyền sở hữu nhà, các giấy tờ về quyền sở
hữu tài sản, các giấy tờ về quyền sử dụng đất... Các đ­ương sự cũng có
thể thu thập đ­ược các chứng cứ khác từ các nguồn khác nhau.
Ví dụ:
Giấy biên nhận do ngư­ời vay nợ gửi cho đ­ương sự giữ, các giấy
tờ liên quan đến quyền và nghĩa vụ của bị đơn đang do các cơ quan
chức năng giữ nhưng nguyên đơn đã thu thập đư­ợc. Các giấy tờ tài

115
liệu do các cơ quan chức năng tống đạt cho nguyên đơn trong quá
trình thực hiện công việc... Có một số giấy tờ tài liệu hoặc chứng
cứ đương sự phải tự mình thu thập thông qua các cơ quan chính
quyền ở địa phương như giấy xin xác nhận hoặc chứng nhận về
một sự kiện pháp lý nào đó, các loại biên bản làm việc hoặc
biên bản trao đổi với cơ quan nhà nước...
Khi đưa ra yêu cầu, đương sự phải thu thập và cung cấp chứng
cứ để chứng minh cho yêu cầu dù đó là yêu cầu về nội dung giải quyết
tranh chấp hay yêu cầu về tố tụng. Tương ứng với từng đặc trưng trong
yêu cầu của đương sự mà Luật sư cần tư vấn cho khách hàng những
tính chất riêng của việc cung cấp chứng cứ:
- Cung cấp chứng cứ liên quan đến yêu cầu khởi kiện: chủ thể
khởi kiện phải thu thập và đưa ra các chứng cứ để chứng minh cơ sở
của việc khởi kiện đó. Thiếu những chứng cứ này, Toà án sẽ không có
căn cứ để thụ lý vụ việc dân sự. Tòa án chỉ có thể giải quyết đúng vụ
việc dân sự khi có đủ chứng cứ và các tình tiết của vụ việc dân sự đã
được làm sáng tỏ.
- Cung cấp chứng cứ liên quan đến yêu cầu phản tố: khi tham gia
quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, bị đơn có quyền yêu cầu lại đối với
nguyên đơn để đề nghị Toà án buộc nguyên đơn phải thực hiện nghĩa
vụ đối với mình. Yêu cầu được coi là yêu cầu phản tố của bị đơn đối
với nguyên đơn, nếu yêu cầu đó để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của
nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc
lập; Yêu cầu phản tố được chấp nhận dẫn đến loại trừ việc chấp nhận
một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập; Giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu
của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc
lập có sự liên quan với nhau và nếu được giải quyết trong cùng một
vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn.
- Cung cấp chứng cứ liên quan đến các yêu cầu khác: Trường
hợp đương sự yêu cầu Tòa án thực hiện các biện pháp tố tụng nhằm thu
thập chứng cứ thì phải có trách nhiệm chỉ rõ việc tự mình không thể

116
thu thập được chứng cứ, cụ thể là đã áp dụng các biện pháp cần thiết
mà khả năng cho phép nhưng vẫn không thu thập được chứng cứ. Khi
đưa ra yêu cầu đề nghị Tòa án thu thập chứng cứ, đương sự phải đề
xuất biện pháp cụ thể đề nghị Tòa án thu thập chứng cứ, mục đích để
chứng minh cho sự kiện gì, giá trị chứng minh đối với vụ việc và tính
liên quan đến vụ việc. Nếu chứng cứ thu được không có giá trị chứng
minh hoặc không liên quan đến vụ việc thì Tòa án không sử dụng hoặc
không chấp nhận yêu cầu của đương sự.
Trong một vụ án thông thư­ờng có rất nhiều loại chứng cứ
khác nhau. Luật sư­ cần hướng dẫn các đư­ơng sự nắm bắt được sơ
bộ chứng cứ nào là quan trọng đối với việc xem xét và giải quyết
vụ án, trên cơ sở đó giúp đương sự tập hợp các chứng cứ lại theo
h­ướng dẫn của mình. Thông th­ường, chứng cứ có thể đ­ược sắp xếp
theo thứ tự ngày, tháng, năm; theo nội dung hoặc theo hình thức
của chứng cứ đó. Đối với những chứng cứ là bản gốc duy nhất,
Luật sư­ cần h­ướng dẫn các đương sự sao chụp và công chứng các
bản sao từ bản gốc. Tất cả các chứng cứ mà đương sự đã thu thập
đ­ược nhất thiết phải đ­ược sao chụp làm 03 bản trở lên. Một bản
để nộp cho Toà án, một bản do Luật sư­ hoặc đương sự giữ, bản
còn lại gửi cho đương sự phía bên kia. Theo quy định tại khoản 5 Điều 96
BLTTDS 2015: “Khi đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa
án thì họ phải sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác hoặc
người đại diện hợp pháp của đương sự khác; đối với tài liệu, chứng cứ
quy định tại khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này hoặc tài liệu, chứng cứ
không thể sao gửi được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự
khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác”. Trên cơ sở
quy định này, Luật sư giải thích cho khách hàng về trách nhiệm sao gửi
tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp
của đương sự khác. BLTTDS 2015 không quy định cụ thể về thời điểm
đương sự phải gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác hoặc người đại
diện hợp pháp của họ. Tuy nhiên, việc quy định đương sự có nghĩa vụ
gửi cho đương sự khác bản sao tài liệu, chứng cứ tại khoản 9 Điều 70,
khoản 5 Điều 96 BLTTDS 2015 là nhằm đảm bảo việc tiếp cận chứng

117
cứ để thực hiện quyền tranh tụng của đương sự trong quá trình Tòa án
giải quyết vụ án. Do vậy, nguyên đơn phải gửi bản sao đơn khởi kiện,
tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác trước thời điểm mở phiên họp
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.
Bên cạnh đó, BLTTDS 2015 không quy định phương thức đương
sự sao gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác nên đương sự có
quyền lựa chọn phương thức sao gửi tài liệu, chứng cứ cho đương
sự khác (gửi trực tiếp, gửi qua đường bưu điện...) và đương sự phải
chứng minh với Tòa án đã sao gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự
khác. Do vậy, trong quá trình tố tụng, Luật sư phải giải thích, hướng
dẫn cho đương sự để họ thực hiện nghĩa vụ sao gửi tài liệu, chứng cứ
cho đương sự khác. Trường hợp đương sự không thực hiện việc sao
gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác thì Tòa án yêu cầu đương sự
phải thực hiện. Trường hợp vì lý do chính đáng, không thể sao gửi tài
liệu, chứng cứ cho đương sự khác thì đương sự có quyền yêu cầu Tòa
án thu thập chứng cứ1.
Sau khi đã thu thập đư­ợc các chứng cứ cần thiết, Luật sư­ cần
h­ướng dẫn đư­ơng sự cung cấp các chứng cứ cho Toà án. Về nguyên
tắc, các chứng cứ sẽ lần lư­ợt đ­ược cung cấp cho Toà án để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho các đư­ơng sự. Tuy vậy, cung cấp chứng
cứ nào và thời điểm nào là một quyết định có tính chất “chiến lư­ợc”.
Luật sư cần cân nhắc kỹ về thời điểm cung cấp chứng cứ để tư vấn cho
khách hàng của mình, có những chứng cứ cần thiết phải đư­ợc cung cấp
ngay để thông qua Toà án, nội dung của chứng cứ đó đư­ợc chuyển tải
cho phía bên kia, nhưng cũng có những chứng cứ nếu cung cấp ngay
cho Toà án và phía đương sự khác biết đư­ợc có thể gây bất lợi cho
mình. Đặc biệt, Luật sư cần lưu ý về thời điểm giao nộp chứng cứ
do Thẩm phán ấn định hoặc thời hạn do luật định để tránh trường
hợp phải chứng minh các điều kiện xuất trình chứng cứ quá hạn
được chấp nhận xem xét. Về thời điểm cung cấp chứng cứ gắn với

1
Tòa án nhân dân tối cao, Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC giải đáp một số vấn đề
về nghiệp vụ ngày 07/4/2017 (mục IV điểm 8 hướng dẫn quy định tại khoản 9 Điều 70,
khoản 5 Điều 96 BLTTDS 2015).

118
nghĩa vụ chứng minh của đương sự, Luật sư cần đặc biệt lưu ý các
thời điểm sau để tư vấn cho khách hàng của mình.
Thứ nhất, cung cấp chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.
Giai đoạn này Toà án tiến hành các hoạt động cần thiết để thu thập
chứng cứ và b­ước đầu đánh giá chứng cứ. Bên cạnh các chứng cứ do
khách hàng cung cấp còn có các chứng cứ do các đương sự khác có
quyền lợi đối lập cung cấp. Để làm rõ các yêu cầu của mình và phản
bác các yêu cầu của bên đối tụng, Luật sư­cần hư­ớng dẫn để các đương
sự chỉ cung cấp cho Toà án các chứng cứ với mục đích trên. Những
chứng cứ ch­ưa thực sự cần thiết phải cho bên đối tụng biết nên khuyên
đư­ơng sự ch­ưa cung cấp cho Toà án vội. Trong giai đoạn chuẩn bị xét
xử đối với các vụ án dân sự, Toà án đều mời các đương sự lên để lấy
lời khai. Luật sư cần lưu ý vấn đề này để hướng dẫn khách hàng khai
báo đầy đủ các vấn đề cho Toà án. Song song với việc khai báo ở Toà
án, Luật sư­cần chuẩn bị cho đư­ơng sự các bài giải trình. Các bài giải
trình này cần trình bày ngắn gọn và nên đi vào trọng tâm của vấn đề.
Mỗi một bài giải trình cần đặt ra cho mình một mục tiêu cụ thể nhằm
lý giải thuyết phục dứt điểm một vấn đề. Cùng với việc giải trình, Luật
sư hướng dẫn đương sự cần thu thập và cung cấp cho Toà án những
văn bản, tài liệu có liên quan. Các văn bản, tài liệu này không nhất
thiết phải sao chép toàn bộ mà chỉ cần sao chép những nội dung có
liên quan để giúp Toà án nhìn nhận vấn đề một cách chính xác và có
hiệu quả.
Trường hợp Luật sư đã xác định đ­ược các lập luận, quan điểm
của bên đối lập thì cũng cần thiết phải chuẩn bị các bài giải trình để
phản bác lại các lập luận đó. Các phản bác nên ngắn gọn, sắc bén, có
tính thuyết phục và phải luôn luôn đ­ược phân tích và nhìn nhận từ góc
độ pháp lý, vận dụng thuyết phục các căn cứ pháp luật được áp dụng.
Về hình thức các chứng cứ cần cung cấp cho Toà án cần thiết phải
đư­ợc đóng lại thành từng tệp có hệ thống. Các mục tiêu, yêu cầu hoặc
các luận cứ của mình cần đ­ược trình bày ngắn gọn và in chữ to, đậm
trong từng trang riêng biệt. Khi cung cấp chứng cứ cho Toà án nên thể
hiện rõ quan điểm của mình là chứng cứ này dùng để chứng minh cho

119
yêu cầu nào của mình và tại sao. Luật sư cũng cần đề xuất luôn ph­ương
án để Toà án xem xét.
Đặc thù của giai đoạn chuẩn bị xét xử là đương sự phải bổ
sung chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án. Luật sư cần hướng dẫn
đương sự khi giao nộp trực tiếp cho Tòa án các chứng cứ kèm theo
đơn thì cần yêu cầu Tòa án giao biên bản giao nhận chứng cứ.
Trong biên bản giao chứng cứ cần thể hiện rõ giao nhận bản gốc
hay bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp, bên giao và bên
nhận đều phải ký “tươi” ở tất cả các trang. Đương sự cũng có thể
gửi đơn kiện, đơn yêu cầu kèm theo chứng cứ qua đường bưu điện.
Trong trường hợp này, Luật sư cần hướng dẫn cho đương sự giữ lại
các giấy tờ xác nhận việc gửi qua đường bưu điện.
Thứ hai, cung cấp chứng cứ tại phiên họp kiểm tra việc giao
nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ. Đây là phương thức để bảo đảm
các đương sự được quyền biết và tiếp cận tất cả các tài liệu, chứng cứ;
trao đổi chứng cứ, bổ sung tài liệu, chứng cứ (nếu có), xác định những
chứng cứ đã giao nộp; đề nghị triệu tập người làm chứng hoặc những
người tham gia tố tụng khác,… của vụ án trước khi Tòa án ra quyết
định đưa vụ án ra xét xử giúp cho đương sự có đủ điều kiện chuẩn bị
việc tranh tụng tại phiên tòa. Luật sư cần lưu ý về quy định tại khoản 3
Điều 200 và khoản 2 Điều 201 BLTTDS 2015: Bị đơn có quyền đưa ra
yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền đưa
ra yêu cầu độc lập trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao
nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Mục đích của phiên họp
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhằm
xác định yêu cầu và phạm vi khởi kiện, việc sửa đổi, bổ sung, thay đổi,
rút yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập; những vấn
đề đã thống nhất, những vấn đề chưa thống nhất yêu cầu Tòa án giải
quyết; tài liệu, chứng cứ đã giao nộp cho Tòa án và việc gửi tài liệu,
chứng cứ cho đương sự khác; bổ sung tài liệu, chứng cứ; yêu cầu Tòa
án thu thập tài liệu, chứng cứ; yêu cầu Tòa án triệu tập đương sự khác,
người làm chứng và người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa. Như
vậy, về nguyên tắc sau phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công

120
khai chứng cứ và hòa giải cuối cùng các đương sự không có quyền
cung cấp chứng cứ, không có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu nếu việc
thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện,
yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu và không có căn cứ để
Tòa án chấp nhận chứng cứ giao nộp quá hạn.
Thứ ba, cung cấp chứng cứ tại phiên toà. Trường hợp tại phiên
tòa, đương sự mới có chứng cứ để giao nộp, Luật sư cần hướng
dẫn cho khách hàng phải chứng minh lý do của việc chậm giao nộp
chứng cứ đó hoặc những chứng cứ mà trước đó Tòa án không yêu
cầu đương sự giao nộp hoặc chứng cứ mà đương sự không thể biết
được trong quá trình giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm. Tuy vậy,
bởi vì các phần việc của Toà án nói chung đã đư­ợc chuẩn bị kỹ trư­ớc
khi Toà án mở phiên toà do đó việc cung cấp thêm chứng cứ mới của
đ­ương sự không nên làm xáo trộn các công việc chuẩn bị của Toà án
trước đó. Thực tế là, các chứng cứ cung cấp tại phiên toà có thể là
những chứng cứ mà đư­ơng sự đã thu thập đ­ược trước đó như­ng ch­ưa
cung cấp cho Toà án, cũng có thể là các chứng cứ mà đương sự mới
thu thập đư­ợc. Việc cung cấp các chứng cứ tại phiên toà phải thực sự
gây đ­ược sự chú ý của Toà án nếu không nói chứng cứ do mình cung
cấp có thể giúp Toà án nhìn nhận lại vụ tranh chấp một cách có lợi
cho mình hơn.
Về thủ tục, khi giao nộp chứng cứ Luật sư phải kiểm tra việc
thư ký Tòa án thực hiện việc giao nhận chứng cứ. Nếu việc giao nhận
chứng cứ trước khi mở phiên tòa, phiên họp, thì thư ký Tòa án phải lập
biên bản về việc giao nhận chứng cứ theo quy định chung. Nếu việc
giao nhận chứng cứ trong quá trình xét xử hoặc trong quá trình phiên
họp, thì ghi vào biên bản phiên tòa, biên bản phiên họp. Biên bản giao
nhận chứng cứ phải được người có thẩm quyền của Tòa án theo quy
định của pháp luật tố tụng ký tên, xác nhận và đóng dấu của Tòa án.
2.2.2. Hướng dẫn đương sự đề nghị Tòa án thu thập chứng cứ
Quá trình thu thập và giao nộp chứng cứ là một quá trình tố tụng
quan trọng mà Luật sư cần hướng dẫn đương sự thực hiện đúng và

121
đầy đủ theo quy định của pháp luật. Trường hợp đương sự không thể
tự mình thu thập được chứng cứ thì có quyền yêu cầu Thẩm phán tiến
hành một hoặc một số biện pháp để thu thập chứng cứ. Khi đương
sự có yêu cầu Tòa án tiến hành một hoặc một số biện pháp thu thập
chứng cứ, đương sự phải thể hiện thành văn bản. Tùy từng trường
hợp, Luật sư hướng dẫn khách hàng phải viết thành một đơn yêu cầu
riêng, nhưng cũng có thể kết hợp ghi yêu cầu của đương sự trong bản
khai, bản ghi lời khai, biên bản đối chất. Nếu đương sự trực tiếp đến
Tòa án yêu cầu thì Thẩm phán phải lập biên bản ghi rõ yêu cầu của
đương sự. Riêng đối với trường hợp đương sự yêu cầu Tòa án tiến
hành thu thập chứng cứ bằng biện pháp yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ
chức cung cấp chứng cứ thì nhất thiết Luật sư cần hướng dẫn khách
hàng soạn thảo đơn yêu cầu riêng.
Yêu cầu của đương sự về việc đề nghị Tòa án thu thập chứng
cứ cũng cần phải nêu rõ biện pháp đương sự đề nghị Tòa án áp dụng
là biện pháp thu thập nào, biện pháp đó có được quy định trong
BLTTDS hay không. Luật sư cần giải thích cho khách hàng nghĩa
vụ nộp tạm ứng chi phí tương ứng với biện pháp thu thập mà đương
sự yêu cầu (ví dụ, chi phí giám định, tiền tạm ứng chi phí giám định,
định giá...). Để có thể yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ, Luật sư cần
hướng dẫn khách hàng chứng minh việc tự mình đã thu thập chứng
cứ nhưng không thể thu thập được, ví dụ đã yêu cầu cơ quan có thẩm
quyền cung cấp chứng cứ nhưng không được cơ quan chấp nhận và cơ
quan đã có thông báo về việc không cung cấp chứng cứ theo yêu cầu
của đương sự, vì vậy, đương sự có yêu cầu Thẩm phán tiến hành biện
pháp thu thập chứng cứ.
Ví dụ:
Kết luận giám định là một nguồn chứng cứ quan trọng làm cơ
sở cho việc giải quyết vụ việc dân sự, thậm chí trong nhiều vụ kiện,
kết luận giám định có tính chất quyết định đối với phán quyết của
Tòa án. Luật sư cần hướng dẫn cho khách hàng của mình yêu cầu
Tòa án tiến hành trưng cầu giám định khoa học. Luật sư cũng cần
xem xét nguồn chứng cứ này trong mối quan hệ với các chứng cứ

122
khác, vì không thể loại trừ trường hợp Giám định viên có thể vô ý
hoặc cố ý đưa ra những kết luận thiếu khách quan.
Để kết luận giám định đáp ứng các thủ tục thu thập hợp pháp,
Luật sư cần căn cứ theo quy định tại Điều 102 BLTTDS 2015, lưu
ý các yếu tố sau:
- Sự thoả thuận lựa chọn hoặc yêu cầu Toà án trưng cầu giám
định phải được thể hiện bằng văn bản (có thể làm bằng văn bản
riêng, có thể ghi trong bản khai, có thể ghi trong biên bản ghi
lời khai, biên bản đối chất). Pháp luật tố tụng dân sự hiện hành
không dành sự chủ động áp dụng biện pháp thu thập chứng cứ là
quyết định trưng cầu giám định cho Tòa án.
- Khi soạn thảo đơn đề nghị Tòa án trưng cầu giám định, Luật sư
tư vấn cho khách hàng thể hiện rõ yêu cầu Tòa án ban hành quyết
định trưng cầu giám định. Các nội dung Luật sư cần lưu ý thể hiện
trong đơn đề nghị Tòa án trưng cầu giám định: yêu cầu về tên, địa
chỉ của tổ chức giám định nếu Toà án trưng cầu tổ chức giám định tư
pháp hoặc họ, tên, địa chỉ của Giám định viên được trưng cầu giám
định nếu Toà án trưng cầu người đó tiến hành giám định (nếu có);
Nguồn gốc và đặc điểm của đối tượng giám định; Tên các tài liệu có
liên quan hoặc mẫu so sánh gửi kèm theo; Những vấn đề cần giám
định; Các yêu cầu cụ thể cần có kết luận giám định; Thời hạn trả
kết luận giám định. Kèm theo đơn yêu cầu trưng cầu giám định, tùy
theo từng loại vụ, việc đề nghị trưng cầu giám định cụ thể, Luật sư
cần thiết hướng dẫn khách hàng thu thập mẫu so sánh.
2.2.3. Xác định nội dung và thủ tục thu thập chứng cứ
Hoạt động thu thập chứng cứ trong vụ việc dân sự phải được tiến
hành trong khuôn khổ của pháp luật thì chứng cứ được thu thập mới
có giá trị chứng minh. Trong quá trình chứng minh nếu Luật sư không
xác định được nội dung cần thu thập hoặc xác định không chính xác
nội dung thu thập thì sẽ dẫn đến hệ quả là quá trình thu thập chứng cứ
sẽ tràn lan, thu thập cả những thông tin, tài liệu không liên quan đến vụ
việc hoặc không liên quan đến những tình tiết, sự kiện cần phải chứng
minh hoặc ngược lại, quá trình thu thập tài liệu, chứng cứ bị thu hẹp,

123
bỏ sót, không thu thập hết những thông tin, tài liệu cần thiết có liên
quan đến vụ việc, dẫn đến việc không có đủ những tài liệu, chứng cứ
để chứng minh những thông tin, mâu thuẫn của sự việc.
Hoạt động thu thập chứng cứ nhằm chuẩn bị cơ sở pháp lý, chuẩn
bị căn cứ để đáp ứng những nhu cầu về đối tượng cần phải chứng
minh. Do đó, để xác định được nội dung cần tiến hành xác minh thu
thập phải căn cứ vào đối tượng chứng minh.
* Xác định quan hệ pháp luật đang tranh chấp, phạm vi khởi kiện
Đây là yếu tố đầu tiên có ý nghĩa định hướng cho quá trình giải
quyết vụ việc dân sự cũng như việc xác định thủ tục tố tụng để giải
quyết. Việc xác định quan hệ pháp luật cần giải quyết dựa trên cơ sở
yêu cầu của các đương sự và bản chất của từng loại vụ việc dân sự đó,
trên cơ sở đối chiếu với các quy định của pháp luật.
* Xác định tư cách của chủ thể tham gia tố tụng
Để xác định được nội dung này Luật sư cần nghiên cứu các quy
định của BLTTDS về cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng và người tham gia tố tụng. Xuất phát từ việc xác định quan hệ
pháp luật cần giải quyết, Tòa án sẽ triệu tập những chủ thể có liên quan
đến quan hệ pháp luật đó và đặt họ vào đúng vị trí tố tụng. Tuy nhiên,
trong một vụ việc dân sự có thể xuất hiện nhiều quan hệ pháp luật khác
nhau, do vậy cần phải xác định quan hệ pháp luật nào đó là quan hệ
pháp luật chính, từ đó đặt vị trí tố tụng của nguyên đơn, bị đơn, người
có quyền và nghĩa vụ liên quan cho phù hợp.
Việc xác định đúng vị trí tố tụng của các đương sự trong vụ việc
dân sự không chỉ có ý nghĩa đảm bảo quyền lợi của các đương sự mà
còn là điều kiện quan trọng để Tòa án có thể giải quyết vụ việc kịp
thời, đúng pháp luật và triệt để. Ở bất kỳ giai đoạn nào của quá trình
giải quyết vụ việc dân sự Tòa án có quyền xác định một đương sự mới.
Việc không tập hợp hết đương sự hoặc không đặt họ đúng vị trí tố tụng
là vi phạm thủ tục tố tụng và các quyết định, bản án của Tòa án có thể
bị hủy, sửa án, làm cho vụ việc dân sự kéo dài không cần thiết.

124
* Xác định rõ những vấn đề cần phải chứng minh và trọng tâm
vấn đề cần phải chứng minh
Với tính chất đối tượng chứng minh được hình thành từ đặc trưng
của loại án, Luật sư cần lưu ý xác định không chỉ quan hệ pháp luật
chính (quan hệ pháp luật theo yêu cầu của nguyên đơn) mà cả các quan
hệ pháp luật phái sinh - các quan hệ pháp luật thuộc yêu cầu phản tố
của bị đơn và/hoặc quan hệ đứng về phía người có quyền lợi và nghĩa
vụ liên quan có yêu cầu độc lập, từ đó xác định được đối tượng chứng
minh của vụ việc dân sự. Luật sư cần dựa vào các quy định của pháp
luật nội dung đối với các quan hệ pháp luật đã được xác định, để xác
định những tình tiết, sự kiện cần phải chứng minh. Đồng thời cũng căn
cứ vào yêu cầu của đương sự và những mâu thuẫn giữa các đương sự,
mâu thuẫn về chứng cứ trong vụ việc dân sự để tìm ra trọng tâm vấn đề
cần phải chứng minh. Điều kiện này hướng Luật sư thu thập chứng cứ
tập trung vào những điểm mấu chốt, trọng tâm cần làm sáng tỏ trong
vụ việc dân sự. Với những sự kiện không liên quan đến việc giải quyết
vụ việc thì không cần thiết phải thu thập, vì nó không cần thiết và có
thể không được chấp nhận là chứng cứ. Còn những sự kiện không cần
phải chứng minh thì Tòa án cần đánh giá và công nhận các sự kiện đó
để đảm bảo tính thống nhất trong các bản án, quyết định của Tòa án.
Ví dụ:
Khi giải quyết tranh chấp đất đai, Luật sư phải xác định được
chính xác là quan hệ pháp luật là tranh chấp về quyền sử dụng đất
hay tranh chấp liên quan đến các giao dịch về quyền sử dụng đất
hay tranh chấp về tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất. Với mỗi
loại tranh chấp, chính sách và đường lối giải quyết lại có những
khác biệt mang tính bản chất và được điều chỉnh bởi nhiều văn
bản pháp luật riêng đối với từng loại đất. Vì vậy, khi thu thập các
chứng cứ, Luật sư phải nắm vững tính chất của quan hệ, Luật nội
dung điều chỉnh tương ứng với từng loại quan hệ pháp luật tranh
chấp đất đai ở từng thời kỳ lịch sử để chứng minh cho yêu cầu cụ
thể của khách hàng.
Ngay từ khi chuẩn bị hồ sơ khởi kiện, Luật sư cần giúp khách

125
hàng thu thập chứng cứ để chứng minh nguồn gốc đất. Cụ thể như
một trong các giấy tờ về đất sau đây:
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (nếu đất đã có giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất). Trên thực tế, nhiều trường hợp đất đã
có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do cơ quan có thẩm quyền
cấp, tuy nhiên loại đất đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng thì
lại ít có tranh chấp. Phần lớn các tranh chấp đất đai nói chung và
tranh chấp về quyền sử dụng đất nói riêng lại rơi vào trường hợp
đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Luật sư cần phải
căn cứ vào các quy định của Luật Đất đai để xác định các loại giấy
tờ hợp lệ hoặc không hợp lệ đối với đất. Các giấy tờ được xác định
là hợp lệ như:
+ Giấy tờ về quyền sử dụng đất đai trước ngày 15/10/1993 do
cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện
chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa,
Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền nam Việt Nam và
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
+ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng
đất, sổ địa chính;
+ Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất
hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền
với đất;
+ Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở
gắn liền với đất ở trước ngày 15/10/1993 nay được Ủy ban nhân
dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đã sử dụng đất trước ngày
15/10/1993;
+ Giấy tờ về thanh lý, hóa giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy
định của pháp luật;
+ Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho
người sử dụng đất (ví dụ bằng khoán điền thổ);
+ Một trong các giấy tờ nêu trên đây mà trên giấy tờ đó ghi tên

126
người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có
chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày 01/7/2004
chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định
của pháp luật;
+ Bản án hoặc quyết định của TAND, quyết định thi hành án
của cơ quan thi hành án; quyết định giải quyết tranh chấp đất đai
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành;
Khi thu thập chứng cứ này, Luật sư cần phải xem xét và nghiên
cứu kỹ chứng cứ để xác định quyền của người sử dụng đất và đánh
giá giá trị pháp lý của các giao dịch được xác lập khi chủ sử dụng
đất có các loại giấy tờ này. Hồ sơ khởi kiện đối với tranh chấp đất
đai thông thường bao gồm: Các giấy tờ chứng minh tư cách chủ
thể kiện, giấy tờ chứng minh nguồn gốc đất. Trường hợp tranh
chấp về các giao dịch về đất phải có các giấy tờ chứng minh về
giao dịch, quá trình thực hiện giao dịch... Đối với tranh chấp về
quyền sử dụng đất, trước khi khách hàng khởi kiện ra Tòa, Luật
sư cần hướng dẫn khách hàng gửi đơn đề nghị hòa giải tới Ủy ban
nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp và làm thủ tục
hòa giải tranh chấp đất đai tại cấp cơ sở.
Trong giai đoạn Tòa án chuẩn bị xét xử, bên cạnh việc thu thập
các chứng cứ chứng minh về nguồn gốc đất, có nhiều vụ án giấy
tờ về đất không thể hiện chính xác số thửa đất. Luật sư cũng có thể
đến Uỷ ban nhân dân xã, phường nơi diện tích đất tranh chấp tọa
lạc yêu cầu cung cấp các giấy tờ xác nhận việc sử dụng ổn định
lâu dài của chủ sử dụng đất, quy hoạch chi tiết của khu vực đang
có tranh chấp (nếu có). Đề nghị cơ quan quản lý đất đai chuyên
ngành cung cấp các loại bản đồ, sổ đăng ký đất đai, sổ mục kê…
để có được đầy đủ các thông tin về thửa đất, chủ sử dụng đất và
nguồn gốc đất đai, thời gian sử dụng đất, các biến động đất đai,
quá trình chuyển quyền sử dụng đất. Trong trường hợp đương sự
hoặc trực tiếp Luật sư đến các cơ quan này để thu thập chứng cứ
nhưng không thu thập được, Luật sư hướng dẫn khách hàng làm
đơn đề nghị Tòa án thu thập chứng cứ.

127
Tùy theo yêu cầu cụ thể và vị trí tham gia tố tụng của khách
hàng, Luật sư hướng dẫn khách hàng hoặc tự mình thu thập các
chứng cứ để xác định tình trạng thực tế của đất đai đang có tranh
chấp, công sức duy trì, tôn tạo và nâng giá trị sử dụng của quyền
sử dụng đất… Khi tìm hiểu về đất đai đang có tranh chấp, Luật
sư không nên chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu, xem xét các giấy tờ,
chứng cứ do khách hàng cung cấp hoặc tự mình thu thập mà nhất
thiết phải tận mắt xem xét thực trạng đất đai, diện tích đất, vị trí
cụ thể, kết cấu đất. Luật sư cần kiểm tra, đối chiếu thực tế đất đai
đang tranh chấp với các giấy tờ tài liệu thu thập được để làm rõ
mức độ phù hợp giữa các giấy tờ với thực tế đất đai; Xác định loại
đất, thực tế sử dụng đất như thế nào, sử dụng đất có đúng mục đích
hay không.
Trường hợp đất đã được tôn tạo (lấp ao, san hồ…), Luật sư
cũng cần hướng dẫn khách hàng thu thập chứng cứ để xác định và
tính toán công sức cho người đã san lấp (trường hợp bảo vệ quyền
lợi của người đã có công lấp ao, vũng, hồ…).
Luật sư có thể ước tính giá trị quyền sử dụng đất căn cứ vào
khung giá đất, hệ số sinh lợi và thực tế chuyển nhượng đất tại địa
phương nơi có đất tranh chấp. Điều này đặc biệt có giá trị trong
việc đưa ra các chứng cứ để thuyết phục Hội đồng định giá xác
định giá theo giá đất ở địa phương tại thời điểm xét xử sơ thẩm.
Khi thu thập chứng cứ, Luật sư phải căn cứ vào quyền lợi của
khách hàng. Mục đích thu thập chứng cứ là nhằm chứng minh các tình
tiết sự kiện để có cơ sở áp dụng các căn cứ pháp lý tương ứng với thời
điểm xác lập quan hệ mà pháp luật nội dung điều chỉnh, từ đó Luật sư
đề xuất Tòa án ban hành phán quyết hợp tình, hợp lý, đúng với các quy
định của pháp luật.
2.2. Kỹ năng của Thẩm phán trong hoạt động xác minh, thu
thập chứng cứ
2.2.1. Xác định các điều kiện để Tòa án thu thập chứng cứ
Về nguyên tắc, đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ chứng

128
minh cho yêu cầu của mình. Tòa án có trách nhiệm xem xét mọi tình
tiết của vụ án, căn cứ vào pháp luật để giải quyết yêu cầu của đương
sự. Nếu đương sự giao nộp thiếu chứng cứ, Thẩm phán yêu cầu đương
sự giao nộp chứng cứ bổ sung. Hình thức yêu cầu là văn bản thông
báo. Trong trường hợp này, có thể sử dụng mẫu thông báo Tòa án đã
dùng khi thụ lý vụ án. Về nội dung, thông báo phải ghi rõ chứng cứ mà
đương sự cần giao nộp bổ sung là chứng cứ gì, hậu quả pháp lý nếu
đương sự không giao nộp được chứng cứ đó.
Ví dụ:
Trong vụ án ly hôn, Tòa án phải giải quyết yêu cầu nuôi con
chưa thành niên. Nếu đương sự chưa nộp cho Tòa án giấy khai
sinh (bản sao) của con chưa thành niên, thì Thẩm phán yêu cầu
đương sự giao nộp bổ sung giấy khai sinh để làm căn cứ giải quyết
yêu cầu giao con chưa thành niên cho người cha hoặc người mẹ
trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục và quyết định mức cấp
dưỡng. Hoặc trong vụ án tranh chấp về hợp đồng vận chuyển hàng
hóa mà theo đơn khởi kiện thì ngoài hợp đồng còn có phụ lục hợp
đồng, nhưng nguyên đơn mới nộp cho Tòa án bản hợp đồng, thì
Thẩm phán yêu cầu nguyên đơn nộp bổ sung bản phụ lục hợp đồng
để có cơ sở giải quyết tranh chấp.
Cũng có thể kết hợp khi ghi biên bản lấy lời khai của đương sự,
Thẩm phán yêu cầu đương sự phải bổ sung chứng cứ còn thiếu. Dù
với cách thức nào thì yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng
cứ cũng phải được thể hiện bằng văn bản để lưu trong hồ sơ vụ án.
Vấn đề yêu cầu đương sự giao nộp chứng cứ hiện có hai quan
điểm: quan điểm thứ nhất cho rằng khi yêu cầu đương sự giao nộp
chứng cứ Thẩm phán phải yêu cầu rõ đương sự bổ sung cụ thể tài liệu,
chứng cứ nào? Quan điểm thứ hai lại cho rằng Thẩm phán chỉ yêu cầu
đương sự bổ sung chứng cứ nhưng không nêu rõ tên tài liệu, chứng cứ
gì, vì pháp luật tố tụng không quy định rõ ràng? Tuy nhiên, trên thực
tế để tạo điều kiện cho đương sự thực hiện nghĩa vụ chứng minh đồng
thời cũng tạo điều kiện để Tòa án giải quyết vụ án đúng thời hạn luật
định, Tòa án thường ban hành văn bản yêu cầu đương sự cung cấp cụ

129
thể những tài liệu, chứng cứ phải giao nộp cho Tòa án. Nếu Tòa án yêu
cầu giao nộp chứng cứ được thể hiện trong biên bản lấy lời khai của
đương sự thì cũng phải nêu rõ tên, loại tài liệu, chứng cứ mà đương
sự phải giao nộp cho Tòa án. Dù với cách thức nào thì yêu cầu đương
sự giao nộp bổ sung chứng cứ cũng phải được thể hiện bằng văn bản
để lưu trong hồ sơ vụ án. Các văn bản này là một trong những căn cứ
pháp lý để Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ theo quy định của pháp
luật tố tụng.
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, nếu cá nhân, cơ quan, tổ chức không
cung cấp được chứng cứ cho đương sự, thì phải thông báo bằng văn
bản có ghi rõ lý do của việc không cung cấp được chứng cứ cho đương
sự biết.
Khi nhận thấy đã đủ những điều kiện để tiến hành thu thập chứng
cứ theo yêu cầu của đương sự, Thẩm phán cần giải thích cho đương sự
biết nghĩa vụ nộp tạm ứng chi phí tương ứng với biện pháp thu thập
mà đương sự yêu cầu nếu pháp luật quy định đương sự phải chịu chi
phí tiến hành biện pháp thu thập chứng cứ đó. Thẩm phán chỉ tiến hành
thu thập chứng cứ khi đương sự đã nộp tiền tạm ứng chi phí tương ứng,
nếu thuộc trường hợp họ phải nộp tiền tạm ứng chi phí.
2.2.2. Kỹ năng tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ
Theo quy định tại khoản 2 Điều 97 BLTTDS 2015 Tòa án có
thể áp dụng một hoặc một số biện pháp sau đây để thu thập tài liệu,
chứng cứ: i) Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng; ii) Đối chất
giữa các đương sự với nhau, giữa đương sự với người làm chứng; iii)
Trưng cầu giám định, yêu cầu giám định; iv) Định giá tài sản; v) Xem
xét, thẩm định tại chỗ; vi) Ủy thác thu thập, xác minh tài liệu, chứng
cứ; vii) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu đọc được,
nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết
vụ việc dân sự; viii) Xác minh sự có mặt hoặc vắng mặt của đương sự
tại nơi cư trú; ix) Các biện pháp khác theo quy định của Bộ luật này.
Khi áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ, Thẩm phán cần
thực hiện các kỹ năng nhất định, cụ thể như sau:

130
a) Lấy lời khai của đương sự
Các đương sự là những người có quyền lợi và nghĩa vụ gắn liền
với vụ án, họ là người trực tiếp liên quan đến các tình tiết trong vụ
kiện, họ là người biết rõ nội dung vụ kiện đã và đang tồn tại như thế
nào. Vì vậy, việc lấy lời khai của các đương sự có một ý nghĩa hết sức
quan trọng trong việc làm sáng tỏ nội dung vụ án, yêu cầu của các
đương sự và là cơ sở để xác định hướng giải quyết vụ án.
Thẩm quyền lấy lời khai của đương sự thuộc về Thẩm phán, Thư
ký Tòa án chỉ có thể giúp Thẩm phán ghi lời khai của đương sự vào
biên bản. Trên thực tế giải quyết các vụ việc dân sự, nhiều trường hợp
Thư ký hoặc cán bộ Tòa án thực hiện lấy lời khai của đương sự khi có
sự phân công của Thẩm phán và được sự đồng ý của đương sự. Trường
hợp vì lý do công tác hoặc trở ngại khách quan, Thẩm phán có thể giao
cho Thư ký Tòa án tiến hành lấy lời khai nếu đương sự đồng ý phù hợp
với thực tế giải quyết các vụ việc dân sự tại Tòa án hiện nay, khi mà
khối lượng công việc của Thẩm phán giải quyết ngày một tăng, đương
sự không phải ai cũng có thể tự viết bản tự khai ban đầu với nội dung
đơn giản chưa cần làm sáng tỏ những mâu thuẫn trong lời khai của họ.
Biên bản lấy lời khai phải có xác nhận của Thẩm phán.
Việc lấy lời khai của đương sự chỉ tập trung vào những tình tiết
mà đương sự khai chưa đầy đủ, rõ ràng. Thẩm phán tự mình hoặc Thư
ký Tòa án ghi lại lời khai của đương sự vào biên bản. Để việc lấy lời
khai của các đương sự phục vụ tốt cho quá trình giải quyết các vụ án,
Thẩm phán phải nắm chắc các tình tiết có ý nghĩa quan trọng của vụ
án, các quy định của pháp luật nội dung cần áp dụng giải quyết vụ án,
trường hợp Thư ký lấy lời khai của đương sự cũng cần yêu cầu đương
sự khai chi tiết, cụ thể nội dung sự việc vụ án. Lời khai của đương
sự phải tập trung làm rõ nội dung cơ bản của vụ án, yêu cầu của các
bên đương sự, các căn cứ pháp lý và chứng cứ thực tế để bảo vệ yêu
cầu của họ.
Về địa điểm lấy lời khai, Thẩm phán phải tiến hành lấy khai của
đương sự tại trụ sở Tòa án. Trong những trường hợp vì lý do khách

131
quan, chính đáng như đương sự đang bị tạm giam, chấp hành hình
phạt tù, ốm đau, đương sự không có mặt tại Tòa án… Thẩm phán
không thể lấy lời khai của đương sự tại trụ sở thì Thẩm phán, Thư
ký Tòa án có thể lấy lời khai của đương sự ngoài trụ sở. Việc lấy lời
khai của đương sự ngoài trụ sở Tòa án phải đảm bảo đúng quy định
của pháp luật, quy định đối với cán bộ, công chức của ngành TAND
và bảo đảm khách quan. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 98 BLTTDS quy
định việc lấy lời khai đương sự ngoài trụ sở Tòa án trong mọi trường
hợp phải có người làm chứng hoặc xác nhận của Ủy ban nhân dân,
công an xã, phường, thị trấn là không phù hợp và không cần thiết. Vì
trường hợp đương sự là người có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự,
nếu Tòa án lấy lời khai không khách quan, thì họ có đầy đủ khả năng
nhận biết và có quyền từ chối không ký vào biên bản ghi lời khai.
Trường hợp lấy lời khai ngoài trụ sở Tòa án nhưng không có người
làm chứng mà có xác nhận của Ủy ban nhân dân, công an xã, phường
thị trấn nơi lập biên bản thì Ủy ban nhân dân, công an sẽ xác nhận nội
dung gì vào biên bản ghi lời khai (Ủy ban nhân dân, công an chỉ cần
xác nhận về sự có mặt của người làm chứng A, B tại địa phương hay
phải chứng kiến việc Tòa án lấy lời khai và xác nhận). Vấn đề này
pháp luật cũng chưa quy định cụ thể rõ ràng, nên trên thực tế có nhiều
cách làm khác nhau để Tòa án lấy lời khai của đương sự.
Đối với đương sự quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 69
BLTTDS 2015 về “Năng lực pháp luật tố tụng dân sự và năng lực
hành vi tố tụng dân sự của đương sự”, tức là đương sự chưa đủ 6 tuổi
hoặc người mất năng lực hành vi dân sự, đương sự từ đủ 6 tuổi đến
chưa đủ 15 tuổi thì việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những
người này tại Tòa án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện.
Trong trường hợp lấy lời khai của họ thì phải có mặt người đại diện
hợp pháp của họ và người đại diện hợp pháp phải ký tên hoặc điểm
chỉ xác nhận vào biên bản lấy lời khai.
Khi ghi biên bản lấy lời khai của đương sự, Tòa án phải thể hiện
rõ ngày, giờ, tháng, năm ghi biên bản, địa điểm lấy lời khai, người
tiến hành lấy lời khai, họ tên, tuổi, địa chỉ nghề nghiệp của người

132
được lấy lời khai. Trường hợp Thư ký Tòa án lấy lời khai thì phải thể
hiện sự đồng ý của đương sự trong biên bản lấy lời khai. Biên bản
phải ghi đầy đủ chính xác nội dung khai báo. Nếu là những lời khai
quan trọng phải ghi đúng cả lời văn của người khai, khi người khai có
thái độ đáng chú ý trong quá trình lấy lời khai cũng cần phản ánh vào
biên bản (ví dụ, thái độ ngập ngừng, luống cuống, khóc…). Mỗi chữ,
mỗi câu thêm vào hoặc bỏ đi trong biên bản phải được người lấy lời
khai và người khai xác nhận, những dòng trống phải gạch đi; biên bản
lấy lời khai được người khai tự đọc hoặc đọc lại cho họ nghe, đương
sự có quyền yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản ghi lời
khai; chữ viết trong biên bản phải rõ ràng, dễ đọc, không được viết
tắt. Biên bản lấy lời khai phải được người khai ký tên xác nhận, nếu
người khai không biết chữ thì cho họ điểm chỉ xác nhận và có người
chứng kiến, trường hợp người khai không ký thì yêu cầu họ phải ghi
rõ lý do vì sao không ký. Nếu đã giải thích họ vẫn không ký, không
ghi lý do vì sao không ký thì Thẩm phán yêu cầu người làm chứng
đến xác nhận sự việc và ký tên vào biên bản.
Trường hợp bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
cố tình không hợp tác lấy lời khai, thực tiễn xét xử Tòa án căn cứ vào
những tài liệu do đương sự xuất trình.
b) Lấy lời khai người làm chứng
Khi đương sự có yêu cầu lấy lời khai của người làm chứng hoặc
nếu xét thấy cần thiết việc lấy lời khai của người làm chứng đảm bảo
cho việc giải quyết vụ việc dân sự được toàn diện, chính xác, công
minh, đúng pháp luật thì Thẩm phán tiến hành lấy lời khai của người
làm chứng. Việc lấy lời khai của người làm chứng có thể được tiến
hành ở trụ sở Tòa án hoặc ngoài trụ sở Tòa án. Khác với đương sự,
người làm chứng không có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gì trong vụ
án nhưng họ là người biết những tình tiết có liên quan đến vụ án. Lời
khai của người làm chứng chứa đựng nhiều chứng cứ về những tình
tiết cần chứng minh nhằm giúp Tòa án tìm ra sự thật khách quan của
vụ án. Tuy vậy, lời khai của người làm chứng cũng có thể bị sai lệch

133
và không phù hợp với sự thật khách quan như trong trường hợp người
làm chứng bị mua chuộc, dụ dỗ, đe dọa, cố tình khai báo sai sự thật
hoặc không nhớ kỹ đúng sự việc đã chứng kiến. Trong các trường
hợp đó, lời khai của người làm chứng không mang tính khách quan
và lời khai đó phải được đánh giá cùng với các chứng cứ khác trong
vụ án. Do đó, trước khi lấy lời khai người làm chứng, Thẩm phán phải
giải thích quyền, nghĩa vụ của người làm chứng và yêu cầu người làm
chứng cam đoan về lời khai của mình.
Trường hợp Tòa án lấy lời khai của người làm chứng theo yêu
cầu bằng văn bản của đương sự, Thẩm phán phải xem xét đủ các điều
kiện để thu thập chứng cứ theo yêu cầu của đương sự. Khi thấy đã đủ
các điều kiện theo quy định của pháp luật, Thẩm phán làm giấy triệu
tập gửi cho người làm chứng. Trong giấy triệu tập phải ghi rõ lý do
triệu tập (để làm chứng trong vụ án...), thời gian, địa điểm làm việc...,
giấy triệu tập phải được tống đạt hợp lệ tới người làm chứng.
Tòa án chủ động lấy lời khai người làm chứng trong trường hợp
cần thiết, tuy đương sự không có yêu cầu. Được coi là “cần thiết” nếu
việc lấy lời khai của người làm chứng bảo đảm cho việc giải quyết vụ
án được toàn diện, chính xác, công minh, đúng pháp luật.
Về phương pháp lấy lời khai của người làm chứng và cách ghi
biên bản lấy lời khai của người làm chứng được tiến hành như đối
với phương pháp lấy lời khai của đương sự theo khoản 2 Điều 98
BLTTDS 2015. Ngoài ra có một số điểm chú ý khi ghi biên bản: Nếu
người làm chứng là thân thích, gần gũi với đương sự như cha, mẹ, vợ,
con… thì trong biên bản cũng phải ghi rõ quan hệ đó. Trong biên bản
ghi lời khai của người làm chứng phải có thêm các nội dung: Cam
đoan đã được Tòa án giải thích rõ về quyền và nghĩa vụ của người
làm chứng; Cam đoan khai báo trung thực trước Tòa án; Cam đoan
xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật về lời khai của mình.
Cũng như giống như việc lấy lời khai của đương sự. Thẩm phán cần
lưu ý khi lấy lời khai của người làm chứng ngoài trụ sở Tòa án thì cần
phải có người làm chứng hoặc xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã.

134
Tuy nhiên, như đã đề cập, tác giả cho rằng quy định này không phù
hợp trên trực tế vì trong trường hợp người làm chứng là người có đủ
năng lực hành vi tố tụng dân sự thì họ có đầy đủ điều kiện để kiểm
tra lại tính khách quan, trung thực của biên bản lấy lời khai của mình
do Tòa án lập.
Việc lấy lời khai của người làm chứng chưa đủ mười tám tuổi,
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi phải được tiến hành với sự có mặt
của người đại diện theo pháp luật hoặc người đang thực hiện việc quản
lý, trông nom người đó.
Sau khi lấy lời khai của người làm chứng, biên bản ghi lời khai
phải được người khai tự đọc lại hay nghe đọc lại và ký tên hoặc điểm
chỉ. Người làm chứng có quyền yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung
vào biên bản ghi lời khai và ký tên hoặc điểm chỉ xác nhận. Người viết
biên bản không nên viết đè lên chỗ đã xóa hoặc dùng bút xóa xóa rồi
viết đè lên. Kết thúc biên bản cần ghi rõ biên bản đã được người làm
chứng tự đọc lại hoặc nghe đọc lại, công nhận đúng và yêu cầu người
làm chứng ký tên hoặc điểm chỉ, ghi rõ họ tên dưới chữ ký. Trường
hợp Thư ký ghi biên bản thì cả Thư ký và Thẩm phán cần phải ký vào
biên bản, có đóng dấu của Tòa án.
Việc lấy lời khai là cách thức thu thập chứng cứ được Tòa án áp
dụng phổ biến nhất trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, giúp Tòa
án nắm bắt một cách nhanh nhất nội dung vụ án, có được chứng cứ
sinh động, thực tế của vụ kiện. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều khi hoạt
động này chưa mang lại hiệu quả chứng minh như mong muốn, vì pháp
luật tố tụng dân sự không quy định hậu quả hay chế tài của việc người
được lấy lời khai nhưng khai không đúng sự thật, hay từ chối khai
khi có yêu cầu của Tòa án. Đây cũng là một trong những lý do khiến
nhiều vụ án dân sự bị kéo dài khi không lấy được lời khai của đương sự
hay của người làm chứng. Trong các vụ án dân sự, trường hợp đương
sự thiếu hợp tác với Tòa án như không nhận văn bản tống đạt, triệu
tập không đến, đến Tòa án nhưng không khai, không ghi bản tự khai,

135
chậm chễ trong việc cung cấp chứng cứ... dẫn đến vụ án bị kéo dài. Đến
BLTTDS 2015 vấn đề này vẫn chưa được giải quyết một cách triệt để.
Lời khai của đương sự, người làm chứng được dựa trên trí nhớ về
một sự kiện nên thường mang tính chủ quan, vì vậy yếu tố tâm lý, độ
tuổi, các yếu tố tác động đến nhận thức sự vật, hiện tượng của đương
sự, người làm chứng là một đặc trưng cần xem xét thận trọng khi thu
thập và đánh giá nguồn chứng cứ là lời khai. Nội dung lời khai của
đương sự, lời khai của người làm chứng chứa đựng sự thật về vụ án
được coi là chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi
âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình hoặc khai bằng lời tại phiên tòa. Thẩm
phán cần lưu ý như sau:
- Trường hợp người làm chứng lập bản tự khai cần xác nhận chữ
ký để đảm bảo xác định chính xác chủ thể viết bản khai khi gửi văn
bản đến Tòa;
- Trường hợp Tòa án tiến hành lấy lời khai của đương sự, người
làm chứng, tiến hành đối chất thì cần đảm bảo đúng về trình tự, thủ tục
Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ đối với loại chứng cứ này;
- Trường hợp lời khai của đương sự, người làm chứng được thể
hiện bằng băng, đĩa ghi âm, băng, đĩa ghi hình… thì phải có văn bản
xác nhận xuất xứ hoặc văn bản về sự việc liên quan đến việc thu âm,
thu hình đó gửi kèm theo băng, đĩa ghi âm, ghi hình.
c) Đối chất
Theo khoản 3 Điều 85 của BLTTDS 2004 sửa đổi, bổ sung 2011,
thì khi tiến hành biện pháp thu thập chứng cứ “đối chất”, Thẩm phán
phải ra quyết định, trong đó nêu rõ lý do và yêu cầu của Tòa án. Quy
định này gây khó khăn cho Tòa án khi tiến hành biện pháp đối chất.
Bởi vì, khi ghi lời khai của đương sự mà phát hiện có mâu thuẫn thì
Tòa án không thể tiến hành đối chất ngay mà phải ban hành quyết định
đối chất, ấn định ngày khác mới tiến hành đối chất được. Điều này một
mặt làm kéo dài thời gian giải quyết vụ án, mặt khác có thể dẫn đến
trường hợp đương sự cung cấp lời khai vắng mặt vào các lần triệu tập

136
đối chất sau thì việc đối chất sẽ không thực hiện được. Hơn nữa, việc
đối chất chỉ đạt kết quả khi cần sự bất ngờ trong cách đặt câu hỏi. Nếu
ban hành quyết định sẽ dễ dẫn đến việc đối phó của đương sự, gây khó
khăn trong việc xác định sự thật khách quan của Tòa án. Do đó, đến
BLTTDS 2015 (khoản 3 Điều 97) đã bỏ quy định Thẩm phán phải ra
quyết định khi thu thập chứng cứ bằng biện pháp đối chất. Quy định về
đối chất được mở rộng không chỉ giữa các đương sự với nhau mà còn
giữa các đương sự với người làm chứng.
Đối chất được coi là một biện pháp quan trọng nhằm làm sáng tỏ
các điểm mâu thuẫn trong lời khai của các bên đương sự và các tài liệu
có trong hồ sơ vụ, việc dân sự. Đối chất trong tố tụng dân sự được hiểu
một cách đơn giản là hai bên trực tiếp gặp nhau, trình bày và chất vấn
nhau về những vấn đề mà hai bên trước đó có lời khai mâu thuẫn, khác
biệt nhau. Việc đối chất chỉ tiến hành khi:
- Có yêu cầu của đương sự;
- Đương sự không có yêu cầu nhưng xét thấy có sự mâu thuẫn
trong lời khai của các bên đương sự, người làm chứng.
Tuy nhiên, việc đối chất có được tiến hành hay không là do Tòa
án (Thẩm phán) quyết định thực hiện và nội dung đối chất phải được
lập thành văn bản gọi là “Biên bản đối chất”. Trên thực tế, không phải
khi nào có sự mâu thuẫn trong lời khai của các đương sự thì Tòa án
cũng chủ động tiến hành đối chất. Do vậy, các bên cần hiểu về quy
định trên và có thể áp dụng như một “vũ khí” để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình một cách tốt nhất. Khi đương sự có yêu
cầu hoặc khi xét thấy có sự mâu thuẫn trong lời khai của các đương
sự, người làm chứng, Thẩm phán tiến hành đối chất giữa các đương
sự với nhau, giữa đương sự với người làm chứng, hoặc giữa những
người làm chứng với nhau theo thứ tự hợp lý. Tùy từng trường hợp
cụ thể mà tiến hành đối chất về từng vấn đề một hoặc để từng người
trình bày về các vấn đề cần đối chất theo thứ tự.
Thẩm phán tự mình hoặc Thư ký Tòa án ghi biên bản đối chất.
Biên bản phải có chữ ký của những người tham gia đối chất, Thẩm

137
phán tiến hành đối chất, Thư ký Tòa án ghi biên bản đối chất và đóng
dấu của Tòa án. Cách ghi biên bản đối chất về cơ bản được thực hiện
như đối với trường hợp ghi biên bản lấy lời khai của đương sự, người
làm chứng.
BLTTDS 2015 không quy định cụ thể về địa điểm tiến hành đối
chất. Nhưng trên thực tế, đối chất chỉ được thực hiện tại trụ sở Tòa
án, vì đương sự trong các vụ án dân sự thường có những mâu thuẫn,
tranh chấp rất căng thẳng, đôi khi họ chỉ gặp mặt nhau, hay ngồi lại
với nhau tại Tòa án mà không chịu đến bất cứ địa điểm nào, đồng
thời cũng phần nào tạo sự thuận tiện cho Tòa án khi giải quyết vụ
án. Nhưng cũng có trường hợp đối chất được Tòa án thực hiện tại trụ
sở Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn hay chính nơi làm việc của
đương sự.
d) Xem xét, thẩm định tại chỗ
Đối với những vụ án mà đối tượng tranh chấp là bất động sản,
vật không thể di chuyển hoặc trường hợp Thẩm phán cần nắm vững
hiện trường xảy ra sự việc tranh chấp nhằm đảm bảo cho bản án,
quyết định của Tòa án được chính xác và bảo đảm khả năng thi hành
án. Do đó, nếu đương sự có yêu cầu xem xét, thẩm định tại chỗ và xét
thấy cần thiết thì Thẩm phán tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ.
Khi tiến hành biện pháp xem xét, thẩm định tại chỗ theo quy
định tại khoản 3 Điều 97 BLTTDS 2015, Thẩm phán phải ra quyết
định và phải gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức
nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm định kèm theo văn bản đề nghị
Ủy ban nhân dân hoặc cơ quan, tổ chức cử đại diện tham gia việc xem
xét, thẩm định tại chỗ. Nhưng thành phần, số lượng người của Ủy ban
nhân dân cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức tham gia việc xem xét, thẩm
định tại chỗ pháp luật lại chưa quy định cụ thể nên ở mỗi địa phương,
thậm chí trong cùng một địa phương hay trong từng vụ án khác nhau
lại có sự tham gia khác nhau của các cá nhân, cơ quan này. Trên thực
tế khi có yêu cầu xem xét, thẩm định tại chỗ Ủy ban nhân dân cấp xã
thường cử một lãnh đạo, cán bộ địa chính, một cán bộ tài chính, công

138
an, ở một số địa phương còn cử thêm cán bộ tư pháp tham gia xem
xét, thẩm định tại chỗ. Chính vì pháp luật không quy định thành phần,
số lượng người của Ủy ban nhân dân, cơ quan, tổ chức tham gia xem
xét, thẩm định tại chỗ nên nhiều trường hợp việc xem xét, thẩm định
tại chỗ phải hoãn khi vắng một trong những người đã được cử tham
gia, gây lãng phí về tài chính cho đương sự khi phải chịu chi phí xem
xét, thẩm định cho nhiều người không cần thiết và kéo dài thời gian
giải quyết vụ án.
Vào ngày, giờ đã định trong quyết định xem xét, thẩm định tại
chỗ, nếu chưa có đại diện của Ủy ban nhân dân hoặc cơ quan, tổ chức
thì Thẩm phán phải liên hệ để họ có mặt. Trong trường hợp vắng
mặt đại diện của Ủy ban nhân dân hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối
tượng cần xem xét, thẩm định, Thẩm phán phải hoãn việc xem xét
thẩm định tại chỗ. Quyết định xem xét, thẩm định tại chỗ phải được
giao hoặc gửi cho đương sự để họ biết và chứng kiến việc xem xét,
thẩm định tại chỗ. Tuy nhiên, nếu đương sự vắng mặt thì việc xem
xét, thẩm định tại chỗ vẫn được tiến hành theo thủ tục chung. Việc
xem xét, thẩm định tại chỗ phải được ghi thành biên bản, Thẩm phán
tự mình hoặc Thư ký Tòa án ghi biên bản xem xét, thẩm định tại
chỗ. Biên bản phải ghi rõ kết quả xem xét, thẩm định, mô tả rõ hiện
trường, có chữ ký của người xem xét, thẩm định và chữ ký hoặc điểm
chỉ của đương sự nếu họ có mặt, của đại diện Ủy ban nhân dân cấp
xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm định và
những người khác được mời tham gia việc xem xét, thẩm định. Sau
khi lập xong biên bản, Tòa án phải yêu cầu đại diện Ủy ban nhân dân
cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm định
ký tên và đóng dấu xác nhận.
BLTTDS quy định trường hợp có đương sự vắng mặt Tòa án
vẫn tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ theo thủ tục chung. Vậy Tòa
án có phải thông báo kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ cho đương
sự vắng mặt biết hay không, vì có những tài sản họ là người biết rõ về
sự hình thành, giá trị của nó, đồng thời họ có quyền được biết những
tài sản đang có tranh chấp mà Tòa án tiến hành xem xét, thẩm định

139
tại chỗ có đúng và đầy đủ hay không, có quyền khiếu nại đối với biện
pháp thu thập chứng cứ mà Tòa án đã tiến hành. Do pháp luật không
quy định cụ thể nên các Tòa án có những cách thực hiện khác nhau
đối với trường hợp đương sự vắng mặt tại buổi xem xét, thẩm định
tại chỗ. Có Tòa án thông báo bằng văn bản kết quả xem xét, thẩm
định tại chỗ cho đương sự hoặc triệu tập đương sự đến Tòa án để trực
tiếp đọc biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ nhưng cũng có Tòa án
lại không thông báo hoặc không cho đương sự xem kết quả xem xét,
thẩm định. Sự không thống nhất này cũng chưa được giải quyết triệt
để tại Điều 101 BLTTDS 2015.
Trong trường hợp có người cản trở việc tiến hành xem xét, thẩm
định tại chỗ thì Thẩm phán yêu cầu đại diện của Ủy ban nhân dân
hoặc cơ quan, tổ chức có biện pháp can thiệp, hỗ trợ kịp thời để thực
hiện việc xem xét thẩm định tại chỗ. Trường hợp cần thiết, Thẩm
phán yêu cầu lực lượng cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp thuộc Công
an nhân dân có thẩm quyền để có các biện pháp can thiệp phù hợp
theo quy định tại Thông tư số 15/2003/TT-BCA ngày 10/9/2003 của
Bộ Công an hướng dẫn hoạt động hỗ trợ tư pháp của lực lượng Cảnh
sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp thuộc Công an nhân dân. Thẩm phán phải
lập biên bản về việc đương sự cản trở việc xem xét, thẩm định tại chỗ
và lưu vào hồ sơ vụ án, đồng thời phải được gửi cho cơ quan có thẩm
quyền xem xét, xử lý theo pháp luật về hành vi chống người thi hành
công vụ của đương sự.
Ví dụ:
Vụ án tranh chấp kiện đòi tài sản là quyền sử dụng đất giữa
nguyên đơn là bà Nguyễn Thị T và bị đơn là anh Nguyễn Văn K do
TAND quận Q, TP. H thụ lý, giải quyết. Bà T khởi kiện yêu cầu anh
K trả lại diện tích đất (do anh K là con nuôi của bố mẹ bà T) được
bố mẹ bà T cho ở nhờ từ những năm 1970. Trên đất, anh K đã xây
dựng nhà ở và công trình kiên cố. Tháng 7/2016, bà T khởi kiện
đòi lại đất, Tòa án đã quyết định xem xét, thẩm định tại chỗ đối với
diện tích đất đang có tranh chấp nhưng việc xem xét, thẩm định
tại chỗ đối với tài sản này nhiều lần không thực hiện được đều do

140
sự chống đối quyết liệt của anh K và các con của anh K. Mỗi lần
tổ chức xem xét, thẩm định tại chỗ anh K và các con lại chuẩn bị
gạch đá, thả chó và chửi bới khi đại diện Tòa án và đoàn làm việc
đến khu đất đang có tranh chấp.
Thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự tại các Tòa án trong nhiều
năm qua, việc xem xét, thẩm định tại chỗ chủ yếu được thực hiện đối
với các vụ án tranh chấp nhà, đất. Trên thực tế, phần lớn trường hợp
đương sự đang trực tiếp quản lý tài sản là nhà, đất tranh chấp không
hợp tác với Tòa án, gây khó khăn, cản trở hoặc không cho đo vẽ nhà
đất bằng việc đóng cổng, đóng cửa, bỏ đi khỏi nhà đất tranh chấp, thậm
chí chống đối khi Tòa án đến xem xét, thẩm định tại chỗ dẫn tới việc
Tòa án không thể giải quyết được vụ án, không ít vụ án phải kéo dài
thời gian gây bức xúc cho đương sự và áp lực cho Tòa án. Với trường
hợp đương sự đóng cửa, bỏ đi, Tòa án không thể vào xem xét, đo vẽ
nhà đất thì có được coi là hành vi “cản trở” việc tiến hành xem xét,
thẩm định tại chỗ hay không. Thẩm phán cần lưu ý về quy định tại
khoản 3 Điều 101 BLTTDS 2015 “nghiêm cấm mọi hành vi cản trở
việc xem xét, thẩm định tại chỗ”. Trong những trường hợp này, Thẩm
phán cần phải vận dụng nhiều cách khác nhau từ việc phối hợp với
chính quyền địa phương, Mặt trận tổ quốc, tổ chức Đảng... để giải
thích, thuyết phục đương sự hợp tác, để Tòa án tiến hành đo vẽ, định
giá nhà đất, tài sản tranh chấp. Trong trường hợp không thể xem xét,
thẩm định tại chỗ được, Tòa án phải thu thập các chứng cứ khác như sử
dụng những bản vẽ nhà đất cũ hoặc những số liệu về diện tích nhà đất
có tại những tài liệu khác như sổ mục kê, sổ kê khai đăng ký ruộng
đất... (nếu có) để giải quyết vụ án.
Thực tiễn nhiều vụ án khi tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ,
cần phải có chi phí để thực hiện như: thuê phương tiện, thiết bị đo đạc,
thẩm định vật tư, hàng hóa, bồi dưỡng cho cán bộ chuyên môn,… đặc
biệt là trong lĩnh vực xây dựng, kinh doanh thì chi phí này là rất lớn.
Trong khi đó, BLTTDS 2004 sửa đổi, bổ sung 2011 chưa có quy định
về việc người có trách nhiệm trả những chi phí này, cũng như trình tự
thủ tục xử lý hành vi cản trở hoạt động xem xét, thẩm định tại chỗ

141
nên khó khăn cho việc tiến hành xem xét, thẩm định, ảnh hưởng lớn
đến quá trình cũng như kết quả giải quyết các vụ án dân sự của Tòa
án. Khắc phục vấn đề này BLTTDS 2015 đã sửa đổi, bổ sung tại mục 2
trong Chương IX “các chi phí tố tụng khác” tạo điều kiện thuận lợi
cho việc áp dụng biện pháp thu thập chứng cứ này, đặc biệt giảm áp
lực cho Thẩm phán khi cần phải thực hiện biện pháp xem xét, thẩm
định tại chỗ, nhiều trường hợp tạo nên sự nghi ngại, khiếu nại, tố cáo
từ phía đương sự khi họ phải bỏ một khoản kinh phí để yêu cầu Tòa
án thực hiện biện pháp này.
e) Trưng cầu giám định
Trong nhiều vụ việc dân sự, để làm sáng tỏ một số tình tiết nhất
định đòi hỏi phải sử dụng những kiến thức chuyên môn cần thiết với
sự hỗ trợ của Giám định viên. Kết luận của Giám định viên là một
kết luận khoa học về chuyên môn được thể hiện dưới hình thức một
văn bản viết hoặc được trình bày tại phiên tòa, được đưa ra sau khi đã
nghiên cứu những vấn đề cần vận dụng kiến thức chuyên môn trả lời
cho những vấn đề do Tòa án trưng cầu. Trong trường hợp việc đánh
giá chứng cứ cần phải sử dụng các kiến thức chuyên môn như xác
định chữ viết, chữ ký, vân tay của một người nào đó hay cần xác
định nguyên nhân gây thiệt hại trong xây dựng, xác định ADN… và
theo sự thỏa thuận lựa chọn của các bên đương sự hoặc có yêu cầu
của đương sự về việc trưng cầu giám định, Tòa án cần phải trưng cầu
giám định khoa học để làm căn cứ giải quyết vụ án. Đây là một nguồn
chứng cứ quan trọng làm cơ sở cho việc giải quyết vụ việc dân sự. Tuy
vậy, để xác định giá trị chứng minh của chứng cứ này, Tòa án cũng cần
xem xét nguồn chứng cứ là kết luận giám định trong mối quan hệ với
các chứng cứ khác, vì không thể loại trừ trường hợp Giám định viên có
thể vô ý hoặc cố ý đưa ra những kết luận thiếu khách quan.
Biện pháp trưng cầu giám định được quy định tại Điều 90
BLTTDS 2004 sửa đổi, bổ sung 2011 và được TANDTC hướng dẫn
cụ thể, theo đó biện pháp thu thập chứng cứ này chỉ được Tòa án thực
hiện khi có sự thỏa thuận lựa chọn của các đương sự hoặc có yêu cầu

142
của một hoặc các bên đương sự mà pháp luật không dành sự chủ động
áp dụng biện pháp này cho Tòa án cũng như không dành cho đương
sự được quyền trực tiếp đề nghị trưng cầu giám định. Việc quy định
người tham gia tố tụng chỉ có quyền yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng
trưng cầu giám định, không được trực tiếp yêu cầu tổ chức giám định
tư pháp thực hiện cũng gây ảnh hưởng nhất định đến tiến độ giải quyết
các vụ án dân sự và không phù hợp với quy định của Luật Giám định
tư pháp (Điều 2, Điều 22).
Để thực hiện biện pháp trưng cầu giám định theo yêu cầu của
đương sự thì Tòa án phải yêu cầu đương sự thể hiện sự thỏa thuận lựa
chọn hoặc yêu cầu bằng văn bản, có thể làm bằng văn bản riêng, ghi
trong bản khai, hoặc trong biên bản ghi lời khai, biên bản đối chất.
Thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự tại Tòa án cho thấy, phần
lớn các vụ việc có nhiều người tham gia tố tụng và có trường hợp có
đương sự có biểu hiện mắc bệnh tâm thần hoặc một số bệnh khác làm
hạn chế, mất năng lực hành vi dân sự thì cần thiết phải thực hiện giám
định tâm thần để Tòa án có căn cứ cử người đại diện cho đương sự
đó và giải quyết vụ án đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Nhưng
trong trường hợp này các đương sự còn lại không thỏa thuận lựa chọn
hoặc không yêu cầu giám định thì Tòa án không có căn cứ yêu cầu
giám định và vụ án bị kéo dài ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự. Khắc phục những vướng mắc này,
khoản 1 và 2 Điều 102 BLTTDS 2015 đã bổ sung quy định đương sự
có quyền yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định hoặc tự mình yêu cầu
giám định sau khi đã đề nghị Tòa án trưng cầu giám định nhưng Tòa án
từ chối yêu cầu của đương sự. Quyền tự yêu cầu giám định được thực
hiện trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm. Đồng
thời, bổ sung thẩm quyền của Tòa án được quyền ban hành quyết định
trưng cầu giám định khi đương sự không yêu cầu nhưng Tòa án xét
thấy cần thiết.
Việc trao quyền cho đương sự tự mình trưng cầu giám định khi
Tòa án từ chối trưng cầu giám định là cách chứng minh của đương sự.
Thực tiễn giải quyết các tranh chấp dân sự trong nhiều năm qua cho

143
thấy số lượng các vụ việc dân sự phải trưng cầu giám định ngày một
gia tăng do sự đa dạng của các loại vụ việc và đối tượng trưng cầu
giám định cũng như khả năng đáp ứng các lĩnh vực giám định kỹ thuật.
Trường hợp xét thấy kết luận giám định chưa đầy đủ, rõ ràng
hoặc có vi phạm pháp luật thì theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét
thấy cần thiết Tòa án yêu cầu người giám định giải thích kết luận giám
định, triệu tập người giám định đến phiên tòa để trực tiếp trình bày về
các nội dung cần thiết.
Theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Tòa án ra
quyết định giám định bổ sung trong trường hợp nội dung kết luận giám
định chưa rõ, chưa đầy đủ hoặc khi phát sinh vấn đề mới liên quan đến
tình tiết của vụ án đã được kết luận giám định trước đó.
Việc giám định lại được thực hiện trong trường hợp có căn cứ
cho rằng kết luận giám định lần đầu không chính xác, có vi phạm pháp
luật hoặc trong trường hợp đặc biệt theo quyết định của Viện trưởng
VKSNDTC, Chánh án TANDTC theo quy định của Luật Giám định
tư pháp.
Qua thực tiễn xét xử, do tính chất đặc thù của một số vụ việc
(ví dụ, vụ việc xác định cha, mẹ, con...), kết luận giám định được xác
định là căn cứ mấu chốt và quyết định để chứng minh cho yêu cầu hoặc
bác yêu cầu của đương sự. Tuy nhiên, trong nhiều vụ án, khi nguyên
đơn yêu cầu trưng cầu giám định ADN, Tòa án ra quyết định trưng
cầu giám định, bị đơn (người bị kiện để xác định là cha hoặc mẹ đứa
trẻ...) đã từ chối không chấp nhận đi giám định ADN. Vấn đề đặt ra là,
theo nguyên tắc bất khả xâm phạm và nguyên tắc chấp thuận của cá
nhân được điều chỉnh bởi BLDS thì Tòa án hoặc cơ quan chuyên môn
không thể lấy mẫu xét nghiệm (máu, tóc…) từ cơ thể người bị yêu cầu
để xét nghiệm nếu người bị yêu cầu không tự nguyện và không đồng
ý. Đây chính là quy định mâu thuẫn giữa các quyền dân sự và quyền
tố tụng mà việc giải quyết nó không hề đơn giản. Dưới góc độ tố tụng
dân sự, trường hợp này đến BLTTDS năm 2015 vẫn bỏ ngỏ chưa được
quy định trong luật. Chính từ sự trống vắng quy định điều chỉnh trong

144
luật dẫn đến nhiều vụ án xác định cha, mẹ, con thiếu cơ sở khoa học
cũng như cơ sở pháp lý để giải quyết khi không có kết quả giám định
gen và vẫn tiếp tục phải chờ những hướng dẫn của cơ quan có thẩm
quyền nhằm tháo gỡ những bế tắc trong việc giải quyết một số loại án
đặc thù hiện nay.
f) Trưng cầu giám định chứng cứ bị tố cáo là giả mạo
Trong quá trình giải quyết vụ án, nếu có chứng cứ bị tố cáo là
giả mạo thì điều đó có nghĩa là chứng cứ đó đang bị nghi ngờ về tính
xác thực. Muốn khẳng định chắc chắn thì phải giám định chứng cứ
mới xác định được chứng cứ giả mạo hay không. Xuất phát từ tính
chất của các quan hệ dân sự, các bên có quyền quyết định và tự định
đoạt trong quá trình giải quyết vụ việc, kể cả việc cung cấp chứng cứ
cho Tòa án, BLTTDS đã quy định cho phép đương sự đưa ra chứng cứ
bị tố cáo là giả mạo được rút lại chứng cứ đó nhằm đảm bảo cho việc
giải quyết nhanh chóng vụ án mà không cần phải giám định tránh gây
lãng phí về thời gian và tiền bạc. Nếu đương sự không rút lại chứng
cứ đó thì người tố cáo có quyền yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định
đối với chứng cứ đó để xác minh về tính hợp pháp của chứng cứ.
Điều 103 BLTTDS 2015 đã bổ sung quy định về thẩm quyền của
Tòa án trong việc quyết định trưng cầu giám định theo quy định tại
Điều 102 của Bộ luật này. Trong trường hợp việc giả mạo chứng cứ
có dấu hiệu tội phạm thì Tòa án sẽ chuyển cho cơ quan điều tra hình
sự có thẩm quyền xem xét về trách nhiệm hình sự đối với người cung
cấp đó theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Theo quy định của
BLTTDS 2015 thì “người đưa ra chứng cứ được kết luận là giả mạo”
có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại nếu việc giả mạo chứng cứ đó gây
thiệt hại cho người khác. Đồng thời, người đó phải chịu chi phí giám
định nếu Tòa án quyết định trưng cầu giám định.
g) Định giá tài sản, thẩm định giá tài sản
Định giá tài sản là một biện pháp thu thập chứng cứ có ý nghĩa
quan trọng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án có thể tiến
hành định giá tài sản khi có yêu cầu của đương sự hoặc chủ động tiến

145
hành mà không cần có yêu cầu của đương sự. So với BLTTDS 2004
sửa đổi, bổ sung 2011, BLTTDS 2015 mở rộng quyền của đương sự
hơn đối với biện pháp thu thập chứng cứ là định giá, thẩm định giá tài
sản. Theo đó, đương sự có quyền cung cấp giá tài sản đang tranh chấp;
thỏa thuận về giá tài sản đang tranh chấp.
Các đương sự có quyền thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá
tài sản để thực hiện việc thẩm định giá tài sản và cung cấp kết quả thẩm
định giá cho Tòa án. Việc thẩm định giá tài sản được thực hiện theo
quy định của pháp luật về thẩm định giá tài sản (khoản 1, 2 Điều 104).
Báo cáo kết quả thẩm định giá của tổ chức thẩm định giá được
coi là chứng cứ nếu việc thẩm định giá được tiến hành đúng theo quy
định của pháp luật.
Khoản 3 Điều 104 BLTTDS 2015 quy định Tòa án chủ động ra
quyết định định giá tài sản tranh chấp thuộc một trong các trường hợp:
- Theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự;
- Các đương sự không thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá
tài sản hoặc đưa ra giá tài sản khác nhau hoặc không thỏa thuận được
giá tài sản;
- Các bên thoả thuận với nhau hoặc với tổ chức thẩm định giá tài
sản theo mức giá thấp so với giá thị trường nơi có tài sản định giá tại
thời điểm định giá nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc người
thứ ba hoặc có căn cứ cho thấy tổ chức thẩm định giá tài sản đã vi
phạm pháp luật khi thẩm định giá.
Hội đồng định giá tài sản do Toà án quyết định thành lập, gồm
Chủ tịch Hội đồng định giá là đại diện cơ quan tài chính và thành viên
là đại diện các cơ quan chuyên môn có liên quan. Về trình tự, thủ tục
để thành lập Hội đồng định giá tài sản đã được ghi nhận cụ thể tại
khoản 4 Điều 104 BLTTDS 2015 kế thừa các quy định tại khoản 2, 3
Điều 92 BLTTDS 2004 sửa đổi, bổ sung 2011. Trước khi thành lập
Hội đồng định giá, Tòa án có công văn gửi cơ quan tài chính và các
cơ quan chuyên môn đề nghị cử cán bộ tham gia Hội đồng định giá

146
tài sản. Trong công văn nêu rõ tài sản cần định giá, yêu cầu cụ thể đối
với Chủ tịch và thành viên Hội đồng định giá tài sản, thời hạn cơ quan
chuyên môn có công văn trả lời cho Tòa án biết việc cử người tham
gia Hội đồng định giá tài sản. Sau khi nhận được công văn trả lời của
các cơ quan chuyên môn về việc cử người tham gia Hội đồng định giá
tài sản, Thẩm phán phải kiểm tra những người được cử có đáp ứng
các yêu cầu cụ thể mà Tòa án nêu trong công văn không… Nếu những
người được cử đã đáp ứng được các yêu cầu thì Thẩm phán ra quyết
định định giá tài sản. Như vậy, pháp luật đã quy định rất cụ thể và rõ
ràng về căn cứ, trách nhiệm, trình tự, thủ tục thành lập Hội đồng định
giá tài sản. Với hành lang pháp lý cụ thể như vậy, về lý thuyết, việc
Tòa án tiến hành các thủ tục định giá tài sản là không có gì khó khăn,
tuy nhiên thực tế việc áp dụng biện pháp thu thập chứng cứ này có khá
nhiều vướng mắc.
Theo trình tự nêu trên, sau khi nhận được công văn của Tòa án về
việc cử người tham gia Hội đồng định giá tài sản, các cơ quan chuyên
môn phải có trách nhiệm cử người tham gia Hội đồng định giá tài sản
bằng văn bản gửi cho Tòa án. Nhưng thực tiễn lại cho thấy, việc cơ
quan tài chính và cơ quan chuyên môn có văn bản trả lời cử cán bộ
tham gia Hội đồng định giá tài sản là rất ít. Do đó, các Tòa án phải
cử cán bộ trực tiếp mang công văn cùng giấy mời đến từng cơ quan
chuyên môn để gặp lãnh đạo trao đổi. Nhưng để có được công văn cử
người tham gia định giá lại càng khó hơn, vì hầu hết các cơ quan này
đều ngại dính dáng đến những công việc liên quan đến vụ án, nên chỉ
giới thiệu bằng lời, do đó không bảo đảm tính pháp lý. Từ thực trạng
đó, BLTTDS 2015 đã bổ sung quy định về quyền của Tòa án “yêu cầu
cơ quan quản lý có thẩm quyền trực tiếp chỉ đạo cơ quan tài chính, cơ
quan chuyên môn thực hiện yêu cầu của Tòa án”. Hiện nay ở các cơ
quan chuyên môn chưa có cán bộ chuyên trách trong lĩnh vực định giá
tài sản. Do đó, để ấn định được thời gian mà các thành viên đều không
bận công tác chuyên môn của họ để tiến hành việc định giá tài sản là
rất khó. Trong nhiều trường hợp, Toà án đã thông báo cho đương sự,
chính quyền địa phương về thời gian định giá, nhưng khi một trong

147
các thành viên của Hội đồng định giá tài sản có công việc đột xuất thì
phải hoãn, dẫn đến kéo dài thời gian giải quyết vụ án, gây phiền hà
cho đương sự.
Chất lượng của việc định giá là vấn đề đáng quan tâm, có ý nghĩa
quan trọng trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án. Theo nguyên tắc
thì việc định giá phải xác định theo giá của tài sản đó trên thị trường
tại thời điểm định giá. Tuy nhiên, một thực tế hiện nay là rất nhiều nơi,
việc định giá của các Hội đồng định giá chỉ là việc áp giá theo khung
bảng giá do Nhà nước quy định cụ thể là theo bảng giá do Ủy ban nhân
dân tỉnh, thành phố ban hành hàng năm. Chính vì vậy, giá theo kết quả
định giá thường thấp hơn nhiều so với giá thị trường. Sở dĩ có tình
trạng này là vì như đã nêu, hiện nay ở các cơ quan chuyên môn không
có cán bộ chuyên trách về công tác định giá tài sản nên không có đủ
các thông tin, tài liệu liên quan. Mặt khác, họ cũng không có đủ thời
gian để thực hiện việc khảo sát giá trên thị trường trong khi giá cả luôn
có sự biến động. Ngoài ra, thực tế trong một vài năm gần đây do bất
động sản đóng băng nên tài sản là bất động sản ở nhiều địa phương ít
có việc chuyển nhượng loại tài sản này nên khó xác định được giá theo
thị trường. Trong khi đó, tâm lý của các thành viên hội đồng định giá
thì việc áp giá theo khung giá Nhà nước quy định là dễ thực hiện và
có độ “an toàn”. Do đó, trong nhiều trường hợp đương sự không đồng
ý với mức giá mà hội đồng định giá kết luận, và cả Tòa án cũng nhận
thấy mức giá không phù hợp, nhưng khi yêu cầu định giá lại thường
đều bị từ chối vì những lý do nêu trên.
Theo quy định của BLTTDS 2015, khi định giá tài sản phải
được ghi thành biên bản, Tòa án có thể cử một Thư ký Tòa án để giúp
việc cho Hội đồng định giá ghi biên bản về việc tiến hành định giá.
Biên bản định giá tài sản là căn cứ pháp lý để Hội đồng định giá tài
sản ban hành bản kết luận định giá tài sản. Theo BLTTDS, Tòa án
không phải là thành viên Hội đồng định giá nhưng cũng không quy
định rõ Tòa án có thể chứng kiến việc định giá hay không? Vấn đề
này, hiện nay cũng có nhiều cách thực hiện khác nhau: có nơi Tòa
án tham gia với tư cách là người chứng kiến trong biên bản định giá,

148
hoặc Hội đồng định giá tài sản lập một biên bản riêng về sự chứng
kiến của Tòa án khi tiến hành định giá, nhưng cũng có nơi Tòa án có
mặt khi Hội đồng định giá tài sản làm việc nhưng không được ký tên
trong biên bản định giá với tư cách là người chứng kiến. Những vấn
đề này chờ hướng dẫn cụ thể, thống nhất của Nghị quyết hướng dẫn
một số quy định của BLTTDS 2015.
Ngoài hình thức xác định giá là định giá tài sản, BLTTDS
cũng quy định hình thức xác định giá là thẩm định giá tài sản. Tại
khoản 15 Điều 4 Luật giá 2012 quy định: “Thẩm định giá là việc
cơ quan, tổ chức có chức năng thẩm định giá xác định giá trị bằng
tiền của các loại tài sản theo quy định của BLDS phù hợp với giá thị
trường tại một địa điểm, thời điểm nhất định, phục vụ cho mục đích
nhất định theo tiêu chuẩn thẩm định giá”. Thẩm định giá tài sản chính
là hoạt động xem xét, đánh giá và đưa ra kết luận mang tính pháp lý
bằng văn bản về giá của đối tượng cần xác định, hoạt động này do
một tổ chức có chuyên môn, nghiệp vụ thực hiện. Tòa án chỉ được
yêu cầu tổ chức thẩm định giá tài sản tiến hành định giá khi có sự thỏa
thuận lựa chọn dịch vụ này từ các đương sự hoặc khi có yêu cầu của
đương sự, pháp luật không quy định Tòa án được chủ động yêu cầu
tổ chức thẩm định giá tài sản tiến hành định giá. Đối với những vụ án
dân sự khi Hội đồng định giá tài sản do Tòa án thành lập (theo yêu
cầu của đương sự hoặc do Tòa án chủ động) chỉ định giá tài sản theo
khung giá Nhà nước quy định mà không đưa ra giá tài sản theo giá thị
trường tại thời điểm định giá, đương sự lại không thỏa thuận lựa chọn
và cũng không yêu cầu thẩm định giá nên Tòa án lúng túng tìm cách
giải quyết đối với trường hợp nêu trên.
BLTTDS 2015 quy định đương sự vừa có quyền đề nghị Tòa
án thành lập Hội đồng định giá tài sản vừa có quyền yêu cầu tổ chức
thẩm định giá định giá nên có thể xảy ra trường hợp nếu trong vụ án
một bên đương sự lựa chọn tổ chức thẩm định giá, một bên lại lựa
chọn Hội đồng định giá mà hai kết quả khác nhau thì Tòa án sẽ áp
dụng giá nào để giải quyết vụ án? Vấn đề này vẫn còn bỏ ngỏ chờ
hướng dẫn của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

149
Thực tiễn thực hiện các quy định về định giá, thẩm định giá
tài sản trong các vụ án dân sự ở Tòa án các cấp cho thấy, khi Tòa
án ra quyết định giá tài sản đang tranh chấp trong trường hợp các
bên thoả thuận với nhau hoặc với tổ chức thẩm định giá theo mức
giá thấp nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước. Nhưng khi Hội
đồng định giá tiến hành định giá thì chỉ xác định giá trị tài sản theo
khung giá Nhà nước quy định, không định giá theo giá thị trường
tại địa phương vào thời điểm định giá, với kết quả định giá này thì
Tòa án không thể giải quyết vụ án được. Trong khi đó, việc thẩm
định giá theo quy định của BLTTDS chỉ được thực hiện khi có yêu
cầu của một hoặc các bên đương sự (khoản 2 và khoản 3 Điều 104
BLTTDS), BLTTDS hiện hành không quy định Tòa án có quyền chủ
động ra quyết định yêu cầu tổ chức thẩm định giá tài sản tiến hành
thẩm định giá. Bên cạnh đó, chi phí thuê tổ chức thẩm định giá định
giá tài sản thường cao hơn nhiều so với chi phí cho Hội đồng định giá
theo quyết định của Tòa án. Với vướng mắc này những vụ án dân sự
có tranh chấp về tài sản mà cần phải định giá thường bị kéo dài, Tòa
án cần có thời gian giải thích cho các đương sự yêu cầu tổ chức thẩm
định giá để Tòa án có căn cứ yêu cầu tổ chức thẩm định giá tài sản
tiến hành định giá tài sản theo giá thị trường tại thời điểm thẩm định.
Như vậy, trong một vụ án sẽ tồn tại giá tài sản theo khung giá Nhà
nước và giá tài sản theo giá thị trường tại thời điểm định giá, hai giá
này được thực hiện theo trình tự, thủ tục khác nhau và Tòa án phải
căn cứ vào giá thị trường để giải quyết vụ án. Tình trạng Hội đồng
định giá khi định giá tài sản trong các vụ án dân sự không đưa ra giá
thị trường của tài sản tại thời điểm định giá dẫn đến nhiều vụ án phải
tạm đình chỉ, án quá hạn luật định, tốn kém tiền của và thời gian của
đương sự, Nhà nước, thậm chí một số vụ án còn gây nên sự búc xúc
dẫn đến khiếu nại, tố cáo, chống đối từ phía đương sự đối với Tòa án.
Khắc phục những vướng mắc này, khoản 5 Điều 104 BLTTDS 2015
bổ sung quy định về định giá lại tài sản, theo đó:
“Việc định giá lại tài sản được thực hiện trong trường hợp có căn
cứ cho rằng kết quả định giá lần đầu không chính xác hoặc không phù

150
hợp với giá thị trường nơi có tài sản định giá tại thời điểm giải quyết
vụ án dân sự”.
h) Ủy thác thu thập chứng cứ
* Điều kiện ủy thác thu thập chứng cứ
Trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự, có một thực tế phát
sinh là Tòa án đã thụ lý vụ việc dân sự xét thấy cần phải thu thập thêm
chứng cứ do chưa đủ căn cứ để giải quyết vụ việc nhưng việc thu thập
chứng cứ gặp trở ngại do phải được tiến hành ở địa phương khác hoặc
ở ngoài lãnh thổ Việt Nam. Để giải quyết khó khăn này, pháp luật tố
tụng dân sự đã quy định cơ chế ủy thác thu thập chứng cứ cho các Tòa
án. Theo đó, Tòa án đã thụ lý vụ việc dân sự có thể ủy thác cho Tòa án
khác trong trường hợp cần thu thập chứng cứ ở địa phương khác trong
lãnh thổ Việt Nam hoặc ủy thác thông qua cơ quan có thẩm quyền của
Việt Nam hoặc các cơ quan tiến hành tố tụng dân sự của nước ngoài
mà nước đó và Việt Nam đã ký kết điều ước quốc tế về tương trợ tư
pháp hoặc cùng là thành viên của điều ước quốc tế có quy định về
vấn đề này đối với trường hợp cần thu thập chứng cứ ở ngoài lãnh thổ
Việt Nam thực hiện việc thu thập chứng cứ, xác minh các tình tiết của
vụ việc dân sự.
* Quyết định ủy thác thu thập chứng cứ
Khi tiến hành việc ủy thác thu thập chứng cứ như ủy thác lấy
lời khai của đương sự, của người làm chứng, thẩm định tại chỗ, định
giá tài sản hoặc ủy thác các biện pháp khác để thu thập chứng cứ,
xác minh các tình tiết của vụ việc dân sự, Thẩm phán phải ra quyết
định ủy thác. Trong quyết định ủy thác phải ghi rõ tên, địa chỉ của
nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, quan hệ
pháp luật tranh chấp và những công việc cụ thể ủy thác để thu thập
chứng cứ. Tòa án nhận ủy thác có trách nhiệm thực hiện công việc
cụ thể được ủy thác trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày nhận được
quyết định ủy thác và thông báo kết quả bằng văn bản cho Tòa án đã
ra quyết định ủy thác. Trường hợp không thực hiện được việc ủy thác
thì phải thông báo bằng văn bản, nêu rõ lý do của việc không thực

151
hiện được việc ủy thác cho Tòa án đã ra quyết định ủy thác (khoản 3
Điều 105 BLTTDS 2015).
Để thuận lợi cho việc thực hiện ủy thác, trong nhiều trường hợp
Tòa án ra quyết định ủy thác còn phải gửi kèm cả bản sao một số tài
liệu liên quan đến nội dung ủy thác.
Để đảm bảo thời hạn tố tụng, trong quyết định ủy thác, Thẩm
phán cần ấn định một thời hạn hợp lý để Tòa án được ủy thác thực hiện
việc thu thập chứng cứ.
Trường hợp việc thu thập chứng cứ phải tiến hành ở nước ngoài
thì Tòa án làm thủ tục ủy thác thông qua cơ quan có thẩm quyền của
Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài mà nước đó
và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cùng là thành viên của điều
ước quốc tế có quy định về vấn đề này.
Phần lớn các Tòa án khi nhận được ủy thác đều thực hiện việc
ủy thác theo quy định của pháp luật. Nhưng thực tế cho thấy những vụ
án dân sự bị kéo dài về thời gian giải quyết đều do Tòa án chậm nhận
được kết quả ủy thác, đặc biệt là ủy thác ngoài lãnh thổ Việt Nam.
Nhiều vụ án dân sự hết thời hạn chuẩn bị xét xử nên phải tạm đình chỉ
giải quyết vụ án do chờ kết quả ủy thác theo điểm đ khoản 1 Điều 214
BLTTDS 2015. Lý do phần lớn các Tòa án hay các cơ quan khác nhận
ủy thác thường cho rằng đó là công việc làm hộ, làm thay Tòa án ủy
thác nên tinh thần, trách nhiệm thực hiện chưa cao, chưa đảm bảo thời
gian thực hiện ủy thác; do công việc nhận ủy thác ở nhiều vụ án dân
sự đa phần là xác minh, thu thập chứng cứ hay xem xét, thẩm định,
định giá tài sản gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp. Bên cạnh đó thủ tục
thực hiện ủy thác tư pháp đặc biệt là ủy thác tư pháp nước ngoài quy
định rườm rà khi Tòa án cấp huyện thực hiện ủy thác. Theo đó, Tòa án
cấp huyện không có quyền ủy thác trực tiếp cho Bộ Tư pháp hay cơ
quan đại diện ngoại giao mà chỉ được làm công văn đề nghị Tòa Dân
sự TAND cấp tỉnh, thành phố thực hiện ủy thác tư pháp nước ngoài,
thủ tục ủy thác này mất nhiều thời gian ở khâu gửi công văn cho Tòa
chuyên trách, cho Sở Tư pháp hay cho Bộ Ngoại giao.

152
Trường hợp không thực hiện được việc ủy thác theo quy định tại
khoản 3 và khoản 4 Điều 105 BLTTDS 2015 hoặc đã thực hiện việc ủy
thác nhưng không nhận được kết quả trả lời thì Tòa án giải quyết vụ án
trên cơ sở chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ việc dân sự.
i) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ
Trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức
được coi là một nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự. Khác
với hoạt động chứng minh trong tố tụng hình sự - nghĩa vụ chứng
minh thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng, những người tham gia tố
tụng khác có quyền chứ không có nghĩa vụ chứng minh, trong tố tụng
dân sự, nghĩa vụ chứng minh thuộc về đương sự. Phạm vi hoạt động
chứng minh của đương sự là chứng minh cho tính có căn cứ và hợp
pháp trong yêu cầu của mình, là cơ sở cho Tòa án xem xét chấp nhận
hay bác bỏ yêu cầu đó. Việc tồn tại quy định về trách nhiệm cung cấp
chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức xuất phát từ sự cần thiết phải
có một cơ sở pháp lý để yêu cầu cung cấp chứng cứ của đương sự đối
với chủ thể nắm giữ chứng cứ trở nên có giá trị bắt buộc tương đối đối
với cá nhân, cơ quan, tổ chức được yêu cầu. Để bảo đảm cho đương
sự thực hiện được nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình và Tòa án có đầy đủ chứng cứ để
giải quyết nhanh chóng và đúng đắn vụ, việc dân sự, pháp luật tố tụng
dân sự đã có những quy định cơ bản về trách nhiệm của các cá nhân,
cơ quan, tổ chức trong việc cung cấp chứng cứ.
“Đương sự có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung
cấp tài liệu, chứng cứ. Khi yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp
tài liệu, chứng cứ, đương sự phải làm văn bản yêu cầu ghi rõ tài liệu,
chứng cứ cần cung cấp; lý do cung cấp; họ, tên, địa chỉ của cá nhân,
tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng
cứ cần cung cấp”.
Thực tiễn thi hành BLTTDS 2004 sửa đổi, bổ sung 2011 cho
thấy, việc các đương sự tự mình đi thu thập chứng cứ gặp nhiều khó
khăn, do không nhận được sự hợp tác của các cơ quan, tổ chức, cá

153
nhân đang lưu giữ chứng cứ. Nhiều trường hợp các cơ quan, tổ chức,
cá nhân đang lưu giữ chứng cứ không thực hiện đúng thời hạn yêu cầu
cung cấp hoặc không cung cấp chứng cứ khi nhận được yêu cầu của
Tòa án, Viện kiểm sát nên làm ảnh hưởng tới thời hạn và chất lượng
giải quyết vụ việc dân sự. Nguyên nhân cơ bản dẫn tới thực trạng trên
là do thiếu vắng các quy định và chế tài cụ thể để xử lý vi phạm và bảo
đảm thực hiện. Việc sửa đổi quy định nêu trên tại Điều 106 BLTTDS
năm 2015 xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn. Quá trình thu thập chứng
cứ của các cơ quan tiến hành tố tụng được thể hiện bằng các văn bản tố
tụng, các văn bản này có giá trị bắt buộc thi hành đối với một hoặc một
số chủ thể xác định do bản chất sự hoạt động của các cơ quan này là
việc thực thi quyền lực nhà nước trong trách nhiệm và quyền hạn luật
định. Ngược lại, đương sự và các chủ thể tham gia tố tụng khác chỉ có
quyền và nghĩa vụ trong quan hệ tố tụng một cách hạn chế, phụ thuộc
vào địa vị tố tụng của họ, do đó yêu cầu của các chủ thể này không
mang tính bắt buộc như văn bản tố tụng của các cơ quan tiến hành tố
tụng. Có thể nói việc sửa đổi này là bước cơ bản và đầu tiên để xây
dựng ý thức pháp luật của chủ thể nắm giữ tài liệu, chứng cứ nhưng
không tham gia vào quá trình tố tụng dân sự, đồng thời là cơ sở cho
việc xây dựng các điều luật cụ thể về vai trò và mức độ tham gia vào
hoạt động chứng minh ở giai đoạn cung cấp chứng cứ, thực thi có hiệu
quả trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc cung cấp tài
liệu, chứng cứ theo yêu cầu của đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát.
Quy định về thời hạn giao nộp tài liệu, chứng cứ trong BLTTDS 2004
sửa đổi, bổ sung 2011 chỉ áp dụng đối với yêu cầu cung cấp tài liệu,
chứng cứ của Tòa án, Viện kiểm sát. Tuy nhiên, BLTTDS 2015 đã bổ
sung quy định mới ràng buộc thời hạn thực hiện trách nhiệm cung cấp
tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức: “Cơ quan, tổ chức, cá
nhân có trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ cho đương sự trong
thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu; trường hợp không
cung cấp được thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người
có yêu cầu”. Việc quy định thời hạn này một mặt có ý nghĩa quan
trọng, trực tiếp đối với việc thu thập chứng cứ của Tòa án và Viện kiểm

154
sát để bảo đảm các thời hạn khác trong tố tụng dân sự, mặt khác còn
có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định trường hợp đương sự đã áp
dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà vẫn không thể
tự mình thu thập được.
Trên thực tế, với nhiều vụ việc dân sự khi khởi kiện, người khởi
kiện không nắm giữ chứng cứ và đã có yêu cầu cơ quan nắm giữ chứng
cứ cung cấp để phục vụ cho việc khởi kiện của mình, nhưng vì nhiều
lý do mà việc thu thập chứng cứ của họ bị kéo dài do không nhận được
trả lời từ phía chủ thể được yêu cầu. Để giải quyết tình trạng này, trước
hết cần giải quyết vấn đề thiện chí cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá
nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Bên cạnh đó, việc bổ sung, sửa
đổi quy định về biện pháp hỗ trợ trong việc bảo vệ, thu thập chứng cứ,
tài liệu trong BLTTDS 2015 là phù hợp.
Trường hợp, đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu
thập tài liệu, chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được thì
có thể đề nghị Tòa án ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân
đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp cho mình hoặc đề
nghị Tòa án tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ nhằm bảo đảm cho
việc giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn.
Đương sự yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ phải làm
đơn ghi rõ vấn đề cần chứng minh; tài liệu, chứng cứ cần thu thập; lý
do vì sao tự mình không thu thập được; họ, tên, địa chỉ của cá nhân,
tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng
cứ cần thu thập đó.
Thực tiễn nhiều trường hợp cơ quan, tổ chức lưu giữ chứng cứ
thường không trả lời bằng văn bản cho đương sự về việc không cung
cấp tài liệu, chứng cứ mà chỉ từ chối việc cung cấp bằng lời nói. Do đó,
đương sự không có tài liệu cung cấp cho Tòa án chứng minh là mình
đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà vẫn không
thể thu thập được. Vì vậy, khi đương sự có đơn yêu cầu thu thập, Tòa
án cũng không có cơ sở để tiến hành biện pháp thu thập chứng cứ này.
Thậm chí, cả khi Tòa án đề nghị cơ quan, tổ chức cung cấp các tài liệu,

155
chứng cứ thì vẫn có những cơ quan, tổ chức không cung cấp hoặc cung
cấp không đầy đủ, không chính xác, không đúng thời hạn.
Trường hợp có yêu cầu của đương sự hoặc xét thấy cần thiết, Tòa
án ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu
giữ cung cấp cho mình tài liệu, chứng cứ cho Tòa án.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng
cứ có trách nhiệm cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của
Tòa án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu; trường
hợp hết thời hạn này mà không cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo
yêu cầu của Tòa án thì cơ quan, tổ chức, cá nhân được yêu cầu phải trả
lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thực
hiện yêu cầu của Tòa án mà không có lý do chính đáng thì tùy theo tính
chất, mức độ vi phạm có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách
nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Việc xử phạt hành chính
hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật đối với
cơ quan, tổ chức, cá nhân không phải là lý do miễn nghĩa vụ cung cấp
tài liệu, chứng cứ cho Tòa án.
Như vậy, để tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ, Thẩm phán
có thể áp dụng linh hoạt một hoặc một số biện pháp thu thập chứng
cứ được quy định tại Điều 97 BLTTDS 2015 và xử lý tốt một số tình
huống như:
- Trường hợp lấy lời khai của đương sự, đương sự không ký,
Thẩm phán xử lý thế nào?
- Nhân chứng quan trọng của vụ án không đến Tòa án để khai
báo, Thẩm phán xử lý thế nào?
- Trong một vụ án dân sự có một chứng cứ quan trọng đương sự
tự đi giám định, Tòa án cũng trưng cầu giám định, kết quả giám định
ở hai cơ quan khác nhau. Tòa án căn cứ vào kết quả nào để giải quyết
vụ án đó?
- Khi xem xét thẩm định tại chỗ vắng mặt Ủy ban nhân dân xã,
phường nơi có tài sản tranh chấp, Thẩm phán xử lý ra sao?

156
- Khi định giá tài sản các thành viên của Hội đồng định giá biểu
quyết ngang nhau về giá một tài sản tranh chấp, Thẩm phán giải quyết
như thế nào?
- Khi định giá tài sản đương sự gây khó khăn, chống đối thậm
chí không cho vào nhà, đất để định giá, Thẩm phán phải xử lý như
thế nào?
2.3. Kỹ năng của Kiểm sát viên trong kiểm sát hoạt động thu
thập chứng cứ
BLTTDS 2015 quy định cho phép Viện kiểm sát thực hiện quyền
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm (khoản 6
Điều 97), đồng thời quy định bổ sung cho VKSND quyền yêu cầu Tòa
án xác minh, thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ việc dân
sự theo quy định của BLTTDS. Với tư cách là người tiến hành tố tụng
dân sự, Kiểm sát viên theo sự phân công của Viện trưởng VKSND để
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ việc
dân sự của Tòa án, Kiểm sát viên thực hiện quyền yêu cầu Tòa án xác
minh, thu thập chứng cứ hoặc trực tiếp xác minh, thu thập chứng cứ
trong các trường hợp luật định.
2.3.1. Yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ
Trong quá trình giải quyết vụ, việc dân sự, nếu Kiểm sát viên xét
thấy cần xác minh, thu thập thêm chứng cứ để đảm bảo cho kiểm sát
giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật thì Kiểm sát viên gửi
văn bản yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ. Thẩm quyền này
được thực hiện trước khi Tòa án mở phiên tòa, phiên họp và ở ngay
trong phiên tòa, phiên họp. Kiểm sát viên được quyền yêu cầu Tòa án
xác minh, thu thập chứng cứ trước khi mở phiên tòa, phiên họp và tại
phiên tòa, phiên họp.
a) Yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ trước khi mở
phiên tòa, phiên họp
Áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 22 Thông tư liên tịch số
02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016 của Viện kiểm

157
sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao quy định việc phối hợp
giữa Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân trong việc thi hành
một số quy định của BLTTDS (Thông tư số 02/2016), Kiểm sát viên
cần lưu ý tiến hành các công việc sau:
Trước khi mở phiên tòa, phiên họp, Kiểm sát viên gửi văn bản
yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ cho Tòa án đang giải
quyết vụ việc dân sự. Văn bản yêu cầu phải nêu rõ chứng cứ cần xác
minh, thu thập, lý do cần xác minh, thu thập chứng cứ đó. Tòa án gửi
cho Kiểm sát viên bản sao tài liệu, chứng cứ ngay sau khi Tòa án thu
thập được. Nếu tại phiên tòa, phiên họp, Tòa án mới nhận được tài liệu,
chứng cứ đó thì Tòa án công bố tài liệu, chứng cứ theo quy định tại
điểm c khoản 1 Điều 254, khoản 1 Điều 303 BLTTDS 2015.
Trường hợp việc xác minh, thu thập chứng cứ theo yêu cầu của
Kiểm sát viên là không thể thực hiện được hoặc Tòa án xét thấy không
cần thiết thì chậm nhất là đến ngày hết thời hạn mở phiên tòa, phiên
họp theo quyết định của Tòa án, Tòa án thông báo cho Kiểm sát viên
bằng văn bản và nêu rõ lý do.
b) Yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ tại phiên tòa,
phiên họp
Tại phiên tòa, phiên họp, Kiểm sát viên yêu cầu Tòa án xác minh,
thu thập chứng cứ phải nêu rõ chứng cứ cần xác minh, thu thập, lý do
cần xác minh, thu thập chứng cứ đó. Căn cứ quy định tại điểm c khoản 1
Điều 259 BLTTDS, Thẩm phán, Hội đồng xét xử quyết định chấp nhận
hoặc không chấp nhận yêu cầu của Kiểm sát viên. Trường hợp Thẩm
phán, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu của Kiểm sát viên
thì phải nêu rõ lý do, Kiểm sát viên tiếp tục tham gia phiên tòa, phiên
họp. Yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ của Kiểm sát viên
tại phiên tòa, phiên họp và việc Thẩm phán, Hội đồng chấp nhận hoặc
không chấp nhận yêu cầu của Kiểm sát viên phải được ghi vào biên
bản phiên tòa, phiên họp.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên có thể phát hiện được những tình tiết
mới phát sinh, đòi hỏi Kiểm sát viên phải nắm chắc chứng cứ để xác định

158
có cần yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập thêm chứng cứ không. Khi đưa
ra yêu cầu phải cụ thể, có tính thuyết phục để Tòa án chấp nhận hoãn phiên
tòa, tiếp tục thu thập chứng cứ đảm bảo giải quyết vụ án được chính xác.
Trường hợp đã tạm ngừng phiên tòa, phiên họp nhưng việc xác
minh, thu thập chứng cứ theo yêu cầu của Kiểm sát viên là không thể
thực hiện được thì trước ngày Tòa án tiếp tục xét xử vụ án, Tòa án
thông báo cho Kiểm sát viên bằng văn bản và nêu rõ lý do.
2.3.2. Kiểm sát viên trực tiếp xác minh, thu thập chứng cứ
Khi được Viện trưởng Viện kiểm sát phân công thực hiện kiểm
sát đối với các bản án, quyết định dân sự sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật hoặc trong quá trình giải quyết đơn đề nghị xem xét bản
án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm, Kiểm sát viên có quyền trực tiếp xác minh, thu thập
chứng cứ trong hai trường hợp sau:
Trường hợp thứ nhất, xem xét quyết định việc kháng nghị theo thủ
tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm: Kiểm sát viên có quyền kiểm
tra, xác minh tài liệu, chứng cứ hoặc tiến hành các biện pháp thu thập tài
liệu, chứng cứ như lấy lời khai của đương sự, người làm chứng, đối chất
giữa các đương sự với nhau, giữa đương sự với người làm chứng; trưng
cầu giám định; xem xét, thẩm định tại chỗ; yêu cầu cơ quan, tổ chức,
cá nhân cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật
khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định tại các
điểm a, b, c, đ và g khoản 2 Điều 97 BLTTDS 2015.
Trường hợp thứ hai, để bảo vệ quan điểm kháng nghị của Viện
kiểm sát tại phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
Khi tiến hành các biện pháp thu thập tài liệu, chứng cứ gồm trưng
cầu giám định, xem xét thẩm định tại chỗ; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá
nhân cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật
khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định tại các
điểm c, đ, g khoản 2 Điều 97 BLTTDS 2015 thì Viện kiểm sát phải ra
quyết định, trong đó nêu rõ lý do và yêu cầu của Viện Kiểm sát.

159
Tài liệu, chứng cứ do Viện kiểm sát thu thập theo quy định tại
khoản 6 Điều 97, khoản 2 Điều 330 BLTTDS 2015 được thông báo
cho đương sự theo khoản 5 Điều 97 BLTTDS năm 2015, được chuyển
cho Tòa án để đưa vào hồ sơ vụ việc dân sự và bảo quản tại Tòa án.
Trong quá trình thực hiện thẩm quyền yêu cầu Tòa án xác minh
thu thập chứng cứ hoặc trực tiếp xác minh thu thập chứng cứ, Kiểm
sát viên cần phải nắm chắc các quy định về chứng cứ và chứng minh
trong tố tụng dân sự, áp dụng chính xác các trình tự, thủ tục thu thập
chứng cứ. Kiểm sát viên phải chú trọng việc nghiên cứu hồ sơ, đánh
giá chứng cứ. Đây là vấn đề cốt lõi để Kiểm sát viên xác định chứng
cứ trong hồ sơ đã đầy đủ, khách quan, toàn diện hay chưa, là cơ sở đề
ra hướng yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập bổ sung chứng cứ.
3. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
1. Phân tích các điều kiện xác định chứng cứ trong pháp luật tố
tụng dân sự?
2. Phương pháp xác định đối tượng chứng minh và trọng tâm vấn
đề cần chứng minh trong vụ án?
3. Tại sao đương sự phải có nghĩa vụ thu thập, giao nộp chứng cứ
và Tòa án không chịu trách nhiệm đầu tiên về việc thu thập các chứng
cứ trong tố tụng dân sự?
4. Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ trong trường hợp nào?
Điều kiện gì để Tòa án thu thập chứng cứ?
5. Trong các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án, biện pháp
nào Tòa án phải ra quyết định?
6. Tòa án lấy lời khai của đương sự, định giá tài sản, xem xét tại
chỗ, trưng cầu giám định, ủy thác thu thập chứng cứ trong trường hợp
nào? Trình tự, thủ tục, cách thức tiến hành?
7. Trình bày kỹ năng của Luật sư trong hoạt động thu thập chứng cứ?
8. Phân tích các nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong
việc xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ giải quyết các vụ án dân sự?

160
Chương 3
NGHIÊN CỨU HỒ SƠ

Mục tiêu của bài học: Nội dung:


Chương này trang bị cho người học: 1. Một số vấn đề chung trong
Về kiến thức, người học nhận diện hoạt động nghiên cứu hồ sơ
được các vấn đề chung trong hoạt 2. Kỹ năng của Luật sư, Thẩm
động nghiên cứu hồ sơ. Vận dụng phán, Kiểm sát viên trong
kiến thức để giải quyết những vấn hoạt động nghiên cứu hồ sơ
đề thực tiễn, những tình huống cụ 2.1. Kỹ năng của Luật sư
thể khi nghiên cứu hồ sơ vụ án trong nghiên cứu hồ sơ vụ án
dân sự.
2.2. Kỹ năng của Thẩm phán
Về kỹ năng, người học hiểu và vận trong nghiên cứu hồ sơ vụ án
dụng được kỹ năng cơ bản của Luật
sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên trong 2.3. Kỹ năng của Kiểm sát
hoạt động nghiên cứu hồ sơ. viên trong nghiên cứu hồ sơ
vụ án
Về thái độ, người học nhận thức
được những vai trò, yêu cầu và 3. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
trách nhiệm nghề nghiệp của Luật
sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên trong
trong nghiên cứu hồ sơ, vận dụng
kiến thức đã học thực thi nghề
nghiệp của mình.
1. Một số vấn đề chung trong hoạt động nghiên cứu hồ sơ
Nghiên cứu hồ sơ vụ án dân sự, nếu được hiểu theo nghĩa rộng,
là cả quá trình tố tụng từ khi khởi kiện cho đến khi giải quyết xong vụ
án. Thậm chí, có trường hợp khi tổ chức thi hành án dân sự cũng phải
nghiên cứu hồ sơ vụ án (đã xét xử xong) để đề ra phương án, cách thức

161
tổ chức thi hành bản án dân sự. Nếu được hiểu theo nghĩa hẹp, nghiên
cứu hồ sơ vụ án dân sự là quá trình tổng hợp các tình tiết, các quy
định pháp luật có liên quan, phát hiện những điểm còn thiếu, còn mâu
thuẫn, từ đó có biện pháp tố tụng khắc phục điểm khuyết đó, chuẩn bị
cho hướng giải quyết tiếp theo vụ án dân sự và thường là chuẩn bị cho
phiên tòa xét xử vụ án đó.
Luật sư, Thẩm phán và Kiểm sát viên có vai trò, nhiệm vụ và
quyền hạn khác nhau trong quá trình tham gia giải quyết vụ án dân sự.
Do vậy, mục đích nghiên cứu hồ sơ vụ án của mỗi chủ thể này là khác
nhau. Bên cạnh đó, tùy thuộc vào việc tham gia giải quyết vụ án dân sự
trong giai đoạn nào trong cả quá trình giải quyết vụ án dân sự mà mỗi
chủ thể sẽ có cách thức nghiên cứu hồ sơ cho phù hợp. Trong phạm
vi nghiên cứu, chương này chỉ giới hạn nội dung kỹ năng nghiên cứu
hồ sơ vụ án của Luật sư, Thẩm phán và Kiểm sát viên trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm.
1.1. Xác định mục đích nghiên cứu hồ sơ
Nghiên cứu hồ sơ vụ án dân sự là bước quan trọng để xác định
những vấn đề trọng tâm cần tranh tụng để khi vụ án đưa ra xét xử sẽ
được giải quyết tại phiên tòa, rút ngắn thời gian tố tụng, tránh việc
hoãn, thậm chí có trường hợp phải tạm ngừng phiên tòa do nghiên cứu
hồ sơ vụ án chưa đầy đủ. Thực tiễn có những trường hợp do không
nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, dẫn đến tại phiên tòa, vụ án bị đình chỉ do
không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, đình chỉ do hết thời
hiệu khởi kiện… Cũng có trường hợp, vụ án phải ngừng phiên tòa để
thu thập thêm chứng cứ hoặc đưa thiếu người tham gia tố tụng… Để
giải quyết được vụ án, nghiên cứu hồ sơ vụ án dân sự là việc rất quan
trọng, là nghiên cứu toàn bộ vụ án, tuy không được quy định trong luật
tố tụng, nhưng là hoạt động bắt buộc đối với những người tiến hành
tố tụng để bảo đảm tranh tụng và để xét xử được vụ án, nâng cao chất
lượng xét xử.
Đối với Luật sư, nhiệm vụ hàng đầu là bảo vệ tốt nhất quyền và
lợi ích hợp pháp của thân chủ của mình là nguyên đơn, bị đơn hay

162
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Do đó, nghiên cứu hồ sơ vụ
án là một công việc hết sức quan trọng trong quá trình tham gia giải
quyết vụ án dân sự, giúp Luật sư nắm bắt đ­ược tất cả các tình tiết và
chứng cứ của vụ án, các yêu cầu, ý kiến và luận điểm của các đương
sự trong vụ án, các hoạt động tố tụng và quyết định tố tụng của Tòa
án, hiểu được những mặt mạnh, mặt yếu của thân chủ. Trên cơ sở đó,
Luật sư xác định phương án giải quyết vấn đề, thực hiện các công việc
cần thiết để củng cố, xây dựng luận cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho thân chủ của mình.
Với vai trò là người tiến hành tố tụng, thụ lý và xét xử vụ án,
việc nghiên cứu hồ sơ vụ án đối với Thẩm phán có ý nghĩa quyết định
để giúp Thẩm phán tìm ra phương hướng giải quyết vụ án đúng đắn,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tất cả các bên liên quan đến vụ
án dân sự một cách công bằng. Với tư cách là chủ thể có thẩm quyền
theo luật định là lập hồ sơ vụ án, hoạt động nghiên cứu hồ sơ đối với
Thẩm phán là yêu cầu bắt buộc để Thẩm phán có thể nắm vững được
nội dung vụ án, yêu cầu của các đương sự, xác định quan hệ pháp luật
tranh chấp, đánh giá chứng cứ, từ đó xác định được phương hướng giải
quyết vụ án. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu hồ sơ vụ án, Thẩm phán có
căn cứ ban hành các quyết định tố tụng như thu thập thêm chứng cứ,
quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết vụ án, chuyển vụ án
cho Tòa án khác giải quyết, tổ chức việc hòa giải giữa các đương sự
hoặc đưa vụ án ra xét xử.
Kiểm sát viên là người tiến hành tố tụng với chức năng kiểm
sát quá trình giải quyết vụ án. Do vậy, việc nghiên cứu hồ sơ vụ án
là rất cần thiết để Kiểm sát viên nắm bắt được nội dung vụ án, diễn
biến trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Làm tốt công tác này và lập
hồ sơ kiểm sát đầy đủ là cơ sở vững chắc để Kiểm sát viên thực hiện
quyền hạn, trách nhiệm kiểm sát tuân theo pháp luật đối với việc thụ
lý, giải quyết vụ án của Tòa án. Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, Kiểm sát
viên sẽ đánh giá được việc tuân thủ pháp luật tố tụng dân sự của Tòa
án và các đương sự để nêu ý kiến tại phiên xét xử; dự kiến được diễn
biến phiên tòa và chủ động xử lý trong mọi tình huống phát sinh; đồng

163
thời, chuẩn bị bài phát biểu và đề xuất quan điểm của mình về việc giải
quyết vụ án nhằm giúp tòa án xem xét, giải quyết vụ án một cách đúng
đắn, ban hành phán quyết hợp lý, hợp tình và phù hợp với các quy định
của pháp luật. Bên cạnh đó, việc lập hồ sơ kiểm sát đầy đủ ở thủ tục sơ
thẩm cùng với kết quả kiểm sát tại phiên tòa giúp Kiểm sát viên củng
cố căn cứ để báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát cấp mình kháng nghị
cùng cấp hoặc báo cáo Viện kiểm sát cấp trên xem xét kháng nghị đối
với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật có vi phạm.
1.2. Phương pháp nghiên cứu hồ sơ
1.2.1. Nghiên cứu toàn diện và có hệ thống
Vụ án dân sự rất đa dạng và thường có tranh chấp xuất phát từ
những giao dịch dân sự phức tạp, diễn ra trong một thời gian dài, với
sự liên quan của nhiều đương sự. Do vậy, hồ sơ vụ án dân sự thường
gồm nhiều tình tiết, nhiều tài liệu, chứng cứ đa dạng, phức tạp. Điều
này đòi hỏi Thẩm phán, Kiểm sát viên và Luật sư khi nghiên cứu hồ
sơ vụ án phải nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống để có thể
nắm bắt một cách đầy đủ, rõ ràng nội dung vụ án và các vấn đề pháp
lý của vụ án.
Sự vật, hiện tượng nào cũng tồn tại trong mối liên hệ nhất định,
không có sự vật, hiện tượng nào tồn tại một cách riêng biệt, cô lập
với sự vật, hiện tượng khác. Các tình tiết, sự kiện và chứng cứ trong
vụ án cũng vậy. Phương pháp nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ
thống đối với hồ sơ vụ án là việc nghiên cứu tất cả các tài liệu, chứng
cứ, tình tiết có trong hồ sơ vụ án, không bỏ sót một tài liệu nào, kể
cả những tình tiết rời rạc, những tài liệu gián tiếp, thậm chí khi xem
xét sơ bộ ban đầu dường như tài liệu đó không liên quan trực tiếp đến
vấn đề đang tranh chấp, đến bản chất vụ việc. Việc nghiên cứu toàn
diện và có hệ thống còn đòi hỏi người nghiên cứu cần phải xem xét
thận trọng tất cả các mặt, các yếu tố của mỗi tài liệu, chứng cứ, bao
gồm cả những vấn đề về nội dung và hình thức, nguồn gốc xuất xứ
của tài liệu, chứng cứ,... Khi nghiên cứu mỗi tài liệu, chứng cứ cần
phải đặt nó trong bối cảnh của vụ án, trong mối liên hệ với vấn đề

164
pháp lý của vụ án và vấn đề cần phải chứng minh. Mỗi tài liệu, chứng
cứ cần được xem xét trong một chỉnh thể hệ thống các tài liệu, chứng
cứ khác có trong hồ sơ vụ án nhằm phát hiện ra những nội dung mà
chúng có thể bổ sung cho nhau làm rõ một vấn đề đang còn ẩn giấu,
mờ nhạt hoặc những nội dung mâu thuẫn, thay thế nhau. Qua đó, có
thể xây dựng được kế hoạch sử dụng tài liệu, chứng cứ cho mục đích
chứng minh vấn đề pháp lý của vụ án, xây dựng được những luận
điểm phục vụ cho việc giải quyết vụ án đúng đắn hoặc bảo vệ quyền
lợi cho thân chủ.
1.2.2. Nghiên cứu độc lập và khách quan
Như trên đã trình bày, Luật sư, Thẩm phán và Kiểm sát viên đều
có vai trò, quyền hạn và trách nhiệm, mục đích khác nhau trong quá
trình tham gia giải quyết vụ án dân sự. Tuy nhiên, cho dù ở vị trí nào
thì họ đều cần thực hiện việc nghiên cứu hồ sơ vụ án một cách độc lập
và khách quan để đánh giá được bản chất vấn đề pháp lý của vụ án.
Nghiên cứu một cách độc lập là việc Luật sư, Thẩm phán và
Kiểm sát viên tự mình thực hiện việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, không
phụ thuộc vào người khác. Điều này cho phép họ xem xét, đánh giá
các tình tiết, tài liệu, chứng cứ của vụ án bằng chính kiến thức, kỹ năng
và kinh nghiệm của mình, không bị ảnh hưởng bởi ý kiến, quan điểm
của người khác. Cần lưu ý rằng nghiên cứu một cách độc lập không
loại trừ cách làm việc theo nhóm, miễn là có sự phân công rõ ràng giữa
các thành viên và mỗi thành viên cần chịu trách nhiệm độc lập về phần
việc của mình.
Trước khi nghiên cứu một hồ sơ vụ án, Luật sư, Thẩm phán và
Kiểm sát viên có thể đã tiếp cận những thông tin, tài liệu từ người khác
về vụ án, thậm chí có thể bị ảnh hưởng nhất định bởi những ý kiến,
quan điểm của người khác hoặc bản thân họ bị những ấn tượng, cảm
nhận ban đầu. Việc nghiên cứu một cách khách quan đòi hỏi Luật sư,
Thẩm phán và Kiểm sát viên phải coi trọng mọi chứng cứ như nhau,
tách mình ra khỏi những yếu tố cảm tính của bản thân, khỏi những
thông tin và quan điểm của người khác để tránh những định kiến chủ

165
quan làm ảnh hưởng đến việc xem xét, đánh giá đúng về bản chất pháp
lý của các tình tiết, tài liệu, chứng cứ của vụ án.
Ví dụ:
Là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn,
Luật sư chia sẻ với tình cảnh của thân chủ nên bị ảnh hưởng bởi
những quan điểm, tình tiết do thân chủ của mình trình bày, dẫn đến
việc Luật sư hiểu và diễn giải tài liệu, chứng cứ theo quan điểm
chủ quan và cảm xúc của thân chủ. Thực tế này dễ dẫn đến tình
trạng Luật sư không đánh giá hết hoặc bỏ qua những điểm bất hợp
lý, bất lợi trong những tài liệu, chứng cứ của chính thân chủ mình,
hay không đánh giá đúng giá trị chứng minh ý kiến phản bác của
bị đơn trong những tài liệu, chứng cứ khác.
Sắp xếp tài liệu, ghi chép thông tin về hồ sơ vụ án: Thông
thường, hồ sơ vụ án được sắp xếp theo trình tự thời gian xảy ra sự
kiện pháp lý, thời gian ghi trên tài liệu hoặc thời gian thu thập chứng
cứ. Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, Luật sư, Thẩm phán và Kiểm
sát viên có thể tự mình sắp xếp tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ theo
những trình tự khác nhau để thuận tiện cho việc đánh giá, sử dụng.
Có thể sắp xếp tài liệu theo từng đương sự trong vụ án, như: hồ sơ do
nguyên đơn cung cấp, hồ sơ do bị đơn cung cấp, hồ sơ do người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan cung cấp, hồ sơ do Tòa án thu thập;
hoặc sắp xếp tài liệu theo yêu cầu, phạm vi xem xét giải quyết: yêu
cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập; hoặc có thể sắp xếp
theo quan hệ pháp luật tranh chấp. Khi sắp xếp cần lưu ý những tài
liệu, chứng cứ có giá trị chứng minh trực tiếp, những tài liệu, chứng
cứ gián tiếp hoặc bổ sung, tham khảo.
Việc ghi chép thông tin từ hồ sơ vụ án là hết sức quan trọng trong
quá trình nghiên cứu hồ sơ. Khi tiến hành ghi chép nên đi theo dòng
chứng cứ để làm rõ từng vấn đề cần chứng minh. Thông thường, việc
ghi chép thông tin vụ án được thực hiện từ đơn khởi kiện, đến lời khai
của các đương sự và đến những tài liệu, chứng cứ khác. Nội dung ghi
chép cần tập trung vào việc liên kết những sự kiện pháp lý, những nội

166
dung đơn lẻ nằm trong các tài liệu khác nhau, các chứng cứ ở rải rác
trong từng phần của hồ sơ nhằm làm sáng tỏ một tình tiết, một nội
dung cần chứng minh, làm cơ sở cho một luận điểm pháp lý. Ghi chép
các nội dung, vấn đề, chứng cứ và đối chiếu, so sánh chúng với nhau
có thể giúp chúng ta nhận thấy giá trị chứng minh của một chứng cứ
mà khi đứng đơn lẻ thì không liên quan đến tình tiết cần phải chứng
minh, hoặc xác định được sự bất hợp lý của một tài liệu, chứng cứ mà
khi đứng độc lập có thể có giá trị pháp lý.
Ví dụ:
Một trong những yêu cầu của bên mua nhà trong vụ án tranh
chấp hợp đồng mua bán nhà là yêu cầu phạt cọc theo số tiền cọc
là 1 tỷ đồng đã ghi trong hợp đồng mua bán nhà; bị đơn phản bác
với ý kiến là nguyên đơn chưa đặt cọc và thực tế không có văn bản
giao nhận tiền cọc. Nhưng khi nghiên cứu hồ sơ và ghi chép thông
tin từ hồ sơ vụ án, có một chi tiết trong một biên bản thỏa thuận
gần nhất được bên mua và bên bán ký cho thấy, bên mua trả 10
triệu đồng là tiền lãi 2 tháng theo lãi suất 1%/tháng tính trên số
tiền đặt cọc chưa giao cho bên bán. Như vậy, liên kết các nội dung
này lại với nhau, có cơ sở để cho rằng bên mua đã đặt cọc 500
triệu đồng cho bên bán, còn 500 triệu chưa giao, tính lãi suất 1%/
tháng trong 2 tháng là 10 triệu đồng.
Trong quá trình nghiên cứu, khi sắp xếp và ghi chép các tài liệu,
chứng cứ một cách hệ thống trong chuỗi diễn biến của vụ việc,
chúng ta còn có thể phát hiện ra những tình tiết nào, những vấn
đề nào bị khuyết thiếu, từ đó xác định tài liệu, chứng cứ nào cần
phải được thu thập bổ sung hoặc lập luận để phản bác yêu cầu của
đương sự khác.
Đánh giá chứng cứ: Ở nội dung chương 2 của Giáo trình này đã
trình bày đầy đủ các vấn đề về hoạt động thu thập chứng cứ trong tố
tụng dân sự, trong phần này, chúng ta chỉ tìm hiểu những yêu cầu đặc
thù đối với Luật sư, Thẩm phán và Kiểm sát viên trong đánh giá những
thuộc tính cơ bản và giá trị chứng minh của chứng cứ khi nghiên cứu
hồ sơ vụ án.

167
1.2.3. Đánh giá về tính có thật của chứng cứ
Chứng cứ phải thỏa mãn tiêu chí: là những gì có thật. Khi nghiên
cứu hồ sơ vụ án, cần chú ý để xác định tính có thật của chứng cứ bằng
việc đặt chứng cứ đó trong tổng thể các sự kiện pháp lý, các tài liệu,
chứng cứ của vụ án, gắn với logic và bản chất vấn đề.
Ví dụ:
Trong vụ án tranh chấp thành viên công ty do doanh nghiệp A
khởi kiện, bên bị đơn là ông B đưa ra chứng cứ là một chứng từ
nộp tiền góp vốn 01 tỷ đồng có chữ ký của kế toán viên và người
đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp A để phản tố, yêu cầu
công nhận tư cách thành viên công ty của mình. Nhưng đối chiếu
với bảng cân đối kế toán và sổ quỹ của doanh nghiệp thì không có
khoản mục thu 01 tỷ đồng này, quyết toán thuế của doanh nghiệp
cũng không thể hiện khoản vốn góp này trong vốn điều lệ của
doanh nghiệp và ông B cũng không xuất trình được giấy chứng
nhận góp vốn do doanh nghiệp A phát hành. Từ đó đánh giá chứng
cứ bị đơn giao nộp có thể là không có thật và tiến hành thủ tục để
đối chất giữa nguyên đơn và bị đơn về việc góp vốn và nguồn gốc
của chứng từ nộp tiền này.
Mỗi đương sự đều có mục đích riêng khi tham gia tố tụng vụ án
dân sự, để chứng minh cho yêu cầu, ý kiến của mình, họ có thể cung
cấp nhiều loại tài liệu, chứng cứ, trong đó có thể có tài liệu, chứng
cứ không chính xác vì có thể do nhầm lẫn, sai sót hoặc thậm chí giả
mạo. Ví dụ, lời khai của các đương sự có thể chứa đựng nhiều thông
tin chưa được kiểm chứng, nhiều tình tiết chịu sự ảnh hưởng bởi cảm
xúc và cảm tính, nhiều nội dung mâu thuẫn với nhau và với các tài
liệu, chứng cứ khác. Do vậy, việc xác định tính có thật của chứng
cứ có ý nghĩa quyết định đến việc giải quyết vụ án. Có nhiều biện
pháp để xác định tính có thật của chứng cứ, như yêu cầu trưng cầu
giám định; xem xét, thẩm định tại chỗ; đối chất giữa các đương sự
với nhau, giữa đương sự với người làm chứng; ủy thác xác minh tài
liệu, chứng cứ,...

168
1.2.4. Đánh giá về tính hợp pháp của chứng cứ
Tính hợp pháp của chứng cứ là sự hợp pháp về yếu tố nguồn
chứng cứ, về trình tự, thủ tục giao nộp, thu thập chứng cứ.
Ở đây chúng ta cần phân biệt tính hợp pháp với giá trị pháp lý của
chứng cứ, tức là khi đánh giá về tính hợp pháp của chứng cứ sẽ không
xem xét đến vấn đề chứng cứ đó có nội dung hợp pháp hay không,
hình thức có hợp pháp hay không.
Ví dụ:
Một hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất năm 2015 viết
bằng tay được ký giữa bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển
nhượng, không có công chứng, chứng thực và không thực hiện
đăng ký biến động đất đai, thậm chí nội dung hợp đồng còn không
thể hiện rõ là chuyển nhượng quyền sử dụng khu đất cụ thể nào,
giấy tờ pháp lý ra sao. Hợp đồng này nếu được giao nộp hoặc
thu thập đúng quy định của pháp luật tố tụng, thì vẫn được coi là
chứng cứ với đầy đủ tính hợp pháp của nó. Còn giá trị pháp lý của
hợp đồng để xác lập quyền và nghĩa vụ của các bên trong giao dịch
thì không bảo đảm do không thỏa mãn điều kiện có hiệu lực pháp
luật của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất về nội dung
lẫn về hình thức. Do vậy, nếu chỉ riêng chứng cứ này thì không có
giá trị chứng minh để bên nhận chuyển nhượng yêu cầu Tòa án
giải quyết buộc bên chuyển nhượng giao đất cho mình.
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, cần xác định các tài liệu, thông tin
trong hồ sơ có thỏa mãn tiêu chí nguồn chứng cứ theo quy định của
BLTTDS 2015 hay không. Chẳng hạn, có thể không xác định là chứng
cứ hợp pháp đối với văn bản là bản sao không có công chứng, chứng
thực hoặc một vật không được xác định là hiện vật gốc liên quan đến
vụ việc, mà chỉ có thể coi đó là những tài liệu, thông tin để suy đoán là
có thể tồn tại những chứng cứ này trên thực tế.
Về trình tự, thủ tục giao nộp hoặc thu thập chứng cứ,
BLTTDS 2015 quy định khá chặt chẽ cả về quy trình và yếu tố thời
điểm giao nộp, thu thập. Khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ, cần xác

169
định được việc giao nộp chứng cứ của các đương sự có tuân thủ quy
định của pháp luật tố tụng dân sự không để xác định tính hợp pháp của
chứng cứ như có giao nộp trong thời hạn do Tòa án quy định không?
Việc thu thập chứng cứ của Tòa án có đúng trình tự không?...
1.2.5. Đánh giá về giá trị chứng minh của chứng cứ
Mục đích quan trọng nhất của nghiên cứu chứng cứ là đánh giá
giá trị chứng minh của chứng cứ. Giá trị chứng minh của chứng cứ
thể hiện nó có thể chứng minh tính có thật hay không có thật của tình
tiết, sự kiện của vụ án, tính có căn cứ hay không có căn cứ của yêu cầu
của các đương sự. Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, với những vai trò khác
nhau trong việc tham gia giải quyết vụ án dân sự, Luật sư, Thẩm phán
và Kiểm sát viên đều xuất phát từ những vấn đề cần phải chứng minh
của mình mà tập trung vào việc nghiên cứu chứng cứ để xác định giá
trị chứng minh của chứng cứ.
Để đánh giá được giá trị chứng minh của chứng cứ, chúng ta cần
tiến hành phân tích nội dung và hình thức của từng chứng cứ. Đồng
thời đánh giá tổng thể các chứng cứ có liên quan, so sánh các chứng
cứ với nhau, xác định mối liên hệ logic của chứng cứ này với những
chứng cứ liên quan khác. Từ đó, xác định hiệu quả của chứng cứ trong
việc làm rõ tình tiết khách quan của vụ án, tìm ra lập luận để sử dụng
chứng cứ làm cơ sở chứng minh sự thật khách quan của vụ án, khẳng
định của yêu cầu khởi kiện, phản tố hay yêu cầu độc lập của các đương
sự là có căn cứ và hợp pháp hay không.
2. Kỹ năng của Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên trong
hoạt động nghiên cứu hồ sơ
2.1. Kỹ năng của Luật sư trong nghiên cứu hồ sơ vụ án
2.1.1. Nghiên cứu hồ sơ do nguyên đơn cung cấp
Hồ sơ nguyên đơn cung cấp là gốc của vụ án vì vụ kiện khởi
phát từ nguyên đơn, các yêu cầu của nguyên đơn trong đơn khởi kiện
cùng với hồ sơ khởi kiện là cơ sở ban đầu để Tòa án xem xét giải
quyết vụ án. Vì vậy, khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, cho dù là người

170
bảo vệ quyền lợi cho nguyên đơn, bị đơn hay người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan thì Luật sư vẫn cần bắt đầu nghiên cứu từ hồ sơ
do nguyên đơn cung cấp.
Thông thường, hồ sơ do nguyên đơn cung cấp sẽ bao gồm: đơn
khởi kiện, tài liệu chứng minh quyền và lợi ích hợp pháp của mình
bị xâm phạm, tài liệu về tư cách khởi kiện của mình, tài liệu về địa
chỉ của bị đơn. Luật sư cần tập trung nghiên cứu đơn khởi kiện của
nguyên đơn để xác định cụ thể nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết
những nội dung gì. Những yêu cầu này chính là phạm vi khởi kiện
của nguyên đơn và theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự thì
Tòa án chỉ xem xét giải quyết những vấn đề trong phạm vi khởi kiện.
Nguyên đơn có thể thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện. Nếu việc
thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện không vượt quá phạm vi khởi
kiện ban đầu được thể hiện trong đơn khởi kiện, thì ngay tại phiên
tòa, nguyên đơn vẫn có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện
của mình. Do vậy, Luật sư cần nghiên cứu kỹ cả đơn khởi kiện và
các văn bản thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện nếu có để đảm bảo
nắm bắt đầy đủ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Việc nghiên cứu
các tài liệu nêu yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là công việc quan
trọng hàng đầu của Luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị đơn, cho người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để hiểu rõ được thân chủ của mình
đang phải đối diện với những vấn đề pháp lý nào, từ đó tìm phương
án để xử lý, đồng thời xác định rõ giới hạn phạm vi xét xử của Tòa
án khi giải quyết vụ án; đối với Luật sư bảo vệ quyền lợi cho nguyên
đơn thì việc nghiên cứu kỹ đơn khởi kiện sẽ giúp cho Luật sư đánh
giá các yêu cầu khởi kiện đã thực sự đầy đủ và hợp lý hay chưa, từ
đó có tư vấn phù hợp cho nguyên đơn thay đổi, bổ sung, rút một phần
hay toàn bộ yêu cầu khởi kiện của mình.
Trên cơ sở yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Luật sư sẽ xác
định được quan hệ pháp luật tranh chấp, tra cứu lựa chọn áp dụng
chính các quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ pháp luật tranh
chấp, vận dụng làm cơ sở pháp luật để xây dựng luận cứ bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của thân chủ.

171
Sau khi nắm rõ được yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Luật
sư tiến hành nghiên cứu hồ sơ khởi kiện của nguyên đơn, đặc biệt là
các tài liệu, chứng cứ là cơ sở cho yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
và là căn cứ chứng minh yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Những
tài liệu này có thể là hợp đồng thương mại, thỏa thuận dân sự, bản di
chúc, giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản, sổ đăng ký cổ đông, biên
bản làm việc, văn bản ghi nhận hiện trạng tài sản đang tranh chấp, giấy
đăng ký nhãn hiệu hàng hóa, lời khai của người làm chứng,… Đây là
những tài liệu, chứng cứ hết sức quan trọng để Luật sư xác định căn cứ
của yêu cầu khởi kiện mà nguyên đơn đưa ra, đánh giá khả năng chứng
minh những yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ pháp luật
hoặc tìm những điểm bất hợp lý để chứng minh ý kiến phản bác, yêu
cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan là có căn cứ pháp luật. Thực tế giải quyết các vụ án dân
sự cho thấy, nhiều trường hợp tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung
cấp bị sai, bị thiếu sót, tài liệu này không logic và phù hợp với tài liệu
khác, thậm chí có những tài liệu gây bất lợi cho chính họ. Vì thế, khi
nghiên cứu hồ sơ khởi kiện, đặc biệt đối với Luật sư bảo vệ quyền lợi
cho nguyên đơn là người soạn thảo đơn khởi kiện và giúp nguyên đơn
chuẩn bị hồ sơ khởi kiện thì cần thoát ly ra khỏi những quan điểm chủ
quan ban đầu, lưu ý vận dụng các kỹ năng nghiên cứu hồ sơ một cách
độc lập, khách quan, đặt những nội dung này trong cả tổng thể của vụ
án như đã trình bày tại phần kỹ năng chung nói trên để tránh những sai
lầm trong quá trình nghiên cứu hồ sơ khởi kiện.
Nghiên cứu tài liệu về tư cách khởi kiện của nguyên đơn cũng
là một nội dung hết sức quan trọng. Trong thực tế, nhiều trường hợp
không đủ điều kiện khởi kiện hoặc sai về tư cách khởi kiện. Ví dụ, bản
chất người khởi kiện là tổ chức nhưng người đứng tên khởi kiện lại
là người đại diện theo pháp luật của tổ chức đó, hoặc phần họ và tên
người khởi kiện ghi tên tổ chức khởi kiện nhưng phần chữ ký lại chỉ
ghi tên người đại diện theo pháp luật của tổ chức đó,... Việc nghiên cứu
tư cách khởi kiện đối với nguyên đơn là cá nhân khá đơn giản, Luật sư
lưu ý kiểm tra giấy tờ nhân thân của nguyên đơn có còn hiệu lực pháp

172
luật hay không, tính xác thực và hợp lý của các tài liệu khác chứng
minh quyền khởi kiện của cá nhân. Đối với nguyên đơn là tổ chức
thì Luật sư cần lưu ý nghiên cứu các tài liệu để xác định tổ chức đó
thành lập và hoạt động hợp pháp, bao gồm: Giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp, giấy đăng ký kinh doanh hoặc quyết định thành lập của
cơ quan có thẩm quyền nếu như tổ chức đó không có đăng ký doanh
nghiệp, đăng ký kinh doanh; điều lệ của tổ chức hoặc quyết định của
cơ quan có thẩm quyền về tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của tổ
chức nếu là tổ chức không cần có điều lệ; tính xác thực và hợp lý của
các tài liệu khác chứng minh quyền khởi kiện của tổ chức. Đồng thời,
Luật sư cần nghiên cứu tài liệu về người đại diện ký đơn khởi kiện
của tổ chức, bao gồm: tài liệu chứng minh tư cách của người đại diện
theo pháp luật và giấy tờ nhân thân của họ, nếu người đại diện ký đơn
khởi kiện của tổ chức là người được người đại diện theo pháp luật ủy
quyền thì cần phải kiểm tra thêm tính xác thực và hợp lý của văn bản
ủy quyền, giấy tờ nhân thân của người được ủy quyền.
Qua nghiên cứu hồ sơ tài liệu về tư cách khởi kiện của nguyên
đơn, Luật sư cũng có thể khai thác được nhiều nội dung có ý nghĩa
trong việc xác định phương án giải quyết vụ án. Ví dụ, khi nghiên cứu
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp phát hiện được hoạt động ủy
thác đầu tư của nguyên đơn là không hợp pháp do không được đăng ký
kinh doanh, từ đó xác định hợp đồng ủy thác đầu tư đang tranh chấp là
không hợp pháp; hoặc qua nghiên cứu điều lệ doanh nghiệp, Luật sư
phát hiện được Tổng giám đốc đại diện cho nguyên đơn ký hợp đồng
hợp tác kinh doanh đang tranh chấp là vượt thẩm quyền quyết định
giao dịch do mức vốn đưa vào hợp tác kinh doanh như quy định trong
hợp đồng hợp tác kinh doanh thuộc quyền quyết định của đại hội đồng
cổ đông, trong khi đó giao dịch chỉ có phê duyệt của hội đồng quản trị.
Khi nghiên cứu hồ sơ do nguyên đơn cung cấp, Luật sư cần xem
xét, đánh giá về thẩm quyền thụ lý của Tòa án, xem vụ việc có thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án hay không. Chẳng hạn, tranh chấp
về hợp đồng thương mại có điều khoản thỏa thuận hợp pháp về việc
lựa chọn trọng tài thương mại để giải quyết tranh chấp; hoặc có thuộc

173
trường hợp thay đổi thẩm quyền xét xử theo quy định của pháp luật tố
tụng dân sự và tố tụng hành chính hay không. Qua nghiên cứu hồ sơ
vụ án, nếu phát hiện ra yếu tố xác thực có thể dẫn đến thay đổi thẩm
quyền của Tòa án thì Luật sư cần chủ động kiến nghị Tòa án xem xét
chuyển cho Tòa án có thẩm quyền xét xử. Ví dụ, đề xuất chuyển thẩm
quyền xét xử từ Tòa án cấp huyện lên Tòa án cấp tỉnh đối với vụ án có
yếu tố nước ngoài mà người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đã đi
nước ngoài cư trú/học tập/công tác từ trước khi tòa thụ lý vụ án; một
bên trong hợp đồng hợp tác kinh doanh là tổ chức, cá nhân nước ngoài;
hàng hóa, dịch vụ trong hợp đồng mua bán hàng hóa được nhập khẩu
trực tiếp từ nước ngoài và bên bán ở nước ngoài là người có quyền
lợi và nghĩa vụ liên quan; vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất mà nguyên đơn yêu cầu Tòa án hủy quyết định hành
chính rõ ràng trái pháp luật của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho bị đơn.
Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án, Luật sư cũng cần lưu ý
xem xét, đánh giá các căn cứ để có thể kiến nghị Tòa án ra quyết định
đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyết vụ án, hoặc ra quyết định tiếp tục giải
quyết vụ án nếu điều đó là cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho thân chủ của mình. Ví dụ, Luật sư kiến nghị Tòa án đình chỉ
giải quyết vụ án khi xét thấy đã hết thời hiệu khởi kiện, hoặc kiến nghị
Tòa án ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ án khi lý do tạm đình chỉ
giải quyết vụ án đã hết do đã có kết quả ủy thác tư pháp thu thập chứng
cứ ở nước ngoài.
Như vậy, nghiên cứu hồ sơ do nguyên đơn cung cấp là hoạt động
cần thiết và có ý nghĩa đối với cả Luật sư bảo vệ quyền lợi cho nguyên
đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong quá trình
Luật sư tham gia giải quyết vụ án dân sự.
2.1.2. Nghiên cứu hồ sơ do bị đơn cung cấp
Với tư cách là phía đối tụng trong vụ án dân sự, bị đơn sẽ đưa ra
các ý kiến phản bác và/hoặc yêu cầu phản tố đối với yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn, bên cạnh đó, bị đơn còn có thể đưa ra yêu cầu độc lập

174
đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nếu yêu cầu độc lập này
có liên quan đến việc giải quyết vụ án. Kèm theo đó, bị đơn cần cung
cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho các ý kiến, yêu cầu của mình.
Đối với Luật sư­bảo vệ quyền lợi cho nguyên đơn hoặc cho người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập gắn với quyền lợi của
nguyên đơn hoặc là người bị bị đơn đưa ra yêu cầu độc lập thì việc
nghiên cứu hồ sơ do bị đơn cung cấp là vô cùng quan trọng và là cơ
sở để Luật sư xác định phạm vi yêu cầu của bị đơn, xác định những
tài liệu, chứng cứ cần thu thập bổ sung, những nội dung cần phải điều
chỉnh trong phương án bảo vệ quyền lợi cho thân chủ của mình. Ở góc
độ Luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị đơn hoặc cho người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập gắn với quyền lợi của bị đơn thì
qua quá trình nghiên cứu hồ sơ của nguyên đơn và các hồ sơ khác có
trong vụ án, khi nghiên cứu hồ sơ do bị đơn cung cấp Luật sư sẽ có sự
nhận diện chính xác hơn để đưa ra kế hoạch bổ sung tài liệu, chứng cứ,
đề xuất những biện pháp nhằm giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực
từ những tài liệu, chứng cứ không phù hợp với lợi ích của thân chủ,
điều chỉnh phương án bảo vệ quyền lợi cho thân chủ của mình.
Khi nghiên cứu các ý kiến phản bác và tài liệu, chứng cứ chứng
minh cho ý kiến này, Luật sư cần đánh giá giá trị chứng minh của
chúng trong tương quan so sánh với những tài liệu, chứng cứ chứng
minh cho yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Trong một số trường hợp,
tài liệu, chứng cứ mà bên bị đơn đưa ra lại không có giá trị chứng minh
cho ý kiến phản bác của mình, thậm chí Luật sư bảo vệ quyền lợi cho
nguyên đơn, cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có thể khai
thác để củng cố thêm cho yêu cầu hoặc yêu cầu độc lập khởi kiện của
thân chủ mình.
Đối với các yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập đối với người có
quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan của bị đơn, Luật sư cần áp dụng kỹ
năng nghiên cứu tương tự như đối với nghiên cứu yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn. Trước hết, Luật sư cần kiểm tra kỹ trình tự, thủ tục
đưa ra yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập của bị đơn đã tuân thủ quy định
của pháp luật tố tụng dân sự hay chưa, ví dụ, yêu cầu phản tố được

175
đưa ra sau thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chứng cứ và hòa giải là không hợp pháp và không có cơ sở
để chấp nhận, trừ khi có lý do bất khả kháng. Về nội dung và mối liên
quan của yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập của bị đơn đối với phạm vi
khởi kiện cũng là yếu tố quan trọng để xác định việc chấp nhận những
yêu cầu này có tuân thủ quy định của pháp luật tố tụng không.
Khi nghiên cứu văn bản ghi yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập của
bị đơn và hồ sơ chứng minh căn cứ phản tố, căn cứ yêu cầu độc lập,
Luật sư cần đánh giá được yêu cầu phản tố có nhằm loại trừ việc chấp
nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập, hoặc có nhằm bù trừ với
nghĩa vụ của bị đơn theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu
độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hay không, giữa
yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có sự liên quan với nhau và nếu
được giải quyết trong cùng một vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ án
được chính xác và nhanh hơn hay không; yêu cầu độc lập có liên quan
đến việc giải quyết vụ án hay không. Trong trường hợp xác định không
thực sự liên quan thì cần có biện pháp xử lý phù hợp tùy theo Luật sư
bảo vệ quyền lợi cho đương sự nào.
Ví dụ, Luật sư của nguyên đơn, của người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan sẽ đề xuất biện pháp kiến nghị với Tòa án không chấp nhận
yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập của bị đơn; Luật sư của bị đơn
sẽ tư vấn cho thân chủ của mình bổ sung, thay đổi yêu cầu hoặc rút
lại yêu cầu. Khi nghiên cứu, Luật sư lưu ý xác định đâu là các tài liệu,
chứng cứ chứng minh cho từng yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập của bị
đơn. Đồng thời đánh giá các tài liệu, chứng cứ này trong mối quan hệ
tổng thể với những tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ do nguyên đơn cung
cấp để xác định giá trị chứng minh của nó đối với yêu cầu phản tố, yêu
cầu độc lập của bị đơn.
Đồng thời, Luật sư cần kiểm tra xem bị đơn có yêu cầu phản tố,
yêu cầu độc lập đã nộp tiền tạm ứng án phí để Tòa án thụ lý giải quyết

176
các yêu cầu của họ hay chưa. Trong trường hợp họ không nộp tiền tạm
ứng án phí mà không thuộc trường hợp được miễn hoặc không phải
nộp tiền tạm ứng án phí thì cần xem lại tính hợp pháp của việc Tòa án
thụ lý giải quyết yêu cầu phản tố này.
Một trong những lưu ý đối với Luật sư bảo vệ quyền lợi cho
nguyên đơn, cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu
độc lập đối với bị đơn là việc xem xét đề nghị Tòa án áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời. Ngoài việc xác định nhu cầu và căn cứ ngay từ
phía thân chủ của mình thì khi nghiên cứu hồ sơ vụ án do bị đơn cung
cấp, Luật sư bảo vệ quyền lợi cho nguyên đơn, cho người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan cần lưu ý đánh giá các tình tiết, diễn biến của tranh
chấp, các tài liệu, chứng cứ liên quan để xác định có căn cứ đề xuất
Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hay không.
Ví dụ:
Vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán nguyên vật liệu, nguyên đơn
khởi kiện yêu cầu bị đơn thanh toán tiền mua hàng theo hợp đồng,
hồ sơ vụ án cho thấy bị đơn đã hoàn thành dự án xây dựng, đang
phân lô bán nền và bán nhà dự án cho khách hàng; Luật sư có thể
giúp thân chủ làm văn bản kiến nghị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời phù hợp, như: Kê biên tài sản đang tranh chấp hoặc
cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp.
Bên cạnh đó, trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ do bị đơn cung cấp,
Luật sư có thể đề xuất các quyết định tố tụng nếu phát sinh tương tự
như đối với nguyên đơn.
2.1.3. Nghiên cứu hồ sơ do người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan cung cấp
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thường được xác định
theo 03 diện: người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quyền lợi của
nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quyền lợi của
bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập. Đối
với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quyền lợi của nguyên
đơn hoặc bị đơn thì thông thường họ chỉ có lời khai với Tòa án, trong

177
một số trường hợp, họ sẽ cung cấp tài liệu, chứng cứ bổ sung nhằm
làm rõ, chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn hoặc ý kiến
phản bác/yêu cầu phản tố của bị đơn.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền đưa ra yêu cầu
độc lập để yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết nếu yêu cầu độc lập của
họ có liên quan đến vụ án đang được giải quyết và/hoặc yêu cầu độc
lập của họ được giải quyết trong cùng một vụ án làm cho việc giải
quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn. Khi có yêu cầu độc lập,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là một bên đương sự cung
cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu độc lập của mình. Khi
nghiên cứu văn bản ghi yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan và hồ sơ chứng minh căn cứ yêu cầu, Luật sư cần đánh
giá được yêu cầu độc lập này có liên quan đến việc giải quyết vụ án
hay không. Về trình tự, thủ tục đưa ra yêu cầu độc lập của người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Luật sư cần kiểm tra xem yêu cầu này
có được đưa ra hợp lệ trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao
nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải hay không. Trong nghiên
cứu hồ sơ do người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cung cấp, Luật sư
cần đặc biệt chú ý phân tích kỹ lời khai của họ, đối chiếu với lời khai
của các đương sự khác và với chứng cứ trong hồ sơ vụ án để xác định
những vấn đề có mâu thuẫn hoặc còn chưa rõ ràng, từ đó có phương án
giải quyết phù hợp. Ví dụ, đề nghị Tòa án tiến hành đối chất giữa các
đương sự, xác minh tại chỗ hoặc thu thập bổ sung chứng cứ,… Các nội
dung nghiên cứu hồ sơ do người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cung
cấp, Luật sư áp dụng kỹ năng tương tự như đối với nghiên cứu yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập của
bị đơn. Đồng thời, Luật sư cần kiểm tra xem người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan đã nộp tiền tạm ứng án phí để Tòa án thụ lý giải quyết yêu
cầu độc lập của họ hay chưa tương tự như trường hợp đối với bị đơn
có yêu cầu phản tố như đã trình bày ở trên.
Bên cạnh đó, qua nghiên cứu hồ sơ do người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan cung cấp, Luật sư có thể đề xuất các quyết định tố tụng
nếu phát sinh tương tự như đối với nguyên đơn như đã trình bày ở trên.

178
2.1.4. Nghiên cứu hồ sơ do Tòa án thu thập
Khi nghiên cứu hồ sơ do Tòa án thu thập, Luật sư cần lưu ý đánh
giá việc tuân thủ các điều kiện trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ như
đã trình bày tại Chương 2 Giáo trình này.
Một điểm mới của BLTTDS 2015 là quy định trong thời hạn 03
ngày làm việc, kể từ ngày Tòa án thu thập được tài liệu, chứng cứ,
Tòa án phải thông báo về tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự để họ
thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình (khoản 5 Điều 97). Như vậy, về
nguyên tắc, thông qua thân chủ của mình, Luật sư đã có thể biết trước
những tài liệu, chứng cứ do Tòa án thu thập. Tuy nhiên, trên thực tế, do
quy trình thủ tục hành chính của Tòa án, việc thu thập tài liệu, chứng
cứ của tòa án diễn ra trong suốt quá trình chuẩn bị xét xử nên hầu hết
những tài liệu, chứng cứ do Tòa án thu thập chỉ được Luật sư tiếp cận
khi tiến hành hoạt động nghiên cứu hồ sơ. Luật sư cần lưu ý tài liệu,
chứng cứ do Tòa án thu thập có vị trí quan trọng trong hệ thống các tài
liệu, chứng cứ và thường có ảnh hưởng trực tiếp đến hoặc xuất phát từ
quan điểm, phương án giải quyết vụ án của Thẩm phán phụ trách giải
quyết vụ án, do vậy cần nghiên cứu một cách kỹ lưỡng và kết nối hồ
sơ này với những vấn đề cơ bản của vụ án. Thông thường, Thẩm phán
tiến hành thu thập những tài liệu, chứng cứ quan trọng hoặc những
chứng cứ mà các đương sự không thu thập được. Tài liệu, chứng cứ đó
có thể là lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng, là kết
luận giám định, biên bản định giá, là vật chứng hoặc những tài liệu mà
đương sự đang nắm giữ, cơ quan, tổ chức khác đang quản lý, nhưng tất
cả đều nhằm làm rõ tình tiết vụ án và củng cố căn cứ để Tòa án xem xét
giải quyết vụ án. Có nhiều trường hợp khi nghiên cứu những tài liệu,
chứng cứ do Tòa án thu thập, Luật sư có thể nhận diện được những vấn
đề Thẩm phán đặc biệt quan tâm làm rõ, quan điểm hoặc hướng xem
xét giải quyết vụ án của Thẩm phán, từ đó có phương án xử lý hoặc tư
vấn cho thân chủ xử lý một cách phù hợp.
Trong tập hồ sơ của Tòa án, Luật sư cần quan tâm nghiên cứu
về việc xác định tư cách đương sự. Tư cách đương sự trong vụ án dân

179
sự do Thẩm phán xác định, đây là một trong những nội dung quan
trọng để đảm bảo việc giải quyết vụ án một cách đúng đắn. Về cơ bản,
nguyên đơn và bị đơn có thể được xác định một cách thuận lợi trên cơ
sở ai là người kiện và kiện ai. Tuy nhiên, việc xác định người có quyền
lợi và nghĩa vụ liên quan lại thường khó khăn hơn và trong trường
hợp không xác định đầy đủ đương sự này thì có thể được coi là một
vi phạm tố tụng nghiêm trọng với hậu quả pháp lý không thể lường
hết, thậm chí có thể dẫn đến hủy bản án. Người có quyền lợi và nghĩa
vụ liên quan là người mà quyền lợi và/hoặc nghĩa vụ của họ có liên
quan trực tiếp đến tranh chấp trong vụ án dân sự. Đương sự này được
xác định trên cơ sở đề nghị hợp lý của nguyên đơn, bị đơn, của chính
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đó hoặc của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan khác, Tòa án cũng có thể tự mình xác định người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trên cơ sở những tài liệu, chứng cứ và
tình tiết của vụ án.
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Luật sư cần có đánh giá độc lập của
mình để xác định người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Luật sư có
thể đánh giá việc có mặt thêm của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan có góp phần thuận lợi cho việc bảo vệ quyền lợi của thân chủ của
mình hoặc đảm bảo bản án sau này không bị kháng nghị hủy án hay
không, từ đó đề nghị Toà án triệu tập thêm người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan.
2.1.5. Nghiên cứu các quyết định tố tụng của Tòa án
Các quyết định tố tụng và văn bản tố tụng của Tòa án là một cấu
phần quan trọng của hồ sơ vụ án, thường bao gồm những nội dung cơ
bản sau: Thụ lý vụ án; Tiến hành các hoạt động thu thập, xác minh
chứng cứ; Quyết định việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn
cấp tạm thời; Tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ
giải quyết vụ án, quyết định tiếp tục đưa vụ án ra giải quyết hoặc quyết
định đưa vụ án ra xét xử.
Riêng công tác thu thập, xác minh chứng cứ đã bao gồm hàng

180
loạt các hoạt động và văn bản tố tụng của Tòa án như: Lấy lời khai
của đương sự, người làm chứng; Đối chất giữa các đương sự với nhau,
giữa đương sự với người làm chứng; Trưng cầu giám định; Định giá
tài sản; Xem xét, thẩm định tại chỗ; Ủy thác thu thập, xác minh tài
liệu, chứng cứ; Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu,
chứng cứ; Xác minh sự có mặt hoặc vắng mặt của đương sự tại nơi
cư trú. Các vấn đề của hoạt động tố tụng này đã được trình bày cụ thể
tại Chương 2 Giáo trình này. Ở góc độ nghiên cứu hồ sơ, Luật sư cần
xem xét, đánh giá sự hợp lý và tính tuân thủ về trình tự, thủ tục của
hoạt động tố tụng này của Tòa án để có những đề xuất, kiến nghị hoặc
khiếu nại phù hợp nếu cần thiết và có căn cứ nhằm bảo vệ quyền lợi
của thân chủ mình.
Luật sư cần tập trung nghiên cứu kỹ các văn bản tố tụng do Tòa
án ban hành, bắt đầu đối với văn bản thông báo thụ lý vụ án. Quá trình
nghiên cứu cần xác định sự khớp đúng giữa yêu cầu khởi kiện có căn
cứ và hợp pháp với nội dung thông báo thụ lý, sự hợp lý về thời gian
thụ lý với ngày của đơn khởi kiện, xem xét việc tống đạt thông báo thụ
lý cho các đương sự có tuân thủ quy định của pháp luật tố tụng dân sự
hay không, xem xét những văn bản tố tụng khác như văn bản lấy lời
khai, biên bản hòa giải,… có sai, nhầm về đương sự, về nội dung quan
trọng của vụ án hay không để có những kiến nghị, khiếu nại phù hợp.
Đối với vụ án có áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, Luật sư
cần nghiên cứu kỹ các quyết định về biện pháp khẩn cấp tạm thời để
có thể có những khiếu nại/kiến nghị phù hợp và kịp thời đối với Tòa
án. Biện pháp khẩn cấp tạm thời được Tòa án quyết định áp dụng nhằm
mục đích để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ
tính mạng, sức khỏe, tài sản, thu thập chứng cứ, bảo vệ chứng cứ, bảo
toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được,
đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hoặc việc thi hành án. Biện pháp
này chỉ được Tòa án áp dụng nếu có căn cứ để chứng minh cho sự cần
thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đó. Luật sư của bên
đương sự bị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cần nghiên
cứu hồ sơ làm căn cứ áp dụng biện pháp, đặc biệt là xem xét chứng cứ

181
để chứng minh lý do Tòa án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời có hợp lý hay không, phạm vi áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời có phù hợp với yêu cầu hợp pháp của đương sự đề nghị áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hay không, đồng thời xem xét giá trị
của biện pháp bảo đảm có tương đương với tổn thất hoặc thiệt hại có
thể phát sinh do hậu quả của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
không đúng hay không. Trên cơ sở đó đề nghị Tòa án ra quyết định
thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời. Luật sư của bên đương
sự đề nghị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhưng bị thay
đổi, hủy bỏ biện pháp cần nghiên cứu kỹ tài liệu, chứng cứ làm căn cứ
thay đổi, hủy bỏ biện pháp để tìm ra những điểm bất hợp lý nhằm kiến
nghị Tòa án tiếp tục ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
một cách phù hợp.
Một trong những phần tài liệu tố tụng quan trọng mà Luật sư cần
phải nghiên cứu kỹ là tài liệu về hoạt động tổ chức phiên họp kiểm
tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải do Tòa án
thực hiện. Luật sư xem xét trình tự, thủ tục Tòa án tiến hành phiên họp
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải giữa
các đương sự, như: Tòa án có thông báo cho đương sự, người đại diện
hợp pháp của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự về thời gian, địa điểm tiến hành phiên họp và nội dung của
phiên họp hay không; thành phần phiên họp có phù hợp quy định của
pháp luật tố tụng hay không; kiểm tra trình tự tiến hành phiên họp để
nắm được việc Tòa án thực hiện công bố chứng cứ và việc thân chủ
của mình được có ý kiến về yêu cầu, phạm vi khởi kiện, chứng cứ và
đương sự của vụ án.
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, đặc biệt là tài liệu về phiên họp xét
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải do Tòa
án thực hiện, Luật sư cần kiểm tra và đánh giá việc các đương sự khác
tham gia tố tụng có thực hiện đúng nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho
thân chủ của mình và cho đương sự khác theo quy định của pháp luật
tố tụng khi giao nộp chứng cứ cho Tòa án hay không. Đồng thời kiểm
tra, đánh giá việc Tòa án có thực hiện đúng nghĩa vụ cung cấp chứng

182
cứ cho thân chủ của mình và cho đương sự khác theo quy định của
pháp luật tố tụng khi thực hiện thu thập chứng cứ hay không. Trường
hợp Luật sư phát hiện những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án
nhưng thân chủ của mình không được Tòa án hoặc đương sự khác
cung cấp theo quy định, Luật sư có thể kiến nghị với Tòa án quyết định
kéo dài thời gian để nghiên cứu hồ sơ, cung cấp bổ sung chứng cứ, gửi
ý kiến/lời khai bổ sung,…
2.1.6. Kỹ năng sử dụng các kết quả nghiên cứu hồ sơ trong hoạt
động chứng minh của Luật sư
Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và nguồn luật giải quyết
Một trong những yêu cầu quan trọng nhất của việc nghiên cứu
hồ sơ đối với Luật sư là phải xác định được quan hệ pháp luật tranh
chấp, từ đó xác định được nguồn luật nội dung điều chỉnh quan hệ và
giải quyết vụ án.
Trong vụ án dân sự, quan hệ pháp luật tranh chấp rất đa dạng, có
thể chia làm 4 mảng chính: (i) Quan hệ pháp luật tranh chấp trong lĩnh
vực kinh doanh, thương mại (hợp đồng thương mại, tranh chấp thành
viên công ty, tranh chấp sở hữu trí tuệ,...); (ii) Quan hệ pháp luật tranh
chấp về lao động (hợp đồng lao động, kỷ luật lao động, bồi thường chi
phí đào tạo,…); (iii) Quan hệ pháp luật tranh chấp khác về dân sự (thừa
kế, nhà ở, đất đai, hợp đồng dân sự,…); (iv) Quan hệ pháp luật tranh
chấp về hôn nhân và gia đình.
Luật sư căn cứ những yếu tố sau trong hồ sơ vụ án để phân biệt
các cụm quan hệ pháp luật nói trên:
- Yếu tố chủ thể tham gia giao dịch hoặc có quyền, nghĩa vụ dân
sự có tranh chấp: Đối với quan hệ pháp luật tranh chấp trong lĩnh vực
kinh doanh, thương mại, chủ thể phải là cá nhân, tổ chức có đăng ký
kinh doanh theo quy định của pháp luật; là thành viên công ty hoặc là
cá nhân tổ chức có giao dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công
ty, thành viên công ty; là người quản lý của công ty. Đối với quan hệ
pháp luật tranh chấp về lao động thì chủ thể phải là người sử dụng lao

183
động, người lao động hoặc Ban chấp hành công đoàn đại diện cho tập
thể người lao động. Đối với quan hệ pháp luật tranh chấp khác về dân
sự là những chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoặc có quyền, nghĩa vụ
dân sự có tranh chấp.
- Yếu tố mục đích và nội dung của giao dịch, tranh chấp dân sự:
Đối với quan hệ pháp luật tranh chấp về hoạt động kinh doanh, thương
mại thì các bên tham gia đều phải có mục đích lợi nhuận hoặc có giao
dịch về chuyển nhượng phần vốn góp hoặc liên quan đến việc thành
lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản
của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty. Đối với quan
hệ pháp luật tranh chấp về lao động thì phải có quan hệ lao động giữa
người sử dụng lao động và người lao động.
Việc xác định chính xác quan hệ pháp luật tranh chấp là cơ sở để
xác định được nguồn luật nội dung giải quyết vụ án, tìm cơ sở pháp
luật để xây dựng những luận điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho thân chủ.
Ví dụ:
Chị Nguyễn Thị T có đơn xin ly hôn với anh Trần Hải P, được
TAND quận B, thành phố H thụ lý giải quyết theo thông báo thụ lý
ngày 07/3/2016. Về phạm vi yêu cầu chia tài sản khi ly hôn, chị T
yêu cầu Tòa án chia cho mình hưởng 50% số cổ phần đứng tên anh
P là cổ đông với giá trị tương đương 10 tỷ đồng tại Công ty cổ phần
HH vì số tiền mua cổ phần này là tài sản hình thành trong thời kỳ
hôn nhân của hai vợ chồng, đồng thời yêu cầu Tòa án giải quyết
buộc anh P phải thực hiện hợp đồng chuyển nhượng 50% số cổ phần
đứng tên anh P được mua bằng tiền thuộc sở hữu riêng của chị T từ
nguồn bán căn nhà được bố mẹ chị cho riêng có hợp đồng tặng cho
được công chứng, hợp đồng bán nhà được công chứng.
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án này, quan hệ pháp luật tranh chấp
là quan hệ hôn nhân gia đình có thể được xác định rõ ràng trên cơ sở
Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn hợp pháp của chị T và anh P và đơn
xin ly hôn của chị T.

184
Đồng thời, Luật sư cần nghiên cứu hồ sơ vụ án để xác định có hay
không một quan hệ pháp luật tranh chấp trong lĩnh vực kinh doanh,
thương mại là quan hệ pháp luật tranh chấp thành viên công ty phái
sinh liên quan đến việc xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ
chồng trên cơ sở yêu cầu của chị T đề nghị Tòa án giải quyết buộc anh
P phải thực hiện hợp đồng chuyển nhượng 50% số cổ phần đứng tên
anh P sang chị T. Trong trường hợp này, Luật sư cần nghiên cứu một
số hồ sơ cơ bản sau để xác định có hay không quan hệ pháp luật tranh
chấp giữa nguyên đơn là người chưa phải là thành viên công ty nhưng
có giao dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với thành viên công ty
là bị đơn:
- Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, điều lệ Công ty cổ
phần HH để xác định Công ty cổ phần HH được thành lập và hoạt động
hợp pháp hay không.
- Sổ đăng ký cổ đông của Công ty cổ phần HH, Giấy chứng nhận
phần vốn góp (cổ phiếu) của anh P do Công ty cổ phần HH phát hành
(nếu có) để xác định anh P có là cổ đông của Công ty HH hay không
và sở hữu số cổ phần mệnh giá bao nhiêu.
- Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần từ anh P sang chị T, các tài
liệu chứng minh việc thanh toán tiền mua cổ phần, các tài liệu chứng
minh chị T không thuộc trường hợp không được sở hữu cổ phần tại
doanh nghiệp theo quy định của pháp luật, việc thay đổi thông tin cổ
đông, đăng ký cổ đông mới là chị T tại Công ty cổ phần HH để xác
định việc chuyển nhượng cổ phần có tuân thủ các điều kiện theo quy
định của Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán và Điều lệ Công ty cổ
phần HH hay không.
Từ việc nghiên cứu những tài liệu trong hồ sơ vụ án mà xác định
có quan hệ pháp luật tranh chấp như đã nói trên thì Luật sư có thể xác
định được nguồn luật nội dung để giải quyết quan hệ pháp luật tranh
chấp là pháp luật doanh nghiệp và pháp luật chứng khoán. Khi xác
định nguồn luật để giải quyết vụ án, Luật sư lưu ý xác định thời điểm
xảy ra sự kiện pháp lý xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ

185
của các bên tranh chấp, trên cơ sở đó áp dụng pháp luật nội dung tại
thời điểm đó để giải quyết.
Xác định căn cứ pháp luật để giải quyết yêu cầu của thân chủ
Luật sư cần nghiên cứu hồ sơ vụ án để nắm rõ yêu cầu của nguyên
đơn được thể hiện trong đơn khởi kiện và các văn bản bổ sung đơn
khởi kiện (nếu có); yêu cầu của bị đơn được thể hiện trong văn bản ghi
ý kiến phản bác và văn bản nêu yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn,
yêu cầu độc lập đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; Yêu
cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được thể hiện trong văn
bản nêu yêu cầu độc lập.
Để các yêu cầu này được Tòa án xem xét giải quyết, Luật sư cần
lưu ý một số vấn đề chủ yếu sau:
- Tính hợp pháp của các giao dịch dân sự: Luật sư nghiên cứu các
tài liệu, chứng cứ và đối chiếu với quy định của pháp luật có liên quan
(BLDS về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, về các giao dịch
dân sự vô hiệu; các luật chuyên ngành điều chỉnh lĩnh vực giao dịch
dân sự cụ thể theo quan hệ pháp luật tranh chấp, ví dụ pháp luật đất
đai đối với tranh chấp đất đai, pháp luật ngân hàng đối với tranh chấp
hợp đồng tín dụng) để đánh giá về tính hợp pháp của giao dịch dân sự.
Khi giao dịch là hợp pháp, thỏa mãn các tiêu chí có hiệu lực pháp luật
thì Luật sư đề nghị Tòa án xem xét công nhận hiệu lực pháp luật của
giao dịch, trên cơ sở đó đưa ra các yêu cầu để đảm bảo quyền lợi của
thân chủ. Trường hợp có tình tiết có thể ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu
lực pháp lý của giao dịch dân sự, nếu có lợi cho thân chủ của mình thì
Luật sư khai thác sâu để chứng minh giao dịch dân sự vô hiệu nhằm
kiến nghị Tòa án chỉ xem xét giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng
vô hiệu theo quy định của pháp luật mà không xem xét giải quyết yêu
cầu của phía đối tụng. Nếu có chứng cứ bất lợi cho thân chủ của mình
thì Luật sư cần nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có liên quan đến giao
dịch dân sự đó để tìm căn cứ hạn chế yếu tố bất lợi, tạo cơ sở chứng
minh giao dịch vẫn có hiệu lực pháp luật.
- Những tài liệu, chứng cứ quy định quyền và nghĩa vụ của các

186
bên trong giao dịch dân sự có tranh chấp: ngoài những quy định của
pháp luật về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia giao dịch thì hợp
đồng, thỏa thuận hợp pháp giữa các bên tham gia giao dịch được coi
là “luật” đối với các bên và có giá trị pháp lý quy định quyền và nghĩa
vụ của các bên tham gia giao dịch. Do vậy, vấn đề mấu chốt của Luật
sư là nghiên cứu những tài liệu này trong hồ sơ vụ án để xác định được
quyền và nghĩa vụ của thân chủ của mình đối với các bên có liên quan,
từ đó xây dựng những lập luận để khẳng định những yêu cầu mà thân
chủ mình đưa ra là có căn cứ.
Ví dụ:
Ngày 16/4/2015 công ty cổ phần BH và công ty cổ phần HY xác
lập hợp đồng mua bán 60 chiếc xe ô-tô trị giá 60 tỷ đồng do Giám
đốc hai công ty ký kết. Theo hợp đồng, công ty BH có nghĩa vụ sản
xuất xe và giao xe tại quận L thành phố H cho công ty HY thành 3
đợt vào tháng 9, 10, 11 năm 2015, mỗi đợt 20 xe, trong đó đợt đầu
giao cho công ty cổ phần VT là công ty liên kết của công ty HY;
công ty HY, thông qua công ty VT, có nghĩa vụ đặt cọc 10% giá trị
hợp đồng trong vòng 10 ngày kể từ ngày ký hợp đồng để đảm bảo
thực hiện hợp đồng và bên nhận xe có nghĩa vụ thanh toán cho
công ty BH trong vòng 10 ngày kể từ ngày nhận bàn giao xe. Hợp
đồng quy định phạt cọc bằng số tiền đặt cọc, phạt vi phạm hợp
đồng theo thỏa thuận giữa hai bên.
Công ty VT đã đặt cọc 10% giá trị hợp đồng theo đúng thời
hạn thỏa thuận. Công ty BH đã sản xuất xong 60 xe và thông báo
cho công ty HY đến nhận bàn giao xe vào các tháng 9, 10, 11
năm 2015. Tuy nhiên, do có khó khăn trong hoạt động kinh doanh
nên công ty HY không đến nhận xe theo thông báo của công ty BH.
Khi đàm phán giải quyết tranh chấp, Phó Giám đốc công ty HY
thông báo hợp đồng mua bán 60 chiếc xe ôtô trị giá 60 tỷ đồng
ngày 16/4/2015 chưa được Hội đồng quản trị thông qua theo thẩm
quyền phê duyệt hợp đồng mua bán tài sản của công ty.
Ngày 06/6/2016 công ty BH khởi kiện công ty HY ra TAND
huyện S, thành phố H yêu cầu: (1) công nhận hiệu lực pháp luật

187
của hợp đồng mua bán, (2) buộc công ty HY phải tiếp tục thực
hiện hợp đồng, thanh toán đủ 60 tỷ đồng, (3) phạt cọc bằng số tiền
công ty VT đặt cọc, (4) phạt vi phạm hợp đồng là 8% tổng giá trị
hợp đồng, (5) yêu cầu công ty HY bồi thường thiệt hại do chậm
nhận xe bằng lãi suất tiền vay ngân hàng nhân (x) với 60 tỷ tính từ
01/9/2015 đến khi thanh toán xong 60 tỷ (trên cơ sở hợp đồng tín
dụng công ty BH ký với ngân hàng để thu xếp nguồn vốn cho dự án
sản xuất xe), thiệt hại do lưu kho bãi và bảo dưỡng kỹ thuật bằng
300.000 đồng/1 xe/1 ngày tính từ 01/9/2015 đến khi nhận xong
60 xe (trên cơ sở quy định của công ty BH về giá lưu kho bãi, tiêu
chuẩn kỹ thuật và giá bảo dưỡng kỹ thuật), thiệt hại do lỗi mốt xe
bằng 30 triệu đồng/1 xe nhân với 60 xe (trên cơ sở đánh giá nội bộ
của công ty BH).
Trong tình huống này, Luật sư cần tập trung nghiên cứu hồ sơ vụ
án để xác định căn cứ pháp luật và những chứng cứ cần thiết để giải
quyết yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn hoặc tìm căn cứ để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn hoặc cho người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan theo định hướng sau:
- Về hiệu lực của hợp đồng: cần nghiên cứu điều lệ công ty HY
để xác định cấp có thẩm quyền phê duyệt giao dịch mua bán tài sản của
công ty HY là Giám đốc công ty hay Hội đồng quản trị hay cá nhân,
cơ quan có thẩm quyền khác (Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng đầu tư,
Chủ tịch Hội đồng quản trị); nếu không có phê duyệt của cấp có thẩm
quyền thì có chứng cứ nào xác định trong quá trình ký kết và/hoặc thực
hiện hợp đồng, cấp có thẩm quyền của công ty HY đã biết và không
phản đối hay không; Giám đốc có phải là người đại diện theo pháp luật
hay không, công ty HY có bao nhiêu người đại diện theo pháp luật,
quyền hạn của từng người như thế nào.
Đối với công ty VT là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan,
Luật sư cần nghiên cứu tài liệu xác định vai trò và mối liên quan trong
quan hệ giao dịch mua bán xe giữa công ty BH và công ty HY. Đồng
thời cũng cần nghiên cứu điều lệ và các tài liệu liên quan như hợp
đồng/thỏa thuận với công ty HY để xác định cấp có thẩm quyền quyết

188
định của công ty VT đối với số tiền đặt cọc thay cho công ty HY và
việc nhận 20 xe ô tô thay cho công ty HY.
- Trường hợp Giám đốc công ty không phải là người có quyền
quyết định giao dịch mua xe, quyền ký hợp đồng mua xe theo quy định
trong điều lệ công ty HY và giao dịch chưa được cấp có thẩm quyền
phê duyệt, cấp có thẩm quyền ký hợp đồng mua xe chưa có văn bản ủy
quyền cho Giám đốc công ty ký hợp đồng mua xe, cấp có thẩm quyền
không biết hoặc nếu biết thì đã phản đối hợp đồng mua xe thì theo quy
định của Luật Doanh nghiệp 2014, Luật Thương mại 2005 hợp đồng
mua bán này có khả năng vô hiệu và không có căn cứ pháp luật để giải
quyết yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, khi đó Tòa án chỉ xem xét
giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu theo quy định của
pháp luật.
Tương tự như thế, đối với việc đặt cọc và nhận 20 xe của công
ty VT.
- Về quyền và nghĩa vụ của các bên: Luật sư cần nghiên cứu làm
rõ trong hợp đồng hoặc trong các phụ lục hợp đồng có điều khoản nào
quy định trực tiếp hay gián tiếp về nghĩa vụ nhận xe ô tô của công ty
HY hay không. Trường hợp không có quy định về nghĩa vụ nhận xe
mà chỉ có quy định về nghĩa vụ thanh toán cho công ty BH trong vòng
10 ngày kể từ ngày nhận bàn giao xe thì Luật sư có thể lập luận về việc
không có cơ sở buộc công ty HY và công ty VT tiếp tục thực hiện hợp
đồng dưới hình thức buộc phải thanh toán giá trị hợp đồng, vì khi chưa
nhận bàn giao xe thì chưa phát sinh nghĩa vụ thanh toán.
- Về sự mâu thuẫn giữa 2 yêu cầu: yêu cầu số (2) buộc công ty
HY phải tiếp tục thực hiện hợp đồng, nhận 60 xe đã sản xuất xong và
thanh toán đủ 60 tỷ đồng, với số yêu cầu (3) phạt cọc bằng số tiền công
ty VT đặt cọc: Luật sư cần nghiên cứu kỹ hồ sơ, đối chiếu với quy định
của pháp luật dân sự và pháp luật thương mại về đặt cọc và phạt cọc
để đánh giá sự hợp lý của yêu cầu này. Trường hợp này, theo quy định
của pháp luật, nếu đặt cọc là để đảm bảo thực hiện hợp đồng thì Luật
sư đề nghị chỉ lựa chọn 1 trong 2 yêu cầu số (2) hoặc số (3) nêu trên.

189
- Về yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng: Luật sư cần nghiên cứu hồ
sơ để xác định có hay không những tài liệu, chứng cứ thể hiện thỏa
thuận của các bên về việc phạt vi phạm hợp đồng. Trường hợp không
có thỏa thuận về việc phạt vi phạm hợp đồng thì Luật sư áp dụng quy
định của Luật Thương mại 2005 đề nghị không áp dụng việc phạt vi
phạm hợp đồng.
- Về yêu cầu bồi thường thiệt hại: theo quy định của pháp luật
thương mại, một bên trong quan hệ hợp đồng thương mại phải bồi
thường thiệt hại cho bên kia nếu có hành vi vi phạm hợp đồng, có thiệt
hại thực tế và hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây
ra thiệt hại. Tuy nhiên, mức bồi thường được xác định căn cứ vào thiệt
hại thực tế xảy ra và mức độ lỗi của các bên. Khi nghiên cứu hồ sơ vụ
án, Luật sư cần xác định các chứng cứ khách quan để xác định thiệt hại
thực tế, ví dụ: tiêu chuẩn bảo dưỡng kỹ thuật quy định đối với xe buýt
mới xuất xưởng của ngành ôtô, quy định của ngành ô-tô về lỗi mốt và
mức giảm giá đối với xe lỗi mốt, chứ không phụ thuộc vào mong muốn
hoặc quy định nội bộ của bên nguyên đơn. Trong trường hợp xét thấy
cần thiết, Luật sư đề nghị Tòa án tiến hành trưng cầu giám định hoặc
định giá tài sản để xác định mức độ thiệt hại thực tế làm căn cứ giải
quyết vụ án.
Đánh giá giá trị chứng minh của chứng cứ, vấn đề thu thập bổ
sung chứng cứ, xác định phương án sử dụng chứng cứ
Chứng cứ là vấn đề cốt lõi để làm căn cứ giải quyết vụ án một
cách đúng đắn, khi chứng cứ đầy đủ, có giá trị chứng minh và xác định
đúng phương án sử dụng chứng cứ để chứng minh sự thật khách quan
của vụ án, những vấn đề pháp lý đặt ra trong vụ án, trong yêu cầu khởi
kiện, phản tố hay yêu cầu độc lập của các đương sự thì Luật sư có cơ
hội cao để thực hiện mục đích bảo vệ thành công quyền và lợi ích hợp
pháp của thân chủ mình.
Về kỹ năng đánh giá giá trị chứng minh của chứng cứ: Nhiệm vụ
đầu tiên của Luật sư là xác định rõ những vấn đề cần chứng minh từ
góc độ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ mình. Sau khi xác định

190
được những vấn đề cần chứng minh, Luật sư cần tập trung vào việc
đánh giá chứng cứ để phục vụ cho việc làm rõ vấn đề cần chứng minh.
Việc đánh giá giá trị chứng minh của chứng cứ giúp Luật sư đưa ra các
lập luận sắc bén và có căn cứ làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án
để Tòa án tham khảo khi ra phán quyết của mình.
Như vậy, để đánh giá được giá trị chứng minh của chứng cứ, Luật
sư cần tiến hành phân tích nội dung của từng chứng cứ, tập hợp các
chứng cứ lại một cách có hệ thống và đối chiếu các chứng cứ với nhau
trong mối quan hệ logic của chúng, gắn với các tình tiết của vụ án.
Khi đánh giá giá trị chứng minh của chứng cứ, Luật sư cần chú
trọng đến một số vấn đề sau:
- Xác định các chứng cứ trực tiếp nếu căn cứ vào chứng cứ đó sẽ
có thể chứng minh một cách rõ ràng, cụ thể sự thật khách quan của vụ
án, làm rõ vấn đề cần phải chứng minh. Ví dụ, trong vụ án tranh chấp
đòi tài sản, chứng cứ trực tiếp là hợp đồng vay tài sản hoặc hợp đồng
mượn tài sản, hoặc giấy tờ chứng minh quyền sở hữu tài sản.
Đối với Luật sư, trong mọi trường hợp, những chứng cứ này
đều có giá trị chứng minh, tùy theo Luật sư bảo vệ cho quyền lợi của
đương sự nào. Nếu hợp đồng là thật, được ký kết hợp pháp thì có giá trị
chứng minh tính có thật của sự kiện cho mượn tài sản và tính có căn cứ
của yêu cầu đòi tài sản. Nếu hợp đồng không có thật thì có thể chứng
minh ngược lại là không có sự kiện cho mượn tài sản và yêu cầu đòi
tài sản là không có căn cứ.
- Xác định chứng cứ gián tiếp mà nếu chỉ riêng chứng cứ đó thì
không có giá trị chứng minh, cần phải tìm ra mối liên kết với những
tài liệu, tình tiết trung gian khác đã có trong hồ sơ vụ án hoặc phải thu
thập bổ sung để chứng minh được sự thật khách quan hoặc vấn đề pháp
lý của vụ án.
Ví dụ, trong vụ án tranh chấp đòi tài sản chung của ông A và bà
B do ông A đứng tên, chứng cứ gián tiếp là một bản thỏa thuận phân
chia diện tích sử dụng căn nhà cho ông A và bà B nhưng không có nội

191
dung nào đề cập đến quan hệ sở hữu nhà. Như vậy, để chứng minh sự
thật khách quan là nhà thuộc sở hữu chung, cần phải khai thác thêm lời
khai của người bán nhà với tư cách là người làm chứng về việc khi bán
nhà có phải bán cho ông A và bà B không, nhận tiền bán nhà từ những
ai, lời khai của những người làm chứng khác biết việc ông A và bà B
chung nhau mua nhà này.
- Đánh giá giá trị chứng minh của chứng cứ phải dựa trên cơ sở
pháp luật. Giá trị chứng minh của chứng cứ chỉ phát huy hiệu quả trên
cơ sở quy định của pháp luật, tức là khi Luật sư sử dụng một chứng cứ
để chứng minh sự thật khách quan của vụ án thì cần viện dẫn đến quy
định của pháp luật nội dung điều chỉnh giao dịch dân sự, quan hệ pháp
luật dân sự đó.
Ví dụ, trong vụ án tranh chấp về thừa kế, khi sử dụng bản di chúc
đầu tiên là bản viết tay không có người làm chứng và hồ sơ bệnh án
của người để lại di sản làm chứng cứ để phản bác lại bản di chúc có
ngày gần nhất với thời điểm mở thừa kế là bản đánh máy có người làm
chứng theo lập luận: người lập di chúc không còn minh mẫn, sáng suốt
trong khi lập di chúc, Luật sư phải dựa trên quy định của pháp luật dân
sự về di chúc và di chúc hợp pháp, về người có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi để đảm bảo hiệu quả chứng minh của những
chứng cứ này.
Xác định những vấn đề chưa rõ ràng trong yêu cầu của đương
sự, những vấn đề còn mâu thuẫn trong chính lời khai của đương sự,
trong các lời khai của các đương sự với nhau và mâu thuẫn giữa lời
khai với tình tiết, chứng cứ của vụ án. Trên cơ sở đó, tùy vào việc Luật
sư bảo vệ quyền lợi cho thân chủ nào mà tìm phương án thu thập bổ
sung chứng cứ hoặc đề nghị Tòa án tiến hành thu thập bổ sung chứng
cứ để làm rõ các vấn đề này, làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án
nhằm bảo vệ tốt nhất quyền lợi cho thân chủ của mình.
Ví dụ:
Năm 2011, công ty X vay vốn ngân hàng A, tài sản bảo đảm là
căn biệt thự tại khu phố cổ thành phố H của vợ chồng ông bà Y.

192
Do công ty X không trả được nợ, tháng 5/2016 ngân hàng A khởi
kiện ra Tòa yêu cầu trả nợ và phát mại tài sản bảo đảm để thu hồi
nợ. Khi Tòa án thụ lý giải quyết vụ án thì xuất hiện công ty B với
tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan do năm 2010 đã
ký hợp đồng hợp tác kinh doanh với ông bà Y để phá dỡ căn biệt
thự cổ, xây dựng một tòa nhà văn phòng 14 tầng tại diện tích này.
Trong hợp đồng hợp tác này, hai bên thỏa thuận: ông bà Y không
được thế chấp căn biệt thự này tại bất cứ tổ chức, cá nhân nào để
đảm bảo cho bất kỳ nghĩa vụ dân sự nào, trừ trường hợp thế chấp
để công ty B vay vốn. Công ty B khai năm 2015 đã thanh toán số
tiền 10 tỷ đồng cho ông bà Y để triển khai dự án. Tuy nhiên, hồ sơ
vụ án chỉ có bản hợp đồng hợp tác kinh doanh và một văn bản của
ông bà Y gửi Ủy ban nhân dân thành phố H đề nghị hướng dẫn thủ
tục xin phá dỡ biệt thự trong khu phố cổ.
Với vụ án này, Luật sư bảo vệ quyền lợi cho nguyên đơn có thể
xác định vấn đề cần chứng minh là:
Mục đích và nội dung hợp tác kinh doanh là phá dỡ biệt thự để
xây dựng tòa nhà văn phòng 14 tầng có hợp pháp hay không, từ đó xác
định hợp đồng hợp tác kinh doanh có hiệu lực pháp luật hay không.
Thực tế hợp đồng hợp tác kinh doanh đó có được triển khai hay
chỉ là hợp đồng về hình thức nhưng thực chất hợp đồng chưa được
thực hiện.
Khi nghiên cứu hồ sơ, Luật sư cần lưu ý làm rõ những vấn đề sau
và nếu cần thiết sẽ kiến nghị Tòa án yêu cầu đương sự cung cấp thêm
chứng cứ hoặc Tòa án tiến hành thu thập bổ sung các chứng cứ sau:
Chứng từ thanh toán tiền từ công ty B cho ông bà Y, lưu ý là
theo Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 (được sửa đổi,
bổ sung bởi Nghị định số 80/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016) của Chính
phủ về thanh toán không dùng tiền mặt, thì các khoản thanh toán từ 20
triệu đồng trở lên phải thực hiện chuyển khoản thông qua tổ chức cung
ứng dịch vụ thanh toán. Do vậy, theo quy định của pháp luật, khoản
thanh toán 10 tỷ đồng của công ty B cho ông bà Y sẽ phải thực hiện

193
bằng hình thức chuyển khoản, thông thường là chuyển khoản từ tài
khoản ngân hàng. Luật sư cần đề nghị Tòa án yêu cầu công ty B cung
cấp chứng từ chuyển tiền từ tài khoản ngân hàng năm 2015.
Theo quy định của Luật Kế toán, các khoản tiền thu và chi của
doanh nghiệp đều phải được hạch toán trên bảng cân đối kế toán và
phản ánh vào báo cáo thuế nộp cho cơ quan thuế. Do vậy, theo quy
định của pháp luật, khoản thanh toán 10 tỷ đồng của công ty B cho
ông bà Y sẽ phải hạch toán nguồn tiền thu từ đâu và hạch toán chi cho
mục đích gì trên bảng cân đối kế toán của công ty, đồng thời báo cáo
định kỳ của công ty cho cơ quan thuế phải ghi nhận khoản thu, khoản
chi này. Luật sư cần đề nghị Tòa án yêu cầu công ty B cung cấp bảng
cân đối kế toán của công ty, báo cáo thuế của công ty và ông bà Y liên
quan đến khoản tiền này.
Đối tượng của hợp đồng hợp tác kinh doanh là biệt thự phố cổ
của thành phố H và trong hồ sơ vụ án có một văn bản của ông bà Y
gửi Ủy ban nhân dân thành phố H đề nghị hướng dẫn thủ tục xin phá
dỡ biệt thự trong khu phố cổ. Như vậy, Luật sư có thể suy luận rằng
biệt thự này có khả năng nằm trong diện được bảo tồn theo quy định
của thành phố H, dẫn đến mục đích và nội dung hợp tác kinh doanh
là phá dỡ biệt thự để xây dựng tòa nhà văn phòng 14 tầng là vi phạm
quy định quản lý và bảo tồn biệt thự phố cổ của thành phố. Từ đó,
Luật sư tìm kiếm văn bản quy định và quy hoạch của thành phố về
vấn đề quản lý và bảo tồn biệt thự phố cổ, đề nghị Tòa án lấy lời khai
của ông bà Y và công ty B về vấn đề này, đề nghị Tòa án có văn bản
yêu cầu Ủy ban nhân dân thành phố H trả lời về việc mục đích và nội
dung hợp tác kinh doanh là phá dỡ biệt thự để xây dựng tòa nhà văn
phòng 14 tầng của công ty B và ông bà Y có phù hợp với quy định
của thành phố hay không.
Luật sư cần tiến hành xác minh tại chỗ xem công ty B có đóng trụ
sở tại biệt thự này không, dự án phá dỡ biệt thự và xây dựng tòa nhà
đã được triển khai chưa, hiện trạng như thế nào. Trên cơ sở đó đề nghị
Tòa án tiến hành xem xét, xác minh tại chỗ.

194
Về phương án sử dụng chứng cứ:
Chứng cứ phản ánh sự thật khách quan của vụ án, trong khi đó
quyền lợi của nguyên đơn và bị đơn đối lập nhau, quyền lợi của người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các đương sự có thể khác nhau,
thậm chí đối lập nhau. Do vậy, tùy theo thân chủ của mình là ai mà
Luật sư xây dựng phương án sử dụng chứng cứ cho phù hợp nhằm bảo
vệ tốt nhất quyền lợi của thân chủ mình.
Khi xây dựng phương án sử dụng chứng cứ, Luật sư có thể sử
dụng phương pháp lập bảng hỏi và trả lời những câu hỏi đó bằng kết
quả nghiên cứu hồ sơ vụ án với 08 câu hỏi cơ bản là: (1) yêu cầu hay
quyền lợi cần bảo vệ của thân chủ là gì? (2) để bảo vệ được quyền
lợi đó thì cần phải chứng minh được những vấn đề pháp lý gì? (3) để
chứng minh được những vấn đề pháp lý thì cần có những chứng cứ
gì? (4) những chứng cứ đó đã có sẵn chưa, nếu có thì đang nằm ở đâu,
nếu chưa có thì thu thập bổ sung bằng cách nào, nếu không thu thập
bổ sung được thì giải pháp thay thế là gì? (5) gắn kết các chứng cứ với
nhau như thế nào? (6) những chứng cứ nào trong hồ sơ vụ án có giá trị
chứng minh ngược lại, phản bác yêu cầu, ảnh hưởng đến quyền lợi của
thân chủ và giải pháp để khắc phục nó? (7) những phân tích, lập luận,
đề xuất của Luật sư với Tòa án trên cơ sở sử dụng chứng cứ và vận
dụng quy định của pháp luật? (8) những ý kiến phản bác nào của phía
đối tụng sẽ đưa ra để phản bác những chứng cứ mà Luật sư sử dụng và
giải pháp hóa giải những ý kiến phản bác đó là gì?
Đồng thời, Luật sư cần phân tích kỹ những chứng cứ mà phía
đối tụng có thể sử dụng, những lập luận mà họ có thể đưa ra từ đó xây
dựng phương án sử dụng chứng cứ của mình để phản bác lại một cách
có hiệu quả.
2.2. Kỹ năng của Thẩm phán trong nghiên cứu hồ sơ vụ án
2.2.1. Xác định nội dung nghiên cứu hồ sơ
Hồ sơ vụ án là tài liệu tổng hợp, liên quan với nhau về vụ án. Hồ
sơ vụ án phản ánh diễn biến của vụ án. Để giải quyết đúng vụ án sau

195
khi thu thập các chứng cứ, tài liệu của vụ án thì Thẩm phán phụ trách
việc giải quyết vụ án phải tiến hành đọc, xem xét, tìm hiểu các tài liệu
của hồ sơ vụ án. Nghiên cứu hồ sơ vụ án là hoạt động của Thẩm phán
phụ trách việc giải quyết vụ án trong việc đọc, xem xét, tìm hiểu tài
liệu của vụ án nhằm xác định những căn cứ cần thiết cho việc giải
quyết vụ án.
Trên thực tế việc lập hồ sơ vụ án là do Thẩm phán phụ trách việc
giải quyết vụ án tiến hành. Hoạt động này được Thẩm phán tiến hành
trong suốt quá trình giải quyết vụ án kể từ khi Tòa án thụ lý cho đến
khi có bản án hoặc quyết định của Tòa án. Thực tiễn xét xử của Tòa án
lại cho thấy trước khi quyết định các biện pháp giải quyết vụ án, Thẩm
phán vẫn phải tiến hành nghiên cứu lại hồ sơ vụ án. Vì nhiều vấn đề
của vụ án đòi hỏi Thẩm phán phải nghiên cứu kỹ, nghiên cứu trong
một thời điểm cùng với các vấn đề khác mới có thể thấy được các mối
liên hệ giữa chúng, mới đánh giá đúng. Trước khi quyết định các biện
pháp giải quyết vụ án, Thẩm phán không được coi nhẹ việc nghiên cứu
kỹ hồ sơ vụ án. Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Thẩm phán phải làm rõ
được những nội dung cơ bản sau:
a) Xác định yêu cầu của các đương sự
Vụ án dân sự thường được khởi phát từ yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn. Từ đó có thể có các yêu cầu khác của các đương sự khác.
Vì vậy, cần xác định chính xác các yêu cầu của các đương sự, xem xét
các yêu cầu có mối liên quan với nhau không, để sắp xếp thành các
nhóm yêu cầu gồm yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu phản
tố, yêu cầu độc lập của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan (gọi chung là yêu cầu của đương sự). Trách nhiệm
của Tòa án chỉ xem xét, giải quyết trong phạm vi yêu cầu của các
đương sự, tránh tình trạng làm thay, làm thêm các vấn đề mà đương sự
không yêu cầu, nhưng cũng cần xác định rõ, chính xác tất cả các yêu
cầu đó để tránh bỏ sót (đây là vấn đề thường mắc phải). Khi nghiên
cứu về yêu cầu của đương sự, Thẩm phán cần lưu ý xem xét về phạm
vi khởi kiện, về luật áp dụng để giải quyết.

196
b) Xác định quan hệ pháp luật phải giải quyết của vụ án
Kể từ khi nhận hồ sơ khởi kiện của đương sự, quá trình lập hồ
sơ vụ án dân sự, Thẩm phán phải xác định được quan hệ pháp luật cần
phải giải quyết theo yêu cầu của đương sự. Quan hệ pháp luật này do
nguyên đơn yêu cầu, từ đó có thể có yêu cầu phản tố của bị đơn, hay
yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Thẩm
phán cần căn cứ vào các quy định của pháp luật nội dung để xác định
bản chất của quan hệ pháp luật.
Trong một vụ án, thường có một quan hệ pháp luật phải giải
quyết, nhưng cũng có vụ án có nhiều quan hệ pháp luật phải giải quyết,
tuy nhiên, cần lưu ý các quan hệ pháp luật này phải có liên quan với
nhau để giải quyết được trong cùng một vụ án. Việc xác định đúng, đủ
quan hệ pháp luật tranh chấp trong một vụ án giúp quá trình tạo lập hồ
sơ vụ án đúng hướng, đúng bản chất, đúng với các yêu cầu phải giải
quyết, từ đó việc thu thập chứng cứ, giao nộp chứng cứ, hòa giải, xét
xử vụ việc được nhanh chóng, đúng pháp luật.
c) Xác định đầy đủ các đương sự, địa vị tố tụng của đương sự
trong vụ án
Đương sự trong vụ án dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao
gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Thẩm
phán cần căn cứ theo quy định tại Điều 68 BLTTDS 2015 về đương sự
trong vụ việc dân sự cùng với việc nhận định, đánh giá các tình tiết,
sự kiện trong hồ sơ để xác định chính xác đương sự, tránh tình trạng
bỏ sót không triệu tập người tham gia tố tụng. Thông thường tư cách
nguyên đơn, bị đơn được xác định chính xác căn cứ vào yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận khi thụ lý vụ án, và từ đó
xác định được tư cách bị đơn; còn người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan có thể tham gia vào vụ án khi đương sự khác yêu cầu đưa vào
tham gia tố tụng hoặc Tòa án chủ động đưa họ vào tham gia tố tụng.
Thực tiễn cho thấy việc nghiên cứu những người tham gia tố
tụng, địa vị tố tụng của các đương sự có ý nghĩa quan trọng, đảm bảo
được quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự, tránh làm sai hoặc bỏ

197
sót quyền hoặc nghĩa vụ của các đương sự có liên quan. Nhiều vụ án
bị hủy để xét xử lại có nguyên nhân từ thiếu người tham gia tố tụng.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý tránh tâm lý lo sợ thiếu người tham gia tố
tụng là đương sự, lại đưa thừa người không phải là đương sự vào làm
cho vụ án kéo dài, hoạt động thu thập chứng cứ bị phức tạp, quyết định
của vụ án không có quyền hoặc nghĩa vụ pháp lý của họ nhưng họ lại
có quyền kháng cáo…
d) Xác định tài liệu, chứng cứ làm căn cứ cho việc giải quyết vụ án
Trong một vụ án thường có nhiều căn cứ, tài liệu do các đương
sự giao nộp hoặc Tòa án thu thập. Trường hợp các tài liệu, chứng cứ
không có mâu thuẫn, được các đương sự thừa nhận và có tính hợp pháp
thì việc nghiên cứu chứng cứ, tài liệu dễ dàng và cơ sở cho việc phán
quyết sẽ đúng đắn và ổn định hơn.
Còn trường hợp chứng cứ, tài liệu thu thập từ nhiều nguồn khác
nhau về một vụ việc cụ thể bị mâu thuẫn, chồng chéo thì nghiên cứu
hồ sơ vụ án sẽ hướng cho Thẩm phán khi yêu cầu đương sự bổ sung
tài liệu, chứng cứ hoặc thu thập thêm lời khai của người làm chứng,
chứng cứ vật chất khác, hoặc tổ chức đối chất. Nhất là thông qua phiên
họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải,
Thẩm phán sẽ có góc nhìn tổng quan, toàn diện về vụ án, về vấn đề cần
phải tranh tụng bổ sung hoặc các vấn đề mà đương sự đã thống nhất
hoặc chưa thống nhất, đã đủ hay cần bổ sung.
đ) Bước đầu xác định các văn bản, điều luật cần áp dụng và sơ
bộ định hướng giải quyết vụ án
Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, Thẩm phán bước đầu xác định quan
hệ pháp luật cần phải giải quyết, các quy phạm pháp luật điều chỉnh
mối quan hệ đó, các nguồn pháp luật tố tụng cần thiết để giải quyết
vụ án. Cần lưu ý các nguồn luật chi phối quan hệ pháp luật, đặc biệt
là vụ án liên quan đến sở hữu nhà, quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
trí tuệ... Vì vậy, cần xác định nguồn luật thật chính xác, nếu không thì
có thể dễ mắc sai lầm về hướng giải quyết vụ án khi áp dụng văn bản
pháp luật sai.

198
2.2.2. Kiểm tra, sắp xếp hồ sơ vụ án trước khi nghiên cứu
Các giấy tờ, tài liệu trong hồ sơ vụ án phải được đánh số bút lục,
sắp xếp theo thứ tự ngày, tháng, năm. Giấy tờ, tài liệu có trước thì để
ở dưới, giấy tờ, tài liệu có sau thì để ở trên và phải được quản lý, lưu
giữ, sử dụng theo đúng quy định của pháp luật.
Như vậy, việc sắp xếp hồ sơ vụ án được tiến hành từ khi thụ lý vụ
án và quá trình thu thập tài liệu, chứng cứ thì sắp xếp tiếp theo và để ở
trên. Việc sắp xếp này đảm bảo tính liên tục về giao nộp tài liệu, chứng
cứ, nhưng khi nghiên cứu sẽ gặp một số bất tiện, vì vậy người nghiên cứu
cần phải tổng hợp các yêu cầu, ý kiến của đương sự hoặc người tham gia
tố tụng khác một cách khoa học và có tính khái quát, chính xác cao, có
thể cần các bảng biểu tổng hợp, so sánh về lời khai, yêu cầu của đương sự
theo thời gian đối với các vấn đề đã rõ, được thừa nhận hoặc còn chưa rõ,
còn mâu thuẫn. Từ đó, làm cơ sở cho việc giải quyết được vụ án.
Ngoài ra, về tài liệu tố tụng cũng cần phải được tổng hợp bằng
một bảng để xác định quá trình tố tụng, các đương sự có thực hiện đầy
đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng không; người tiến hành tố tụng đã làm
đủ, làm đúng thủ tục tố tụng chưa. Việc thiếu sót các bước tố tụng cũng
là sai lầm đáng tiếc khi không nghiên cứu hồ sơ kỹ để phát hiện, khắc
phục kịp thời những sai sót đó (như tống đạt, thông báo kết quả giám
định, định giá...).
2.2.3. Phương pháp nghiên cứu hồ sơ vụ án dân sự
Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án dân sự phải có tính khách quan,
toàn diện và tính lịch sử. Khi Thẩm phán nhìn nhận vấn đề thiếu khách
quan, nghiên cứu theo hướng chủ quan sẽ dễ dẫn đến sai lầm.
Nghiên cứu hồ sơ vụ án bắt đầu từ đơn khởi kiện và các tài liệu,
chứng cứ đương sự xuất trình chứng minh cho quyền và lợi ích hợp
pháp của mình bị xâm hại. Sau đó là các lời khai, các tài liệu, chứng
cứ khác có liên quan đến yêu cầu đó. Cần xác định chính xác các thay
đổi, bổ sung yêu cầu của các đương sự để xem xét tính liên quan với
nhau, từ đó có hướng giải quyết vụ án.

199
Nếu trong vụ án có nhiều nguyên đơn thì nghiên cứu yêu cầu của
từng nguyên đơn, tổng hợp các yêu cầu của các nguyên đơn cùng nhau
hoặc khác nhau về yêu cầu khởi kiện.
Nghiên cứu hết yêu cầu và tài liệu, chứng cứ phía nguyên đơn,
sau đó mới nghiên cứu lời khai của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan, về các yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập…
Quá trình nghiên cứu hồ sơ, phải đặt các yêu cầu, tài liệu, chứng
cứ của các đương sự trong mối liên hệ với nhau, và phải nghiên cứu
đầy đủ, tất cả các tài liệu, chứng cứ mà đương sự xuất trình, trong đó
chú trọng vào tài liệu quan trọng (như giấy tờ sở hữu có đăng ký do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cấp, hợp đồng…) mà đương sự lấy đó
làm căn cứ khởi kiện hoặc tranh tụng với nhau.
a) Nghiên cứu đơn khởi kiện
Về hình thức đơn khởi kiện, cần kiểm tra đơn khởi kiện có được
làm theo mẫu không bởi đây là cơ sở ban đầu xác định người bị kiện,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, địa chỉ của
những người này. Tránh tình trạng lộn xộn về hình thức của văn bản
khởi kiện. Mẫu đơn khởi kiện được TANDTC ban hành để thống nhất
về vấn đề này.
Về yêu cầu khởi kiện, cần yêu cầu đương sự nêu rõ trong đơn,
đặc biệt là những yêu cầu về tài sản thì cần nêu giá trị tài sản, yêu cầu
cụ thể đối với tài sản tranh chấp… Trường hợp đơn khởi kiện chưa
đúng về hình thức, không đầy đủ về nội dung, Thẩm phán cần yêu cầu
đương sự làm lại đúng với quy định của pháp luật.
Căn cứ vào đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ xuất trình kèm theo,
Thẩm phán xác định thẩm quyền giải quyết, nếu thuộc thẩm quyền của
Tòa án thì sẽ nghiên cứu tiếp các tài liệu, chứng cứ khác.
Cần lưu ý, trong nhiều vụ việc, đương sự đưa ra yêu cầu khởi
kiện khi đã quá thời hiệu khởi kiện. Vì vậy, cần xác định đương sự có
yêu cầu áp dụng thời hiệu hay không (của một bên hay các bên), hoặc
từ chối áp dụng thời hiệu của người được hưởng lợi từ việc áp dụng

200
thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm trốn tránh việc thực
hiện nghĩa vụ. Khi áp dụng thời hiệu có thể dẫn đến đình chỉ giải quyết
vụ án, không phải thực hiện các bước tố tụng tiếp theo.
b) Nghiên cứu lời khai của đương sự
* Nghiên cứu lời khai của nguyên đơn
Đương sự nói chung và nguyên đơn nói riêng có quyền thay
đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình. Như vậy,
trong quá trình khởi kiện, nguyên đơn đưa ra yêu cầu cùng với các tài
liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp.
Quá trình tố tụng, nguyên đơn có thể bổ sung, thay đổi yêu cầu, bổ
sung chứng cứ, tài liệu, nhưng không được vượt quá phạm vi khởi
kiện ban đầu. Cần nghiên cứu kỹ các tài liệu, chứng cứ của nguyên
đơn xem tài liệu, chứng cứ nào xuất trình trước; tài liệu, chứng cứ
nào được bổ sung. Phải nghiên cứu các mối liên quan giữa các tài
liệu, chứng cứ này.
Thực tiễn xét xử cũng có trường hợp nguyên đơn ngụy tạo chứng
cứ nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác. Vì vậy, Thẩm
phán không những nghiên cứu mà cần phải tìm hiểu kỹ càng về nguồn
chứng cứ, xác định tính khách quan, có thật của chứng cứ.
* Nghiên cứu lời khai của bị đơn
Nghiên cứu lời khai của bị đơn cũng được tiến hành bắt đầu khi
bị đơn có ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn, hoặc người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan. Các lời khai có thể là chấp nhận, bác bỏ một
phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập. Quá trình nghiên cứu, Thẩm
phán cần tập trung chủ yếu đến các lời khai về phản đối đối với các
yêu cầu của nguyên đơn, của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
có yêu cầu độc lập. Các tài liệu, chứng cứ bị đơn xuất trình kèm theo
để chứng minh cho lời khai của mình. Việc phản đối của bị đơn có thể
dẫn đến bác bỏ toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, của người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.

201
Nghiên cứu yêu cầu phản tố của bị đơn đối với nguyên đơn nhằm
đối trừ nghĩa vụ. Nghiên cứu yêu cầu độc lập của bị đơn đối với người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Phải kiểm tra yêu cầu phản tố, yêu
cầu độc lập của bị đơn có được thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ
tố tụng như quy định của pháp luật hay không (đó là các quyền của
đương sự nói chung và quyền về yêu cầu khởi kiện, nộp tạm ứng án
phí, quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu trong phạm vi khởi kiện…).
* Nghiên cứu lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
trong vụ án (nếu có)
Nghiên cứu tập trung vào yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan có phù hợp với quy định của pháp luật hay không? Bởi
nếu yêu cầu của họ không được chấp nhận giải quyết trong cùng vụ
án (do không có liên quan đến giải quyết vụ án) thì họ có quyền khởi
kiện bằng vụ án dân sự khác. Một số trường hợp, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan về phía nguyên đơn hoặc bị đơn và họ phải có các
quyền tương ứng. Vì vậy, các lời khai hoặc tài liệu, chứng cứ sẽ được
đánh giá tương đồng với phía nguyên đơn, hoặc bị đơn liên quan. Khi
nghiên cứu cần sắp xếp lời khai, yêu cầu của họ về phía nguyên đơn
hoặc bị đơn, hoặc độc lập với nguyên đơn, bị đơn.
* Nghiên cứu lời khai của những người tham gia tố tụng khác
Khi nghiên cứu lời khai của người làm chứng cần chú ý về độ
tuổi, năng lực nhận thức, nghề nghiệp,… Các mối quan hệ giữa người
làm chứng với đương sự, sự cam đoan về tính trung thực của lời khai,
thông tin mà người làm chứng có được trong hoàn cảnh nào…
Quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án có thể phát hiện nhiều lời
khai còn mâu thuẫn với lời khai của người khác, vì vậy Thẩm phán
cần bổ sung hoặc tổ chức đối chất nếu thấy cần thiết hoặc đương sự
có yêu cầu.
Đối với lời khai, lời đề nghị của những người tham gia tố tụng
khác cũng cần được nghiên cứu kỹ càng, bởi trong từng trường hợp,
họ đưa ra quan điểm, đường lối hoặc tài liệu, chứng cứ có giá trị pháp

202
lý, nhất là Luật sư khi họ đại diện hoặc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
cho đương sự. Vì vậy, Thẩm phán cần tôn trọng và nghiên cứu đánh
giá trong suốt quá trình tranh tụng.
* Nghiên cứu biên bản đối chất, phiên họp kiểm tra việc giao
nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải
Đây là những tài liệu có giá trị pháp lý cao, bởi thông qua đối
chất hay công khai chứng cứ, hòa giải, các đương sự thừa nhận hay
không thừa nhận các tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của
cơ quan chuyên môn hoặc các tài liệu, sự kiện khác mà pháp luật
cho phép không phải chứng minh thì các tình tiết, sự kiện đó được
sử dụng mà không phải chứng minh, không phải làm rõ tại phiên tòa,
mà đương nhiên được sử dụng. Vì vậy, quá trình đối chất hay công
khai chứng cứ hoặc hòa giải có ý nghĩa quan trọng, là bước đầu xác
định được nhiều vấn đề cơ bản trong định hướng giải quyết tranh
chấp trong vụ án dân sự, thậm chí nhiều vấn đề các đương sự đã hòa
giải được với nhau có thể được ghi nhận mà không phải xem xét, giải
quyết nữa.
* Nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ khác
Khi giải quyết vụ việc dân sự, nhiều vụ án còn phải sử dụng các
tài liệu, chứng cứ có ý nghĩa trong vụ án, đó là các tài liệu xem xét,
thẩm định tại chỗ, định giá tài sản, giám định, giám định chứng cứ bị
tố cáo là giả mạo…
Nghiên cứu hồ sơ vụ án dân sự là một quá trình mang tính liên
tục, đòi hỏi tính khách quan, toàn diện, đầy đủ và triệt để, phải đặt yêu
cầu của các đương sự, các tài liệu, chứng cứ của vụ án trong mối liên
hệ với nhau. Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án có ý nghĩa quan trọng trong
định hướng giải quyết, là cơ sở ban đầu cho việc nhận định, đánh giá
về quan hệ pháp luật có tranh chấp và chuẩn bị cho đường lối giải
quyết vụ án dân sự, hoặc cho phiên tòa dân sự. Nghiên cứu đúng, đủ hồ
sơ vụ án dân sự như là cách thức giúp tìm đường đi đến công lý, chân
lý ngắn nhất. Chỉ khi nghiên cứu hồ sơ kỹ, nhận định chính xác, đúng
bản chất vụ việc thì việc xét xử vụ án sẽ nhanh chóng, đúng pháp luật,

203
tránh được sai lầm trong hoạt động xét xử, góp phần đẩy nhanh tiến độ
giải quyết án và nâng cao chất lượng xét xử.
2.3. Kỹ năng của Kiểm sát viên trong nghiên cứu hồ sơ vụ án
Công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết
các vụ việc dân sự là một trong những lĩnh vực công tác thực hiện
chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND. Bên cạnh việc
tiếp tục khẳng định vai trò của VKSND trong tố tụng dân sự đã được
Hiến pháp và pháp luật ghi nhận qua các thời kỳ, BLTTDS 2015 còn
bổ sung nhiều quy định mới theo hướng tăng cường hơn nữa vai trò,
trách nhiệm của VKSND trong tố tụng dân sự. Khi Tòa án thực hiện
thẩm quyền giải quyết vụ, việc dân sự theo quy định mới của BLTTDS
2015 thì phạm vi kiểm sát theo loại việc của VKSND cũng được mở
rộng hơn nhiều so với quy định của BLTTDS 2004, sửa đổi, bổ sung
2011. Đối với từng vụ, việc dân sự, phạm vi kiểm sát được thực hiện
ngay từ khi Tòa án thông báo trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc
thông báo thụ lý giải quyết vụ, việc dân sự đến khi bản án, quyết định
giải quyết vụ, việc dân sự của Tòa án có hiệu lực pháp luật không bị
kháng cáo, kháng nghị, không có yêu cầu, kiến nghị, đề nghị theo quy
định tại khoản 1 Điều 358 BLTTDS 2015. Với nhiệm vụ kiểm sát hoạt
động tư pháp, việc nghiên cứu hồ sơ của đại diện Viện kiểm sát tham
gia tố tụng nhằm hướng tới việc đảm bảo thực hiện hai vai trò quan
trọng: (i) Bảo vệ lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng, lợi ích của những
cá nhân không có khả năng tự thực hiện quyền dân sự hoặc không thể
tự bảo vệ mình; (ii) Đại diện và bảo vệ pháp luật trong giải quyết các
vụ việc dân sự. Nghiên cứu hồ sơ vụ án, lập hồ sơ kiểm sát có vị trí,
vai trò quan trọng trong hoạt động của Kiểm sát viên ở các giai đoạn
tố tụng, đặc biệt là khi Kiểm sát viên thực hiện kiểm sát việc giải quyết
vụ, việc dân sự ở giai đoạn Tòa án xét xử sơ thẩm.
2.3.1. Kiểm tra hồ sơ trước khi nghiên cứu
Hồ sơ vụ án dân sự được Tòa án xây dựng trong thời hạn chuẩn
bị xét xử theo quy định của BLTTDS chủ yếu là hồ sơ mới lập nhưng
có thể là hồ sơ của vụ, việc dân sự bị Tòa án cấp phúc thẩm hoặc giám

204
đốc thẩm, tái thẩm sửa, hủy để xét xử lại sơ thẩm. Thực tiễn xét xử,
nhiều trường hợp vụ án dân sự phải qua nhiều lần xét xử sơ thẩm lại.
Khi nghiên cứu hồ sơ, Kiểm sát viên cần lưu ý xác định loại hồ sơ
xét xử lần đầu hay xét xử lại để tập trung nghiên cứu làm rõ yêu cầu
của hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm. Theo quy định tại Điều 204
BLTTDS 2015, hồ sơ vụ án dân sự do Tòa án có thẩm quyền lập và
quản lý. Khi nhận hồ sơ vụ án do Tòa án chuyển đến, Kiểm sát viên
được Viện trưởng Viện kiểm sát phân công kiểm sát việc tuân theo
pháp luật đối với vụ án đó có trách nhiệm: nghiên cứu hồ sơ; yêu cầu
Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ việc
dân sự theo quy định của BLTTDS (khoản 3 Điều 58 BLTTDS 2015).
Kiểm sát viên cần xem xét các giấy tờ, tài liệu đã được đánh số bút lục,
sắp xếp theo thứ tự ngày, tháng, năm để quản lý, lưu giữ, sử dụng theo
quy định của pháp luật.
Trước khi nhận hồ sơ vụ án để nghiên cứu, Kiểm sát viên cần
kiểm tra, đối chiếu các tài liệu có trong hồ sơ với danh mục tài liệu
của hồ sơ vụ án. Nếu Tòa án sắp xếp hồ sơ không khoa học, không
thuận tiện cho việc nghiên cứu thì Kiểm sát viên có thể sắp xếp các
chứng cứ, tài liệu thành từng tập để thuận lợi cho việc nghiên cứu. Có
nhiều cách sắp xếp, nhưng theo kinh nghiệm kiểm sát thì nên sắp xếp
theo các vấn đề của vụ án hoặc sắp xếp theo các bên đương sự... theo
trình tự thời gian, sau khi nghiên cứu xong hồ sơ, Kiểm sát viên phải
sắp xếp lại hồ sơ theo đúng như nguyên trạng hồ sơ do Tòa án chuyển
sang. Theo thông lệ xây dựng hồ sơ và sắp xếp tài liệu, chứng cứ hồ sơ
được sắp xếp thành 4 tập, bao gồm các tập sau:
- Tập hình thức: Gồm các văn bản về thủ tục tố tụng như giấy
báo, giấy triệu tập, biên bản tống đạt, biên bản niêm yết, biên bản giao
nhận tài liệu, chứng cứ, biên bản giao nhận hồ sơ, giấy ủy quyền, thủ
tục về người bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho đương sự, quyết định đưa
vụ án ra xét xử…
- Tập chứng cứ: Gồm các tài liệu là nguồn chứng cứ có ý nghĩa
quyết định đến việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự. Theo đó, tài

205
liệu, chứng cứ do đương sự xuất trình (bao gồm đơn yêu cầu và các
tài liệu, chứng cứ do đương sự xuất trình) và tài liệu, chứng cứ do Tòa
án thu thập (bao gồm bản tự khai của đương sự, biên bản ghi lời khai,
biên bản hòa giải, biên bản xác minh, kết luận giám định, văn bản trả
lời của cơ quan chức năng…).
- Tập tài liệu tham khảo: Gồm các tài liệu có giá trị tham khảo
trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, như luận cứ của
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự, các giấy tờ liên
quan đến nhân thân của đương sự (bản sao hộ khẩu, giấy chứng minh
nhân dân, giấy đăng ký kết hôn, giấy khai sinh, giấy khai tử…).
- Tập quyết định: Gồm các quyết định được ban hành trong giai
đoạn chuẩn bị xét xử như quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án,
quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời…
2.3.2. Xác định nội dung cần nghiên cứu và tiến hành lập hồ sơ
kiểm sát
Mục đích của việc nghiên cứu hồ sơ của Kiểm sát viên là:
- Kiểm tra thủ tục thụ lý và chuẩn bị xét xử sơ thẩm do Tòa án
thực hiện đã đúng quy định của pháp luật tố tụng hay chưa. Kiểm sát
viên cần tập trung nghiên cứu và rút ra một số kết luận về những hoạt
động tố tụng cơ bản như: Thẩm quyền của Tòa án; xác định tư cách
đương sự và những người tham gia tố tụng; quan hệ pháp luật tranh
chấp; thời hiệu khởi kiện; việc xác minh, thu thập chứng cứ của Tòa
án; trình tự, thủ tục tiến hành phiên họp xét chứng cứ; làm rõ các tình
tiết khách quan của vụ án.
- Nghiên cứu nội dung vụ, việc dân sự để chuẩn bị ý kiến của
Viện kiểm sát để phát biểu quan điểm giải quyết vụ án.
Để đạt được mục đích nghiên cứu, Kiểm sát viên cần lưu ý về
phương pháp nghiên cứu hồ sơ đảm bảo tính khách quan, toàn diện và
cụ thể. Khi nghiên cứu, đánh giá các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án
tuyệt đối không được phân biệt chứng cứ do nguyên đơn hay bị đơn
cung cấp, không được coi trọng chứng cứ này mà xem nhẹ chứng cứ

206
kia. Kiểm sát viên không được có định kiến trước về hướng giải quyết
vụ kiện trước khi nghiên cứu hồ sơ.
Để việc nghiên cứu có hiệu quả trong thời gian ngắn, trước khi
nghiên cứu, Kiểm sát viên cần sắp xếp lại các nội dung hoặc vấn đề
theo một hệ thống để dễ phát hiện những nội dung, những vấn đề cần
nghiên cứu thêm làm cơ sở cho việc đưa ra quan điểm của mình về
vụ án.
Khi nhận được thông báo thụ lý vụ án, Kiểm sát viên (hoặc
Kiểm tra viên) phải vào sổ thụ lý theo dõi, kiểm tra văn bản thông
báo thụ lý theo những nội dung được quy định trong BLTTDS; lập
phiếu kiểm sát theo dõi vi phạm để tổng hợp kiến nghị với Toà án, đó
là các vi phạm về thời hạn gửi thông báo, nội dung, hình thức thông
báo; theo dõi quyết định chuyển vụ án của Tòa án. Theo quy định
của BLTTDS 2015 thì thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ án của Kiểm
sát viên chỉ có 15 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, cho nên
Kiểm sát viên thu xếp thời gian nghiên cứu, xem xét, tìm hiểu các
tài liệu trong hồ sơ vụ án, kiểm tra đánh giá tính hợp pháp của các
tài liệu, chứng cứ do các bên đương sự cung cấp hoặc do Thẩm phán
xác minh, thu thập để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm
sát được pháp luật quy định.
Theo quy định tại điểm 1.1 mục 1, Phần II của Hướng dẫn
số 27/HD-VKSTC-V5 ngày 22/5/2014 của Vụ kiểm sát việc giải quyết
vụ việc dân sự, hôn nhân gia đình (Vụ 5 cũ, hiện nay là Vụ 9) về việc
lập hồ sơ kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự. Quá trình lập hồ
sơ kiểm sát, Kiểm sát viên phải trích dẫn điều luật hoặc photocopy văn
bản quy phạm pháp luật liên quan đến việc giải quyết vụ án. Đây là cơ
sở giúp Kiểm sát viên có căn cứ pháp luật khi phát biểu ý kiến về việc
tuân theo pháp luật và đề xuất về quan điểm giải quyết vụ án.
Để đạt được hiệu quả khi thực hiện các thao tác nghiệp vụ trên,
Kiểm sát viên còn phải trích cứu đầy đủ, trung thực lời khai của đương
sự và các tài liệu khác; nắm vững nội dung vụ án, yêu cầu khiếu nại
của đương sự; phân tích tổng hợp chứng cứ; áp dụng điều khoản của

207
BLTTDS, BLDS và các văn bản pháp luật có liên quan. Khi nghiên
cứu hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên cần chú trọng nghiên cứu những nội
dung cơ bản sau:
Thứ nhất, xác định yêu cầu và phạm vi yêu cầu của các đương sự
Trong tố tụng dân sự, Tòa án giải quyết vụ án theo yêu cầu của
đương sự, bởi vậy, khi nghiên cứu hồ sơ phải xác định được các yêu
cầu của đương sự; phạm vi các vấn đề đương sự yêu cầu Tòa án giải
quyết. Để xác định đúng quan hệ pháp luật trong vụ án, cần căn cứ vào
pháp luật nội dung, yêu cầu của đương sự. Từ quan hệ pháp luật cần
giải quyết xác định thành phần đương sự trong vụ án, các chứng cứ tài
liệu cần thiết và pháp luật mà Thẩm phán áp dụng để giải quyết vụ án.
Trong quá trình tố tụng, nguyên đơn có quyền thay đổi, bổ sung yêu
cầu khởi kiện; bị đơn có quyền yêu cầu phản tố, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có quyền yêu cầu độc lập. Khi có các yêu cầu hoặc
một trong các yêu cầu đó, Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ về trình
tự thủ tục, nội dung thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản
tố, yêu cầu độc lập.
Thứ hai, xác định đương sự
Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên kiểm tra việc xác định
thành phần, vị trí tố tụng của từng đương sự. Nếu thấy việc xác định
của Thẩm phán chưa đúng, thiếu đương sự, đặc biệt là người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án thì Kiểm sát viên yêu cầu xác định
lại, yêu cầu triệu tập thêm đương sự tham gia tố tụng, bảo đảm cho
việc giải quyết vụ án đúng đắn.
Thứ ba, xác định các chứng cứ, tài liệu để Tòa án giải quyết vụ án
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên phải xem xét việc Thẩm
phán xác định, đánh giá các chứng cứ, tài liệu đã đầy đủ để làm rõ các
tình tiết vụ án chưa? Trong trường hợp, Kiểm sát viên nhận thấy các
chứng cứ, tài liệu cần thiết để giải quyết vụ án chưa thu thập đủ hoặc
phải có ý kiến của các nhà chuyên môn thì yêu cầu Thẩm phán thu thập
bổ sung chứng cứ, trừ những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh.

208
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên phải đọc và nghiên
cứu kỹ tất cả các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ. Trước khi xem xét
về nội dung, Kiểm sát viên cần kiểm tra về hình thức các chứng cứ, tài
liệu. Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án Kiểm sát viên phải ghi
chép lại những nội dung chính của từng chứng cứ, tài liệu đã nghiên
cứu; những vấn đề của vụ án đã được làm rõ bởi các chứng cứ, tài liệu
nào; những vấn đề nào của vụ án chưa được làm rõ cần thu thập thêm
chứng cứ, tài liệu để làm rõ. Thực hiện tất cả các hoạt động này Kiểm
sát viên phải lập hồ sơ kiểm sát.
* Nghiên cứu đơn khởi kiện
Từ đơn khởi kiện, Kiểm sát viên sẽ xác định được các vấn đề
liên quan đến việc giải quyết vụ án như: Thời hiệu khởi kiện, vấn đề
thẩm quyền của Tòa án, tư cách đương sự trong vụ án, xác định luật
áp dụng... Khi nghiên cứu đơn khởi kiện, cần nghiên cứu về hình thức
và nội dung đơn khởi kiện. Kèm theo đơn khởi kiện phải có các tài
liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của người khởi kiện là có căn
cứ và hợp pháp. Trong trường hợp người khởi kiện không biết chữ,
không nhìn được, không thể tự mình ký tên hoặc điểm chỉ thì phải có
người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt người có
thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Người có thẩm
quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã chứng nhận trước mặt
người khởi kiện và người làm chứng. Sau khi kiểm tra, Kiểm sát viên
đã xác định được việc khởi kiện là hợp pháp, vụ án thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án thì Kiểm sát viên tập trung nghiên cứu các tài
liệu sau:
* Nghiên cứu lời khai của đương sự
Thông thường cần đọc lời khai của nguyên đơn trước, sau đó
đến lời khai của bị đơn và sau cùng là lời khai của người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan và các chứng cứ, tài liệu khác. Tuy nhiên, nếu
xét thấy cần thiết thì bên cạnh việc nghiên cứu lời khai của nguyên
đơn, Kiểm sát viên có thể đồng thời nghiên cứu lời khai của bị đơn,

209
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác.
Khi nghiên cứu lời khai của nguyên đơn, Kiểm sát viên cần chú ý tới
những vấn đề nguyên đơn yêu cầu, những vấn đề bổ sung hoặc loại bỏ
bớt so với đơn khởi kiện và các chứng cứ, lý lẽ nguyên đơn nêu ra làm
cơ sở cho yêu cầu của họ.
Khi nghiên cứu lời khai của bị đơn, Kiểm sát viên cần chú ý tới
những yêu cầu của nguyên đơn được bị đơn chấp nhận, những yêu
cầu của nguyên đơn không được bị đơn chấp nhận và những căn cứ,
lý lẽ mà bị đơn đưa ra để làm cơ sở chấp nhận hay không chấp nhận
những yêu cầu đó. Trong trường hợp bị đơn có yêu cầu phản tố đối với
nguyên đơn thì Kiểm sát viên cần lưu ý việc Thẩm phán xác định yêu
cầu của bị đơn có đúng là yêu cầu phản tố để giải quyết trong cùng vụ
án được không, nếu đúng là yêu cầu phản tố thì các thủ tục để Tòa án
chấp nhận xem xét yêu cầu phản tố có thực hiện đúng theo quy định
của pháp luật tố tụng không.
Khi nghiên cứu lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan, Kiểm sát viên cần xác định được người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan có yêu cầu độc lập, xem yêu cầu của họ là gì; yêu cầu
đó có liên quan đến vụ án không; yêu cầu của họ là độc lập hay phụ
thuộc vào yêu cầu của nguyên đơn hay bị đơn; căn cứ, lý lẽ cho yêu
cầu của họ. Nếu có yêu cầu độc lập thì thủ tục để Tòa án chấp nhận
xem xét yêu cầu phản tố có thực hiện đúng theo quy định của pháp
luật tố tụng không.
Kiểm sát viên phải kiểm tra tính hợp pháp và phạm vi của việc
đại diện trong vụ án (nếu có người đại diện). Nếu trong hồ sơ đã có lời
khai của họ thì Kiểm sát viên cũng phải nghiên cứu lời khai của người
đại diện.
* Nghiên cứu lời khai của người làm chứng
Đối với lời khai của người làm chứng, Kiểm sát viên cũng phải
đọc và xem xét kỹ lời khai của họ, xem xét mối quan hệ của họ với
các đương sự trong vụ án. Nếu trong vụ án có nhiều người làm chứng
thì phải đọc lời khai của từng người. Thực tiễn kiểm sát cho thấy nên

210
nghiên cứu lời khai của người làm chứng chứng minh cho yêu cầu của
nguyên đơn trước, sau đó đến lời khai của người làm chứng chứng
minh cho yêu cầu của bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan.
* Nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án
Việc nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án
là nhằm xác định tính xác thực trong lời khai của đương sự, người làm
chứng và các tình tiết của vụ án. Khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ
trong hồ sơ vụ án dân sự, Kiểm sát viên phải chú ý đến:
- Xuất xứ, điều kiện hình thành, nội dung cơ bản và giá trị chứng
minh của chứng cứ, tài liệu;
- Những chứng cứ, tài liệu viết phải chú ý nghiên cứu cả nội dung
và hình thức;
- Đối với kết luận giám định phải kết hợp xem xét nội dung và
xem xét cả tính hợp pháp, tính khách quan, tính khoa học của kết luận
giám định;
- Đối với các tài liệu dịch ngoài việc xem xét nội dung tài liệu
phải xét tính khách quan trong việc tham gia tố tụng của người phiên
dịch và tính chính xác của các tài liệu dịch;
- Đối với biên bản định giá tài sản, ngoài việc xem xét kết luận
của hội đồng định giá thì phải xem xét sự phù hợp của giá tài sản được
hội đồng định giá đã xác định với giá tài sản tại thị trường địa phương
trong thời điểm định giá và những ý kiến trái ngược với quyết định của
hội đồng định giá…
Sau khi đã nghiên cứu toàn bộ hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên cần hệ
thống, tóm tắt lại những vấn đề cơ bản của vụ án mà Tòa án cần giải
quyết, sau đó tiến hành nghiên cứu văn bản pháp luật áp dụng để giải
quyết vụ án. Có như vậy mới kiểm sát được việc tuân theo pháp luật
của Tòa án trong giải quyết vụ án và đây cũng là cơ sở giúp Kiểm sát
viên viết lời phát biểu và trình bày quan điểm của Kiểm sát viên tại
phiên tòa sơ thẩm và bảo vệ quan điểm này tại phiên tòa. Như vậy, sau

211
khi kết thúc việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên phải làm rõ
được các vấn đề sau:
Thứ nhất, về việc khởi kiện và thụ lý vụ án:
Nhận xét việc thụ lý hay trả lại đơn kiện của Thẩm phán là đúng
hay sai: hình thức và nội dung của đơn kiện đã đúng quy định của pháp
luật hay chưa; có cần sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện không và sửa đổi, bổ
sung những nội dung cụ thể gì; quyền khởi kiện của người khởi kiện và
năng lực hành vi tố tụng dân sự của người khởi kiện; người khởi kiện
có bị hạn chế quyền khởi kiện hay không; nội dung tranh chấp mà các
bên khởi kiện có thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án hay không,
thuộc thẩm quyền của Tòa án nào? Vụ án đã được giải quyết bằng một
bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật của TAND, cơ quan, tổ
chức hay chưa, nghĩa vụ nộp tạm ứng án phí của đương sự.
Thứ hai, về các hoạt động tố tụng trong giai đoạn Tòa án chuẩn
bị xét xử:
- Làm rõ việc áp dụng thủ tục tố tụng, Kiểm sát viên phải nghiên
cứu kỹ từng văn bản tố tụng như: quyết định áp dụng biện pháp thu
thập chứng cứ của Tòa án, quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm;
quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (nếu có)… Kiểm sát
viên phải nghiên cứu chi tiết từng văn bản như ngày, tháng, năm ban
hành; thẩm quyền ban hành, con dấu, chữ ký của người có thẩm quyền.
Khi nghiên cứu phải đồng thời đối chiếu với quy định của pháp luật để
xem xét văn bản đó có phù hợp với quy định của pháp luật hay không.
Tất cả các vấn đề tố tụng như thời hạn tố tụng, việc áp dụng các biện
pháp thu thập chứng cứ… đều phải được kiểm tra, kết luận có vi phạm
hay không;
- Nhận xét về thời hiệu khởi kiện còn hay hết;
- Đánh giá việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời của
Thẩm phán (nếu có);
- Nhận xét việc tạm đình chỉ, trên cơ sở những quy định về căn
cứ tạm đình chỉ và việc áp dụng vào thực tế vụ tranh chấp để đánh giá

212
việc ban hành quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ của Thẩm phán
đã chính xác chưa?;
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong việc
thực hiện trình tự, thủ tục, thành phần tham gia phiên họp kiểm tra việc
giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Nội dung cuộc họp
thể hiện qua biên bản phiên họp; những vấn đề liên quan đến cung cấp,
giao nộp chứng cứ, những vấn đề các bên đã thỏa thuận được; nguyên
nhân chưa thỏa thuận được;
- Việc tống đạt các quyết định, văn bản tố tụng, việc chuyển hồ
sơ của Thẩm phán cũng là những đối tượng đánh giá, nhận xét trong
bài phát biểu của Viện kiểm sát. Theo đó, Kiểm sát viên căn cứ vào
những quy định tương ứng của BLTTDS 2015, nhận xét về thời hạn
tống đạt các văn bản tố tụng và chuyển hồ sơ vụ án của Tòa án có được
thực hiện trong thời hạn luật định không: (i) Việc chấp hành pháp luật
tố tụng của Tòa án; (ii) Các vấn đề về áp dụng pháp luật nội dung; (iii)
Các vấn đề về chứng cứ, đặc biệt là hoạt động đánh giá chứng cứ. Đây
là vấn đề mà nhiều vụ án đã có hiệu lực pháp luật nhưng vẫn bị Viện
kiểm sát kháng nghị.
Ví dụ:
Trong Quyết định số 448/2012/DS-GĐT ngày 19/9/2012 của
Tòa dân sự TANDTC trong việc xác định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của ông Năm, ông Khang và ông Miễn đối với ông Thanh
khi 03 ông (Năm, Khang, Miễn) xẻ bờ bao để đặt cống điều tiết
nước vào đầm nhưng chưa kịp đắp lại thì bão số 07 ập đến gây
mưa to và triều cường lên cao đã làm sập cống nước tràn vào khu
vực làm gạch của ông Thanh gây thiệt hại. Đồng thời, nước tràn
vào khu vực làm gạch mộc của ông Thanh. Theo bị đơn (Năm,
Miễn, Khang) thì ông Thanh có lỗi trong việc để thiệt hại xảy ra.
Ông Thanh hạ thấp bờ bao lấy đất làm gạch mộc và sân phơi. Mặc
dù, ông Năm, ông Khang và ông Miễn cho rằng trong quá trình
thi công do có mưa bão ập đến bất ngờ làm vỡ đập, sập cống,
nước tràn sang phần đất làm gạch mộc của ông Thanh là sự kiện
bất ngờ, bất khả kháng nên các ông không có lỗi. Tại Quyết định

213
số 45/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 01/6/2012 của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao đã yêu cầu: Cần xác minh làm rõ có quy định
việc đắp bờ bao giữa diện tích đầm nuôi trồng thủy sản với diện
tích đất làm gạch hay không? Nếu có thì người có đầm nuôi trồng
thủy sản phải đắp hay người làm gạch phải đắp bờ bao để bảo vệ
tài sản của mình? Kích thước bờ bao như thế nào để làm căn cứ
xem xét lỗi của mỗi bên. Nếu ông Năm, ông Khang và ông Miễn
không xẻ cống thì cơn bão số 07 có gây thiệt hại cho các hộ làm
gạch hay không? Nếu có thì thiệt hại những gì? Tỷ lệ thiệt hại là
bao nhiêu? Trên cơ sở đó xác định giá trị thiệt hại do nước sông
tràn vào mới khách quan.
Khi xem xét một sự kiện có phải là sự kiện bất khả kháng hay
không Tòa án phải xem xét một cách đầy đủ và cặn kẽ những dấu hiệu
của nó. Khi áp dụng sự kiện bất khả kháng bắt buộc sự kiện này phải là
nguyên nhân duy nhất làm cho bên vi phạm không thể thực hiện được.
Trong vụ án này, ông Năm, ông Khang và ông Miễn cho rằng khi đang
thực hiện công việc thì mưa bão ập đến “bất ngờ làm vỡ đập, sập cống,
nước tràn sang phần đất làm gạch mộc của ông Thanh là sự kiện bất
ngờ, bất khả kháng”. Trong đó những nhà áp dụng pháp luật cẩn trọng
xem xét tất cả các vấn đề liên quan có thể là nguyên nhân gây ra thiệt
hại: “Cần xác minh làm rõ có quy định việc đắp bờ bao giữa diện tích
đầm nuôi trồng thủy sản với diện tích đất làm gạch hay không? Nếu
có thì người có đầm nuôi trồng thủy sản phải đắp hay người làm gạch
phải đắp bờ bao để bảo vệ tài sản của mình? Kích thước bờ bao như
thế nào để làm căn cứ xem xét lỗi của mỗi bên. Nếu ông Năm, ông
Khang và ông Miễn không xẻ cống thì cơn bão số 07 có gây thiệt hại
cho các hộ làm gạch hay không? Nếu có thì thiệt hại những gì? Tỷ lệ
thiệt hại là bao nhiêu? Trên cơ sở đó, xác định giá trị thiệt hại do nước
sông tràn vào”1.
Kết quả nghiên cứu hồ sơ vụ án của Kiểm sát viên dựa trên cơ
sở làm rõ được những vấn đề nêu trên để đưa ra được quan điểm của
mình về từng vấn đề cụ thể. Trên cơ sở đó Kiểm sát viên dự thảo đề
1
Quyết định số 448/2012/DS-GĐT ngày 19/9/2012 của Tòa dân sự TANDTC.

214
cương hỏi và những nội dung cần làm sáng tỏ, dự kiến được các tình
huống có thể phát sinh tại phiên tòa, dự kiến đường lối xử lý vụ án,
báo cáo lãnh đạo Viện kiểm sát cho ý kiến, hoàn thiện ý kiến phát biểu
tại phiên tòa.
3. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
1. Trình bày mục đích của Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên
khi nghiên cứu hồ sơ vụ án?
2. Nêu phương pháp nghiên cứu hồ sơ?
3. Trình bày phương pháp sắp xếp hồ sơ vụ án khi nghiên cứu
hồ sơ?
4. Trình bày các kỹ năng của Luật sư khi nghiên cứu hồ sơ vụ án?
5. Trình bày kỹ năng của Thẩm phán khi nghiên cứu hồ sơ vụ án?
6. Trình bày kỹ năng của Kiểm sát viên khi nghiên cứu hồ sơ
vụ án?

215
CHƯƠNG 4
HÒA GIẢI VỤ ÁN DÂN SỰ

Mục tiêu của bài học: Nội dung:


Chương này trang bị cho người học: 1. Một số vấn đề chung về
Về kiến thức, người học phân tích thủ tục hòa giải
được những vấn đề cơ bản về thủ 2. Kỹ năng của Luật sư,
tục hòa giải. Ứng dụng lý thuyết vào Thẩm phán, Kiểm sát viên
bài tập tình huống cụ thể thực hành trong hoạt động hòa giải
kỹ năng của Luật sư, Thẩm phán, 2.1. Kỹ năng tham gia hòa
Kiểm sát viên trong hoạt động hòa giải của Luật sư
giải vụ án dân sự.
2.2. Kỹ năng hòa giải của
Về kỹ năng, cung cấp những kỹ Thẩm phán
năng riêng biệt cho từng chức danh
Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên 2.3. Kỹ năng của Kiểm sát
trong hoạt động hòa giải. viên trong hoạt động hòa giải
Về thái độ, người học có ý thức 3. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
đúng đắn, nghiêm túc và khoa học
về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của
chức danh mình trong hoạt động hòa
giải. Khi có kiến thức và kỹ năng,
Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên
sẽ có thái độ, ý thức chuyên nghiệp
trong hoạt động nghề nghiệp.
1. Một số vấn đề chung về thủ tục hòa giải
Hòa giải vụ án dân sự là hoạt động tố tụng do Tòa án tiến
hành nhằm giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau về giải
quyết vụ án dân sự. Hoạt động hòa giải là một thủ tục bắt buộc khi
giải quyết vụ án dân sự (Điều 10 BLTTDS 2015) trừ những vụ án

216
không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được quy định
tại Điều 206, Điều 207 BLTTDS 2015, vụ án được giải quyết theo
thủ tục rút gọn. Khác với việc giải quyết vụ án hình sự hay vụ án
hành chính, Toà án có trách nhiệm tiến hành hoà giải và tạo điều
kiện thuận lợi để các đương sự có thể thương lượng và đi đến thoả
thuận với nhau về việc giải quyết tranh chấp dân sự. Hoà giải vụ
án dân sự nhằm tạo điều kiện cho các đương sự có thể thoả thuận
với nhau về việc giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Nếu các đương sự hoà giải thành, vụ án sẽ được kết thúc không
phải bằng phán quyết của Tòa án trong bản án mà bằng chính sự
thoả thuận của đương sự. Việc thi hành án, vì vậy sẽ có cơ sở để
thực hiện được thuận lợi hơn, gánh nặng về chi phí tố tụng (án
phí) của đương sự sẽ được giảm bớt. Mặt khác, những mối quan
hệ tình cảm giữa các đương sự cũng được hàn gắn trong những
mức độ nhất định, bảo đảm.
Do tính chất linh hoạt và nhạy cảm của hoạt động hòa giải
trong giải quyết vụ án dân sự nên ngoài việc có các kiến thức sâu
rộng về mặt pháp luật, Thẩm phán tiến hành hòa giải, Luật sư tham
gia hòa giải; Kiểm sát viên kiểm sát hoạt động hòa giải vụ án dân sự
phải nắm vững nội dung vụ án, xác định được đầy đủ các tình tiết
của vụ án, nguyên nhân, mức độ mâu thuẫn giữa các bên đương sự,
các quy định của pháp luật liên quan đến hòa giải. Đồng thời đòi hỏi
Thẩm phán, Luật sư phải có những hiểu biết nhất định về tâm lý con
người, tâm lý từng lứa tuổi, từng hoàn cảnh, giới tính mà có phương
pháp giải thích và thuyết phục phù hợp. Thông thường, tranh chấp đã
phải đưa đến yêu cầu Tòa án giải quyết thì mức độ “căng thẳng” đã
cao, khó có thể thương lượng nhanh được. Vì vậy, Thẩm phán, Luật
sư phải kiên trì, bình tĩnh và lựa chọn phương pháp thích hợp. Đây
chính là những yếu tố để tạo nên sự thành công của Thẩm phán, Luật
sư trong hòa giải vụ án dân sự. Tùy theo từng chức danh tư pháp mà
Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên có các kỹ năng phù hợp. Về cơ
bản Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên đều phải nắm vững các vấn
đề chung sau.

217
1.1. Xác định những vụ án phải hòa giải
Điều 10 BLTTDS 2015 quy định: Tòa án có trách nhiệm tiến
hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận
với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật
này. Về nguyên tắc, BLTTDS 2015 không liệt kê những vụ việc phải
tiến hành hòa giải mà quy định theo phương pháp loại trừ. Theo đó, về
cơ bản vụ án dân sự Tòa án đều phải tiến hành hòa giải trừ những vụ
án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được theo quy
định tại Điều 206 và Điều 207 của BLTTDS 2015 hoặc vụ án được giải
quyết theo thủ tục rút gọn. Quy định này xuất phát từ quyền tự do thỏa
thuận của các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án và các lợi ích
thiết thực của hòa giải thành vụ án dân sự. Bởi thế, quá trình giải quyết
vụ án dân sự, cần chú ý xác định việc hòa giải phải tiến hành đối với
vụ án nào, không được tiến hành đối với vụ án nào. Những vụ án dân
sự không được hòa giải là những vụ án mà pháp luật cấm hòa giải vì
nếu hòa giải sẽ tạo điều kiện cho các bên vi phạm pháp luật hoặc việc
hòa giải sẽ dễ bị lợi dụng để xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của các
chủ thể khác, tài sản của Nhà nước.
Theo Điều 206 BLTTDS 2015, Toà án không được hoà giải đối
với những vụ án dân sự sau đây:
- Yêu cầu đòi bồi thường vì lý do gây thiệt hại đến tài sản của
Nhà nước;
- Những vụ án phát sinh từ giao dịch dân sự vi phạm điều cấm
của luật hoặc trái đạo đức xã hội.
Như vậy, Tòa án phải thực hiện việc hòa giải tất cả các vụ án
dân sự, trừ những vụ án nêu trên, tuy nhiên khi áp dụng quy định tại
Điều 206 BLTTDS 2015 cần lưu ý theo từng trường hợp để tiến hành
hòa giải hay không hòa giải.
Thứ nhất, yêu cầu đòi bồi thường vì lý do gây thiệt hại đến tài
sản của Nhà nước
Việc ghi nhận yêu cầu này không được hòa giải nhằm phòng

218
ngừa trường hợp lợi dụng việc hòa giải để thỏa thuận, thương lượng
gây thiệt hại, thất thoát tài sản của Nhà nước. Tuy nhiên, quy định này
không tương thích với quy định về hình thức sở hữu trong BLDS 2015.
BLDS 2015 đã quy định hình thức sở hữu toàn dân thay hình thức sở
hữu Nhà nước. Từ đó, cần xác định phạm vi những vụ án dân sự không
được hòa giải phải phù hợp với quy định tại Điều 197 BLDS 2015 về
hình thức sở hữu nên Điều 206 BLTTDS 2015 được hiểu là yêu cầu
đòi bồi thường vì lý do gây thiệt hại đến tài sản thuộc sở hữu toàn dân.
Xác định tài sản thuộc hình thức sở hữu toàn dân được căn cứ
theo quy định của BLDS 2015 và văn bản pháp luật khác. Tài sản
thuộc sở hữu toàn dân bao gồm đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên
khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên
khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc
sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản
lý. Khi áp dụng Điều 206 BLTTDS 2015 cần phân biệt các trường
hợp sau:
- Trường hợp tài sản thuộc sở hữu toàn dân được đầu tư vào
doanh nghiệp thì Nhà nước thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài
sản đó theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp, quản lý, sử dụng
vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp. Trong
trường hợp này, các doanh nghiệp phải có quyền tự chủ, tự quyết định
tài sản của doanh nghiệp mình, việc hạn chế không được hòa giải khi
có tranh chấp xảy ra trong trường hợp này hạn chế quyền tự do kinh
doanh của doanh nghiệp, mâu thuẫn với quy định trong Luật Doanh
nghiệp. Do đó, khi có yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại đến tài sản, Tòa
án vẫn tiến hành hòa giải để các bên đương sự thỏa thuận với nhau về
việc giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
- Trường hợp tài sản thuộc sở hữu toàn dân được giao cho cơ
quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, cho tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã
hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp thì Nhà nước thực hiện quyền kiểm
tra, giám sát việc quản lý, sử dụng tài sản đó. Cơ quan nhà nước, đơn

219
vị vũ trang nhân dân thực hiện việc quản lý, sử dụng đúng mục đích,
theo quy định của pháp luật đối với tài sản được Nhà nước giao. Tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp thực hiện việc
quản lý, sử dụng tài sản được Nhà nước giao đúng mục đích, phạm vi,
theo cách thức, trình tự do pháp luật quy định, phù hợp với chức năng,
nhiệm vụ được quy định trong điều lệ. Việc xác định các tài sản thuộc
sở hữu toàn dân giao cho cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang quản lý,
sử dụng là tài sản Nhà nước tại các cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang
nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập, tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ
chức xã hội nghề nghiệp theo quy định của Luật Quản lý, sử dụng tài
sản công 2017.
Như vậy, trong trường hợp này cơ quan, tổ chức được giao tài
sản để sử dụng nhưng Nhà nước thực hiện quyền sở hữu thông qua cơ
quan có thẩm quyền thì khi có yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại đến
loại tài sản này, Tòa án không được hòa giải để các bên đương sự thỏa
thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, vì việc hòa giải có thể làm
thiệt hại đến tài sản thuộc sở hữu toàn dân.
Từ đó, có thể khẳng định đối với yêu cầu đòi bồi thường vì lý do
gây thiệt hại tài sản của Nhà nước thì tùy từng trường hợp mà Tòa án
vẫn có thể tiến hành hòa giải.
Thứ hai, những vụ án phát sinh từ giao dịch dân sự vi phạm điều
cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội
Điều 123 BLDS 2015 quy định giao dịch dân sự có mục đích, nội
dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu. Điều
cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực
hiện những hành vi nhất định. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực
ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và
tôn trọng. Căn cứ quy định của BLDS và các quy định của luật khác
để xác định giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo
đức xã hội.

220
Điều 131 BLDS 2015 quy định: Giao dịch dân sự vô hiệu không làm
phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ
thời điểm giao dịch được xác lập. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên
khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Vì
vậy, các bên tham gia giao dịch không thể thỏa thuận để tiếp tục thực hiện
hành vi vi phạm pháp luật của mình. Đối với giao dịch vi phạm điều cấm
của luật, Tòa án không được hòa giải nếu việc hòa giải nhằm mục đích để
các bên tiếp tục thực hiện các giao dịch đó. Tuy nhiên, Tòa án vẫn được
quyền tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải
quyết hậu quả của giao dịch vô hiệu đó. Bởi việc tiến hành hòa giải trong
trường hợp này là việc thống nhất phương thức giải quyết hậu quả của
giao dịch vô hiệu như khôi phục lại tình trạng ban đầu của giao dịch dân
sự (phương án hoàn trả lại tài sản), bồi thường thiệt hại.
Ví dụ:
Trong vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất là tài sản chung của vợ chồng nhưng một bên tự ý xác
lập và thực hiện giao dịch. Đây là giao dịch vi phạm điều cấm của
luật do vi phạm quyền định đoạt tài sản chung hợp nhất của vợ
chồng. Một bên vợ (chồng) không tham gia giao dịch yêu cầu Tòa
án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu.
Quá trình giải quyết vụ án, hai bên thỏa thuận được về giải quyết
hậu quả của hợp đồng vô hiệu. Người chuyển nhượng là một bên
vợ (chồng) xác lập, thực hiện giao dịch đồng ý hoàn trả lại số tiền
đã nhận từ người mua là 500.000.000 đồng và bồi thường thiệt hại
300.000.000 đồng cho người nhận chuyển nhượng. Người nhận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất đồng ý với số tiền người bán
hoàn trả, bồi thường thiệt hại và đồng ý trả lại diện tích đất đã
nhận chuyển nhượng cho vợ chồng người chuyển nhượng. Trong
trường hợp này, các bên đương sự đã thỏa thuận được việc giải
quyết hậu quả của quan hệ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất nhưng Tòa án không được ra quyết định công nhận sự
thỏa thuận trong trường hợp cụ thể này mà phải mở phiên tòa, ra
bản án tuyên bố hợp đồng vô hiệu và công nhận sự thỏa thuận của
các bên đương sự về việc giải quyết hậu quả của hợp đồng.

221
Như vậy, đối với những vụ án dân sự phát sinh từ giao dịch trái
pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội thì tùy từng trường hợp mà Tòa án
vẫn có thể tiến hành hòa giải.
1.2. Nguyên tắc hòa giải
Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp có nhiều ưu điểm,
song việc hòa giải phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định. Trong
trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về giải quyết vụ án
dân sự thì bản chất của thỏa thuận đó là một giao dịch dân sự mới của
các đương sự. Vì vậy, xuất phát từ các điều kiện có hiệu lực của giao
dịch dân sự, việc hòa giải được tiến hành theo nguyên tắc sau:
- Tôn trọng sự tự nguyện thoả thuận của các đương sự, không
được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải
thoả thuận không phù hợp với ý chí của mình;
- Nội dung thoả thuận giữa các đương sự không vi phạm điều
cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
Đây là các nguyên tắc cơ bản mang tính chỉ đạo đối với hoạt
động hòa giải vụ án dân sự nói riêng và xuyên suốt của quá trình giải
quyết vụ án dân sự nói chung.
* Thứ nhất: về nguyên tắc tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của
các đương sự. Sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự cần được
hiểu: sự tự nguyện tham gia hòa giải và tự nguyện thỏa thuận nội dung
hòa giải của các bên đương sự trong vụ án.
- Tự nguyện tham gia hòa giải: Cơ sở pháp lý của việc tự nguyện
tham gia hòa giải của đương sự xuất phát từ nguyên tắc quyền tự
định đoạt của đương sự. Bản chất của hòa giải là hướng dẫn, giúp
đỡ, thuyết phục các bên tranh chấp đạt được thỏa thuận trên cơ sở tự
nguyện. Theo đó, đương sự được quyền tự do thể hiện ý chí của mình
trong việc lựa chọn tham gia hay không tham gia hòa giải và trách
nhiệm của Tòa án trong việc bảo đảm cho đương sự được quyền
tham gia hòa giải. Do đó, tham gia hòa giải không chỉ là quyền của
đương sự mà còn là trách nhiệm của Tòa án. Nếu Tòa án triệu tập

222
nguyên đơn tham gia hòa giải lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có
lý do chính đáng thì bị coi là từ bỏ yêu cầu khởi kiện và Tòa án sẽ ra
quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự (nếu vụ án không có yêu
cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập). Bị đơn vắng mặt được triệu tập
hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng
thì có nghĩa là bị đơn từ chối quyền hòa giải. Trong trường hợp này,
Tòa án sẽ lập biên bản về việc không tiến hành hòa giải được và ra
quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung (khoản 1 Điều 207
BLTTDS 2015). Do nguyên tắc tự nguyện tham gia hòa giải nên khi
một trong các đương sự đề nghị không tiến hành hòa giải, hoặc một
bên đương sự là vợ (chồng) mất năng lực hành vi dân sự không thể
hiện được ý chí tự nguyện tham gia hòa giải trong vụ án ly hôn hoặc
bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu
tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt, đương sự không thể
tham gia hòa giải được vì có lý do chính đáng thì Tòa án không tiến
hành hòa giải (Điều 207 BLTTDS 2015).
- Tự nguyện thỏa thuận nội dung hòa giải: Trong quá trình hòa
giải, các bên đương sự được bàn bạc, thảo luận và tự nguyện thống nhất
phương án giải quyết tranh chấp. Nếu đương sự chấp nhận thỏa thuận
mà việc thỏa thuận này là do đương sự phía bên kia dùng vũ lực hoặc
đe dọa dùng vũ lực tác động đến ý chí chủ quan của đương sự làm cho
họ phải lựa chọn cách thức thỏa thuận để bảo vệ tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm và tài sản của mình thì đây là sự vi phạm nguyên
tắc tự nguyện thỏa thuận, do đó nội dung thỏa thuận không có giá trị
pháp lý. Trong quá trình hòa giải, Tòa án chỉ có trách nhiệm tạo điều
kiện để các đương sự thỏa thuận với nhau về giải quyết các vấn đề của
vụ việc dân sự, giúp các đương sự hiểu về quyền và nghĩa vụ của họ.
Trên cơ sở đó, đương sự tự nguyện thỏa thuận với nhau về giải quyết
vụ án về mặt nội dung, nếu nội dung thỏa thuận đó không vi phạm
điều cấm của pháp luật và đạo đức xã hội thì Tòa án công nhận. Tòa án
phải tôn trọng sự tự do biểu đạt ý chí, nguyện vọng của các đương sự,
không dùng sức ép dưới mọi hình thức (ví dụ dùng mối quan hệ, bóng
gió những ảnh hưởng của người có quyền thế...), hoặc những tác động

223
khác buộc đương sự miễn cưỡng đồng ý thỏa thuận. Ngoài việc không
được can thiệp vào nội dung thỏa thuận của các đương sự, thì Tòa án
cũng không để các đương sự biết trước về phương hướng giải quyết
vụ án nếu phải đưa ra xét xử nhằm đảm bảo cho các đương sự thực sự
tự nguyện khi hòa giải.
* Thứ hai: nguyên tắc nội dung thỏa thuận giữa các đương sự
không vi phạm điều cấm của luật và đạo đức xã hội
Nội dung thỏa thuận của các đương sự trong vụ án dân sự là các
quyền và nghĩa vụ dân sự mà các bên tranh chấp; phương thức thực
hiện quyền, nghĩa vụ dân sự và án phí của vụ án. Pháp luật tôn trọng
và bảo vệ quyền tự do thỏa thuận của các chủ thể quan hệ pháp luật.
Tuy nhiên, nếu sự thỏa thuận vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo
đức xã hội thì thỏa thuận của các bên xâm phạm tới quyền và lợi ích
hợp pháp của người khác, của Nhà nước, của cộng đồng xã hội, vì vậy
sẽ không được pháp luật bảo vệ nên không có giá trị pháp lý. Sự tuân
thủ pháp luật là yêu cầu bắt buộc trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Mặt khác, là một hoạt động tố tụng, hòa giải chỉ được tiến hành
trên cơ sở của pháp luật, do vậy, mọi sự thỏa thuận của các bên đương
sự trong vụ án dân sự về giải quyết vụ án phải phù hợp với quy định
của pháp luật.
Ví dụ:
Trong vụ án tranh chấp hợp đồng vay, quan hệ hợp đồng vay
các bên xác lập ngày 10/5/2015, bên nguyên đơn yêu cầu bị đơn
trả tiền vay gốc, tiền lãi trong hạn, lãi quá hạn. Nội dung thỏa
thuận của các bên đương sự bao gồm thỏa thuận về thanh toán
tiền vay gốc, tiền lãi trong hạn, lãi quá hạn, phương thức trả nợ và
án phí của vụ án. Thỏa thuận về lãi trong hạn và tiền lãi quá hạn
không được vi phạm quy định của khoản 2 Điều 468 BLDS 2015.
Như vậy, theo quy định của BLTTDS 2015 khi Tòa án tiến hành
hòa giải, thỏa thuận của các đương sự quyết định công nhận sự thỏa
thuận của các đương sự của Tòa án đều phải phù hợp nguyên tắc: Tự
nguyện thỏa thuận và nội dung thỏa thuận không được vi phạm điều

224
cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội. Nếu không thực hiện đúng
những nguyên tắc này thì việc hòa giải, quyết định công nhận sự thỏa
thuận của các đương sự là trái pháp luật.
1.3. Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ và hòa giải
Theo nguyên tắc “bảo đảm tranh tụng trong xét xử” quy định
tại Điều 24 BLTTDS 2015, Tòa án có trách nhiệm đảm bảo mọi tình
tiết, tài liệu, chứng cứ của vụ án phải được xem xét công khai. Vì vậy,
BLTTDS 2015 đã bổ sung các điều luật quy định về “Phiên họp kiểm
tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải”. Mục đích
của phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và
hòa giải nhằm xác định yêu cầu và phạm vi khởi kiện, việc sửa đổi,
bổ sung, thay đổi, rút yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc
lập; những vấn đề các bên đương sự đã thống nhất, những vấn đề chưa
thống nhất yêu cầu Tòa án giải quyết; tài liệu, chứng cứ đã giao nộp
cho Tòa án và việc gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác; bổ sung
tài liệu, chứng cứ; yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ; yêu cầu
Tòa án triệu tập đương sự khác, người làm chứng và người tham gia
tố tụng khác tại phiên tòa và hòa giải. BLTTDS 2015 đã quy định cụ
thể, chặt chẽ những vấn đề: thông báo về phiên họp, thành phần phiên
họp, trình tự và biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chứng cứ.
Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ
được tiến hành cùng với phiên hòa giải. Điều này mang lại những lợi
ích thiết thực cho cả Tòa án và các đương sự trong vụ án là tránh việc
lặp lại nội dung của phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công
khai chứng cứ và phiên hòa giải, tránh cho việc các đương sự phải đến
Tòa án nhiều lần, tiết kiệm chi phí tố tụng. Đối với trường hợp vụ án
dân sự không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được quy
định tại Điều 206 và Điều 207 của BLTTDS 2015 thì Thẩm phán tiến
hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ
mà không tiến hành hòa giải.

225
Trước khi tiến hành phiên họp, Thẩm phán phải thông báo cho
đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự về thời gian, địa điểm tiến hành
phiên họp và nội dung của phiên họp. Thông báo về phiên họp kiểm
tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải là một yêu
cầu bắt buộc vì qua đó đương sự có sự sắp xếp công việc, chuẩn bị đầy
đủ các yêu cầu, tài liệu, căn cứ để bảo vệ lợi ích hợp pháp cũng như
phương án hòa giải (nếu có). Thời hạn và thủ tục thông báo được thực
hiện theo các quy định từ Điều 170 đến Điều 181 BLTTDS 2015.
Theo quy định tại Điều 209 BLTTDS 2015, thành phần tham gia
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa
giải bao gồm:
- Thẩm phán chủ trì phiên họp. Thẩm phán là “chủ thể trung
gian” có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự thành công của việc
hòa giải;
- Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên họp là người trợ giúp Thẩm
phán, ghi biên bản phiên họp, biên bản hòa giải;
- Các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của các đương sự.
Đương sự là nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan trong vụ án. Trong trường hợp người đại diện theo pháp luật của
đương sự tham gia tố tụng thì họ cũng có quyền tham gia phiên họp,
trừ trường hợp cơ quan, tổ chức khởi kiện vì lợi ích của người khác
theo Điều 85 BLTTDS năm 2015 thì không có quyền hòa giải với bị
đơn vì họ không phải là chủ thể của quan hệ pháp luật tranh chấp.
Trong trường hợp người đại diện theo ủy quyền của đương sự tham
gia tố tụng thì họ cũng có quyền tham gia hòa giải, nếu được ủy quyền;
- Đại diện tổ chức đại diện tập thể lao động đối với vụ án lao động
khi có yêu cầu của người lao động, trừ vụ án lao động đã có tổ chức
đại diện tập thể lao động là người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho tập thể người lao động, người lao động. Trường hợp
đại diện tổ chức đại diện tập thể lao động không tham gia hòa giải thì
phải có ý kiến bằng văn bản;

226
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (nếu có);
- Người phiên dịch (nếu có);
Trường hợp cần thiết, Thẩm phán yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ
chức có liên quan tham gia phiên họp; đối với vụ án về hôn nhân và
gia đình, Thẩm phán yêu cầu đại diện cơ quan quản lý nhà nước về
gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ
Việt Nam tham gia phiên họp.
Quy định về thành phần tham gia phiên họp bảo đảm quyền lợi
của đương sự trong hòa giải, đồng thời, có mục tiêu hòa giải đạt hiệu
quả tốt. Tòa án phải bảo đảm quyền tham gia phiên hòa giải của các
thành phần trên. Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ và hòa giải phải được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục
BLTTDS 2015 quy định. Trình tự phiên họp kiểm tra việc giao nộp,
tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải quy định cụ thể tại khoản 1,
2, 3, 4 Điều 210 BLTTDS 2015 như sau:
- Thư ký Tòa án báo cáo Thẩm phán về sự có mặt, vắng mặt của
những người tham gia phiên họp đã được Tòa án thông báo.
- Thẩm phán chủ trì phiên họp kiểm tra lại sự có mặt và căn cước
của những người tham gia, phổ biến cho các đương sự về quyền và
nghĩa vụ của họ theo quy định của BLTTDS 2015.
- Thẩm phán tiến hành kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công
khai chứng cứ. Khi kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng
cứ, Thẩm phán công bố tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, hỏi để
đương sự trình bày về những vấn đề sau đây:
+ Yêu cầu và phạm vi khởi kiện; việc sửa đổi, bổ sung, thay
đổi, rút yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập; những
vấn đề đã thống nhất, những vấn đề chưa thống nhất yêu cầu Tòa án
giải quyết;
+ Tài liệu, chứng cứ đã giao nộp cho Tòa án và việc gửi tài liệu,
chứng cứ cho đương sự khác;

227
+ Bổ sung tài liệu, chứng cứ; yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu,
chứng cứ; yêu cầu Tòa án triệu tập đương sự khác, người làm chứng và
người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa;
+ Những vấn đề khác mà đương sự thấy cần thiết.
- Sau khi các đương sự đã trình bày xong, Thẩm phán xem xét các
ý kiến, giải quyết các yêu cầu của đương sự. Trường hợp người được
Tòa án triệu tập vắng mặt thì Tòa án thông báo kết quả phiên họp cho họ.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 210 BLTTDS 2015 trình tự, thủ
tục tiến hành hòa giải thực hiện như sau:
- Thẩm phán phổ biến cho các đương sự về các quy định của
pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án để các đương sự liên
hệ đến quyền, nghĩa vụ của mình, phân tích hậu quả pháp lý của việc
hòa giải thành để họ tự nguyện thỏa thuận với nhau về việc giải quyết
vụ án;
- Nguyên đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ
trình bày nội dung tranh chấp, bổ sung yêu cầu khởi kiện; những căn
cứ để bảo vệ yêu cầu khởi kiện và đề xuất quan điểm về những vấn đề
cần hòa giải, hướng giải quyết vụ án (nếu có);
- Bị đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trình bày
ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu phản tố (nếu
có); những căn cứ để phản đối yêu cầu của nguyên đơn; những căn cứ
để bảo vệ yêu cầu phản tố của mình và đề xuất quan điểm về những
vấn đề cần hòa giải, hướng giải quyết vụ án (nếu có);
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của họ trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu
của nguyên đơn, bị đơn; trình bày yêu cầu độc lập của mình (nếu có);
những căn cứ để phản đối yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn; những căn
cứ để bảo vệ yêu cầu độc lập của mình và đề xuất quan điểm về những
vấn đề cần hòa giải, hướng giải quyết vụ án (nếu có);
- Người khác tham gia phiên họp hòa giải (nếu có) phát biểu
ý kiến;

228
- Sau khi các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của họ trình bày hết ý kiến của mình, Thẩm phán xác định những vấn
đề các đương sự đã thống nhất, chưa thống nhất và yêu cầu các đương
sự trình bày bổ sung về những nội dung chưa rõ, chưa thống nhất;
- Thẩm phán kết luận về những vấn đề các đương sự đã thống
nhất, chưa thống nhất.
Thư ký Tòa án phải lập 2 biên bản: Biên bản về kiểm tra việc
giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và biên bản về việc hòa giải.
Tuy nhiên, đối với những vụ án không được hòa giải hoặc không hòa
giải được thì Tòa án không lập biên bản hòa giải.
Biên bản về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ
phải có các nội dung chính như: Ngày, tháng, năm tiến hành phiên họp;
địa điểm tiến hành phiên họp; thành phần tham gia phiên họp; ý kiến
của các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của các đương sự liên
quan đến các nội dung như: yêu cầu của các đương sự khác, tài liệu,
chứng cứ của vụ án và những vấn đề mà đương sự thấy cần thiết; quyết
định của Tòa án về việc chấp nhận, không chấp nhận các yêu cầu của
đương sự. Theo chúng tôi, quyết định của Tòa án ở đây cần được hiểu
là Tòa án quyết định chấp nhận hay không chấp nhận các yêu cầu của
đương sự được đưa ra xem xét giải quyết tại phiên tòa hay không chứ
không phải quyết định giải quyết nội dung vụ án dân sự.
Biên bản hòa giải phải có các nội dung chính như: Ngày, tháng,
năm tiến hành hòa giải; địa điểm tiến hành hòa giải; thành phần tham
gia hòa giải; ý kiến của các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các đương sự; những nội dung đã được các đương sự
thống nhất, không thống nhất.
Biên bản về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ
và biên bản hòa giải phải có đầy đủ chữ ký hoặc điểm chỉ của những
người tham gia phiên họp, chữ ký của Thư ký Tòa án ghi biên bản và
của Thẩm phán chủ trì phiên họp. Những người tham gia phiên họp có
quyền được xem biên bản ngay sau khi kết thúc phiên họp, yêu cầu ghi
những sửa đổi, bổ sung vào biên bản và ký xác nhận hoặc điểm chỉ.

229
Trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn đề
phải giải quyết trong vụ án dân sự (bao gồm cả nội dung vụ án và án
phí) thì Tòa án lập biên bản hòa giải thành, trong đó nêu rõ nội dung
tranh chấp và những nội dung đã được đương sự thỏa thuận. Biên bản
này được gửi ngay cho các đương sự tham gia hòa giải. Biên bản hòa
giải thành chưa có giá trị pháp lý, nó chỉ là văn bản xác nhận một sự
kiện và là cơ sở để Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của
đương sự hay quyết định đưa vụ án ra xét xử. Biên bản hòa giải thành
là cơ sở để Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự theo Điều 212 BLTTDS 2015.
2. Kỹ năng của Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên trong
hoạt động hòa giải
2.1. Kỹ năng tham gia hòa giải của Luật sư
2.1.1. Xác định vai trò và tư cách tố tụng của Luật sư khi tham
gia hòa giải
Khoản 1 Điều 75 BLTTDS 2015 ghi nhận “Người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự là người tham gia tố tụng để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự”. Trong tố tụng dân sự, Luật
sư có thể tham gia với các tư cách sau:
Thứ nhất, Luật sư là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho đương sự, Luật sư được tham dự phiên hòa giải để lắng nghe các
đương sự thỏa thuận về các vấn đề tranh chấp và nắm bắt diễn biến
phiên hòa giải, được trình bày về nội dung tranh chấp và những căn
cứ để bảo vệ yêu cầu khởi kiện và đề xuất quan điểm về những vấn đề
cần hòa giải, hướng giải quyết vụ án (nếu có). Với tư cách này, Luật sư
có các quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự.
Thứ hai, Luật sư là người đại diện hợp pháp cho đương sự. Trong
trường hợp đương sự ủy quyền cho Luật sư thay mặt mình tham gia tố
tụng, Luật sư nhân danh và vì lợi ích của bên đương sự đại diện trong
phạm vi ủy quyền. Luật sư cần lưu ý nắm vững các quy định của pháp

230
luật về đại diện để thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự theo quy
định của pháp luật và trong phạm vi đại diện.
Khi tham gia tố tụng, dù với tư cách nào Luật sư cũng cần tư vấn
và giải thích cho khách hàng của mình hiểu được về trình tự, thủ tục
hòa giải, hệ quả pháp lý, giá trị pháp lý của các trường hợp hòa giải
thành, hòa giải không thành hoặc không hòa giải được để đương sự
lựa chọn quyết định. Ba yếu tố căn bản xác định bản chất của hoà giải
trong tố tụng dân sự là: phải có tranh chấp giữa các bên; có sự thống
nhất ý chí giữa các bên để giải quyết tranh chấp; trong quá trình hòa
giải có sự tham gia của chủ thể độc lập, nhân danh quyền lực nhà nước
chủ trì phiên hoà giải để hướng cho các bên thoả thuận giải quyết tranh
chấp bằng con đường hoà giải. Luật sư cần có sự phân tích để khách
hàng hiểu rõ ý nghĩa và giá trị của việc hòa giải đem lại lợi ích cho
các khách hàng của mình. Từ xưa tới nay trong cuộc sống của người
Việt Nam thì tình cảm là phạm trù rất được coi trọng, là yếu tố hàng
đầu trong các mối quan hệ. Hòa giải thành giúp các đương sự giải
quyết triệt để nội dung tranh chấp. Khi các bên thỏa thuận được những
vấn đề giải quyết trong vụ án các bên tiết kiệm thời gian tham gia tranh
tụng. Luật sư cần lưu ý cho khách hàng thực tiễn xét xử nhiều vụ án
phải xét xử đi, xét xử lại nhiều lần do các đương sự không thể tìm được
tiếng nói chung trong hòa giải. Hòa giải thành còn giúp giảm thiệt hại
thông qua giảm án phí và các chi phí khác mang lại lợi ích tối đa cho
khách hàng. Bên cạnh đó, giúp các đương sự duy trì quan hệ tốt đẹp,
là cầu nối thông cảm giữa các đương sự. Việc hòa giải thành trên cơ sở
tự nguyện giữa các bên giúp quá trình thi hành án có cơ sở thuận lợi để
thực hiện, cơ quan có thẩm quyền không phải sử dụng các biện pháp
cưỡng chế để thi hành thoả thuận đó.
Thực tế hiện nay tồn tại hai hình thức: hòa giải ngoài tố tụng tư
pháp và hòa giải trong tố tụng tư pháp. Hòa giải trong tố tụng là hòa
giải được tiến hành tại Tòa án theo các trình tự, thủ tục luật định khi
Tòa án thụ lý giải quyết tranh chấp theo yêu cầu của các bên. Hình
thức hòa giải ngoài tố tụng là hòa giải trung gian, thường được các
bên tiến hành trước khi đưa vụ tranh chấp ra cơ quan tư pháp, hoặc khi

231
bước vào quy trình tố tụng nhưng các bên sử dụng những quy trình,
thủ tục do các bên tự chọn hoặc tự xây dựng. Cơ sở hình thành và tồn
tại của phương thức này xuất phát từ quyền tự do định đoạt, tự do lựa
chọn các phương thức giải quyết tranh chấp. Dù cho phương thức giải
quyết tranh chấp nào được lựa chọn thì nó cũng luôn gánh vác một “sứ
mệnh cao cả” cần phải đạt được, đó là loại bỏ được những bất đồng,
xung đột, đảm bảo tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Bên
cạnh những ưu điểm đạt được, hình thức hòa giải ngoài tố tụng tư pháp
cũng có những hạn chế sau:
- Xuất phát từ nền tảng của hòa giải dựa trên cơ sở tin tưởng, tự
thỏa thuận của các bên dẫn đến hạn chế về hiệu lực của thỏa thuận hòa
giải. Ý chí, sự tự nguyện của hai bên tranh chấp có vai trò quyết định
trong suốt quá trình hòa giải. Thỏa thuận hòa giải không có ý nghĩa bắt
buộc với các bên. Ngay cả trong trường hợp được các bên đồng ý thì
nó cũng không có giá trị pháp lý cưỡng chế. Đây là điểm khác biệt cơ
bản nhất đối với phương thức hòa giải trong tố tụng, luôn có sự kiểm
soát chặt chẽ của cơ quan quyền lực nhà nước. Kết quả hòa giải trong
tố tụng tư pháp được công nhận bằng một quyết định có hiệu lực pháp
luật và buộc các bên có nghĩa vụ thi hành.
- Với phương thức hòa giải ngoài tố tụng, khả năng không đạt
được thỏa thuận là điều có thể xảy ra (do hai bên không thống nhất
được ý chí, do một trong hai bên đơn phương chấm dứt hòa giải…).
Điều này không những làm giảm ý nghĩa của hòa giải (tốn kém thời
gian và công sức của các bên), mà còn gây tổn thương tới các quan hệ
của các bên trong tương lai.
Bên cạnh đó, vai trò của Luật sư hai bên cũng rất quan trọng
trong giải quyết tranh chấp bằng hòa giải ngoài tố tụng tư pháp.
Khi lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải ngoài
tố tụng tư pháp, Luật sư cần tư vấn cho khách hàng các giải pháp tố
tụng trong trường hợp đạt được thỏa thuận hòa giải thành như: (i)
rút đơn khởi kiện đề nghị Tòa án đình chỉ giải quyết theo quy định
tại Điều 217 BLTTDS 2015. Khi rút đơn khởi kiện trong trường hợp

232
này các đương sự vẫn được quyền khởi kiện lại, tiền tạm ứng đương
sự đã nộp sẽ được trả lại cho đương sự theo quy định tại Điều 218
BLTTDS 2015 về hậu quả của việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự;
(ii) Đề nghị Tòa án tiến hành hòa giải trong tố tụng và ra quyết định
công nhận sự thỏa thuận của các đương sự theo quy định tại Điều 212
BLTTDS 2015; (iii) Trường hợp các đương sự thỏa thuận ngoài tố
tụng tư pháp, rút đơn khởi kiện Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án, Luật
sư có thể tư vấn cho khách hàng tiến hành theo thủ tục công nhận kết
quả hòa giải thành ngoài Tòa án khi đáp ứng được các điều kiện để Tòa
án công nhận kết quả hòa giải ngoài Tòa án.
2.1.2. Chuẩn bị tài liệu, chứng cứ cho khách hàng trước khi
hòa giải
Hòa giải là biện pháp giải quyết mâu thuẫn hay xung đột. Hoà
giải, trước hết phải do chính các đương sự thực hiện. Hay nói cách
khác, chỉ có các đương sự mới có quyền hoà giải, bởi đương sự là
những người có quyền lợi bị xâm hại hoặc tranh chấp. Do vậy cũng
chỉ có các đương sự mới có quyền hoà giải với nhau về tất cả những
vấn đề đang cần giải quyết trong vụ án, bằng ý chí và sự tự nguyện của
mình. Mọi tác động bên ngoài trái với ý muốn của các đương sự đều bị
coi là trái pháp luật và không được công nhận. Luật sư phải luôn xác
định hòa giải là một bước quan trọng không thể thiếu được trong quá
trình giải quyết vụ án dân sự, là một thủ tục bắt buộc và phải tiến hành
trước khi mở phiên tòa sơ thẩm, trừ những vụ án Tòa án không được
hòa giải. Muốn giải quyết tốt các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại và lao động thì không thể xem nhẹ công tác
hòa giải. Trên cơ sở nhận thức được ý nghĩa, tầm quan trọng của công
tác hòa giải, căn cứ vào tính chất vụ án, đương sự, đánh giá chứng cứ...
cùng với kỹ năng, kinh nghiệm và sự hiểu biết của Luật sư về tâm lý
xã hội cũng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc quyết định kết
quả hòa giải. Vì thế, nghệ thuật hòa giải của Luật sư là yếu tố rất hữu
hiệu ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả của công tác hòa giải. Muốn
đạt được thỏa thuận hòa giải thì công tác chuẩn bị tài liệu, chứng cứ
cho khách hàng rất quan trọng. Luật sư phải có sự chuẩn bị chu đáo nội

233
dung hòa giải cho khách hàng trước khi tham dự phiên họp xét chứng
cứ và hòa giải. Trước tiên, Luật sư cần tìm hiểu nguyên nhân xảy ra
tranh chấp, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp, yêu cầu và phạm
vi yêu cầu của các bên đương sự, những điểm đương sự có sự thống
nhất và những điểm còn mâu thuẫn. Quá trình nghiên cứu hồ sơ, Luật
sư đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ các chứng cứ giúp cho Luật
sư nắm vững những vấn đề cơ bản và cần thiết của vụ án, giải thích,
viện dẫn chính xác các văn bản pháp luật, chính sách có liên quan đến
vụ kiện, đồng thời giải quyết những vướng mắc trong tâm tư, tình cảm
của khách hàng. Khi chuẩn bị và đề xuất phương án hòa giải, Luật sư
cần phải có thái độ khách quan, không thiên vị nhằm hướng các bên
đương sự bàn bạc, thương lượng các vấn đề cần giải quyết đúng quy
định của pháp luật. Việc hiểu rõ nội dung vụ án sẽ giúp Luật sư có
những phương án để giải quyết vụ án, trên cơ sở đó có những phương
án hòa giải phù hợp với nội dung vụ án và pháp luật.
Ví dụ:
Ngày 12/7/2016, bà Đỗ Thị Th hiện đang định cư tại Úc về Việt
Nam thăm gia đình, có đơn khởi kiện bà H, ông B gửi tới Toà án
với nội dung như sau: Sau năm 1997, bà Th chung sống với ông
L tại Singapore, không có đăng ký kết hôn. Năm 1999, hai người
sinh được một con gái tên là Đỗ Thị T. Từ khi mang thai đến lúc
sinh con, ông L đã bỏ đi đâu không rõ. Sau khi sinh con, bà Th về
ở với cha mẹ ruột cùng sinh sống tại quận 1, TP. H và cha mẹ ruột
của bà là ông B, bà H đã nhận cháu T là con. Năm 2005, bà Th
gửi con lại cho ông bà ngoại nuôi. Năm 2006, bà Th kết hôn với
ông LS (Là người Hoa) và đến năm 2009, vợ chồng được sang Úc
định cư theo diện nhân đạo. Từ khi cháu T sinh đến nay, cháu T
ở với ông bà ngoại và đăng ký khai sinh, hộ khẩu đều ghi cháu T
là con đẻ của bà H, ông B, chứ không phải là cháu ngoại. Nay bà
Th có đơn gửi đến Toà án với nguyện vọng muốn cơ quan có thẩm
quyền xác nhận cháu Đỗ Thị T là con đẻ của bà chứ không phải
là quan hệ chị em như hiện tại. Trong các giấy tờ bà Th nộp cho
Toà án có một bản sao giấy khai sinh ghi là sao từ sổ đăng ký khai
sinh. Ngoài ra, còn có giấy xác nhận của các ông bà: Đoàn Trần

234
K sinh năm 1954; Trần Thị L sinh năm 1965; Võ Văn M, sinh năm
1955, hiện đang cư trú tại địa phương với cùng nội dung là: Cháu
Đỗ Thị T là con ruột của bà Th, từ nhỏ đến lớn cháu sống chung
với ông bà ngoại là đúng sự thật. Các giấy tờ xác nhận này được
ghi ngày 12/06/2016.
Toà án đã thụ lý vụ án và xác định bà Đỗ Thị Th là nguyên đơn.
Ý kiến của nguyên đơn đề nghị Toà án xác định Đỗ Thị T là con ruột
bà Th; ý kiến của bị đơn ông B, bà H cũng thừa nhận như nguyên
đơn trình bày. Ý kiến của cháu T “Đồng ý nhận là con ruột bà Th,
đề nghị Toà án công nhận”.
Trong vụ án này, Luật sư cần lưu ý bản chất của vụ án xác nhận
cha, mẹ, con là xác nhận quan hệ huyết thống, cần phải tiến hành trên
một kết luận khoa học (ví dụ một xét nghiệm ADN). Con người không
thể thoả thuận một cách trái tự nhiên mối quan hệ này, mà sự thoả
thuận giữa họ chỉ là để Toà án tham khảo khi đưa ra một quyết định
cuối cùng. Điều đó cũng có nghĩa là mục đích của bà Th trong việc xác
nhận con. Để thỏa thuận của các đương sự được Tòa án công nhận thì
không chỉ dựa vào nguồn chứng cứ lời khai mà phải có chứng cứ khoa
học xác định rõ chị T thực chất có phải là con bà Th như các bên đã
thoả thuận không. Điều này phải căn cứ vào kết luận giám định khoa
học. Luật sư cần giải thích cho khách hàng sự thừa nhận của đương
sự này sẽ loại trừ cho đương sự kia khỏi nghĩa vụ chứng minh nhưng
không loại trừ cho Tòa án khỏi trách nhiệm chứng minh.
Dù một vụ án có thể có nhiều phương án hòa giải nhưng nó phải
phù hợp với pháp luật và nhất là phải phù hợp với ý chí của đương sự
và quy định của pháp luật. Chuẩn bị các phương án hòa giải cũng là
một công việc mà Luật sư nên dự liệu khi chuẩn bị cho phiên hòa giải
và phiên họp xét chứng cứ. Trường hợp hòa giải không thành cũng là
cơ sở để Luật sư hiểu sâu sắc hơn vụ án từ góc nhìn đa chiều và có
phương án tranh tụng hiệu quả tại phiên tòa.
Luật sư cần đặt ra vấn đề cụ thể cho từng bước, hướng các bên
đương sự vào những vấn đề cơ bản cần thỏa thuận và dứt điểm từng

235
nội dung một. Khi phân tích cho khách hàng, Luật sư cần có thái độ
cẩn trọng ghi nhận những vấn đề mà các bên đương sự nêu ra, giải
thích thêm về pháp luật đối với những quan điểm chưa phù hợp, động
viên gợi mở khách hàng những vấn đề cần nghiêm túc bàn bạc, thương
lượng để có thể giải quyết cụ thể những vấn đề các bên còn bất đồng
ý kiến.
Để chuẩn bị tốt cho quá trình hòa giải, trên cơ sở yêu cầu khởi
kiện của khách hàng, ý kiến và quan điểm của các bên, đặc biệt là việc
sử dụng kết quả nghiên cứu hồ sơ, Luật sư giúp khách hàng phân tích
nguyên nhân của xung đột hay tranh chấp một cách có hệ thống để tìm
kiếm biện pháp giải quyết tranh chấp mang tính thỏa hiệp thỏa mãn
được lợi ích của tất cả các bên tranh chấp nhưng không trái với pháp
luật và đạo đức xã hội. Khác với thủ tục đối kháng, hoà giải không quá
nhấn mạnh vào việc ai đúng, ai sai hay ai thắng, ai thua mà chủ yếu
tập trung vào việc tạo ra một giải pháp phù hợp và chấp nhận được với
các bên. Những phân tích đánh giá của Luật sư giúp khách hàng hiểu
rõ nhu cầu của mình, căn cứ pháp lý đối với yêu cầu của khách hàng,
những trở ngại, khó khăn trong trường hợp không tìm được tiếng nói
chung mà tiếp tục phải nhờ đến phán quyết của Tòa án. Đây là hoạt
động giúp các bên đưa ra giải pháp giải quyết mâu thuẫn, hay xung đột
mà các bên có thể chấp nhận được. Từ đó là cơ sở để các bên có thể
tiếp tục duy trì được mối quan hệ tốt đẹp thông qua giải quyết xung đột
bằng biện pháp hòa bình. Luật sư tư vấn cho thân chủ về giá trị pháp
lý của quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự.
Chuẩn bị cho hòa giải là một bước hết sức quan trọng để xác định
xem vụ việc có khả năng hòa giải được hay không, do vậy Luật sư phải
hiểu về vụ việc để trao đổi cho khách hàng các nội dung hoà giải phù
hợp. Một người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có thể
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhiều đương sự trong cùng một
vụ án mà quyền và lợi ích hợp pháp của những người đó không đối lập
nhau. Hoặc nhiều người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự có thể cùng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của một đương sự
trong vụ án. Trong những trường hợp này, Luật sư cần thống nhất quan

236
điểm với các Luật sư đồng nghiệp. Quá trình chuẩn bị cho khách hàng
tham gia phiên hòa giải và phiên họp xét chứng cứ, Luật sư cần xác
định trọng tâm các nội dung chuẩn bị sau:
- Hiểu thực tế và nội dung cụ thể của tranh chấp;
- Hiểu về nguyên nhân của tranh chấp, nguyên nhân nào là chủ
yếu, nguyên nhân nào là thứ yếu;
- Hiểu được lợi ích của các bên và xung đột lợi ích của các bên;
- Hiểu được hậu quả pháp lý của vấn đề tranh chấp;
- Hiểu được những thiệt hại hay tổn thất mà việc hoà giải không
thành có thể gây ra;
- Hiểu được kết quả nếu hoà giải thành và các bên có thể đạt được
thoả thuận.
Trên cơ sở này, Luật sư phải xây dựng nội dung và chương trình
hòa giải, các biện pháp thay thế cần áp dụng trong các tình huống cụ
thể khi thực tiễn hòa giải phát sinh. Để việc hòa giải có kết quả và
chuẩn bị quan điểm trình bày của khách hàng tại phiên hòa giải, Luật
sư cần có những hiểu biết sâu sắc về vụ án, bao gồm các nội dung cụ
thể sau: Quan hệ pháp luật tranh chấp; Quan hệ tình cảm giữa các bên
đương sự (nếu có); Nguyên nhân của tranh chấp; Chứng cứ, tài liệu
làm cơ sở cho yêu cầu của các đương sự; Những văn bản, điều luật làm
cơ sở pháp lý để giải quyết yêu cầu của đương sự.
Cơ sở đầu tiên để Luật sư có thể giúp khách hàng hòa giải thành
công, bảo vệ quyền và lợi ích tối đa cho họ chính là việc Luật sư phải
hiểu rõ và vận dụng pháp luật về hòa giải. Những kiến thức pháp
luật về hòa giải được quy định rõ trong BLTTDS (Điều 205 - Điều 213)
gồm các nội dung cơ bản như nguyên tắc tiến hành hòa giải, các
trường hợp không được hòa giải và không hòa giải được, thủ tục hòa
giải tại Tòa án. Quá trình chuẩn bị nội dung và phương án hòa giải,
Luật sư cần phải tính đến các yếu tố tình cảm, tâm lý, văn hóa, xã
hội; các chứng cứ chứng minh yêu cầu của mỗi đương sự; các quy
phạm pháp luật cần được áp dụng để giải quyết vụ án. Đặc biệt, Luật

237
sư phải lưu ý cho khách hàng những bất lợi do thủ tục tố tụng gây
ra. Quá trình làm việc, Luật sư phải phân tích cho khách hàng biết
tình trạng pháp lý, những bất lợi và thuận lợi của họ cũng như phía bị
đơn dựa trên những tài liệu, chứng cứ đã được thu thập và những căn
cứ pháp luật được áp dụng. Trên cơ sở phân tích những thuận lợi và
bất lợi đó, cần thảo luận với khách hàng về những yêu cầu mà khách
hàng đưa ra: cần nhượng bộ yêu cầu nào không có cơ sở pháp lý và
cần giữ vững, kiên định yêu cầu có cơ sở pháp lý chắc chắn. Nếu
nhượng bộ thì nhượng bộ ở mức độ nào, nếu kiên định thì kiên định
đến mức nào? Khi phân tích, Luật sư phải hướng cho khách hàng
thấy được lợi ích của việc nhượng bộ so với cương quyết giữ nguyên
ý định hoặc mong muốn ban đầu của mình.
Việc hiểu rõ nội dung vụ án sẽ giúp Luật sư có những phương án
về việc giải quyết vụ án. Có thể có nhiều phương án hòa giải, nhưng
tất cả phải phù hợp với quy định của pháp luật và đặc biệt là phải phù
hợp với ý chí của đương sự. Khi đề xuất những phương án hòa giải
để khách hàng lựa chọn và dự liệu những phản ứng của đối phương,
Luật sư cần có sự bàn bạc, thống nhất với khách hàng để lựa chọn
phương án tối ưu trên cơ sở sắp xếp thứ tự ưu tiên những vấn đề mình
cần đạt được trong phiên hòa giải. Như vậy, việc chuẩn bị cho khách
hàng tham gia hòa giải cần có giải pháp toàn diện không chỉ chuẩn bị
tài liệu, chứng cứ cho khách hàng mà còn phải chuẩn bị lý lẽ, cách lập
luận, cũng như chuẩn bị về tâm lý cho khách hàng.
2.1.3. Thảo luận với khách hàng về các yêu cầu cần đạt được
trong hòa giải, những vấn đề cần nhượng bộ
Trước khi hòa giải, Luật sư cần thảo luận với khách hàng của
mình về một số yêu cầu cần đạt được trong giai đoạn hòa giải, trên cơ
sở đó phân tích để khách hàng thấy cần thiết phải nhượng bộ hay không
nhượng bộ đương sự phía đối lập. Nếu có nhượng bộ thì nhượng bộ ở
những điểm nào, mức độ nào và yêu cầu cần đạt được sau khi nhượng
bộ là như thế nào. Thông thường không phải lúc nào đương sự cũng
sẵn sàng đồng ý với Luật sư để nhượng bộ đối tác, nhất là trong những

238
trường hợp liên quan đến danh dự hoặc các quyền lợi tinh thần. Luật
sư nên phân tích thêm những quy định của pháp luật tố tụng, thời gian
phải chờ đợi thủ tục, những vấn đề liên quan đến quá trình thi hành bản
án, quyết định của Tòa án. Những phân tích của Luật sư phải hướng
cho đương sự thấy được lợi ích của việc nhượng bộ nhau so với việc
cương quyết giữ nguyên ý định hoặc mong muốn ban đầu của mình.
Quyết định cuối cùng thuộc về đương sự.
Khi thảo luận, Luật sư thông báo cho khách hàng về tình trạng
pháp lý của họ, phân tích những ưu thế và bất lợi của khách hàng, của
đối phương để từ đó dự kiến phương án hòa giải và lựa chọn phương
án tối ưu.
Luật sư và đương sự nên thống nhất với nhau về những vấn đề
cần đạt được và những vấn đề cần nhượng bộ để khi hòa giải đạt hiệu
quả cao theo ý muốn. Trong trường hợp nêu ở trên, Luật sư nên khuyên
khách hàng là phải lựa chọn hay nói cách khác phải xếp theo thứ tự ưu
tiên những vấn đề mà mình đặt ra cần đạt được trong hòa giải.
Như vậy, trước khi hòa giải, Luật sư cần trao đổi với khách hàng
về tình trạng pháp lý của họ; những ưu thế và bất lợi của họ; những ưu
thế và bất lợi của đối phương; các chứng cứ của cả hai bên; khả năng
đối phương sẽ phản ứng như thế nào khi mình đưa ra các đề xuất; đưa
ra các giải pháp nhượng bộ để khách hàng lựa chọn; thống nhất với
khách hàng về một số giải pháp tối ưu.
2.1.4. Đề xuất với Tòa án việc tổ chức hòa giải
Trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ, nắm bắt và hiểu được diễn biến tâm
lý có thể xảy ra đối với các bên tranh chấp, xác định điều gì sẽ xảy ra
nếu các bên không thể hòa giải được, Luật sư cân nhắc để đưa ra các
vấn đề có tính thuyết phục để giúp hai bên có thể đi đến biện pháp giải
quyết tranh chấp mang tính chất đồng thuận. Trong giai đoạn Tòa án
chuẩn bị xét xử, Luật sư cần cân nhắc về địa điểm và thời gian thuận
lợi để đề xuất Tòa án tiến hành hòa giải. Có những trường hợp các bên
đương sự có thể gặp nhau tìm giải pháp thống nhất ngoài tố tụng. Khi
phân tích lập kế hoạch để hòa giải, Luật sư phải biết đặt mình vào địa

239
vị của các bên tranh chấp để cân nhắc về lợi ích của các bên nhằm tìm
ra giải pháp giúp các bên có thể thỏa thuận được với nhau. Muốn vậy,
Luật sư phải nghiên cứu kỹ các thông tin do các bên cung cấp, tìm căn
nguyên của các mâu thuẫn hay tranh chấp phát sinh, điều này vô cùng
quan trọng để giúp Luật sư có thể dự liệu mọi tình huống có thể xảy ra.
Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, chuẩn bị tham gia phiên hòa giải để
có thể tư vấn chính xác cho khách hàng các phương án hòa giải, Luật
sư phải trả lời được đầy đủ các câu hỏi sau:
- Lợi ích của tất cả các bên tranh chấp, bên có quyền lợi liên quan
trong tranh chấp đã được cân nhắc, so sánh và đối chiếu chưa?
- Chủ thể nào có khả năng thay đổi lập trường và ai có xu hướng
không muốn thỏa hiệp?
- Trong quá trình hòa giải, nên sử dụng phương tiện nào để truyền
đạt và kết nối thông tin giữa các bên?
- Làm thế nào để người hòa giải có thể xử lý các thông tin nhiều
chiều một cách chính xác và đưa ra biện pháp hòa giải hữu hiệu nhất?
- Có quá nhiều thông tin được đưa ra cùng một lúc hay không?
Có cần thời gian để đánh giá các thông tin đó không?
Việc hoà giải có thể được tiến hành theo hai cách: các đương
sự tự hòa giải với nhau và hòa giải do Thẩm phán tiến hành. Trong
cả hai cách này Luật sư đều cần thiết phải tham gia. Ngoài ra, Luật
sư cũng có thể tham gia hòa giải trực tiếp với bên kia trong trường
hợp được ủy quyền. Để việc hòa giải tiến hành có hiệu quả, Luật
sư cần thiết phải có những chuẩn bị sau đây: mặc dù các chứng cứ
cần sử dụng khi hòa giải không có gì khác so với các chứng cứ của
toàn bộ vụ án, tuy vậy, cũng cần phải phân loại chúng theo các yêu cầu
khác nhau để khi sử dụng những chứng cứ này đối phương thấy được
họ đang được lợi hoặc nếu họ tiếp tục theo đuổi vụ kiện thì sẽ gặp bế
tắc. Ngoài ra, các chứng cứ được sử dụng trong hoạt động hòa giải cần
phải thể hiện thiện chí của người sử dụng chúng, tạo không khí thân
thiện, nhượng bộ nhưng cương quyết và đều khẳng định tính đúng đắn,

240
tính thuyết phục của các yêu cầu hay phản yêu cầu mà mình đưa ra.
Tránh đưa ra các chứng cứ gây chia rẽ, không thiện chí hoặc làm cho
đối phương hiểu sai thiện chí của mình.
Về nguyên tắc các tài liệu, chứng cứ của khách hàng đều đã được
thể hiện trong hồ sơ. Trước khi tham gia hòa giải Luật sư cần tập hợp
lại và phân tích cho khách hàng biết để trong quá trình hòa giải, khách
hàng có thể tự mình đưa ra được các chứng cứ để minh họa cho giải
trình của mình. Đối với yêu cầu khách hàng đưa ra không có căn cứ,
Luật sư cần phân tích, dẫn chiếu quy định của pháp luật. Trong giai
đoạn hòa giải thì mục đích không phải là dùng chứng cứ để đấu tranh
với đối phương mà việc sử dụng chứng cứ chỉ thuyết phục thêm đối
phương là cần thiết phải thỏa thuận để hai bên cùng nhượng bộ nhằm
giải quyết nhanh chóng và dứt điểm tranh chấp mà không cần đưa ra
xét xử. Chuẩn bị tài liệu, chứng cứ trước khi hòa giải còn giúp cho
khách hàng biết được tại sao lại phải nhượng bộ và nếu nhượng bộ thì
khách hàng của mình được gì mất gì theo đúng nghĩa của nó, trên cơ
sở các quyền và lợi ích thực tế của khách hàng. Bằng cách này, Luật sư
không chỉ giúp khách hàng chuẩn bị lý lẽ, cách lập luận mà còn chuẩn
bị về tâm lý cho khách hàng của mình khi tham gia hòa giải.
2.1.5. Tham dự hòa giải cùng với đương sự
Với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
đương sự, các Luật sư có quyền tham dự hòa giải. Trong trường hợp
này, Luật sư phải có quyết định công nhận người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự do Toà án cấp, trên cơ sở hợp đồng giữa
khách hàng và Luật sư, giấy giới thiệu của Đoàn Luật sư hoặc Văn
phòng Luật sư nơi Luật sư làm việc, Thẻ Luật sư.
Trong hòa giải trước khi mở phiên tòa, Toà án chủ yếu mong
muốn các đương sự thỏa thuận được với nhau về các quyền và nghĩa
vụ của họ trong vụ án, trên cơ sở đó, Toà án có thể ra được quyết
định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, tiết kiệm được thời
gian và giúp các đương sự sớm hàn gắn được những bất đồng do quá
trình tranh chấp gây nên. Trong khi tham gia hòa giải, bất cứ lúc nào

241
Luật sư cũng có thể tham vấn cho khách hàng của mình để họ đưa ra
được những yêu cầu hoặc nhượng bộ đúng pháp luật, đặc biệt là đưa
ra các yêu cầu phù hợp với những gì mà Luật sư đã thỏa thuận với
khách hàng của mình trước đó. Không nên để khách hàng tự quyết
định mọi vấn đề mà nên thống nhất với khách hàng là trước khi họ
quyết định về bất kỳ một vấn đề nào cũng nên trao đổi với Luật sư.
Trong những trường hợp có quan điểm không thống nhất về cùng
một vấn đề thì quyền quyết định vẫn là của khách hàng nhưng trước
khi khách hàng quyết định, Luật sư vẫn nên trình bày kỹ các lý lẽ,
quan điểm, các phương án của mình cùng với việc phân tích những
lợi thế và bất lợi của các phương án mà Luật sư đề xuất để khách
hàng xem xét.
Đối với trường hợp khách hàng uỷ quyền để thay mặt họ tham
gia hòa giải (trừ các trường hợp mà pháp luật quy định các đương sự
không được ủy quyền như là quan hệ ly hôn) thì Luật sư phải xuất trình
văn bản uỷ quyền giữa khách hàng với Luật sư. Khi được ủy quyền thì
Luật sư được thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong phạm vi được ủy
quyền để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng. Tuy nhiên
đối với những điểm mới phát sinh trong quá trình hòa giải mà Luật sư
và khách hàng chưa thống nhất với nhau thì trước khi quyết định Luật
sư nên trao đổi với khách hàng.
Ví dụ:
Đương sự ủy quyền cho Luật sư trong toàn bộ quá trình giải
quyết vụ án yêu cầu chia di sản thừa kế. Quá trình giải quyết vụ
án, có thể vì một lý do nào đó, Luật sư với tư cách là người đại diện
theo ủy quyền lại làm đơn xin rút đơn khởi kiện để Tòa án đình chỉ
giải quyết vụ án, làm thiệt hại đến quyền lợi của đương sự trong vụ
án. Mặc dù đương sự ủy quyền cho Luật sư tham gia toàn bộ quá
trình giải quyết vụ án nhưng không có nghĩa là Luật sư có quyền
tự mình quyết định. Nếu thấy vụ án có những diễn biến không có
lợi cho khách hàng, cần phải rút đơn kiện thì Luật sư nhất thiết
phải thông báo tình trạng này cho khách hàng, trao đổi với khách
hàng của mình về những hướng nên và không nên và thân thủ sẽ

242
là người quyết định về việc có tiếp tục theo đuổi vụ kiện hay rút lại
đơn khởi kiện. Ngay cả đối với trường hợp đương sự ủy quyền toàn
bộ cho Luật sư tham gia quá trình hòa giải thì cũng không có nghĩa
là Luật sư được toàn quyền quyết định trái với lợi ích của khách
hàng mình. Đây không phải chỉ là đạo đức nghề nghiệp mà còn là
nguyên tắc của Luật sư hoạt động chuyên nghiệp.
Quá trình tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chứng cứ và hòa giải, Luật sư cần giúp khách hàng tập hợp
lại các tài liệu, chứng cứ và hướng dẫn khách hàng cung cấp chứng cứ
minh họa cho giải trình của mình. Khi trình bày các căn cứ và chứng
cứ chứng minh cho yêu cầu của khách hàng, Luật sư cần lưu ý:
+ Các chứng cứ cần sử dụng khi hòa giải không khác gì các
chứng cứ của toàn bộ vụ án.
+ Mục đích sử dụng chứng cứ trong giai đoạn hòa giải không phải
để đấu tranh với đối phương mà mục đích để thuyết phục đối phương
hiểu rằng, cần thiết phải thỏa thuận và nhượng bộ nhau để giải quyết
nhanh chóng và dứt điểm tranh chấp mà không cần đưa ra xét xử.
+ Cách sử dụng chứng cứ cần thể hiện sự thiện chí của người sử
dụng, tạo không khí thân thiện, nhượng bộ nhưng cương quyết và đều
khẳng định tính đúng đắn, tính thuyết phục của các yêu cầu hay phản
bác mà mình đưa ra. Tránh đưa các chứng cứ gây chia rẽ, không thiện
chí hoặc làm cho đối phương hiểu sai thiện chí của mình.
+ Các lý lẽ, cách lập luận cho khách hàng cần được trình bày
khoa học trên cơ sở viện dẫn các chứng cứ chứng minh một cách logic,
khoa học và có tính thuyết phục.
Quá trình tham gia hòa giải, Luật sư khuyến khích cho các bên
xác định một cách rõ ràng mục đích và yêu cầu hòa giải để có những
hành động và ứng xử thiện chí. Những phân tích, đánh giá về các yêu
cầu dựa trên các thông tin xác thực liên quan đến việc đưa ra các thỏa
thuận. Các bên cần đặt vị trí của mình vào địa vị của người khác trong
việc chuẩn bị đưa ra các quyết định, từ đó tìm được sự đồng thuận,
giảm thiểu rủi ro và xung đột trong quá trình hòa giải.

243
Quá trình tham gia hòa giải, Luật sư đồng thời cũng phải tỏ rõ
thái độ không cổ vũ cho những hành động không hợp tác, có ý định lừa
dối và đưa ra những hứa hẹn không mang tính thực tiễn.
2.1.6. Ghi chép trong khi hòa giải
Khi tiến hành hòa giải, các bên cũng như Toà án đều mong muốn
đạt được những lợi ích nhất định. Tuy vậy, không phải lúc nào mong
muốn của các bên cũng thực hiện được. Vì vậy, cần ghi chép lại diễn biến
của giai đoạn này để có cơ sở cho các giai đoạn tiếp theo. Quá trình ghi
chép giúp Luật sư có được những thông tin làm cơ sở cho việc sử dụng
chứng cứ trong các giai đoạn tiếp. Quá trình này đồng thời hỗ trợ cho
Luật sư nắm chắc được quan điểm đối phương trong phiên hòa giải
trên cơ sở đó giúp khách hàng điều chỉnh yêu cầu hoặc phản yêu cầu
tại phiên tòa sơ thẩm. Nếu không ghi chép lại những diễn biến đó, rất có
thể sẽ bị quên hoặc nhớ không chính xác.
Kết quả của việc hòa giải được Luật sư ghi chép lại, nếu hòa giải
không thành, cũng là những tài liệu quan trọng để Luật sư chuẩn bị
tiếp phương án để bảo vệ quyền lợi cho thân chủ của mình tại Tòa án.
2.1.7. Thỏa thuận về án phí
Án phí cũng là một nội dung rất quan trọng trong hòa giải. Trong
nhiều trường hợp các bên thỏa thuận được với nhau về nội dung giải
quyết tranh chấp nhưng lại không thỏa thuận được với nhau về án phí
bởi vì án phí cũng là một khoản đóng góp rất đáng kể, nhất là trong
những vụ án có giá ngạch lớn. Tùy từng trường hợp mà Luật sư tư
vấn cho khách hàng của mình chấp nhận mức án phí bao nhiêu là phù
hợp và cần thiết để tạo thuận lợi cho bên đối phương. Nếu mình đã
được lợi trong phần yêu cầu (nội dung vụ án) thì nên chấp nhận thiệt
hơn một chút trong phần thỏa thuận án phí. Luật sư cần chỉ rõ cho
đương sự thấy nếu hai bên không thỏa thuận để đi đến thống nhất về
vấn đề ai phải chịu và chịu bao nhiêu án phí thì Tòa án quyết định
theo pháp luật. Nhưng đây là trường hợp hòa giải không thành, vì
theo khoản 2 Điều 212 BLTTDS 2015: “Thẩm phán chỉ ra quyết định
công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nếu các đương sự thỏa

244
thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án”. Trường hợp
đương sự không thỏa thuận được về án phí, toàn bộ công sức, thiện
chí của đương sự sẽ trở thành vô nghĩa. Luật sư nên thuyết phục để
đương sự có thỏa thuận về án phí.
Ví dụ:
Năm 2013, bà Trần Thị H cho bà Nguyễn Mai N vay tiền hai
lần: Lần thứ nhất 150 triệu đồng vào tháng 10 và lần thứ 2 là 100
triệu đồng vào tháng 12. Hai bên thoả thuận mức lãi suất hàng
tháng là 2%, thời gian vay một năm. Đến hạn bà N không trả được
nợ, bà N xin bà H cho khất nợ. Tổng số thời hạn mà bà H cho bà N
khất nợ là 15 tháng. Đến tháng 8/2016, bà H quyết định khởi kiện
ra Toà án, yêu cầu Toà án buộc bà N phải thanh toán tiền gốc cũng
như tiền lãi từ tháng 10 năm 2013 đến tháng 8/2016 theo quy định
của pháp luật.
Toà án thụ lý vụ án và tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc
giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải. Qua phân tích
của Toà án về hoàn cảnh hiện tại của bà N và theo đề nghị của bà
N, bà H đồng ý cho bà N chỉ phải trả ngay một lần 200 triệu đồng
gốc, phần gốc còn lại cũng như tiền lãi suất, bà H không yêu cầu
bà N phải thanh toán.
Riêng về án phí của vụ án, bà H cho rằng, bà N phải chịu trách
nhiệm nộp toàn bộ. Bà đồng ý cho bà N chỉ phải trả cho bà 200
triệu đồng đã là thiện chí của bà. Phía bà N có ý kiến là do bà đã
quá khó khăn, việc bà thanh toán cho bà H số tiền 200 triệu một
lần đã là cố gắng lớn của bà. Do vậy, bà đề nghị bà H giúp đỡ bà
trả tiền án phí. Toà án cũng đã hoà giải, nhưng bà H cương quyết
không chấp nhận chịu án phí.
Đây là trường hợp Toà án hoà giải thành giữa các đương sự về
nội dung của vụ án nhưng không hoà giải được về án phí. Luật sư cần
lưu ý Thẩm phán chỉ ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các
đương sự, nếu các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải
quyết toàn bộ vụ án (các quan hệ pháp luật, yêu cầu của các đương
sự trong vụ án và cả về án phí). Trong trường hợp các đương sự thoả

245
thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án nhưng không
thoả thuận được với nhau về trách nhiệm phải chịu án phí hoặc mức
án phí, thì Toà án không công nhận sự thoả thuận của các đương sự mà
tiến hành mở phiên toà để xét xử vụ án. Như vậy, trong trường hợp các
đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án nhưng họ
không thoả thuận được về án phí thì Toà án phải mở phiên tòa để giải
quyết vụ án. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có quyền quyết định hai
vấn đề: thứ nhất là mức án phí của vụ án và thứ hai là người phải chịu
án phí hoặc mức án phí mà mỗi bên phải chịu. Với quy định của pháp
luật tố tụng dân sự hiện hành, Luật sư tư vấn cho khách hàng trường
hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về vụ án nhưng lại cương
quyết không thoả thuận về án phí chứng tỏ là việc hoà giải đã không
thành, vì án phí cũng là vấn đề phải giải quyết trong vụ án. Do vậy,
vụ án phải được đưa ra xét xử. Trong trường hợp này làm kéo dài thời
gian và vụ án phải giải quyết bằng phán quyết của Toà án chứ không
phải bằng sự thoả thuận của đương sự.
2.2. Kỹ năng hòa giải của Thẩm phán
Hòa giải vụ án dân sự là một hoạt động vừa mang tính dân chủ,
vừa bảo đảm quyền cơ bản của công dân; đồng thời là hoạt động mang
tính nhân văn sâu sắc. Kiên trì hòa giải, thuyết phục các bên đương sự
đồng thuận thực hiện đúng pháp luật, giữ gìn đạo lý, tình cảm là một
phương châm công tác hàng đầu trong giải quyết vụ án dân sự của
ngành Tòa án, của Thẩm phán. Hòa giải thành công vụ án dân sự phụ
thuộc vào tâm đức, tài năng của Thẩm phán. Đó cũng chính là sự
vận dụng sáng tạo, linh hoạt các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp của
Thẩm phán vào quá trình giải quyết vụ án dân sự.
Ngoài ra, do tính chất linh hoạt và nhạy cảm của hoạt động hòa
giải trong vụ án dân sự mà ngoài việc có các kiến thức sâu rộng về
mặt pháp luật, Thẩm phán tiến hành hòa giải phải nắm vững nội dung
vụ án, xác định được đầy đủ các tình tiết của vụ án, nguyên nhân,
mức độ mâu thuẫn giữa các bên đương sự, tinh thông pháp luật. Đồng
thời Thẩm phán cũng cần có những hiểu biết nhất định về tâm lý con

246
người, tâm lý từng lứa tuổi, từng hoàn cảnh, giới tính mà có phương
pháp giải thích và thuyết phục phù hợp; tôn trọng sự tự do biểu đạt ý
chí, nguyện vọng của các đương sự. Thông thường, tranh chấp đã phải
đưa đến yêu cầu Tòa án giải quyết thì mức độ “căng thẳng” đã cao,
khó có thể thương lượng nhanh được. Vì vậy, Thẩm phán phải kiên trì,
bình tĩnh và lựa chọn phương pháp thích hợp với mỗi vụ án. Đây cũng
chính là những yếu tố để tạo nên sự thành công của Thẩm phán trong
hòa giải vụ án dân sự. Thẩm phán có thể sử dụng một số phương pháp,
kỹ năng sau đây:
2.2.1. Chọn thời điểm hòa giải
Việc lựa chọn thời điểm tiến hành hòa giải là một kỹ năng quan
trọng của Thẩm phán, góp phần hòa giải thành công vụ án dân sự. Về
nguyên tắc, thủ tục hòa giải được tiến hành trước khi có quyết định
đưa vụ án ra xét xử. BLTTDS 2015 không có quy định cụ thể về thời
điểm hòa giải. Điều này tạo sự linh hoạt, chủ động cho Thẩm phán
trong hoạt động hòa giải nói riêng và giải quyết vụ án dân sự nói
chung. Việc hòa giải được thực hiện trong giai đoạn chuẩn bị xét xử
sơ thẩm. Để lựa chọn được thời điểm thích hợp mở Phiên họp kiểm
tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải trong thời
gian chuẩn bị xét xử, đòi hỏi sự nhạy cảm, chủ động và hết sức linh
hoạt của Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án. Về cơ bản,
thời điểm thích hợp nhất để tiến hành phiên hòa giải đối với những
vụ án này là thời điểm Thẩm phán xác định đúng và đủ từng yêu cầu
của các đương sự trong vụ án, thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ và
nắm vững nguyện vọng, thái độ của từng đương sự trong vụ án. Khi
đó, Thẩm phán có các thông tin cần thiết để xác định nội dung cần
hòa giải và định hướng việc hòa giải. Tuy nhiên, tùy thuộc vào tính
chất đơn giản hay phức tạp, thái độ tâm lý của các đương sự trong
từng vụ án dân sự cụ thể và bối cảnh của từng vụ án mà Thẩm phán
cân nhắc lựa chọn thời điểm hòa giải thích hợp. Có những vụ án, sau
khi nghiên cứu bản tự khai của các đương sự và các tài liệu, chứng cứ
đương sự cung cấp Thẩm phán có thể tiến hành tổ chức ngay phiên
họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.

247
Với những vụ án phức tạp, các đương sự thiếu thiện chí trong việc
hòa giải, Thẩm phán cần lựa chọn thời điểm khác để tiến hành phiên
hòa giải. Đó có thể là thời điểm gần kết thúc thời hạn chuẩn bị xét
xử. Việc hòa giải có thể tiến hành nhiều lần, mỗi lần hòa giải Thẩm
phán có thể lựa chọn một vấn đề, một yêu cầu hoặc tất cả các vấn đề,
tất cả các yêu cầu trong vụ án.
Ví dụ:
Trong đơn khởi kiện nguyên đơn và bản tự khai nguyên đơn
yêu cầu bị đơn trả tiền vay gốc 100.000.000 đồng và 20.000.000
đồng tiền lãi. Sau khi thụ lý vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài
sản, tại bản tự khai, bị đơn thừa nhận có việc vay nguyên đơn
và thừa nhận việc chưa thanh toán lãi theo đúng trình bày của
nguyên đơn, tuy nhiên, do khó khăn nên bị đơn có ý kiến đề nghị
trả tiền vay gốc, lãi theo phương thức trả dần hàng tháng, mỗi
tháng 5.000.000 đồng. Trong trường hợp này, do các bên đã
thống nhất được tất cả các tình tiết, chứng cứ của vụ án nên
Thẩm phán cần tổ chức ngay phiên họp kiểm tra việc giao nộp,
tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải để tiến hành hòa giải
về phương thức trả tiền vay. Điều này có thể dẫn đến thành công
trong việc hòa giải.
2.2.2. Kỹ năng tiếp xúc, lắng nghe đương sự trình bày
Trong giải quyết vụ án dân sự, việc đầu tiên Thẩm phán cần làm
là xác định chính xác yêu cầu và phạm vi yêu cầu của đương sự bởi
lẽ phạm vi hòa giải được xác định phụ thuộc vào phạm vi yêu cầu của
đương sự. Việc tiếp xúc và nghe đương sự trình bày trước khi tiến hành
hòa giải vụ án dân sự là hoạt động mang lại hiệu quả tương đối tốt nếu
người Thẩm phán thực sự có kỹ năng tiếp xúc và lắng nghe đương sự
trình bày.
Để có thể nắm bắt đầy đủ và chính xác yêu cầu của các bên
đương sự, nội dung tranh chấp, mối quan hệ pháp luật tranh chấp,
nguyên nhân, mức độ mâu thuẫn, quan điểm, thái độ tâm lý của các
bên đương sự, về kỹ năng ngay buổi đầu tiên Thẩm phán không nên

248
triệu tập cùng lúc các đương sự có quyền lợi đối lập (nguyên đơn và
bị đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan). Bởi việc làm đó dễ
tạo cơ hội dẫn đến xung đột, cãi vã, làm tăng thêm mâu thuẫn của
các đương sự, từ đó mục tiêu hòa giải thành không đạt được kết quả.
Do đó, cách tốt nhất là Thẩm phán cần gặp gỡ, tiếp xúc từng đương
sự hoặc “nhóm” đương sự cùng quyền lợi. Với việc Thẩm phán gặp
gỡ từng đương sự, có thể tạo điều kiện để Thẩm phán nắm bắt tâm lý
và giúp họ nhận thức đúng về quyền, lợi ích, nghĩa vụ của họ trong
vụ án.
Cùng với việc bảo đảm trình tự, thủ tục, Thẩm phán nên và cần
làm cho phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng
cứ và hòa giải trở thành cuộc đối thoại chân tình, thẳng thắn, cởi mở.
Để thực hiện được điều này, Thẩm phán cần mở lòng mình, đặt mình
vào hoàn cảnh của đương sự để hiểu họ và cảm thông, chia sẻ với họ.
Với thái độ ân cần, điềm đạm, chân tình, giọng nói nhẹ nhàng, cùng
biểu đạt thể hiện sự lắng nghe từng đương sự trình bày (kể cả khi lời
trình bày ấy chưa hẳn đúng trọng tâm) nhưng điều đó sẽ tạo cho đương
sự cảm thấy mình được tôn trọng, có điểm tựa nơi công lý và có niềm
tin vào Thẩm phán để họ “trải lòng”. Khi nghe đương sự trình bày,
Thẩm phán không nên cắt ngang lời trình bày của họ hoặc đưa ra quan
điểm bình luận về phần họ trình bày làm cho việc trình bày của họ lộn
xộn, không logíc. Thực hiện được điều này có nghĩa là Thẩm phán đã
rèn luyện và có được kỹ năng “lắng nghe” - một trong những tố chất
và kỹ năng rất cơ bản, quan trọng của Thẩm phán trong giải quyết vụ
án dân sự.
Chỉ sau khi đã làm việc riêng với từng bên đương sự, xem
xét, công bố chứng cứ do các bên xuất trình, do Tòa án thu thập,
nghe lời trình bày của các bên, Thẩm phán mới có đủ cơ sở để đánh
giá được tương đối khách quan, chính xác quan hệ pháp luật tranh
chấp, nội dung và tính chất của tranh chấp, mức độ tranh chấp, mâu
thuẫn và nguyên nhân dẫn đến tranh chấp. Trên cơ sở những nhận
định ban đầu từ việc thu thập chứng cứ, tài liệu; qua lời trình bày,
việc cung cấp chứng cứ của các bên và thu thập chứng cứ của Tòa

249
án; Thẩm phán cần xâu chuỗi các mối liên hệ, các tài liệu, chứng cứ
thu thập được để xác định chứng cứ của từng bên đương sự. Đồng
thời, Thẩm phán cũng xác định mấu chốt của tranh chấp và đâu
là lời trình bày khách quan, trung thực, đâu là sự giả dối; nguyên
nhân, mục đích dẫn đến tranh chấp vì vật chất hay vì “sỹ diện”, về
quyền lợi dòng họ, quyền lợi chung của nhiều người hay về quyền
lợi cá nhân? Tự do ý chí hay bị xúi giục, kích động? Mức độ mâu
thuẫn giữa các bên đương sự... Nếu là vụ án ly hôn thì cần xem xét
quá trình chung sống, nguyên nhân mâu thuẫn, có sự tham gia của
bố mẹ chồng, bố mẹ vợ hay không? Mâu thuẫn mới phát sinh hay
đã kéo dài, họ có còn tình cảm hay tình yêu đã “chết”? Vấn đề con
cái như thế nào. Nếu còn có băn khoăn, hoặc có điểm mâu thuẫn
giữa các tài liệu, chứng cứ, Thẩm phán có thể tiếp tục triệu tập để
nghe thêm đương sự trình bày.
Trong quá trình hòa giải việc chia sẻ, cảm thông với cảnh ngộ của
các bên đương sự là cần thiết, song Thẩm phán cũng cần chỉ ra hậu quả
của việc hòa giải không thành; những thiệt hại, đau khổ mà các bên, xã
hội phải gánh chịu. Trên cơ sở đó, Thẩm phán cần khơi dậy lòng nhân
ái, khơi gợi tình người, lòng vị tha, độ lượng, nhắc nhở, định hướng để
các bên đương sự thay đổi cách nhìn, cách nghĩ một cách có tình, có lý.
Có thể nói, trong hòa giải vụ án dân sự, Thẩm phán cần sử dụng
kết hợp nhiều kỹ năng. Để đạt được nghệ thuật hòa giải trong vụ án
dân sự Thẩm phán phải có nhiều kinh nghiệm, trình độ nghiệp vụ
vững vàng, biết kết hợp tình và lý, vận dụng pháp luật thành thạo và
có hiểu biết sâu sắc về xã hội, tâm lý con người. Muốn vậy, Thẩm
phán cần thông hiểu pháp luật, có sự say mê nghề nghiệp, tích lũy kinh
nghiệm, sáng tạo, linh hoạt trong thực tiễn và đặc biệt là phải công tâm
mới có thể tiến hành hòa giải thành công.
2.2.3. Kỹ năng chuẩn bị cho việc hòa giải
Để điều khiển phiên hòa giải tự tin, chủ động và hòa giải có hiệu
quả vụ án dân sự, Thẩm phán cần thực hiện tốt các công việc chuẩn bị
cho phiên hòa giải. Bước chuẩn bị này gồm nhiều công việc và có mối

250
liên hệ chặt chẽ với các kỹ năng khác như kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ
án; thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ... Thông thường, Thẩm phán
chuẩn bị cho việc hòa giải như sau:
- Xây dựng phương án hòa giải: Việc xây dựng phương án hòa
giải là rất cần thiết đối với Thẩm phán trước khi tiến hành phiên hòa
giải. Phương án hòa giải xây dựng trên cơ sở quá trình xây dựng hồ
sơ vụ án, nghiên cứu hồ sơ vụ án, xác định mấu chốt của tranh chấp,
nguyên nhân, động cơ dẫn đến các bên đương sự tranh chấp và có sự
kết nối với các nội dung của hoạt động kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chứng cứ. Thẩm phán có thể xây dựng nhiều phương án hòa
giải để sử dụng một cách linh hoạt tại phiên hòa giải. Phương án hòa
giải cần cân bằng được lợi ích của các bên đương sự và phù hợp với
bối cảnh của từng vụ án dân sự cụ thể. Trong nội dung phương án hòa
giải cần lập danh mục các vấn đề, yêu cầu cần hòa giải theo thứ tự hợp
lý, khoa học; các quy định của pháp luật được áp dụng cũng như việc
sử dụng các tài liệu, chứng cứ cần thiết, thích hợp.
- Chuẩn bị pháp luật để phổ biến, giải thích trong phiên hòa giải.
Cùng với xây dựng phương án hòa giải, Thẩm phán cần chuẩn bị, lựa
chọn, xác định quy định pháp luật liên quan trực tiếp có thể được áp
dụng. Thực ra, việc lựa chọn, xác định quy phạm pháp luật để áp dụng
là vấn đề không thể độc lập hóa trong từng kỹ năng hay giai đoạn tiến
hành tố tụng, mà nội dung các quy định của pháp luật liên quan phải là
vấn đề có tính “thường trực” trong tư duy chính các Thẩm phán. Bởi
vì, sẽ không thể hòa giải cho các đương sự hoặc khi tiếp xúc và nghe
đương sự trình bày mà Thẩm phán lại chưa nắm chắc hoặc chưa định
hình, lựa chọn được quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội
thuộc vấn đề mà mình phải giải quyết; do ít nhất vấn đề đã được trình
bày trong đơn khởi kiện, bổ sung đơn khởi kiện… mà Tòa án đã thụ lý.
Tuy nhiên, Thẩm phán cần xác định các văn bản pháp luật và các điều
luật trực tiếp áp dụng trong phiên hòa giải. Việc sắp xếp, đánh dấu các
điểm, khoản, điều luật trong văn bản pháp luật để viện dẫn, phân tích
khi cần thiết là vô cùng quan trọng, bảo đảm cho sự tự tin, chủ động
của Thẩm phán khi hòa giải.

251
Sau khi thực hiện các công việc xây dựng phương án hòa giải,
chuẩn bị pháp luật cho việc hòa giải, Thẩm phán tiến hành hoạt
động thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công
khai chứng cứ và hòa giải. Thông báo về phiên họp này là một hoạt
động tố tụng bắt buộc vì qua đó đương sự có sự sắp xếp công việc,
chuẩn bị đầy đủ các yêu cầu, tài liệu, căn cứ để bảo vệ lợi ích hợp
pháp cũng như phương án hòa giải. Thông báo được thực hiện theo
mẫu do TANDTC ban hành và theo đúng quy định tại Điều 208
BLTTDS 2015. Trong thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp,
tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải phải có các nội dung về thành
phần tham gia, về thời gian, địa điểm tiến hành phiên họp và nội dung
hòa giải. Xác định thành phần tham gia phiên hòa giải có mối liên hệ
với kỹ năng xây dựng hồ sơ vụ án, xác định đương sự của vụ án.
Thông báo được gửi theo đúng thủ tục được quy định của
BLTTDS 2015 về cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng. Mặc
dù việc gửi thông báo là nhiệm vụ của Thư ký Tòa án nhưng Thẩm
phán phải kiểm tra hoạt động này cũng như kiểm tra việc triệu tập các
thành phần tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công
khai chứng cứ và hòa giải để bảo đảm quyền tham gia phiên họp của
họ theo đúng quy định của pháp luật. Thời hạn và thủ tục thông báo
được thực hiện theo các quy định từ Điều 170 đến Điều 181 BLTTDS 2015.
Về nội dung hòa giải, trong thông báo cần ghi rõ “nội dung những
vấn đề cần hòa giải”. Nội dung hòa giải cần ghi cụ thể, không nên ghi
chung chung: “hòa giải vụ án ly hôn”, “hòa giải vụ án thừa kế”, “hòa giải
tranh chấp quyền sử dụng đất”. Nếu chỉ ghi như vậy thì chưa thể hiện
được kỹ năng hòa giải của Thẩm phán. Nội dung các vấn đề cần hòa giải
cũng cần sắp xếp theo thứ tự hợp lý: 1, 2, 3… Tùy thuộc vào yêu cầu
của các đương sự (khởi kiện, phản tố, độc lập), vấn đề các bên đang còn
tranh chấp mà Thẩm phán ghi cụ thể các nội dung cần hòa giải.
Ví dụ, đối với vụ án thừa kế, khi đương sự yêu cầu chia di sản
bằng hiện vật là ngôi nhà số 12 đường N, phố T, quận H thì trong
trường hợp này, nội dung các vấn đề cần hòa giải nên ghi rõ:

252
“1. Chia di sản thừa kế: ngôi nhà số 12 đường N, phố T, quận H
2. Phương thức chia di sản;
3. Án phí”.
Tuy nhiên, cũng là vụ án thừa kế nhưng các bên đương sự tranh
chấp về công sức quản lý di sản, công sức đóng góp tôn tạo của người
khác vào khối di sản của người quản lý di sản và chia di sản thừa kế
bằng hiện vật thì Thẩm phán cần ghi: xác định công sức quản lý di sản,
xác định công sức đóng góp trong khối di sản thừa kế rồi mới đến các
vấn đề về di sản hoặc cách phân chia và án phí.
Việc ghi rõ những nội dung cần hòa giải không chỉ thể hiện rõ
nhận thức sâu sắc của Thẩm phán về vụ án, những vấn đề cần hòa
giải mà còn là sự chuẩn bị tốt cho chính các đương sự. Họ sẽ không
những được chuẩn bị về tâm lý mà về chứng cứ, họ cũng thấy rõ là để
có thể hòa giải được những vấn đề trên, họ cần tập trung vào những
tài liệu, chứng cứ nào, đề xuất phương án thỏa thuận thế nào và lập
luận cho từng phương án thỏa thuận, từ đó dẫn đến hòa giải thành
công vụ án dân sự.
2.2.4. Tiến hành hoạt động hòa giải
a) Kỹ năng xử lý tình huống vắng mặt đương sự và những người
tham gia tố tụng khác
Tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng
cứ và hòa giải, Thẩm phán phải thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy
định tại Điều 210 BLTTDS 2015. Trong phần thủ tục bắt đầu phiên
họp, Thẩm phán thực hiện việc kiểm tra lại sự có mặt và căn cước của
những người tham gia phiên họp. Về nguyên tắc, phiên họp được tiến
hành với sự có mặt của tất cả các đương sự và những người tham gia
tố tụng khác. Tuy nhiên, phiên họp có thể có mặt đầy đủ các bên đương
sự hoặc vắng mặt một hoặc một số đương sự. Từ đó đòi hỏi kỹ năng
xử lý tốt các tình huống của Thẩm phán khi những người tham gia tố
tụng vắng mặt.

253
- Đối với đương sự, họ là chủ thể chính của phiên họp. Trường
hợp đương sự vắng mặt khi được Tòa án triệu tập hợp lệ, căn cứ vào
quy định của pháp luật, Thẩm phán xử lý như sau:
Nếu đương sự vắng mặt lần thứ nhất:
Trường hợp đương sự không thể tham gia hòa giải được vì có lý
do chính đáng, thông thường được đương sự trình bày trong một đơn
đề nghị gửi Tòa án hoặc trường hợp đương sự vắng mặt không có lý do
chính đáng thì phiên hòa giải sẽ hoãn. Thẩm phán lập “biên bản vắng
mặt lần 1”, rồi thông báo triệu tập tham gia hòa giải lần thứ hai, trừ
trường hợp đương sự có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt.
Nếu đương sự vắng mặt lần thứ hai:
+ Lần thứ nhất, lần thứ hai nguyên đơn vắng mặt không có lý
do chính đáng thì xác định là nguyên đơn đã từ bỏ việc kiện. Đây
cũng là căn cứ để Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án trừ
trường hợp nguyên đơn có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt (trong
trường hợp vụ án chỉ có yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn). Để bảo
đảm căn cứ cho quyết định đình chỉ giải quyết vụ án trong trường
hợp này, Thẩm phán cần lập biên bản về việc vắng mặt lần thứ hai
của nguyên đơn. Biên bản này sẽ là căn cứ pháp lý để ra quyết định
đình chỉ giải quyết vụ án.
+ Trong trường hợp bị đơn đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến
lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt, thì Thẩm phán cũng phải lập
“biên bản vắng mặt lần 2” của bị đơn, lập biên bản về việc không tiến
hành hoà giải được do bị đơn vắng mặt và ra quyết định đưa vụ án ra
xét xử theo thủ tục chung. Bị đơn cố tình vắng mặt là việc vắng mặt
mà không có lý do hoặc có lý do nhưng không chính đáng. Biên bản
này sẽ được lưu trong hồ sơ vụ án và được dùng làm căn cứ ra quyết
định đưa vụ án ra xét xử.
+ Nếu người vắng mặt là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan, thì tùy vào vị trí tố tụng của người này mà áp dụng quy định
giống như đối với nguyên đơn. Nếu người có quyền lợi, nghĩa vụ

254
liên quan có yêu cầu độc lập thì có quyền và nghĩa vụ tố tụng giống
như nguyên đơn. Trong trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan có yêu cầu độc lập vắng mặt thì Tòa án cũng phải lập biên bản
về việc vắng mặt của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để ra
quyết định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu của người đó. Đối với
quyền lợi của những đương sự có mặt khác, Tòa án giải quyết bình
thường theo quy định chung.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng đứng về
phía nguyên đơn thì có các quyền, nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn.
Khi người này vắng mặt, Tòa án cũng không giải quyết phần quyền
lợi, nghĩa vụ của họ. Phần quyền và nghĩa vụ của các đương sự khác,
Tòa án giải quyết theo thủ tục chung. Người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan tham gia tố tụng đứng về phía bị đơn thì có các quyền và
nghĩa vụ tố tụng giống như bị đơn. Nếu người này vắng mặt lần thứ hai
thì Tòa án cũng coi như không hòa giải được đối với quyền lợi, nghĩa
vụ của người này và giải quyết theo thủ tục chung.
Trong vụ án có nhiều đương sự mà có đương sự vắng mặt,
nhưng các đương sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành phiên họp và việc
tiến hành phiên họp đó không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của
đương sự vắng mặt thì Thẩm phán tiến hành phiên họp giữa các
đương sự có mặt; nếu các đương sự đề nghị hoãn phiên hòa giải để có
mặt tất cả các đương sự trong vụ án thì Thẩm phán phải hoãn phiên
hòa giải. Thẩm phán phải thông báo việc hoãn phiên họp và việc mở
lại phiên họp cho đương sự. Như vậy, Thẩm phán chỉ được tiến hành
hòa giải khi thỏa mãn cả hai điều kiện: điều kiện thứ nhất, các đương
sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành hòa giải và điều kiện thứ hai, việc
hòa giải đó không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng
mặt mà chỉ hòa giải những vấn đề liên quan đến các đương sự có mặt.
Tuy nhiên, việc hoãn hòa giải phải thực hiện theo đúng những quy
định đã phân tích ở trên, nghĩa là chỉ có thể hoãn lần thứ nhất. Đến
lần thứ hai mà vẫn có đương sự vắng mặt thì tùy từng trường hợp
Thẩm phán có thể tiến hành hòa giải hoặc lập biên bản không hòa
giải được.

255
Một điểm cần lưu ý khác là trong trường hợp đương sự vắng mặt
nhưng người đại diện của họ có mặt thì phiên hòa giải vẫn được tiến
hành bình thường. Căn cứ các giấy tờ chứng minh quan hệ đại diện
(hoặc là đại diện theo pháp luật hoặc là đại diện theo ủy quyền), Thẩm
phán xác định tư cách người đại diện và phạm vi đại diện. Đối với đại
diện theo ủy quyền thì văn bản ủy quyền phải xác định rõ phạm vi ủy
quyền hoặc là phải ủy quyền toàn bộ hoặc là có ủy quyền tham gia hòa
giải. Thẩm phán cần kiểm tra kỹ văn bản cũng như nội dung của văn
bản này nhằm bảo đảm cho phiên hòa giải được tiến hành hợp lệ. Tất
cả các văn bản liên quan đến sự ủy quyền cũng như phạm vi ủy quyền
đều được lưu vào hồ sơ vụ án.
- Đối với trường hợp những người tham gia tố tụng khác vắng
mặt khi được Tòa án triệu tập hợp lệ, căn cứ vào quy định của pháp
luật, Thẩm phán sẽ giải quyết như sau:
+ Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (nếu có)
Nhằm bảo đảm cho việc bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự, BLTTDS 2015 đã bổ sung thành phần tham gia
hòa giải bao gồm cả người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự (nếu có). Tuy nhiên, BLTTDS 2015 cũng chưa quy định
về hậu quả pháp lý nếu họ vắng mặt khi được Tòa án triệu tập hợp lệ
tham gia phiên họp nên việc tiến hành hòa giải hoặc hoãn phiên hòa
giải do Thẩm phán quyết định. Vấn đề này cần có hướng dẫn cụ thể
của TANDTC. Về kỹ năng nghiệp vụ, nếu người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự vắng mặt có lý do chính đáng lần thứ nhất
thì Thẩm phán nên hoãn việc hòa giải.
+ Người phiên dịch (nếu có)
Tiếng nói, chữ viết dùng trong tố tụng dân sự là tiếng Việt, vì
vậy, nếu trong vụ án có đương sự không sử dụng được tiếng Việt thì
sự tham gia của người phiên dịch là bắt buộc. Do đó, nếu người phiên
dịch vắng mặt thì Thẩm phán phải hoãn phiên hòa giải.
+ Các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan

256
Nếu các cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan vắng mặt, để tránh
việc kéo dài thời gian giải quyết vụ án, Thẩm phán vẫn tiến hành phiên
hòa giải.
b) Kỹ năng điều khiển phiên hòa giải và tiến hành hòa giải
Để điều khiển phiên hòa giải và thực hiện kỹ năng hòa giải tốt,
Thẩm phán cần có sự kết nối với việc xác định yêu cầu khởi kiện, yêu
cầu phản tố, yêu cầu độc lập; những vấn đề đã thống nhất, những vấn
đề chưa thống nhất yêu cầu Tòa án giải quyết đã xác định trước đó tại
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ. Cần
lưu ý, phiên hòa giải không phải là một buổi lấy lời khai hoặc đối chất
hay phiên tòa nên Thẩm phán cần sử dụng các kỹ năng khác biệt từ
việc sắp xếp chỗ ngồi, việc sử dụng tài liệu, chứng cứ; phổ biến các
quy định của pháp luật cho đến thái độ, giọng nói phải phù hợp với
tính chất của phiên hòa giải. Việc bố trí phòng hòa giải và chỗ ngồi
cho các đương sự, Thẩm phán, Thư ký Tòa án trong phiên hòa giải có
vai trò quan trọng. Bản chất của phiên hòa giải là việc giải quyết vụ
án không bằng quyền lực mà bằng sự thương lượng, tình cảm giữa
các đương sự nên cần tạo không khí thân thiện, thoải mái trong phiên
hòa giải. Nếu có một phòng nhỏ để tiến hành hòa giải là phù hợp nhất.
Trong trường hợp sử dụng phòng xử án, nhất là những phòng xử lớn
để tiến hành hòa giải thì Thẩm phán và Thư ký không nên ngồi ở vị
trí mà Hội đồng xét xử vẫn ngồi khi xử án. Việc bố trí chỗ ngồi của
Thẩm phán, Thư ký phải tạo cho đương sự tâm lý thoải mái, tự tin.
Các đương sự có thể sắp xếp ngồi gần nhau hoặc đối diện tùy theo thái
độ tâm lý của họ trong từng vụ án. Đây cũng là những vấn đề hết sức
linh hoạt, mềm dẻo mang tính phương pháp, không phải là nội dung
hoặc yêu cầu bắt buộc khi hòa giải. Do vậy, việc vận dụng cũng tùy địa
phương, tùy theo bối cảnh của từng vụ án.
Trong phiên hòa giải, Thẩm phán cần sử dụng ngôn ngữ giản dị,
dễ hiểu để đương sự có thể hiểu ngay được các vấn đề cần hòa giải,
phương án hòa giải, các quy định của pháp luật và tạo được không khí
thoải mái của phiên hòa giải. Giọng nói của Thẩm phán khi tiến hành

257
hòa giải cần nhẹ nhàng, thuyết phục cùng với phong thái tự tin; ánh
mắt, giọng nói thân thiện tạo thiện cảm cho các đương sự, từ đó mới
có thể dẫn dắt, điều khiển có hiệu quả hoạt động hòa giải. Thẩm phán
cần tuân thủ, đồng thời giải thích để đương sự hiểu rõ nguyên tắc bảo
mật tất cả các nội dung, thông tin của phiên hòa giải.
BLTTDS 2015 quy định thủ tục phiên hòa giải chi tiết, cụ thể hơn
so với pháp luật tố tụng trước đó. Để phiên hòa giải được thành công,
Thẩm phán cần điều khiển phiên hòa giải theo đúng trình tự, thủ tục.
Kết thúc phần kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ,
Thẩm phán tuyên bố kết thúc chuyển sang phần hòa giải.
Bắt đầu phiên hòa giải, Thẩm phán phổ biến cho các đương sự
tham gia hòa giải về các quy định của pháp luật có liên quan trực tiếp
đến việc giải quyết vụ án để các đương sự biết. Trên cơ sở nắm được
các quy định của pháp luật đương sự mới có khả năng tự liên hệ đến
quyền, nghĩa vụ của mình mà tự nguyện đi đến thỏa thuận về việc giải
quyết từng vấn đề, từng yêu cầu. Các quy định của pháp luật có liên
quan trực tiếp đến việc giải quyết vụ án bao gồm các quy định của
pháp luật tố tụng và nội dung cần được Thẩm phán viện dẫn cụ thể.
Trường hợp có những quy định của pháp luật mà đương sự chưa hiểu
rõ hoặc không hiểu, Thẩm phán cần giải thích nội dung điều luật theo
cách dễ hiểu, giản dị nhất để đương sự nắm bắt được. Từ đó họ mới có
khả năng tự xác định được quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định
của pháp luật. Tiếp theo, Thẩm phán phân tích, giải thích để đương sự
hiểu được việc hòa giải thành có ý nghĩa, tác dụng quan trọng như thế
nào. Nếu hòa giải thành công thì vụ án được giải quyết nhanh gọn; giữ
gìn và củng cố được mối đoàn kết, ổn định xã hội, tiết kiệm chi phí mở
phiên tòa và hạn chế tối đa chi phí về thời gian và tiền bạc cho chính
các đương sự, đặc biệt là được giảm 50% án phí dân sự sơ thẩm. Hơn
nữa, người Việt Nam có đặc tính “duy tình”, việc đưa nhau ra “chốn
công đường” là việc “cực chẳng đã”. Hòa giải thành tức là không ai
phải ra “chốn công đường”. Thẩm phán nên khai thác tâm lý này của
người Việt Nam để thuyết phục đương sự tự nguyện thỏa thuận với
nhau về việc giải quyết vụ án. Đồng thời, Thẩm phán cũng cần phân

258
tích cho đương sự hiểu trường hợp hòa giải thành, Tòa án sẽ lập biên
bản hòa giải thành và ra ngay quyết định công nhận sự thỏa thuận của
các đương sự. Quyết định này có hiệu lực thi hành ngay. Khi phổ biến
các quy định của pháp luật, một nguyên tắc đặt ra yêu cầu Thẩm phán
phải tuân thủ là không được nói trước với các đương sự ai sai, ai đúng
ở chỗ nào hoặc nếu các đương sự không thỏa thuận được thì hướng xét
xử của Tòa án như thế nào...
Ví dụ:
Thẩm phán có thể trình bày: “Trước khi các bên thỏa thuận,
thương lượng tôi sẽ giải thích các quy định của pháp luật liên
quan đến vụ án. Theo quy định tại Điều 466 BLDS năm 2015, nếu
hợp đồng vay các bên có thỏa thuận lãi, có thời hạn vay được xác
định, thì khi đến hạn mà người vay không thực hiện được nghĩa
vụ trả nợ thì ngoài khoản gốc và lãi theo hợp đồng, người vay còn
phải trả lãi nợ quá hạn trong thời gian chậm trả theo lãi suất bằng
50% mức lãi suất giới hạn trên số tiền lãi chậm trả tương ứng với
thời hạn chậm trả. Trường hợp bên vay chậm trả nợ gốc thì mức
lãi suất trên nợ gốc chậm trả phải cao hơn mức lãi suất trong hợp
đồng. Đây là một biện pháp phạt do pháp luật quy định nhằm răn
đe người vay chiếm dụng vốn của bên cho vay. Theo quy định lãi
trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp
đồng tương ứng với thời gian chậm trả. Ngoài ra các bên có thể
thỏa thuận cho phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện kinh tế của mỗi
bên. Nếu các bên thỏa thuận được thì sẽ là điều kiện rất tốt cho
việc thi hành án. Tòa án sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận
của đương sự, vụ án kết thúc mà không phải mở phiên tòa, tránh
được những căng thẳng và tiết kiệm thời gian, tránh ảnh hưởng
đến cuộc sống, sinh hoạt…”
Sau khi phổ biến, giải thích quy định của pháp luật, Thẩm phán
yêu cầu các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ
trình bày nội dung tranh chấp, yêu cầu; những căn cứ để bảo vệ yêu
cầu của mình, phản đối yêu cầu của đương sự khác và đề xuất quan
điểm về những vấn đề cần hòa giải, hướng giải quyết vụ án. Người

259
khác tham gia phiên họp hòa giải (nếu có) phát biểu ý kiến. Thứ tự
trình bày của các đương sự thực hiện như sau: nguyên đơn trình bày
trước, sau đó đến bị đơn và cuối cùng là người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan. Thẩm phán yêu cầu các bên đương sự trình bày bổ sung
những vấn đề chưa rõ, chưa trình bày. Khi đương sự trình bày, Thẩm
phán nên hướng đương sự trình bày về từng vấn đề, từng yêu cầu. Sau
khi các bên đương sự trình bày xong ý kiến đối với vấn đề thứ nhất
thì chuyển sang vấn đề thứ hai hoặc ngay từ vấn đề thứ nhất đã không
thống nhất được thì tùy từng trường hợp, Thẩm phán quyết định là có
cần thiết phải chuyển sang vấn đề thứ hai hay kết thúc luôn phiên hòa
giải. Chẳng hạn, trong vụ án tranh chấp hợp đồng vay, nếu bên bị đơn
khẳng định là không vay, không nợ nguyên đơn (điều này cũng đã thể
hiện trong những lời khai, những tài liệu, giấy tờ có trong hồ sơ) và
không có một khoản nợ nào thì không thể hòa giải được các vấn đề tiếp
theo của vụ án như: tiền lãi, phương thức, thời điểm trả nợ, án phí. Tuy
nhiên, có những vụ án đương sự không thỏa thuận được về vấn đề thứ
nhất nhưng Thẩm phán cần tiếp tục để họ trình bày và thỏa thuận về
những vấn đề tiếp theo của vụ án.
Ví dụ:
Đối với vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa, nguyên
đơn có 03 yêu cầu: hủy hợp đồng, buộc bị đơn phạt vi phạm và bồi
thường thiệt hại. Bị đơn đề nghị được tiếp tục thực hiện hợp đồng.
Có 04 vấn đề mà đương sự phải thỏa thuận: đó là hủy bỏ hay tiếp
tục thực hiện hợp đồng, phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và án
phí. Trường hợp nếu qua hòa giải, nguyên đơn vẫn cương quyết
không đồng ý tiếp tục thực hiện hợp đồng, Thẩm phán sẽ không kết
thúc phiên hòa giải mà tiếp tục hòa giải để đương sự thỏa thuận về
khoản tiền phạt vi phạm hợp đồng, bồi thường thiệt hại và án phí
của vụ án. Nếu đương sự thỏa thuận được thì đó là cơ sở để sau
này, trong trường hợp Tòa án ra bản án xử hủy bỏ hợp đồng nhưng
công nhận những vấn đề mà đương sự đã thỏa thuận được.
Đối với những yêu cầu đương sự đưa ra không có căn cứ, Thẩm
phán phân tích, dẫn chiếu quy định của pháp luật, sử dụng tài liệu,

260
chứng cứ để đương sự nhận thức đúng quyền và nghĩa vụ của mình.
Từ đó để họ cân nhắc lại yêu cầu, ý kiến, quan điểm của mình. Nếu
nội dung các đương sự thỏa thuận không phù hợp với pháp luật hoặc
không bảo đảm được việc thi hành trên thực tế thì Thẩm phán cần lưu
ý hướng dẫn đương sự thỏa thuận lại đúng quy định của pháp luật,
bảo đảm được việc thi hành trên thực tế nội dung thỏa thuận. Sau khi
kết thúc phần trình bày, Thẩm phán xác định những vấn đề các bên
đã thống nhất và những vấn đề chưa thống nhất. Để xác định được
những vấn đề thống nhất và chưa thống nhất, Thẩm phán phải có kỹ
năng tổng hợp nhanh, lập được danh mục các vấn đề thống nhất, chưa
thống nhất. Nếu vụ án có nhiều vấn đề cần giải quyết, những vấn đề
nào đương sự thống nhất được thì Thẩm phán cũng phải kết luận từng
vấn đề các bên đã thống nhất cho đương sự rõ. Trên cơ sở đó Thẩm
phán tiến hành tập trung hòa giải về những vấn đề các bên chưa thống
nhất. Thẩm phán sắp xếp các vấn đề, yêu cầu nào cần hòa giải trước,
yêu cầu nào hòa giải sau.
Ví dụ:
Trong vụ án tranh chấp hợp đồng vay, bên nguyên đơn yêu cầu
bị đơn trả tiền vay gốc, tiền lãi và yêu cầu trả một lần. Bị đơn
đồng ý trả tiền vay gốc xin không trả lãi và đề nghị được trả theo
phương thức hàng tháng. Trong trường hợp này, các bên đã thống
nhất được về số tiền vay gốc, không thống nhất việc trả lãi và
phương thức trả lãi thì Thẩm phán tập trung hòa giải để các bên
thương lượng, thỏa thuận về tiền lãi và phương thức trả nợ. Thẩm
phán có thể trình bày: trong vụ án này, những vấn đề cần thỏa
thuận lại là:
- Khoản tiền lãi;
- Phương thức thanh toán (trả một lần hay nhiều lần, trả như
thế nào: chuyển khoản hay tiền mặt,...
- Thời điểm trả nợ;
- Án phí của vụ án.
Việc hòa giải cần thực hiện một cách logic, khoa học. Cụ thể,

261
Thẩm phán tiến hành hòa giải từng yêu cầu, từng vấn đề các bên
chưa thống nhất. Hòa giải xong về vấn đề, yêu cầu, Thẩm phán sẽ
hướng đương sự thỏa thuận vấn đề, yêu cầu tiếp theo. Thẩm phán
cần tránh tình trạng hòa giải các vấn đề, yêu cầu một cách lộn xộn,
luộm thuộm. Sau khi hòa giải xong các yêu cầu, cuối cùng, Thẩm
phán hòa giải về án phí của vụ án. Ví dụ, trong vụ án ly hôn, vợ
chồng tranh chấp về việc ly hôn, nuôi con, chia tài sản thì Tòa án
cần hòa giải về quan hệ hôn nhân trước, nếu hòa giải đoàn tụ không
thành thì tiếp tục tiến hành hòa giải việc nuôi con và sau đó hòa giải
việc chia tài sản.
Khi các bên đương sự nêu phương án thỏa thuận của họ mà
không thành thì Thẩm phán nêu từng phương án hòa giải mà Thẩm
phán đã chuẩn bị trước để họ xem xét, đi đến thống nhất thỏa thuận về
từng vấn đề, từng yêu cầu trong vụ án. Khi trình bày phương án hòa
giải của mình, Thẩm phán cần đứng ở góc độ khách quan đồng thời
kết hợp phân tích nguyên nhân, bối cảnh cụ thể của vụ án. Trường hợp
đương sự không thỏa thuận được việc giải quyết toàn bộ vụ án mà chỉ
thỏa thuận được một hoặc một số vấn đề thì Thẩm phán cần trân trọng
từng thỏa thuận của các bên đương sự. Trường hợp các đương sự hòa
giải thành về toàn bộ vụ án (các yêu cầu và án phí của vụ án) Thẩm
phán kết luận: vụ án đã hòa giải thành. Trường hợp các bên thỏa thuận
được một hoặc một số vấn đề, không thỏa thuận được một số vấn đề thì
đây là trường hợp hòa giải không thành, Thẩm phán kết luận về những
vấn đề các bên đương sự đã hòa giải thành và vấn đề chưa thống nhất.
Nếu trường hợp các đương sự thỏa thuận được về tất cả những vấn
đề phải giải quyết vụ án, nhưng không thỏa thuận được về người phải
chịu án phí thì đó cũng là trường hợp hòa giải không thành. Tuy nhiên,
Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải nên kiên trì hòa giải, thuyết phục cho
đương sự thỏa thuận về án phí.
Phát biểu kết luận xong, Thẩm phán kiểm tra biên bản hòa giải
sau đó yêu cầu Thư ký đọc biên bản phiên hoà giải. Mục đích đọc
biên bản hòa giải là để công khai tất cả nội dung của biên bản, làm
cơ sở pháp lý để đương sự ký hoặc điểm chỉ vào biên bản hòa giải.

262
BLTTDS 2015 cũng quy định những người tham gia phiên họp có quyền
được xem biên bản ngay sau khi kết thúc phiên họp, yêu cầu ghi những
sửa đổi, bổ sung vào biên bản và ký xác nhận hoặc điểm chỉ. Biên bản
hoà giải do Thư ký ghi trong quá trình Thẩm phán chủ trì buổi hòa giải.
Trường hợp Thư ký chưa kịp hoàn thiện biên bản, sau khi phát biểu kết
luận về phiên hòa giải, Thẩm phán có thể tuyên bố cho phiên hòa giải
tạm ngừng trong ít phút. Sau khi Thư ký đọc biên bản hòa giải, mặc
dù BLTTDS không quy định nhưng trong trường hợp hòa giải thành,
Thẩm phán cần giải thích quyền thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận cho
các đương sự hiểu rõ họ có quyền thay đổi trong thời hạn 07 ngày, kể từ
ngày lập biên bản và cũng giải thích cho đương sự việc thay đổi ý kiến
của đương sự phải được lập thành văn bản, gửi cho Tòa án.
* Kiểm tra việc ghi biên bản hòa giải
Việc ghi biên bản hòa giải thuộc trách nhiệm của Thư ký Tòa
án. Tuy nhiên, với vai trò chủ trì phiên hòa giải, Thẩm phán cần thực
hiện việc kiểm tra biên bản hòa giải trước khi yêu cầu Thư ký công bố
biên bản hòa giải. Về hình thức, nội dung của biên bản hòa giải thực
hiện quy định tại Điều 211 BLTTDS 2015 và theo mẫu của TANDTC
ban hành. Theo đó, biên bản hòa giải phải có các nội dung chính như:
Ngày, tháng, năm tiến hành hòa giải; địa điểm tiến hành hòa giải; thành
phần tham gia hòa giải; ý kiến của các đương sự, người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của các đương sự; những nội dung đã được các
đương sự thống nhất (thỏa thuận được), không thống nhất (không thỏa
thuận được).
Đối với mục “Thành phần tham gia phiên hòa giải”, trong biên
bản ghi từng thành phần phải được ghi đầy đủ họ tên, chức danh, vị
trí tố tụng. Ví dụ ghi “Thẩm phán Nguyễn Văn A, chủ trì phiên hòa
giải” hoặc ghi “Ông Nguyễn Văn A, Thẩm phán TAND quận X, chủ
trì phiên hòa giải”. Tương tự, thành phần các đương sự cũng được ghi
đầy đủ họ tên, vị trí tố tụng của các đương sự.
Trường hợp có đương sự vắng mặt thì phải ghi rõ có lý do hay
không có lý do. Đối với trường hợp có đương sự vắng mặt nhưng phiên

263
hòa giải vẫn được tiến hành thì cũng phải ghi rõ lý do vào biên bản hòa
giải. Đối với mục “ý kiến của đương sự; người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các đương sự”, cần ghi đầy đủ ý kiến của từng đương
sự theo từng vấn đề cần phải giải quyết trong vụ án. Ví dụ, trong vụ
án tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa nguyên đơn yêu cầu bị đơn
thanh toán tiền mua bán hàng còn thiếu và tiền lãi chậm thanh toán cần
ghi: “Nguyên đơn trình bày: 1. Đối với khoản tiền mua bán thanh toán
thiếu:… 2. Đối với tiền lãi chậm thanh toán…”, rồi sau đó đến bị đơn
và lần lượt là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày. Cách
ghi này thể hiện Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải đã xác định từng
vấn đề, yêu cầu cần hòa giải. Các yêu cầu, ý kiến, đề xuất của nguyên
đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được ghi tóm tắt
nhưng đầy đủ ý thể hiện được từng vấn đề, yêu cầu các đương sự thỏa
thuận được, không thỏa thuận được. Tránh việc viết dài, lan man, nặng
về trình bày các yêu cầu chứ không phải là về những thỏa thuận của
các bên đương sự.
Từng vấn đề, yêu cầu đương sự thỏa thuận đều phải được ghi kết
luận là các đương sự có thỏa thuận được hay không thỏa thuận được
(ghi theo kết luận của Thẩm phán chủ trì phiên tòa).
Trường hợp các đương sự thỏa thuận được sau khi đã ghi tóm tắt
ý kiến của từng đương sự, cần ghi “các đương sự đã thống nhất thỏa
thuận…” ví dụ, “bị đơn - ông Nguyễn Văn B phải thanh toán số tiền
mua hàng còn thiếu cho nguyên đơn - ông Trần Văn A là 100 triệu
đồng, thanh toán một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Ông B không phải trả lãi cho ông A”.
Trường hợp các đương sự không thỏa thuận được thì sau khi đã
ghi tóm tắt yêu cầu, ý kiến của từng đương sự, cần ghi “các đương sự
không thỏa thuận được về các vấn đề”, ví dụ: 1. Công sức quản lý di
sản của bị đơn - ông Nguyễn Văn N…; 2. Phương thức chia di sản…
Sau khi đã ghi đầy đủ ý kiến của đương sự cũng như những
nội dung đương sự thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được, Thư ký
phải ghi đầy đủ ý kiến của Thẩm phán chủ trì kết luận về kết quả

264
của phiên hòa giải là thành hoặc không thành theo đúng kết luận của
Thẩm phán.
Một nội dung khác tiếp theo của biên bản hòa giải thành là cần
ghi rõ về quyền thay đổi ý kiến của đương sự. Căn cứ vào khoản 1
Điều 212 BLTTDS 2015 thì “Hết thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên
bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự
thỏa thuận đó thì Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải hoặc một Thẩm
phán được Chánh án Tòa án phân công phải ra quyết định công nhận
sự thỏa thuận của các đương sự”. Do đó, mục này ghi: “Trong thời
hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải, nếu đương sự nào có
thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận thì phải làm thành văn bản gửi cho
Tòa án”. Đây là mục cuối cùng của nội dung biên bản hòa giải thành.
Biên bản hòa giải phải có đầy đủ chữ ký hoặc điểm chỉ của những
người tham gia phiên hòa giải, chữ ký của Thư ký Tòa án ghi biên bản
và của Thẩm phán chủ trì phiên họp. Biên bản hòa giải phải đóng dấu
của Tòa án. Trường hợp biên bản hòa giải có những sửa đổi, bổ sung
theo yêu cầu của những người tham gia phiên họp thì phải ký xác nhận
hoặc điểm chỉ của những người yêu cầu.
Thẩm phán cần lưu ý kiểm tra việc gửi biên bản hòa giải thành
cho các đương sự, Viện kiểm sát. Biên bản hòa giải thành được gửi
ngay cho đương sự tham gia hòa giải. BLTTDS 2015 không quy định
việc gửi biên bản hòa giải thành cho các đương sự vắng mặt. Tuy
nhiên biên bản hòa giải thành cũng phải gửi cho đương sự vắng mặt
nếu trường hợp thỏa thuận của các đương sự có mặt tại phiên hòa giải
có ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt. Theo quy
định tại Điều 212 BLTTDS 2015 thì thỏa thuận của các đương sự có
mặt có ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì thỏa
thuận đó chỉ có giá trị nếu được đương sự vắng mặt tại phiên hòa giải
đồng ý bằng văn bản.
c) Ban hành quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự
Thẩm phán chỉ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải

265
quyết toàn bộ vụ án, bao gồm cả nội dung và án phí. Về nội dung: các
bên phải thỏa thuận được việc giải quyết tất cả các yêu cầu, các quan
hệ pháp luật trong vụ án. Do đó, trên thực tế nhiều vụ án dân sự, có
nhiều đương sự, nhiều loại yêu cầu và nhiều quan hệ pháp luật tranh
chấp nhưng nếu các đương sự chỉ thỏa thuận được việc giải quyết một
loại yêu cầu, một quan hệ pháp luật tranh chấp thì Thẩm phán cũng
không được ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
Ví dụ:
Trong vụ án ly hôn, vợ chồng vay nợ người thứ ba và người cho
vay yêu cầu vợ chồng trả tiền vay gốc và lãi. Nếu các đương sự
thỏa thuận được việc trả tiền vay, thỏa thuận được việc phân chia
tài sản nhưng không thỏa thuận được nuôi con thì Tòa án vẫn phải
ra quyết định đưa vụ án ra xét xử mà không ra quyết định công
nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
Trong vụ án có nhiều đương sự mà có đương sự vắng mặt,
nhưng các đương sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành hòa giải và Thẩm
phán tiến hành hòa giải giữa các đương sự có mặt mà các đương sự
có mặt thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì thỏa
thuận đó chỉ có giá trị đối với những người có mặt và được Thẩm
phán ra quyết định công nhận nếu không ảnh hưởng đến quyền,
nghĩa vụ của đương sự vắng mặt. Trong trường hợp thỏa thuận của
họ có ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì thỏa
thuận này chỉ có giá trị và được Thẩm phán ra quyết định công nhận
nếu được đương sự vắng mặt tại phiên hòa giải đồng ý bằng văn bản.
BLTTDS 2015 không quy định về thời điểm ra quyết định công nhận
sự thỏa thuận của các đương sự trong trường hợp cần có sự đồng ý
bằng văn bản của đương sự vắng mặt, do đó, tác giả cho rằng thời
điểm để ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự trong
trường hợp này không thể là 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa
giải với sự có mặt của các đương sự có mặt được. Để đảm bảo quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt thì Thẩm phán chỉ ra
quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự khi đương sự
vắng mặt đồng ý bằng văn bản. Tuy nhiên, để thống nhất, nghị quyết

266
hướng dẫn thi hành BLTTDS 2015 cần hướng dẫn cụ thể thời hạn lấy
ý kiến của đương sự vắng mặt và thời điểm ra quyết định công nhận
sự thỏa thuận của các đương sự. Quyết định công nhận sự thỏa thuận
của đương sự có hiệu lực pháp luật.
Về hình thức và nội dung của quyết định, Thẩm phán soạn thảo
theo mẫu do TANDTC ban hành. Nội dung quyết định công nhận sự
thỏa thuận của đương sự có liên hệ chặt chẽ với nội dung biên bản hòa
giải thành, phù hợp với thỏa thuận của các bên đương sự trong biên
bản hòa giải thành. Trong quyết định công nhận sự thỏa thuận của
đương sự, tại phần đầu, Thẩm phán ghi các thông tin theo mẫu, bao
gồm: tên Tòa án đang giải quyết vụ án, căn cứ ra quyết định, đó là số
hồ sơ vụ án, biên bản hòa giải thành, điều luật ra quyết định công nhận
sự thỏa thuận của đương sự; phần quyết định ghi nội dung sự thỏa
thuận của đương sự theo nội dung thỏa thuận ghi trong biên bản hòa
giải thành. Các nội dung thỏa thuận của đương sự phải ghi đầy đủ, rõ
ràng, cụ thể về quyền và nghĩa vụ dân sự là cơ sở thi hành trên thực tế.
Tránh tình trạng ghi chung chung, không rõ ràng sự thỏa thuận của các
bên về quyền và nghĩa vụ dân sự.
Tòa án phải gửi quyết định công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn
05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định công nhận sự thỏa thuận
của các đương sự.
2.3. Kỹ năng của Kiểm sát viên trong hoạt động hòa giải
2.3.1. Kỹ năng kiểm sát hoạt động hòa giải vụ án dân sự
Theo quy định tại Điều 21 BLTTDS 2015 Viện kiểm sát thực
hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết vụ việc
dân sự của Tòa án như kiểm sát việc thụ lý, lập hồ sơ, hòa giải, xét
xử, ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc dân sự. Việc kiểm sát
việc hòa giải vụ án dân sự bảo đảm việc hòa giải, giải quyết vụ án
theo đúng quy định của pháp luật, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của
các đương sự trong vụ án. BLTTDS 2015 không có quy định Tòa
án phải gửi thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,

267
công khai chứng cứ và hòa giải; biên bản hòa giải, biên bản hòa giải
thành cho Viện kiểm sát cũng như không quy định Viện kiểm sát là
một thành phần tham gia phiên hòa giải. Điều này thực sự khó khăn
cho Viện kiểm sát trong việc thực hiện hoạt động nghiệp vụ kiểm
sát hoạt động hòa giải vụ án dân sự. Do đó, Kiểm sát viên kiểm sát
hoạt động hòa giải vụ án dân sự của Tòa án trên cơ sở nghiên cứu
hồ sơ vụ án và khiếu nại của đương sự (nếu có) hoặc các nguồn
thông tin khác.
Nghiên cứu hồ sơ vụ án để kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của Tòa án trong hoạt động hòa giải, Kiểm sát viên cần chú ý nghiên
cứu kỹ các văn bản tố tụng như: thông báo phiên họp kiểm tra việc
giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; các biên bản giao
nhận các văn bản tố tụng; biên bản hòa giải, biên bản hòa giải thành;
quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Qua việc
nghiên cứu, Kiểm sát viên phải xác định các hành vi tố tụng, quyết
định tố tụng đúng pháp luật; các vi phạm của Tòa án; các căn cứ pháp
luật của các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng. Kiểm sát viên cần
lưu ý xác định thành phần tham gia hòa giải có theo đúng quy định
của pháp luật không, đặc biệt Tòa án có bảo đảm quyền tham gia hòa
giải của các đương sự không, có đương sự nào không được tham gia
hòa giải không. Điều này đòi hỏi Kiểm sát viên phải nắm vững các
quy định của pháp luật, có kỹ năng xác định đúng, chính xác đương
sự trong vụ án dân sự. Đối với trường hợp Tòa án tiến hành hòa giải
vắng mặt đương sự nhưng nội dung thỏa thuận của các bên có ảnh
hưởng đến đương sự vắng mặt thì khi ra quyết định công nhận sự
thỏa thuận của các đương sự Tòa án có thực hiện đúng quy định tại
khoản 3 Điều 212 BLTTDS 2015 không. Ngoài ra, Kiểm sát viên còn
xem xét, xác định nội dung thỏa thuận của các đương sự trong biên
bản hòa giải thành có vi phạm pháp luật không, nếu có thì ảnh hưởng
đến quyền lợi của đương sự nào trong vụ án. Trên cơ sở hoạt động
kiểm sát, nếu phát hiện vi phạm tùy từng trường hợp Kiểm sát viên
báo cáo đề xuất lãnh đạo kiến nghị hoặc kháng nghị theo quy định
của pháp luật.

268
Ví dụ:
Trong vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng A
và doanh nghiệp B. Về thủ tục hòa giải, tại thông báo phiên họp
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải
ở nội dung thành phần tham gia phiên họp chỉ có ngân hàng A và
doanh nghiệp B. Tại biên bản hòa giải thành cũng chỉ thể hiện
ngân hàng A và doanh nghiệp B đã thỏa thuận được với nhau về
việc giải quyết toàn bộ vụ án. Nhưng trong vụ án này còn có C,
D là hai cá nhân có quyền và nghĩa vụ liên quan (người có tài
sản thế chấp). Kiểm sát viên cần xác định: Tòa án xác định thành
phần tham gia phiên hòa giải và lập biên bản hòa giải thành là
không đúng quy định của pháp luật, thiếu người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan, vì vậy đã xâm phạm nghiêm trọng đến quyền
lợi của C, D.
Ngoài việc nghiên cứu xác định quyền tham gia hòa giải của các
đương sự, nội dung thỏa thuận của các đương sự có vi phạm không,
ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự nào trong vụ án, Kiểm sát viên
cần nghiên cứu xác định Thẩm phán điều khiển phiên hòa giải và tiến
hành hoạt động hòa giải có đúng trình tự, thủ tục hòa giải quy định
trong BLTTDS 2015 không cũng như việc gửi biên bản hòa giải thành
cho các đương sự (gửi đầy đủ cho các đương sự không, có vi phạm
thời hạn gửi không). Tùy thuộc mức độ vi phạm mà Kiểm sát viên tập
hợp kiến nghị Tòa án khắc phục vi phạm hoặc báo cáo đề xuất lãnh đạo
Viện kiểm sát cùng cấp, Viện kiểm sát cấp trên kháng nghị hủy quyết
định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
2.3.2. Kiểm sát quyết định công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự
Theo quy định tại khoản 1 Điều 212 BLTTDS 2015 Tòa án phải gửi
quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự cho các đương sự
và Viện kiểm sát cùng cấp. Hoạt động kiểm sát quyết định công nhận sự
thỏa thuận của các đương sự của Viện kiểm sát cấp sơ thẩm gặp không
ít khó khăn trên thực tế. Bởi vì, nếu chỉ kiểm sát quyết định công nhận
sự thỏa thuận của các đương sự dựa trên việc nghiên cứu quyết định

269
này, nhiều khi, Kiểm sát viên không thể phát hiện được có thiếu sót,
vi phạm đủ làm căn cứ để báo cáo đề xuất thực hiện quyền kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm. Kiểm sát quyết định công nhận sự thỏa
thuận của các đương sự, Kiểm sát viên cần kiểm sát về thời hạn ra
quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự có đúng quy định
tại khoản 1 Điều 212 BLTTDS 2015 không; việc gửi quyết định công
nhận sự thỏa thuận cho các đương sự, Viện kiểm sát (thời hạn và thành
phần phải gửi Quyết định) và kiểm sát nội dung quyết định công nhận
sự thỏa thuận của các đương sự có vi phạm các nguyên tắc hòa giải, vi
phạm pháp luật không.
Về nguyên tắc, thời hạn ra quyết định công nhận sự thỏa thuận
của đương sự theo quy định tại khoản 1 Điều 212 BLTTDS 2015 là
07 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành. Kiểm sát viên cần
lưu ý đặc biệt đối với trường hợp vụ án có nhiều đương sự mà có
đương sự vắng mặt, nhưng các đương sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành
hòa giải và Thẩm phán tiến hành hòa giải giữa các đương sự có mặt
mà các đương sự có mặt thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết
vụ án thì thời điểm Thẩm phán ra quyết định công nhận sự thỏa thuận
của các đương sự là thời điểm Tòa án nhận được văn bản đồng ý với
các nội dung thỏa thuận của đương sự vắng mặt. Trường hợp Tòa
án vi phạm về thời hạn ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của
các đương sự (ra trước thời hạn BLTTDS 2015 quy định) thì được
xác định là vi phạm nghiêm trọng tố tụng. Thời hạn Tòa án phải gửi
quyết định cho các đương sự, Viện kiểm sát là 05 ngày làm việc, kể
từ ngày ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Nếu
Tòa án có sự vi phạm về thời hạn gửi hoặc không gửi cho đương sự
dẫn đến họ khiếu nại thì đây là vi phạm nhỏ, Kiểm sát viên cần kiến
nghị hoặc yêu cầu Tòa án khắc phục.
Khi kiểm sát nội dung quyết định công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự, Kiểm sát viên cần nghiên cứu kỹ nội dung thỏa thuận của các
đương sự trong phần quyết định. Theo quy định tại khoản 3 các Điều
211, 212 BLTTDS 2015 thì nội dung thỏa thuận của các đương sự là
các vấn đề cần phải giải quyết trong phạm vi vụ án. Do đó, nếu đương

270
sự thỏa thuận về các vấn đề thuộc phạm vi thẩm quyền của cơ quan, tổ
chức khác thì nội dung thỏa thuận đó trái pháp luật. Khi nội dung quyết
định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự (nội dung thỏa thuận của
các bên đương sự) trái pháp luật thì đây là vi phạm nghiêm trọng của Tòa
án về việc giải quyết vụ án do thỏa thuận ảnh hưởng đến quyền lợi hợp
pháp của một hoặc một số đương sự trong vụ án; ảnh hưởng đến lợi ích
nhà nước. Thực hiện hoạt động kiểm sát quyết định công nhận sự thỏa
thuận của các đương sự, Kiểm sát viên cần chú ý: nội dung của quyết
định có thể có một hoặc một số nội dung vi phạm pháp luật, ảnh hưởng
đến quyền lợi hợp pháp của đương sự. Thực tế kiểm sát cho thấy, các
vi phạm có thể là thỏa thuận không đúng về án phí của vụ án hoặc xâm
phạm đến quyền lợi của đương sự khác hoặc nội dung thỏa thuận không
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án...
Ví dụ:
Ngày 08/12/2014 giữa vợ chồng ông Th, bà T (bên chuyển
nhượng) và vợ chồng ông H, bà Y (bên nhận chuyển nhượng) đã
xác lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng 01 lô đất 130m2
ở xã H, huyện V. Đất chưa có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
với giá 585.000.000 đồng. Ông H đã đưa cho ông Th 350.000.000
đồng và hẹn khi nào ông Th làm xong bìa đỏ thì đi làm giấy sang
tên chuyển nhượng cho vợ chồng ông H thì vợ chồng ông sẽ trả
hết tiền. Ông Th, bà T có đưa cho ông H giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất mang tên bà Nguyễn Thị T, số sổ là X0135325 do Ủy
ban nhân dân thị xã B cấp ngày 6/8/2003 cho vợ chồng ông H để
làm tin. Hợp đồng có chữ ký của cả hai bên nhưng không được
công chứng, chứng thực tại cơ quan có thẩm quyền. Hai bên chưa
có việc giao nhận đất. Ông H khởi kiện vợ chồng ông Th, bà T
yêu cầu: (i) tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
vô hiệu; (ii) vợ chồng ông Th, bà T phải trả cho vợ chồng ông H,
bà Y 350.000.000 đồng. Ông Th đồng ý với yêu cầu khởi kiện của
ông H. Bà T có lời khai trình bày, ông Th có hỏi mượn Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất mang tên bà để vay tiền ngân hàng; việc
ông Th đưa Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà cho vợ
chồng ông H hay không bà không biết. Bà đề nghị ông H phải trả
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà và xin vắng mặt khi

271
Tòa án hòa giải, xét xử. Bà Y có văn bản ủy quyền cho ông H; bà
T có văn bản ủy quyền cho ông Th tham gia tố tụng.
Tại biên bản hòa giải, biên bản hòa giải thành ngày 01/8/2016
ông H và ông Th có mặt tại phiên hòa giải đã thỏa thuận: Vợ
chồng ông Th trả lại cho vợ chồng ông H 350.000.000 đồng
và trả thêm 10.000.000 đồng trong thời hạn 02 tháng từ ngày
01/8/2016 đến ngày 01/10/2016. Ông H trả lại cho ông Th giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên bà T; vợ chồng ông
Th xin chịu toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm là X đồng. Ngày
10/8/2016 Tòa án huyện V, tỉnh B đã ra quyết định công nhận
sự thỏa thuận của các đương sự số 01/2016/QĐST-DSTC: Ông
Th và bà T phải có nghĩa vụ liên đới thanh toán trả cho ông H
tổng số tiền là 360.000.000 đồng. Ông H có trách nhiệm trả lại
cho ông Th Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên bà
Nguyễn Thị T. Ông Th và bà T phải nộp X đồng án phí dân sự
sơ thẩm… Trong hồ sơ vụ án không có ý kiến đồng ý bằng văn
bản của bà T đối với nội dung thỏa thuận trong biên bản hòa
giải thành.
Kiểm sát quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự
trong vụ án trên, Kiểm sát viên nghiên cứu nội dung quyết định công
nhận sự thỏa thuận của các đương sự đối chiếu với quy định của pháp
luật tố tụng, nội dung xác định Tòa án có những vi phạm nghiêm trọng
tố tụng sau:
- Nguyên đơn yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu và hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên vi phạm cả điều kiện về hình
thức và nội dung. Tòa án không được ra quyết định công nhận sự thỏa
thuận của đương sự mà phải ra bản án xử tuyên bố hợp đồng vô hiệu
và nếu thỏa thuận của các bên về việc giải quyết hậu quả của hợp đồng
phù hợp với pháp luật thì công nhận sự thỏa thuận. Tòa án ra quyết
định công nhận sự thỏa thuận là không đúng pháp luật.
- Bà T là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án vắng
mặt tại phiên hòa giải song Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa
thuận của các đương sự là không đúng quy định tại khoản 3 Điều 212
BLTTDS 2015 do bà T không có ý kiến đồng ý bằng văn bản đối với

272
nội dung thỏa thuận của các đương sự có mặt thể hiện trong biên bản
hòa giải thành.
- Theo biên bản hòa giải, biên bản hòa giải thành ngày 01/8/2016
thể hiện hai bên thỏa thuận: Vợ chồng ông Th trả cho vợ chồng ông
H 360.000.000 đồng. Nhưng khi ra quyết định công nhận thỏa thuận
của các đương sự, Tòa án lại quyết định: Ông Th, bà T thanh toán trả
cho ông H 360.000.000 đồng. Không tuyên phải trả cho bà Y (vợ ông
H) là không đúng với nội dung hai bên thỏa thuận đã được ghi trong
biên bản hòa giải, biên bản hòa giải thành, ảnh hưởng đến quyền lợi
của bà Y.
Với các vi phạm trên của Tòa án huyện V, Kiểm sát viên cần báo
cáo đề xuất lãnh đạo Viện kiểm sát kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm đối với quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số
01/2016/QĐST-DSTC của TAND huyện V, đề nghị Toà án nhân dân
tỉnh B đưa vụ án nêu trên ra xét xử giám đốc thẩm, theo hướng: Huỷ
quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 01/2016/
QĐST-DSTC ngày 10/8/2016 của Tòa án huyện V và giao hồ sơ vụ án
cho Toà án huyện V giải quyết lại theo đúng quy định của pháp luật và
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên đương sự.
Theo quy định của BLTTDS 2015, trường hợp Viện kiểm sát
tham gia phiên tòa sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 21 của
BLTTDS 2015 thì Tòa án phải gửi hồ sơ vụ án cùng quyết định đưa
vụ án ra xét xử cho Viện kiểm sát cùng cấp; trong thời hạn 15 ngày,
kể từ ngày nhận được hồ sơ, Viện kiểm sát phải nghiên cứu và trả lại
hồ sơ cho Tòa án (khoản 2 Điều 220 BLTTDS 2015). Khi Tòa án ra
quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, quyết
định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự thì Tòa án không phải
chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu. Như vậy,
trong trường hợp cần nghiên cứu hồ sơ để phục vụ cho việc kiểm sát
quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, Viện kiểm sát
cấp sơ thẩm cũng không thể yêu cầu Tòa án cùng cấp có trách nhiệm
phải gửi hồ sơ cho mình. Đây chính là khó khăn, trở ngại của Kiểm sát

273
viên Viện kiểm sát cấp sơ thẩm cho việc phát hiện vi phạm, thiếu sót
của Tòa án khi kiểm sát quyết định công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự của Tòa án cùng cấp. Do đó, nguồn tài liệu, chứng cứ đương
sự cung cấp cho Viện kiểm sát có ý nghĩa quan trọng để Kiểm sát viên
thực hiện hoạt động kiểm sát này.
Về nghiệp vụ, kiểm sát quyết định công nhận sự thỏa thuận của
các đương sự, Kiểm sát viên cần đối chiếu phần quyết định với nội
dung biên bản hòa giải thành để xác định có sự thống nhất hay không
thống nhất. Nếu không có sự phù hợp giữa nội dung thỏa thuận của các
bên trong biên bản hòa giải thành với nội dung phần quyết định, xâm
phạm đến quyền lợi của đương sự thì xác định quyết định công nhận
sự thỏa thuận là trái pháp luật.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 58 BLTTDS 2015, Kiểm sát
viên có quyền thu thập tài liệu, chứng cứ để bảo đảm cho việc thực
hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc
thẩm, tái thẩm. Đây là điểm mới bảo đảm quyền của Viện kiểm
sát trong kiểm sát giải quyết vụ án dân sự so với quy định của
BLTTDS 2004, sửa đổi, bổ sung 2011. Như vậy, Kiểm sát viên
Viện kiểm sát cấp sơ thẩm được pháp luật cho phép tự mình thu
thập chứng cứ, tài liệu để đánh giá kết quả giải quyết vụ án của Tòa
án bằng quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự đã
chính xác hay chưa. Điều này tạo điều kiện cho Kiểm sát viên Viện
kiểm sát cấp sơ thẩm có căn cứ chính xác để báo cáo Viện kiểm sát
cấp trên rút hồ sơ hoặc thu thập chứng cứ để đảm bảo quyền kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với quyết định công nhận sự
thỏa thuận của các đương sự đó.
Như vậy, để thực hiện kiểm sát tốt việc hòa giải vụ án dân sự,
đòi hỏi Kiểm sát viên không những nắm vững các quy định của pháp
luật tố tụng dân sự, pháp luật nội dung mà còn phải tinh thông về
nghiệp vụ.
3. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
1. Phân tích nguyên tắc hòa giải trong tố tụng dân sự?

274
2. Xác định các vụ án Tòa án không được tiến hành hòa giải, các
vụ án Tòa án không tiến hành hòa giải được và các vụ án Tòa án tiến
hành hòa giải không được?
3. Phân tích về trình tự, thủ tục phiên hòa giải và phiên họp xét
chứng cứ?
4. Trình bày các kỹ năng cơ bản của Thẩm phán khi tiến hành
hòa giải?
5. Trường hợp đương sự đã ủy quyền cho người đại diện tham gia
tố tụng, trong phiên hòa giải, đương sự có được tham gia hay không?
Nếu đương sự tham gia, đương sự có được phát biểu ý kiến hay không?
6. Sự tham gia của người đại diện do Toà án cử trong phiên hòa
giải như thế nào?
7. Vai trò của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự tại phiên hòa giải?
8. Tại phiên hòa giải trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Luật sư
tham gia với tư cách là người đại diện theo ủy quyền của đương sự
nhưng tại phiên tòa, Luật sư tham gia với tư cách là người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có được không?
9. Trình bày các kỹ năng cơ bản của Kiểm sát viên trong hoạt
động hòa giải?

275
CHƯƠNG 5
CHUẨN BỊ THAM GIA PHIÊN TOÀ SƠ THẨM

Mục tiêu của bài học: Nội dung:


Chương này trang bị cho người học: 1. Kỹ năng chung trong việc
Về kiến thức, người học có được chuẩn bị cho phiên tòa sơ thẩm
những kiến thức cơ bản trong 1.1. Kiểm tra và sắp xếp lại hồ
việc chuẩn bị cho phiên tòa sơ sơ vụ án
thẩm tương ứng với từng chức 1.2. Kiểm tra việc triệu tập của
danh Thẩm phán, Kiểm sát viên Tòa án, giấy tờ chứng minh tư
và Luật sư. cách tham gia phiên toà
Về kỹ năng, cung cấp những kỹ 1.3. Dự liệu tình huống phát sinh
năng riêng biệt cho từng chức tại phiên toà
danh; kỹ năng nâng cao về 1.4. Nghiên cứu hồ sơ
xử lý một số trường hợp, tình
1.5. Chuẩn bị văn bản pháp luật
huống khi thực hiện các công
và điều kiện vật chất cần thiết
việc chuẩn bị. Chuẩn bị cho
phiên tòa sơ thẩm là một trong 2. Kỹ năng của Luật sư, Thẩm
những kỹ năng quan trọng phán, Kiểm sát viên chuẩn bị cho
giúp cho Luật sư, Thẩm phán, phiên tòa sơ thẩm
Kiểm sát viên thực hiện tốt các 2.1. Kỹ năng của Luật sư
công việc của mình tại phiên 2.2. Kỹ năng của Thẩm phán
tòa sơ thẩm. 2.3. Kỹ năng của Kiểm sát viên
Về thái độ, thông qua các tình 3. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
huống thực tế, người học có thể
nắm bắt, tự chuẩn bị, giải quyết
các tình huống xảy ra trên thực
tế, rút kinh nghiệm để từ đó có
thái độ, ý thức chuyên nghiệp
trong hành nghề sau này.

276
1. Kỹ năng chung trong việc chuẩn bị cho phiên tòa sơ thẩm
Phiên tòa sơ thẩm là một giai đoạn độc lập trong thủ tục tố tụng.
Tuy nhiên, giai đoạn này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì thể hiện rõ
nhất chức năng xét xử của Tòa án, chức năng kiểm sát hoạt động tố
tụng của Viện kiểm sát và nhiệm vụ tranh tụng của Luật sư. Thông qua
kết quả tranh tụng, phát biểu của Kiểm sát viên và bằng quá trình xét
xử tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhân danh Nhà nước công bố bản án,
quyết định để giải quyết tranh chấp, giải quyết yêu cầu của cá nhân, cơ
quan, tổ chức. Bản án sơ thẩm đúng pháp luật sẽ giải quyết đúng đắn
quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong tranh chấp, tạo được niềm
tin cho họ đối với pháp luật dù họ được kiện hay thua kiện, hạn chế sự
kháng cáo, kháng nghị. Trái lại, bản án sơ thẩm không đúng pháp luật
chẳng những làm giảm sút niềm tin của đương sự vào pháp luật mà còn
dễ bị kháng cáo, kháng nghị, từ đó vụ tranh chấp sẽ kéo dài. Ngoài ra,
chất lượng xét xử sơ thẩm cao hay thấp còn ảnh hưởng tới việc xét xử
ở cấp phúc thẩm theo chiều hướng thuận lợi hay khó khăn, ngắn gọn
hay kéo dài.
Để phiên toà sơ thẩm được diễn ra thuận lợi, chất lượng, đòi
hỏi Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư ở từng vị trí tố tụng của mình
không những phải nắm vững các quy định của BLTTDS về phiên tòa
dân sự sơ thẩm mà đòi hỏi Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư phải
có kỹ năng, phương pháp và kinh nghiệm. Muốn vậy, công tác chuẩn
bị cho sự tham gia phiên toà phải tốt. Thông qua việc chuẩn bị, Thẩm
phán, Kiểm sát viên, Luật sư sẽ chủ động hơn trong việc thực hiện
các kỹ năng nghiệp vụ theo tiến trình tố tụng do pháp luật quy định,
theo kịp và hạn chế sự bị động trước những diễn biến phát sinh tại
phiên toà.
Nội dung chuẩn bị nhằm kiểm tra cho việc mở phiên toà sơ thẩm
xét xử vụ án đã được thực hiện đầy đủ hay chưa; nếu có việc nào chưa
được thực hiện hoặc thực hiện chưa đầy đủ hoặc thực hiện chưa đúng
quy định của pháp luật tố tụng thì kịp thời sửa đổi, bổ sung, tránh việc
hoãn phiên toà vì những thiếu sót này.

277
Về nguyên tắc, ngay sau khi Toà án thụ lý vụ án, những chủ
thể có liên quan đều phải thực hiện các công việc, kỹ năng cần thiết
chuẩn bị cho phiên toà sơ thẩm. Trong phạm vi chương này, chúng
tôi muốn đề cập đến khoảng thời gian từ khi có quyết định đưa vụ án
ra xét xử đến khi mở phiên toà. Đây là khoảng thời gian quan trọng
mà người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng cần phải chuẩn
bị chu đáo cho phiên toà sắp diễn ra. Những công việc chuẩn bị cần
thiết cho phiên toà sơ thẩm gồm: (1) Kiểm tra và sắp xếp lại hồ sơ
vụ án, (2) Kiểm tra lại việc triệu tập những người tham gia phiên toà,
(3) Dự liệu tình huống phát sinh tại phiên toà, (4) Nghiên cứu hồ
sơ, đánh giá những chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, xác định
lại nội dung trọng tâm, cụ thể cần phải giải quyết tại phiên tòa, (5)
Chuẩn bị các văn bản pháp luật cần thiết để giải quyết các vấn đề đặt
ra trong vụ án, (6) Xây dựng kế hoạch hỏi tại phiên toà và (7) Chuẩn
bị phần phát biểu tại phiên toà.
Trong các công việc chuẩn bị này, do đặc thù vị trí tố tụng khác
nhau, mục đích, yêu cầu kỹ năng nghề nghiệp của từng vị trí tố tụng
đối với công việc khác nhau nên nội dung xây dựng kế hoạch hỏi tại
phiên tòa và chuẩn bị phần phát biểu sẽ được trình bày chi tiết ở kỹ
năng riêng của từng chức danh.
1.1. Kiểm tra và sắp xếp lại hồ sơ vụ án
Hồ sơ vụ án bao gồm đơn khởi kiện, đơn yêu cầu phản tố, đơn
yêu cầu độc lập và toàn bộ tài liệu, chứng cứ của đương sự, người tham
gia tố tụng khác; tài liệu, chứng cứ do Toà án thu thập liên quan đến vụ
án; văn bản tố tụng của Toà án, Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án.
Giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án là một giai đoạn tương đối dài.
Trong khoảng thời gian đó, Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư phải
tiến hành nhiều công việc, thực hiện nhiều kỹ năng nghề nghiệp. Trong
quá trình tác nghiệp đó, hồ sơ vụ án không phải lúc nào cũng ở một chỗ
mà nhiều khi Luật sư phải mang theo và phải sử dụng. Ngoài ra, có khi
hồ sơ vụ án còn phải chuyển cho Viện kiểm sát, Hội thẩm nhân dân
nghiên cứu trước. Thứ tự bút lục có thể sẽ bị đảo lộn. Do đó, để có thể

278
đảm bảo giải quyết vụ án đúng pháp luật, có căn cứ, đảm bảo quyền và
lợi ích hợp pháp của các bên trong vụ việc, trước khi ra phiên toà, cần
phải kiểm tra lại các bút lục có trong hồ sơ vụ án, đặc biệt là những bút
lục quan trọng. Việc sắp xếp lại hồ sơ vụ án theo một thứ tự hợp lý để
khi cần ở phiên tòa có thể lấy được ngay.
Ở mỗi vị trí tố tụng khác nhau, muốn nghiên cứu hồ sơ hoặc
khai thác, sử dụng hồ sơ đạt hiệu quả cao, tiết kiệm được thời gian,
giúp cho việc xem xét, ghi nhớ, phân tích, đánh giá các tài liệu đó
được khách quan, thuận lợi thì phải sắp xếp hồ sơ theo một trật tự
nhất định là rất cần thiết. Đặc biệt vụ án có nhiều đương sự, nhiều
người làm chứng và họ có nhiều lời khai khác nhau; có nhiều văn
bản yêu cầu và kết luận giám định, nhiều văn bản ghi kết quả những
lần định giá, thẩm định giá, nhiều văn bản xem xét thẩm định tại chỗ
trong những thời điểm khác nhau… Hồ sơ có hàng trăm bút lục thì
việc sắp xếp hồ sơ khoa học, có đánh số bút lục trước khi nghiên cứu
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình quản lý, sử dụng và
công tác lưu trữ, khai thác sau đó. Dù việc sắp xếp hồ sơ có ý nghĩa
thực tiễn rất cao, nhưng không phải ai cũng có ý thức quan tâm đầy
đủ về vấn đề này, đây là vấn đề mà chúng ta cần quan tâm lưu ý rút
kinh nghiệm.
Một hồ sơ vụ án dân sự hoàn chỉnh phải đầy đủ các tài liệu mà
theo quy định của BLTTDS, các cơ quan tiến hành tố tụng phải thu
thập và được lưu trong hồ sơ vụ án. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân,
trên thực tiễn xét xử có những vụ án mà trong đó nhiều tài liệu cần
thiết cho việc xác định sự thật vụ án không được thu thập; có tài liệu
được thu thập không đúng quy định của BLTTDS hoặc không có giá
trị pháp luật chứng minh như bản photocopy không có xác nhận sao y
bản chính, hoặc có xác nhận nhưng người xác nhận lại không có thẩm
quyền xác nhận (ví dụ, các cơ sở đào tạo không có quyền sao y bản
chính các bằng đại học mà phải là cấp bản sao từ sổ gốc các bằng đại
học của sinh viên) có tài liệu không phản ánh sự thật khách quan về
các tình tiết có liên quan đến vụ án; có tài liệu của nước ngoài nhưng
không được dịch ra tiếng Việt.

279
Mỗi người, mỗi vị trí tố tụng có cách sắp xếp hồ sơ khác nhau,
nhưng kinh nghiệm thực tế đã chỉ ra rằng các bút lục nên được sắp
xếp theo các tệp khác nhau để thể hiện về yêu cầu khởi kiện, về
quan hệ pháp luật xác lập giữa các bên, về tư cách đương sự, về quá
trình giải quyết tranh chấp và quan điểm của các bên, về văn bản
tố tụng được ban hành trong quá trình giải quyết tranh chấp trước
đó tại toà.
Đối với từng tệp, việc sắp xếp hồ sơ nên theo thứ tự thời gian
ngược hoặc xuôi theo chiều kim đồng hồ để làm sao thuận tiện nhất
cho việc nắm bắt được diễn biến tình tiết, sự kiện của vụ việc và thuận
tiện trong việc dẫn chiếu sử dụng sau này tại phiên toà.
Chẳng hạn đối với tệp các văn bản tố tụng, nên chia ra nhiều tập
nhỏ là tập các giấy báo, giấy triệu tập đương sự, nhân chứng, quyết
định đưa vụ án ra xét xử, tập các văn bản, biên bản giao nhận, quyết
định trưng cầu giám định, định giá...
Đối với tệp các tài liệu, các nguồn chứng cứ do đương sự giao
nộp hay do Tòa án trực tiếp thu thập, nếu vụ án có nhiều đương sự, có
nhiều lời khai của người làm chứng, có nhiều biên bản định giá, nhiều
kết luận giám định, nhiều tài liệu khác do đương sự, cơ quan, tổ chức,
cá nhân cung cấp cho Tòa án... thì chia ra nhiều tập nhỏ gồm:
- Tập lời khai của nguyên đơn;
- Tập lời khai của bị đơn;
- Tập lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
- Tập lời khai của người làm chứng;
- Tập các biên bản định giá;
- Tập các biên bản kết luận giám định;
- Tập các tài liệu, chứng cứ khác.
Mỗi nguyên đơn, mỗi bị đơn, mỗi người làm chứng (có nhiều lời
khai) thì sắp xếp vào một tập và luôn luôn xếp theo thứ tự thời gian.

280
Khi sắp xếp các tài liệu phải kiểm tra đã đánh số bút lục và có
danh mục tài liệu chưa? Nếu hồ sơ chưa được đánh số bút lục, chưa có
danh mục tài liệu thì phải kịp thời bổ sung. Nếu hồ sơ đã được đánh số
bút lục, đã có danh mục tài liệu thì phải kiểm tra xem tài liệu có trong
hồ sơ có phù hợp với danh mục tài liệu không, nếu thiếu thì thiếu bút
lục nào, phải tìm hiểu nguyên nhân và kịp thời khắc phục.
Ngoài ra, trong quá trình sắp xếp hồ sơ, chúng ta cũng cần phải
đánh dấu ngay những bút lục, hoặc những nội dung trong bút lục đã thể
hiện sự thống nhất về tình tiết, sự kiện của các bên và đánh dấu những
bút lục, nội dung trong bút lục thể hiện những tình tiết, sự kiện mà các
bên không thống nhất, còn đang mâu thuẫn để sau này thuận tiện trong
việc viện dẫn, trình bày bảo vệ tại phiên toà.
1.2. Kiểm tra việc triệu tập của Tòa án, giấy tờ chứng minh tư
cách tham gia phiên toà
Đây là công việc không lớn nhưng lại có ý nghĩa trong chuẩn bị
tham gia phiên tòa, nhất là đối với chức danh Thẩm phán và Luật sư.
Thực tiễn xét xử đã chỉ ra rằng nhiều vụ việc, Thẩm phán đã bị hủy án
do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng bởi lý do triệu tập đương sự
không hợp lệ. Theo quy định của BLTTDS, nếu việc triệu tập là không
hợp lệ thì Tòa án không thể ra các quyết định như hoãn phiên tòa hay
xét xử vắng mặt. Thông thường, thủ tục triệu tập những người tham
gia phiên tòa do các Thư ký Tòa án đảm nhiệm. Do đó, trước khi mở
phiên tòa, Thẩm phán cần phải kiểm tra lại việc triệu tập những người
tham gia phiên tòa xem việc triệu tập đã đúng và đủ những người tham
gia tố tụng chưa và có đúng quy định của BLTTDS không.
Đối với Luật sư, sau khi nhận được Giấy triệu tập tham gia phiên
tòa, Luật sư cần căn cứ vào việc triệu tập của Tòa án để xác định xem
việc triệu tập của Tòa án đã đúng và đủ chưa. Nếu thiếu thì cần có văn
bản đề nghị triệu tập cho đúng và đủ thành phần tham gia phiên tòa.
Bên cạnh đó, cũng cần phải chuẩn bị những giấy tờ cần thiết của mình
để tham gia phiên tòa như thẻ Luật sư hoặc Giấy ủy quyền, Chứng
minh thư nhân dân/Căn cước công dân. Thực tiễn đã xảy ra nhiều

281
trường hợp tại phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, khi xuất trình các giấy
tờ cần thiết để tham gia phiên tòa thì Luật sư lại để quên các giấy tờ
đó, ảnh hưởng đến việc bảo vệ quyền lợi cho đương sự.
1.3. Dự liệu tình huống phát sinh tại phiên toà
Trước khi phiên toà được mở, Luật sư, Thẩm phán và Kiểm sát
viên cần phải dự liệu được những tình huống phát sinh có thể xảy ra
tại phiên toà. Nếu không dự liệu được các tình huống diễn ra tại phiên
toà thì sẽ không chủ động trong việc điều hành, xử lý tình huống. Thực
tế cho thấy, nhiều trường hợp không biết cách xử lý như thế nào cho
đúng quy định pháp luật. Những tình huống này có thể phát sinh từ
người tham gia tố tụng hoặc từ những người tiến hành tố tụng. Việc dự
liệu tốt tình huống sẽ giúp cho Luật sư có sự chủ động chuẩn bị ứng
phó khi có tình tiết phát sinh hoặc nhiều khi sẽ giảm bớt chi phí, thời
gian cho mình.
Tình huống phát sinh tại phiên toà có thể là những tình huống
gây cho phiên toà một số trở ngại nhất định khi tiến hành xét xử như
liên quan đến việc đảm bảo sự an toàn cho những người tiến hành tố
tụng, người tham gia tố tụng gây mất trật tự, an toàn trong xét xử hoặc
là những tình huống phát sinh liên quan đến hoạt động xét xử như các
tình huống tố tụng và tình huống liên quan đến nội dung giải quyết vụ
án. Tình huống có thể là:
+ Về sức khỏe của đương sự và của chính bản thân Luật sư,
Thẩm phán, Kiểm sát viên và những người tham dự phiên tòa khi tham
gia tố tụng nên cần đề xuất bố trí nhân viên y tế. Ngoài ra, tuỳ thuộc
vào bản chất từng vụ án, đặc điểm đương sự để có thể dự liệu những
tình huống có thể xảy ra đối với bản thân Luật sư, Thẩm phán, Kiểm
sát viên và những người tham dự phiên tòa. Chẳng hạn, các vụ án tranh
chấp về đòi nợ mà một bên đương sự là những người cho vay nặng lãi,
thành phần xã hội, hoặc có khi đương sự huy động người nhà đến uy
hiếp tinh thần hoặc có hành động tác động đến thân thể của Luật sư,
Thẩm phán, Kiểm sát viên cũng như những người tham dự phiên tòa…
+ Cần công bố tài liệu, lời khai: Chuẩn bị máy chiếu, màn hình...

282
+ Có người gây mất trật tự: Chuẩn bị nhân viên bảo vệ phiên tòa
hoặc cảnh sát tư pháp hoặc kết hợp nhân viên bảo vệ phiên tòa với
Cảnh sát tư pháp.
+ Có phóng viên báo chí truyền hình: Tìm hiểu Luật Báo chí để
Tòa án và phóng viên cùng thực hiện theo Luật Báo chí, BLTTDS.
+ Tình huống vắng mặt đương sự, người làm chứng, người phiên
dịch... Thông thường, ở lần triệu tập thứ nhất, phiên toà nhiều khả
năng sẽ bị hoãn bởi sự vắng mặt của bị đơn. Vì thế, nếu là Luật sư bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn thì Luật sư cần phải chú
ý để tránh trường hợp mất thời gian, chi phí khi đến phiên toà nhất là
khi ở xa nơi xét xử.
+ Tình huống có thể xin thay đổi người tiến hành tố tụng như
thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân hay Kiểm sát viên.
Ví dụ 1: Ví dụ 2:
Tại phiên toà xét xử vụ án tranh Sáng 20/6/2016, TAND quận NK,
chấp quyền sử dụng đất diễn ra TP C.T đã hoãn phiên tòa xét xử vụ
tại TAND TP Đ.N, đương sự Đại học C.T kiện bà Vũ Thị N để đòi
đã đề nghị thay đổi Thẩm phán bồi thường gần 600 triệu tiền chi phí
Y vì lý do “non” tay nghề, yếu đào tạo do chấm dứt hợp đồng làm
kém kinh nghiệm và kiến thức việc.
chuyên môn, không đảm bảo Được biết, phiên tòa bị hoãn do bên
tính khách quan trong xét xử nguyên đơn, người đại diện cho Đại
thông qua thông tin biết được học C.T bận đi công tác mặc dù đây
Thẩm phán này ngồi ghế chủ là lần triệu tập xét xử thứ hai. Bà N
tọa đã có nhiều vụ án bị Tòa cho biết, bà đang mệt mỏi và căng
án cấp trên hủy án nên đề nghị thẳng vì nhà trường là bên khởi kiện,
hoãn phiên tòa để bố trí thay đổi nhưng 2 lần Tòa án triệu tập thì đại
Thẩm phán khác. diện Đại học C.T đều vắng mặt.

Trong số các tình huống có thể xảy ra tại phiên toà, tình huống
vắng mặt đương sự, người đại diện đương sự hay đề nghị thay đổi
Thẩm phán với lý do Thẩm phán “có thể không vô tư trong khi làm
nhiệm vụ” hay xảy ra nhất. Biểu hiện cụ thể của sự không vô tư, khách

283
quan có thể là Thẩm phán, Hội thẩm với một bên đương sự từng có
mối quan hệ qua lại, gặp gỡ, bạn bè... Tuy nhiên, với lý do này, đương
sự phải đưa ra được chứng cứ rõ ràng để chứng minh. Chứng cứ ở đây
có thể là băng, đĩa ghi âm, ghi hình, ảnh chụp… ghi lại những cuộc hội
thoại, gặp gỡ, ăn nhậu… để chứng minh giữa Thẩm phán, Hội thẩm
và đương sự có mối quan hệ qua lại. Hoặc băng, đĩa ghi âm, ghi hình
thể hiện những lời nói, hành động cụ thể mà trước đó trong quá trình
giải quyết vụ việc, Thẩm phán tỏ rõ sự không vô tư, khách quan… Nếu
đương sự không đưa ra được chứng cứ chứng minh thì sẽ không được
Chánh án (trong giai đoạn chuẩn bị xét xử) hay Hội đồng xét xử (tại
phiên tòa) chấp nhận.
Sự không vô tư, khách quan của Thẩm phán, Hội thẩm khi làm
nhiệm vụ còn có thể biểu hiện như giữa Thẩm phán, Hội thẩm với
người đề nghị thay đổi Thẩm phán có mâu thuẫn cá nhân gay gắt
ngoài xã hội. Tuy nhiên, điều quan trọng vẫn là đương sự phải đưa
ra được chứng cứ chứng minh để tòa đánh giá, xem xét. Trong quá
trình chuẩn bị xét xử, thông qua các buổi lấy lời khai, đối chất, hoà
giải, và qua việc tiếp xúc, làm việc với Thẩm phán, Luật sư đã có thể
nắm bắt được một số nội dung về định hướng xét xử, quan điểm của
Thẩm phán về việc giải quyết vụ án. Vì thế, nếu có những tình tiết
thể hiện sự không vô tư, khách quan trong việc giải quyết vụ án của
Thẩm phán, Luật sư cần dự liệu, đánh giá để có thể có những biện
pháp khẩn cấp như khiếu nại về hành vi vi phạm không vô tư, khách
quan của Thẩm phán.
Do vậy, để dự liệu chính xác tình huống phát sinh tại phiên toà,
ngay trong quá trình giải quyết vụ việc hoặc thông qua hoạt động
nghiên cứu hồ sơ cần cân nhắc, nghiên cứu đặc điểm tâm sinh lý, tính
cách, hoàn cảnh cuộc sống, điều kiện kinh tế, thành phần bản thân của
các đương sự.
Ngoài ra, dựa trên những nhận định, đánh giá của mình về các
đương sự trong quá trình chuẩn bị xét xử, căn cứ vào quy định pháp
luật tố tụng như lần triệu tập đương sự tham gia phiên toà, đơn yêu cầu

284
của đương sự, cần dự liệu những tình huống tố tụng nảy sinh. Phần lớn
các vụ án dân sự đều phải hoãn phiên toà ở lần triệu tập thứ nhất. Hoặc
có khi tại phiên toà, có khả năng đương sự sẽ rút bớt một phần hoặc
toàn bộ yêu cầu khởi kiện, hoặc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện.
Lúc đó, Thẩm phán cần dự liệu để xác định sẽ ra quyết định theo quy
định của pháp luật tố tụng.
1.4. Nghiên cứu lại hồ sơ
Nghiên cứu hồ sơ vụ án là quá trình xem xét, đối chiếu, phân tích
các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để xác định các vấn đề cần
phải xử lý tiếp. Nghiên cứu hồ sơ vụ án đồng thời cũng là quá trình
đánh giá các tài liệu, chứng cứ đó trong mối quan hệ biện chứng nhằm
xâu chuỗi các tình tiết, sự kiện được ghi nhận trong các tài liệu, để xác
định bản chất của sự việc, từ đó đề ra hướng giải quyết phù hợp.
Nghiên cứu hồ sơ vụ án là công việc được tiến hành thường
xuyên, gắn liền với quá trình xây dựng hồ sơ vụ án. Tùy thuộc
vào điều kiện về thời gian, về mức độ phức tạp của vụ án và kinh
nghiệm cá nhân, mà mỗi người có phương pháp nghiên cứu hồ sơ
vụ án khác nhau. Tại cấp sơ thẩm, việc nghiên cứu hồ sơ vụ án cần
phải tiến hành cả hai bước là nghiên cứu thường xuyên và nghiên
cứu tổng hợp.
Từ sau khi thụ lý vụ án, hồ sơ vụ án thường xuyên được bổ sung
tài liệu, chứng cứ do Tòa án tự thu thập, xác minh hoặc do đương sự,
cơ quan, tổ chức, cá nhân giao nộp cho Tòa án. Hồ sơ vụ án được xây
dựng đến đâu, tùy từng vị trí tố tụng, Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát
viên nghiên cứu đến đó, để vừa bổ sung, hoàn chỉnh tài liệu tổng hợp
nội dung nghiên cứu, đồng thời xác định được nội dung, yêu cầu của
hoạt động tố tụng tiếp theo.
Ngược lại, trong việc chuẩn bị cho việc mở phiên tòa, Luật sư,
Thẩm phán, Kiểm sát viên lại phải tiến hành nghiên cứu tổng hợp toàn
bộ hồ sơ vụ án. Những tài liệu, chứng cứ đã được nghiên cứu trước đó,
cũng cần phải được kiểm tra lại, đồng thời đánh giá tổng hợp với các
chứng cứ mới thu thập được để hoàn chỉnh kết quả nghiên cứu.

285
Nghiên cứu tổng hợp hồ sơ vụ án là cơ sở để xây dựng phương án
hòa giải hoặc để xây dựng kế hoạch hỏi, kế hoạch tranh tụng, kế hoạch
điều khiển phiên tòa, chuẩn bị dự thảo bản án của Thẩm phán hoặc bản
luận cứ bảo vệ quyền lợi cho khách hàng của Luật sư, bài phát biểu
về việc tuân theo pháp luật tố tụng của những người tiến hành tố tụng,
tham gia tố tụng và về việc giải quyết vụ án của Kiểm sát viên. Do đó,
kết quả nghiên cứu tổng hợp phải được ghi chép đầy đủ. Phương pháp
tổng hợp và cách ghi chép của mỗi người có thể khác nhau, nhưng về
nội dung, kết quả nghiên cứu hồ sơ vụ án phải thể hiện được chính xác
và đầy đủ: đương sự của vụ án, loại quan hệ tranh chấp, diễn biến nội
dung tranh chấp, yêu cầu khởi kiện; những vấn đề đã có đủ cơ sở để kết
luận, và những vấn đề cần phải làm rõ tại phiên tòa. Đối với những vấn
đề đã có đủ cơ sở để kết luận, thì phải chỉ ra được là kết luận dựa trên
những chứng cứ và căn cứ pháp lý nào. Những vấn đề cần phải tiếp
tục làm rõ là gì, biện pháp thực hiện là gì (bằng việc yêu cầu đương
sự giao nộp bổ sung chứng cứ, hay yêu cầu cơ quan, cá nhân, tổ chức
cung cấp chứng cứ, hay thông qua tranh tụng tại phiên tòa…).
Thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa án đã chỉ ra rằng
có nhiều trường hợp do chủ quan là đã nghiên cứu hồ sơ kỹ rồi, không
cần xem lại, trong khi thực chất là nghiên cứu hồ sơ vụ án không kỹ
đã dẫn đến việc ra phiên tòa lúng túng, không biết trình bày các tình
tiết, sự kiện, trình bày thiếu, thừa, không đúng trọng tâm các tình tiết,
sự kiện của vụ án, không trích xuất được các tài liệu, chứng cứ chứng
minh cần thiết hoặc xử lý sai các tình huống,... Có trường hợp trong
quá trình chuẩn bị xét xử, nguyên đơn đã vắng mặt 01 lần không có lý
do, ra phiên tòa triệu tập lần đầu lại vắng mặt không có lý do. Trường
hợp này, đáng lẽ Tòa án phải ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án
nhưng lại ra quyết định hoãn phiên tòa là không đúng với quy định của
BLTTDS.
Có không ít trường hợp đọc hồ sơ vụ án rất kỹ nhưng người đọc
lại thiếu khả năng phân tích, tổng hợp nên không nắm được đầy đủ
các tình tiết của vụ án, dẫn đến không bảo vệ được quyền lợi chính
đáng, phù hợp với quy định pháp luật của đương sự. Có trường hợp

286
khi nghiên cứu hồ sơ vụ án đã không thể hiện tính khách quan mà chỉ
chú tâm nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ mặc định của mình mà bỏ
qua các tài liệu khác nên nhiều vụ án bị huỷ, bị sửa hoặc bị xét lại theo
thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm chỉ vì Thẩm phán chủ tọa phiên toà
nghiên cứu hồ sơ vụ án chưa kỹ.
1.5. Chuẩn bị văn bản pháp luật và điều kiện vật chất cần thiết
Ngoài khả năng lập luận, khả năng khai thác và phân tích chứng
cứ thì việc đưa ra được các văn bản pháp luật phù hợp, đầy đủ là nội
dung không thể thiếu tại phiên toà. Việc viện dẫn các văn bản pháp luật
sẽ củng cố lòng tin của người nghe về nội dung.
Khi giải quyết một vụ kiện dân sự thường phải áp dụng nhiều văn
bản pháp luật khác nhau, thậm chí của nhiều ngành luật khác nhau. Do
đó việc chuẩn bị sẵn các văn bản pháp luật sẽ giúp cho Luật sư, Thẩm
phán, Kiểm sát viên chủ động khi cần viện dẫn văn bản. Các văn bản
pháp luật cần chuẩn bị bao gồm cả văn bản pháp luật về nội dung và
văn bản pháp luật về tố tụng, không chỉ dừng lại ở điều luật mà cần
thiết phải ở những văn bản hướng dẫn, cần áp dụng và hướng giải
quyết từng quan hệ pháp luật trong vụ án.
Việc chuẩn bị văn bản không nên chỉ dừng lại ở việc nêu tên văn
bản mà tuỳ theo yêu cầu của nội dung tranh luận, trong những trường
hợp cần thiết nên trích dẫn hoặc nêu nội dung cụ thể. Hiện nay, pháp
luật Việt Nam đã thừa nhận án lệ là một nguồn để xét xử. Do đó, ngoài
việc chuẩn bị các văn bản pháp luật, chúng ta còn cần phải chuẩn bị
những án lệ được HĐTP TANDTC công bố hàng năm nếu án lệ này có
thể được sử dụng để giải quyết vụ án.
Chẳng hạn, trong giải quyết vụ án lao động, ngoài các quy định
chung về tố tụng, các văn bản pháp luật, tài liệu cần chuẩn bị cơ bản
bao gồm: Bộ luật Lao động, các nghị định, các thông tư của Bộ Lao
động - Thương binh và xã hội và các cơ quan hữu quan hướng dẫn về
vấn đề đang tranh chấp, các thỏa thuận giữa các bên và các quy định
nội bộ của đơn vị (nếu có)... Ngoài những tài liệu trực tiếp liên quan
đến việc giải quyết vấn đề tranh chấp, tùy theo từng vụ việc và yêu

287
cầu cụ thể của đương sự mà còn cần thiết chuẩn bị các tài liệu khác
như các hướng dẫn về tiền lương để làm căn cứ bồi thường, giấy chấm
công để xác định thời gian nghỉ việc, giấy khám, điều trị bệnh để
chứng minh lý do nghỉ việc... Đặc biệt là các văn bản pháp luật, Luật
sư phải nắm được các quy định cụ thể trong mối tương quan với cả hệ
thống để chuẩn bị hướng bảo vệ quyền lợi cho khách hàng và dự liệu
để giải quyết những vấn đề phát sinh, nếu có. Các điều luật làm cơ sở
giải quyết tranh chấp của vụ án cụ thể phải được đánh dấu để tiện trích
dẫn. Các tài liệu khác cần có sự sắp xếp theo một logic nhất định, ví
dụ: các quy định của đơn vị, các thỏa thuận giữa các bên, các tài liệu
liên quan đến căn cứ, sa thải...
Ngoài ra, để có thể giải quyết vụ việc, nhất thiết phải có những
điều kiện vật chất nhất định. Đây là vấn đề tưởng đơn giản nhưng
lại rất quan trọng, nhiều phiên toà do việc chuẩn bị không tốt nên đã
không đạt kết quả, thậm chí phải hoãn phiên toà. Trong thực tế, nhiều
trường hợp đã không quan tâm đến điều kiện vật chất cho phiên tòa,
không quan tâm đúng mức cho công tác chuẩn bị này dẫn đến ảnh
hưởng đến phiên tòa.
Do điều kiện về cơ sở vật chất của Toà án nước ta hiện nay còn
thiếu thốn, nhiều phòng xét xử của Toà án không đủ sức chứa, có phiên
toà có tới hàng trăm người đến dự, có sự tham gia của các phương tiện
thông tin truyền thông thì việc chuẩn bị điều kiện vật chất lại càng
phải chu đáo hơn. Nếu dự kiến người đến dự phiên toà đông và phiên
toà kéo dài nhiều ngày thì phải chuẩn bị hệ thống âm thanh để những
người không được vào phòng xét xử cũng theo dõi được phiên toà, nếu
có điều kiện thì có thể dùng màn hình. Trong phòng xét xử cũng cần hệ
thống âm thanh, chỗ ngồi cho đương sự, Luật sư, người làm chứng và
những người tham gia tố tụng khác sao cho hợp lý.
Đối với Luật sư, mặc dù không phải lo chuẩn bị điều kiện vật
chất của phòng xử nhưng cũng phải chú ý đến các điều kiện vật chất
để tới tham dự phiên tòa (máy tính, máy chiếu, máy in tại phiên xử,...)
nhất là các phiên tòa được mở ở xa nơi mình ở, làm việc. Trong trường

288
hợp phải tham dự phiên tòa ở các tỉnh khác, có địa điểm xa thì cần
phải tính toán khoảng cách để sử dụng phương tiện đi lại thuận lợi có
thời gian, thời điểm phù hợp, tránh trường hợp không thể đến hoặc đến
muộn phiên tòa.
2. Kỹ năng của Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên chuẩn bị
cho phiên tòa sơ thẩm
2.1. Kỹ năng của Luật sư
2.1.1. Dự thảo bản trình bày tình tiết, sự kiện, yêu cầu khởi kiện
và chứng cứ để chứng minh của đương sự tại phiên tòa
Trình bày tình tiết, sự kiện, yêu cầu và chứng cứ để chứng minh
là công việc đầu tiên trong phần tranh tụng tại phiên toà mà Luật sư
phải thực hiện. Trên cơ sở những tình tiết, sự kiện đã được trình bày tại
phiên toà, Hội đồng xét xử mới tiến hành xác định và bản án phải căn
cứ vào những tài liệu, chứng cứ, tình tiết và sự kiện được đưa ra xem
xét tại phiên toà để phân tích, đánh giá, nhận định đầy đủ, khách quan
về các tình tiết của vụ án.
Cần lưu ý rằng không phải tất cả các tình tiết, sự kiện có trong
hồ sơ vụ việc đều phải được trình bày tại phiên toà mà chỉ những tình
tiết có giá trị để giải quyết vụ án mới cần trình bày. Những tình tiết có
giá trị để giải quyết vụ án là những tình tiết mà Hội đồng xét xử phải
phân tích, đánh giá trên cơ sở chứng cứ và đối chiếu với các quy định
của pháp luật để chấp nhận hay không chấp nhận những yêu cầu của
đương sự. Yêu cầu đặt ra là Luật sư phải xác định đúng và đầy đủ các
tình tiết có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án.
Để xác định những tình tiết có giá trị giải quyết vụ án phải xuất
phát từ những yêu cầu của các đương sự, những quy định của pháp luật
điều chỉnh quan hệ đang tranh chấp từ đó Luật sư sẽ lựa chọn ra những
tình tiết có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án. Chẳng hạn, đối với vụ
án ly hôn thì những tình tiết sau đây được xem là những tình tiết có ý
nghĩa quyết định đến việc có chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu
xin ly hôn:

289
- Kết hôn có tự nguyện hay bị ép buộc;
- Có đăng ký kết hôn không;
- Thời gian chung sống với nhau;
- Thời điểm mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn;
- Mức độ mâu thuẫn giữa vợ chồng: hàng ngày đối xử với nhau
như thế nào;
- Quan điểm của vợ chồng về lối sống, về công việc, về tình bạn…;
- Có con hay không có con.
Đối với vụ án yêu cầu đòi trả lại tiền từ hợp đồng vay tài sản thì
những tình tiết sau đây được xem là những tình tiết có ý nghĩa để giải
quyết vụ án.
- Những tình tiết nguyên đơn đưa ra để chứng minh cho bị đơn
vay tiền như:
+ Ngày, tháng, năm, cho vay tiền;
+ Hai bên giao kết hợp đồng bằng văn bản hay bằng miệng;
+ Số tiền vay, mức lãi;
+ Thời gian bị đơn phải trả nợ.
- Những tình tiết bị đơn đưa ra để phản bác hay chấp nhận như:
+ Thừa nhận có vay hay phản bác;
+ Số tiền đã nhận;
+ Đã trả hay chưa trả;
+ Ai biết việc đã trả.
Đối với vụ án tranh chấp về kỷ luật sa thải thì những tình tiết sau
đây được xem là những tình tiết có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án:
- Những tình tiết nguyên đơn (người lao động) đưa ra để chứng
minh quyết định sa thải của bị đơn (người sử dụng lao động) là không

290
đúng như: căn cứ sa thải không đúng, thủ tục sa thải không đúng (nêu
cụ thể lý do);
- Những ngày người lao động không được làm việc, mức lương
hàng tháng của người lao động;
- Những tình tiết bị đơn (người sử dụng lao động) đưa ra để
chứng minh quyết định kỷ luật sa thải của bị đơn là đúng (căn cứ sa
thải, thủ tục sa thải);
Để đảm bảo tính đầy đủ, Luật sư phải tổng hợp tất cả các tình tiết,
sự kiện của vụ việc nêu ra, trên cơ sở đó chọn ra những tình tiết có ý
nghĩa cho việc giải quyết vụ án, sắp xếp lại theo một trật tự logic để
trình bày tại phiên toà.
Khi chuẩn bị bản trình bày tình tiết, sự kiện và yêu cầu khởi kiện,
Luật sư cần lưu ý:
- Tránh việc sao chụp nguyên văn lời khai của đương sự, trong
đó có rất nhiều những tình tiết không liên quan đến việc giải quyết vụ
án, làm cho việc trình bày dài dòng, lủng củng, nhưng lại có những
tình tiết rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến việc chấp nhận hay
không chấp nhận yêu cầu của đương sự, mà đương sự hoặc Luật sư
của đương sự bổ sung tại phiên tòa thì lại không đưa vào. Luật sư phải
tổng hợp, chuyển hoá những suy nghĩ, trình bày của đương sự thành
cách thể hiện sao cho ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu.
- Thực tiễn chỉ ra rằng, nhiều trường hợp Luật sư thường nhầm
lẫn giữa việc trình bày tình tiết, yêu cầu, chứng cứ chứng minh với
trình bày quan điểm lập luận để bảo vệ yêu cầu của đương sự. Phần
trình bày tình tiết, sự kiện của Luật sư không nên đưa ra cách lập luận,
viện dẫn quy định pháp luật hoặc đánh giá yêu cầu của đương sự là
đúng hay không đúng pháp luật, có hay không có căn cứ.
- Các yêu cầu của đương sự phải được thể hiện rõ ràng và chi tiết.
Chẳng hạn nếu đương sự yêu cầu đòi bồi thường thì phải thể hiện rõ
khoản tiền yêu cầu bồi thường cụ thể là bao nhiêu, cách tính như thế
nào? Các yêu cầu của đương sự cũng phải rõ ràng, không được trình

291
bày vắn tắt, chung chung như đòi tiền lương do việc chấm dứt hợp
đồng lao động trái pháp luật từ khi chấm dứt đến khi xét xử sơ thẩm;
phải ghi rõ cụ thể là bao nhiêu ngày, mức tiền là bao nhiêu, tính như
thế nào. Việc ghi rõ từng yêu cầu sẽ đảm bảo được quyền tự định đoạt
của đương sự, thể hiện tính khách quan trong việc xét xử.
- Những tình tiết, sự kiện dùng để chứng minh phải rõ ràng và
đầy đủ trong đó đặc biệt lưu ý đến quy định tại Điều 92 BLTTDS 2015
về những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh.
- Theo thủ tục tố tụng, Luật sư phía nguyên đơn trình bày trước,
Luật sư phía bị đơn trình bày sau. Vì thế, khi bảo vệ quyền lợi cho phía
nguyên đơn, Luật sư cần phải chuẩn bị chi tiết, cụ thể các tình tiết, sự
kiện cần trình bày. Đối với Luật sư bảo vệ quyền lợi cho phía bị đơn,
khi trình bày tình tiết, sự kiện, chứng cứ, để tránh mất thời gian và
trùng lắp, nếu đồng ý với tình tiết, sự kiện hoặc chứng cứ nào do phía
nguyên đơn đưa ra thì xác nhận (ví dụ, tôi đồng ý với những tình tiết,
sự kiện... mà phía nguyên đơn trình bày). Đối với những tình tiết, sự
kiện, chứng cứ không đồng ý thì phía bị đơn mới trình bày tình tiết,
sự kiện bổ sung. Chẳng hạn, tôi không đồng ý với nguyên đơn về việc
nhận được quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động vào
ngày 16/9/2016. Thực tế, bị đơn nhận được quyết định này vào ngày
25/9/2016.
- Cần lưu ý liên quan đến phạm vi yêu cầu, tránh trường hợp
vượt quá giới hạn phạm vi khởi kiện ban đầu hoặc bỏ sót yêu cầu của
đương sự.
2.1.2. Dự thảo kế hoạch hỏi tại phiên toà
Hỏi là một thủ tục bắt buộc tại phiên toà sơ thẩm giải quyết vụ
án dân sự. Thông qua việc hỏi sẽ làm rõ được những tình tiết, sự kiện
hay những chứng cứ có giá trị nhằm giải quyết một cách khách quan,
chính xác, đúng pháp luật và có căn cứ vụ án. Theo quy định, Luật sư
nguyên đơn hỏi trước sau đó đến Luật sư bị đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan, người tham gia tố tụng khác, rồi đến Thẩm phán
chủ tọa phiên toà và cuối cùng là Kiểm sát viên tham gia phiên toà.

292
Thông qua việc hỏi tại phiên toà sẽ đánh giá được khả năng nắm
bắt nội dung vụ việc, thể hiện được trình độ, năng lực của Luật sư
khi tham gia giải quyết vụ án bảo vệ quyền lợi cho đương sự. Thực
tiễn hành nghề chỉ ra rằng nhiều trường hợp Luật sư chưa chú trọng
đến việc hỏi tại phiên toà nên các câu hỏi được đặt ra trong phiên toà
không mang lại hiệu quả, giá trị cao để bảo vệ quyền lợi cho đương sự
mà mình bảo vệ và đảm bảo việc giải quyết vụ án đúng đắn. Cần lưu
ý rằng, bản án chỉ được giải quyết trên cơ sở những tình tiết, sự kiện
được kiểm định tại phiên toà. Vì vậy, để tạo thế chủ động tại phiên
toà, hướng những người tiến hành xét xử, phía đối phương bị cuốn
vào hướng giải quyết vụ án của mình, Luật sư cần chuẩn bị chu đáo,
xây dựng dự thảo kế hoạch hỏi chi tiết, cụ thể. Dự thảo kế hoạch hỏi
tại phiên toà càng tốt bao nhiêu thì khả năng chủ động, bảo vệ tối đa
quyền lợi thân chủ của mình càng tốt bấy nhiêu.
Cần lưu ý rằng, tại phiên toà, chỉ được đặt câu hỏi về những tình
tiết, sự kiện hoặc những nội dung mà các bên còn đang tranh chấp,
chưa thống nhất, mâu thuẫn để làm rõ nội dung vụ án. Do đó, kế hoạch
hỏi phải dựa trên những vấn đề trọng tâm cần phải giải quyết trong
vụ án, căn cứ vào những tình tiết, sự kiện, nội dung mà các bên đang
tranh chấp, chưa thống nhất, mâu thuẫn được Thẩm phán xác định, kết
luận tại biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ và hoà giải.
Ngoài ra, khi đặt câu hỏi, Luật sư cần phải chú ý đến trách nhiệm
chứng minh của các bên trong vụ việc đối với vấn đề, nội dung, tình
tiết, sự kiện cần hỏi và trên cơ sở lợi ích của khách hàng mà mình bảo
vệ quyền lợi. Tùy theo vị trí tham gia tố tụng mà Luật sư cần xác định
vấn đề trọng tâm phù hợp nhất với lợi ích của khách hàng để xây dựng
kế hoạch hỏi. Từ vấn đề trọng tâm được xác định, Luật sư xác định
những vấn đề cần phải làm rõ tại phiên tòa. Việc làm rõ được thể hiện
thông qua thủ tục hỏi và thủ tục tranh luận tại phiên tòa.
Chẳng hạn, trong vụ án tranh chấp về xử lý kỷ luật bằng hình
thức sa thải, ngoài việc phải làm rõ quan hệ hợp đồng lao động, diễn

293
biến của quá trình thực hiện quan hệ lao động trước khi sa thải, phần
trọng tâm câu hỏi thường phải làm rõ căn cứ thực tế người sử dụng lao
động sa thải người lao động, người lao động có lỗi khi thực hiện hành
vi đó không, có họp xét kỷ luật không, thành phần tham gia phiên họp,
nếu người lao động không tham dự thì phải làm rõ lý do tại sao (có
được người sử dụng lao động báo không, hình thức, số lần báo, thời
điểm...), ý kiến của Ban Chấp hành công đoàn, các quyền lợi đã thanh
toán cho người lao động sau khi sa thải...
Việc xây dựng kế hoạch hỏi giúp Luật sư hỏi có trọng tâm, xác
định được những vấn đề cần làm rõ, không bỏ sót, không có những câu
hỏi thừa hoặc vô nghĩa, không bị lúng túng trước sự trả lời của người
bị hỏi. Tuỳ vào nội dung vụ án, các tình tiết được thể hiện trong hồ sơ,
Luật sư dự kiến những người cần hỏi, thứ tự hỏi, hỏi ai trước, ai sau;
Dự kiến cách đặt câu hỏi; nhất thiết những câu hỏi phải làm rõ các tình
tiết của vụ án sao cho có lợi cho khách hàng cần bảo vệ. Câu hỏi phải
rõ ràng, ngắn gọn, chính xác và không làm cho người được hỏi hiểu
theo nhiều nghĩa. Tránh việc đặt câu hỏi quá chung chung, dài dòng
hoặc không rõ đó là câu hỏi hay câu giải thích, vì hỏi như thế sẽ làm
cho người bị hỏi không biết phải trả lời như thế nào. Đồng thời, Luật
sư cũng tránh vừa hỏi vừa giải thích. Nếu muốn yêu cầu người bị hỏi
giải thích một số điểm trong lời khai, Luật sư chuẩn bị sẵn lời khai này,
đánh dấu những điểm cần hỏi để luôn luôn chủ động khi hỏi.
Kế hoạch hỏi có thể được xây dựng theo mẫu như sau:

Nội dung Ai? Như thế nào?


STT (Vấn đề cần hỏi/ (Nguyên đơn, Bị đơn, (Câu hỏi
Hỏi cái gì) NCQLNVLQ) cụ thể)
1.

2.

294
Việc đặt câu hỏi cho đương sự tại phiên toà là việc làm không
đơn giản. Trên thực tế, không hiếm những trường hợp câu hỏi của Luật
sư đưa ra không góp phần làm sáng tỏ được điều gì. Điều này dễ dẫn
đến tâm lý nhàm chán, sốt ruột cho người nghe.
Khi đặt câu hỏi nên tránh lặp lại những câu hỏi mà những người
tham gia tố tụng khác đã hỏi; không đặt câu hỏi lan man, không cụ thể,
không rõ ràng; câu hỏi không sát với nội dung của vụ kiện. Theo quy
định pháp luật, việc đặt câu hỏi phải rõ ràng, nghiêm túc, không trùng
lắp, không lợi dụng việc hỏi và trả lời để xâm phạm nhân phẩm của
những người tham gia tố tụng. Yêu cầu đặt câu hỏi phải sắc bén, ngắn
gọn, tập trung vào những vấn đề quan trọng của vụ án nhưng chưa
được làm rõ sao cho sự trả lời của người được hỏi sẽ có lợi nhất cho
người mà mình bảo vệ. Tránh đặt những câu hỏi quá dài, không đi vào
trọng tâm hoặc vừa đặt câu hỏi vừa phân tích, bình luận làm lẫn lộn với
phần tranh luận để chủ tọa phiên toà phải nhắc nhở.
Trong cách đặt câu hỏi, cần chú ý đến nguyên tắc 5C trong việc
đặt câu hỏi:

Concise
(Ngắn gọn)

Complete Courteous
(Đầy đủ, (Lịch sự,
hoàn chỉnh) nhã nhặn
5C
Correct
Clear
(Đúng,
(Rõ ràng)
không sai sót)

Tuỳ từng trường hợp có thể sử dụng những loại câu hỏi sau:
- Câu hỏi bổ sung lời khai: Mục đích sử dụng câu hỏi này để
làm rõ hơn về các tình tiết, sự kiện của vụ án đã được người tham gia

295
tố tụng khai báo tại phiên toà nhưng chưa rõ. Câu hỏi này được dùng
trong trường hợp thân chủ của mình đã trả lời câu hỏi của người tham
gia tố tụng khác như Luật sư bảo vệ quyền lợi cho đương sự đối lập
hoặc đương sự đối lập hỏi nhưng chưa làm rõ được các tình tiết của
vụ án có lợi cho họ. Nguyên nhân có thể do họ mất bình tĩnh mà khai
sai. Luật sư cần đặt câu hỏi để đương sự mà mình bảo vệ khai bổ sung
những điểm chưa rõ hoặc còn sót. Cũng có thể đặt câu hỏi này với
những người làm chứng hoặc những người tham gia tố tụng khác khi
thấy lời khai bổ sung của họ sẽ có lợi cho thân chủ của mình.
- Câu hỏi gợi mở: mục đích của câu hỏi này để phục hồi trí nhớ,
khơi dậy trong trí nhớ của người được hỏi mối liên tưởng về thời gian,
sự việc nhờ đó họ có thể khai báo được chính xác tình tiết, sự kiện của
vụ án. Luật sư dùng câu hỏi này để hỏi người làm chứng hoặc đương
sự, giúp họ có điều kiện nhớ lại thời gian, địa điểm, sự việc liên quan
đến vụ án nhưng bị lãng quên.
- Câu hỏi chỉ rõ sự mâu thuẫn: Câu hỏi này nhằm mục đích chỉ
ra sự mâu thuẫn, không logic, hợp lý trong lời khai của những người
có quyền lợi đối lập với thân chủ của mình hoặc của người làm chứng.
Câu hỏi này thường có hai phần. Phần một nêu những chứng cứ, tình
tiết, sự kiện đã được kiểm tra và xác định là đúng. Phần hai nêu nội
dung lời khai của người được hỏi có mâu thuẫn với các chứng cứ, tình
tiết, sự kiện đã đưa ra ở phần một và yêu cầu người này giải thích về
sự mâu thuẫn đó.
Đối với đương sự mà mình bảo vệ, Luật sư không nên đặt câu
hỏi phức tạp, câu hỏi mà trước đó chưa có sự trao đổi, thống nhất. Chỉ
nên đặt loại câu hỏi bổ sung lời khai, câu hỏi gợi mở hoặc câu hỏi đã
có sự trao đổi, thống nhất giữa Luật sư với người được bảo vệ. Tránh
tình trạng Luật sư đặt câu hỏi quá khó làm cho người được Luật sư bảo
vệ không biết trả lời thế nào hoặc trả lời lại không có lợi cho họ. Chú
ý khi đặt câu hỏi gợi mở không được gợi ý cho người được hỏi trả lời
mà chỉ nhằm giúp họ nhớ lại những gì đã biết nhưng do lâu ngày bị
lãng quên. Căn cứ vào diễn biến tại phiên toà, Luật sư có thể đưa ra

296
các yêu cầu cần thiết như đề nghị Hội đồng xét xử xem xét vật chứng,
hỏi những người có liên quan để làm rõ vật chứng; nếu thấy cần thiết
có thể đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tại chỗ những vật chứng không
thể đưa đến phiên toà được.
- Câu hỏi đánh giá: là loại câu hỏi thường nhằm đánh giá suy
nghĩ, thái độ của người trả lời: Ví dụ, “Anh (chị) cho biết tại sao anh
(chị) nuôi con lại tốt hơn?”
- Câu hỏi mở: Người nghe có thể trả lời tùy theo ý của mình.
Ví dụ, “Khi ly hôn, anh (chị) ai là người nuôi con?”
- Câu hỏi yêu cầu: Người hỏi yêu cầu người trả lời hướng
đúng vào vấn đề mà người hỏi quan tâm. Ví dụ, “Yêu cầu anh (chị)
nói rõ lý do vì sao anh (chị) có thái độ đối với vợ (chồng) của anh
(chị) như vậy?”
- Câu hỏi đóng: Dạng câu hỏi trả lời có hoặc không. Ví dụ, “Như
vậy, anh (chị) có thừa nhận là mình có thái độ cư xử quá mức không?”
- Câu hỏi tác động suy nghĩ (kiểu Socrates): Dạng câu hỏi để
người được hỏi tự suy nghĩ. Ví dụ, “Với thời gian hai mươi năm sống
hạnh phúc với nhau, anh (chị) suy nghĩ thế nào chỉ vì một mâu thuẫn
nhỏ mà đánh đổi tất cả chuỗi ngày hạnh phúc mà anh (chị) đã có?”
2.1.3. Dự liệu những vấn đề (nội dung) cần tranh luận
Trong một vụ kiện thường có nhiều vấn đề được đặt ra. Tuy
nhiên không phải nội dung nào cũng cần phải phân tích kỹ hoặc cần
phải tranh luận... Việc tập trung phân tích nội dung nào phụ thuộc vào
yêu cầu cụ thể của từng vụ kiện. Luật sư chỉ nên tập trung đi sâu phân
tích những nội dung mà các bên trong vụ kiện đang tranh chấp, vì đó
chính là những nội dung cần tranh luận nhiều. Không dành quá nhiều
công sức vào việc phân tích những nội dung mà các bên đã thống nhất
được với nhau về cách giải quyết.
Ví dụ, trong một vụ kiện ly hôn, hai vợ chồng thuận tình ly hôn,
họ chỉ tranh chấp về vấn đề tài sản. Trong trường hợp này, Luật sư chỉ
cần tập trung vào việc chuẩn bị cho những tranh luận để bảo vệ quyền

297
lợi vật chất cho khách hàng của mình mà không cần phải phân tích
nhiều về những mâu thuẫn vợ chồng nữa. Ngược lại, nếu đó là một vụ
đơn phương xin ly hôn thì lại cần chuẩn bị nhiều vào việc phân tích
tình trạng hôn nhân của đôi vợ chồng đó đã đến mức phải ly hôn hay
chưa, tuỳ theo Luật sư đang bảo vệ quyền lợi cho ai trong vụ kiện...
Những vấn đề cần tranh luận thường tập trung vào việc đánh giá
chứng cứ, hướng áp dụng pháp luật và các nguồn bổ trợ khác của pháp
luật như tập quán, án lệ… để giải quyết yêu cầu của các bên. Khi đã
xác định những nội dung cần tranh luận, Luật sư cần chuẩn bị những
tài liệu, chứng cứ phục vụ cho nội dung đó, các lập luận của Luật sư
cũng như những văn bản pháp luật dùng làm cơ sở cho đề xuất của
Luật sư.
2.1.4. Xây dựng phương án bảo vệ quyền lợi cho khách hàng
Trước khi phiên toà diễn ra, Luật sư cần phải dự liệu các tình
huống, tính toán điều kiện để chuẩn bị các phương án bảo vệ quyền lợi
cho khách hàng. Phương án tối ưu sẽ được ưu tiên lựa chọn. Phương
án bảo vệ quyền lợi cho khách hàng khác với phương án giải quyết vụ
án. Ngoài việc dựa trên cơ sở quy định pháp luật, tình tiết, sự kiện của
vụ việc để xác định phương án giải quyết vụ án, Luật sư cần cân nhắc
tính toán với đặc điểm tính cách của phía đối phương, với khả năng thi
hành án, năng lực thực hiện nghĩa vụ của các bên để xây dựng phương
án bảo vệ quyền lợi cho khách hàng một cách tốt nhất.
Phương án bảo vệ quyền lợi cho khách hàng có thể là phương
án về mặt tố tụng và phương án về mặt nội dung giải quyết vụ án. Đó
có thể là phương án hoà giải, phương án rút đơn kiện hoặc rút bớt yêu
cầu khởi kiện hoặc nhượng bộ một phần yêu cầu của nguyên đơn, hoặc
nhượng bộ về án phí hay chấp thuận để Toà án giải quyết vụ án theo
quy định của pháp luật trên cơ sở tình tiết, sự kiện, các tài liệu, chứng
cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên toà.
Để có thể xây dựng phương án bảo vệ quyền lợi của khách, cần
phải nắm được các tình tiết vụ án, diễn biến, nội dung tranh chấp,
nguyên nhân phát sinh tranh chấp, yêu cầu của các đương sự và các

298
quy định của pháp luật về vấn đề đang có tranh chấp, cách giải quyết
tranh chấp theo quan điểm của mỗi bên và mức độ thiện chí giữa họ...
2.1.5. Chuẩn bị bản luận cứ bảo vệ quyền lợi cho khách hàng tại
phiên toà
Bản luận cứ bảo vệ quyền lợi cho đương sự là văn bản pháp lý rất
quan trọng của vụ kiện. Một mặt, nó phản ánh quan điểm của Luật sư,
phản ánh tâm tư, nguyện vọng của khách hàng, thể hiện mong muốn
của cả Luật sư và thân chủ của mình thông qua các yêu cầu mà Luật
sư đề xuất. Mặt khác, nó là cơ sở giúp cho Hội đồng xét xử xem xét,
đánh giá để chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của đương sự và
thông qua bản luận cứ phản ánh khả năng của Luật sư trong việc khai
thác hồ sơ, khả năng phân tích, đánh giá chứng cứ cũng như biện luận,
trình độ, năng lực của Luật sư. Kết thúc phiên toà, Luật sư cần nộp cho
Toà án bản luận cứ bảo vệ quyền lợi cho khách hàng.
Bản luận cứ bảo vệ quyền lợi cho đương sự được Luật sư trình
bày tại thủ tục tranh luận của phiên tòa. Đây là một hoạt động trung
tâm của phiên tòa dân sự sơ thẩm. Mục đích của hoạt động tranh luận
tại phiên tòa là nhằm làm sáng tỏ thêm những tình tiết, sự kiện của vụ
án. Việc tranh luận của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự được diễn ra tại phiên tòa về những vấn đề mà các
đương sự chưa thống nhất hoặc còn mâu thuẫn. Những vấn đề mà các
bên đưa ra đã được bên kia thừa nhận và không phản đối thì không cần
phải tranh luận. Tranh luận tại phiên tòa còn thể hiện tính công khai,
minh bạch trong hoạt động xét xử của Tòa án. Các đương sự và Luật
sư có cơ hội để chứng minh cho các yêu cầu của mình bằng cách thể
hiện công khai việc đánh giá các chứng cứ, lý lẽ của mình tại phiên tòa.
Hội đồng xét xử phải chú ý lắng nghe các ý kiến, lập luận và đánh giá
chứng cứ của các bên cũng như đề xuất của họ trong việc giải quyết
vụ án.
Việc tranh luận, đối đáp của các bên trên cơ sở các tài liệu, chứng
cứ đã thu thập được và được xem xét, kiểm tra tại phiên tòa cũng như
kết quả của việc hỏi tại phiên tòa sẽ không bị hạn chế thời gian tranh

299
luận nhằm mục đích cho đương sự và những người tham gia tố tụng
khác có thời gian để trình bày hết các ý kiến của mình.
Để có thể tham gia tố tụng tại phiên toà được tốt, tạo sự chủ động
trong việc tham gia phiên toà thì sự chuẩn bị một bản luận cứ công phu
và kỹ lưỡng là việc làm hoàn toàn cần thiết trước khi mở phiên toà.
Nếu như bản án của Toà án, bài phát biểu của Kiểm sát viên tại
phiên toà có quy định cụ thể về hình thức và nội dung thì bản luận cứ
bảo vệ quyền lợi cho đương sự tại phiên toà của Luật sư không có quy
định cụ thể về hình thức, nội dung. Các Luật sư, Văn phòng Luật sư
hay Công ty luật khi tham gia phiên toà đều có các mẫu khác nhau về
bản luận cứ. Tuy nhiên, về cơ bản, bản luận cứ bảo vệ quyền lợi cho
đương sự tại phiên toà thường có cơ cấu gồm ba phần:
- Phần mở đầu: Phần này thường đơn giản. Nội dung chủ yếu
giới thiệu về bản thân Luật sư, văn phòng hoặc công ty luật mà Luật
sư đang hành nghề. Mặc dù trong phần thủ tục, về nguyên tắc thì Hội
đồng xét xử đã xác định được Luật sư nào bảo vệ quyền lợi cho đương
sự nào trong vụ kiện. Nhưng trước khi phát biểu quan điểm bảo vệ
quyền lợi cho thân chủ của mình, Luật sư vẫn nên khẳng định lại điều
này, đặc biệt là trong những vụ kiện có nhiều đương sự, có nhiều Luật
sư tham gia.
Phần mở đầu của bản luận cứ thường bắt đầu bằng câu “Kính
thưa Hội đồng xét xử!”. Việc giới thiệu về Luật sư nên ngắn gọn. Nội
dung thường là giới thiệu tên của Luật sư, Luật sư đang hành nghề tại
Văn phòng luật sư nào, thuộc Đoàn luật sư nào, tham gia phiên toà để
bảo vệ quyền lợi cho ai trong vụ kiện.
- Phần nội dung: Đây là phần quan trọng nhất của bản luận cứ.
Toàn bộ những nội dung tranh chấp, quan điểm và các chứng cứ, cơ sở
pháp ý cho quan điểm của Luật sư được thể hiện đầy đủ tại phần này.
Khi chuẩn bị bản luận cứ, cần chú ý rằng:
+ Khi nghiên cứu hồ sơ, phát hiện quá trình giải quyết vụ án có
vấn đề về mặt tố tụng như không đúng thẩm quyền, hết thời hiệu khởi

300
kiện, xác định sai tư cách đương sự hoặc có tình tiết, căn cứ để Toà án
phải ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, sai sót trong hoãn phiên
toà hoặc vi phạm của người tiến hành tố tụng thì phải đề cập trước
trong bản luận cứ.
+ Trong vụ việc có nhiều vấn đề tranh chấp, những vấn đề tranh
chấp quan trọng, là cơ bản, cốt yếu để giải quyết vụ việc thì nên
được trình bày trước, những vấn đề kém quan trọng hơn thì trình bày
lập luận sau. Chẳng hạn đối với vụ việc tranh chấp về đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động, xử lý kỷ luật lao động bằng hình thức
sa thải thì bản luận cứ nên phải lập luận về việc đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động, sa thải là đúng hay sai trước rồi sau đó mới
lập luận đến những yêu cầu khởi kiện đòi bồi thường các khoản thiệt
hại phát sinh từ việc đơn phương chấm dứt hợp đồng hay sa thải trái
hay không trái pháp luật. Đối với vụ việc tranh chấp hợp đồng mua
bán hàng hoá thì trước hết phải lập luận về hợp đồng mua bán hàng
hoá có hiệu lực hay vô hiệu, rồi sau đó với lập luận đến việc vi phạm
nghĩa vụ hợp đồng.
+ Trong từng vấn đề tranh chấp của vụ án, khi nhận định, phương
pháp lập luận có thể sử dụng phương pháp quy nạp hay diễn giải để
trình bày.
+ Đối với từng vấn đề tranh chấp, bản luận cứ cần phải khẳng
định rõ vấn đề đó là đúng hay trái quy định pháp luật, có hay không
có căn cứ.
+ Trong trường hợp mà các bên có cách hiểu quy định pháp luật
khác nhau về vấn đề tranh chấp, cần phải giải thích pháp luật hoặc
điều khoản thoả thuận trong hợp đồng thì bản luận cứ cũng cần phải
nêu cách hiểu, cách giải thích quy định trong hợp đồng, pháp luật
của mình.
- Phần kết luận: Đây là phần kết của bản luận cứ nhằm khẳng
định phương án bảo vệ quyền lợi cho khách hàng của mình nên nội
dung đưa ra nên rõ ràng, ngắn gọn, dứt khoát, tránh việc nói dài dòng,
không rõ ràng. Trên cơ sở đó, Hội đồng xét xử sẽ nghiên cứu, xem xét

301
để quyết định trong bản án. Để kết thúc phần tranh luận, Luật sư có thể
gửi đến Hội đồng xét xử lời cảm ơn của mình đối với Hội đồng xét xử.
Phần kết luận bao gồm hai nội dung chính: Khẳng định lại các
quan điểm (các kết luận) của mình thông qua quá trình phân tích,
chứng minh trong phần nội dung và đề xuất với Tòa án phương án giải
quyết nhằm thỏa mãn yêu cầu của đương sự. Phần kết luận phải được
trình bày rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu, đủ ý, tránh hiểu nhầm và phải có
căn cứ pháp luật. Không đề xuất chung chung như “đề nghị Tòa án
xử buộc bị đơn phải trả lại nhà, đất theo quy định của pháp luật hoặc
đề nghị Tòa án xét xử theo pháp luật nhằm bảo vệ lợi quyền lợi chính
đáng cho khách hàng của tôi…”.
Chú ý rằng bản luận cứ không nên đề cập, lặp lại nhiều lần về
một vấn đề và cần sử dụng văn phong pháp lý. Câu chữ phải ngắn gọn,
rõ nghĩa, nên sử dụng câu đơn, tránh sử dụng những từ ngữ mang tính
chất khoa trương, câu thần chú, câu trống rỗng, câu kiêu, câu kêu, câu
cảm thán... hoặc đưa thêm một số từ ngữ tiếng nước ngoài hoặc các
lời lẽ có tính chất thóa mạ, bôi nhọ, mạt sát người khác. Bản luận cứ
cũng phải thể hiện được đặc điểm, tính cách, quan điểm về nội dung
vụ việc, về yêu cầu của đương sự mình bảo vệ, phải hiểu được tâm lý
vùng miền, nơi sinh, nơi cư trú, tập quán của các bên đương sự.
2.2. Kỹ năng của Thẩm phán
Bất kỳ phiên tòa nào đều phải được tiến hành chặt chẽ theo đúng
những trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng quy định. Để một phiên
tòa đảm bảo trình tự, thủ tục tố tụng, tranh luận dân chủ, có căn cứ
pháp luật, đạt yêu cầu, có sức thuyết phục cao, đòi hỏi những người
tiến hành tố tụng mà trước hết là Thẩm phán chủ tọa phiên tòa không
chỉ có trình độ chuyên môn vững vàng, mà phải có kinh nghiệm điều
hành phiên tòa, xử lý tốt các tình huống xảy ra tại phiên tòa. Muốn vậy,
Thẩm phán lưu ý một số kỹ năng sau:
2.2.1. Công tác chuẩn bị cho việc mở phiên toà
Đối với người chủ trì, chủ tọa và điều hành phiên tòa, công tác

302
chuẩn bị có vai trò đặc biệt quan trọng. Nếu như làm tốt công tác chuẩn
bị cho việc mở phiên tòa sẽ tạo điều kiện để chủ tọa phiên tòa chủ động
điều hành phiên tòa theo đúng trình tự, thủ tục tố tụng quy định và tập
trung vào những vấn đề trọng tâm cần giải quyết của vụ án. Công tác
chuẩn bị xét xử là rất quan trọng, nếu chuẩn bị tốt, thì việc xét xử sẽ
đạt kết quả tốt.
Đối với một phiên toà dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động
hay hôn nhân gia đình, vai trò của Thẩm phán, chủ tọa phiên toà đặc
biệt quan trọng. Phiên toà diễn ra đúng hay không đúng quy định, đảm
bảo quyền tranh tụng của các bên, bảo đảm được công lý, quyền và lợi
ích hợp pháp của các bên hay không phụ thuộc lớn vào Thẩm phán bởi
Thẩm phán là người điều hành, điều khiển phiên toà.
Trong công tác chuẩn bị, Thẩm phán cần chú ý đến các công việc
sau đây:
- Theo dõi lịch xét xử, bố trí công việc để tham gia phiên tòa.
- Ấn định ngày mở phiên toà và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.
- Xác định các đối tượng cần phải triệu tập tham gia phiên toà sơ
thẩm và tống đạt hợp lệ quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm cho
các đối tượng đó? Kiểm tra xem việc triệu tập đã hợp lệ chưa, có bỏ
sót người tham gia tố tụng không? Cách thức tống đạt hợp lệ và xử lý
những tình huống nảy sinh trong thực tiễn như địa chỉ của đương sự
thay đổi, đương sự hoặc người làm chứng có biểu hiện không tham gia
phiên toà, có căn cứ để thay đổi người tiến hành tố tụng.
Sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm, Tòa án mở
phiên tòa theo thời gian, địa điểm đã quy định. Trên cơ sở đó, Tòa án
xác định đương sự cần được triệu tập đến phiên tòa để tiến hành các
thủ tục tống đạt hợp lệ giấy triệu tập phiên tòa đối với họ. Vì đương sự
là thành phần rất quan trọng trong vụ án dân sự nên đòi hỏi phiên tòa
diễn ra phải có mặt đầy đủ các đương sự trừ những trường hợp đương
sự có đơn đề nghị xét xử vắng mặt họ hoặc các trường hợp theo quy
định của pháp luật tố tụng dân sự thì phải hoãn phiên tòa.

303
- Chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát trong trường hợp Viện kiểm
sát tham gia phiên toà và chú ý kiểm tra bản dự thảo ý kiến của Viện
kiểm sát về việc thực hiện pháp luật của Tòa án và người tham gia
tố tụng.
Cùng với việc xác định và tiến hành các thủ tục tống đạt giấy
triệu tập đối với các đương sự và người tham gia tố tụng khác cần triệu
tập đến phiên tòa thì Thẩm phán phải chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát
cùng cấp nghiên cứu trong trường hợp Viện kiểm sát cùng cấp tham
gia phiên tòa theo quy định tại Điều 21 BLTTDS 2015. Những trường
hợp Kiểm sát viên tham gia phiên toà được xác định rõ tại mục 2.3 của
chương này. Thời hạn nghiên cứu hồ sơ vụ án dân sự của Viện kiểm
sát cùng cấp là 15 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án Viện kiểm
sát phải nghiên cứu và trả lại hồ sơ cho Tòa án.
- Mời Hội thẩm nhân dân và tạo điều kiện cho Hội thẩm nhân dân
nghiên cứu hồ sơ vụ án. Hội thẩm nhân dân nghiên cứu hồ sơ vụ án
dân sự sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Đây là thời điểm bắt
đầu phát sinh quyền, nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân. Trong giai đoạn
này đòi hỏi Hội thẩm nhân dân phải nghiên cứu hồ sơ một cách khách
quan, toàn diện và nhanh chóng, ghi chép những vấn đề trọng tâm cần
phải làm rõ tại phiên tòa.
- Giải quyết yêu cầu tiếp cận nghiên cứu hồ sơ vụ án của đương
sự, người đại diện cho đương sự tham gia tố tụng, người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp cho đương sự.
- Thẩm phán cần xây dựng một kế hoạch điều khiển tại phiên tòa
như khai mạc phiên tòa như thế nào, phần hỏi thì đặt câu hỏi ra sao,
trọng tâm là gì, điều hành tranh luận như thế nào, chuẩn bị các văn bản
pháp luật cần thiết để giải quyết các vấn đề đặt ra trong vụ án.
- Các công tác chuẩn bị khác như: Phòng xử án, chuẩn bị các văn
bản pháp luật, án lệ có thể phải sử dụng trong quá trình tiến hành phiên
toà, sắp xếp các bút lục trong hồ sơ vụ án để có thể dễ dàng tra cứu tại
phiên toà, dự kiến hướng xử lý một số tình huống có thể phát sinh tại
phiên toà.

304
Ngoài ra, để xử lý tốt các tình huống xảy ra tại phiên tòa, trước
hết Thẩm phán phải nắm bắt được khuynh hướng thái độ tâm lý của
đương sự, người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác.
Thông thường, do có mâu thuẫn không tự giải quyết được, tại Tòa án
không thể hòa giải được phải đưa ra xét xử, vì thế phía nguyên đơn
thường đưa ra những lý lẽ và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của
mình còn phía bị đơn thường phản bác, không chấp nhận hoặc chấp
nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn, hoặc đưa ra những yêu cầu
phản tố.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nếu tham gia tố
tụng với phía nguyên đơn hoặc bị đơn thì thường có thái độ tâm lý
như nguyên đơn hoặc bị đơn; hoặc không tỏ rõ ý chí, yêu cầu của phía
nguyên đơn hoặc phía bị đơn.
Do tính chất và nội dung quan hệ pháp luật của từng loại án khác
nhau, vì vậy việc dự kiến tình huống và xử lý tình huống tại phiên tòa
của từng loại án khác nhau.
2.2.2. Nghiên cứu nội dung vụ việc
Đối với Thẩm phán mặc dù trong quá trình xây dựng hồ sơ cũng
đã nắm được nội dung của vụ án, các yêu cầu của đương sự nhưng để
chuẩn bị cho việc xét xử tại phiên tòa được thành công đòi hỏi Thẩm
phán một lần nữa kiểm tra lại tất cả các tài liệu có trong hồ sơ vụ án
và giải quyết các yêu cầu của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự. Ví dụ như yêu cầu thay đổi người tiến hành tố
tụng, người phiên dịch, người giám định. Trước khi mở phiên toà, việc
thay đổi đối với Thẩm phán, Thư ký Toà án do Chánh án Toà án quyết
định, nếu Thẩm phán bị thay đổi là Chánh án thì do Chánh án Toà án
cấp trên quyết định. Đối với Kiểm sát viên thì do Viện trưởng Viện
kiểm sát quyết định. Nếu Kiểm sát viên bị thay đổi là Viện trưởng thì
do Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên quyết định.
Việc nghiên cứu lại nội dung vụ việc sẽ giúp Thẩm phán tiếp tục
nắm bắt được một cách toàn diện cả về diễn biến, nguyên nhân, nội
dung, tính chất mức độ của tranh chấp; nắm được đầy đủ các vấn đề, các

305
tình tiết, các tài liệu, chứng cứ. Ngoài ra, Thẩm phán cũng xem xét yêu
cầu của đương sự, người đại diện của đương sự trong việc triệu tập thêm
người làm chứng hoặc yêu cầu hoãn phiên toà. Nếu không nghiên cứu
lại hồ sơ thì rất dễ phạm sai lầm. Vì có những vấn đề chỉ khi nghiên cứu
kỹ, toàn diện các tài liệu, chứng cứ của vụ án thì mới hiểu được bản chất
của vụ án hoặc mới thấy được cần phải thu thập thêm tài liệu, chứng cứ
gì, cần kiểm tra, xác minh thêm vấn đề gì, có cần tạm đình chỉ, đình chỉ
hay phải chuyển vụ án cho cơ quan, Tòa án khác giải quyết không? Hoặc
đã đủ điều kiện để đưa vụ án ra xét xử chưa và xác định trọng tâm phải
kiểm tra, làm rõ tại phiên tòa là các vấn đề gì.
Đối với Thẩm phán trong thời gian này cần sắp xếp lại các bút lục
trong hồ sơ, nghiên cứu lại hồ sơ, đánh giá những chứng cứ tài liệu có
trong hồ sơ vụ án, xác định lại nội dung trọng tâm, cụ thể cần phải giải
quyết tại phiên tòa, nhất là những tình tiết, sự kiện mà các bên đã thống
nhất, những tình tiết, sự kiện mà các bên còn đang tranh chấp được thể
hiện trong biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công
khai chứng cứ và hoà giải.
Khi nghiên cứu lại hồ sơ vụ án, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải
thực hiện tốt những yêu cầu sau đây:
Một là: Phải xác định đầy đủ những vấn đề mà Tòa án phải xem
xét trong vụ án, đồng thời xác định được những vấn đề cần phải làm
rõ tại phiên tòa.
Chẳng hạn, trong hầu hết các vụ án lao động mà các bên tranh
chấp là người lao động với người sử dụng lao động, Tòa án phải xem
xét những vấn đề sau đây:
- Quan hệ hợp đồng lao động và diễn biến quá trình thực hiện hợp
đồng lao động;
- Sự kiện pháp lý làm phát sinh tranh chấp, thời điểm phát sinh
tranh chấp và nội dung tranh chấp;
- Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn
(nếu có).

306
Hai là: Xác định đúng những tình tiết, chứng cứ cần phải tập
trung làm rõ tại phiên tòa, trách nhiệm chứng minh của các bên đối với
những tình tiết, chứng cứ cần phải làm rõ.
Việc thực hiện tốt các yêu cầu nêu trên vừa là bảo đảm để Thẩm
phán chủ động trong điều khiển phiên tòa và đồng thời cũng là giải
pháp căn bản để tiếp cận với đường lối xét xử đúng đắn. Ngoài ra, khi
nghiên cứu lại hồ sơ vụ án, Thẩm phán cần chú ý thêm đến những nội
dung sau đây:
- Về thẩm quyền xét xử
Cần kiểm tra xem vụ án có thuộc thẩm quyền của Toà án mình
không. Trong quá trình kiểm tra, nếu thấy vụ án không thuộc thẩm
quyền chung của Toà án thì phải quyết định đình chỉ vụ án và hướng
dẫn đương sự yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Nếu vụ án
thuộc thẩm quyền của Toà án khác thì phải quyết định chuyển vụ án
cho Toà án đó giải quyết.
- Về nội dung tranh chấp
Cần phải xác định rõ những nội dung có tranh chấp giữa các
đương sự. Tuỳ từng vụ án, giữa các đương sự có khi chỉ có tranh chấp
về một nội dung nào đó như chấm dứt hợp đồng lao động, kỷ luật lao
động... hoặc có thể có nhiều nội dung tranh chấp (chấm dứt hợp đồng
lao động, trả trợ cấp thôi việc, bồi thường thiệt hại...). Việc xác định
nội dung tranh chấp trong các vụ án nói chung, trong án lao động nói
riêng là rất quan trọng. Bởi vì, có xác định được đúng nội dung tranh
chấp mới thấy rõ các chứng cứ cần phải thu thập để làm sáng tỏ những
quan hệ cần phải giải quyết.
- Về người tham gia tố tụng
Trên cơ sở xác định rõ những mối quan hệ pháp luật cần phải giải
quyết, đối chiếu với những quy định của pháp luật tố tụng lao động,
kiểm tra xem những người tham gia tố tụng với tư cách là đương sự có
đúng không. Đương sự trong tố tụng lao động bao gồm nguyên đơn,
bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Họ có thể là người lao

307
động, tập thể người lao động hoặc người sử dụng lao động đang có
tranh chấp hoặc liên quan đến tranh chấp lao động, đã được giải quyết
bằng con đường hoà giải, trọng tài nhưng các bên tranh chấp không
đồng ý. Từ việc kiểm tra này mà loại bỏ những người tham gia tố tụng
không đúng tư cách hoặc cần phải triệu tập thêm những người tham
gia tố tụng khác.
- Về chứng cứ
Cần phải kiểm tra xem những chứng cứ cần thiết cho việc xét xử
đã đầy đủ chưa. Nếu thấy việc xác minh, thu thập chứng cứ chưa đầy
đủ, thiếu những chứng cứ cần thiết, thì phải xác minh, thu thập thêm
chứng cứ để đảm bảo việc giải quyết vụ án đúng đắn. Thẩm phán cũng
có thể yêu cầu đương sự, các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan cung
cấp thêm chứng cứ.
Nếu xét thấy vụ án cần có sự giám định (như giám định chữ ký,
thương tật...) thì Thẩm phán cần phải xem đã trưng cầu giám định
chưa. Trường hợp đã có kết luận giám định thì cũng cần phải nghiên
cứu kỹ kết luận đó. Việc lập hội đồng định giá hoặc yêu cầu cơ quan
chuyên môn định giá tài sản khi cần thiết cũng phải tiến hành kiểm tra
như vậy.
Điểm đáng lưu ý khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ là cần xem
xét tất cả các đơn từ, tài liệu, vật chứng, các lời khai của đương sự, kết
luận của người giám định và các tài liệu do các cơ quan, tổ chức cung
cấp. Mỗi tài liệu, chứng cứ cần phải được nghiên cứu riêng, rồi đối
chiếu với nhau và phải được đánh giá một cách khách quan, toàn diện.
- Về yêu cầu của đương sự và giải quyết yêu cầu của đương sự
Cần phải đối chiếu với quy định pháp luật, chứng cứ xem các yêu
cầu của đương sự có cơ sở không và cần phải giải quyết các yêu cầu
đó như thế nào cho đúng.
2.2.3. Dự thảo Kế hoạch điều khiển phiên toà
Với vai trò là người tiến hành tố tụng, chủ tọa phiên toà phải
thực hiện đầy đủ, chính xác các công việc mà BLTTDS quy định đối

308
với chủ tọa phiên toà, đồng thời chịu trách nhiệm chính về những vấn
đề BLTTDS quy định đối với Hội đồng xét xử, thay mặt Hội đồng xét
xử công bố những quyết định đã được thông qua trong phòng nghị án
cũng như tại phòng xử án. Với vai trò của người điều khiển phiên toà,
chủ tọa phiên toà phải là người tổ chức, người chỉ huy cao nhất đối với
mọi hoạt động tố tụng và hành vi tố tụng tại phòng xử án, là “trọng tài”
xét xử vụ án.
Việc điều khiển phiên toà từ khi khai mạc đến khi kết thúc phiên
toà phải theo một thứ tự nhất định. Một phiên toà có dân chủ hay
không phụ thuộc vào sự điều khiển của chủ ttọa phiên toà. Vì vậy,
Thẩm phán chủ tọa phiên toà cần có một bản đề cương, ghi trình tự các
việc cần phải làm từ khi khai mạc phiên toà đến khi kết thúc phiên toà.
Nội dung của bản đề cương này có thể dùng cho nhiều vụ án nhưng
đối với từng vụ án cụ thể, Thẩm phán chủ tọa phiên toà căn cứ vào đề
cương chung mà cụ thể hoá cho phù hợp với vụ án mà mình làm chủ
tọa. Trong quá trình xét xử, phần nào đã giải quyết thì đánh dấu lại để
không bị sót cũng như không bị lặp lại.

ĐỀ CƯƠNG ĐIỀU KHIỂN PHIÊN TOÀ


I. Khai mạc phiên toà
- Hội đồng xét xử vào phòng xử án.
- Thư ký yêu cầu mọi người trong phòng xử án đứng dậy.
- Chủ tọa phiên toà mời mọi người ngồi xuống.
- Yêu cầu các đương sự đứng lên để nghe công bố quyết định đưa
vụ án ra xét xử
Nếu có ít người tham gia phiên tòa thì sau khi vào phòng xử án,
Chủ tọa có thể công bố luôn quyết định đưa vụ án ra xét xử.
- Chủ tọa phiên toà đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Nếu vụ án có các phóng viên báo, đài đến dự và đưa tin phiên
toà thì chủ tọa phiên toà phải yêu cầu phóng viên hoạt động theo

309
Luật báo chí, Hội đồng xét xử tạo điều kiện cho các phóng viên tác
nghiệp, nhưng phải tuân thủ nội quy phòng xử án.
- Chủ tọa phiên toà yêu cầu Thư ký báo cáo Hội đồng xét xử về
sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia phiên tòa theo giấy
triệu tập, giấy báo của Tòa án và lý do vắng mặt.
Trường hợp khi có người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên
tòa (mà không thuộc trường hợp phải hoãn phiên tòa), thì Chủ tọa
phiên tòa phải hỏi xem có ai đề nghị hoãn phiên tòa hay không; nếu
có người đề nghị thì Hội đồng xét xử xem xét, quyết định chấp nhận
hoặc không chấp nhận, nếu không chấp nhận thì nêu rõ lý do và ghi
quyết định của Hội đồng xét xử.
- Chủ tọa phiên toà kiểm tra lại sự có mặt của những người tham
gia phiên toà theo giấy triệu tập, giấy báo của Toà án và kiểm tra căn
cước của đương sự;
- Chủ tọa phổ biến quyền, nghĩa vụ của các đương sự và của
những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà.
+ Đối với đương sự, lưu ý các quyền và nghĩa vụ chung của
đương sự được quy định tại Điều 70 BLTTDS 2015 và các quyền,
nghĩa vụ riêng của từng đương sự, đối với nguyên đơn (Điều 71
BLTTDS 2015), đối với bị đơn (Điều 72 BLTTDS 2015) và đối với
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (Điều 73 BLTTDS 2015).
+ Đối với những người tham gia tố tụng khác: Căn cứ vào quyết
định đưa vụ án ra xét xử và danh sách triệu tập người tham gia tố
tụng đến phiên toà, chủ tọa phiên toà lần lượt giải thích quyền và
nghĩa vụ của họ theo quy định của BLTTDS. Riêng đối với người
làm chứng thì phải yêu cầu người làm chứng cam đoan trước Toà
về lời khai của mình.
- Chủ tọa phiên toà giới thiệu họ, tên những người tiến hành tố
tụng, người giám định, người phiên dịch.
+ Giới thiệu thành phần Hội đồng xét xử (nếu có Thẩm phán và
Hội thẩm dự khuyết thì giới thiệu và quy định chỗ ngồi của họ);

310
+ Giới thiệu Thư ký Toà án ghi biên bản phiên toà;
+ Giới thiệu Kiểm sát viên tham gia phiên toà (nếu có Kiểm sát
viên dự khuyết thì giới thiệu và quy định chỗ ngồi của họ).
- Chủ tọa phiên toà hỏi những người có quyền yêu cầu thay đổi
người tiến hành tố tụng xem họ có đề nghị thay đổi Thẩm phán, Hội
thẩm, Kiểm sát viên (nếu có), Thư ký phiên tòa, người giám định,
người phiên dịch hay không.
Nếu những người có quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành tố
tụng có đề nghị hoặc yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng thì
phải hỏi rõ lý do, chứng cứ chứng minh, hỏi rõ quan điểm của người
bị đề nghị, yêu cầu thay đổi, hỏi những người tiến hành tố tụng khác,
vào nghị án và ra tuyên bố chấp nhận hay không chấp nhận đề nghị,
yêu cầu thay đổi.
- Yêu cầu người làm chứng cam kết khai báo đúng sự thật, nếu
khai không đúng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, trừ trường
hợp người làm chứng là người chưa thành niên (nếu có).
- Yêu cầu người giám định, người phiên dịch cam kết cung cấp
kết quả giám định chính xác, phiên dịch đúng nội dung cần phiên
dịch (nếu có).
- Chủ tọa phiên toà hỏi các nguyên đơn có thay đổi, bổ sung hay
rút một phần hay toàn bộ yêu cầu khởi kiện hay không?
- Chủ tọa phiên toà hỏi bị đơn có thay đổi, bổ sung, rút một phần
hay toàn bộ yêu cầu phản tố không? (nếu có).
- Chủ tọa phiên toà hỏi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có
yêu cầu độc lập có thay đổi, bổ sung, rút một phần hay toàn bộ yêu
cầu độc lập không? (nếu có).
- Chủ tọa phiên toà hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau
về việc giải quyết vụ án không?
Nếu các đương sự không thỏa thuận được thì chủ tọa phiên tòa
tuyên bố:

311
“Tại phiên tòa ngày hôm nay, do các đương sự không tự thỏa
thuận giải quyết vụ án được, tòa tuyên bố kết thúc phần khai mạc
phiên tòa, chuyển sang phần tranh tụng tại phiên tòa”.
II. Phần tranh tụng tại phiên tòa
2.1. Trình bày tình tiết, sự kiện và yêu cầu
- Yêu cầu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên
đơn trình bày về yêu cầu và chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của
nguyên đơn là có căn cứ và hợp pháp (nếu có người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp. Trường hợp không có người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp thì đề nghị nguyên đơn trực tiếp trình bày).
- Chủ tọa phiên toà hỏi nguyên đơn có trình bày bổ sung gì không?
- Yêu cầu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình
bày ý kiến của bị đơn đối với yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu phản
tố (nếu có) và chứng cứ để chứng minh (nếu có người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp. Trường hợp không có người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp thì đề nghị bị đơn trực tiếp trình bày).
- Chủ tọa phiên toà hỏi bị đơn có trình bày bổ sung gì không?
- Yêu cầu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập (nếu có) trình bày
về yêu cầu và chứng cứ chứng minh cho yêu cầu là có căn cứ và hợp
pháp (nếu có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Trường hợp
không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thì đề nghị trực
tiếp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan).
- Chủ tọa phiên toà hỏi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có
yêu cầu độc lập có trình bày bổ sung gì không?
- Yêu cầu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đứng về phía nguyên đơn, bị đơn
(nếu có) trình bày ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn; ý kiến
của bị đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn (nếu có người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp. Trường hợp không có người bảo vệ quyền và

312
lợi ích hợp pháp thì đề nghị trực tiếp người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan).
- Chủ tọa phiên toà hỏi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có
trình bày bổ sung gì không.
Chủ tọa phiên toà hỏi lại các đương sự xem có bổ sung tình tiết,
sự kiện và yêu cầu gì không, nếu không có thì tuyên bố kết thúc phần
trình bày tình tiết, sự kiện và yêu cầu, chuyển sang thủ tục hỏi.
2.2. Thủ tục hỏi tại phiên tòa
- Chủ tọa phiên toà yêu cầu nguyên đơn, người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của nguyên đơn đặt câu hỏi.
- Chủ tọa phiên toà yêu cầu bị đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của bị đơn đặt câu hỏi.
- Chủ tọa phiên toà yêu cầu người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đặt câu hỏi.
- Chủ tọa phiên toà yêu cầu những người tham gia phiên tòa đặt
câu hỏi.
Nếu những người tham gia tố tụng không còn câu hỏi thì chủ tọa
phiên tòa tiến hành hỏi
- Tiến hành hỏi: (theo đề cương hỏi). Lưu ý, trong quá trình các
đương sự, Luật sư của đương sự, người tham gia tố tụng khác hỏi,
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cần chú ý theo dõi, đánh dấu những nội
dung đã được hỏi, được làm rõ tại phiên tòa trong đề cương hỏi mà
mình đã chuẩn bị. Chỉ hỏi về những vấn đề mà những người tham
gia tố tụng chưa làm rõ hoặc có mâu thuẫn, tranh chấp tại phiên tòa.
- Đề nghị các Hội thẩm nhân dân tiến hành hỏi.
- Đề nghị Kiểm sát viên tham gia phiên tòa (nếu có) hỏi.
Trước khi kết thúc phần xét hỏi cần phải hỏi Kiểm sát viên, Hội
thẩm nhân dân, đương sự, Luật sư và những người tham gia tố tụng

313
khác xem họ có đề nghị hỏi thêm vấn đề gì nữa không. Nếu có người
đề nghị, mà Hội đồng xét xử thấy việc hỏi thêm là cần thiết thì Chủ
tọa phiên toà cho hỏi tiếp.
Nếu việc hỏi đã đầy đủ thì tuyên bố chuyển sang phần tranh luận
tại phiên toà.
2.3. Tranh luận tại phiên tòa
- Chủ tọa phiên toà yêu cầu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp bảo vệ quyền lợi cho nguyên đơn trình bày luận cứ bảo vệ.
- Chủ tọa phiên toà hỏi nguyên đơn có bổ sung gì không?
- Chủ tọa phiên toà yêu cầu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp bảo vệ quyền lợi cho bị đơn trình bày luận cứ bảo vệ;
- Chủ tọa phiên toà hỏi bị đơn có bổ sung gì không?
- Chủ tọa phiên toà yêu cầu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp bảo vệ quyền lợi cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
trình bày luận cứ bảo vệ;
- Chủ tọa phiên toà hỏi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có
bổ sung gì không?
- Chủ tọa phiên toà đề nghị các bên đối đáp.
- Sau khi các bên tham gia tranh luận và đối đáp xong, đề nghị
Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa phát biểu ý kiến về
việc giải quyết vụ án.
III. Nghị án
- Chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc phần tranh luận. Hội đồng
xét xử vào phòng nghị án để nghị án.
- Chủ tọa phải tuyên bố thời gian nghị án, ngày, giờ tuyên án để
những người tham gia phiên toà biết.
IV. Hội đồng xét xử vào phòng xử án và tuyên án
- Chủ tọa phiên tòa công bố bản án.

314
- Nếu vụ án phải xét xử nhiều ngày, thì hết giờ làm việc buổi sáng,
chủ tọa nhắc giờ làm việc buổi chiều; hết giờ làm việc buổi chiều,
nhắc giờ làm việc sáng hôm sau và yêu cầu bị cáo, người bào chữa
và những người tham gia tố tụng khác phải có mặt đúng giờ.
- Tuyên bố kết thúc phiên tòa.
2.2.4. Dự thảo Kế hoạch hỏi tại phiên toà
Thủ tục hỏi tại phiên tòa được quy định từ Điều 249 đến Điều 258
BLTTDS 2015. Đây là thủ tục có điểm mới thay đổi so với quy định
trước đây về thứ tự hỏi đối với Thẩm phán, chủ tọa phiên toà. Trước
đây, Thẩm phán chủ tọa phiên toà hỏi trước sau đó mới đến những
người khác. Theo quy định của BLTTDS 2015 thì sau khi đương sự,
Luật sư bảo vệ quyền lợi cho đương sự, những người tham gia tố tụng
hỏi xong thì Thẩm phán, chủ tọa phiên toà mới tiến hành hỏi. Sự thay
đổi thứ tự hỏi này là bước đột phá trong tố tụng dân sự, thể hiện rõ hơn
nguyên tắc tranh tụng trong việc giải quyết các vụ án dân sự.
Kế hoạch hỏi là những dự kiến của Thẩm phán được phân công
chủ tọa phiên toà về việc hỏi những người tham gia tố tụng tại phiên
toà, những dự kiến này dựa trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ vụ án mà đặc
biệt là nghiên cứu những lời khai của họ. Việc lập kế hoạch hỏi bao
gồm việc xác định trình tự hỏi, dự kiến các câu hỏi và thời gian hỏi cho
mỗi đương sự, dự kiến các tình huống có thể xảy ra trong quá trình hỏi.
Kế hoạch hỏi còn phụ thuộc vào từng vụ án cụ thể, nếu vụ án có nhiều
đương sự, nhiều người tham gia thì cần lập kế hoạch xét hỏi sao cho
phù hợp. Có thể xét hỏi theo từng nhóm vấn đề, nội dung cần hỏi hoặc
từng đương sự để khỏi lãng phí thời gian; cần xác định hỏi người nào
trước, người nào sau; kết hợp việc hỏi nguyên đơn, bị đơn với việc hỏi
những người tham gia tố tụng khác; kết hợp việc hỏi với việc đưa vật
chứng, công bố lời khai và các tài liệu có trong hồ sơ.
Kế hoạch hỏi phải thể hiện sự vô tư khách quan của Thẩm phán.
Kế hoạch hỏi được lập sao cho khi hỏi, đương sự và những người tham
gia tố tụng khác không biết trước chủ trương xử lý vụ án của Hội đồng
xét xử khi còn đang ở phần xét hỏi.

315
Cần lưu ý rằng việc hỏi của Thẩm phán chỉ tập trung vào những
vấn đề mà các đương sự không thống nhất hoặc còn mâu thuẫn với lời
khai của họ trước đó để làm sáng tỏ những vấn đề cần giải quyết của
vụ án. Việc đặt câu hỏi phải thể hiện được sự khách quan, ngắn gọn, rõ
ràng, cụ thể và dễ hiểu, đặt câu hỏi một cách khéo léo.
Ngoài ra, Thẩm phán cũng cần chú ý đến những nội dung khác
trong việc xây dựng Dự thảo Kế hoạch hỏi.
2.2.5. Dự thảo bản án
Bản án phản ánh toàn bộ diễn biến của vụ việc tranh chấp, kết
quả tiến hành tố tụng và chất lượng xét xử của Tòa án, năng lực của
Thẩm phán. Bố cục và nội dung của bản án được quy định tại Điều 266
BLTTDS và hướng dẫn trong Nghị quyết của HĐTP TANDTC.
Khác với các nước, sau khi phiên toà được mở, kết thúc việc
tranh tụng, Thẩm phán chủ tọa phiên toà có một thời gian tương đối
đủ để viết bản án trên cơ sở kết quả tranh tụng tại phiên toà, sau
đó công bố án thì ở Việt Nam thông thường, kết thúc phần tranh
tụng, Hội đồng xét xử vào nghị án và sau đó là tuyên án luôn. Chỉ
trong trường hợp vụ án có tính chất phức tạp, cần nghị án lâu thì
Hội đồng xét xử mới tuyên án ở một thời điểm thích hợp sau đó.
Vì thế, trước khi phiên toà được mở, Thẩm phán cần phải chuẩn bị
dự thảo bản án. Sau đó, trên cơ sở diễn biến của phiên toà, Thẩm
phán chủ tọa phiên toà sẽ bổ sung những tình tiết, sự kiện hoặc tình
huống phát sinh.
Về hình thức, dự thảo bản án phải đảm bảo theo mẫu bản án
được quy định và hướng dẫn cách viết trong Nghị quyết của HĐTP
TANDTC.
Về nội dung, dự thảo bản án phải bảo đảm các nội dung và yêu
cầu chủ yếu sau đây:
- Phần tóm tắt nội dung vụ án: Nội dung tóm tắt phải mô tả được
loại, nội dung chủ yếu của quan hệ pháp luật xác lập giữa các bên; thời
điểm phát sinh tranh chấp, quan hệ pháp luật tranh chấp mà Tòa án

316
đang giải quyết, nội dung tranh chấp; các tình tiết, chứng cứ, căn cứ
pháp luật; yêu cầu và quan điểm của các bên tranh chấp.
- Phần nhận định: Nội dung cốt lõi của phần nhận định trong bản
án là đánh giá các tình tiết liên quan đến quan hệ tranh chấp và nội
dung tranh chấp; các chứng cứ làm căn cứ xác định tính hợp pháp của
yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố (nếu có) và điểm, khoản, điều luật
áp dụng. Tuy nhiên, vì nội dung tranh chấp trong hầu hết các vụ án
thường có liên quan chặt chẽ với nhau, ràng buộc nhau về mặt trật tự
và hệ quả. Do đó, bố cục của phần nhận định phải bảo đảm tính lôgic,
thống nhất.
Ví dụ, trong vụ án về sa thải và thuộc trường hợp sa thải trái pháp
luật, thì bắt buộc phải nhận định và kết luận việc sa thải là trái pháp
luật trước. Sau khi kết luận về hậu quả pháp lý do việc sa thải trái pháp
luật, Hội đồng xét xử mới căn cứ vào yêu cầu của người lao động có
muốn trở lại làm việc hay không; người sử dụng lao động có muốn
nhận người lao động trở lại làm việc hay không, khả năng thực tế để bố
trí công việc cho người lao động như thế nào... để nhận định có chấp
nhận hay không chấp nhận yêu cầu của người lao động. Và cuối cùng,
mới nhận định về việc giải quyết quyền lợi về vật chất, như tiền lương,
tiền bồi thường, trợ cấp,...
- Phần quyết định của bản án phải bảo đảm yêu cầu chung là đầy
đủ cả các căn cứ pháp lý và quyết định về quyền, nghĩa vụ của các bên
tranh chấp; nội dung các quyết định phải rõ ràng.
Phần các quyết định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của các bên phải
căn cứ vào nội dung cụ thể của các điều, khoản luật và yêu cầu khởi
kiện. Ví dụ, trường hợp chấp nhận yêu cầu khởi kiện của người lao
động, buộc người sử dụng lao động phải nhận người lao động trở lại
làm việc, thì nhất thiết phải tuyên cụ thể là nhận lại làm việc kể từ ngày
nào, làm công việc gì (nếu các bên có thoả thuận tại phiên toà về công
việc mới), hoặc nhận lại làm công việc cũ theo hợp đồng lao động đã
giao kết. Trường hợp, người lao động không muốn trở lại làm việc, thì
sau khi tuyên bố việc sa thải, chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp

317
luật, hậu quả pháp lý của việc sa thải, chấm dứt hợp đồng lao động trái
pháp luật, mới tuyên nội dung: ghi nhận hợp đồng lao động chấm dứt
do người lao động tự nguyện không trở lại làm việc.
Trong trường hợp không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
người lao động đòi huỷ quyết định kỷ luật sa thải, chấm dứt hợp
đồng lao động thì: “Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của …, đòi
huỷ Quyết định …”, hoặc “Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
…, đối với … về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái
pháp luật”.
2.3. Kỹ năng của Kiểm sát viên
Khác với Thẩm phán, Luật sư có thể tiếp cận, nghiên cứu hồ
sơ vụ án ngay từ đầu, Kiểm sát viên chỉ có thể tiếp cận, nghiên cứu
hồ sơ vụ án sau khi Toà án có quyết định đưa vụ án ra xét xử và
nhận được hồ sơ vụ án do Toà án chuyển. Theo quy định tại Điều 220
BLTTDS 2015, quyết định đưa vụ án ra xét xử được gửi cho Viện kiểm
sát cùng cấp trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định.
Trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên toà theo quy định tại khoản 2
Điều 21 của BLTTDS 2015 thì Toà án phải gửi hồ sơ vụ án cùng quyết
định đưa vụ án ra xét xử cho Viện kiểm sát cùng cấp; trong thời hạn 15
ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Viện kiểm sát phải nghiên cứu và
trả lại hồ sơ cho Toà án. Việc chuyển hồ sơ vụ việc dân sự có thể được
thực hiện bằng đường bưu chính hoặc chuyển trực tiếp.
Trong khoảng thời gian hạn chế này, Kiểm sát viên khi được
phân công nhiệm vụ phải thực hiện tất cả các kỹ năng, chuẩn bị cho
việc tham gia phiên toà của mình. Khi nhận được hồ sơ về những vụ án
mà Kiểm sát viên phải tham gia phiên tòa sơ thẩm, Kiểm sát viên phải
nghiên cứu, vào sổ thụ lý, báo cáo lãnh đạo Viện để quyết định việc
tham gia phiên toà. Kiểm sát viên thông báo bằng văn bản cho Tòa án
về việc tham gia phiên tòa.
Theo quy định tại Điều 27 Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-
VKSNDTC-TANDTC, VKSND tham gia phiên tòa sơ thẩm trong
những trường hợp sau đây:

318
Trường hợp thứ nhất, là những vụ án dân sự do Tòa án tiến hành
thu thập chứng cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 97 và các điều 98, 99,
100, 101, 102, 103, 104, 105 và 106 BLTTDS 2015.
Trường hợp thứ hai, là những vụ án dân sự có đối tượng tranh chấp
là tài sản công, lợi ích công cộng:
- Tài sản công là tài sản thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại
diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý theo quy định của BLDS và quy
định khác của pháp luật. Ví dụ như vụ án dân sự tranh chấp về tài sản
của một cơ quan nhà nước mà tài sản đó được mua sắm từ ngân sách
nhà nước.
- Lợi ích công cộng là những lợi ích vật chất hoặc tinh thần liên
quan đến xã hội hoặc cộng đồng dân cư. Ví dụ như vụ án dân sự do
đương sự khởi kiện yêu cầu doanh nghiệp phải bồi thường thiệt hại do
gây ô nhiễm môi trường.
Trường hợp thứ ba, là vụ án dân sự có đối tượng tranh chấp là
quyền sử dụng đất hoặc nhà ở, bao gồm:
- Tranh chấp về việc ai là người có quyền sử dụng đất hoặc ai
là người có quyền sở hữu nhà ở. Ví dụ, A và B tranh chấp với nhau
về quyền sử dụng đất đối với một thửa đất có diện tích là 500 m2 hiện
do B đang quản lý, sử dụng. A khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết để
buộc B phải trả lại thửa đất đó cho A. Trong trường hợp này, đối tượng
tranh chấp là quyền sử dụng đất, thuộc trường hợp Viện kiểm sát tham
gia phiên tòa sơ thẩm.
- Tranh chấp về hợp đồng có đối tượng của hợp đồng là quyền sử
dụng đất hoặc nhà ở (gồm: tranh chấp về hợp đồng chuyển đổi quyền
sử dụng đất; tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất hoặc hợp đồng mua bán nhà ở; tranh chấp về hợp đồng cho thuê,
cho thuê lại quyền sử dụng đất hoặc hợp đồng thuê nhà ở; tranh chấp
về hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất hoặc hợp đồng tặng cho nhà
ở; tranh chấp về hợp đồng góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất hoặc
hợp đồng góp vốn bằng giá trị nhà ở…).

319
Đối với tranh chấp về hợp đồng có liên quan đến quyền sử dụng
đất hoặc nhà ở nhưng quyền sử dụng đất hoặc nhà ở đó không phải là
đối tượng của hợp đồng thì không thuộc trường hợp Viện kiểm sát phải
tham gia phiên tòa sơ thẩm.
Ví dụ:
A vay ngân hàng B số tiền là 500 triệu đồng, đồng thời thế
chấp cho ngân hàng một ngôi nhà và quyền sử dụng đất giá trị
01 tỷ đồng. Đến thời hạn trả nợ, A không thực hiện được nghĩa
vụ thanh toán, ngân hàng tiến hành xử lý tài sản thế chấp để
thu hồi nợ nhưng không xử lý được vì khu đất này đang trong
diện quy hoạch, không được phép chuyển đổi, chuyển nhượng.
Ngân hàng đã khởi kiện ra Tòa án yêu cầu Tòa án giải quyết
buộc A phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Trong vụ án dân sự này,
đối tượng tranh chấp là khoản tiền A vay ngân hàng, không
phải là quyền sử dụng đất và nhà ở A dùng để thế chấp. Do đó,
không thuộc trường hợp Viện kiểm sát phải tham gia phiên tòa
sơ thẩm.
- Tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất hoặc thừa kế nhà ở;
- Tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất hoặc đòi lại nhà ở đang
cho mượn, cho sử dụng nhờ;
- Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng
đất hoặc nhà ở trong thời kỳ hôn nhân;
- Tranh chấp về chia tài sản là quyền sử dụng đất hoặc nhà ở khi
ly hôn, sau khi ly hôn;
- Tranh chấp trong các giao dịch dân sự khác có đối tượng giao
dịch là quyền sử dụng đất hoặc nhà ở.
Trường hợp thứ tư, là vụ án dân sự có đương sự là người chưa
thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành
vi, cụ thể như sau:
- Người mất năng lực hành vi dân sự là người đã có quyết định

320
có hiệu lực pháp luật của Tòa án tuyên bố người đó mất năng lực hành
vi dân sự theo quy định của BLDS;
- Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự là người đã có quyết
định có hiệu lực pháp luật của Tòa án tuyên bố người đó bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự theo quy định của BLDS;
- Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người
đã có quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án tuyên bố người đó có
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi theo quy định của BLDS.
Trường hợp thứ năm, là vụ án dân sự chưa có điều luật để áp
dụng quy định tại khoản 2 Điều 4 BLTTDS 2015.
Trước khi tham gia phiên tòa, Kiểm sát viên phải nghiên cứu hồ
sơ vụ án, lập hồ sơ kiểm sát, trích cứu đầy đủ, trung thực lời khai của
đương sự và các tài liệu khác; nắm vững nội dung vụ án, phân tích tổng
hợp chứng cứ; áp dụng điều, khoản của BLTTDS, BLDS và các văn
bản pháp luật có liên quan để dự kiến đường lối xử lý vụ án, báo cáo
lãnh đạo Viện, chuẩn bị ý kiến phát biểu của Viện kiểm sát tại phiên
toà, trong đó, Kiểm sát viên phải lưu ý đến các kỹ năng riêng sau đây:
2.3.1. Kiểm sát hoạt động thụ lý của Toà án và kiểm sát các quyết
định, văn bản do Toà án ban hành trong giai đoạn chuẩn bị xét xử
Đây là hoạt động quan trọng của Kiểm sát viên khi tham gia giải
quyết các vụ án dân sự bởi đây là một trong các nội dung mà Kiểm sát
viên khi tham gia phiên toà sẽ phải phát biểu. Kiểm sát hoạt động thụ
lý vụ án dân sự, Kiểm sát viên phải xem xét, đánh giá điều kiện thụ lý
vụ án có đúng quy định của pháp luật không. Trường hợp Tòa án thụ
lý không đúng quy định của pháp luật, Kiểm sát viên cần yêu cầu Tòa
án chuyển vụ án hoặc đình chỉ việc giải quyết vụ án tùy thuộc từng
trường hợp. Yêu cầu phải được thực hiện bằng văn bản theo quy chế
của ngành Kiểm sát.
Theo quy định của BLTTDS, các văn bản quyết định do Toà án
ban hành phải được gửi cho VKSND cùng cấp trong những thời hạn
nhất định. Thông báo thụ lý vụ án phải được gửi cho VKSND trong thời

321
gian tối đa là 03 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án (khoản 1 Điều 196
BLTTDS 2015). Quyết định công nhận thoả thuận của các đương sự
phải được gửi cho VKSND cùng cấp trong thời hạn tối đa 05 ngày làm
việc, kể từ ngày ra quyết định (khoản 1 Điều 212 BLTTDS 2015). Các
quyết định khác như quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án, quyết định
đình chỉ giải quyết vụ án, quyết định đưa vụ án ra xét xử được gửi trong
thời hạn tối đa là 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định (khoản 2
Điều 214, khoản 3 Điều 217, khoản 2 Điều 220 BLTTDS 2015).
Khi thực hiện kỹ năng này, Kiểm sát viên cần lưu ý kiểm sát 4
nội dung sau:
- Xác định xem hình thức của các văn bản tố tụng do Toà án ban
hành có đúng theo mẫu đã được quy định không?
- Xác định xem thẩm quyền ban hành các văn bản tố tụng đó có
đúng quy định pháp luật tố tụng không?
- Xác định việc ban hành các văn bản tố tụng và gửi văn bản tố
tụng cho VKSND có đảm bảo trong thời hạn mà BLTTDS 2015 quy
định không?
- Xác định căn cứ, lý do, điều kiện để ban hành văn bản tố tụng
đó có đủ không, có tình tiết, sự kiện phù hợp không?
2.3.2. Nghiên cứu hồ sơ
Nghiên cứu hồ sơ là kỹ năng quan trọng của Kiểm sát viên chuẩn
bị cho việc tham gia phiên toà. Kết quả của hoạt động nghiên cứu hồ
sơ sẽ giúp cho Kiểm sát viên thực hiện các hoạt động kiểm sát của
mình tại phiên toà như đặt câu hỏi, phát biểu tại phiên toà hoặc thực
hiện quyền kháng nghị sau phiên toà. Ngoài ra, nghiên cứu hồ sơ còn
giúp Kiểm sát viên nắm vững được hệ thống chứng cứ của vụ án, làm
cơ sở cho việc bảo vệ quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải quyết
vụ án. Kết quả của việc nghiên cứu hồ sơ là Kiểm sát viên phải nắm
chắc được tất cả các tình tiết của vụ án.
Nội dung nghiên cứu hồ sơ của Kiểm sát viên ngoài việc kiểm
sát các văn bản tố tụng, còn lại cũng giống như nghiên cứu hồ sơ của

322
Thẩm phán, Luật sư. Tuy nhiên, Kiểm sát viên cần đặc biệt lưu ý khi
nghiên cứu hồ sơ, Kiểm sát viên phải nắm được các nội dung sau đây:
- Làm rõ việc áp dụng thủ tục tố tụng. Để làm rõ vấn đề này,
Kiểm sát viên phải nghiên cứu kỹ từng văn bản tố tụng như: quyết định
áp dụng biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án, quyết định đưa vụ
án ra xét xử sơ thẩm; quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
(nếu có)… Kiểm sát viên phải nghiên cứu chi tiết từng văn bản như
ngày, tháng, năm ban hành; thẩm quyền ban hành, con dấu, chữ ký của
người có thẩm quyền. Khi nghiên cứu phải đồng thời đối chiếu với quy
định của pháp luật để xem xét văn bản đó có phù hợp với quy định của
pháp luật hay không. Tất cả các vấn đề tố tụng như thời hạn tố tụng,
việc áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ… đều phải được kiểm
tra, kết luận có vi phạm hay không.
- Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là gì? Có hay không có yêu
cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan. Nếu có thì đó là yêu cầu gì?
- Quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án.
- Nội dung vụ việc và nội dung tranh chấp.
- Tư cách đương sự của các bên trong vụ việc.
- Những tình tiết, sự kiện không cần phải chứng minh trong vụ án.
- Tài liệu, chứng cứ có trong vụ việc có đảm bảo tính đầy đủ, tính
hợp pháp không. Chứng cứ hợp pháp là chứng cứ được thu thập bằng
các biện pháp hợp pháp (do BLTTDS quy định, được tiến hành theo
đúng trình tự, thủ tục); được chứa đựng trong các nguồn chứng cứ hợp
pháp. Để khẳng định được chứng cứ có hợp pháp hay không, Kiểm
sát viên phải kiểm tra từng loại nguồn chứng cứ và khẳng định nguồn
chứng cứ đó là hợp pháp, đồng thời kiểm tra trình tự, thủ tục đương sự
thu thập chứng cứ để xác định chứng cứ đó là hợp pháp.
Tiêu chuẩn để xác định được chứng cứ đã đầy đủ là chứng cứ đó
đã xác định được đầy đủ các vấn đề cần phải chứng minh; chứng cứ đó
đã bảo đảm quyền của người tham gia tố tụng.

323
- Những tình tiết, sự kiện mà các bên đã thống nhất hoặc đang
tranh chấp, mâu thuẫn.
- Những vấn đề cần phải làm rõ trong hồ sơ vụ việc.
- Dự kiến đường lối giải quyết vụ án.
2.3.3. Chuẩn bị bài phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên toà
Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa là văn bản pháp lý quan
trọng, thể hiện quan điểm của VKSND về việc giải quyết vụ án, là một
trong những cơ sở để Hội đồng xét xử ghi nhận trong bản án và tuyên
án. Hội đồng xét xử chấp nhận hay không chấp nhận quan điểm giải
quyết vụ án của Kiểm sát viên là dựa trên nội dung phát biểu của Kiểm
sát viên có căn cứ thuyết phục hay không. Qua kiểm sát hồ sơ và diễn
biến tại phiên tòa, nếu Kiểm sát viên xác định chính xác, có căn cứ
về quan hệ tranh chấp; đánh giá một cách khách quan, toàn diện các
chứng cứ, tài liệu có liên quan của vụ án; xem xét thỏa đáng đến quyền
và lợi ích hợp pháp của các bên thì mới bảo đảm đưa ra quan điểm giải
quyết vụ án phù hợp.
Theo quy định tại các Điều 262, 306, khoản 3 Điều 341, điểm g
khoản 1 Điều 369, điểm c khoản 1 Điều 375 BLTTDS 2015 quy định
ngay sau phiên tòa, phiên họp, Kiểm sát viên phải gửi bản phát biểu ý
kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ, việc. Đây là yêu cầu rất khó khăn
đối với Kiểm sát viên tham gia phiên tòa sơ thẩm. Trường hợp phải gửi
ngay sau khi phiên tòa kết thúc, Kiểm sát viên sẽ không kịp bổ sung,
hoàn thiện bài phát biểu cả về hình thức và nội dung, quan điểm giải
quyết vụ án. Do đó, để có thể đáp ứng yêu cầu, quy định pháp luật đặt
ra, đòi hỏi Kiểm sát viên trước khi tham gia phiên toà cần chuẩn bị
nghiêm túc bài phát biểu của mình tại phiên toà.
Về hình thức, bài phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên toà được
làm theo mẫu, theo quy định của ngành. Về nội dung, theo quy định tại
Điều 28 Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC,
tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án dân sự (theo thủ tục thông thường
hoặc thủ tục rút gọn), sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu

324
tranh luận và đối đáp xong, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện
kiểm sát về những vấn đề sau đây:
Thứ nhất: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội
đồng xét xử, Thư ký phiên tòa kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời
điểm Hội đồng xét xử nghị án. Về cơ bản, nội dung phát biểu về việc
tuân thủ pháp luật tố tụng của Thẩm phán gồm những nội dung cơ bản
sau đây:
- Về việc thụ lý vụ án;
- Về thẩm quyền thụ lý vụ án;
- Về xác định tư cách tố tụng của đương sự;
- Về thu thập chứng cứ;
- Việc tiếp nhận tài liệu, chứng cứ do đương sự, do cơ quan có
thẩm quyền cung cấp;
- Về thủ tục tống đạt thông báo, văn bản tố tụng;
- Việc tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công
khai chứng cứ và hoà giải;
- Về việc ra quyết định đưa vụ án ra xét xử;
- Về thời hạn chuẩn bị xét xử.
Đối với việc tuân theo pháp luật tố tụng của Hội đồng xét xử, nội
dung phát biểu của Kiểm sát viên đề cập đến thời gian, địa điểm mở
phiên toà, thành phần Hội đồng xét xử, thành phần những người tiến
hành tố tụng và người tham gia tố tụng, trình tự, thủ tục khai mạc phiên
toà, thủ tục hỏi, tranh luận tại phiên toà.
Thứ hai: Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng
dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử
nghị án.
Nội dung phát biểu vấn đề này, Kiểm sát viên phát biểu về việc
nguyên đơn, bị đơn, Luật sư, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho đương sự tại phiên toà chấp hành đúng hay không đúng các quy

325
định về quyền và nghĩa vụ của mình, có bản tự khai, giao nộp chứng
cứ, tài liệu phục vụ cho việc giải quyết vụ án, trách nhiệm trao đổi
chứng cứ, tài liệu giữa các đương sự, có mặt tham gia các buổi kiểm
tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải và có mặt
tham gia phiên toà xét xử.
Thứ ba: Về việc giải quyết vụ án:
Trong nội dung này, Kiểm sát viên sẽ phát biểu về những vấn đề
sau đây:
- Phân tích, đánh giá, nhận định về nội dung tranh chấp và các
tình tiết của vụ án;
- Đánh giá, nhận định về tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án;
- Nêu rõ căn cứ pháp luật hoặc các căn cứ quy định tại
Điều 45 BLTTDS 2015 được áp dụng để giải quyết vụ án; đề nghị
Tòa án kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm
pháp luật liên quan đến việc giải quyết vụ án dân sự có dấu hiệu trái
với Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà
nước cấp trên (nếu có);
- Nêu rõ quan điểm về việc chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu
cầu khởi kiện, đề nghị của nguyên đơn, cơ quan, tổ chức, cá nhân; yêu
cầu phản tố, đề nghị của bị đơn; yêu cầu độc lập, đề nghị của người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Văn bản phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên phải có chữ ký của
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, phiên họp.
3. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
Chị Nguyễn Thị Ngọc B (cư trú tại 27/402 BM, quận H, thành
phố N) và chị Nguyễn Thị Kim Th (Hộ khẩu thường trú: 66 đường 19
phường P, Quận H, thành phố N) đều cùng công tác tại cơ quan thi
hành án quận H, thành phố N.
Ngày 14/4/2014, chị Th vay của chị B (đợt 1) số tiền 500 triệu
đồng, thời hạn vay là 01 tháng, hẹn đến ngày 15/5/2014 sẽ trả. Tiếp đó,

326
ngày 9/12/2014 chị Th lại vay tiếp (đợt 2) của chị B 100 triệu đồng và
hẹn tới ngày 15/12/2014 sẽ hoàn trả đầy đủ tiền vay của cả hai lần. Cả
hai lần vay này, chị Th đều lập giấy viết tay vay nợ của chị B.
Do chị Th không thanh toán trả nợ đúng hẹn như trong giấy
vay tiền nên đã có tranh chấp. Được sự hòa giải của cơ quan, ngày
05/10/2015, chị B và chị Th đã thống nhất thỏa thuận lại trong “Bản
cam kết” về việc vay tiền như sau:
- Chị Th vay của chị B số tiền 600 triệu đồng.
- Hàng tháng chị Th sẽ trích một phần tiền lương ít nhất là
5.000.000 đ và các thu nhập hỗ trợ cán bộ, công nhân viên ở cơ quan
(nếu có) để trả chị B vào ngày 20 hàng tháng và không tính lãi.
Sau khi có bản cam kết này, từ ngày 20/10/2015 đến ngày
05/4/2016 chị Th đã trả cho chị B được 390.000.000đ (tiền gốc).
Cho rằng chị Th đã không thực hiện đúng như cam kết, ngày
20/8/2016, chị B đã làm đơn khởi kiện đến TAND quận H với yêu cầu:
- Buộc chị Th trả số tiền còn nợ gốc.
- Trả lãi theo lãi suất của Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu
của số tiền trên kể từ ngày chị Th cam đoan trả.
1. Để giải quyết được vụ án trên, theo anh (chị), cần phải làm rõ
những nội dung gì?
2. Giả thiết, tại phiên tòa sơ thẩm mở lần thứ hai, chị Th vắng
mặt. Hướng xử lý của Hội đồng xét xử trong tình huống này như
thế nào?

327
CHƯƠNG 6
PHIÊN TÒA SƠ THẨM

Mục tiêu của bài học: Nội dung:


Chương này trang bị cho người học: 1. Một số vấn đề chung về
Về kiến thức, người học nhận diện phiên tòa sơ thẩm
được các quy định chung của 2. Kỹ năng của Luật sư, Thẩm
pháp luật tố tụng dân sự về phiên phán, Kiểm sát viên tại phiên
tòa sơ thẩm. tòa sơ thẩm
Về kỹ năng, người học hiểu và vận 2.1. Kỹ năng của Luật sư tại
dụng được kỹ năng cơ bản của phiên tòa sơ thẩm
Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên 2.2. Kỹ năng của Thẩm phán
tại phiên tòa sơ thẩm: (i) Kỹ năng tại phiên tòa sơ thẩm
chuẩn bị trước thời điểm khai mạc
phiên tòa; (ii) Kỹ năng tại phần thủ 2.3. Kỹ năng của Kiểm sát viên
tục bắt đầu phiên tòa; (iii) Kỹ năng tại phiên tòa sơ thẩm
tại phần tranh tụng tại phiên tòa; 3. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
(iv) Kỹ năng tại phần nghị án và
tuyên án.
Về thái độ, người học có được thái
độ chủ động, tự tin, bản lĩnh trong
hoạt động nghề nghiệp.
1. Một số vấn đề chung về phiên tòa sơ thẩm
1.1. Nguyên tắc tiến hành phiên toà sơ thẩm
Thứ nhất, phiên toà sơ thẩm dân sự phải được tiến hành đúng thời
gian, địa điểm đã được ghi trong quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc
trong giấy báo mở lại phiên toà trong trường hợp hoãn phiên toà. Địa
điểm tổ chức phiên toà có thể là trụ sở của Toà án có thẩm quyền giải

328
quyết vụ án hoặc ngoài trụ sở của Toà án - thường gọi là xét xử lưu
động (Điều 222 và Điều 223 BLTTDS 2015).
Thứ hai, phiên toà sơ thẩm dân sự phải được tiến hành tại phòng
xử án được bố trí theo quy định. Cụ thể là Quốc huy nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam được treo chính giữa phía trên phòng xử án
và phía trên chỗ ngồi của Hội đồng xét xử; Phòng xử án phải có các
khu vực được bố trí riêng cho Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, Thư ký
Toà án, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự, những người tham gia tố tụng khác và người tham dự phiên toà
(Điều 224 BLTTDS 2015).
Thứ ba, phiên toà sơ thẩm xét xử theo thủ tục thông thường
phải được tiến hành bởi Hội đồng xét xử gồm một Thẩm phán và
hai Hội thẩm nhân dân, trong trường hợp vụ án phức tạp có thể tiến
hành với hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân, phiên toà sơ thẩm
dân sự xét xử theo thủ tục rút gọn chỉ có một Thẩm phán tiến hành tố
tụng không có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân. Đối với vụ án có
đương sự là người chưa thành niên thì phải có Hội thẩm nhân dân là
người đã hoặc đang công tác tại Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh,
Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, cơ quan quản lý nhà nước về gia
đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em. Đối với vụ án lao động thì
phải có Hội thẩm nhân dân là người đã hoặc đang công tác trong tổ
chức đại diện tập thể lao động hoặc người có kiến thức về pháp luật
lao động.
Thứ tư, Hội đồng xét xử phải trực tiếp xác định những tình tiết
của vụ án bằng cách nghe lời trình bày của nguyên đơn, bị đơn, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và những người
tham gia tố tụng khác, cơ quan, tổ chức được mời tham dự phiên tòa;
hỏi và nghe trả lời câu hỏi; xem xét, kiểm tra tài liệu, chứng cứ đã thu
thập được; điều hành và nghe tranh luận giữa các đương sự; nghe Kiểm
sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát. Việc xét xử phải bằng lời
nói và được tiến hành tại phòng xử án (Điều 225 BLTTDS 2015).

329
Thứ năm, Hội đồng xét xử sơ thẩm chỉ được xem xét giải quyết
vụ án trong phạm vi yêu cầu của đương sự. Việc áp dụng các thủ tục tố
tụng tại phiên toà phải theo quy định của pháp luật.
Thứ sáu, nếu vụ án thuộc trường hợp chưa có điều luật để áp
dụng thì Tòa án áp dụng tập quán để giải quyết vụ án dân sự trong
trường hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định.
Tập quán không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật
dân sự quy định tại Điều 3 BLDS 2015. Đương sự có quyền viện
dẫn tập quán để yêu cầu Tòa án xem xét áp dụng. Tòa án có trách
nhiệm xác định giá trị áp dụng của tập quán bảo đảm đúng quy định tại
Điều 5 BLDS 2015. Trường hợp các đương sự viện dẫn các tập quán
khác nhau thì tập quán có giá trị áp dụng là tập quán được thừa nhận
tại nơi phát sinh vụ án dân sự.
Tòa án áp dụng tương tự pháp luật để giải quyết vụ việc dân
sự trong trường hợp các bên không có thỏa thuận, pháp luật không
có quy định và không có tập quán được áp dụng theo quy định tại
Điều 5 BLDS 2015 và khoản 1 Điều 45 BLTTDS 2015. Khi áp dụng
tương tự pháp luật, Tòa án phải xác định rõ tính chất pháp lý của vụ
việc dân sự, xác định rõ ràng trong hệ thống pháp luật hiện hành không
có quy phạm pháp luật nào điều chỉnh quan hệ đó và xác định quy
phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự.
Tòa án áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án
lệ, lẽ công bằng để giải quyết vụ việc dân sự khi không thể áp dụng tập
quán, tương tự pháp luật theo quy định tại Điều 5 và khoản 1 Điều 6
BLDS 2015; khoản 1 và khoản 2 Điều 45 BLTTDS 2015. Các nguyên
tắc cơ bản của pháp luật dân sự là những nguyên tắc được quy định
tại Điều 3 của BLDS 2015. Án lệ được Tòa án nghiên cứu, áp dụng
trong giải quyết vụ việc dân sự khi đã được HĐTP TANDTC lựa chọn
và được Chánh án TANDTC công bố. Lẽ công bằng được xác định
trên cơ sở lẽ phải được mọi người trong xã hội thừa nhận, phù hợp với
nguyên tắc nhân đạo, không thiên vị và bình đẳng về quyền và nghĩa
vụ của các đương sự trong vụ việc dân sự đó (Điều 45 BLTTDS 2015).

330
1.2. Hoãn phiên toà sơ thẩm dân sự
Thứ nhất, căn cứ hoãn phiên toà sơ thẩm. Trường hợp phải thay
đổi người tiến hành tố tụng tại phiên toà sơ thẩm thì bắt buộc phải
hoãn phiên toà. Tuy nhiên, nếu có Hội đồng xét xử dự khuyết mà thành
viên hội đồng đã có mặt tham gia phiên toà từ đầu thì không phải hoãn
phiên toà mà được phép thay thế người bị thay đổi để tiếp tục tiến hành
tố tụng.
Nếu đương sự, người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt khi được triệu tập hợp lệ lần
thứ nhất bắt buộc phải hoãn phiên toà, trừ trường hợp người đó có đơn
đề nghị xét xử vắng mặt.
Nếu người phiên dịch vắng mặt mà không có người thay thế thì
bắt buộc hoãn phiên toà.
Nếu người làm chứng, người giám định vắng mặt thì Hội đồng
xét xử có quyền xem xét quyết định việc hoãn phiên toà hoặc tiếp tục
xét xử.
Thứ hai, thủ tục hoãn phiên toà sơ thẩm: Khi có căn cứ hoãn
phiên toà, Hội đồng xét xử phải tiến hành thảo luận thông qua tại
phòng nghị án để ra quyết định hoãn phiên toà, chủ tọa thay mặt Hội
đồng xét xử ký tên và thông báo công khai tại phiên toà, đối với đương
sự vắng mặt thì Toà án gửi ngay cho họ quyết định đó, đồng thời gửi
cho Viện kiểm sát cùng cấp.
Thời hạn hoãn phiên toà là không quá 01 tháng, (đối với phiên
toà xét xử theo thủ tục rút gọn là không quá 15 ngày) kể từ ngày ra
quyết định hoãn phiên toà.
Trường hợp sau khi hoãn phiên toà mà Toà án không thể mở lại
phiên toà đúng thời gian, địa điểm đã ghi trong quyết định hoãn phiên
toà thì phải có nghĩa vụ báo ngay cho đương sự và Viện kiểm sát cùng
cấp về thời gian, địa điểm mở lại phiên toà.

331
1.3. Tạm ngừng phiên toà sơ thẩm dân sự
Trong quá trình tiến hành phiên toà sơ thẩm dân sự, Hội đồng xét
xử có quyền quyết định tạm ngừng phiên toà khi có một trong các căn
cứ sau đây:
- Do tình trạng sức khoẻ hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại
khách quan khác mà người tiến hành tố tụng không thể tiếp tục tiến
hành phiên toà, trừ trường hợp thay thế được người tiến hành tố tụng
ngay tại phiên toà;
- Do tình trạng sức khoẻ hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại
khách quan khác mà người tham gia tố tụng không thể tiếp tục tham
gia phiên toà, trừ trường hợp người tham gia tố tụng có yêu cầu xét xử
vắng mặt;
- Cần phải xác minh, thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ mà nếu
không thực hiện thì không thể giải quyết được vụ án và không thể thực
hiện được ngay tại phiên tòa;
- Chờ kết quả giám định bổ sung, giám định lại;
- Các đương sự thống nhất đề nghị Tòa án tạm ngừng phiên tòa
để họ tự hòa giải;
- Cần phải báo cáo Chánh án Tòa án để đề nghị sửa đổi, bổ sung
hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật.
Việc tạm ngừng phiên tòa phải được ghi vào biên bản phiên
tòa. Thời hạn tạm ngừng phiên tòa là không quá 01 tháng, kể từ ngày
Hội đồng xét xử quyết định tạm ngừng phiên tòa. Hết thời hạn này,
nếu lý do để ngừng phiên tòa không còn thì Hội đồng xét xử tiếp tục
tiến hành phiên tòa; nếu lý do để ngừng phiên tòa chưa được khắc
phục thì Hội đồng xét xử ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ
án dân sự. Hội đồng xét xử phải thông báo bằng văn bản cho những
người tham gia tố tụng và Viện kiểm sát cùng cấp về thời gian tiếp
tục phiên tòa.

332
1.4. Căn cứ xét xử vắng mặt đương sự trong phiên toà sơ thẩm
dân sự
1.4.1. Xét xử vắng mặt một số đương sự tại phiên toà sơ thẩm
dân sự
Theo quy định tại Điều 227 BLTTDS 2015, thì:
Toà án được xét xử vắng mặt nguyên đơn nếu nguyên đơn hoặc
người đại diện của họ vắng mặt khi được Toà án triệu tập lần thứ hai
và họ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Toà án được xét xử vắng mặt bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan nếu bị đơn không có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan không có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người đại
diện tham gia phiên tòa khi được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai.
Toà án được xét xử vắng mặt bị đơn khi họ có yêu cầu phản tố
nếu: Bị đơn có yêu cầu phản tố vắng mặt khi được triệu tập hợp lệ lần
thứ hai và không có người đại diện tham gia phiên toà nhưng có đơn
đề nghị xét xử vắng mặt.
Toà án được xét xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan có yêu cầu độc lập nếu người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
có yêu cầu độc lập vắng mặt khi được triệu tập hợp lệ lần thứ hai và
không có người đại diện tham gia phiên toà nhưng có đơn đề nghị xét
xử vắng mặt.
Toà án được xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan nếu nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan vắng mặt nhưng có người đại diện hợp pháp tham
gia phiên toà.
1.4.2. Xét xử vắng mặt tất cả các đương sự tại phiên toà sơ thẩm
dân sự
Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ để xét xử
vắng mặt tất cả các đương sự và vắng mặt tất cả người tham gia tố tụng
khác trong vụ án khi có đủ tất cả các điều kiện sau đây:

333
Thứ nhất, nguyên đơn, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn
có đơn đề nghị xét xử vắng mặt;
Thứ hai, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người
đại diện hợp pháp của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
có đơn đề nghị xét xử vắng mặt hoặc đã được triệu tập hợp lệ lần thứ
hai mà vẫn vắng mặt;
Thứ ba, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn,
bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn đề nghị xét xử
vắng mặt hoặc đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt.
Trong phiên toà ở trường hợp này, chủ tọa phiên tòa công bố lý
do đương sự vắng mặt hoặc đơn của đương sự đề nghị Hội đồng xét
xử vắng mặt.
Trình tự phiên toà xét xử vắng mặt tất cả các đương sự được
thực hiện như sau: Chủ tọa phiên tòa công bố tóm tắt nội dung vụ án
và tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử thảo luận
về những vấn đề cần giải quyết trong vụ án; Kiểm sát viên phát biểu
ý kiến của Viện kiểm sát. Hội đồng xét xử tiến hành nghị án và tuyên
án theo quy định.
1.5. Thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu của đương sự tại phiên toà
sơ thẩm dân sự
Hội đồng xét xử sơ thẩm chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu
cầu của đương sự nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không
vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc
lập ban đầu. Trường hợp có đương sự rút một phần hoặc toàn bộ yêu
cầu của mình và việc rút yêu cầu của họ là tự nguyện thì Hội đồng xét
xử sơ thẩm chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hoặc
toàn bộ yêu cầu đương sự đã rút.
Trường hợp tại phiên toà sơ thẩm dân sự, nguyên đơn rút toàn bộ
yêu cầu khởi kiện, nhưng bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố của
mình thì bị đơn trở thành nguyên đơn và nguyên đơn trở thành bị đơn.

334
Trường hợp tại phiên toà sơ thẩm dân sự, nguyên đơn rút toàn bộ
yêu cầu khởi kiện, bị đơn rút toàn bộ yêu cầu phản tố, nhưng người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn giữ nguyên yêu cầu độc lập của mình
thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trở thành nguyên đơn, người
bị khởi kiện theo yêu cầu độc lập trở thành bị đơn.
1.6. Công nhận sự thoả thuận của đương sự tại phiên toà sơ
thẩm dân sự
Trường hợp tại phiên toà sơ thẩm dân sự, các đương sự thoả
thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và thoả thuận của họ là
tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã
hội thì Hội đồng xét xử sơ thẩm ra quyết định công nhận sự thoả thuận
của các đương sự về việc giải quyết vụ án. Quyết định công nhận sự
thoả thuận của các đương sự về việc giải quyết vụ án có hiệu lực pháp
luật ngay sau khi được ban hành.
1.7. Sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân tại phiên toà sơ
thẩm dân sự
VKSND kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong phiên toà sơ
thẩm dân sự nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ án đúng pháp luật.
Viện kiểm sát tham gia các phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ
án sau đây: Vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối
tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất,
nhà ở hoặc có đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực
hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc trường hợp vụ án chưa có
luật áp dụng để giải quyết.
Kiểm sát viên được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phân
công có nhiệm vụ tham gia phiên tòa; nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì
Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử, không hoãn phiên tòa.
Trường hợp Kiểm sát viên bị thay đổi tại phiên tòa hoặc không
thể tiếp tục tham gia phiên tòa xét xử, nhưng có Kiểm sát viên dự

335
khuyết thì người này được tham gia phiên tòa xét xử tiếp vụ án nếu họ
có mặt tại phiên tòa từ đầu.
Tại phiên toà sơ thẩm dân sự, sau khi những người tham gia tố
tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, Kiểm sát viên phát biểu ý
kiến về việc tuân thủ pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét
xử, Thư ký phiên toà và những người tham gia tố tụng trong quá trình
Toà án giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý đến trước thời điểm Hội đồng
xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án.
1.8. Thay đổi người tiến hành tố tụng tại phiên toà sơ thẩm dân sự
1.8.1. Căn cứ thay đổi người tiến hành tố tụng tại phiên toà sơ
thẩm dân sự
Người tiến hành tố tụng tại phiên toà sơ thẩm dân sự gồm: Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án, Kiểm sát viên.
Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thay đổi Thẩm phán,
Hội thẩm nhân dân tại phiên toà sơ thẩm khi có một trong các căn
cứ sau đây:
- Họ đồng thời là đương sự, người đại diện của đương sự, người
thân thích của đương sự.
- Họ đã tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người
phiên dịch trong cùng vụ án đó.
- Có căn cứ rõ ràng cho rằng họ có thể không vô tư khi làm
nhiệm vụ.
- Họ cùng trong một Hội đồng xét xử và là người thân thích với
nhau (trong trường hợp này, chỉ có một người được tiến hành tố tụng).
- Họ đã tham gia giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm, phúc
thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm và đã ra bản án sơ thẩm, phúc thẩm,
quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm, quyết định đình chỉ giải quyết vụ
án, quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự.

336
- Họ đã là người tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách
Thẩm tra viên, Thư ký Toà án, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên.
Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thay đổi Thư ký Toà án tại
phiên toà sơ thẩm khi có một trong các căn cứ sau đây:
- Họ đồng thời là đương sự, người đại diện của đương sự, người
thân thích của đương sự
- Họ đã tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người
phiên dịch trong cùng vụ án đó.
- Có căn cứ rõ ràng cho rằng họ có thể không vô tư khi làm
nhiệm vụ.
- Họ đã là người tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra viên, Thư ký Toà án, Kiểm
sát viên, Kiểm tra viên.
- Họ là người thân thích với một trong những người tiến hành tố
tụng khác của vụ án.
Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thay đổi Kiểm sát viên tại
phiên toà sơ thẩm khi có một trong các căn cứ sau đây:
- Họ đồng thời là đương sự, người đại diện của đương sự, người
thân thích của đương sự.
- Họ đã tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người
phiên dịch trong cùng vụ án đó.
- Có căn cứ rõ ràng cho rằng họ có thể không vô tư khi làm
nhiệm vụ.
- Họ đã là người tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra viên, Thư ký Toà án, Kiểm
sát viên, Kiểm tra viên.

337
1.8.2. Thẩm quyền thay đổi người tiến hành tố tụng tại phiên toà
sơ thẩm dân sự
Tại phiên tòa, việc thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư
ký Tòa án do Hội đồng xét xử quyết định sau khi nghe ý kiến của
người bị yêu cầu thay đổi. Hội đồng xét xử thảo luận tại phòng nghị án
và quyết định theo đa số. Trường hợp phải thay đổi Thẩm phán, Hội
thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án thì Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn
phiên tòa. Chánh án Tòa án quyết định cử Thẩm phán, Hội thẩm nhân
dân, Thư ký Tòa án thay thế người bị thay đổi.
Nếu người bị thay đổi là Chánh án Tòa án thì thẩm quyền quyết
định được thực hiện như sau: Trường hợp Thẩm phán bị thay đổi là
Chánh án Tòa án thì thẩm quyền quyết định việc thay đổi như sau:
- Thẩm phán là Chánh án TAND cấp huyện thì do Chánh án
TAND cấp tỉnh quyết định;
- Thẩm phán là Chánh án TAND cấp tỉnh thì do Chánh án
TAND cấp cao có thẩm quyền theo lãnh thổ đối với TAND cấp tỉnh
đó quyết định;
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày hoãn phiên tòa,
phiên họp, Chánh án Tòa án phải cử người khác thay thế.
Tại phiên tòa sơ thẩm dân sự, việc thay đổi Kiểm sát viên do Hội
đồng xét xử quyết định sau khi nghe ý kiến của người bị yêu cầu thay
đổi. Hội đồng xét xử thảo luận tại phòng nghị án và quyết định theo
đa số. Trường hợp phải thay đổi Kiểm sát viên thì Hội đồng xét xử ra
quyết định hoãn phiên tòa. Việc cử Kiểm sát viên thay thế Kiểm sát
viên bị thay đổi do Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp quyết định.
Nếu Kiểm sát viên bị thay đổi là Viện trưởng Viện kiểm sát thì do Viện
trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp quyết định. Trong thời hạn 03
ngày làm việc, kể từ ngày hoãn phiên tòa, phiên họp, Viện trưởng Viện
kiểm sát phải cử người khác thay thế và thông báo bằng văn bản cho
Tòa án.

338
1.9. Trình tự phiên toà sơ thẩm dân sự theo thủ tục thông thường
Trình tự của phiên toà sơ thẩm dân sự gồm ba phần: Thủ tục bắt
đầu phiên toà; Tranh tụng tại phiên toà; Nghị án và tuyên án.
1.9.1. Thủ tục bắt đầu phiên toà
Nội dung của phần thủ tục bắt đầu phiên toà sơ thẩm dân sự bao
gồm các hoạt động sau đây:
- Chủ tọa phiên tòa khai mạc phiên tòa và đọc quyết định đưa vụ
án ra xét xử;
- Thư ký phiên tòa báo cáo Hội đồng xét xử về sự có mặt, vắng
mặt của những người tham gia phiên tòa theo giấy triệu tập, giấy báo
của Tòa án và lý do vắng mặt.
- Chủ tọa phiên tòa kiểm tra lại sự có mặt của những người tham
gia phiên tòa theo giấy triệu tập, giấy báo của Tòa án và kiểm tra căn
cước của đương sự, người tham gia tố tụng khác.
- Chủ tọa phiên tòa phổ biến quyền, nghĩa vụ của đương sự và
của người tham gia tố tụng khác.
- Chủ toạ phiên tòa giới thiệu họ, tên những người tiến hành tố
tụng, người giám định, người phiên dịch.
- Chủ tọa phiên tòa hỏi những người có quyền yêu cầu thay đổi
người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch xem họ
có yêu cầu thay đổi ai không. Trường hợp có người yêu cầu thay đổi
người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch thì Hội
đồng xét xử phải xem xét, quyết định theo quy định và có thể chấp
nhận hoặc không chấp nhận; trường hợp không chấp nhận thì phải nêu
rõ lý do.
- Yêu cầu người làm chứng cam kết khai báo đúng sự thật, nếu
khai không đúng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, trừ trường
hợp người làm chứng là người chưa thành niên. Chủ tọa phiên tòa có
thể quyết định những biện pháp cần thiết để những người làm chứng

339
không nghe được lời khai của nhau hoặc tiếp xúc với những người có
liên quan. Trường hợp lời khai của đương sự và người làm chứng có
ảnh hưởng lẫn nhau thì chủ tọa phiên tòa có thể quyết định cách ly
đương sự với người làm chứng trước khi hỏi người làm chứng.
- Yêu cầu người giám định, người phiên dịch cam kết cung cấp
kết quả giám định chính xác, phiên dịch đúng nội dung cần phiên dịch.
- Xem xét, quyết định hoãn phiên tòa khi có người vắng mặt.
Khi có người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa mà không thuộc
trường hợp Tòa án phải hoãn phiên tòa thì chủ toạ phiên tòa phải hỏi
xem có ai đề nghị hoãn phiên tòa hay không; nếu có người đề nghị
thì Hội đồng xét xử xem xét, quyết định theo quy định và có thể chấp
nhận hoặc không chấp nhận; trường hợp không chấp nhận thì phải nêu
rõ lý do.
1.9.2. Tranh tụng tại phiên toà
Tranh tụng tại phiên tòa bao gồm việc trình bày chứng cứ, hỏi,
đối đáp, trả lời và phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ,
tình tiết của vụ án dân sự, quan hệ pháp luật tranh chấp và pháp luật áp
dụng để giải quyết yêu cầu của các đương sự trong vụ án. Việc tranh
tụng tại phiên tòa được tiến hành theo sự điều khiển của chủ tọa phiên
tòa. Chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh tụng, tạo
điều kiện cho những người tham gia tranh tụng trình bày hết ý kiến
nhưng có quyền yêu cầu họ dừng trình bày những ý kiến không có liên
quan đến vụ án dân sự.
Nội dung cơ bản của phần tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm dân
sự bao gồm:
Thứ nhất, trình bày của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự trong phần tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm
dân sự
Trường hợp có đương sự vẫn giữ nguyên yêu cầu của mình và
các đương sự không tự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ
án thì các đương sự trình bày theo trình tự sau đây:

340
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình
bày về yêu cầu và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của nguyên
đơn là có căn cứ và hợp pháp. Nguyên đơn có quyền bổ sung ý kiến.
Trường hợp cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án thì đại diện cơ quan, tổ
chức trình bày về yêu cầu và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu
khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp;
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày ý
kiến của bị đơn đối với yêu cầu của nguyên đơn; yêu cầu phản tố, đề
nghị của bị đơn và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị đó là
có căn cứ và hợp pháp. Bị đơn có quyền bổ sung ý kiến;
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trình bày ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đối với yêu cầu, đề nghị của nguyên đơn, bị đơn; yêu cầu độc
lập, đề nghị của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và chứng cứ để
chứng minh cho yêu cầu, đề nghị đó là có căn cứ và hợp pháp. Người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền bổ sung ý kiến.
Trường hợp nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình
thì họ tự trình bày về yêu cầu, đề nghị của mình và chứng cứ để chứng
minh cho yêu cầu, đề nghị đó là có căn cứ và hợp pháp.
Thứ hai, thủ tục hỏi trong phần tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm
dân sự
Sau khi nghe xong lời trình bày của đương sự, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, theo sự điều hành của chủ tọa
phiên tòa, thứ tự hỏi của từng người được thực hiện như sau:
- Nguyên đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
nguyên đơn hỏi trước, tiếp đến bị đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của bị đơn, sau đó là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan;

341
- Những người tham gia tố tụng khác;
- Chủ tọa phiên tòa, Hội thẩm nhân dân;
- Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Việc đặt câu hỏi phải rõ ràng, nghiêm túc, không trùng lắp,
không lợi dụng việc hỏi và trả lời để xâm phạm danh dự, nhân phẩm
của những người tham gia tố tụng. Trường hợp có nhiều nguyên đơn,
bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì phải hỏi riêng từng
đương sự. Chỉ hỏi đương sự về những vấn đề mà người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của họ hoặc họ trình bày chưa rõ, có mâu thuẫn với
nhau hoặc mâu thuẫn với lời khai của họ trước đó, mâu thuẫn với lời
trình bày của các đương sự khác và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của những người này. Các đương sự có thể tự mình trả lời hoặc
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trả lời thay cho
họ và sau đó họ trả lời bổ sung.
Đối với việc hỏi người làm chứng: Trước khi hỏi người làm
chứng, chủ tọa phiên tòa phải hỏi rõ về quan hệ giữa họ với các đương
sự trong vụ án; nếu người làm chứng là người chưa thành niên thì chủ
tọa phiên tòa có thể yêu cầu cha, mẹ, người giám hộ hoặc thầy giáo,
cô giáo giúp đỡ để hỏi. Trường hợp có nhiều người làm chứng thì phải
hỏi riêng từng người một. Chủ tọa phiên tòa yêu cầu người làm chứng
trình bày rõ những tình tiết của vụ án mà họ biết; sau khi người làm
chứng trình bày xong thì chỉ hỏi thêm người làm chứng về những điểm
mà họ trình bày chưa rõ, chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn với nhau,
mâu thuẫn với lời khai của họ trước đó, mâu thuẫn với lời trình bày của
đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Sau
khi đã trình bày xong, người làm chứng ở lại phòng xử án để có thể
được hỏi thêm. Trong trường hợp cần thiết phải bảo đảm an toàn cho
người làm chứng và những người thân thích của họ, Hội đồng xét xử
quyết định không tiết lộ thông tin về nhân thân của người làm chứng
và không để những người trong phiên tòa nhìn thấy họ. Đương sự,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hỏi người làm
chứng sau khi được sự đồng ý của chủ tọa phiên tòa.

342
Đối với việc hỏi người giám định: Chủ tọa phiên tòa yêu cầu
người giám định trình bày kết luận của mình về vấn đề được yêu cầu
giám định. Khi trình bày, người giám định có quyền giải thích về kết
luận giám định, các căn cứ để đưa ra kết luận giám định. Kiểm sát
viên, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự, người tham gia tố tụng khác có mặt tại phiên tòa có quyền nhận
xét về kết luận giám định; hỏi những vấn đề còn chưa rõ hoặc có mâu
thuẫn trong kết luận giám định hoặc có mâu thuẫn với những tình tiết
khác của vụ án sau khi được sự đồng ý của chủ tọa phiên tòa. Trường
hợp người giám định không có mặt tại phiên tòa thì chủ tọa phiên tòa
công bố kết luận giám định. Khi có đương sự, người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự không đồng ý với kết luận giám định
được công bố tại phiên tòa và có yêu cầu giám định bổ sung hoặc giám
định lại, nếu xét thấy việc giám định bổ sung, giám định lại là cần thiết
cho việc giải quyết vụ án thì Hội đồng xét xử quyết định giám định bổ
sung, giám định lại; trong trường hợp này, Hội đồng xét xử quyết định
tạm ngừng phiên tòa theo quy định.
Thứ ba, công bố tài liệu, chứng cứ của vụ án trong phần tranh
tụng tại phiên toà sơ thẩm dân sự
Hội đồng xét xử công bố tài liệu, chứng cứ của vụ án trong các
trường hợp sau đây:
- Người tham gia tố tụng không có mặt tại phiên tòa nhưng đã có
lời khai trong giai đoạn chuẩn bị xét xử;
- Lời khai của người tham gia tố tụng tại phiên tòa mâu thuẫn với
lời khai trước đó;
- Trong các trường hợp khác mà Hội đồng xét xử thấy cần thiết
hoặc có yêu cầu của Kiểm sát viên, đương sự, người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự, người tham gia tố tụng khác.
Trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, giữ gìn thuần
phong mỹ tục của dân tộc, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh,
bí mật cá nhân, bí mật gia đình, bảo vệ người chưa thành niên theo yêu

343
cầu của đương sự thì Hội đồng xét xử không công bố tài liệu, chứng
cứ có trong hồ sơ vụ án.
Thứ tư, nghe băng ghi âm, đĩa ghi âm, xem băng ghi hình, đĩa ghi
hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh trong phần tranh tụng tại
phiên toà sơ thẩm dân sự
Tại phiên toà sơ thẩm dân sự, trong phần tranh tụng, theo yêu cầu
của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự,
người tham gia tố tụng khác, Kiểm sát viên hoặc khi xét thấy cần thiết,
Hội đồng xét xử cho nghe băng ghi âm, đĩa ghi âm, xem băng ghi hình,
đĩa ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh tại phiên tòa, trừ
trường hợp cần giữ bí mật nhà nước, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân
tộc, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật
gia đình, bảo vệ người chưa thành niên theo yêu cầu của đương sự thì
Hội đồng xét xử không công bố tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
Thứ năm, xem xét vật chứng trong phần tranh tụng tại phiên toà
sơ thẩm dân sự
Vật chứng, ảnh hoặc biên bản xác nhận vật chứng được đưa ra
để xem xét tại phiên tòa. Khi cần thiết, Hội đồng xét xử có thể cùng
với đương sự đến xem xét tại chỗ vật chứng không thể đưa đến phiên
tòa được.
Khi nhận thấy các tình tiết của vụ án đã được xem xét đầy đủ thì
chủ tọa phiên tòa hỏi Kiểm sát viên, đương sự, người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự và những người tham gia tố tụng khác
xem họ có yêu cầu hỏi vấn đề gì nữa không; trường hợp có người yêu
cầu và xét thấy yêu cầu đó là có căn cứ thì chủ tọa phiên tòa quyết định
tiếp tục việc hỏi.
Thứ sáu, tranh luận trong phần tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm
dân sự
Sau khi kết thúc việc hỏi, Hội đồng xét xử chuyển sang phần
tranh luận tại phiên tòa. Trình tự phát biểu khi tranh luận được thực
hiện như sau:

344
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình
bày. Nguyên đơn có quyền bổ sung ý kiến. Trường hợp cơ quan, tổ
chức khởi kiện thì đại diện cơ quan, tổ chức trình bày ý kiến. Người có
quyền và lợi ích hợp pháp được bảo vệ có quyền bổ sung ý kiến;
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn tranh luận,
đối đáp. Bị đơn có quyền bổ sung ý kiến;
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trình bày. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
có quyền bổ sung ý kiến;
- Các đương sự đối đáp theo sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa;
Khi xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử có thể yêu cầu các đương
sự tranh luận bổ sung về những vấn đề cụ thể để làm căn cứ giải quyết
vụ án.
Trường hợp nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thì họ tự
mình trình bày khi tranh luận.
Trường hợp vắng mặt một trong các đương sự và người tham gia
tố tụng khác thì chủ tọa phiên tòa phải công bố lời khai của họ để trên
cơ sở đó các đương sự có mặt tại phiên tòa tranh luận và đối đáp.
Khi phát biểu về đánh giá chứng cứ, đề xuất quan điểm của mình
về việc giải quyết vụ án, người tham gia tranh luận phải căn cứ vào tài
liệu, chứng cứ đã thu thập được và đã được xem xét, kiểm tra tại phiên
tòa cũng như kết quả việc hỏi tại phiên tòa. Người tham gia tranh luận
có quyền đáp lại ý kiến của người khác.
Qua tranh luận, nếu xét thấy có tình tiết của vụ án chưa được xem
xét, việc xem xét chưa được đầy đủ hoặc cần xem xét thêm chứng cứ
thì Hội đồng xét xử quyết định trở lại việc hỏi và tranh luận.
Thứ bảy, phát biểu của Kiểm sát viên trong phần tranh tụng tại
phiên toà sơ thẩm dân sự
Sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và

345
đối đáp xong, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp
luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và
của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi
thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý
kiến về việc giải quyết vụ án. Ngay sau khi kết thúc phiên tòa, Kiểm
sát viên phải gửi văn bản phát biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ
sơ vụ án.
2. Kỹ năng của Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên tại phiên
tòa sơ thẩm
2.1. Kỹ năng của Luật sư tại phiên tòa sơ thẩm
Hoạt động tố tụng của Luật sư tại phiên tòa xét xử sơ thẩm đặc
biệt quan trọng vì nó có ý nghĩa quyết định đối với kết quả công việc
của Luật sư trong vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm. Phiên tòa sơ thẩm
là khoảng thời gian thể hiện tổng hợp mọi kiến thức, kỹ năng, kinh
nghiệm nghề nghiệp của Luật sư tranh tụng và cũng là minh chứng rõ
nét nhất về tài ba của Luật sư tranh tụng. Đây cũng chính là thời điểm
cuối cùng và quyết định hiệu quả làm việc của Luật sư trong vụ án tại
Tòa án cấp sơ thẩm. Do vậy, Luật sư cần bám sát kỹ năng hành nghề
theo tiến trình tố tụng mới này để bảo đảm việc thực hiện tranh tụng
tuân theo pháp luật. Bên cạnh đó, Luật sư cần chú ý chuẩn bị và thực
hành nghề tốt nhất cho giai đoạn này nhằm đạt được mục tiêu bảo vệ
tối đa quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng.
2.1.1. Kỹ năng chuẩn bị trước thời điểm khai mạc phiên tòa
Khi nhận được quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm của Tòa
án cấp sơ thẩm có thẩm quyền, Luật sư đã phải thực hiện kỹ năng xử
lý đối với các vấn đề liên quan trước thời điểm khai mạc phiên tòa để
hoạt động tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm có sự chủ động và hiệu quả.
Luật sư có thể lưu ý một số vấn đề liên quan dưới đây:
a) Trang phục tham gia phiên tòa của Luật sư
Ngày 27/02/2011, Hội đồng Luật sư toàn quốc của Liên đoàn

346
Luật sư Việt Nam (VBF) đã thông qua Nghị quyết số 12/NQ-HĐLSTQ
về trang phục Luật sư khi tham gia phiên tòa và quy định cụ thể: kể
từ ngày 10/10/2011, các Luật sư bắt buộc phải mặc trang phục thống
nhất khi tham gia phiên tòa theo mẫu: áo veston và quần âu màu đen,
áo sơ mi màu trắng do Đoàn Luật sư may tập trung hoặc các Luật sư tự
may theo quy định của VBF; cà vạt màu xám lông chuột do VBF may
thống nhất; huy hiệu có hình biểu tượng logo của VBF đeo trên ngực
trái áo trang phục; trang phục thống nhất nêu trên áp dụng cho cả Luật
sư nam và Luật sư nữ; mùa đông mặc đủ bộ trang phục, mùa hè có thể
không mặc áo veston.
Ngày 25/10/2011, VBF có Công văn số 277/LĐLSVN về
việc Luật sư mặc trang phục thống nhất khi tham gia phiên tòa gửi
TANDTC thông báo nội dung trên. Sau đó, ngày 15/11/2011, Chánh
án TANDTC đã ban hành Công văn số 116/TA-TKTH yêu cầu Chánh
án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp, Chánh tòa các Tòa
phúc thẩm TANDTC quán triệt nội dung về trang phục khi tham gia
phiên tòa của Luật sư nêu trên đến các Thẩm phán, cán bộ trong đơn vị
để các Hội đồng xét xử lưu ý, nhắc nhở Luật sư mặc đúng trang phục
theo quy định của VBF khi tham gia phiên tòa.
Vì vậy, khi tham gia phiên tòa, Luật sư cần đặc biệt lưu tâm
chuẩn bị trang phục Luật sư theo quy định tại phiên tòa. Việc tuân thủ
quy định của VBF về trang phục cũng là nhằm nâng cao trách nhiệm,
hình ảnh của Luật sư Việt Nam, đồng thời bảo đảm tính trang nghiêm
của phiên tòa.
b) Lưu ý về thời gian mở phiên tòa
Tại quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm và Giấy mời/Giấy báo
cho Luật sư tham gia tố tụng Tòa án cấp sơ thẩm đã ấn định thời gian
mở phiên tòa, chẳng hạn: “vào hồi 9h00 sáng ngày 28 tháng 8 năm
2015”. Do vậy, Luật sư phải kiểm tra ngay lịch làm việc của mình để
tránh việc trùng lặp thời gian tham gia tố tụng vụ án khác (nếu có),
trường hợp trùng lịch phiên tòa phải xử lý xin hoãn hay không, cần

347
trao đổi để thân chủ hiểu và đồng ý với đề nghị của Luật sư, tránh gặp
rắc rối trong mối quan hệ giữa Luật sư và khách hàng.
Thêm vào đó, khi biết được thời gian xét xử sơ thẩm của vụ
án đã ấn định, Luật sư sẽ dễ dàng bố trí lịch trình công tác phù hợp
cho bản thân (phương tiện, lộ trình, giờ xuất phát...). Việc Luật sư
đến muộn tại phiên tòa sơ thẩm là tối kỵ vì điều này làm ảnh hưởng
rất lớn đến tâm lý lo lắng của thân chủ khi họ đã có mặt mà Luật sư
chưa có mặt, ngoài ra cũng ảnh hưởng chung đến phiên tòa, những
người tham gia tố tụng khác, đặc biệt tác động không tốt đến sự đánh
giá của những người tiến hành tố tụng về sự chậm trễ của Luật sư.
Vì vậy, khi biết thời gian xét xử sơ thẩm ấn định rồi, Luật sư sẽ phải
tính toán thời gian di chuyển của mình cho phù hợp để bảo đảm sự
có mặt đúng giờ tại phiên tòa.
Lưu ý trường hợp những vụ án được xét xử ở xa, Luật sư cần
chuẩn bị phương tiện, đặt vé máy bay/tàu/xe cho phù hợp để bảo đảm
sự có mặt của mình tại phiên tòa sơ thẩm.
c) Về địa điểm mở phiên tòa
Tại quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm và/hoặc Giấy mời/
Giấy báo cho Luật sư tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm, luôn thể
hiện địa điểm xét xử. Tuy nhiên, tùy theo điều kiện cơ sở vật chất của
Tòa án cấp sơ thẩm để xác định địa điểm xét xử cụ thể có được thông
báo chi tiết hay không. Thực tế cho thấy, một số Tòa án có điều kiện
cơ sở vật chất tốt thường có thể ấn định số phòng xử tại Giấy mời/Giấy
báo cho Luật sư, nhưng có những Tòa án lượng phòng xử không có
nhiều nên thường chỉ thông báo địa điểm xét xử là trụ sở của Tòa án.
Do vậy, trong trường hợp này, Luật sư cần chủ động đến sớm để xác
định phòng xử hoặc liên hệ với Thư ký phiên tòa hỏi vị trí phòng xử
của Tòa án bố trí cụ thể ra sao. Việc xác định vị trí phòng xử là hết sức
cần thiết, tránh trường hợp khi đến Tòa án, thân chủ hỏi mà Luật sư
chưa biết phòng xử. Luật sư nên đến phòng xử trước để xem xét, nhận
định sự có mặt/vắng mặt của bên đối tụng, những người tham gia tố

348
tụng khác nhằm chuẩn bị kỹ năng cho ý kiến về việc vắng mặt đương
sự, người tham gia tố tụng khác tại phần thủ tục khai mạc phiên tòa
sau đó.
Xác định được địa chỉ phòng xử cũng nhằm chuẩn bị cho Luật
sư xác định, ổn định chỗ ngồi của mình bảo đảm dễ dàng tranh tụng,
cung cấp tài liệu, chứng cứ được quyền xuất trình tại phiên tòa (sau
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa
giải) hoặc xin phép chủ tọa phiên tòa ra ngoài khi thực sự cần thiết.
Ngoài ra, khi xác định được phòng xử, Luật sư có thể quan sát thêm
được những người tham dự phiên tòa khác (giới báo chí, truyền thông,
người liên quan của các bên đương sự...) để bảo đảm sự chuẩn mực
trong tác phong, thái độ hành xử, phát ngôn của Luật sư tránh gây phản
cảm dẫn đến việc báo chí đưa tin hay khiến người thân, họ hàng, bạn
bè của phía đối tụng có phản ứng tiêu cực, ảnh hưởng đến uy tín, danh
dự của Luật sư.
d) Về việc Tòa án triệu tập đương sự và những người khác tham
gia phiên tòa sơ thẩm
Khi nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm, Luật sư cũng
cần chú ý đến việc ngoài đương sự của vụ án thì Tòa án cấp sơ thẩm
còn triệu tập thêm ai khác (ví dụ, Giám định viên, phiên dịch, người
làm chứng...) để chuẩn bị kế hoạch của Luật sư cho việc phát biểu ý
kiến về sự vắng mặt những người này (nếu có) ở phần thủ tục khai
mạc phiên tòa hoặc chuẩn bị nội dung hỏi liên quan trong phần tranh
tụng tại phiên tòa. Nếu Luật sư không chú ý nghiên cứu vấn đề này tại
Quyết định đưa vụ án ra xét xử, chắc chắn sẽ bị động về sự có mặt của
những người tham gia tố tụng khác được Tòa án triệu tập và không thể
khai thác triệt để sự tham gia tố tụng của họ nhằm bảo đảm kỹ năng
tranh tụng của Luật sư tại phiên tòa hiệu quả nhất.
Ví dụ:
Trong quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án cấp sơ thẩm có
triệu tập Giám định viên Nguyễn Văn A, Luật sư phải kiểm tra ngay

349
tập bút lục liên quan đến việc trưng cầu giám định và kết luận giám
định để đối chiếu tên Giám định viên đã thực hiện giám định tư pháp
trong vụ án theo quy định, đồng thời để chứng minh kết quả giám
định phù hợp với yêu cầu của khách hàng, Luật sư phải dự kiến kế
hoạch hỏi đối với Giám định viên để chứng minh tính chính xác, phù
hợp của kết luận giám định. Ngược lại, muốn làm rõ kết quả giám
định mâu thuẫn với yêu cầu của khách hàng, Luật sư cần chuẩn
bị các câu hỏi cho Giám định viên trả lời, giải thích nhằm chứng
minh trình tự giám định, phương pháp giám định, mẫu so sánh... còn
những vấn đề chưa rõ hoặc không phù hợp quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, Luật sư cũng cần chú ý, mặc dù được Tòa án sơ thẩm
triệu tập nhưng giám định viên vắng mặt tại phiên tòa thì tùy theo
quyết định của Hội đồng xét xử, phiên xử sơ thẩm vẫn có thể được
tiếp tục hoặc phải hoãn theo quy định tại Điều 230 BLTTDS 2015.
e) Lưu ý về những người tiến hành tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm
Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm luôn thể hiện thành phần
những người tiến hành tố tụng. Luật sư khi xem xét quyết định này
cũng cần chú ý đến việc Tòa án cấp sơ thẩm có đưa những người tiến
hành tố tụng dự khuyết vào không, bởi liên quan đến quan điểm của
Luật sư về việc vắng mặt/thay thế người tiến hành tố tụng để đề nghị
hoãn hay tiếp tục phiên xử tại phần thủ tục bắt đầu phiên tòa theo quy
định của BLTTDS 2015.
Ví dụ:
Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm có nêu tên Hội thẩm
nhân dân là Nguyễn Văn A và Nguyễn Thị B, Hội thẩm nhân dân
dự khuyết là Nguyễn Thị C thì khi Nguyễn Văn A hoặc Nguyễn Thị
B vắng mặt, Nguyễn Thị C có quyền tiến hành tố tụng tại phiên tòa
sơ thẩm thay cho Hội thẩm nhân dân vắng mặt, theo quy định tại
khoản 1 Điều 226 BLTTDS 2015. Vì vậy, ý kiến đề xuất với Hội
đồng xét xử của Luật sư phải là không hoãn phiên tòa. Tuy nhiên,
nếu không có Hội thẩm nhân dân dự khuyết trong Quyết định đưa
vụ án ra xét xử sơ thẩm thì trong trường hợp này, Luật sư phải đề
xuất hoãn phiên tòa theo quy định.

350
2.1.2. Kỹ năng của Luật sư trong phần thủ tục bắt đầu phiên toà
BLTTDS 2015 quy định thủ tục bắt đầu phiên tòa trong phạm vi
08 điều (từ Điều 239 đến Điều 246). Do vậy, Luật sư tranh tụng cần
nắm chắc các quy định này để thực hành kỹ năng tranh tụng của mình
một cách tốt nhất tại phiên tòa sơ thẩm.
a) Việc đề xuất yêu cầu hoãn phiên tòa
Luật sư cần căn cứ theo quy định tại Điều 233 BLTTDS 2015 và
tình huống thực tiễn tại phiên tòa để đề xuất yêu cầu hoãn phiên tòa.
Trong trư­ờng hợp Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên toà không
theo các căn cứ pháp lý quy định trên đây thì Luật sư­ nên đề xuất ý
kiến hoặc thực hiện khiếu nại đối với quyết định hoãn phiên tòa đó.
Tuy nhiên, nếu nhận thấy việc hoãn phiên tòa là cần thiết và có lợi cho
thân chủ thì Luật sư không nên phản đối, mà đề xuất ý kiến đề nghị
hoãn phiên tòa để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ.
Việc quyết định hoãn hay không thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét
xử, vì vậy Luật sư nên trao đổi để thân chủ biết về quyết định của Hội
đồng xét xử không phụ thuộc vào đề xuất của Luật sư.
Ví dụ:
Việc xử lý tình huống hoãn phiên tòa theo quy định tại khoản 3
Điều 52 BLTTDS 2015 về trường hợp thay đổi người tiến hành
tố tụng do “có căn cứ cho rằng họ có thể không vô tư trong khi
làm nhiệm vụ”, có nghĩa là Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân,
Thư ký Tòa án, Kiểm sát viên sẽ bị thay đổi nếu thân chủ/Luật
sư có tài liệu, chứng cứ chứng minh căn cứ này. Tuy nhiên, thời
điểm đưa ra đề nghị thay đổi của thân chủ hoặc của Luật sư có
ý nghĩa quyết định đối với việc hoãn phiên tòa hay không. Theo
quy định của BLTTDS 2015, việc đề nghị thay đổi người tiến
hành tố tụng là Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án
trước khi mở phiên tòa do Chánh án Tòa án quyết định; việc
thay đổi Kiểm sát viên trước khi mở phiên tòa do Viện trưởng
Viện kiểm sát quyết định. Song, nếu đề nghị đó đưa ra tại phiên
tòa sơ thẩm lại thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử quyết
định. Thực tế tố tụng cho thấy, trừ khi có chứng cứ rõ ràng

351
chứng minh sự không vô tư khi giải quyết vụ án của người tiến
hành tố tụng thì Hội đồng xét xử mới ra quyết định hoãn phiên
tòa; còn nhìn chung với những lý do có tính lý thuyết theo quy
định như người tiến hành tố tụng vi phạm tố tụng, không chấp
nhận yêu cầu hợp pháp, đề nghị chính đáng của thân chủ…thì
Hội đồng xét xử không chấp nhận thay đổi và không hoãn phiên
tòa. Điều này là thực tế, chẳng hạn Luật sư đề nghị thay đổi
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa Nguyễn Văn A nhưng hiếm khi
Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm (do Thẩm phán Nguyễn Văn A làm
chủ tọa) lại thay đổi chính Thẩm phán Nguyễn Văn A. Vì vậy,
việc đề nghị thay đổi Thẩm phán cần được thực hiện trước thời
điểm mở phiên tòa để thuộc thẩm quyền của Chánh án Tòa án,
như vậy mới có thêm thời gian cho việc xem xét đề nghị thay
đổi và dẫn đến hệ quả hoãn phiên tòa. Theo đó, việc đề nghị
thay đổi cũng không nên đưa ra qua sớm bởi lẽ Chánh án Tòa
án hoặc Viện trưởng VKSND cấp sơ thẩm nếu có đủ thời gian
sẽ kịp giải quyết khiếu nại và ra Quyết định không thay đổi,
đồng thời thông báo cho người có yêu cầu thay đổi hoặc quyết
định không thay đổi người tiến hành tố tụng sẽ được đọc công
khai trực tiếp tại phần thủ tục bắt đầu phiên tòa. Bên cạnh đó,
Luật sư cũng cần chú ý việc nộp đơn yêu cầu thay đổi người tiến
hành tố tụng trước khi mở phiên tòa cần tính toán thời gian hợp
lý để có được biên nhận của Tòa án hoặc VKSND cấp sơ thẩm
nhằm chứng minh với Hội đồng xét xử việc đã có yêu cầu thay
đổi từ trước khi mở phiên tòa, mới có căn cứ để Hội đồng xét xử
xác định không thuộc thẩm quyền của mình tại phiên tòa nhằm
quyết định hoãn phiên tòa theo quy định.
b) Về việc tham gia phiên tòa sơ thẩm của những người làm chứng
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm, Tòa án có triệu
tập người làm chứng sẽ được thể hiện trên quyết định này. Tuy
nhiên tại phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, Luật sư phải chú ý khi
Thẩm phán chủ tọa kiểm tra căn cước của người tham gia tố tụng
khác để biết số người làm chứng là những ai có mặt, họ là người
làm chứng đã có lời khai trong hồ sơ vụ án có lợi hay không có lợi
cho thân chủ của mình.

352
Nếu là người làm chứng có lời khai bất lợi cho thân chủ của
mình, căn cứ quy định tại Điều 242 BLTTDS 2015, Luật sư cần đề
nghị Chủ tọa phiên tòa cho cách ly người làm chứng với đương sự phía
đối tụng, cách ly những người làm chứng với nhau để họ không nghe
được lời khai của nhau hoặc tiếp xúc với những người có liên quan,
gây bất lợi thêm cho thân chủ của mình.
Ví dụ:
Trong vụ án hôn nhân và gia đình, chị Nguyễn Thị B xin ly hôn
với anh Nguyễn Văn A. Khách hàng của Luật sư là chị B rất mong
muốn ly hôn nhưng anh A không đồng ý ly hôn, quá trình giải
quyết vụ án theo đề nghị của anh A, Tòa án cấp sơ thẩm có đưa bà
Nguyễn Thị H (mẹ đẻ anh A) và bà Nguyễn Thị E (hàng xóm thân
thiết với anh A) vào tham gia tố tụng với tư cách người làm chứng,
họ đã có lời khai tại Tòa án bất lợi cho chị B về việc xin nuôi con.
Trong trường hợp này, sự có mặt của bà H và bà E tại phiên tòa
là bất lợi thêm cho chị B. Do vậy, căn cứ Điều 242 BLTTDS 2015,
Luật sư của chị B cần đề nghị Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cách ly
anh A với bà H và bà E cũng như cách ly bà H với bà E khi hỏi tại
phiên tòa, để bảo đảm việc họ không nghe được lời khai của nhau,
tránh tiếp xúc, trao đổi với nhau tại phiên tòa gây bất lợi cho thân
chủ của mình.
c) Đề xuất việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu
Theo quy định tại Điều 243 BLTTDS 2015, liên quan đến thủ
tục hỏi đương sự về việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu, Luật sư cần
lưu ý Hội đồng xét xử chỉ chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu
của đương sự nếu việc thay đổi, bổ sung đó không vượt quá phạm vi
yêu cầu khởi kiện/phản tố/yêu cầu độc lập ban đầu (khoản 1 Điều 244
BLTTDS 2015). Đối với trường hợp đương sự rút một phần hoặc toàn
bộ yêu cầu trên cơ sở tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp nhận, đình
chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu đã rút. Song, nếu
trong vụ án, đương sự có yêu cầu khởi kiện/phản tố/yêu cầu độc lập thì
Luật sư phải chú ý việc rút yêu cầu của thân chủ mình hoặc của bên đối

353
tụng sẽ làm thay đổi địa vị tố tụng theo quy định tại Điều 245 BLTTDS
2015. Điều đó có gây bất lợi cho thân chủ mình không để quyết định
rút hay không rút yêu cầu.
Ví dụ:
Trong vụ án lao động, anh Nguyễn Văn A khởi kiện Công ty Z về
quyết định sa thải trái pháp luật và Công ty này có yêu cầu phản
tố đòi tiền anh A vay ứng của Công ty cho việc riêng. Tại phiên
tòa, Công ty Z có gợi ý để anh A rút đơn khởi kiện và hứa hẹn các
bên thương lượng sau, anh A muốn tham vấn ý kiến của Luật sư
tại phiên tòa để quyết định. Như vậy, nếu anh A rút đơn kiện thì chỉ
còn yêu cầu của Công ty Z trong vụ án và Công ty Z từ bị đơn trở
thành nguyên đơn; Tòa án đình chỉ xét xử yêu cầu khởi kiện của
anh A và chỉ xem xét yêu cầu đòi tiền của Công ty Z là bất lợi hoàn
toàn cho anh A. Luật sư của anh A cần chỉ ra tình huống này và
phân tích để anh A không rút yêu cầu khởi kiện.
d) Về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa
sơ thẩm
Tại phiên tòa sơ thẩm, việc hỏi các đương sự có thỏa thuận được
với nhau về việc giải quyết vụ án hay không được Hội đồng xét xử
thực hiện theo quy định tại Điều 246 BLTTDS 2015. Về vấn đề này,
Luật sư tranh tụng cần lưu ý:
Thứ nhất, việc thỏa thuận được với nhau hay không phụ thuộc
vào thái độ, thành ý, thiện chí của các bên. Nếu chỉ có thân chủ của
mình muốn hòa giải mà bên đối tụng và/hoặc người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan không muốn hòa giải thì Luật sư cũng rất khó để
thuyết phục hòa giải giữa các bên đương sự do tính đối tụng, các bên
đương sự khác họ không tin vào Luật sư, lo sợ việc hòa giải bất lợi
hơn cho họ;
Thứ hai, sự thỏa thuận của đương sự về việc giải quyết vụ án phải
là sự tự nguyện của tất cả các bên, không vi phạm điều cấm của pháp
luật và không trái đạo đức xã hội.

354
Thứ ba, việc thỏa thuận tự nguyện, đúng luật, đúng đạo đức xã
hội sẽ được Hội đồng xét xử ra quyết định công nhận tại phiên tòa sơ
thẩm và quyết định này có hiệu lực pháp luật ngay, không bị kháng
cáo/kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Ví dụ:
Trong vụ án tranh chấp hợp đồng trong hoạt động xây dựng,
Công ty A nhận thầu trát tường và quét sơn cho Công ty B đối với
Tòa nhà X. Theo hợp đồng giao thầu, Công ty A đã thực hiện xong
nhưng Công ty B không thanh toán. Do không được thanh toán nên
Công ty A khởi kiện Công ty B tại Tòa án đòi tiền nợ thi công hạng
mục trát và sơn tường của Tòa nhà X trị giá 15 tỷ đồng, đồng thời
yêu cầu thanh toán tiền lãi phát sinh trên số tiền chậm chưa thanh
toán trong 02 năm là 2,4 tỷ đồng. Quá trình giải quyết vụ án, Công
ty B đề nghị được thanh toán 10 tỷ đồng tiền gốc và xin miễn 5 tỷ
đồng tiền gốc cùng toàn bộ tiền lãi. Tuy nhiên, Công ty A không
tin vì cho rằng đã nhiều lần Công ty B hứa hẹn như vậy, Công ty
A cũng đã đồng ý nhưng Công ty B không thực hiện nên mới phải
khởi kiện ra tòa.
Trong trường hợp này, Luật sư của Công ty A nên trao đổi
đề xuất yêu cầu Công ty B cấp ủy nhiệm chi với số tiền như
đã thống nhất và giao cho Công ty A tại phiên tòa sơ thẩm để
Công ty A rút đơn khởi kiện là tốt nhất. Cần thiết, Luật sư có
thể đề nghị Hội đồng xét xử tạm ngừng phiên tòa để các bên
thực hiện việc này (theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 259
BLTTDS 2015).
Trường hợp Công ty B không đồng ý cấp ủy nhiệm chi mà muốn
hòa giải thì Luật sư tư vấn để thân chủ thỏa thuận đồng ý đề nghị
của Công ty B tại phiên tòa vì nếu các bên đạt được sự thỏa thuận
tại phiên tòa sơ thẩm thì quyết định công nhận sự thỏa thuận của
các đương sự tại phiên tòa này có hiệu lực pháp luật ngay, đề
phòng trường hợp Công ty B không thực hiện nghĩa vụ thanh toán
thì vụ án cũng không bị kéo dài đến cấp phúc thẩm mà Công ty A
có quyền yêu cầu thi hành án ngay đối với Quyết định công nhận

355
sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa sơ thẩm. Điều này
giúp thân chủ giảm bớt thời gian, công sức theo đuổi thêm một cấp
tố tụng nữa của vụ kiện.
đ) Một số vấn đề cần lưu ý tại phần thủ tục bắt đầu phiên tòa
* Về việc cung cấp bổ sung chứng cứ tại phiên tòa sơ thẩm:
Luật sư cần lưu ý việc đương sự cung cấp tài liệu, chứng cứ
do Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án ấn định nhưng
không được vượt quá thời hạn chuẩn bị xét xử theo thủ tục sơ thẩm
(khoản 4 Điều 96 BLTTDS 2015). Các bên đương sự có quyền
được biết về chứng cứ của nhau thông qua phiên họp kiểm tra việc
giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định
tại Điều 209, 210 và 211 BLTTDS 2015. Sau khi có quyết định đưa
vụ án ra xét xử sơ thẩm, Luật sư có thể hướng dẫn cho thân chủ của
mình thực hiện quyền giao nộp tài liệu, chứng cứ tại phiên tòa sơ
thẩm theo quy định tại khoản 3 Điều 248 BLTTDS 2015, trong các
trường hợp sau:
Thứ nhất, tài liệu, chứng cứ mà Tòa án đã yêu cầu giao nộp
nhưng thân chủ không giao nộp được vì có lý do chính đáng. Tuy
nhiên, trách nhiệm chứng minh lý do chính đáng về việc chậm giao
nộp thuộc đương sự nên Luật sư lưu ý để hướng dẫn cho thân chủ.
Ví dụ:
Anh Nguyễn Văn A khởi kiện yêu cầu hủy đặt cọc mua nhà đất
với Nguyễn Văn B do hợp đồng vô hiệu vì nhà đất là tài sản chung
của B với vợ là Nguyễn Thị C tại địa chỉ X và đòi lại tiền đặt cọc.
Quá trình giải quyết vụ án, A được biết nhà đất đang nằm trong
khu vực giải phóng mặt bằng của dự án Y, bị hạn chế chuyển dịch.
Tòa án yêu cầu anh A cung cấp tài liệu chứng minh nhà đất tại địa
chỉ X bị hạn chế giao dịch do thuộc khu vực giải phóng mặt bằng
của dự án Y, theo thời gian ấn định của Thẩm phán giải quyết vụ
án. Tại phiên tòa, anh A có quyền giao nộp văn bản của Ủy ban
nhân dân cấp có thẩm quyền thu hồi đất hoặc của Chủ đầu tư dự
án Y trả lời xác nhận toàn bộ diện tích nhà đất chuyển nhượng của

356
anh B và chị C thuộc phạm vi thu hồi đất là căn cứ để chứng minh
yêu cầu của anh A. Do anh A không nộp đúng thời hạn Tòa án yêu
cầu trước đó, nên để tài liệu bổ sung được Hội đồng xét xử chấp
nhận thì phải chứng minh lý do của việc chậm nộp, chẳng hạn: cơ
quan hữu quan trả lời sau thời hạn Tòa án yêu cầu giao nộp, hoặc
đã thu thập được gửi người nhà bảo quản chứng cứ song họ đi
vắng hoặc do ốm đau chưa đi nộp được tài liệu này cho Tòa án...
Theo đó, tài liệu xác định ngày anh A nhận kết quả trả lời của cơ
quan hữu quan sau khi Tòa án yêu cầu, hay Giấy báo tạm vắng
tại địa phương của người nhà A đang quản lý chứng cứ hoặc Giấy
khám bệnh, Sổ y bạ của A… là căn cứ chứng minh lý do chính đáng
dẫn đến chậm nộp.
Thứ hai, tài liệu, chứng cứ mà Tòa án không yêu cầu thân chủ
của mình giao nộp trước đó nhưng với điều kiện thân chủ không thể
biết được tài liệu, chứng cứ đó trong quá trình giải quyết vụ án.
Ví dụ:
Nguyên đơn Nguyễn Văn A yêu cầu chia thừa kế theo di chúc
đối với nhà đất của ông Nguyễn Văn B và bà Nguyễn Thị C (ông
B và bà C đều mất trong tai nạn giao thông và còn thời hiệu kiện
chia thừa kế) và bị đơn là Nguyễn Thị H (chị gái của A). Theo di
chúc này, ông bà B và C định đoạt toàn bộ nhà đất cho A. Trước
ngày mở phiên tòa xét xử sơ thẩm, em ruột của ông B là Nguyễn
Văn D mới biết vụ kiện và đưa cho chị H di chúc sửa đổi, bổ sung
di chúc lập chung của ông B và bà C gửi ông D giữ, định đoạt chia
cho A và H mỗi người ½ di dản thừa kế. Như vậy, tại phiên tòa sơ
thẩm chị H có quyền xuất trình di chúc sửa đổi, bổ sung để được
xem xét giải quyết vì chị H không thể biết có tài liệu này và Tòa án
cũng không yêu cầu trước đó.
* Về việc triệu tập người làm chứng tại phiên tòa sơ thẩm
Trong trường hợp thân chủ muốn đề nghị đưa ai vào tham gia tố
tụng trong vụ án với tư cách người làm chứng thì Luật sư cần hướng
dẫn để thân chủ có đơn đề nghị gửi Tòa án trước khi có quyết định

357
đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm. Nhiều trường hợp, việc đề nghị tại phiên
tòa sơ thẩm không được Tòa án chấp nhận vì người mà thân chủ đề
nghị chưa được Tòa án triệu tập tham gia tố tụng với tư cách người
làm chứng trong vụ án. Lời khai của người làm chứng là một trong
các nguồn chứng cứ quy định tại khoản 4 Điều 94 BLTTDS 2015 nên
việc không đề nghị Tòa án triệu tập người làm chứng trong thời hạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án để Tòa án lấy lời khai theo quy định tại
Điều 99 BLTTDS 2015 thể hiện việc thân chủ của Luật sư không thực
hiện đầy đủ nghĩa vụ chứng minh của mình, do đó phải chịu hậu quả
của việc chứng minh không đầy đủ.
2.1.3. Kỹ năng trong phần thủ tục tranh tụng tại phiên toà
a) Kỹ năng ghi chép đầy đủ các diễn biến tại phiên tòa
Tranh tụng tại phiên tòa là sự kết hợp giữa phần hỏi và tranh luận.
Do vậy, Luật sư cần phải ghi chép đầy đủ diễn tiến ở phần hỏi để có
cơ sở tranh luận nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ.
Phần trình bày của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự là điểm mấu chốt làm cơ sở cho việc hỏi và tranh
luận. Việc ghi chép lời trình bày yêu cầu và chứng cứ để chứng minh
cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp giúp cho Luật sư xác định
chính thức được yêu cầu của bên đối tụng và của đương sự khác, căn
cứ pháp lý cũng như tình tiết khách quan để họ đưa ra yêu cầu này, từ
đó giúp Luật sư hoàn thiện kế hoạch hỏi và bảo vệ yêu cầu của thân
chủ, đồng thời phản biện yêu cầu của các đương sự khác. Có thể tại
phiên tòa, lời trình bày của đương sự khác và người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của họ có những lập luận mới so với yêu cầu của họ
phản ánh trong hồ sơ vụ án nên Luật sư cần ghi chép, tránh chủ quan
và không ghi chép bởi tại Tòa án các đương sự, người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của họ luôn cố gắng bổ sung, hoàn thiện các yêu cầu
và lập luận chứng minh theo cách đầy đủ nhất với mong muốn để Hội
đồng xét xử chấp nhận. Do vậy, việc ghi chép của Luật sư phải đầy đủ
những ý chính, cô đọng thể hiện được những điểm mấu chốt trong lời

358
trình bày yêu cầu của họ, căn cứ và lập luận để chứng minh cho yêu
cầu đó; có thể có những tình tiết mới đặc biệt thì phải dùng bút đỏ, bút
nhấn màu đánh dấu lại để xem xét thông qua việc kiểm tra ngay các
Bút lục liên quan của hồ sơ vụ án cũng như các quy định của pháp luật
liên quan. Từ việc ghi chép, tổng kết về trình bày yêu cầu của các bên
đương sự khác, của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ,
Luật sư sẽ dễ dàng kiểm soát được bản hỏi của mình nhằm làm rõ các
yêu cầu của vụ án và chỉ ra yêu cầu nào, phần yêu cầu nào cần được
chấp nhận và không có cơ sở chấp nhận.
BLTTDS 2015 đã đổi mới so với các BLTTDS trước đây là cải
tiến thứ tự hỏi. Theo đó, đương sự, Luật sư, người tham gia tố tụng
khác hỏi trước, Chủ tọa phiên tòa, Hội thẩm nhân dân và Kiểm sát viên
hỏi sau. Điều này cho thấy, Tòa án đã dành quyền chứng minh ưu tiên
và chủ động cho các đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự đối với các yêu cầu của mình tại phiên tòa. Chính
đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ sẽ là người
đưa ra yêu cầu và sẽ buộc phải tự khai thác hiệu quả tiến trình tố tụng
đổi mới này để chứng minh cho yêu cầu của mình, phản đối yêu cầu
của bên khác; chỉ những gì còn thiếu, chưa rõ thì Hội đồng xét xử và
Kiểm sát viên mới bổ sung, làm rõ thêm nội dung hỏi. Tuy nhiên, mục
tiêu của việc hỏi là để chứng minh cho yêu cầu của thân chủ và phản
đối toàn bộ hoặc một phần yêu cầu của đương sự khác nên nếu Luật
sư không ghi chép, đôi khi không thể nhớ được hết sẽ dễ bị lặp lại câu
hỏi, hoặc dẫn đến việc đặt câu hỏi không trọng tâm hay có liên quan
nhưng giá trị chứng minh không cao. Việc Luật sư ghi chép ngắn gọn
những điểm chính ở phần này cũng giúp cho Luật sư yên tâm, chủ
động nắm bắt mọi vấn đề có tính “đối chiều” để giúp đương sự trả lời
câu hỏi khi cần thiết. Mặc dù Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm
sát viên tham gia hỏi sau nhưng Luật sư phải hết sức lư­u ý những câu
hỏi này bởi thông qua việc hỏi của họ, Luật sư sẽ dự đoán sơ bộ được
quan điểm cơ bản của họ đối với việc giải quyết yêu cầu của đương sự
trong vụ án. Từ đó, làm cơ sở để Luật sư bổ sung, điều chỉnh luận cứ

359
cũng như chuẩn bị các luận điểm nhằm đối đáp với các bên đương sự
khác, giúp Hội đồng xét xử nhìn rõ sự thật khách quan của vụ án để
ra quyết định đúng pháp luật sau này. Để dễ dàng theo dõi việc hỏi tại
phiên tòa nhằm phục vụ cho phần tranh luận và đối đáp sau đó, Luật
sư có thể lập bảng hỏi với các vấn đề trọng tâm của vụ án ứng với câu
hỏi, câu trả lời và quan điểm của từng đương sự, Luật sư cũng như của
Hội đồng xét xử và Kiểm sát viên. Có những câu hỏi nào, câu trả lời
nào còn mâu thuẫn hay mang giá trị chứng minh chưa rõ cần đánh dấu
bằng bút nhấn màu hay dùng bút đỏ gạch chân để Luật sư không quên,
phải bổ sung câu hỏi cho vấn đề còn mâu thuẫn, đề nghị người có trách
nhiệm chứng minh làm rõ hoặc chuẩn bị ý kiến để tranh luận cho sự
mâu thuẫn này. Chính việc ghi chép đầy đủ cũng sẽ giúp cho Luật sư
viện dẫn thực tế kết quả hỏi tại phiên tòa để chứng minh bổ sung tại
luận cứ của mình sau đó.
Sau khi kết thúc việc hỏi, tiếp theo là phát biểu quan điểm bảo vệ
của các bên và đối đáp. Ở phần này, Luật sư cũng lưu ý ghi chép luận
điểm chính của các đương sự khác và Luật sư của họ tại bài luận cứ,
các bút lục được họ dẫn chiếu và cơ sở pháp lý họ viện dẫn để chứng
minh cho yêu cầu. Việc ghi chép này có ý nghĩa giúp Luật sư nhận
thức ngay được vấn đề họ đưa ra đang “đối chiều” với quan điểm của
mình là ở vấn đề gì để phục vụ cho đối đáp (chẳng hạn bút lục trích dẫn
chưa đầy đủ, làm sai bản chất quan điểm trả lời của người có lời khai,
lời trình bày tại bút lục đó hoặc áp dụng pháp luật chưa đầy đủ, chưa
đặc thù, đôi khi cơ sở pháp lý đó đã hết hiệu lực…).
Với ý nghĩa quan trọng của việc ghi chép trên đây, Luật sư tranh
tụng cần hết sức lưu ý dành thời gian theo dõi diễn biến phiên tòa đầy
đủ để không bỏ quên bất kỳ vấn đề nào trọng tâm liên quan đến quan
điểm của thân chủ và các bên đương sự khác, từ đó mới giúp cho Luật
sư tranh tụng hiệu quả tại phiên tòa.
b) Kỹ năng trình bày yêu cầu của đương sự
Căn cứ theo quy định tại Điều 248 BLTTDS 2015, Luật sư cần

360
lưu ý về thứ tự trình bày, trường hợp đương sự mời Luật sư bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho mình thì Luật sư sẽ là người trình bày
yêu cầu của thân chủ và các chứng cứ chứng minh cho yêu cầu đó là
có căn cứ và hợp pháp; thân chủ có quyền bổ sung ý kiến.
Về kỹ năng trình bày, nếu là lần đầu tiên phát biểu ý kiến tại
phiên tòa thì Luật sư chú ý trước hết cần có sự giới thiệu về bản thân,
tổ chức hành nghề, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho đương sự nào để
Hội đồng xét xử nắm bắt, tiện cho việc theo dõi. Khi thực hiện trình
bày yêu cầu của thân chủ, Luật sư cần xác định rõ quá trình giải quyết
vụ án đã có yêu cầu gì cụ thể, tại phiên tòa hôm nay cần “chốt” lại các
yêu cầu đó cụ thể là gì. Về chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là
có căn cứ và hợp pháp, Luật sư cần trình bày liệt kê các chứng cứ sẽ sử
dụng cho việc hỏi và tranh tụng; bên cạnh đó, Luật sư cũng đừng quên
chứng minh bằng căn cứ pháp lý mà pháp luật quy định để Hội đồng
xét xử thấy rằng yêu cầu của đương sự mà Luật sư bảo vệ có cơ sở. Tuy
nhiên, Luật sư cũng nên lưu ý, việc trình bày này mang tính tổng quát,
không nên chi tiết cụ thể từng luận ý nhỏ hay đi vào trích dẫn nội dung
từng điều luật cụ thể vì sẽ dễ tạo điều kiện cho phía đối tụng nắm bắt
và phản bác tại phần tranh luận.
Ví dụ:
Bảo vệ cho yêu cầu xin nuôi con của chị Nguyễn Thị A là bị đơn
trong vụ tranh chấp hôn nhân và gia đình do anh Nguyễn Văn B
khởi kiện, Luật sư có thể trình bày như sau:
Tôi là Nguyễn Văn T, thuộc Công ty Luật X - Đoàn Luật sư
thành phố H, là người bảo vệ quyền và lợi ích cho chị Nguyễn Thị
A - bị đơn trong vụ án tại phiên tòa hôm nay. Thực hiện quy định
tại Điều 248 BLTTDS 2015, tôi xin trình bày ý kiến và yêu cầu của
bị đơn Nguyễn Thị A đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
Nguyễn Văn B như sau:
Trong vụ án này, anh B là nguyên đơn khởi kiện xin ly hôn và
xin nuôi con, yêu cầu chị A cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung vợ
chồng không có nên không yêu cầu giải quyết. Quá trình giải quyết

361
vụ án các bên đã nhất trí ly hôn do chị A bị bạo lực gia đình đã
được anh B thừa nhận. Tại phiên tòa hôm nay, đối với yêu cầu khởi
kiện xin ly hôn của anh B, chị A đồng ý ly hôn, đề nghị Hội đồng xét
xử ghi nhận sự tự nguyện ly hôn của các bên theo quy định. Nay chỉ
còn vấn đề nuôi con và cấp dưỡng nuôi con cần giải quyết. Luật sư
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của anh B đã trình bày yêu cầu
xin được nuôi cháu Nguyễn Ngọc C và đề nghị chị A cấp dưỡng
nuôi con. Tuy nhiên, về phía bị đơn chúng tôi không nhất trí và đề
nghị Hội đồng xét xử xem xét để quyết định giao cháu C cho chị A
nuôi vì các lý do sau:
Thứ nhất, cháu C là con chung duy nhất của chị A và anh B nên
khi giải quyết vụ án này đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trên cơ sở
ưu tiên quyền lợi của phụ nữ và trẻ em theo quy định.
Thứ hai, cháu C là con gái gắn bó với chị A từ lúc lọt lòng, do
có sự phù hợp cùng giới tính nên việc giao chị A chăm sóc, giáo
dục tâm sinh lý cho cháu C sẽ thuận lợi hơn.
Thứ ba, quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã hỏi ý kiến cháu
C theo quy định và cháu C có nguyện vọng ở với chị A. Đề nghị
Hội đồng xét xử xem xét nguyện vọng chính đáng này của cháu
C theo quy định của pháp luật để bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của cháu.
Thứ tư, việc giao con cho ai nuôi Hội đồng xét xử cũng nên xem
xét về điều kiện thu nhập, nơi ở cũng như thời gian của người cha
hoặc mẹ dành cho con để quyết định. Trong hồ sơ vụ án, chúng
tôi đã giao nộp cho Tòa án các tài liệu chứng minh yêu cầu nuôi
con của chị A và Tòa án đã tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao
nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ giữa các bên đương sự. Theo
đó, hợp đồng lao động không thời hạn của chị A với mức thu nhập
10.000.000 đồng/tháng (sau khi đã trừ nộp bảo hiểm theo quy
định) là khoản tiền ổn định để chị A nuôi con. Việc anh B muốn
nuôi con nhưng vẫn còn yêu cầu chị A cấp dưỡng nuôi con phần
nào cũng cho thấy thu nhập của anh B còn chưa bảo đảm và có
khó khăn trong việc nuôi con. Chị A có gia đình ở ngay quận K,

362
thành phố H này với nhà cửa rộng rãi để mẹ con chị B về bên nhà
ngoại ổn định cuộc sống. Điều này đã được thể hiện tại đơn trình
bày nguyện vọng của bố mẹ chị A có trong hồ sơ vụ án. Ngoài ra,
do đặc thù nghề nghiệp làm lái xe đường dài liên tỉnh của anh B sẽ
khó bảo đảm thời gian để anh B chăm sóc, giáo dục cháu C những
lúc bận công tác ngoại tỉnh, ảnh hưởng không nhỏ đến quyền và
lợi ích hợp pháp của cháu C do cháu mới chỉ 08 tuổi - lứa tuổi luôn
cần có sự quan tâm, chăm sóc, giáo dục của phụ huynh.
Thứ năm, trong các phiên hòa giải, đối chất tại Tòa án anh B
đều thừa nhận thường xuyên đánh đập chị A, nhiều khi chị A phải
nhập viện khám và điều trị các thương tích. Đây là căn cứ rõ nét
thể hiện bạo lực gia đình. Nếu giao cháu C cho anh B nuôi, chúng
tôi quan ngại sẽ ảnh hưởng đến tâm lý, sự hình thành nhân cách
của cháu về lâu dài.
Vì các lý do nêu trên và căn cứ tài liệu, chứng cứ, thực tế khách
quan của vụ án và quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình,
kính đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin nuôi con của
chị Nguyễn Thị A.
c) Kỹ năng hỏi
Sau khi nghe xong lời trình bày của người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của các bên đương sự, ý kiến bổ sung của các đương sự
thì chủ tọa phiên tòa sẽ điều hành phần hỏi. Như đã đề cập ở trên, phía
nguyên đơn hỏi trước, tiếp đến phía bị đơn và phía người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan hỏi sau.
Việc pháp luật về tố tụng dân sự có sự thay đổi thứ tự hỏi, dành
quyền cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự hỏi trước tạo thuận lợi cho Luật sư có thể khai thác được toàn bộ
các vấn đề trọng tâm trong vụ án để hỏi, không sợ bị trùng lắp nhưng
cũng là thách thức nếu Luật sư không đặt được các câu hỏi trọng tâm,
cần chứng minh. Vì vậy, ở phần hỏi, pháp luật quy định cho đương sự
được hỏi, tuy nhiên Luật sư nên trao đổi trước với thân chủ để Luật sư
tập trung hỏi, tránh việc đương sự hỏi chưa rõ, chưa làm nổi bật mấu

363
chốt nội dung, tình tiết cần chứng minh. Nếu có để đương sự tham gia
hỏi, thì Luật sư nên dự thảo sẵn câu hỏi cho thân chủ của mình và cũng
phải giải thích lý do đặt câu hỏi đó, dự đoán kết quả thu về từ lời đáp
của đương sự khác để có thể xử lý nhanh lẹ có nên tiếp tục hỏi nữa hay
không nếu kết quả trả lời chưa chứng minh được. Vì vậy, để đạt được
hiệu quả tranh tụng tại phần này, Luật sư nên trao đổi với thân chủ để
Luật sư hỏi vừa chủ động xử lý được kết quả hỏi, vừa tiết giảm được
thời gian nếu câu trả lời của đương sự khác đã được chứng minh theo
mong muốn của mình.
Mục tiêu hỏi của Luật sư là nhằm chỉ ra căn cứ của tình tiết cần
chứng minh biểu hiện trên thực tế khách quan ra sao, hồ sơ vụ án thế
nào, các cơ sở pháp lý của từng vấn đề cụ thể. Vì thế, Luật sư chú ý
khi đặt câu hỏi, cần phải hỏi đúng trọng tâm rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu
và dễ trả lời. Kinh nghiệm cho thấy, Luật sư cần hết sức tránh cách đặt
câu hỏi dài dòng mang ý vừa phân tích, vừa giải thích gợi mở câu trả lời
cho đương sự. Thông thường với cách hỏi này, đương sự sẽ không hiểu
hoặc họ yêu cầu Luật sư hỏi lại, đôi khi bị HĐXX nhắc nhở, cắt câu hỏi
của Luật sư. Không nên biến việc hỏi bị hiểu lầm thành phần tranh luận.
Ví dụ:
Câu hỏi để chứng minh việc giao hàng sai quy cách trong hợp
đồng mua bán hàng hóa.
Luật sư không đặt câu hỏi: Trong hợp đồng mua bán hàng hóa
ngày 15/5/2015, có phải các bên đã giao kết mua bột giấy loại
A nhưng khi giao hàng công ty anh/chị lại cố tình giao loại B để
lừa dối cho thân chủ của tôi hay không? Điều này không đúng về
đạo đức kinh doanh và sai cả về pháp luật, anh/chị có thấy hậu
quả không?
Luật sư nên đặt câu hỏi: Lý do công ty anh/chị giao bột giấy
loại B thay cho loại A?
Nếu kết quả câu hỏi thu được đã đủ, đáp ứng yêu cầu của việc
đưa ra câu hỏi đó thì Luật sư nên nhấn mạnh lại, đề nghị Thư ký phiên

364
tòa ghi rõ vào biên bản phiên tòa để Luật sư sử dụng kết quả hỏi này
tại phần phát biểu luận cứ như một tình tiết, sự kiện không phải chứng
minh. Điều này cũng cho phép tại luận cứ, Luật sư có thể bổ sung và
đánh giá sự phù hợp của các bút lục có trong hồ sơ vụ án với kết quả hỏi
tại phiên tòa, nhằm làm nổi bật tình tiết, nội dung chứng cứ cũng như
yêu cầu cần chứng minh.
Mặc dù Luật sư có quyền đặt câu hỏi cho cả thân chủ của mình
nhưng kinh nghiệm tranh tụng cho thấy, kết quả hỏi thu được từ đương
sự khác sẽ có giá trị chứng minh cao hơn bởi tính khách quan. Vì vậy,
chỉ nên đặt câu hỏi cho chính thân chủ của mình trong trường hợp đương
sự khác không trả lời câu hỏi của Luật sư hoặc kết quả trả lời không có
hiệu quả cho việc chứng minh của Luật sư. Theo đó, quá trình chuẩn bị
trước phiên tòa, Luật sư cũng phải dành thời gian trao đổi trước với thân
chủ về các câu hỏi sẽ đặt ra cho các đương sự khác, dự kiến câu trả lời
nhận được từ họ, nếu không được Luật sư sẽ hỏi chính thân chủ những
câu hỏi gì và phải trả lời ra sao. Nhìn chung, Luật sư chỉ nên đặt câu hỏi
hết sức ngắn gọn, trọng tâm cho thân chủ của mình. Lưu ý rằng, Luật
sư không được đặt các câu hỏi mà thân chủ chưa biết, chưa có sự chuẩn
bị vì sẽ khó thu được câu trả lời hiệu quả theo mong muốn chứng minh
của Luật sư, đôi khi câu trả lời lại gây bất lợi cho ý muốn cần chứng
minh của Luật sư.
Việc đặt câu hỏi cho các đương sự khác, đặc biệt là bên đối tụng,
Luật sư cần tập trung đưa ra câu hỏi ngắn, dễ hiểu chỉ nhằm chứng minh
quan điểm của họ không có cơ sở chấp nhận (chẳng hạn qua đó chứng
minh việc mâu thuẫn với nội dung trình bày tại các bút lục của hồ sơ vụ
án, cơ sở pháp lý không phù hợp...), không nên đặt các câu hỏi có tính
chất học thuật (Ví dụ, mối quan hệ tranh chấp pháp luật gì, cơ sở pháp
lý nào...). Thực tiễn cho thấy, Luật sư khi đặt các câu hỏi dạng “đóng”
cho đương sự đối tụng như “đúng hay sai”, “có hay không” thì khi họ
trả lời khác đi, Luật sư không nên “truy bức” buộc họ là phải trả lời có
hay không, đúng hay sai theo ý của Luật sư vì quyền trả lời thế nào là
của họ, quyền đánh giá là của Hội đồng xét xử. Nếu bị Luật sư “o bế”

365
buộc phải trả lời theo ý của Luật sư, họ dễ phản ứng tiêu cực, ảnh hưởng
đến uy tín, thanh danh của Luật sư tại phiên tòa, chưa kể những phiền
phức khác có thể xảy ra sau khi kết thúc phiên tòa.
Thái độ hỏi của Luật sư cũng nên mềm mỏng, nghiêm túc, thể
hiện qua lời lẽ lịch sự, văn hóa, đúng thuật ngữ pháp lý. Ví dụ: “Tôi đề
nghị được hỏi người làm chứng Nguyễn Thị H”, “Cho phép tôi đặt câu
hỏi với bà Nguyễn Thị Y - bị đơn trong vụ án”, “Xin mời nguyên đơn
Trần Văn X vui lòng đứng dậy trả lời cho Hội đồng xét xử”...
Cuối cùng, Luật sư cũng nên lưu ý đối với các câu hỏi mình đưa
ra chưa thu được kết quả chứng minh hoặc bị Hội đồng xét xử cắt thì
không vội vã có ý kiến vì Luật sư có quyền hỏi bổ sung trước khi kết
thúc việc hỏi theo quy định tại Điều 258 BLTTDS năm 2015 hoặc Luật
sư có thể xử lý bằng cách đề nghị Hội đồng xét xử công bố tài liệu,
chứng cứ của vụ án theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 254 BLTTDS
2015 đối với bút lục Luật sư muốn viện dẫn làm kết quả chứng minh
thay cho việc hỏi.
d) Kỹ năng tranh luận tại phiên toà
Điều 260 BLTTDS 2015 quy định sau khi kết thúc việc hỏi, Hội
đồng xét xử chuyển sang phần tranh luận tại phiên tòa. Luật sư phải
luôn chuẩn bị sẵn bản luận cứ cho mình trước phiên tòa trên cơ sở đã
có sự trao đổi, thống nhất với thân chủ của mình về các yêu cầu đề xuất
với Hội đồng xét xử và lập luận chứng minh các yêu cầu đó. Quá trình
tham gia phiên tòa, Luật sư tiếp tục hoàn chỉnh, bổ sung và cập nhật
những nội dung mới, kết quả hỏi tại phiên tòa để bản luận cứ thêm đầy
đủ, súc tích, mang tính thực tế của phiên tòa.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của bản luận cứ không chỉ là cơ
sở tổng hợp quan điểm của Luật sư đối với yêu cầu của thân chủ mà
còn là căn cứ giúp Hội đồng xét xử có thêm các thông tin cụ thể để
xem xét khi nghị án và ra bản án đúng pháp luật nên Luật sư cần xây
dựng luận cứ với kết cấu logic, khoa học, rõ ràng, khúc chiết và bảo
đảm tính có căn cứ.

366
Khi tham gia tranh luận, Luật sư­cần trình bày rõ ràng, mạch lạc
bản luận cứ của mình công khai trư­ớc phiên tòa để Hội đồng xét xử
cũng như người nghe khác nắm bắt được yêu cầu của thân chủ Luật sư
là gì, Luật sư có quan điểm và đánh giá vấn đề ấy ra sao, viện dẫn pháp
luật thế nào cũng như nhận định, đề xuất cụ thể của Luật sư với Hội
đồng xét xử để bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ.
Thực tiễn cho thấy, Luật sư có thể trình bày bản luận cứ dưới
dạng đọc hoặc trình bày dưới dạng văn nói kết hợp với phân tích, diễn
giải từng luận điểm của mình trên cơ sở cập nhật mới những tình tiết
phát sinh tại phiên tòa và kết quả hỏi. Đối với những người mới hành
nghề luật sư, thường có sự chuẩn bị chi tiết, đánh máy bản luận cứ để
đọc trước Tòa. Tuy nhiên, với các Luật sư có kinh nghiệm tranh tụng,
có thể bản luận cứ chuẩn bị sẵn chỉ gồm những luận điểm chính và tại
phiên tòa, Luật sư sẽ bổ sung tình tiết mới và kết quả hỏi để phát triển
thành một bài nói mang tính chủ động cao. Nhìn chung, điều tối kỵ
khi trình bày luận cứ là Luật sư diễn thuyết một bài luận cứ dài lê thê,
không nêu được quan điểm, ý đồ mà Luật sư muốn đề xuất Hội đồng
xét xử là gì, nội dung cụ thể để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
thân chủ ở đâu và lệ thuộc quá nhiều vào bản luận cứ viết trước. Khi
trình bày, để cho sinh động và mang tính chứng minh cao, Luật sư nên
chuẩn bị sẵn các bút lục trong hồ sơ vụ án định viện dẫn, văn bản pháp
luật chứa đựng điều luật liên quan kết hợp có thể sử dụng các bản ảnh
chụp, Ipad, laptop, biểu bảng... minh họa cho vấn đề Luật sư đang lập
luận, phân tích và chứng minh.
Trong tranh luận, lời lẽ sử dụng nên cô đọng, ngắn gọn, dễ hiểu
và khi sử dụng các thuật ngữ pháp lý phải chính xác, đúng luật; tránh
nói vòng vo, dài dòng, lặp đi lặp lại và sử dụng văn phong trìu tượng,
khó hiểu.
Luật sư­ của nguyên đơn lưu ý khi trình bày luận cứ trư­ớc Hội
đồng xét xử, cần chia thành từng yêu cầu cụ thể của nguyên đơn để
từng bước đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, chấp nhận. Mỗi vấn đề
nêu ra cần khái quát thành từng luận điểm, viện dẫn chứng cứ liên

367
quan trong hồ sơ vụ án, thực tế hỏi tại phiên tòa và nêu quy định của
pháp luật nhằm lập luận đưa ra đánh giá, nhận định về vấn đề đó để đề
xuất với Hội đồng xét xử.
Ví dụ:
Bảo vệ cho yêu cầu đòi tiền lãi do chậm thanh toán của
nguyên đơn:
Như đã phân tích và chứng minh về yêu cầu đòi tiền nợ thi công
500 triệu đồng của thân chủ tôi đối với Công ty X ở phần trên,
chúng tôi tiếp tục đề nghị Hội đồng xét xử xem xét yêu cầu đòi tiền
lãi trên số tiền 500 triệu đồng do chậm thanh toán như sau:
- Trong bản tự khai tại BL20, Biên bản đối chất tại BL38 và
Biên bản hòa giải tại BL46 của hồ sơ vụ án đều thể hiện sự thừa
nhận của Công ty X chưa thanh toán tiền nợ thi công công trình
cho thân chủ tôi (Luật sư có thể trích dẫn cụ thể lời trình bày của
bị đơn tại các bút lục viện dẫn). Điều này hoàn toàn phù hợp với
kết quả hỏi tại phiên tòa hôm nay khi Luật sư nguyên đơn hỏi bị
đơn về việc chưa thanh toán tiền nợ thi công thì bị đơn đã đưa ra
nhiều lý do chủ quan từ phía nhà thầu chính như chưa có vốn, lãnh
đạo đi công tác, phải tập trung vốn cho công trình khác... nhằm
né tránh nghĩa vụ thanh toán tiền nợ thi công công trình từ ngày
đến hạn phải thanh toán là 20/5/2014 đến phiên tòa xét xử sơ thẩm
hôm nay là tròn 18 tháng.
- Theo quy định tại Điều 306 Luật thương mại 2005 thì trường
hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền, bên bị vi phạm có
quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ
quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương
ứng với thời gian chậm trả. Do bị đơn chậm thanh toán cho nguyên
đơn số tiền 500 triệu đồng trong thời hạn 18 tháng qua, nên đề
nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu đòi tiền lãi do chậm thanh
toán của nguyên đơn.
- Căn cứ kết quả xác minh thu thập chứng cứ của Tòa án đối với
các Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam về lãi suất nợ quá
hạn ngày 19/5/2015 là 0,8%/năm (BL88), của Ngân hàng Nông

368
nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam là 0,7%/năm (BL 89) và
của Ngân hàng TMCP công thương Việt Nam là 0,9%/năm (BL90),
thì đủ cơ sở xác định lãi suất nợ quá hạn trung bình trung là (0,8%
+ 0,7% + 0,9%) : 3 = 0,8%/năm. Vì vậy, bị đơn phải thanh toán
cho nguyên đơn số tiền lãi do chậm thanh toán là: 500 triệu đồng
x 18 tháng x 0,8%/năm = 47.999.952 đồng.
Việc Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu này của nguyên đơn là
hoàn toàn phù hợp với thực tế khách quan của vụ án và quy định
của pháp luật viện dẫn.
Về phía Luật sư của bị đơn, cần chú ý theo dõi, lắng nghe luận
điểm và đề xuất của Luật sư bảo vệ nguyên đơn cũng như các chứng
cứ, điều luật được viện dẫn. Nếu Luật sư không chú ý sẽ không biết
trình bày gì trước, đối đáp gì sau. Khi phía đối tụng tranh luận, Luật sư
cần chủ động ghi nhanh những ý cần tranh luận lại và tìm ngay chứng
cứ trong vụ án, cơ sở pháp lý cho việc tranh luận lại. Trong khi trình
bày ý kiến, Luật sư phải nêu rõ quan điểm bất đồng, không chấp nhận
quan điểm của nguyên đơn, Luật sư bảo vệ nguyên đơn ở vấn đề gì
và vì sao như vậy. Trường hợp Luật sư nhận thấy Hội đồng xét xử đã
nghe vấn đề mình trình bày, các lập luận và cơ sở pháp lý mình chứng
minh đã làm cho Hội đồng xét xử hiểu được và có thể Hội đồng xét xử
cắt ngắn, đề nghị Luật sư trình bày sang vấn đề khác thì Luật sư cần
tuân thủ, ứng biến mau lẹ, chuyển sang nội dung khác, không nên nói
nốt những gì bản luận cứ và cảm quan Luật sư thấy chưa trình bày hết
để tiếp tục trình bày, sẽ gây ức chế cho Hội đồng xét xử và bị chủ tọa
phiên tòa cắt bỏ.
Các Luật sư cần quán triệt nguyên tắc tranh luận phải tuân theo
sự điều khiển của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa; chỉ đối đáp một lần đối
với mỗi ý kiến được nêu. Cần đi thẳng vào nội dung cần đối đáp, tránh
lòng vòng, câu chữ biểu thị quá dài dòng, không trọng tâm, gây khó
chịu cho Hội đồng xét xử. Luật sư cần nhớ rằng chỉ nên trình bày, phát
biểu những gì cần thiết, liên quan đến đề xuất của mình trong vụ án,
với mục đích để Hội đồng xét xử chấp nhận chứ không phải nói theo ý

369
thích của mình. Trong lập luận của Luật sư phải chú ý chứng minh để
thuyết phục Hội đồng xét xử. Luật sư không nên nêu vấn đề mà không
đi vào chứng minh, bỏ ngỏ vấn đề dở dang khiến Hội đồng xét xử
không hiểu Luật sư dựa vào cơ sở nào để đề xuất quan điểm như vậy.
Đặc biệt, tại phần tranh luận các Luật sư tuyệt đối tôn trọng và
thực hành đúng quy định của Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử nghề
nghiệp Luật sư Việt Nam trong mối quan hệ với đồng nghiệp và cơ
quan tiến hành tố tụng. Thực tiễn cho thấy, có nhiều trường hợp các
Luật sư công kích nhau, cãi tay đôi căng thẳng tại phiên tòa, buộc Hội
đồng xét xử phải cắt ngang, yêu cầu ngồi xuống, không cho Luật sư
trình bày thêm; đôi khi Luật sư ở vào tình huống này lại phản ứng thái
quá đối với Hội đồng xét xử khiến cho hình ảnh Luật sư trở nên “tệ
hại” hơn trong mắt của Hội đồng xét xử cũng như của những người
tham gia tố tụng khác, những người dự khán tại phiên tòa. Trường hợp
Luật sư có bị phía đối tụng dùng lời lẽ miệt thị, kích động thì cũng nên
giữ thái độ bình tĩnh, bỏ qua để quay trở lại ngay với vấn đề mình cần
chứng minh, đối đáp.
Kỹ năng của Luật sư trong trình bày, đối đáp cần biểu thị thái
độ khiêm tốn, nhẹ nhàng nhưng kiên quyết; tuyệt đối không run rẩy,
sợ sệt, khúm núm song cũng không được ngạo mạn, kiêu căng; khi
cần phủ định ý kiến của Luật sư đối tụng hay của đương sự khác phải
bình tĩnh trình bày, tránh gây căng thẳng không cần thiết, tuyệt đối
không nêu cảm nhận của cá nhân Luật sư để đối đáp lại, không khẳng
định kết luận vấn đề gây tranh cãi theo ý kiến chủ quan của mình, chỉ
nên tập trung chứng minh bằng chứng cứ đã có và cơ sở pháp lý liên
quan. Tác phong biểu hiện khi tranh luận Luật sư không nên uốn éo,
vung tay, đập bàn hay chỉ tay vào người khác vì dễ tạo ra sự đánh giá
không tốt về văn hóa pháp đình của Luật sư; trong một số trường hợp
dễ bị những người liên quan phản ứng tiêu cực lại, gây phiền phức cho
chính Luật sư.
Nói tóm lại, tranh luận là biểu hiện kỹ năng tổng hợp của Luật sư
trong vụ án thông qua việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, tiến hành xác minh

370
thu thập chứng cứ, tham gia tố tụng trực tiếp tại phiên tòa, vận dụng
kiến thức pháp luật nhằm trình bày quan điểm, đánh giá chứng cứ và
đối đáp các vấn đề đối chiều với đương sự khác và Luật sư của họ. Bài
luận cứ cũng như ý kiến đối đáp có sức thuyết phục hay không phải
được xây dựng trên chứng cứ của hồ sơ vụ án, kết quả hỏi tại phiên tòa
và cơ sở pháp luật hữu quan. Tài ba của Luật sư tranh tụng không chỉ
biểu hiện ở sự am hiểu kiến thức pháp lý mà còn ở tác phong, tư thế
đứng/ngồi, thái độ, lời nói của Luật sư.
Qua tranh luận, nếu xét thấy có tình tiết của vụ án chưa được xem
xét, việc xem xét chưa đầy đủ hoặc cần xem xét thêm chứng cứ, Hội
đồng xét xử có quyền quyết định trở lại việc hỏi và tranh luận (Điều
263 BLTTDS 2015). Tuy nhiên, cũng có thể chỉ đến khi nghị án, Hội
đồng xét xử mới nhận thấy cần quyết định trở lại việc hỏi và tranh luận
thì Luật sư cũng cần chủ động tuân thủ.
Về việc này, Luật sư phải chú ý không lập luận lại những nội
dung đã trình bày trước đó, nên xem xét kỹ lưỡng vấn đề Hội đồng xét
xử quyết định hỏi lại, tranh luận lại là gì để khai thác, đánh giá chứng
cứ sâu hơn. Thông thường, trong trường hợp này, kết quả hỏi lại rõ hơn
và sẽ là cơ sở để Luật sư viện dẫn ngay vào nội dung trình bày và đối
đáp bổ sung của mình.
2.1.4. Kỹ năng của Luật sư tại thủ tục nghị án và tuyên án
Kết thúc phần tranh tụng tại phiên tòa là thủ tục nghị án và
tuyên án.
Ở phần tuyên án, khi Hội đồng xét xử quay lại phòng xử án và
chủ tọa phiên tòa tuyên án, Luật sư phải chú ý lắng nghe bản án, ghi
chép được những điểm chính về nhận định và quyết định của bản án.
Đặc biệt, qua đó Luật sư phải tổng hợp được phán quyết của bản án
về yêu cầu của thân chủ mình có được chấp nhận không, lý do chấp
nhận hoặc không chấp nhận, điều luật áp dụng để ra phán quyết cũng
như mức án phí mà thân chủ phải chịu hoặc đối phương phải chịu.
Điều này giúp cho Luật sư chủ động hơn nếu thân chủ có hỏi lại Luật

371
sư các thông tin này ngay sau khi bế mạc phiên tòa hoặc để phục vụ
cho việc dự thảo đơn kháng cáo giúp thân chủ đối với bản án sơ thẩm
được tuyên. Điều phản cảm nhất là sau khi tuyên án, Luật sư không
trả lời cụ thể được các câu hỏi của thân chủ về luận điểm nhận định
mấu chốt của Hội đồng xét xử là gì, quyết định của bản án, cơ sở
pháp lý áp dụng ra phán quyết ra sao hay mức án phí mà đương sự
phải chịu…
Một số kỹ năng sau phiên toà sơ thẩm
Luật sư tranh tụng cần lưu ý một số kỹ năng sau đây:
Về biên bản phiên tòa: Khoản 4 Điều 236 BLTTDS 2015 quy
định ngay sau khi kết thúc phiên tòa, những người tham gia tố tụng
có quyền được xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi,
bổ sung vào biên bản phiên tòa và ký xác nhận. Điều này nhằm tạo
điều kiện cho người tham gia tố tụng thực hiện tốt quyền của mình
và chủ động phát hiện những sai sót, nhằm đề nghị sửa đổi, bổ sung
cho chính xác, đúng với thực tế phiên tòa để bảo đảm tối đa quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự. Lưu ý lớn nhất đối với các Luật sư
là cần trao đổi với thân chủ xem có cần kiểm tra biên bản phiên tòa
hay không trước khi rời khỏi phòng xử, tránh việc sau khi rời khỏi
phòng xử, quay lại thì Thư ký phiên tòa đã không còn ở đó và không
thể thực hiện được việc xem biên bản phiên tòa. Luật sư cần chủ động
cùng xem với thân chủ để cùng nhau phát hiện những nội dung thiếu
sót, gây bất lợi cho thân chủ nhằm kịp thời sửa đổi, bổ sung và ký
xác nhận.
Về cấp trích lục bản án; giao, gửi bản án: Điều 269 BLTTDS
2015 quy định trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc
phiên tòa, các đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện được
Tòa án cấp trích lục bản án; trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày tuyên
án, Tòa án phải giao hoặc gửi bản án cho đương sự, cơ quan, tổ chức,
cá nhân khởi kiện và Viện kiểm sát cùng cấp. Vì vậy, Luật sư phải
chủ động liên hệ và đề nghị với Tòa án để được cấp trích lục bản

372
án giúp thân chủ có điều kiện kháng cáo sớm, tránh việc phụ thuộc
phải chờ nhận được bản án; trường hợp thân chủ muốn chờ bản án
để kháng cáo thì Luật sư cũng phải liên hệ với Tòa án để xác định
ngày cụ thể có thể nhận được bản án hoặc Tòa án gửi bản án sơ thẩm
cụ thể bằng hình thức nào (đến Tòa án nhận hay gửi qua bưu điện)
trong phạm vi 10 ngày, nhằm bảo đảm việc kháng cáo đúng hạn của
thân chủ.
Khi nhận thấy việc tuyên án không bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của thân chủ, không đồng ý với quyết định của bản án sơ thẩm do
không phù hợp với yêu cầu, mục tiêu đã đề ra mà thân chủ cần kháng
cáo thì Luật sư nên chủ động giúp thân chủ làm đơn kháng cáo để thân
chủ yên tâm việc kháng cáo đúng hạn. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy
Luật sư đã gắn bó với thân chủ cả một quá trình tố tụng vụ án tại cấp
sơ thẩm, vì vậy việc dự thảo một đơn kháng cáo miễn phí cho thân chủ
cũng là cần thiết và nên làm. Điều này tạo điều kiện cho sự gắn bó tiếp
tục của Luật sư và thân chủ tại cấp phúc thẩm (nếu thân chủ vẫn có
nhu cầu mời Luật sư).
Trường hợp có kháng nghị đối với bản án sơ thẩm, Luật sư cũng
cần chú ý trao đổi để thân chủ biết nội dung kháng nghị vấn đề gì, lý
do và căn cứ kháng nghị để từ đó chủ động khai thác các nội dung có
lợi cho thân chủ tại Tòa án cấp phúc thẩm hoặc phải thu thập chứng cứ
để tìm cách loại bỏ quan điểm kháng nghị.
Trong trường hợp bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm thì Luật sư cũng nên chủ động trao đổi,
hướng dẫn thân chủ thủ tục yêu cầu thi hành án theo quy định của Luật
Thi hành án dân sự để bảo đảm cho bản án hoặc quyết định đã có hiệu
lực pháp luật được thực thi.
2.2. Kỹ năng của Thẩm phán tại phiên tòa sơ thẩm
2.2.1. Kỹ năng tiến hành phần thủ tục bắt đầu phiên tòa
Bước đầu tiên khi tiến hành thủ tục bắt đầu phiên tòa được thực
hiện bằng việc khai mạc phiên tòa. Việc khai mạc phiên tòa có ý nghĩa

373
hết sức quan trọng, bởi nó có tác động rất lớn về mặt tâm lý đối với các
đương sự và những người tham gia tố tụng khác trong suốt quá trình
xét xử. Sự tác động tâm lý này có thể dẫn đến các khuynh hướng khác
nhau về nhận thức của đương sự như họ tin tưởng hoặc hoài nghi về sự
công tâm của Hội đồng xét xử và vì thế dẫn đến đương sự có thể đưa
ra những quyết định khác nhau tại phiên tòa.
Thực tiễn xét xử cho thấy khi các đương sự có niềm tin vào sự
công tâm của Hội đồng xét xử thì thông thường vụ án giải quyết được
thuận lợi, dễ dàng nhất là thông qua sự hòa giải tại phiên tòa, các
đương sự có thể thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và
ngược lại. Vì vậy, ngoài việc Hội đồng xét xử không những phải tuân
thủ đúng, đầy đủ các quy định của BLTTDS 2015 về thủ tục khai mạc
phiên tòa mà Hội đồng xét xử còn phải thể hiện thái độ, tác phong
chuẩn mực thông qua ngôn ngữ, cử chỉ, hành vi để tạo niềm tin cho các
bên đương sự. Hội đồng xét xử cần tránh những biểu hiện căng thẳng
hoặc xuề xòa.
Để chuẩn bị tốt cho việc khai mạc phiên tòa, trước đó Thư ký Tòa
án phổ biến nội quy phiên tòa theo quy định tại Điều 234 BLTTDS 2015.
Nội quy phiên tòa có giá trị bắt buộc đối với người tham gia tố tụng
và những người tham dự tại phiên tòa phải tuân theo nhằm đảm bảo
an ninh, trật tự cho phiên tòa xét xử. Thư ký phiên tòa cần kiểm tra,
xác định sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia phiên tòa theo
giấy triệu tập, giấy báo của Tòa án; nếu có người vắng mặt thì phải làm
rõ lý do; ổn định trật tự trong phòng xử án. Khi Hội đồng xét xử vào
phòng xử án, Thư ký yêu cầu mọi người trong phòng xử án đứng dậy
(Điều 237 BLTTDS 2015).
Theo quy định tại Điều 239 BLTTDS 2015 thì chủ tọa phiên tòa
khai mạc phiên tòa và đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử. Khi khai
mạc phiên tòa, chủ tọa phiên tòa yêu cầu mọi người trong phòng xử
án đứng dậy. Chủ tọa phiên tòa khai mạc như sau: “Hôm nay, ngày...,
tháng..., năm..., Tòa án nhân dân … mở phiên tòa xét xử sơ thẩm, công
khai (xét xử kín) vụ án về tranh chấp… thay mặt Hội đồng xét xử tôi

374
tuyên bố khai mạc phiên tòa” và đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Sau đó, chủ tọa phiên tòa mời mọi người ngồi xuống và yêu cầu Thư
ký báo cáo với Hội đồng xét xử về sự có mặt, vắng mặt của những
người tham gia phiên tòa theo giấy triệu tập, giấy báo của Tòa án, nếu
có người vắng mặt thì nêu rõ lý do.
Sau khi nghe Thư ký Tòa án báo cáo sự có mặt, vắng mặt của
đương sự, người tham gia phiên tòa thì chủ tọa phiên tòa tiến hành
kiểm tra lại sự có mặt, vắng mặt của họ bằng cách yêu cầu từng người
đứng dậy ra trước bàn khai tại phòng xử án và kiểm tra căn cước của
họ. Trong trường hợp có đương sự vắng mặt mà sự vắng mặt của họ
có thể ảnh hưởng đến việc xét xử thì Hội đồng xét xử phải vào phòng
nghị án thảo luận việc hoãn phiên tòa và phải lập thành văn bản theo
quy định tại khoản 2 Điều 235 BLTTDS 2015.
Thực tiễn xét xử cho thấy khi tiến hành xét xử mà có trường
hợp phải hoãn phiên tòa nhưng Hội đồng xét xử lại chỉ thảo luận tại
phòng xử án và sau đó tuyên bố hoãn phiên tòa… việc xử lý như trên
của Hội đồng xét xử là không đúng quy định về thủ tục ra bản án,
quyết định tại phiên tòa. Đối với trường hợp có người tham gia tố
tụng vắng mặt tại phiên tòa mà không thuộc trường hợp phải hoãn
phiên tòa thì chủ tọa phiên tòa phải hỏi xem có ai đề nghị hoãn phiên
tòa hay không? Nếu có người đề nghị thì Hội đồng xét xử xem xét
việc hoãn phiên tòa theo quy định của BLTTDS và có thể chấp nhận
hoặc không chấp nhận yêu cầu hoãn phiên tòa của họ, nếu không
chấp nhận thì phải nêu rõ lý do.
Ví dụ:
Tại phiên tòa sau khi tiến hành kiểm tra sự có mặt, vắng mặt
của các đương sự thấy rằng các đương sự đã có mặt đầy đủ
tại phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án nhưng có đương
sự đề nghị Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa với lý do để họ mời
Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ tại phiên tòa
vì theo quy định tại khoản 13 Điều 70 của BLTTDS 2015 quy
định về quyền và nghĩa vụ của đương sự thì họ có quyền tự mình

375
hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ.
Vậy trường hợp này Hội đồng xét xử phải xử lý như thế nào?
Có được hoãn phiên tòa hay không? nếu trường hợp họ bỏ về
không tham gia phiên tòa thì Hội đồng xét xử giải quyết như thế
nào? Căn cứ pháp lý?
Với tình huống nêu trên, có thể thấy khoản 13 Điều 70
BLTTDS 2015 quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự thì họ có
quyền được nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình.
Quyền này của đương sự được thực hiện trong suốt giai đoạn của quá
trình tố tụng tại Tòa án. Tuy nhiên, trong trường hợp mà đương sự yêu
cầu mời Luật sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ mà Luật sư
có mặt tại phiên tòa và đáp ứng đầy đủ các điều kiện của người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp và không gây cản trở cho việc xét xử tại phiên
tòa của Hội đồng xét xử (như phải hoãn phiên tòa) thì Hội đồng xét xử
chấp nhận cho Luật sư đó là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho họ tại phiên tòa. Trong trường hợp đương sự đề nghị hoãn phiên
tòa để sau đó họ mới tiến hành mời Luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho họ thì Hội đồng xét xử phải giải thích cho đương sự biết
là theo quy định của BLTTDS 2015 thì chỉ khi có các căn cứ theo quy
định tại khoản 2 Điều 56, khoản 2 Điều 62, khoản 2 Điều 84, Điều 227,
khoản 2 Điều 229, khoản 2 Điều 230, khoản 2 Điều 231 và Điều 241
BLTTDS 2015 thì Hội đồng xét xử mới được hoãn phiên tòa, còn lý
do đương sự đề nghị hoãn phiên tòa để họ mời Luật sư - người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho họ thì không phải là căn cứ để Hội đồng
xét xử hoãn phiên tòa. Do vậy, Hội đồng xét xử không được chấp nhận
yêu cầu hoãn phiên tòa của đương sự. Nếu đương sự cố tình bỏ về thì coi
như họ từ bỏ quyền tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ tại phiên
tòa và Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định chung.
Trong trường hợp phải hoãn phiên tòa, Chủ tọa phiên tòa thay
mặt Hội đồng xét xử thông báo công khai quyết định hoãn phiên toà
cho đương sự, người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa biết và giao
ngay cho họ quyết định này. Tòa án gửi ngay quyết định hoãn phiên

376
tòa đối với người vắng mặt và Viện kiểm sát cùng cấp. Trong quyết
định hoãn phiên tòa phải ghi rõ thời gian, địa điểm mở lại phiên toà.
Nếu không thể mở lại phiên toà theo đúng thời gian, địa điểm quy định
thì Toà án phải thông báo cho người tham gia tố tụng và Viện kiểm
sát biết. Trong trường hợp chưa ấn định được thời gian, địa điểm mở
lại phiên tòa thì trong quyết định hoãn phiên tòa ghi: Thời gian và địa
điểm mở lại phiên tòa sẽ được Tòa án thông báo sau.
Thời hạn hoãn phiên toà là không quá 01 tháng, kể từ ngày Toà
án ra quyết định hoãn phiên toà. Đối với những vụ án xét xử theo thủ
tục rút gọn thì thời hạn hoãn phiên tòa không quá 15 ngày, kể từ ngày
ra quyết định hoãn phiên tòa (Điều 233 BLTTDS 2015). Như vậy, Hội
đồng xét xử có thể mở lại phiên tòa xét xử ngay từ sau ngày ra quyết
định hoãn phiên tòa. Tuy nhiên, việc bố trí lại ngày xét xử của Hội
đồng xét xử phải căn cứ vào đặc điểm, tính chất của từng vụ án cụ thể
như thời gian Tòa án có thể tống đạt được giấy triệu tập cho đương sự
vắng mặt hay phải dự kiến được các tình huống phát sinh…
Sau khi chủ tọa phiên tòa kiểm tra sự có mặt, vắng mặt của những
người tham gia phiên tòa theo giấy triệu tập, giấy báo của Tòa án thì
chủ tọa phiên tòa tiến hành kiểm tra căn cước của đương sự có mặt tại
phiên tòa bằng cách hỏi để các đương sự khai về họ, tên, ngày, tháng,
năm sinh, nơi cư trú (nếu đương sự là cá nhân). Nếu đương sự là cơ
quan, tổ chức thì hỏi tên người đại diện, địa chỉ trụ sở chính… trong
trường hợp các tài liệu có trong hồ sơ cũng như các lời khai của đương
sự không thống nhất và có mâu thuẫn về căn cước thì Hội đồng xét xử
phải xác minh chính xác căn cước của họ.
Khi đã kiểm tra xong căn cước của đương sự và những người
tham gia tố tụng khác thì chủ tọa phiên tòa tiến hành phổ biến quyền
và nghĩa vụ của đương sự và những người tham gia tố tụng khác theo
quy định tương ứng tại các Điều 70, 71, 72, 73 BLTTDS 2015. Chủ tọa
phiên tòa tiến hành giới thiệu họ, tên thành phần Hội đồng xét xử, đại
diện Viện kiểm sát, Thư ký phiên tòa và người giám định, người phiên
dịch (nếu có). Đối với Thẩm phán chỉ giới thiệu họ, tên và chức danh

377
Thẩm phán mà không giới thiệu chức vụ; đối với Hội thẩm nhân dân
không giới thiệu chức vụ và nghề nghiệp, nơi công tác.
Khi đã tiến hành xong phần giới thiệu, chủ tọa phiên tòa hỏi
những người tham gia tố tụng có yêu cầu thay đổi những người tiến
hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch không? Tại phiên
toà việc yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định,
người phiên dịch do Hội đồng xét xử quyết định sau khi nghe ý kiến
của người bị thay đổi, Hội đồng xét xử vào phòng nghị án thảo luận
và quyết định theo đa số (khoản 2 Điều 56 BLTTDS 2015). Hội đồng
xét xử có thể chấp nhận yêu cầu xin thay đổi người tiến hành tố tụng
khi thỏa mãn một trong những căn cứ quy định tại Điều 52, 53, 54
BLTTDS 2015 hoặc Hội đồng xét xử có thể không chấp nhận yêu cầu
xin thay đổi nếu đương sự không đưa ra được các căn cứ để chứng
minh cho yêu cầu xin thay đổi của mình. Quyết định việc thay đổi hoặc
không thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên
dịch phải được Hội đồng xét xử công bố công khai tại phiên tòa.
Trong trường hợp vụ án có người làm chứng thì chủ tọa yêu cầu
người làm chứng phải cam kết khai báo đúng sự thật, trừ trường hợp
người làm chứng là người chưa thành niên. Người làm chứng khai báo
không đúng sự thực thì họ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về
sự khai báo gian dối đó. Ngoài ra, chủ tọa phiên tòa còn phải yêu cầu
người giám định, người phiên dịch (nếu có) cam kết cung cấp kết quả
giám định chính xác và phiên dịch đúng nội dung cần phiên dịch.
Để thực hiện tốt quá trình tranh tụng cũng như xác định lại
yêu cầu của đương sự thì Thẩm phán - chủ tọa phiên tòa bắt đầu hỏi
đương sự về việc thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu
cầu của mình theo quy định tại Điều 243 BLTTDS 2015 theo thứ
tự từ nguyên đơn đến bị đơn, đến người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan có yêu cầu độc lập. Việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương
sự phải được ghi vào biên bản phiên toà. Khi Hội đồng xét xử chấp
nhận yêu cầu thay đổi, bổ sung của đương sự, thì phải ghi trong bản
án. Trường hợp đương sự rút một phần yêu cầu thì Tòa án ghi vào

378
phần nhận định và quyết định trong bản án, quyết định về việc rút
yêu cầu đó của đương sự.
Ví dụ:
Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 26/8/2016, nguyên đơn A khởi kiện
bị đơn B yêu cầu trả cho nguyên đơn A một khoản tiền là 100
triệu đồng theo hợp đồng vay tài sản ngày 20/6/2015. Tại phiên
tòa, nguyên đơn A lại yêu cầu bị đơn B phải trả khoản tiền là
50 triệu đồng cùng lãi suất 1%/tháng theo hợp đồng vay tài sản
ngày 28/6/2015. Vậy trường hợp này nguyên đơn bổ sung yêu cầu
khởi kiện có vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu hay không? Nếu
nguyên đơn bổ sung yêu cầu đó nhưng được bị đơn chấp nhận thì
Hội đồng xét xử có chấp nhận giải quyết tại phiên tòa yêu cầu bổ
sung này của nguyên đơn hay không? Căn cứ pháp lý?
Đối với tình huống nêu trên, có thể thấy yêu cầu khởi kiện bổ
sung của nguyên đơn A đã vượt quá yêu cầu khởi kiện ban đầu. Bởi lẽ
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn A chỉ yêu cầu bị đơn B phải trả số
tiền vay là 100 triệu đồng theo hợp đồng vay tài sản ngày 20/6/2015.
Mặc dù tại phiên tòa bị đơn chấp nhận yêu cầu bổ sung của nguyên
đơn thì Hội đồng xét xử cũng không được chấp nhận để giải quyết
trong vụ án này. Vì yêu cầu này của nguyên đơn đã được Tòa án thụ lý
vụ án và Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án tiến hành thông
báo thụ lý vụ án cho các đương sự, thu thập chứng cứ trong quá trình
xây dựng hồ sơ vụ án, đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao
nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Còn yêu cầu của nguyên
đơn tại phiên tòa sơ thẩm đề nghị bị đơn phải trả số tiền 50 triệu đồng
cùng lãi suất 1%/tháng theo hợp đồng vay tài sản ngày 28/6/2015 thì
Tòa án chưa tiến hành xem xét các điều kiện để thụ lý vụ án, nguyên
đơn chưa nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm và Thẩm phán giải quyết
vụ án cũng chưa tiến hành các thủ tục tố tụng từ khi thụ lý vụ án cho
đến khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử tại phiên tòa. Nếu Hội đồng
xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện bổ sung này của nguyên đơn A là
đã vượt quá yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn A vì theo quy định tại

379
khoản 1 Điều 244 BLTTDS 2015 thì Hội đồng xét xử sẽ không chấp
nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập nếu yêu cầu đó vượt
quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập ban
đầu. Vượt quá yêu cầu khởi kiện ban đầu của nguyên đơn, yêu cầu
phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan được hiểu là vượt ra khỏi nội dung cụ thể và trong mỗi nội
dung cụ thể vượt quá quy mô, mức độ yêu cầu ban đầu mà nguyên đơn
đã ghi trong đơn khởi kiện, bị đơn ghi trong đơn phản tố, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ghi trong đơn yêu cầu độc lập. Do vậy,
Hội đồng xét xử không được chấp nhận yêu cầu khởi kiện bổ sung này
của nguyên đơn A tại phiên tòa sơ thẩm.
Với quy định như trên đã đảm bảo nguyên tắc quyền tự định
đoạt của các đương sự đồng thời đảm bảo nguyên tắc Tòa án đảm bảo
quyền tự bảo vệ của đương sự. Mọi thay đổi, bổ sung theo hướng bất
lợi cho đương sự khác tại phiên tòa không được Hội đồng xét xử chấp
nhận. Vì việc thay đổi, bổ sung yêu cầu đó có thể dẫn đến việc các
đương sự khác bị động trong việc đưa ra các chứng cứ chứng minh để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình tại phiên tòa. Mặt khác, yêu
cầu đó được đưa ra nếu Hội đồng xét xử chấp nhận trong khi Tòa án
chưa thực hiện việc yêu cầu đương sự phải nộp tạm ứng án phí sơ thẩm
trong trường hợp yêu cầu của họ đưa ra phải có nghĩa vụ nộp tiền tạm
ứng án phí; chưa mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công
khai chứng cứ và hòa giải theo quy định của BLTTDS 2015 sẽ dẫn đến
việc Hội đồng xét xử vi phạm về thủ tục tố tụng.
Trong trường hợp đương sự rút một phần yêu cầu hoặc toàn bộ
yêu cầu của mình mà xét thấy việc rút yêu cầu của họ là tự nguyện thì
Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu
hoặc toàn bộ yêu cầu của đương sự đã rút. Tuy nhiên, một trong những
kỹ năng rất quan trọng của Thẩm phán tại phiên tòa là làm sao nhận
biết được việc rút yêu cầu của đương sự là tự nguyện? Đặc biệt là trong
những vụ án tranh chấp về hôn nhân gia đình vì một sức ép nào đó mà

380
người vợ (nguyên đơn) đã bị hành hạ, ngược đãi nhiều năm, mặc dù
rất muốn ly hôn nhưng do sự đe dọa hay sức ép của người chồng cũng
như gia đình dẫn đến việc họ rút yêu cầu xin được ly hôn. Về nguyên
tắc, nếu đương sự rút yêu cầu thì Hội đồng xét xử sẽ ra quyết định
đình chỉ đối với yêu cầu đó nhưng trước khi ra quyết định đình chỉ thì
Thẩm phán cần nâng cao trách nhiệm, phải xác minh, đánh giá chứng
cứ để tìm ra sự thật khách quan xem họ có thật sự tự nguyện hay không
bằng cách thông qua thái độ, cử chỉ, lời nói của họ hoặc thông qua các
thông tin từ thân nhân của họ. Nếu sau khi có căn cứ để xác định việc
rút yêu cầu đó là không phải do tự nguyện thì Hội đồng xét xử không
chấp nhận việc rút yêu cầu của họ.
Đối với trường hợp sau khi chủ tọa phiên tòa hỏi mà nguyên đơn
rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện và vụ án không có yêu cầu phản tố của
bị đơn, không có yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan thì Hội đồng xét xử ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án
theo quy định tại khoản 2 Điều 217 BLTTDS 2015.
Đối với trường hợp đương sự rút một phần yêu cầu thì Hội đồng
xét xử quyết định đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của họ đã rút. Việc
quyết định đình chỉ xét xử một phần yêu cầu đã rút của đương sự được
ghi trong bản án mà Hội đồng xét xử không phải ra một quyết định riêng.
Ví dụ:
Tình huống 1: Khi hết thời hạn thuê nhà, nguyên đơn A khởi
kiện yêu cầu bị đơn B trả lại ngôi nhà mà nguyên đơn A đã cho bị
đơn B thuê cùng với số tiền mà B đã vay của A là 10 triệu đồng.
Tại phiên tòa, A rút yêu cầu đòi 10 triệu đồng đối với B. Vậy, việc
A rút yêu cầu đòi tiền thuê nhà đối với B có phải là A rút một phần
yêu cầu khởi kiện không? Căn cứ pháp lý?
Tình huống 2: C khởi kiện yêu cầu D trả số tiền mà D đã vay
là 50 triệu đồng cùng với lãi suất là 5 triệu đồng. Tổng cộng là 55
triệu đồng. Tại phiên tòa, C rút yêu cầu đòi D trả tiền lãi là 5 triệu
đồng. Vậy việc rút yêu cầu của C đối với D có phải là C rút một
phần yêu cầu khởi kiện không?

381
So sánh 2 tình huống nêu trên có thể thấy: Đối với tình huống 1
việc A khởi kiện đòi nhà mà B đã thuê và yêu cầu B phải thanh toán
trả A 10 triệu đồng là 2 yêu cầu khởi kiện khác nhau. Nếu A rút yêu
cầu đòi B 10 triệu đồng thì đây là trường hợp A đã rút toàn bộ 01 yêu
cầu. Còn đối với tình huống 2 thì việc C khởi kiện yêu cầu D thanh
toán tiền gốc mà D đã vay là 50 triệu đồng cùng tiền lãi 5 triệu đồng
thì C chỉ có 01 yêu cầu khởi kiện, nhưng C rút yêu cầu đòi D 5 triệu
đồng tiền lãi tại phiên tòa thì trường hợp này coi là C đã rút một phần
yêu cầu. Tuy nhiên, ở cả 2 tình huống nêu trên, nếu xét thấy việc rút
yêu cầu của A và C là tự nguyện thì Hội đồng xét xử quyết định đình
chỉ xét xử đối với yêu cầu mà A và C đã rút trong phần quyết định của
bản án theo quy định tại khoản 2 Điều 244 BLTTDS 2015. Thẩm phán
cần lưu ý việc áp dụng quy định tại Điều 245 BLTTDS 2015 để xử lý
trường hợp thay đổi địa vị tố tụng của đương sự tại phiên tòa.
Ví dụ:
Nguyên đơn A khởi kiện bị đơn B yêu cầu B phải trả lại chiếc xe
máy mà B đã mượn của A. B có yêu cầu lại với A là khi mượn xe
máy của A thì B đã sửa chữa chiếc xe máy đó hết 5 triệu đồng và B
yêu cầu A thanh toán trả lại cho B số tiền đó. Tại phiên tòa, A rút
yêu cầu B trả chiếc xe máy nhưng B vẫn giữ nguyên yêu cầu đòi A
5 triệu đồng tiền sửa chữa chiếc xe máy đó. Vậy Hội đồng xét xử
sẽ xử lý như thế nào? Căn cứ pháp lý?
Nếu nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện, bị đơn rút toàn bộ
yêu cầu phản tố nhưng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn giữ
nguyên yêu cầu độc lập thì Hội đồng xét xử quyết định đình chỉ xét xử
đối với yêu cầu đã rút của nguyên đơn, bị đơn. Công bố công khai tại
phiên tòa việc thay đổi địa vị tố tụng tùy theo mối quan hệ giữa các
đương sự có liên quan đến yêu cầu độc lập của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan. Việc thay đổi địa vị tố tụng của đương sự được ghi
vào biên bản phiên tòa và trong bản án. Khi A rút yêu cầu khởi kiện
đòi B chiếc xe máy nhưng B vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố yêu cầu
A trả 5 triệu đồng tiền sửa chữa chiếc xe máy đó thì Hội đồng xét xử

382
quyết định đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của A, đồng thời tiếp tục
giải quyết yêu cầu phản tố của B. Công bố việc thay đổi địa vị tố tụng
của A và B. Xác định B là nguyên đơn và A là bị đơn trong quan hệ
tranh chấp là đòi tài sản (tiền sửa chữa chiếc xe).
Ví dụ:
Nguyên đơn A khởi kiện bị đơn B yêu cầu B trả nhà, B yêu cầu
phản tố đối với A yêu cầu A thanh toán trả B tiền sửa chữa nhà. Vì
A có vay ngân hàng C tiền và thế chấp giấy tờ nhà cho ngân hàng
C để vay tiền nên đến hạn ngân hàng C có yêu cầu độc lập yêu cầu
A trả tiền vay. A và B rút yêu cầu. Ngân hàng C vẫn giữ nguyên
yêu cầu độc lập.
Vậy, Hội đồng xét xử xử lý như thế nào? Căn cứ pháp lý?
Với tình huống này, Hội đồng xét xử phải đình chỉ giải quyết yêu
cầu khởi kiện của A và yêu cầu phản tố của B đã rút và tiếp tục giải
quyết yêu cầu độc lập của ngân hàng C. Công bố việc thay đổi địa vị tố
tụng của các đương sự. Vì yêu cầu độc lập của ngân hàng C là yêu cầu
A trả tiền vay ngân hàng nên xác định ngân hàng C là nguyên đơn, A
là bị đơn trong quan hệ tranh chấp hợp đồng vay tài sản và B là người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan do B đang quản lý ngôi nhà của A và
ngôi nhà này đang thế chấp tại ngân hàng C để đảm bảo nghĩa vụ thanh
toán với ngân hàng C của A.
Khi thay đổi địa vị tố tụng của các đương sự tại phiên tòa thì
việc xác định lại địa vị tố tụng của đương sự được công bố tại phiên
tòa, ghi vào biên bản phiên tòa và trong bản án. Việc ghi địa vị tố tụng
của các đương sự trong trường hợp này sẽ khác với địa vị tố tụng của
các đương sự được ghi trong quyết định đưa vụ án ra xét xử. Điều
245 BLTTDS 2015 không quy định rõ việc ghi địa vị tố tụng của các
đương sự khi có thay đổi được ghi trong bản án. Trước đây, theo hướng
dẫn của HĐTP TANDTC tại Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP hướng
dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết
vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của BLTTDS 2004 đã được sửa đổi, bổ
sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS thì bản án

383
sơ thẩm có 4 phần, đó là phần mở đầu, phần nhận thấy, phần xét thấy
và phần quyết định. Vậy ghi vào phần nào của bản án? Hiện nay, việc
ghi vào phần nào của bản án cũng còn có những ý kiến khác nhau. Có
quan điểm cho rằng, khi xác định lại địa vị tố tụng của đương sự phải
ghi vào đúng vị trí của đương sự được xác định tại phần mở đầu bản
án, nhưng cũng có quan điểm cho rằng chỉ nhận xét việc thay đổi địa
vị tố tụng của đương sự tại phiên tòa trong phần xét thấy của bản án.
Do vậy, thực tế xét xử còn có những khó khăn và áp dụng không thống
nhất nên cần phải có hướng dẫn rõ ràng, cụ thể của HĐTP TANDTC.
Trong quá trình xét xử, Hội đồng xét xử tạo điều kiện cho các
bên đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án. Nếu
các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ
án thì Hội đồng xét xử cần giải thích cho đương sự biết nội dung quy
định tại Điều 246 BLTTDS 2015 và hỏi họ có thỏa thuận được với
nhau về việc giải quyết vụ án hay không? nếu có thì họ có hoàn toàn
tự nguyện hay không, có bị ép buộc không và xem xét thỏa thuận đó
có trái pháp luật, đạo đức xã hội hay không và giải thích cho họ biết
hậu quả của việc Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự là họ không được quyền kháng cáo, Viện kiểm sát không có
quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Quyết định công nhận sự
thỏa thuận của các đương sự được Hội đồng xét xử thảo luận và quyết
định tại phòng nghị án. Quyết định này có hiệu lực pháp luật theo quy
định tại Điều 213 BLTTDS 2015 mà không bị kháng cáo, kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm. Sự thỏa thuận của các đương sự được ghi vào
biên bản phiên tòa. Quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự
trong trường hợp này được Hội đồng xét xử thảo luận, thông qua tại
phòng nghị án.
Trước khi kết thúc thủ tục bắt đầu phiên tòa thì chủ tọa phiên tòa
hỏi các thành viên Hội đồng xét xử, đại diện Viện kiểm sát và những
người tham gia tố tụng xem họ có ý kiến gì không? Nếu không ai có ý
kiến gì thì chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc phần bắt đầu phiên tòa
và chuyển sang phần tranh tụng tại phiên tòa.

384
2.2.2. Kỹ năng tiến hành phần tranh tụng tại phiên tòa
Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa được quy định tại Mục 3 Chương
XIV từ Điều 247 đến Điều 263 BLTTDS 2015. Việc tranh tụng tại
phiên tòa được tiến hành theo sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa. Chủ
tọa phiên tòa điều khiển việc tranh tụng giữa các bên đương sự bằng
cách hướng đương sự tập trung vào việc trình bày chứng cứ, hỏi, đối
đáp, trả lời và phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ,
tình tiết của vụ án dân sự, quan hệ pháp luật tranh chấp và pháp luật
áp dụng để giải quyết yêu cầu của các đương sự trong vụ án. Chủ tọa
phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh tụng, tạo điều kiện cho
những người tham gia tranh tụng trình bày hết ý kiến nhưng có quyền
yêu cầu họ dừng trình bày những ý kiến không có liên quan đến vụ án
dân sự.
Như vậy, về mặt kỹ năng điều khiển phần tranh tụng tại phiên tòa
thì chủ tọa phải hướng cho các đương sự tập trung trình bày và làm
sáng tỏ những tình tiết, sự kiện có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án.
Thực tiễn xét xử cho thấy việc điều khiển phần tranh tụng tại
phiên tòa trong một số trường hợp còn gặp nhiều khó khăn nhất là đối
với các vụ án tranh chấp phức tạp như tranh chấp về quyền sử dụng
đất, tranh chấp thừa kế tài sản… các đương sự thường có thái độ, tâm
lý bực bội, nóng giận, bức xúc… thậm chí có những hành vi, cử chỉ và
lời nói không chuẩn mực xúc phạm lẫn nhau. Vì vậy, Thẩm phán chủ
tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử không chỉ nắm vững kiến thức pháp
luật mà còn phải nắm vững kiến thức về tâm lý và có kỹ năng để xử lý
tình huống thông qua ngôn ngữ, cử chỉ, thái độ để giải thích các quy
định của pháp luật, quyền và nghĩa vụ của đương sự tại phiên tòa cũng
như hình thức xử lý đối với những hành vi vi phạm, đồng thời chủ tọa
phiên tòa biết lựa chọn đúng thời điểm để dừng việc tranh luận đó.
a) Kỹ năng điều khiển việc hỏi tại phiên tòa
Hội đồng xét xử tiến hành điều khiển phần tranh tụng tại phiên
tòa thông qua hai thủ tục (i) điều khiển việc hỏi tại phiên tòa và (ii)

385
điều khiển việc tranh luận tại phiên tòa. Đối với việc hỏi tại phiên tòa
thì Hội đồng xét xử đề cao tính chủ động của các bên đương sự bằng
việc Hội đồng xét xử nghe lời trình bày của các đương sự về yêu cầu
của họ theo thứ tự được quy định tại Điều 248 BLTTDS 2015 như sau:
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình
bày về yêu cầu và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của nguyên đơn
là có căn cứ và hợp pháp. Nguyên đơn có quyền bổ sung ý kiến. Mặc dù
BLTTDS 2015 không quy định nếu trường hợp nguyên đơn không biết
quy định là sau khi người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trình
bày về yêu cầu và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của họ là có
căn cứ và hợp pháp nếu chưa đầy đủ thì họ có quyền trình bày bổ sung
ý kiến nên nguyên đơn không trình bày ý kiến bổ sung thì ai là người
giải thích cho họ biết quyền này. Do vậy, về kỹ năng, chủ tọa phiên tòa
cần phải điều hành, giải thích cho họ biết để họ trình bày ý kiến bổ sung
có thể bằng cách chủ tọa phiên tòa hỏi nguyên đơn có bổ sung ý kiến
gì không? Và tương tự như vậy đối với bị đơn có yêu cầu phản tố đối
với nguyên đơn hoặc yêu cầu phản tố đối với người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan có yêu cầu độc lập; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
có yêu cầu độc lập hoặc không có yêu cầu độc lập thì chủ tọa phiên tòa
cũng cần giải thích và hỏi xem họ có bổ sung ý kiến gì đối với sự trình
bày của người người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Trường hợp cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án thì đại diện cơ
quan, tổ chức trình bày về yêu cầu và chứng cứ để chứng minh cho yêu
cầu khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày ý
kiến của bị đơn đối với yêu cầu của nguyên đơn; yêu cầu phản tố, đề
nghị của bị đơn và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị đó
là có căn cứ và hợp pháp. Tiếp theo, Hội đồng xét xử hỏi bị đơn có bổ
sung ý kiến gì không?
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa

386
vụ liên quan đối với yêu cầu, đề nghị của nguyên đơn, bị đơn; yêu cầu
độc lập, đề nghị của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và chứng
cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị đó là có căn cứ và hợp pháp.
Tiếp theo, Hội đồng xét xử hỏi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
có bổ sung ý kiến gì không?
Nếu các đương sự không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho mình thì họ tự trình bày về yêu cầu, đề nghị của mình và chứng
cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị đó là có căn cứ và hợp pháp.
Tại phiên tòa, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự chỉ có quyền bổ sung chứng cứ nếu vì lý do chính đáng
mà đương sự không thể giao nộp trong thời hạn mà Thẩm phán được
phân công giải quyết vụ án ấn định hoặc trong trường hợp trước đó
Tòa án không yêu cầu đương sự giao nộp hoặc chứng cứ mà đương sự
không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án.
Ví dụ:
Tại phiên tòa, nguyên đơn A mới giao nộp chứng cứ là bản di
chúc có chữ ký của người để lại di sản thừa kế nhưng trước đó
nguyên đơn A không giao nộp cho Tòa án được đúng thời hạn theo
yêu cầu của Thẩm phán giải quyết vụ án về chia thừa kế vì lý do
khách quan. Vậy tại phiên tòa bản di chúc này có được chấp nhận
để xem xét hay không? Hội đồng xét xử phải giải quyết như thế
nào? Có phải mở lại phiên họp để kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận
và công khai chứng cứ hay không? Căn cứ pháp lý?
Đối với tình huống nêu trên có thể thấy rằng mặc dù bản di chúc
này đã được Thẩm phán yêu cầu nguyên đơn A giao nộp nhưng vì lý
do khách quan nên nguyên đơn A không thể giao nộp đúng thời hạn
do Thẩm phán ấn định. Trong trường hợp tại phiên tòa họ mới giao
nộp cho Hội đồng xét xử thì Hội đồng xét xử vẫn chấp nhận việc giao
nộp, tiếp cận công khai chứng cứ này của nguyên đơn A và thông báo
cho bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án biết
nhưng vì để đảm bảo quyền lợi cho các bên đương sự thì Hội đồng
xét xử cần phải xem xét và đánh giá chứng cứ một cách khách quan,

387
toàn diện mà việc đánh giá chứng cứ này không thể thực hiện được
ngay tại phiên tòa nếu có sự phản đối của các đương sự khác thì Hội
đồng xét xử cần phải ra quyết định tạm ngừng phiên tòa theo quy định tại
điểm c khoản 1 Điều 259 BLTTDS 2015 để xem xét một cách đầy đủ
các thuộc tính của chứng cứ. Trong trường hợp này, sau khi Hội đồng
xét xử tạm ngừng phiên tòa thì Thẩm phán không tiến hành mở phiên
họp để kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận và công khai chứng cứ nữa vì
Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án chỉ mở phiên họp khi
chưa có quyết định đưa vụ án ra xét xử, mặt khác nguyên đơn A cũng
đã giao nộp chứng cứ là bản di chúc đó công khai tại phiên tòa và các
đương sự khác trong vụ án đã biết. Việc đánh giá chứng cứ phải được
thực hiện bởi Hội đồng xét xử sau khi mở lại phiên tòa với lý do việc
tạm ngừng phiên tòa đã được khắc phục. Trong trường hợp lý do tạm ngừng
phiên tòa chưa được khắc phục khi đã hết thời hạn tạm ngừng phiên tòa thì
Hội đồng xét xử ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án.
Tóm lại, Hội đồng xét xử nghe lời trình bày của người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và đương sự bổ sung ý kiến thì
vai trò của Hội đồng xét xử mới chỉ dừng ở việc tiếp cận thông tin và
chứng cứ mà các bên đưa ra tại phiên tòa để sau đó tiến hành đánh giá
lời khai và các chứng cứ đó có phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thu
thập được trong giai đoạn chuẩn bị xét xử hay không. Đồng thời, thông
qua lời trình bày của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự thì Hội đồng xét xử sẽ phát hiện được những điểm thống
nhất hoặc mâu thuẫn trong các lời khai cũng như các chứng cứ mà các
bên đưa ra để từ đó có cơ sở cho việc đánh giá chứng cứ và tìm ra sự
thật khách quan trong các lời khai của họ.
Sau khi nghe xong lời trình bày của đương sự, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì chủ tọa phiên tòa tiến
hành điều khiển phần thủ tục hỏi tại phiên tòa theo thứ tự quy định tại
Điều 249 BLTTDS 2015. Hội đồng xét xử phải điều khiển phần hỏi
của các bên đương sự với nhau làm sao cho đương sự đặt câu hỏi đối
với đương sự khác phải rõ ràng, nghiêm túc, không trùng lắp, không

388
lợi dụng việc hỏi và trả lời để xâm phạm danh dự, nhân phẩm của
những người tham gia tố tụng.
Đối với phần hỏi của Hội đồng xét xử thì việc đặt câu hỏi phải
thể hiện được sự khách quan, ngắn gọn, rõ ràng, cụ thể và dễ hiểu, đặt
câu hỏi một cách khéo léo. Thái độ của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa
khi đặt câu hỏi phải bình tĩnh, mềm mỏng, không được thể hiện sự
nóng nảy và không đặt những câu hỏi mang tính chất truy vấn vì điều
đó rất dễ gây ra tâm lý bức xúc cho các bên đương sự.
Các câu hỏi được đưa ra với mục đích nhằm khai thác yếu tố tâm
lý của đương sự, nhưng Hội đồng xét xử cũng không được đặt câu hỏi
mang tính chất gợi ý cho bên này hoặc bên kia. Việc đặt câu hỏi của
Hội đồng xét xử phải nhằm hướng cho đương sự, người tham gia tố
tụng trình bày vào những vấn đề trọng tâm của vụ án. Nếu đương sự
trình bày những vấn đề không liên quan đến việc giải quyết vụ án thì
Hội đồng xét xử giải thích cho họ biết để họ không trình bày. Hội đồng
xét xử có quyền cắt lời trình bày của họ nếu lời trình bày của họ không
nhằm mục đích làm sáng tỏ những vấn đề cần giải quyết của vụ án.
Việc hỏi của Hội đồng xét xử đối với người tham gia tố tụng
được tiến hành theo thứ tự sau đây:
- Hỏi nguyên đơn; bị đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan. Nếu vụ án có nhiều nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan thì hỏi riêng từng người một và chỉ hỏi những vấn
đề chưa rõ, có mâu thuẫn với nhau hoặc mâu thuẫn với chính lời khai
của họ trước đó. Các đương sự có thể tự mình trả lời hoặc người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của họ trả lời thay. Các đương sự có quyền
trả lời bổ sung (Điều 250, 251, 252 BLTTDS 2015).
- Chủ tọa phiên tòa hỏi người làm chứng theo quy định tại
Điều 253 BLTTDS 2015. Trong trường hợp có nhiều người làm chứng
thì Hội đồng xét xử hỏi riêng từng người một. Chủ tọa phiên tòa hỏi
mối quan hệ giữa người làm chứng với các đương sự khác trong vụ án
để đánh giá mức độ tin cậy trong lời khai của người làm chứng trên

389
cơ sở lời khai của họ có phù hợp với các tình tiết và tài liệu của vụ án
hay không? Nếu người làm chứng là người chưa thành niên thì chủ tọa
phiên tòa có thể yêu cầu cha, mẹ, người giám hộ hoặc thầy giáo, cô
giáo giúp đỡ để hỏi.
Chủ tọa phiên tòa yêu cầu người làm chứng trình bày rõ những
tình tiết của vụ án mà họ biết; sau khi người làm chứng trình bày xong
thì chỉ hỏi thêm người làm chứng về những điểm mà họ trình bày chưa
rõ, chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn với nhau, mâu thuẫn với lời khai
của họ trước đó, mâu thuẫn với lời trình bày của đương sự, người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Sau khi đã trình bày xong,
người làm chứng ở lại phòng xử án để có thể được hỏi thêm.
Việc hỏi người làm chứng tại phiên tòa trong thực tiễn xét xử cũng
còn gặp nhiều khó khăn do họ phải đối diện với các bên đương sự tại
phiên tòa. Họ có tâm lý ngại va chạm với các bên đương sự, lo ngại đến
sự an toàn của họ và gia đình họ nên họ trả lời sẽ mang tính chất chung
chung, không cụ thể hoặc có thể mâu thuẫn với những lời khai trước đó.
Chính tâm lý này của người làm chứng dẫn đến việc xét xử gặp nhiều
khó khăn. Do vậy, đòi hỏi Thẩm phán phải có kỹ năng hỏi thật khéo léo
sao cho người làm chứng có thể khai báo đầy đủ những tình tiết của vụ
án mà họ biết. Đặc biệt, khi hỏi người làm chứng là người chưa thành
niên đòi hỏi Thẩm phán phải am hiểu tâm lý của lứa tuổi.
Để đảm bảo tính khách quan của người làm chứng, Điều 242
BLTTDS 2015 quy định: Trước khi hỏi người làm chứng về những
vấn đề mà họ biết có liên quan đến việc giải quyết vụ án, chủ tọa phiên
tòa có thể quyết định những biện pháp cần thiết để những người làm
chứng không nghe được lời khai của nhau hoặc tiếp xúc với những
người có liên quan. Trường hợp lời khai của đương sự và người làm
chứng có ảnh hưởng lẫn nhau thì chủ tọa phiên tòa có thể quyết định
cách ly đương sự với người làm chứng trước khi hỏi người làm chứng.
Trong một số trường hợp, Hội đồng xét xử có thể không để những
người tham dự phiên tòa nhìn thấy họ và biết về nhân thân của họ.

390
Trong trường hợp cần thiết phải bảo đảm an toàn cho người làm chứng
và những người thân thích của họ, Hội đồng xét xử quyết định không
tiết lộ thông tin về nhân thân của người làm chứng và không để những
người trong phiên tòa nhìn thấy họ. Đương sự, người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự hỏi người làm chứng sau khi được sự
đồng ý của chủ tọa phiên tòa. Tham khảo thực tiễn xét xử tại Tòa án ở
Nhật Bản trong những trường hợp cần đảm bảo an ninh cho người làm
chứng và gia đình họ, Thẩm phán để người làm chứng ở một phòng
riêng. Người làm chứng nhìn thấy toàn bộ quang cảnh tại phiên xử
nhưng những người có mặt tại phiên tòa không nhìn thấy người làm
chứng mà chỉ nghe được lời nói của người làm chứng thông qua các
thiết bị khoa học. Chính điều này đã tạo điều kiện để người làm chứng
khai báo đầy đủ, khách quan, đúng sự thật các tình tiết của vụ án.
Trong một số trường hợp, Hội đồng xét xử công bố tài liệu,
chứng cứ của vụ án theo quy định tại Điều 254 BLTTDS 2015; nghe
băng ghi âm, đĩa ghi âm, xem băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị chứa
âm thanh, hình ảnh xem xét vật chứng tại phiên tòa (Điều 255, 256
BLTTDS 2015). Một điểm cần lưu ý là Hội đồng xét xử không được
công bố tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án khi vụ án có liên quan
đến việc giữ gìn bí mật nhà nước, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân
tộc, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật
gia đình, bảo vệ người chưa thành niên theo yêu cầu của đương sự.
- Cuối cùng, Hội đồng xét xử hỏi người giám định: Yêu cầu
người giám định trình bày kết luận của mình về những vấn đề được
giao giám định. Nếu kết luận giám định có mâu thuẫn hoặc chưa rõ
thì cần hỏi thêm người giám định để họ giải thích bổ sung về kết luận
giám định và căn cứ để đưa ra kết luận giám định để làm sáng tỏ. Nếu
người giám định không có mặt tại phiên tòa thì chủ tọa công bố kết
luận giám định. Khi có người tham gia tố tụng không đồng ý với kết
luận giám định được công bố tại phiên tòa và có yêu cầu giám định bổ
sung, giám định lại, nếu Hội đồng xét xử xét thấy việc giám định bổ
sung, giám định lại là cần thiết thì Hội đồng xét xử quyết định giám

391
định bổ sung, giám định lại. Trong trường hợp này, Hội đồng xét xử
quyết định tạm ngừng phiên tòa.
Nếu xét thấy các tình tiết của vụ án đã được xem xét đầy đủ thì
chủ tọa phiên tòa hỏi Kiểm sát viên, đương sự, người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự và những người tham gia tố tụng khác
xem họ có yêu cầu hỏi thêm vấn đề nào nữa không. Nếu có người yêu
cầu và xét thấy yêu cầu đó là có căn cứ thì chủ tọa tiếp tục việc hỏi
(Điều 258 BLTTDS 2015). Trong trường hợp không có ai có câu hỏi
gì thêm thì chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc việc hỏi để chuyển sang
tranh luận.
b) Kỹ năng điều khiển hoạt động tranh luận tại phiên tòa
Tranh luận tại phiên tòa là một hoạt động trung tâm của phiên
tòa dân sự sơ thẩm. Mục đích của hoạt động tranh luận tại phiên tòa là
nhằm làm sáng tỏ thêm những tình tiết, sự kiện của vụ án. Việc tranh
luận của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự được diễn ra tại phiên tòa về những vấn đề mà các đương sự chưa
thống nhất hoặc còn mâu thuẫn. Những vấn đề mà các bên đưa ra đã
được bên kia thừa nhận và không phản đối thì Hội đồng xét xử yêu cầu
các bên không tranh luận. Hội đồng xét xử phải đặt mình ở vị trí trung
gian để điều hành phần tranh luận giữa các bên đương sự theo một trật
tự mà BLTTDS 2015 quy định. Hội đồng xét xử không được tham gia
vào việc tranh luận của các đương sự bởi Hội đồng xét xử không phải
là một bên tham gia tranh luận.
Hội đồng xét xử căn cứ vào quy định tại Điều 260 BLTTDS 2015
để điều hành trình tự phát biểu khi tranh luận như sau:
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình
bày. Nguyên đơn có quyền bổ sung ý kiến. Trong trường hợp cơ quan,
tổ chức khởi kiện thì đại diện cơ quan, tổ chức trình bày ý kiến. Người
có quyền và lợi ích hợp pháp được bảo vệ có quyền bổ sung ý kiến.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn tranh luận,
đối đáp. Bị đơn có quyền bổ sung ý kiến.

392
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày ý kiến tranh luận. Người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền bổ sung ý kiến. Trong trường hợp
nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không
có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thì họ tự mình trình bày
ý kiến tranh luận.
BLTTDS 2015 quy định quyền tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm
là thể hiện thái độ của Nhà nước tôn trọng vai trò và quyền chủ động,
tự định đoạt của các đương sự đối với quyền và lợi ích hợp pháp của
họ. Tranh luận tại phiên tòa còn thể hiện tính công khai, minh bạch
trong hoạt động xét xử của Tòa án. Các đương sự và người tham gia
tố tụng khác có cơ hội để chứng minh cho các yêu cầu của mình bằng
cách thể hiện công khai việc đánh giá các chứng cứ, lý lẽ của mình tại
phiên tòa. Hội đồng xét xử phải chú ý lắng nghe các ý kiến, lập luận
và đánh giá chứng cứ của các bên cũng như đề xuất của họ trong việc
giải quyết vụ án.
Chủ tọa phiên tòa tạo điều kiện tối đa cho những người tham gia
tố tụng tranh luận và đối đáp với nhau trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ
đã thu thập được và được xem xét, kiểm tra tại phiên tòa cũng như kết
quả của việc hỏi tại phiên tòa. Chủ tọa phiên tòa không hạn chế thời
gian tranh luận nhằm mục đích cho đương sự và những người tham gia
tố tụng khác có thời gian để trình bày hết các ý kiến của mình.
Hội đồng xét xử phải hiểu được tâm lý vùng miền, nơi sinh, nơi
cư trú, tập quán của các bên đương sự để điều khiển phần tranh luận
của các bên đương sự, tránh tình trạng luôn giải thích và tham gia tranh
luận cùng các đương sự. Mặt khác, Hội đồng xét xử phải dự kiến được
những tình huống mà các đương sự đưa ra, các yêu cầu mới hoặc thái
độ mạt sát nhau của các đương sự cũng như các tình huống biểu hiện
thái độ thái quá của đương sự như khóc lóc, kể lể... Trong những tình
huống như vậy đòi hỏi Thẩm phán phải có kinh nghiệm, biết xử lý giúp
ổn định tâm lý cho các đương sự. Tuy nhiên, nếu họ tranh luận những
vấn đề không thuộc nội dung và phạm vi xét xử của vụ án thì chủ tọa

393
phiên tòa cần điều hành hướng cho việc tranh luận của họ vào những
vấn đề mấu chốt, có ý nghĩa quyết định cho việc giải quyết vụ án. Nếu
đương sự trình bày các ý kiến lặp lại nhiều lần cũng như không tuân
theo hướng dẫn của chủ tọa phiên tòa trong phần tranh luận thì chủ tọa
phiên tòa có quyền cắt những ý kiến không liên quan đến vụ án nhằm
đảm bảo cho phiên tòa không bị kéo dài.
- Sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và
đối đáp xong, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp
luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và
của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi
thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu
ý kiến về việc giải quyết vụ án. BLTTDS 2015 đã bỏ quy định việc
Kiểm sát viên phát biểu về việc chấp hành pháp luật của người tham
gia tố tụng tại Điều 234 BLTTDS 2004, sửa đổi, bổ sung 2011. Điều
này thể hiện sự bình đẳng trong tố tụng dân sự giữa người tiến hành
tố tụng và người tham gia tố tụng. Việc phát biểu của Kiểm sát viên
tại phiên tòa dân sự sơ thẩm không những thể hiện vai trò kiểm sát
việc tuân theo pháp luật tố tụng của những người tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng mà còn thể hiện vai trò giám sát việc xét xử của
Hội đồng xét xử khi nêu ra căn cứ của việc áp dụng pháp luật về nội
dung bằng cách phân tích, đánh giá chứng cứ mà các bên đưa ra khi
tiến hành tranh tụng tại phiên tòa, thể hiện quan điểm chấp nhận hoặc
không chấp nhận yêu cầu của đương sự. Ngay sau khi kết thúc phiên
tòa, Kiểm sát viên phải gửi văn bản phát biểu ý kiến cho Tòa án để lưu
vào hồ sơ vụ án.
- Qua tranh luận, nếu xét thấy có tình tiết của vụ án chưa được
xem xét, việc xem xét chưa được đầy đủ hoặc cần phải xem xét thêm
chứng cứ thì Hội đồng xét xử quyết định trở lại việc hỏi và tranh luận.
Nếu sau khi tranh luận không có ý kiến nào khác của người tham
gia tố tụng và sau khi Kiểm sát viên phát biểu ý kiến xong, chủ tọa
phiên tòa tuyên bố kết thúc phần tranh tụng để Hội đồng xét xử vào
phòng nghị án.

394
2.2.3. Kỹ năng nghị án và tuyên án
Nghị án là một thủ tục hết sức quan trọng, là khâu cuối cùng để
Hội đồng xét xử ra một bản án dựa trên việc tổng kết, đánh giá lại toàn
bộ hoạt động tố tụng của Thẩm phán từ khi thụ lý vụ án cho đến khi
tiến hành xét xử tại phiên tòa của Hội đồng xét xử. Vì thế, Hội đồng
xét xử khi nghị án phải tiến hành thật sự nghiêm túc và có trách nhiệm
để ra một bản án phù hợp với quy định của pháp luật, tránh tình trạng
Thẩm phán chủ quan và định hình trước kết quả xét xử.
Sau khi kết thúc phần tranh tụng, Hội đồng xét xử vào phòng nghị
án để nghị án. Chỉ có các thành viên của Hội đồng xét xử mới có quyền
nghị án. Khi nghị án, các thành viên của Hội đồng xét xử phải căn cứ
vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng
tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, đối với các vụ việc dân sự khi
giải quyết mà chưa có điều luật áp dụng thì khi tiến hành nghị án cần
phải căn cứ vào tập quán, tương tự pháp luật, những nguyên tắc cơ bản
của pháp luật dân sự, án lệ và lẽ công bằng để quyết định.
Khi nghị án, Hội đồng xét xử phải giải quyết tất cả các vấn đề
của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề một chứ
không biểu quyết một lần về tất cả các vấn đề của vụ án. Hiện nay,
thực tiễn xét xử cho thấy trong một vụ án có thể có một quan hệ pháp
luật tranh chấp nhưng cũng có thể có nhiều quan hệ pháp luật tranh
chấp đan xen nên khi nghị án yếu tố xác định đúng quan hệ pháp luật
tranh chấp là rất quan trọng bởi khi xác định quan hệ pháp luật tranh
chấp thế nào thì phải dẫn chiếu đến việc áp dụng các quy định của
pháp luật về nội dung để quyết định. Việc xác định quan hệ pháp luật
trong thực tiễn còn khó khăn và nhầm lẫn dẫn đến việc quyết định
của bản án là khác nhau.
Ví dụ:
Ngày 20/7/2016, nguyên đơn Nguyễn Văn A khởi kiện bị đơn
Nguyễn Văn B yêu cầu bị đơn phải trả khoản tiền theo hợp đồng
vay tài sản (yêu cầu bị đơn phải trả cho nguyên đơn là 50.000.000

395
đồng tiền gốc và lãi suất theo hợp đồng vay tài sản). Thời hạn vay
là từ ngày 16/4/2012 đến ngày 16/4/2013 với lãi suất thỏa thuận là
1%/tháng nhưng đến 16/4/2013 bị đơn không trả được cho nguyên
đơn khoản tiền nào. Vậy xác định quan hệ tranh chấp pháp luật
như thế nào? Căn cứ pháp lý?
Với tình huống nêu trên cho thấy, khi xác định quan hệ pháp luật
là tranh chấp hợp đồng vay tài sản thì việc áp dụng pháp luật về nội
dung phải áp dụng các điều luật tương ứng của BLDS 2005 nhưng
thực chất hợp đồng vay tài sản này đã hết thời hiệu khởi kiện và có yêu
cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện của đương sự nhưng Hội đồng xét xử
vẫn xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là tranh chấp hợp đồng vay
tài sản. Nếu xác định quan hệ pháp luật là tranh chấp hợp đồng vay
tài sản thì hết thời hiệu khởi kiện, Hội đồng xét xử phải ra quyết định
đình chỉ việc giải quyết vụ án và trả lại đơn khởi kiện cùng các tài liệu,
chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện, trong khi đó người khởi kiện
chỉ yêu cầu trả lại tài sản đã vay thì phải xác định quan hệ pháp luật là
kiện đòi tài sản thì mới không áp dụng về thời hiệu khởi kiện và quyết
định buộc bên có nghĩa vụ phải trả lại tài sản cho bên vay và không
được tính lãi suất theo hợp đồng vay tài sản.
Ngoài ra, khi tiến hành nghị án cần biểu quyết về tư cách đương
sự khi tham gia tố tụng; biểu quyết về căn cứ chấp nhận toàn bộ hoặc
một phần các yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn,
yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc
không chấp nhận toàn bộ, một phần các yêu cầu của đương sự trong
vụ án... căn cứ theo điểm, khoản, điều luật nào của các văn bản pháp
luật tương ứng, biểu quyết về quyền và nghĩa vụ của đương sự. Ví dụ
như ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án khi đương sự rút yêu
cầu khởi kiện tại phiên tòa thì đương sự vẫn có quyền khởi kiện lại
vụ án nếu đáp ứng được đầy đủ các điều kiện khởi kiện; biểu quyết
về việc có tiếp tục duy trì, thay đổi hay hủy bỏ biện pháp khẩn cấp
tạm thời (nếu có); về nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm và các chi
phí tố tụng khác...

396
Về phương pháp nghị án, trong trường hợp Hội đồng xét xử có
một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân thì khi phát biểu hoặc biểu
quyết thì Hội thẩm nhân dân phát biểu trước, Thẩm phán chủ tọa phiên
tòa phát biểu sau. Trong trường hợp Hội đồng xét xử gồm hai Thẩm
phán và ba Hội thẩm nhân dân thì khi phát biểu hoặc biểu quyết thì các
Hội thẩm nhân dân phát biểu hoặc biểu quyết trước, đến Thẩm phán
không phải là chủ tọa phiên tòa và sau cùng là Thẩm phán chủ tọa
phiên tòa. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến đó bằng
văn bản và được đưa vào hồ sơ vụ án
Khi nghị án phải có biên bản ghi lại ý kiến đã thảo luận của Hội
đồng xét xử và phải có đầy đủ chữ ký của thành viên Hội đồng xét xử
tại phòng nghị án.
Ví dụ:
Trường hợp khi nghị án Hội đồng xét xử không ký ngay vào biên
bản nghị án mà sau khi chủ tọa phiên tòa tuyên án xong và tuyên
bố kết thúc phiên tòa nhưng sau đó có thành viên Hội đồng xét xử
bị tai nạn qua đời nên không thể ký vào biên bản nghị án. Vụ án
này bị kháng cáo, kháng nghị. Vậy trường hợp này xử lý như thế
nào? Căn cứ pháp lý?
Trường hợp này mặc dù sau đó đã có sự xác nhận và tường trình
của Hội đồng xét xử về việc có nghị án tại phòng nghị án nhưng xét
thấy đây là trường hợp vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng nên
vụ án đã bị tòa án cấp có thẩm quyền hủy toàn bộ bản án để xét xử lại.
Nếu biên bản nghị án có nhiều trang thì thành viên Hội đồng xét
xử phải ký vào từng trang. Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết
phức tạp đòi hỏi thời gian nghị án dài thì Hội đồng xét xử quyết định
kéo dài thời gian nghị án nhưng không quá 05 ngày làm việc, kể từ khi
kết thúc tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử phải thông báo cho
những người có mặt tại phiên tòa, người vắng mặt tại phiên tòa biết
ngày, giờ và địa điểm tuyên án. Trường hợp Hội đồng xét xử đã thông
báo mà có người tham gia tố tụng vắng mặt vào ngày, giờ và địa điểm
tuyên án thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành việc tuyên án.

397
Trường hợp qua nghị án mà Hội đồng xét xử phát hiện có
những vấn đề chưa được xem xét và hỏi chưa đầy đủ hoặc cần phải
xem xét thêm chứng cứ thì Hội đồng xét xử có quyền trở lại phần
hỏi và tranh luận.
Tuyên án: Sau khi đã nghị án xong, Hội đồng xét xử trở lại phòng
xử án để tuyên án. Hội đồng xét xử tuyên đọc bản án với sự có mặt của
các đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức và cá nhân khởi kiện. Trường
hợp đương sự có mặt tại phiên tòa nhưng vắng mặt khi tuyên án hoặc
vắng mặt trong trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 264 BLTTDS
2015 (trường hợp nghị án kéo dài, đương sự đã được thông báo giờ,
ngày tuyên án nhưng đương sự vắng mặt) thì Hội đồng xét xử vẫn
tuyên đọc bản án.
Khi tuyên án Thư ký phiên tòa ổn định trật tự và yêu cầu mọi
người trong phòng xử án đứng dậy. Nếu có người không đứng dậy
thì Thư ký yêu cầu họ đứng dậy trừ trường hợp người đó vì lý do
sức khỏe không đứng dậy được thì chủ tọa phiên tòa cho phép họ
ngồi tại chỗ sau đó mới tuyên án. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa hoặc
một thành viên Hội đồng xét xử tuyên đọc bản án. Nếu bản án dài
thì có thể thay nhau đọc bản án. Sau khi đọc xong có thể giải thích
cho đương sự và những người tham gia tố tụng biết việc thi hành bản
án hoặc quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, không giải thích về quyền
kháng nghị của VKSND.
Trường hợp Tòa án xét xử kín theo quy định tại khoản 2 Điều 15
BLTTDS 2015 thì Hội đồng xét xử chỉ tuyên công khai phần mở đầu
và phần quyết định của bản án.
Trong trường hợp có đương sự không biết tiếng Việt thì sau khi
tuyên án người phiên dịch phải dịch lại cho họ nghe toàn bộ bản án
hoặc phần mở đầu và phần quyết định của bản án được tuyên công
khai sang ngôn ngữ mà họ biết.
Sau khi tuyên án xong, chủ tọa phiên tòa thay mặt Hội đồng xét
xử tuyên bố kết thúc phiên tòa.

398
2.2.4. Công việc sau phiên tòa sơ thẩm
Công việc sau phiên tòa sơ thẩm cũng đóng một vai trò hết sức
quan trọng bởi đây là giai đoạn khắc phục những sai sót của bản án đã
tuyên hoặc sai sót trong việc ghi biên bản phiên tòa. Thực tiễn xét xử
cho thấy nhiều trường hợp do chủ quan, Thẩm phán không kiểm tra lại
bản án hoặc không kiểm tra lại biên bản phiên tòa dẫn đến giữa biên
bản phiên tòa và bản án có những điểm mâu thuẫn nhau hoặc biên bản
phiên tòa có chỗ ghi sai hoặc còn thiếu mà không kịp thời sửa chữa,
bổ sung dẫn đến trường hợp Tòa án cấp trên phải hủy hoặc sửa bản án
sơ thẩm khi có kháng cáo, kháng nghị. Tuy nhiên, việc sửa chữa, bổ
sung bản án hay biên bản phiên tòa phải tuân theo đúng quy định của
BLTTDS 2015.
Theo quy định tại Điều 268 BLTTDS 2015, sau khi tuyên án
xong thì không được sửa chữa, bổ sung bản án, trừ trường hợp phát
hiện có nhầm lẫn, tính toán sai về số liệu hay sai sót về lỗi chính tả.
Việc sai sót về số liệu do cộng, trừ, nhân, chia hay có sai sót về lỗi
chính tả do đánh máy hoặc lỗi kỹ thuật khác thì Thẩm phán được sửa
chữa bổ sung. Nếu trong trường hợp nhận định đúng nhưng kết quả
xét xử đã tuyên không đúng như nhận định của bản án thì không được
sửa chữa kết quả đã tuyên theo nhận định của bản án. Nếu phát hiện
việc quyết định của bản án không đúng như nhận định thì báo cáo Tòa
án cấp trên để xem xét theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc
tái thẩm.
Trường hợp cần sửa chữa, bổ sung bản án theo quy định của pháp
luật thì Thẩm phán phối hợp với các Hội thẩm nhân dân là thành viên
Hội đồng xét xử đã tuyên bản án đó phải ra quyết định sửa chữa, bổ
sung bản án và gửi ngay cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi
kiện, Viện kiểm sát cùng cấp và cơ quan thi hành án dân sự (nếu bản
án đã được gửi cho cơ quan thi hành án dân sự). Trường hợp Thẩm
phán đã xét xử vụ án đó không còn đảm nhiệm chức vụ Thẩm phán tại
TAND đã ra bản án đó thì Chánh án Tòa án thực hiện việc sửa chữa,
bổ sung bản án.

399
Đồng thời với việc kiểm tra lại bản án thì Thẩm phán chủ tọa
phiên tòa còn phải cùng với Thư ký phiên tòa kiểm tra lại biên bản
phiên tòa để khắc phục ngay những sai sót. Nếu có sai sót thì kịp thời
sửa chữa, bổ sung.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc phiên tòa,
các đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện được Tòa án cấp
trích lục bản án.
Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày tuyên án, Tòa án phải giao
hoặc gửi bản án cho các đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện
và Viện kiểm sát cùng cấp. Ngoài ra, đối với một số loại vụ án cụ thể,
Tòa án phải thực hiện thủ tục niêm yết bản án công khai hoặc gửi bản
án, thông báo cho cơ quan có liên quan gồm:
- Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật của Tòa án giải quyết vụ
án dân sự bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng do tổ chức xã hội tham gia
bảo vệ người tiêu dùng khởi kiện phải được niêm yết công khai tại trụ
sở Tòa án và công bố công khai trên một trong các báo hàng ngày của
trung ương hoặc địa phương trong ba số liên tiếp.
- Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật của Tòa án có liên quan
đến trách nhiệm bồi thường của Nhà nước phải được Tòa án cấp sơ
thẩm gửi cho cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về bồi thường
nhà nước.
- Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật của Tòa án có liên quan
đến việc thay đổi hộ tịch của cá nhân phải được Tòa án cấp sơ thẩm
thông báo bằng văn bản kèm theo trích lục bản án cho Ủy ban nhân
dân nơi đã đăng ký hộ tịch của cá nhân đó theo quy định của Luật
Hộ tịch.
Đối với các trường hợp này, thời hạn niêm yết, công bố, gửi
bản án, thông báo là 05 ngày làm việc, kể từ ngày bản án có hiệu lực
pháp luật.
Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật của Tòa án được công bố
trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có), trừ bản án, quyết

400
định của Tòa án có chứa thông tin quy định tại khoản 2 Điều 109
BLTTDS 2015 (vụ án có nội dung tài liệu, chứng cứ có liên quan đến
bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc, bí mật nghề nghiệp,
bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình theo yêu cầu chính
đáng của đương sự).
Nếu đương sự có kháng cáo thì phải kiểm tra đơn kháng cáo
xem có hợp lệ và đầy đủ theo quy định tại khoản 1 Điều 272, 273,
274 BLTTDS 2015 hay không? Nếu đơn kháng cáo hợp lệ thì Tòa án
chấp nhận và phải thông báo cho người kháng cáo biết để họ nộp tiền
tạm ứng án phí phúc thẩm, trừ trường hợp được miễn hoặc không
phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm và thông báo cho Viện kiểm
sát cùng cấp, các đương sự liên quan đến việc kháng cáo biết về việc
kháng cáo. Nếu họ không nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm hoặc
biên lai nộp tiền tạm ứng án phí trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày
nhận được thông báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng án phí
phúc thẩm thì bị coi là từ bỏ việc kháng cáo, trừ trường hợp có lý do
chính đáng.
Nếu có kháng nghị của Viện kiểm sát thì phải kiểm tra quyết
định kháng nghị có đầy đủ và hợp pháp theo quy định tại Điều 278,
279, 280 BLTTDS 2015 hay không? Nếu Tòa án nhận được quyết định
kháng nghị của Viện kiểm sát mà quyết định kháng nghị đó đã quá thời
hạn quy định (là 15 ngày đối với Viện kiểm sát cùng cấp, đối với Viện
kiểm sát cấp trên là 01 tháng, kể từ ngày tuyên án. Nếu Kiểm sát viên
không tham gia phiên tòa thì thời hạn kháng nghị tính từ ngày Viện
kiểm sát cùng cấp nhận được bản án. Đối với quyết định tạm đình chỉ,
đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm thì thời hạn kháng
nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là 07 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên
là 10 ngày, kể từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được quyết định)
thì Tòa án cấp sơ thẩm yêu cầu Viện kiểm sát giải thích bằng văn bản
và nêu rõ lý do. Tuy nhiên, việc Viện kiểm sát nêu rõ lý do nhưng lý
do đó không chính đáng thì Tòa án phải xử lý như thế nào thì BLTTDS
lại chưa quy định.

401
Tòa án cấp sơ thẩm phải hoàn thiện hồ sơ như soát xét các tài liệu
có trong hồ sơ có thiếu sót về mặt hình thức như đóng dấu Tòa án, dấu
chức danh Thẩm phán, đánh số bút lục tài liệu, lập bảng kê tài liệu có
trong vụ án. Sau khi hoàn thiện hồ sơ vụ án mà có kháng cáo, kháng
nghị thì Tòa án cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp phúc
thẩm trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày hết thời hạn kháng
nghị và trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày hết thời hạn kháng
cáo, người kháng cáo đã nộp cho Tòa án cấp sơ thẩm biên lai thu tiền
tạm ứng án phí phúc thẩm.
2.3. Kỹ năng của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm
Điều 107 Hiến pháp 2013 quy định: “VKSND thực hành quyền
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”. Để cụ thể hóa quy định này, Luật
Tổ chức VKSND 2014 và BLTTDS 2015 đã quy định VKSND là cơ
quan tiến hành tố tụng. Viện trưởng Viện kiểm sát và Kiểm sát viên là
những người tiến hành tố tụng thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng dân sự mà cụ thể là kiểm sát việc tuân thủ
pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng (Tòa án), người tiến hành tố
tụng (Chánh án Tòa án, Thẩm phán Tòa án, Hội thẩm nhân dân, Thẩm
tra viên, Thư ký Tòa án); đương sự (nguyên đơn, bị đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) và những người tham gia tố tụng khác
(người làm chứng, người phiên dịch, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho đương sự…); thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị,
kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo việc giải quyết
vụ án dân sự được kịp thời, khách quan, đúng pháp luật. Để thực hiện
tốt yêu cầu nêu trên đòi hỏi Kiểm sát viên được phân công xét xử vụ
án dân sự tại phiên tòa sơ thẩm phải thực hiện tốt 02 nhiệm vụ chính
sau đây:
- Kiểm sát việc thực hiện thủ tục phiên tòa từ khi bắt đầu phiên
tòa cho đến khi Hội đồng xét xử tuyên án hoặc ra quyết định giải quyết
vụ án (quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự, quyết định
đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyết vụ án);

402
- Tham gia hỏi đương sự và những người tham gia tố tụng khác,
nhận xét kết quả giám định, yêu cầu Hội đồng xét xử công bố tài liệu,
chứng cứ, nghe băng ghi âm, đĩa ghi âm, xem băng ghi hình, đĩa ghi
hình, xem vật chứng (trong trường hợp cần thiết) và phát biểu quan
điểm của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án.
Tuy nhiên, không phải tất cả các vụ án tranh chấp dân sự khi
tiến hành xét xử sơ thẩm đều phải có VKSND cùng cấp tham gia mà
VKSND cùng cấp chỉ tham gia phiên tòa sơ thẩm đối với những trường
hợp được quy định tại khoản 2 Điều 21 BLTTDS 2015 đó là:
- Vụ án dân sự do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ;
- Đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền
sử dụng đất, nhà ở;
- Vụ án dân sự có đương sự là người chưa thành niên, người mất
năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự,
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi;
- Trong trường hợp Tòa án giải quyết vụ án dân sự mà chưa có
điều luật để áp dụng.
2.3.1. Kỹ năng kiểm sát phần thủ tục bắt đầu phiên tòa
Kiểm sát viên được phân công phải có mặt tại phòng xử án theo
đúng thời gian trong giấy báo của Tòa án để kiểm sát thủ tục khai mạc
phiên tòa.
Khi Hội đồng xét xử vào phòng xử án và chủ tọa phiên tòa tiến
hành các thủ tục khai mạc phiên tòa thì Kiểm sát viên cần chú ý theo
dõi xem chủ tọa phiên tòa có tiến hành đúng và đầy đủ thủ tục các nội
dung quy định tại Điều 239 BLTTDS 2015 hay không, cụ thể:
- Chủ tọa phiên tòa khai mạc phiên tòa và đọc quyết định đưa vụ
án ra xét xử thì Kiểm sát viên cần phải theo dõi, đối chiếu tại phiên
tòa xem thành phần Hội đồng xét xử bao gồm Chủ tọa phiên tòa, Hội
thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa có đúng như quyết định đưa vụ án
ra xét xử hay không? xem xét xem trong thành phần Hội đồng xét xử

403
và Thư ký phiên tòa có ai thuộc trường hợp phải thay đổi hoặc phải từ
chối tiến hành tố tụng theo quy định tại Điều 52, 53, 54 BLTTDS 2015
hay không?
Ví dụ:
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm thì Hội thẩm nhân dân
là ông Nguyễn Văn A và bà Nguyễn Thị B nhưng thực tế tại phiên tòa
thì Hội thẩm nhân dân là bà Lê Thị C và Nguyễn Văn A. Trong khi đó,
bà Lê Thị C không phải là Hội thẩm nhân dân dự khuyết để xét xử mà
Hội thẩm nhân dân dự khuyết là ông Trần Văn D. Vậy trường hợp này
Kiểm sát viên phải xử lý thế nào? Căn cứ pháp lý?
Với tình huống trên cho thấy bà Lê Thị C không phải là Hội thẩm
nhân dân được phân công xét xử vụ án theo quyết định đưa vụ án ra xét
xử và cũng không phải là Hội thẩm nhân dân dự khuyết thì trường hợp
này Kiểm sát viên phải đề nghị Hội đồng xét xử thực hiện đúng thành
phần Hội đồng xét xử là bà Nguyễn Thị B là Hội thẩm nhân dân tham
gia xét xử hoặc Hội thẩm nhân dân dự khuyết được ghi trong quyết
định đưa vụ án ra xét xử là ông Trần Văn D. Trong trường hợp Hội
thẩm nhân dân là bà Nguyễn Thị B và Hội thẩm nhân dân dự khuyết
không có mặt để tiến hành xét xử vụ án thì Kiểm sát viên phải đề nghị
Hội đồng xét xử tiến hành xét xử lại từ đầu theo quy định tại khoản 2
Điều 226 BLTTDS 2015.
- Sau khi nghe Thư ký phiên tòa báo cáo, chủ tọa phiên tòa kiểm
tra lại sự có mặt của những người tham gia phiên tòa theo giấy triệu
tập, giấy báo của Tòa án và kiểm tra căn cước của đương sự, người
tham gia tố tụng khác. Khi chủ tọa phiên tòa kiểm tra sự có mặt và căn
cước của đương sự, người tham gia tố tụng thì Kiểm sát viên cũng cần
đối chiếu lại với bản danh sách kiểm tra sự có mặt của đương sự, người
tham gia tố tụng khác. Trong trường hợp có người tham gia tố tụng
trong vụ án vắng mặt tại phiên tòa thì Kiểm sát viên phải đối chiếu với
quy định của BLTTDS 2015 về việc hoãn phiên tòa. Nếu thấy có căn
cứ để hoãn phiên tòa thì Kiểm sát viên phải đề nghị Hội đồng xét xử ra
quyết định hoãn phiên tòa.

404
Ví dụ:
Tại phiên tòa sau khi Hội đồng xét xử kiểm tra căn cước của
đương sự mà thấy bị đơn vắng mặt mặc dù được Tòa án triệu tập
hợp lệ lần thứ 2. Sau đó có người nhà của bị đơn thông báo cho
Hội đồng xét xử biết là bị đơn bị tai nạn trên đường đến tham gia
phiên tòa và phải vào viện điều trị nên đề nghị hoãn phiên tòa. Vậy
trường hợp này sau khi Hội đồng xét xử thông báo tại phiên tòa thì
Kiểm sát viên phải xử lý thế nào? Căn cứ pháp lý?
Đối với tình huống này mặc dù chưa có căn cứ vững chắc để hoãn
phiên tòa nhưng để đảm bảo quyền lợi cho các bên đương sự thì Kiểm
sát viên cần đề nghị Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa theo quy định tại
khoản 2 Điều 227 BLTTDS 2015 vì đây là trường hợp bất khả kháng
và trở ngại khách quan. Ngoài ra, Kiểm sát viên cần phải xem xét các
trường hợp phải hoãn phiên tòa khác theo quy định của BLTTDS 2015
như vắng mặt người phiên dịch, người giám định hoặc các trường hợp
không thuộc trường hợp phải hoãn phiên tòa nhưng có người tham gia
tố tụng đề nghị hoãn phiên tòa thì Kiểm sát viên phải căn cứ vào tình
huống cụ thể để xem xét và đề nghị với Hội đồng xét xử để Hội đồng
xét xử xem xét và quyết định.
Ví dụ:
Trong vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất. Tòa án có triệu tập người làm chứng tham gia phiên tòa.
Tại phiên tòa, người làm chứng vắng mặt. Vậy kiểm sát viên xử lý
như thế nào?
Đối với tình huống trên, khi có người làm chứng vắng mặt, Kiểm
sát viên tham gia phiên tòa phải xem xét sự vắng mặt của người làm
chứng có ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án hay không. Nếu
người làm chứng đã có văn bản trình bày rõ ràng, phù hợp với thực tiễn
khách quan trong vụ án thì không nhất thiết phải hoãn. Nhưng trong
trường hợp mặc dù đã có lời khai gửi Tòa án, nhưng lời khai đó không
rõ ràng, không liên quan trực tiếp đến vụ án và sự có mặt của người
làm chứng tại phiên tòa là cần thiết tạo điều kiện giúp các bên đối chất

405
làm sáng tỏ vụ án thì trong trường hợp này Kiểm sát viên tham gia
phiên tòa cần đề nghị Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa để tiếp tục triệu
tập người làm chứng tham gia phiên tòa.
Tiếp theo, Kiểm sát viên phải theo dõi chủ tọa phiên tòa phổ biến
quyền, nghĩa vụ của đương sự và của người tham gia tố tụng khác:
Ví dụ:
Chủ tọa phiên tòa phổ biến thiếu quyền và nghĩa vụ của đương
sự như quyền tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án tại
phiên tòa theo quy định tại khoản 11 Điều 70 BLTTDS 2015 hoặc
không phổ biến quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự… thì Kiểm sát viên tham gia phiên tòa
cần xử lý như thế nào? Căn cứ pháp lý?
Thực tiễn xét xử cho thấy, đây là thủ tục mà một số Thẩm phán
bỏ qua hoặc tóm tắt, lược bỏ bớt các nội dung về quyền và nghĩa vụ
của đương sự cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia
tố tụng khác khiến các đương sự và người tham gia tố tụng khác không
nắm bắt được những quyền mà pháp luật cho phép mình thực hiện, gây
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của họ. Trong trường hợp phát hiện ra
Chủ tọa phiên tòa phổ biến thiếu quyền, nghĩa vụ của đương sự và của
người tham gia tố tụng khác thì Kiểm sát viên tham gia phiên tòa cần
đề nghị Chủ tọa phiên tòa phổ biến bổ sung phần còn thiếu theo đúng
quy định của BLTTDS 2015.
Sau khi đề nghị, Kiểm sát viên cần phải theo dõi việc giải quyết
yêu cầu hoãn phiên tòa, thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám
định, người phiên dịch và các trường hợp khác mà Kiểm sát viên yêu
cầu Hội đồng xét xử. Nếu trường hợp Hội đồng xét xử không chấp
nhận yêu cầu của Kiểm sát viên thì Kiểm sát viên vẫn phải tiến hành
tham gia phiên tòa và phát biểu quan điểm của Kiểm sát viên về phần
thủ tục tuân thủ pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và
những người tham gia tố tụng khác. Ngay sau khi kết thúc phiên tòa
thì Kiểm sát viên báo cáo với Viện trưởng Viện kiểm sát để xem xét
có kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm hay không. Tuy nhiên, yêu cầu

406
của Kiểm sát viên tại phiên tòa chỉ được phát biểu khi Hội đồng xét
xử yêu cầu Kiểm sát viên phát biểu về phần thủ tục tại phần khai mạc
phiên tòa mà Kiểm sát viên không được tự ý phát biểu khi chưa được
Hội đồng xét xử yêu cầu.
Trong quá trình Hội đồng xét xử hỏi về phần thủ tục tố tụng tại
phần bắt đầu phiên tòa như hỏi đương sự về việc thay đổi, bổ sung, rút
yêu cầu theo quy định tại Điều 243 BLTTDS 2015 hoặc đương sự có
thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án theo quy định tại
Điều 246 BLTTDS không? nếu có việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu
hoặc đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì
Kiểm sát viên cần phải theo dõi và ghi chép đầy đủ các yêu cầu của họ
để đối chiếu, so sánh xem yêu cầu của họ có phù hợp với các quy định
của pháp luật hay không để từ đó đề xuất hướng giải quyết vụ án về
mặt nội dung cho phù hợp.
2.3.2. Kỹ năng kiểm sát việc tranh tụng tại phiên tòa
a) Kỹ năng tham gia hỏi tại phiên tòa
Để việc kiểm sát tại phiên tòa được hiệu quả, trong suốt quá trình
xét xử, Kiểm sát viên cần phải chú trọng việc ghi chép đầy đủ toàn bộ
diễn biến tại phiên tòa kể cả các câu hỏi của Hội đồng xét xử và của
các đương sự cũng như người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
họ tại phiên tòa nhằm giúp Kiểm sát viên có thể bao quát được toàn bộ
diễn biến tại phiên tòa để phát hiện những vấn đề mấu chốt, quan trọng
của vụ án mà đương sự hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của họ cũng như Hội đồng xét xử chưa hỏi và làm rõ. Tuy nhiên, việc
hỏi của Kiểm sát viên phải tuân theo một trật tự mà BLTTDS 2015
quy định đó là tại phiên tòa, Kiểm sát viên có quyền hỏi các đương
sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự và những người tham gia tố tụng khác. Theo quy định tại khoản 1
Điều 249 BLTTDS 2015 về thứ tự hỏi thì Kiểm sát viên là người hỏi
sau cùng. Do đó, Kiểm sát viên phải hết sức tránh việc đặt câu hỏi chen
ngang khi đương sự hoặc Hội đồng xét xử đang tiến hành hỏi. Thực

407
tế xét xử nhiều trường hợp Kiểm sát viên đặt câu hỏi đối với đương
sự khi chưa được sự đồng ý của chủ tọa phiên tòa dẫn đến việc hỏi tại
phiên tòa không tuân theo một trật tự mà BLTTDS 2015 quy định, làm
ảnh hưởng đến kết quả việc hỏi của đương sự hoặc Hội đồng xét xử.
Việc BLTTDS 2015 quy định Kiểm sát viên tham gia hỏi sau
cùng nhằm đề cao vai trò tranh tụng của các bên đương sự trong vụ
án. Đây là một điều thuận lợi nhưng cũng tạo ra những áp lực, khó
khăn cho Kiểm sát viên. Kiểm sát viên tham gia phiên tòa cần hết sức
tập trung lắng nghe, ghi chép những câu hỏi đã được hỏi tại phiên
tòa, xem xét, chắt lọc những câu hỏi để tránh trùng lặp với các câu
hỏi mà đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự hoặc Hội đồng xét xử cũng như những người tham gia tố tụng
khác đã hỏi.
Kỹ năng đặt câu hỏi của Kiểm sát viên phải tùy thuộc vào diễn
biến tại phiên tòa. Trong trường hợp mặc dù đã có câu hỏi trước đó
của đương sự hay của Hội đồng xét xử nhưng câu hỏi chưa thật sự rõ
ràng và sự trả lời của đương sự chưa thực sự rõ thì Kiểm sát viên vẫn
cần hỏi lại để làm rõ. Kiểm sát viên có thể vẫn đặt câu hỏi mà đã có
câu hỏi trước đó nhưng đương sự không trả lời hoặc trả lời không rõ.
Về nguyên tắc khi đặt câu hỏi Kiểm sát viên phải hỏi rõ ràng, có
thái độ nghiêm túc, việc đặt câu hỏi phải ngắn gọn, dễ hiểu, tránh trường
hợp đặt câu hỏi dài dòng làm cho người bị hỏi khó trả lời và không lợi
dụng việc hỏi và việc trả lời để xâm phạm danh dự, nhân phẩm của
người khác. Kiểm sát viên khi đặt câu hỏi cho các đương sự và người
tham gia tố tụng thì cần phải chú ý lắng nghe hết ý kiến của họ mà không
được “sốt ruột” cắt ngang. Tuy nhiên, Kiểm sát viên cũng yêu cầu đương
sự trả lời vào trọng tâm câu hỏi. Nếu đương sự trả lời dài dòng không
đúng trọng tâm câu hỏi thì Kiểm sát viên có quyền yêu cầu họ dừng trả
lời và yêu cầu họ trả lời vào đúng trọng tâm. Nếu đương sự trả lời không
đầy đủ thì Kiểm sát viên yêu cầu đương sự trả lời bổ sung.
Ngoài ra trong quá trình hỏi, nếu xét thấy các tài liệu, chứng cứ
của vụ án cần phải công bố theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 254

408
BLTTDS 2015 thì Kiểm sát viên yêu cầu Hội đồng xét xử công bố tài
liệu của vụ án hoặc yêu cầu Hội đồng xét xử cho nghe băng, đĩa ghi
âm, xem băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình
ảnh tại phiên tòa theo quy định tại Điều 255 BLTTDS 2015. Trong
trường hợp kết luận giám định còn có những vấn đề chưa rõ hoặc còn
mâu thuẫn với các tình tiết khác của vụ án thì Kiểm sát viên có quyền
nhận xét về kết luận giám định đó theo quy định tại khoản 2 Điều 257
BLTTDS 2015. Nếu Kiểm sát viên không đặt câu hỏi gì thêm thì phát
biểu công khai tại phiên tòa là đã hỏi xong để chủ tọa phiên tòa tiếp tục
điều khiển phần tranh luận tại phiên tòa.
Phần tranh luận tại phiên tòa được diễn ra dưới sự điều khiển của
chủ tọa phiên tòa mà đối tượng tranh luận tại phiên tòa là người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đương sự. Kiểm sát viên
không tham gia vào phần tranh luận của đương sự vì Kiểm sát viên
không phải là một bên tranh luận. Tuy nhiên, về kỹ năng của Kiểm sát
viên cần phải chú ý lắng nghe sự tranh luận của các bên tranh chấp
trong vụ án để tìm ra sự thực khách quan, các tình tiết, chứng cứ mà
các bên đưa ra để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và
hợp pháp để từ đó Kiểm sát viên có cơ sở để phát biểu quan điểm giải
quyết vụ án về mặt nội dung.
b) Kỹ năng phát biểu ý kiến tại phiên tòa
Sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối
đáp xong, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và diễn
biến tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về
các nội dung chính sau:
- Phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm
phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia
tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến
trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án.
Như vậy, Kiểm sát viên phải phát biểu việc tuân theo pháp luật tố
tụng của Thẩm phán khi tiến hành thụ lý vụ án về thẩm quyền, các thủ

409
tục tố tụng về thu thập, xác minh chứng cứ, các biện pháp khẩn cấp tạm
thời (nếu có) các thủ tục về mở phiên họp và hòa giải, xác định tư cách
đương sự, quan hệ phát sinh tranh chấp, thời hạn chuẩn bị xét xử, các
thủ tục triệu tập đương sự, quyết định đưa vụ án ra xét xử... của Thẩm
phán có đúng thủ tục tố tụng hay không? Việc tiến hành điều khiển phiên
tòa của Hội đồng xét xử có đúng thủ tục không, có vi phạm thủ tục tố
tụng không? Những kiến nghị, yêu cầu của Kiểm sát viên tại phiên tòa,
Hội đồng xét xử đã giải quyết chưa và có đúng quy định không? Thư ký
phiên tòa có tuân thủ đúng chức năng, nhiệm vụ của Thư ký tại phiên tòa
hay không… Đồng thời, Kiểm sát viên cũng phát biểu về việc tuân thủ
pháp luật tố tụng của những người tham gia tố tụng từ khi thụ lý vụ án
đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án có đúng pháp luật hay không,
có tuân theo sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa hay không? Thái độ và
hành vi của họ tại phiên tòa như thế nào?
Phát biểu về việc giải quyết vụ án: Nếu như trước đây, theo quy
định của BLTTDS 2004, sửa đổi, bổ sung 2011 thì Kiểm sát viên tham
gia phiên tòa không phải phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án
nhưng kể từ ngày 01/7/2016 là thời điểm BLTTDS năm 2015 có hiệu
lực thì khi tham gia phiên tòa sơ thẩm ngoài việc phát biểu ý kiến về
việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư
ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng thì Kiểm sát viên
tham gia phiên tòa còn phải phát biểu việc giải quyết vụ án về mặt nội
dung. Căn cứ vào kết quả hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Kiểm sát viên
điều chỉnh quan điểm của Viện kiểm sát (đã dự thảo) cho phù hợp với
diễn biến của vụ án. Phát biểu của Kiểm sát viên đại diện cho Viện
kiểm sát tại phiên tòa phải tóm tắt nội dung tranh chấp, yêu cầu của các
bên đương sự, đại diện của họ và những người tham gia tố tụng khác;
phân tích những căn cứ và viện dẫn những quy định của pháp luật để
chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu của họ. Trên cơ sở đó, Kiểm
sát viên đề xuất quan điểm về việc giải quyết vụ án.
Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên phải thể hiện bằng văn bản,
hiện nay chưa có văn bản mới hướng dẫn nên các Kiểm sát viên vẫn có

410
thể sử dụng mẫu Bài phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm
theo Mẫu số 24 ban hành kèm theo Quyết định số 388/QĐ-VKSTC
ngày 01/7/2016 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Bài
phát biểu của Kiểm sát viên phải có chữ ký của Kiểm sát viên tham gia
phiên tòa sơ thẩm và ngay sau khi kết thúc phiên tòa thì Kiểm sát viên
phải gửi văn bản phát biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ án.
Theo quy định tại Điều 262 BLTTDS 2015 thì Kiểm sát viên phải
gửi bài phát biểu ý kiến ngay khi kết thúc phiên tòa; quy định này gây
khó khăn cho Kiểm sát viên tham gia phiên tòa. Bởi, mặc dù bài phát
biểu đã được chuẩn bị từ trước nhưng tùy theo diễn biến phiên tòa mà
có thể có sự thay đổi, bổ sung sao cho phù hợp, vì vậy các Kiểm sát
viên tham gia phiên tòa cần phải có thời gian để sửa đổi, bổ sung chứ
không thể gửi ngay cho Tòa án văn bản phát biểu ý kiến được. Vấn
đề này cần có hướng dẫn liên ngành giữa TANDTC và VKSNDTC để
quy định trên được thực hiện một cách hiệu quả.
2.3.3. Kỹ năng kiểm sát việc tuyên án
Sau khi Hội đồng xét xử nghị án và ra phòng xử án để đọc bản
án, Kiểm sát viên phải chú ý lắng nghe toàn văn bản án, ghi chép đầy
đủ các tình tiết, sự kiện mà Hội đồng xét xử lấy đó làm căn cứ để ra
bản án. Xem xét bản án có phản ánh đúng diễn biến tại phiên tòa hay
không? có dựa trên kết quả tranh tụng tại phiên tòa hay không? các lập
luận của bản án có thực sự khách quan và phản ánh đúng ý chí của các
đương sự tại phiên tòa hay không để từ đó phát hiện báo cáo kết quả
xét xử của Hội đồng xét xử cho Viện trưởng Viện kiểm sát để thực hiện
quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Ví dụ:
Tại phiên tòa nguyên đơn tự nguyện không yêu cầu bị đơn phải
trả lãi đối với khoản tiền mà nguyên đơn đã cho bị đơn vay nhưng
bản án không căn cứ vào kết quả hỏi tại phiên tòa nên vẫn buộc
bị đơn phải trả lãi cho nguyên đơn. Trường hợp này Kiểm sát viên
phải xử lý như thế nào? Căn cứ pháp lý?

411
Đối với tình huống nêu trên cho thấy, bản án mà Hội đồng xét xử
đã tuyên không thể hiện đúng diễn biến tại phiên tòa, không căn cứ vào
yêu cầu của nguyên đơn là không yêu cầu bị đơn trả tiền lãi nên dẫn
đến bản án vẫn buộc bị đơn trả khoản tiền lãi cho nguyên đơn. Trong
trường hợp này, Kiểm sát viên phải báo cáo với Viện trưởng Viện kiểm
sát để Viện trưởng Viện kiểm sát ban hành quyết định kháng nghị đối
với bản án sơ thẩm nêu trên theo thủ tục phúc thẩm với lý do bản án
không dựa trên các căn cứ và diễn biến khách quan tại phiên tòa và có
sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến thiệt hại về quyền lợi của
bị đơn.
2.3.4. Kiểm sát biên bản phiên tòa
Sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm, Kiểm sát viên có quyền kiểm
tra biên bản phiên tòa xem Thư ký phiên tòa có ghi đúng và trung thực
nội dung mà các bên đương sự khai tại phiên tòa hay không? Nếu thấy
việc ghi biên bản phiên tòa không đúng như diễn biến tại phiên tòa
hoặc ghi không đầy đủ thì Kiểm sát viên có quyền yêu cầu ghi những
sửa đổi, bổ sung vào biên bản. Yêu cầu của Kiểm sát viên được thực
hiện ngay và Kiểm sát viên ký xác nhận vào những nội dung sửa đổi,
bổ sung theo quy định tại khoản 4 Điều 236 BLTTDS 2015.
Ví dụ:
Sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm, Kiểm sát viên xem lại biên
bản phiên tòa và phát hiện ra nội dung biên bản có sự thiếu sót so
với diễn biến phiên tòa và nội dung thiếu sót này rất quan trọng
ảnh hưởng đến kết quả giải quyết vụ án. Vậy Kiểm sát viên sẽ xử
lý như thế nào?
Trường hợp này thì Kiểm sát viên tham gia phiên tòa sẽ trực tiếp
ghi những nội dung bổ sung này vào phần sau của biên bản phiên tòa
và ký tên xác nhận bên dưới. Phần ghi bổ sung này sẽ được đính kèm
vào biên bản phiên tòa và được lưu vào hồ sơ vụ án và báo cáo Viện
trưởng Viện kiểm sát để thực hiện quyền kiến nghị, kháng nghị theo
quy định của BLTTDS.

412
2.3.5. Kiểm sát việc ban hành bản án, quyết định của Tòa án
Sau khi kết thúc phiên tòa, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa
báo cáo kết quả phiên tòa với lãnh đạo Viện kiểm sát. Trong trường
hợp bản án, quyết định của Tòa án đã tuyên có sự khác biệt so với
đường lối giải quyết vụ án của Viện kiểm sát và phát hiện có sự vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và có sai sót về nội dung vụ án
thì Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đề xuất Viện trưởng Viện kiểm
sát kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Nếu hết thời hạn kháng nghị
phúc thẩm của Viện kiểm sát cùng cấp (15 ngày) nhưng vẫn còn thời
hạn đối với Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp (01 tháng), mà phát hiện
vi phạm pháp luật, thì Kiểm sát viên báo cáo lãnh đạo Viện kiểm sát
cùng cấp đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên kháng nghị theo
thủ tục phúc thẩm.
Ví dụ:
Ngày 15/8/2016, Toà án nhân dân huyện A tuyên án vụ án tranh
chấp hợp đồng vay tài sản (vụ án trên có sự tham gia của Kiểm sát
viên). Ngày 05/9/2016 VKSND huyện A phát hiện ra bản án trên
của TAND huyện A có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Vậy
Kiểm sát viên sẽ xử lý như thế nào?
Với tình huống nêu trên, Kiểm sát viên đã phát hiện ra vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong bản án của TAND huyện A, nhưng
thời điểm phát hiện ra đã quá thời hạn được quyền kháng nghị của
Viện kiểm sát cùng cấp. Vì vậy, Kiểm sát viên phát hiện ra vi phạm cần
phải nhanh chóng báo cáo với Viện trưởng VKSND huyện A để xem
xét. Nếu thấy có căn cứ, Viện trưởng VKSND huyện A cần có văn bản
gửi Viện trưởng VKSND tỉnh B (huyện A trực thuộc tỉnh B) đề nghị
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Nếu hết thời hạn kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát cấp
trên mà phát hiện bản án, quyết định có vi phạm pháp luật nghiêm
trọng hoặc phát hiện tình tiết mới, thì Kiểm sát viên đề xuất với lãnh
đạo Viện kiểm sát báo cáo đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái

413
thẩm theo quy định của BLTTDS 2015 và kèm theo các tài liệu, chứng
cứ có liên quan.
Trường hợp Viện kiểm sát cùng cấp không tham gia phiên tòa sơ
thẩm hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp xét thấy cần phải nghiên
cứu hồ sơ để xem xét kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm thì Viện kiểm
sát có văn bản yêu cầu Tòa án cấp sơ thẩm chuyển hồ sơ vụ án cho
Viện kiểm sát nghiên cứu theo quy định của BLTTDS 2015.
3. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
1. Phân biệt thủ tục hoãn phiên toà với thủ tục tạm ngừng phiên
toà sơ thẩm dân sự?
2. Phân tích những điểm khác nhau của phiên toà sơ thẩm dân sự
theo thủ tục thông thường với phiên toà sơ thẩm dân sự theo thủ tục
rút gọn?
3. Phân tích những trường hợp bắt buộc Toà án phải hoãn phiên
toà sơ thẩm dân sự?
4. Phân tích các trường hợp Hội đồng xét xử sơ thẩm dân sự có
quyền xem xét quyết định hoãn phiên toà?
5. Trình bày hậu quả pháp lý của việc đương sự rút yêu cầu tại
phiên toà sơ thẩm dân sự?
6. Trong vụ án tranh chấp về quyền sử dụng đất, tại phiên tòa, sau
khi theo dõi phát hiện chủ tọa phiên tòa là bà Trần Thị N có quan hệ
làm ăn kinh tế với vợ của bị đơn thì Kiểm sát viên phải xử lý như thế
nào? Căn cứ pháp lý?
7. Trình bày kỹ năng của Thẩm phán tại phiên tòa sơ thẩm?
8. Trình bày kỹ năng của Luật sư tại phiên tòa sơ thẩm?
9. Trình bày kỹ năng của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm?

414
CHƯƠNG 7
THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN
TẠI TÒA ÁN CẤP PHÚC THẨM

Mục tiêu của bài học: Nội dung:


Chương này sẽ trang bị cho 1. Một số vấn đề chung về thủ
người học: tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp
Về kiến thức, người học có được phúc thẩm
những kiến thức, kỹ năng nghề 2. Kỹ năng của Luật sư, Thẩm
nghiệp cơ bản trong việc tham phán, Kiểm sát viên trong thủ tục
gia thủ tục giải quyết vụ án tại giải quyết vụ án tại Tòa án cấp
Tòa án cấp phúc thẩm tương phúc thẩm
ứng với từng chức danh Luật sư, 2.1. Kỹ năng của Luật sư trong
Thẩm phán và Kiểm sát viên. thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án
Về kỹ năng, người học được cấp phúc thẩm
cung cấp những kỹ năng riêng 2.2. Kỹ năng của Thẩm phán
biệt cho từng chức danh Luật trong thủ tục giải quyết vụ án tại
sư, Thẩm phán và Kiểm sát viên Tòa án cấp phúc thẩm
khi tham gia thủ tục giải quyết
vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm 2.3. Kỹ năng của Kiểm sát viên
trong thủ tục giải quyết vụ án tại
Về thái độ, người học có được Tòa án cấp phúc thẩm
thái độ chuẩn mực phù hợp với
từng chức danh Luật sư, Thẩm 3. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
phán và Kiểm sát viên khi tham
gia thủ tục giải quyết vụ án tại
Tòa án cấp phúc thẩm.

415
1. Một số vấn đề chung về thủ tục phúc thẩm
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của xét xử phúc thẩm
Thủ tục phúc thẩm vụ án dân sự là một cấp xét xử, một giai đoạn
tố tụng độc lập, trong đó Tòa án cấp trên trực tiếp xem xét lại bản án,
quyết định dân sự sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của tòa cấp dưới
khi có kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật. Cơ sở pháp
lý của hoạt động tố tụng này được quy định trong pháp luật về tổ chức
TAND, pháp luật về tổ chức VKSND và pháp luật về tố tụng dân sự.
Tại Điều 29 Luật Tổ chức TAND 2014 quy định về nhiệm vụ, quyền
hạn của TAND cấp cao là phúc thẩm vụ việc mà bản án, quyết định sơ
thẩm của TAND cấp tỉnh thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ chưa
có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của luật tố
tụng; Điều 37 Luật Tổ chức TAND 2014 quy định về nhiệm vụ, quyền
hạn của TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là phúc thẩm những
vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm của TAND cấp huyện chưa có hiệu
lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.
Điều 270 BLTTDS 2015 quy định về tính chất của xét xử phúc
thẩm như sau: xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp phúc thẩm trực tiếp
xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có
hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị.
Đặc điểm của xét xử phúc thẩm vụ án dân sự:
Phúc thẩm vụ án dân sự là một giai đoạn tố tụng để TAND cấp
trên kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của bản án và quyết định dân
sự chưa có hiệu lực pháp luật. Cụ thể là việc Tòa án cấp trên kiểm tra
các nội dung:
Thứ nhất, Tòa án cấp trên kiểm tra tính hợp pháp của bản án,
quyết định dân sự chưa có hiệu lực pháp luật, cụ thể là kiểm tra xem
việc ra bản án, quyết định sơ thẩm có được Tòa án cấp sơ thẩm áp
dụng đúng pháp luật về nội dung không và áp dụng đúng pháp luật về
tố tụng không.

416
Thứ hai, Tòa án cấp trên kiểm tra tính có căn cứ của bản án và
quyết định dân sự chưa có hiệu lực pháp luật, cụ thể là kiểm tra xem
những chứng cứ trong vụ án dân sự mà Tòa án đã thu thập và sử dụng
có phù hợp với thực tế không. Kiểm tra Tòa án cấp sơ thẩm khi lập
hồ sơ vụ án đã thu thập đầy đủ bằng chứng, chứng cứ của vụ án hay
chưa; những kết luận của bản án và quyết định có phù hợp với hồ sơ
vụ án không.
Với mục đích nhằm sửa chữa những sai lầm của Tòa án cấp sơ
thẩm trong các bản án và quyết định dân sự chưa có hiệu lực pháp
luật, thủ tục xét xử phúc thẩm vụ án dân sự là một bảo đảm về mặt tố
tụng để các đương sự có quyền yêu cầu Tòa án bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp của mình. Thông qua thủ tục phúc thẩm, các sai sót, vi
phạm trong các bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm được sửa
chữa, khắc phục để đảm bảo việc xét xử của Tòa án là chính xác, khách
quan, đúng pháp luật, qua đó bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của
các đương sự.
Ngoài ra, thủ tục phúc thẩm vụ án dân sự còn tạo khả năng thuận
lợi cho Tòa án cấp trên phát hiện kịp thời những sai lầm trong việc
đánh giá chứng cứ, áp dụng pháp luật có tính chất phổ biến để kịp thời
có văn bản hướng dẫn nghiệp vụ cho Tòa án cấp dưới.
1.2. Các Tòa án có thẩm quyền xét xử phúc thẩm
Thứ nhất, thẩm quyền xét xử phúc thẩm của TAND cấp cao
TAND cấp cao có thẩm quyền xét xử theo thủ tục phúc thẩm
những vụ việc mà bản án, quyết định dân sự sơ thẩm của TAND cấp
tỉnh chưa có hiệu lực pháp luật. Cơ sở pháp lý được quy định tại Điều
29 Luật Tổ chức TAND 2014 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của
TAND cấp cao: Phúc thẩm vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm
của TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thuộc phạm vi thẩm
quyền theo lãnh thổ chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng
nghị theo quy định của luật tố tụng. Việc thực hiện phúc thẩm vụ án
dân sự (theo nghĩa rộng) do các Tòa chuyên trách TAND cấp cao thực

417
hiện gồm có Tòa Dân sự, Tòa Kinh tế, Tòa Lao động, Tòa Gia đình
và người chưa thành niên theo Điều 30, 33 Luật Tổ chức TAND 2014.
Các TAND cấp cao được thành lập tại Hà Nội, Đà Nẵng và thành
phố Hồ Chí Minh.
Thứ hai, thẩm quyền xét xử phúc thẩm của TAND tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương
Theo Điều 37 Luật Tổ chức TAND 2014, TAND cấp tỉnh có
nhiệm vụ phúc thẩm những vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm
chưa có hiệu lực pháp luật của TAND huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.
1.3. Chủ thể có quyền kháng cáo, kháng nghị
Theo quy định tại Điều 271 BLTTDS 2015, chủ thể có quyền
kháng cáo gồm có: đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự,
cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện có quyền kháng cáo bản án sơ
thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình
chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án
cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.
Đương sự trong các vụ án dân sự gồm có nguyên đơn, bị đơn,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đương sự có thể là cá nhân,
cơ quan, tổ chức. Trường hợp đương sự là cá nhân có thể tự mình
thực hiện quyền kháng cáo hoặc thực hiện quyền kháng cáo thông qua
người đại diện theo ủy quyền. Trong các vụ án liên quan đến quan hệ
nhân thân như vụ án yêu cầu ly hôn thì đương sự là cá nhân phải tự
mình thực hiện quyền kháng cáo mà không được ủy quyền cho người
khác trừ trường hợp đương sự là người bị mất năng lực hành vi dân sự
hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Đương sự là cơ quan, tổ chức thì việc kháng cáo được thực hiện
thông qua người đại diện hợp pháp (có thể là người đại diện theo pháp
luật hoặc người đại diện theo ủy quyền) của cơ quan, tổ chức đó.
Đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì người đại diện

418
theo pháp luật của những người đó thực hiện quyền kháng cáo. Người
đại diện theo pháp luật của đương sự cũng có thể ủy quyền cho người
khác thực hiện việc kháng cáo.
Ngoài đương sự thì cơ quan, tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích
chung cũng là chủ thể có quyền kháng cáo. Ví dụ cơ quan quản lý nhà
nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội Liên hiệp
phụ nữ Việt Nam trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có
quyền khởi kiện vụ án về hôn nhân và gia đình theo quy định của Luật
Hôn nhân và gia đình.
Người kháng cáo phải làm đơn kháng cáo gửi đến Tòa án cấp sơ
thẩm đã giải quyết vụ việc trong thời hạn kháng cáo.
Chủ thể có quyền kháng nghị: thực hiện việc kháng nghị các bản
án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật là một trong những nhiệm vụ
quan trọng trong việc kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự. Để kiểm
sát chặt chẽ việc tuân thủ pháp luật trong việc giải quyết các vụ việc
dân sự của Tòa án và đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho đương sự, Điều
278 BLTTDS 2015 quy định: Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp và
cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án sơ thẩm, quyết định tạm
đình chỉ việc giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết
vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm
giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.
Theo quy định này thì Viện trưởng VKSND cấp cao có quyền
kháng nghị theo trình tự phúc thẩm những bản án, quyết định dân sự
chưa có hiệu lực pháp luật của TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương trong phạm vi lãnh thổ. Viện trưởng VKSND tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương có quyền kháng nghị theo trình tự phúc thẩm
bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện và
của TAND tỉnh đó.
1.4. Khách thể của quyền kháng cáo, kháng nghị
Trong quá trình giải quyết vụ việc tại Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa
án có thể ra các quyết định liên quan đến việc giải quyết vụ án như

419
quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng, quyết định áp dụng các
biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyết định thu thập chứng cứ, quyết định
công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, quyết định tạm đình chỉ
việc giải quyết vụ việc dân sự, quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ
việc dân sự, bản án, quyết định về việc giải quyết vụ việc dân sự. Tuy
nhiên, chỉ có các bản án, quyết định sau là đối tượng của quyền kháng
cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm:
- Các bản án dân sự sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật;
- Các quyết định tạm đình chỉ hoặc quyết định đình chỉ việc giải
quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật.
1.5. Phạm vi kháng cáo, kháng nghị
Dựa trên nguyên tắc căn cứ vào những yêu cầu kháng cáo của
đương sự, yêu cầu kháng nghị của Viện kiểm sát, Tòa án cấp phúc thẩm
chỉ xét xử lại những vấn đề đã được xét xử ở cấp sơ thẩm và đương sự
có kháng cáo, Viện kiểm sát có kháng nghị. Điều 293 BLTTDS 2015
khẳng định: Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại phần của bản án sơ
thẩm, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị
hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị.
Trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm, chủ
thể kháng cáo, kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu
kháng cáo, kháng nghị. Vấn đề này cũng không mâu thuẫn với quy
định về phạm vi xét xử phúc thẩm của Tòa án. Theo khoản 2 Điều
284 BLTTDS 2015: “Trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa
phúc thẩm, người kháng cáo có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo,
Viện kiểm sát đã kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị,
nhưng không được vượt quá phạm vi kháng cáo, kháng nghị ban đầu,
nếu thời hạn kháng cáo, kháng nghị đã hết”. Tòa án cấp phúc thẩm
có thể xem xét chấp nhận việc bổ sung yêu cầu trong trường hợp
yêu cầu bổ sung này là một yêu cầu phục vụ cho yêu cầu chính và
thuộc cùng một quan hệ pháp luật đang tranh chấp đã được xét xử ở
cấp sơ thẩm. Theo khoản 1 Điều 244 BLTTDS 2015: “Hội đồng xét

420
xử chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự nếu việc
thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu
khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu”. Nếu như
yêu cầu mới mà đương sự đưa ra là một yêu cầu có thể làm phát sinh
một quan hệ pháp luật mới thì Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét
để giải quyết yêu cầu này. Ví dụ trong vụ án giải quyết về hôn nhân
và gia đình, tại Tòa án cấp sơ thẩm, đương sự chỉ yêu cầu ly hôn mà
không đưa ra yêu cầu giải quyết tài sản. Đến thủ tục giải quyết tại cấp
phúc thẩm, đương sự bổ sung yêu cầu Tòa án chia tài sản khi ly hôn
thì Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận xem xét giải quyết yêu
cầu bổ sung này của đương sự.
1.6. Thời hạn kháng cáo, kháng nghị và kháng cáo quá hạn
Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15
ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức
hoặc cá nhân khởi kiện không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt
khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính
từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định
tại khoản 2 Điều 179 BLTTDS 2015. Việc niêm yết này có giá trị như
việc Tòa án đã giao được bản án, quyết định cho đương sự. Nếu đương
sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện đã tham gia phiên
tòa nhưng vắng mặt khi Tòa án tuyên án mà không có lý do chính đáng
thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày tuyên án.
Đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa
án cấp sơ thẩm thì thời hạn kháng cáo là 07 ngày, kể từ ngày đương sự,
cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện nhận được quyết định hoặc kể từ
ngày quyết định được niêm yết theo quy định của BLTTDS 2015.
Trường hợp đơn kháng cáo được gửi qua dịch vụ bưu chính thì
ngày kháng cáo được xác định căn cứ vào ngày tổ chức dịch vụ bưu
chính nơi gửi đóng dấu ở phong bì. Trường hợp người kháng cáo đang
bị tạm giam thì ngày kháng cáo là ngày đơn kháng cáo được giám thị
trại giam xác nhận.

421
Việc kháng cáo phải thực hiện trong thời hạn luật định. Nếu
kháng cáo quá thời hạn trên được coi là kháng cáo quá hạn. Người
kháng cáo phải làm bản tường trình trong đó nêu rõ lý do kháng cáo
quá hạn và nộp các tài liệu, chứng cứ (nếu có) để chứng minh việc
kháng cáo quá hạn có lý do chính đáng. Lý do chính đáng là trường
hợp bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác như do thiên tai,
lũ lụt, do ốm đau, tai nạn phải điều trị tại bệnh viện… làm cho người
kháng cáo không thể thực hiện được việc kháng cáo trong thời hạn
luật định.
Thời hạn kháng nghị đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm của
Viện kiểm sát cùng cấp là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp
là 01 tháng, kể từ ngày Tòa tuyên án. Trường hợp Kiểm sát viên không
tham gia phiên tòa thì thời hạn kháng nghị tính từ ngày Viện kiểm sát
cùng cấp nhận được bản án.
Đối với quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ việc giải
quyết vụ án dân sự thì thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp
là 07 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 10 ngày, kể từ ngày
Viện kiểm sát cùng cấp nhận được quyết định.
1.7. Hậu quả pháp lý của kháng cáo, kháng nghị
Kháng cáo, kháng nghị hợp lệ có hậu quả làm cho bản án, quyết
định bị kháng cáo, kháng nghị chưa được đưa ra thi hành. Nếu kháng
cáo, kháng nghị đối với toàn bộ bản án, quyết định thì toàn bộ bản án,
quyết định chưa được đưa ra thi hành. Trong những trường hợp bản án,
quyết định bị kháng cáo, kháng nghị một phần thì bản án, quyết định
có hiệu lực đối với phần không bị kháng cáo, kháng nghị khi có đầy
đủ điều kiện sau:
- Độc lập với những phần của bản án, quyết định sơ thẩm không
bị kháng cáo, kháng nghị;
- Việc xét kháng cáo, kháng nghị đối với phần của bản án, quyết
định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị không có liên quan đến những
phần của bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị.

422
Ví dụ: Trong vụ án về ly hôn, TAND huyện X đã ra quyết định
cho anh A được ly hôn chị B, giao cho chị B trông nom, nuôi dưỡng,
chăm sóc, giáo dục con chung là cháu C, anh A phải có nghĩa vụ cấp
dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) và chia
tài sản chung của vợ chồng cho anh A và chị B. Sau khi xét xử sơ
thẩm, anh A không kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị, chị
B chỉ kháng cáo bản án sơ thẩm về quyết định chia tài sản chung của
vợ chồng.
Như vậy, những phần của bản án sơ thẩm về ly hôn giữa anh A và
chị B về trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con, nghĩa vụ cấp
dưỡng nuôi con sau khi ly hôn không bị kháng cáo, kháng nghị và độc
lập với phần nội dung bị chị B kháng cáo. Việc xét kháng cáo phần bản
án sơ thẩm này không có liên quan đến những phần của bản án sơ thẩm
không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật. Do đó, những
phần của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực
pháp luật và được thi hành.
Đối với các quyết định về cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại về tính
mạng, sức khỏe, cấm hoặc buộc phải thực hiện hành vi nhất định mà
Hội đồng xét xử quyết định cho thi hành ngay thì mặc dù bản án, quyết
định bị kháng cáo, kháng nghị vẫn được đưa ra thi hành.
2. Kỹ năng của Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên trong thủ
tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm
2.1. Kỹ năng của Luật sư trong thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa
án cấp phúc thẩm
2.1.1. Tư vấn cho khách hàng thực hiện việc kháng cáo phúc thẩm
Kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm là một trong những quyền tố
tụng đặc biệt quan trọng của đương sự để quyền và lợi ích hợp pháp
của mình được pháp luật bảo vệ. Các đương sự có thể tự mình thực
hiện việc kháng cáo hoặc ủy quyền cho người khác thay mặt mình thực
hiện quyền kháng cáo. Trong thủ tục phúc thẩm, Luật sư có thể tham
gia với tư cách người đại diện theo ủy quyền của đương sự hoặc người

423
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự. Để tư vấn cho khách
hàng thực hiện quyền kháng cáo thì Luật sư phải soạn thảo cho khách
hàng đơn kháng cáo và yêu cầu khách hàng chuẩn bị các tài liệu nộp
kèm theo đơn kháng cáo.
Thứ nhất, kỹ năng soạn thảo đơn kháng cáo
Đơn kháng cáo phải có các nội dung chính sau đây theo quy định
tại khoản 1 Điều 272 BLTTDS 2015:
- Ngày, tháng, năm làm đơn kháng cáo;
- Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của
người kháng cáo;
- Nội dung kháng cáo: kháng cáo toàn bộ hoặc phần nào của
bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp
luật. Trong nội dung này, Luật sư lưu ý không kể lại nội dung và diễn
biến vụ tranh chấp. Đơn kháng cáo không được nêu nội dung chung
chung mà phải chỉ ra kháng cáo nội dung nào của bản án. Đơn kháng
cáo cũng không được kháng cáo về những vấn đề mà Tòa án chưa
xem xét hoặc giải quyết ở Tòa án cấp sơ thẩm. Đây chính là vấn đề
về phạm vi xét xử phúc thẩm được quy định tại Điều 293 BLTTDS
2015. Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại phần của bản án sơ thẩm,
quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị hoặc
có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị. Điều
này có nghĩa là người kháng cáo chỉ được quyền kháng cáo những
vấn đề đã được đặt ra trong yêu cầu khởi kiện, đã hoặc chưa được
giải quyết trong bản án sơ thẩm hoặc giải quyết không thỏa đáng
hoặc bỏ sót không giải quyết.
- Lý do của việc kháng cáo và yêu cầu của người kháng cáo:
đây là nội dung quan trọng nhất, quyết định sự thành công hay không
của giai đoạn phúc thẩm. Luật sư phải đầu tư nhiều thời gian vào nội
dung này và phải chỉ ra một cách rõ ràng những điểm không có căn cứ,
không đúng pháp luật của bản án sơ thẩm.

424
- Chữ ký hoặc điểm chỉ của người kháng cáo.
Nếu khách hàng ủy quyền cho Luật sư thực hiện việc kháng cáo
thì Luật sư cần lưu ý về nội dung và hình thức của việc ủy quyền kháng
cáo như sau: Việc ủy quyền kháng cáo phúc thẩm của đương sự cho
Luật sư phải được lập thành văn bản. Văn bản ủy quyền cần nêu rõ nội
dung ủy quyền là ủy quyền kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ,
đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm. Văn bản ủy quyền
này phải được công chứng hoặc chứng thực hợp pháp hoặc được lập
tại Tòa án có sự chứng kiến của Thẩm phán hoặc người được Chánh án
Tòa án phân công. Trường hợp đương sự là các loại hình doanh nghiệp
ủy quyền cho Luật sư thực hiện việc kháng cáo thì văn bản ủy quyền
của người đại diện theo pháp luật cho Luật sư chỉ cần đóng dấu của
công ty mà không nhất thiết phải công chứng hoặc chứng thực hoặc có
sự chứng kiến của Thẩm phán.
Trường hợp người kháng cáo ủy quyền là cá nhân thì tại mục tên,
địa chỉ của người kháng cáo trong đơn phải ghi họ, tên, địa chỉ của
người đại diện theo ủy quyền của người kháng cáo, của người kháng
cáo ủy quyền kháng cáo; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu
có) của người kháng cáo ủy quyền kháng cáo và văn bản ủy quyền. Ở
phần cuối đơn kháng cáo, người đại diện theo ủy quyền phải ký tên
hoặc điểm chỉ.
Trường hợp người kháng cáo là cơ quan, tổ chức, người đại diện
theo pháp luật của cơ quan, tổ chức đó có thể ủy quyền cho người khác
kháng cáo thì tại mục tên, địa chỉ của người kháng cáo trong đơn phải
ghi họ, tên, địa chỉ của người đại diện theo ủy quyền, của đương sự là
cơ quan, tổ chức ủy quyền; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu
có) của đương sự là cơ quan, tổ chức ủy quyền; họ, tên, chức vụ của
người đại diện theo pháp luật của đương sự là cơ quan, tổ chức đó và
văn bản ủy quyền. Ở phần cuối đơn kháng cáo, người đại diện theo ủy
quyền phải ký tên hoặc điểm chỉ.
Trường hợp người kháng cáo là người chưa thành niên, người
mất năng lực hành vi dân sự thì người đại diện theo pháp luật của họ

425
có thể ủy quyền cho người khác thực hiện việc kháng cáo. Tại mục
tên, địa chỉ của người kháng cáo trong đơn phải ghi họ, tên, địa chỉ của
người đại diện theo ủy quyền và văn bản ủy quyền; họ, tên, địa chỉ của
người đại diện theo pháp luật của đương sự ủy quyền; họ, tên, địa chỉ
của đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự. Ở phần cuối đơn kháng cáo, người đại diện theo ủy quyền phải
ký tên hoặc điểm chỉ.
Thứ hai, hướng dẫn khách hàng nộp đơn kháng cáo
Đơn kháng cáo phải nộp trong thời hạn kháng cáo. Luật sư sẽ
phải xác định được thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo bản án
sơ thẩm. Thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo bản án sơ thẩm là
ngày tiếp theo của ngày được xác định. Ngày được xác định là ngày
Tòa tuyên án đối với đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện có mặt tại
phiên tòa sơ thẩm hoặc là ngày bản án sơ thẩm được giao hoặc được
niêm yết tại trụ sở Uỷ ban nhân dân cấp xã đối với đương sự, cơ quan,
tổ chức khởi kiện không có mặt tại phiên tòa sơ thẩm.
Ví dụ:
Ngày 01/10/2016, Tòa án xét xử sơ thẩm vụ án dân sự và cùng
ngày 01/10/2016 Tòa án tuyên án thì thời điểm bắt đầu tính thời
hạn kháng cáo được xác định như sau:
Áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 147 BLDS 2015 thì đối với
đương sự có mặt tại phiên tòa sơ thẩm, thời điểm bắt đầu tính thời
hạn kháng cáo là ngày 02/10/2016.
Đối với đương sự không có mặt tại phiên tòa sơ thẩm và giả sử
ngày 15/10/2016, Tòa án cấp sơ thẩm mới giao bản án sơ thẩm cho
đương sự thì ngày được xác định là ngày 15/10/2016 và thời điểm
bắt đầu tính thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày 16/10/2016;
nếu Tòa án cấp sơ thẩm không thể giao trực tiếp bản án sơ thẩm
cho đương sự mà phải niêm yết công khai và giả sử ngày niêm yết
công khai tại trụ sở Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi đương sự cư trú là
ngày 15/10/2016 thì ngày bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện là ngày
16/10/2016.

426
Thời điểm kết thúc thời thời hạn kháng cáo là thời điểm kết thúc
ngày cuối cùng của thời hạn. Nếu ngày cuối cùng của thời hạn là ngày
nghỉ cuối tuần (thứ bảy, chủ nhật) hoặc ngày nghỉ lễ thì thời hạn kháng
cáo, kháng nghị kết thúc vào lúc 24 giờ của ngày làm việc đầu tiên tiếp
theo ngày nghỉ đó.
Thứ ba, xác định các tài liệu nộp kèm đơn kháng cáo
Kèm theo đơn kháng cáo, Luật sư phải giúp khách hàng chuẩn
bị các tài liệu nộp kèm đơn kháng cáo - là những tài liệu làm căn cứ
cho việc kháng cáo. Nếu đó là những tài liệu đã được Tòa án cấp sơ
thẩm yêu cầu giao nộp mà khách hàng không thể cung cấp, giao nộp
được vì lý do chính đáng thì Luật sư hướng dẫn khách hàng làm bản
tường trình trong đó nêu rõ lý do không giao nộp được cho Tòa án.
Ngoài ra, các tài liệu cung cấp bổ sung có thể là các tài liệu mà Tòa
án cấp sơ thẩm không yêu cầu khách hàng giao nộp hoặc khách hàng
không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án theo thủ tục sơ
thẩm. Trong trường hợp cần thiết, Luật sư phải giúp khách hàng thu
thập các tài liệu có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án và bổ sung vào
hồ sơ kháng cáo.
Đơn kháng cáo và các tài liệu nộp kèm đơn kháng cáo được
gửi đến Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử vụ việc. Đồng thời với việc
gửi hồ sơ kháng cáo, Luật sư còn hướng dẫn khách hàng nộp tiền
tạm ứng án phí phúc thẩm khi có yêu cầu của Tòa án đã nhận đơn
kháng cáo. Sau khi chấp nhận đơn kháng cáo hợp lệ, Tòa án cấp sơ
thẩm phải thông báo cho người kháng cáo biết để họ nộp tiền tạm
ứng án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật, nếu họ không
thuộc trường hợp được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án
phí phúc thẩm. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được thông
báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, người
kháng cáo phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm và nộp cho Tòa
án cấp sơ thẩm biên lai thu tiền tạm ứng án phí phúc thẩm. Hết thời
hạn này mà người kháng cáo không nộp tiền tạm ứng án phí phúc
thẩm thì được coi là từ bỏ việc kháng cáo. Luật sư cần lưu ý thời

427
hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án về việc
nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm để hướng dẫn khách hàng nộp
tạm ứng án phí đúng thời hạn.
Trường hợp sau khi hết thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được
thông báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm,
người kháng cáo mới nộp cho Tòa án biên lai thu tiền tạm ứng án phí
phúc thẩm mà không nêu rõ lý do thì Tòa án cấp sơ thẩm yêu cầu người
kháng cáo trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu
cầu của Tòa án phải có văn bản trình bày lý do chậm nộp biên lai thu
tiền tạm ứng án phí phúc thẩm. Luật sư phải giúp khách hàng chuẩn bị
bản tường trình trong đó nêu rõ lý do chậm nộp biên lai thu tiền tạm
ứng án phí phúc thẩm.
2.1.2. Kỹ năng tham gia thủ tục phúc thẩm
a) Kỹ năng chuẩn bị cho việc tham gia phiên tòa
Tòa án cấp sơ thẩm gửi đơn kháng cáo và các tài liệu, chứng cứ
kèm theo cho Tòa án cấp phúc thẩm. Ngay sau khi nhận được hồ sơ
vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm phải vào sổ thụ lý vụ án. Thời hạn chuẩn
bị xét xử phúc thẩm là 02 tháng, kể từ ngày Tòa án cấp phúc thẩm thụ
lý vụ án. Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả
kháng, trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án cấp phúc thẩm có thể
quyết định kéo dài thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không được quá
01 tháng. Đối với vụ án xét xử phúc thẩm theo thủ tục rút gọn và vụ
án có yếu tố nước ngoài thì không tuân theo quy định về thời hạn trên.
Trong thời gian chuẩn bị xét xử phúc thẩm của Tòa án, Luật sư phải có
những công việc chuẩn bị cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho đương sự, cụ thể:
Thứ nhất, thu thập và cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án; đề
nghị Tòa án cấp phúc thẩm cho sao chụp chứng cứ do đương sự khác
xuất trình; nghiên cứu hồ sơ vụ án.
Thứ hai, trong các trường hợp cần thiết và phù hợp với quy định
của pháp luật, Luật sư có thể đề nghị với Tòa án ra quyết định tạm đình

428
chỉ hoặc đình chỉ việc giải quyết vụ án, hướng dẫn đương sự làm đơn
yêu cầu Tòa án áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Thứ ba, chuẩn bị bản luận cứ để bảo vệ cho đương sự tại phiên
tòa phúc thẩm. Bản luận cứ để bảo vệ cho quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự tại phiên tòa phúc thẩm phải tập trung vào những nội
dung đã kháng cáo, những quyết định trong bản án sơ thẩm mà đương
sự không đồng ý (hoặc những điểm bất hợp lý trong nội dung kháng
cáo - nếu khách hàng của Luật sư là bên không kháng cáo). Bản luận
cứ phải trình bày được căn cứ pháp lý của việc chấp nhận yêu cầu
kháng cáo (hoặc không chấp nhận yêu cầu kháng cáo), các tài liệu,
chứng cứ chứng minh, đồng thời phải đề xuất được những yêu cầu cụ
thể để giải quyết được kháng cáo của đương sự.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, người kháng cáo có quyền bổ
sung kháng cáo, rút kháng cáo, thay đổi nội dung kháng cáo theo quy
định tại Điều 284 BLTTDS 2015. Nếu có các căn cứ để thực hiện các
quyền trên, Luật sư trao đổi với đương sự để họ thực hiện các quyền đó.
b) Kỹ năng tham gia phiên tòa phúc thẩm
Thủ tục phiên tòa tại Tòa án cấp phúc thẩm cũng được tiến hành
tương tự phiên tòa sơ thẩm. Các kỹ năng của Luật sư tại phiên tòa phúc
thẩm về cơ bản cũng giống như kỹ năng của Luật sư tại phiên tòa sơ
thẩm. Điểm khác biệt là Luật sư cần lưu ý đến phạm vi xét xử phúc
thẩm được quy định tại Điều 293 BLTTDS 2015. Để bảo vệ quyền lợi
cho đương sự, Luật sư cần lưu ý đến các vấn đề sau:
Thứ nhất, phần thủ tục bắt đầu phiên tòa phúc thẩm
Trong phần này, Luật sư cần lưu ý phần kiểm tra căn cước của
đương sự của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa để xác định những người
tham gia tố tụng có đúng là những người được triệu tập không. Khi
xuất hiện các căn cứ có thể ảnh hưởng đến việc xét xử khách quan, độc
lập của Hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng khác, Luật
sư có thể đề xuất yêu cầu Hội đồng xét xử thay đổi người tiến hành tố
tụng. Ngoài ra, Luật sư cũng có quyền đề xuất yêu cầu hoãn phiên tòa

429
hoặc tạm dừng phiên tòa khi có các căn cứ phát sinh để bảo vệ quyền
lợi cho thân chủ.
Thứ hai, phần tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm
Trong phần này, Luật sư phải trình bày nội dung kháng cáo và
các tài liệu, chứng cứ chứng minh việc kháng cáo là có căn cứ. Nếu là
Luật sư của đương sự không kháng cáo, Luật sư phải đưa ra các nội
dung phản bác kháng cáo và các tài liệu chứng minh.
Trong phần hỏi, Luật sư phải đặt ra các câu hỏi cho đương sự để
làm rõ vấn đề cần chứng minh liên quan đến nội dung kháng cáo. Các
câu hỏi phải không được trùng lặp, có lợi cho thân chủ và dẫn dắt đến
phần tranh luận.
Phần trình bày bản luận cứ và đối đáp, Luật sư phải nêu bật được
tính hợp pháp và có căn cứ của việc kháng cáo.
2.2. Kỹ năng của Thẩm phán trong thủ tục giải quyết vụ án tại
Tòa án cấp phúc thẩm
BLTTDS 2015 quy định phần thủ tục giải quyết các vụ án dân
sự tại Tòa án cấp phúc thẩm gồm giai đoạn chuẩn bị xét xử và xét xử
phúc thẩm. Muốn thực hiện tốt công tác xét xử các vụ việc dân sự tại
giai đoạn phúc thẩm thì các Thẩm phán cần hiểu và làm tốt các công
việc trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.
2.2.1. Kỹ năng chuẩn bị xét xử phúc thẩm
Thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm theo quy định của Điều 286
BLTTDS 2015 là 02 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án phúc thẩm, do đó,
sau khi nhận được hồ sơ vụ án sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị và
tài liệu, chứng cứ kèm theo, Tòa án cấp phúc thẩm phải vào sổ thụ lý,
Chánh án Tòa án cấp phúc thẩm quyết định thành lập Hội đồng xét xử
phúc thẩm và phân công một Thẩm phán làm chủ tọa phiên tòa, đồng
thời Tòa án ra thông báo bằng văn bản cho các đương sự, cơ quan, tổ
chức, cá nhân khởi kiện và Viện kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án đã

430
thụ lý vụ án (trường hợp Tòa án có Cổng thông tin điện tử thì thông
báo thụ lý vụ án cũng được đăng tải) trong thời hạn 03 ngày làm việc,
kể từ ngày Tòa án cấp phúc thẩm thụ lý vụ án. Chánh án Tòa án cấp
phúc thẩm có thể quyết định kéo dài thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng
không được quá 01 tháng đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do
sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan.
Do thời hạn chuẩn bị xét xử không nhiều, chỉ có 02 tháng (03
tháng trong trường hợp có quyết định kéo dài thời hạn chuẩn bị xét
xử) kể từ ngày thụ lý vụ án phúc thẩm nên ngay sau khi nhận hồ sơ do
người có thẩm quyền phân công, Thẩm phán cần kiểm tra, nghiên cứu
hồ sơ vụ án để có phương án giải quyết vụ việc theo các bước sau:
a) Nghiên cứu hồ sơ vụ án
* Xem xét tính hợp lệ của đơn kháng cáo, quyết định kháng nghị:
Trước tiên Thẩm phán cần tìm hiểu xem đơn kháng cáo, quyết
định kháng nghị có được thực hiện trong thời hạn luật định hay không?
Đơn kháng cáo do người có quyền kháng cáo thực hiện hay ai thực
hiện? Điều 271 BLTTDS 2015 quy định người có quyền kháng cáo
bao gồm: đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, cơ quan,
tổ chức, cá nhân đã khởi kiện có quyền kháng cáo bản án, quyết định
của Tòa án cấp sơ thẩm.
Ví dụ:
Vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản giữa bà Nguyễn Thị V
và ông Đỗ Văn B do TAND huyện C thành phố H xét xử sơ thẩm:
Tháng 01 năm 2013, ông B với tư cách Trưởng thôn viết giấy vay
bà V số tiền 200.000.000 đồng để thực hiện việc dồn điền đổi
thửa trong thôn. Trong giấy vay tiền có ông Phan Hữu M - bí thư
Đảng và ông Đào Minh N - đại diện mặt trận thôn ký làm chứng.
Theo bà V, khi ông B đến vay tiền bà, ông xác định là cá nhân
ông vay để ứng trước cho công việc và cam kết sẽ có trách nhiệm
trả tiền theo đúng hạn sau 01 năm sau khi thu được tiền của dân
trong thôn.

431
Tòa án cấp sơ thẩm xác định ông M và ông N là người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án và tuyên cho họ quyền kháng
cáo bản án.
Thực chất ông M và ông N trong trường hợp này không phải
là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án, họ chỉ là
những người làm chứng, biết sự việc có thể được triệu tập đến
tham gia phiên tòa nên không thể là người có quyền kháng cáo
bản án sơ thẩm.
* Nghiên cứu nội dung đơn kháng cáo, quyết định kháng nghị:
Thẩm phán nghiên cứu đơn kháng cáo và quyết định kháng nghị
để làm rõ phạm vi kháng cáo, kháng nghị; những nội dung kháng
cáo, kháng nghị cụ thể đối với phần nào của bản án và quyết định sơ
thẩm, vì những nội dung không bị kháng cáo, kháng nghị của bản án
và quyết định sơ thẩm đã phát sinh hiệu lực pháp luật khi hết thời hạn
kháng cáo, kháng nghị.
Ví dụ:
Trong vụ án xin ly hôn, các đương sự thuận tình ly hôn được
Tòa án chấp nhận, nhưng do các bên có tranh chấp về việc nuôi
dưỡng con và phân chia tài sản nên có yêu cầu kháng cáo về nội
dung tranh chấp thì phần ghi nhận sự thuận tình ly hôn của bản
án sơ thẩm sẽ phát sinh hiệu lực pháp luật khi hết thời hạn kháng
cáo, kháng nghị.
Như vậy, quan hệ hôn nhân giữa các bên đã chấm dứt, các
đương sự có quyền kết hôn với người khác.
Trường hợp đơn kháng cáo của người kháng cáo không nói rõ cụ
thể những nội dung kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm giải quyết mà
chỉ đưa ra yêu cầu kháng cáo toàn bộ bản án, quyết định sơ thẩm thì
Thẩm phán cần triệu tập người kháng cáo để lấy lời khai làm rõ phạm
vi cũng như nội dung kháng cáo cụ thể của họ, từ đó mới xây dựng kế
hoạch chuẩn bị xét xử phúc thẩm cho phù hợp.

432
* Nghiên cứu bản án, biên bản nghị án, biên bản phiên tòa:
Việc nghiên cứu nhằm mục đích xác định xem Tòa án cấp sơ
thẩm xác định quan hệ pháp luật có tranh chấp cần phải giải quyết đã
đúng và đủ chưa? Những người tham gia tố tụng trong vụ án đã đưa
vào đầy đủ chưa? có còn bỏ sót ai không? Văn bản pháp luật Tòa án
cấp sơ thẩm áp dụng là văn bản nào? có phù hợp với thời điểm giao
dịch có tranh chấp xảy ra không? Đồng thời, làm rõ những căn cứ Tòa
án cấp sơ thẩm xác định để quyết định đường lối giải quyết vụ án từ đó
tìm ra những điểm hợp lý hoặc chưa hợp lý giữa phần xét thấy và phần
quyết định của bản án, quyết định sơ thẩm để có đường lối giải quyết
vụ án theo thẩm quyền của cấp phúc thẩm.
* Nghiên cứu các tài liệu trong hồ sơ vụ án sơ thẩm:
Nghiên cứu lời khai của các đương sự, các tài liệu, chứng cứ do
các bên xuất trình cũng như do Tòa án thu thập để tìm ra những điểm
mâu thuẫn giữa các lời khai và kiểm tra tính hợp pháp của các tài liệu,
chứng cứ. Nếu thấy những điểm chưa rõ, Thẩm phán cần triệu tập đương
sự lấy lời khai, đối chất làm rõ những nội dung còn mâu thuẫn. Trên cơ
sở đó Thẩm phán sẽ quyết định xem có cần phải thu thập thêm những tài
liệu, chứng cứ gì khác để có căn cứ giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm.
b) Thực hiện một số biện pháp thu thập chứng cứ
Trường hợp tại cấp phúc thẩm có đương sự xuất trình tài liệu,
chứng cứ mới, hoặc có người đưa ra căn cứ về việc tài liệu, chứng cứ
do đương sự khác xuất trình là giả mạo yêu cầu được giám định… thì
trong trường hợp cần thiết, Thẩm phán phải cân nhắc để tiến hành các
biện pháp thu thập chứng cứ phù hợp, tương ứng được quy định tại
Điều 97 BLTTDS 2015 ví dụ như trưng cầu giám định, ủy thác thu
thập, xác minh tài liệu, chứng cứ…
Đối với những vụ án tranh chấp về nhà đất mà cấp sơ thẩm đã
phân chia bằng hiện vật, sau khi nghiên cứu hồ sơ, Thẩm phán phải
hiểu rõ từng vị trí phân chia cho các đương sự ra sao? Nếu thấy cần
thiết, Thẩm phán phải xuống xem xét thẩm định tại chỗ để biết chính

433
xác các vị trí để phân chia hiện vật cho phù hợp, tránh việc bỏ sót tài
sản hoặc chia hiện vật không hợp lý dẫn đến việc người bên trong
không có lối đi hoặc không có cầu thang lên tầng…
c) Ban hành các quyết định tại giai đoạn phúc thẩm
Trong thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, Thẩm phán của Tòa
án cấp phúc thẩm có quyền ban hành một trong các quyết định:
* Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án
Thẩm phán có quyền ra quyết định tạm đình chỉ phúc thẩm vụ án
theo Điều 288 BLTTDS 2015 khi có các căn cứ tương tự như giai đoạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm, gồm các trường hợp sau: (1) Đương sự là cá
nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, giải
thể mà chưa có cơ quan, tổ chức, cá nhân kế thừa quyền và nghĩa vụ
tố tụng của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó; (2) Đương sự là cá nhân mất
năng lực hành vi dân sự, người chưa thành niên mà chưa xác định được
người đại diện theo pháp luật; (3) Chấm dứt đại diện hợp pháp của
đương sự mà chưa có người thay thế; (4) Cần đợi kết quả giải quyết
vụ án khác có liên quan hoặc sự việc được pháp luật quy định là phải
do cơ quan, tổ chức khác giải quyết trước mới giải quyết được vụ án;
(5) Cần đợi kết quả thực hiện ủy thác tư pháp, ủy thác thu thập chứng
cứ hoặc đợi cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu
của Tòa án mới giải quyết được vụ án; (6) Cần đợi kết quả xử lý văn
bản quy phạm pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án có dấu
hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị
quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật
của cơ quan nhà nước cấp trên mà Tòa án đã có văn bản kiến nghị cơ
quan nhà nước có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ;
(7) Theo quy định tại Điều 41 của Luật phá sản; (8) Các trường hợp
khác theo quy định của pháp luật.
Hậu quả của việc tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án và việc
tiếp tục xét xử phúc thẩm vụ án được thực hiện theo quy định tại các
điều 215, 216 BLTTDS 2015.

434
Ví dụ:
Vụ án đòi tài sản giữa bà Nguyễn Thị T và bà Trần Thanh M. Do
cần tiền cho con du học, bà M mượn của bà T số tiền 400.000.000
và 10.000.000 USD, hết thời hạn trả tiền bà M đã bỏ đi đâu không
rõ tin tức, bà T đã yêu cầu Tòa án quận B thành phố H tìm kiếm bà
M vắng mặt tại nơi cư trú và yêu cầu bà M trả lại số tiền bà đã cho
mượn. Tòa án quận B căn cứ điểm b khoản 1 Điều 192 BLTTDS
2015 ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án vì cho rằng bà T chưa
đủ điều kiện khởi kiện do quá trình giải quyết vụ án trước đó bà T
chỉ xuất trình bản phô tô giấy mượn tiền cho Thẩm phán để ký đối
chiếu bản chính mà không xuất trình bản gốc giấy cho mượn tiền
đã được đối chiếu.
Bà T kháng cáo quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án của
Tòa án cấp sơ thẩm. Trong quá trình xét xử phúc thẩm bà T có đơn
đề nghị Tòa cấp phúc thẩm cho tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án
phúc thẩm vì bà có việc gia đình đột xuất phải ra nước ngoài trong
thời hạn 06 tháng, khi về bà sẽ xuất trình bản gốc giấy mượn tiền
để Tòa án có căn cứ giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 314 BLTTDS 2015 thì thời hạn
giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm trong trường hợp này là 01 tháng,
tối đa là 02 tháng trong trường hợp có lý do chính đáng vì vậy Tòa
án cấp phúc thẩm đã ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm
theo quy định của điểm h khoản 1 Điều 214 và khoản 18 Điều 70
BLTTDS 2015.
* Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án
Thẩm phán của Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét
xử phúc thẩm khi có các căn cứ quy định tại Điều 289 và điểm a, b
khoản 1 Điều 217 BLTTDS 2015, gồm các trường hợp:
- Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ
của họ không được thừa kế;
- Cơ quan, tổ chức đã bị giải thể, phá sản mà không có cơ quan,

435
tổ chức, cá nhân nào kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ
chức đó;
- Người kháng cáo rút toàn bộ hoặc một phần kháng cáo hoặc
Viện kiểm sát rút toàn bộ hoặc một phần kháng nghị;
- Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
Ví dụ: về việc hoãn phiên tòa phúc thẩm, tại khoản 3 Điều 296
BLTTDS 2015 có quy định: Người kháng cáo được Tòa án triệu tập hợp
lệ lần thứ hai mà vắng mặt thì bị coi như từ bỏ việc kháng cáo và Tòa
án đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của người đó...
Như vậy việc ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm trong
trường hợp này thuộc “trường hợp khác” theo quy định của
BLTTDS, đồng thời việc Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình
chỉ xét xử phúc thẩm tại phiên tòa không phụ thuộc vào ý chí của
người kháng cáo.
Thẩm phán cần lưu ý: đối với trường hợp người kháng cáo rút
toàn bộ kháng cáo hoặc Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị trước khi
Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm thì
Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa ra quyết định đình
chỉ xét xử phúc thẩm; trường hợp người kháng cáo rút toàn bộ kháng
cáo, Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị sau khi Tòa án cấp phúc
thẩm ra quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm thì Hội đồng xét xử
phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm.
Trong quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm, Thẩm phán cần
ghi rõ nội dung: bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật từ
ngày Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm.
Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án có hiệu lực thi hành ngay
và được gửi ngay cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện,
Viện kiểm sát cùng cấp.
Đối với trường hợp người kháng cáo rút một phần kháng cáo
hoặc Viện kiểm sát rút một phần kháng nghị thì Hội đồng xét xử phúc

436
thẩm nhận định về nội dung người kháng cáo đã rút một phần kháng
cáo, Viện kiểm sát đã rút một phần kháng nghị và quyết định đình
chỉ xét xử phần kháng cáo, kháng nghị đó trong bản án phúc thẩm.
Những nội dung còn lại của vụ án bị kháng cáo, kháng nghị, Tòa án
cấp phúc thẩm tiến hành mở phiên tòa phúc thẩm xét xử vụ án theo
thủ tục chung.
* Đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm
Khi thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm đã hết, nếu không có
căn cứ để ra quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ phúc thẩm, thì
Thẩm phán Tòa án cấp phúc thẩm phải ra quyết định đưa vụ án ra xét
xử phúc thẩm.
Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra
xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa phúc thẩm; trường hợp có lý do chính
đáng thì thời hạn này là 02 tháng.
Trường hợp người kháng cáo rút một phần kháng cáo hoặc Viện
kiểm sát rút một phần kháng nghị thì phần kháng cáo, kháng nghị còn
lại Toà án cấp phúc thẩm vẫn phải mở phiên tòa đưa vụ án ra xét xử
phúc thẩm để phán quyết đối với những nội dung đương sự còn giữ
kháng cáo, Viện kiểm sát còn giữ kháng nghị.
Nội dung quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm và thời hạn
tống đạt được thực hiện theo quy định tại Điều 290 BLTTDS 2015.
Sau khi ra quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm, Thẩm phán
Tòa án cấp phúc thẩm phải chuyển hồ sơ vụ án cùng với quyết định
đưa vụ án ra xét xử cho Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu trong thời
hạn 15 ngày theo quy định của Điều 292 BLTTDS 2015.
Trên cơ sở xác định phạm vi xét xử phúc thẩm, để chuẩn bị cho
việc mở phiên tòa phúc thẩm thì ngay khi ban hành quyết định đưa vụ
án ra xét xử phúc thẩm, Thẩm phán phải lập danh sách những người
cần triệu tập để tham gia phiên tòa phúc thẩm theo quy định tại Điều
294 BLTTDS 2015 gồm: Người kháng cáo; đương sự, cơ quan, tổ

437
chức, cá nhân có liên quan đến việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị;
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; những người
tham gia tố tụng khác tham gia phiên tòa nếu xét thấy cần thiết cho
việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị; Kiểm sát viên Viện kiểm sát
cùng cấp.
Cùng với việc tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm
theo quy định, Thẩm phán gửi kèm theo giấy triệu tập phiên tòa cho
những người được triệu tập đến tham gia phiên tòa phúc thẩm.
* Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời
Theo quy định tại Điều 291 BLTTDS 2015 trong giai đoạn chuẩn
bị xét xử phúc thẩm, Thẩm phán Tòa phúc thẩm có quyền áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời hoặc thay đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ biện pháp
khẩn cấp tạm thời mà Toà án cấp sơ thẩm đã áp dụng theo trình tự,
thủ tục được quy định tại Chương VIII của BLTTDS (từ Điều 111 đến
Điều 142 BLTTDS 2015).
2.2.2. Kỹ năng của Thẩm phán tại phiên tòa phúc thẩm
a) Kỹ năng điều hành thủ tục bắt đầu phiên tòa phúc thẩm
* Thủ tục khai mạc và bắt đầu phiên tòa phúc thẩm
Việc chuẩn bị khai mạc phiên tòa phúc thẩm và thủ tục bắt đầu
phiên tòa phúc thẩm theo quy định tại Điều 297 BLTTDS 2015 được
thực hiện giống như tại phiên tòa sơ thẩm được quy định tại các điều
237, 239, 240, 241, 242 của BLTTDS 2015.
Cụ thể sau khi khai mạc phiên toà, chủ toạ phiên toà công bố
quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm; yêu cầu Thư ký báo cáo
những người được triệu tập đến phiên tòa xem ai có mặt? ai vắng mặt?
kiểm tra căn cước của những người có mặt tham gia phiên tòa, phổ
biến quyền, nghĩa vụ cho họ để họ thực hiện các quyền, nghĩa vụ theo
quy định của BLTTDS.
Chủ toạ phiên toà giới thiệu thành viên của Hội đồng xét
xử, Kiểm sát viên, Thư ký phiên toà, người giám định, người

438
phiên dịch và hỏi những người tham gia tố tụng xem có ai yêu cầu
thay đổi những người đó không. Nếu có, Hội đồng xét xử xem xét
quyết định.
Đối với những người được triệu tập đến phiên tòa phúc thẩm
vắng mặt thì Hội đồng xét xử xem xét và quyết định việc có hoãn
phiên toà hay không.
* Giải quyết các tình huống phát sinh tại phần bắt đầu phiên tòa
phúc thẩm
- Các trường hợp hoãn hoặc không hoãn phiên tòa
Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định hoãn hoặc tiếp tục xét
xử phúc thẩm khi có các căn cứ được quy định tại Điều 296 BLTTDS
2015 như sau:
Hội đồng phúc thẩm phải hoãn phiên tòa khi:
+ Kiểm sát viên được phân công tham gia phiên tòa phúc thẩm
vắng mặt trong trường hợp Viện kiểm sát có kháng nghị phúc thẩm.
+ Người kháng cáo, người không kháng cáo nhưng có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị được Tòa án triệu
tập hợp lệ lần thứ nhất mà vắng mặt;
+ Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người kháng cáo,
người không kháng cáo nhưng có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến
việc kháng cáo, kháng nghị được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất
mà vắng mặt;
+ Người kháng cáo vắng mặt vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở
ngại khách quan.
Hội đồng phúc thẩm không bắt buộc phải hoãn phiên tòa khi:
+ Kiểm sát viên được phân công tham gia phiên tòa phúc thẩm
vắng mặt trong trường hợp không có kháng nghị phúc thẩm.
+ Người kháng cáo được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà
vắng mặt thì bị coi như từ bỏ việc kháng cáo và Tòa án đình chỉ xét

439
xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của người đó, trừ trường hợp
người đó đề nghị xét xử vắng mặt.
+ Trường hợp có nhiều người kháng cáo, trong đó có người kháng
cáo được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vắng mặt nhưng không
có đơn đề nghị xét xử vắng mặt thì coi như người đó từ bỏ việc kháng
cáo và Tòa án đưa vụ án ra xét xử. Trong phần quyết định của bản án,
Tòa án đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần kháng cáo của người
kháng cáo vắng mặt đó.
+ Người không kháng cáo nhưng có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến việc kháng cáo, kháng nghị và những người tham gia tố tụng
khác đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt.
+ Đương sự vắng mặt nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt họ.
Thẩm phán cần lưu ý: Việc quyết định hoãn phiên tòa hay
không do Hội đồng xét xử phúc thẩm thảo luận và quyết định, mọi
ý kiến thảo luận về việc hoãn phiên tòa phúc thẩm của các thành
viên Hội đồng xét xử phải được ghi lại bằng văn bản để lưu trong
hồ sơ vụ án.
Thời hạn hoãn phiên tòa và quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm
được thực hiện theo quy định tại Điều 233 của BLTTDS 2015. Quyết
định hoãn phiên tòa được công bố công khai và tống đạt cho những
người tham gia tố tụng trong vụ án, nếu Hội đồng xét xử đã ấn định
được lịch phiên tòa tiếp theo thì lịch xét xử mới được xác định ngay
trong quyết định hoãn phiên tòa, trường hợp chưa có lịch phiên tòa tiếp
theo thì Hội đồng xét xử phải có thông báo mở lại phiên tòa để tống đạt
cho những người tham gia phiên tòa biết và thực hiện.
- Yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng
Tại phiên tòa phúc thẩm, người tham gia tố tụng có quyền yêu
cầu thay đổi người tiến hành tố tụng. Căn cứ, thủ tục giải quyết yêu cầu
thay đổi người tiến hành tố tụng được thực hiện giống như tại phiên
tòa sơ thẩm.

440
- Yêu cầu thay đổi, bổ sung, rút đơn khởi kiện, đơn kháng cáo,
nội dung kháng nghị
Kết thúc thủ tục bắt đầu phiên tòa phúc thẩm, một thành viên của
Hội đồng xét xử phúc thẩm (thường là chủ tọa) công bố nội dung vụ
án, quyết định của bản án sơ thẩm, nội dung kháng cáo, kháng nghị.
Chủ tọa phiên tòa hỏi những người tham gia phiên tòa phúc thẩm
về các vấn đề: Nguyên đơn có rút đơn khởi kiện hay không; Người
kháng cáo, Kiểm sát viên có thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng
nghị hay không; Các đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc
giải quyết vụ án hay không?
Tùy vào nội dung trả lời của những người tham gia phiên tòa
phúc thẩm, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và các Thẩm phán thành viên
Hội đồng xét xử phúc thẩm phải xử lý, giải quyết các tình huống tương
ứng như sau:
+ Nếu người kháng cáo rút một phần kháng cáo, Viện kiểm sát
rút một phần kháng nghị thì Tòa án chấp nhận việc rút kháng cáo,
kháng nghị. Trường hợp người kháng cáo, Viện kiểm sát bổ sung
nội dung mới vượt quá phạm vi kháng cáo, kháng nghị ban đầu thì
Tòa án không xem xét nội dung thay đổi, bổ sung mới đó (Điều 298
BLTTDS 2015);
+ Nếu nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì Hội đồng xét xử phúc
thẩm phải hỏi bị đơn có đồng ý hay không để giải quyết cụ thể, trường
hợp bị đơn không đồng ý thì không chấp nhận việc rút đơn khởi kiện
của nguyên đơn;
Trường hợp bị đơn đồng ý thì chấp nhận việc rút đơn khởi kiện
của nguyên đơn. Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định hủy bản án
sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án. Trong trường hợp này, các đương
sự vẫn phải chịu án phí sơ thẩm theo quyết định của Tòa án cấp sơ
thẩm và phải chịu một nửa án phí phúc thẩm theo quy định của pháp
luật và nguyên đơn có quyền khởi kiện lại vụ án theo thủ tục chung
(Điều 299 BLTTDS 2015);

441
+ Nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết
vụ án và thỏa thuận của họ là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của
luật và không trái đạo đức xã hội thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra bản
án phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự. Các đương sự tự thỏa thuận với nhau về việc chịu án phí sơ
thẩm, nếu không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định theo quy định
của pháp luật (Điều 300 BLTTDS 2015).
b) Kỹ năng điều hành thủ tục tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm
b1. Thủ tục hỏi tại phiên tòa phúc thẩm
Nội dung và phương thức tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm theo
quy định của Điều 301 BLTTDS 2015 được thực hiện như tại phiên
tòa sơ thẩm, bắt đầu bằng việc nghe các đương sự trình bày yêu cầu
kháng cáo, Viện kiểm sát trình bày về nội dung kháng nghị. Sau khi
nghe xong lời trình bày của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự đó, các bên đương sự được quyền đặt câu hỏi
cho bên kia để làm rõ những tình tiết nội dung vụ án liên quan đến
kháng cáo, kháng nghị.
Tùy vào từng vụ án có đương sự nào kháng cáo, có bị kháng nghị
hay không thì thứ tự trình bày tại phiên tòa phúc thẩm được tiến hành
theo quy định tại Điều 302 BLTTDS 2015 như sau:
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người kháng cáo
trình bày nội dung kháng cáo, căn cứ của việc kháng cáo. Người kháng
cáo có quyền bổ sung ý kiến. Nếu đương sự không có người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho mình thì họ tự trình bày ý kiến về nội
dung kháng cáo và đề nghị của mình.
Nếu tất cả đương sự đều kháng cáo thì việc trình bày được thực
hiện theo thứ tự người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên
đơn kháng cáo và nguyên đơn; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của bị đơn kháng cáo và bị đơn; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan kháng cáo và người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

442
Nếu chỉ có Viện kiểm sát kháng nghị thì Kiểm sát viên trình bày
về nội dung kháng nghị, căn cứ của việc kháng nghị.
Trường hợp vừa có kháng cáo, vừa có kháng nghị thì các đương
sự trình bày về nội dung kháng cáo và các căn cứ của việc kháng cáo
trước, sau đó Kiểm sát viên trình bày về nội dung kháng nghị và các
căn cứ của việc kháng nghị.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự khác
có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị trình bày ý kiến về nội dung
kháng cáo, kháng nghị. Đương sự có quyền bổ sung ý kiến.
Sau khi nghe xong lời trình bày về nội dung kháng cáo, kháng
nghị, chủ tọa phiên tòa điều hành phần hỏi theo thứ tự được quy định
tại Điều 303 BLTTDS 2015, cụ thể như sau:
- Nguyên đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
nguyên đơn hỏi trước, tiếp đến bị đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của bị đơn, sau đó là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan;
- Những người tham gia tố tụng khác;
- Chủ tọa phiên tòa;
- Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Đối với vụ án có nhiều nguyên đơn, nhiều bị đơn hoặc nhiều
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì phải hỏi riêng từng người
một và chỉ hỏi về những vấn đề mà người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự, đương sự trình bày chưa rõ, có mâu thuẫn
với nhau hoặc mâu thuẫn với lời khai của họ trước đó, mâu thuẫn với
yêu cầu, lời trình bày của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
những người này.
Thẩm phán điều khiển việc hỏi cần lưu ý các bên đương sự phải
đặt các câu hỏi rõ ràng, nghiêm túc, không trùng lắp, không lợi dụng

443
việc hỏi và trả lời để xâm phạm danh dự, nhân phẩm của những người
tham gia tố tụng.
Hội đồng xét xử phúc thẩm chỉ hỏi những vấn đề thuộc phạm vi
xét xử phúc thẩm (Điều 293 BLTTDS 2015).
Khi nội dung kháng cáo, kháng nghị và các vấn đề liên quan
đến kháng cáo, kháng nghị đã được hỏi đầy đủ thì chủ tọa phiên tòa
hỏi Kiểm sát viên, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự và những người tham gia tố tụng khác xem họ có còn
yêu cầu hỏi vấn đề gì nữa không. Trường hợp có người yêu cầu và
xét thấy yêu cầu đó là có căn cứ thì chủ tọa phiên tòa quyết định tiếp
tục việc hỏi.
b2. Thủ tục tranh luận tại phiên toà phúc thẩm
Kết thúc việc hỏi, chủ toạ phiên toà tuyên bố chuyển sang phần
tranh luận để người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự,
đương sự và những người tham gia tố tụng khác lần lượt trình bày ý
kiến của mình về việc đánh giá chứng cứ, đề xuất hướng giải quyết
vụ án. Tại phiên tòa phúc thẩm, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự chỉ được tranh luận về những vấn đề thuộc
phạm vi xét xử phúc thẩm và đã được hỏi tại phiên tòa phúc thẩm.
Trình tự tranh luận đối với kháng cáo, kháng nghị được thực hiện
như sau:
* Đối với vụ án có kháng cáo:
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người kháng cáo
trình bày. Người kháng cáo có quyền bổ sung ý kiến; Người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tranh luận, đối đáp. Đương sự
có quyền bổ sung ý kiến;
* Đối với vụ án có kháng nghị:
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phát biểu
về tính hợp pháp, tính có căn cứ hay không của kháng nghị. Đương sự
có quyền bổ sung ý kiến; Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về những vấn

444
đề mà người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đương
sự đã nêu.
Sau khi nghe ý kiến tranh luận của các bên nếu thấy cần thiết,
Hội đồng xét xử có thể yêu cầu các đương sự tranh luận bổ sung
về những vấn đề cụ thể để làm căn cứ giải quyết vụ án (Điều 305
BLTTDS 2015).
Nếu các đương sự không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp thì họ tự mình tranh luận và đối đáp với những người tham gia
tố tụng khác.
Trường hợp vắng mặt một trong các đương sự và vắng mặt người
tham gia tố tụng khác thì chủ tọa phiên tòa phải công bố lời khai của
người vắng mặt để các đương sự có mặt tại phiên tòa thực hiện việc
tranh luận và đối đáp với ý kiến của người vắng mặt.
Sau khi kết thúc phần tranh luận và đối đáp, đại diện Viện kiểm
sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân
theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai đoạn phúc
thẩm và giải quyết kháng cáo, kháng nghị.
Sau khi nghe ý kiến của Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nghị án.
b3. Nghị án, tuyên án và soạn thảo bản án phúc thẩm
* Nghị án và tuyên án
Hội đồng xét xử nghị bàn tại phòng nghị án theo nguyên tắc độc
lập chỉ tuân theo pháp luật và quyết định theo ý kiến đa số thành viên
của Hội đồng.
Thủ tục nghị án, trở lại việc hỏi, tranh luận, thời gian nghị án,
tuyên án, sửa chữa, bổ sung bản án phúc thẩm được thực hiện như thủ
tục xét xử sơ thẩm.
Khi nghị án, Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền quyết định
(Điều 308 BLTTDS 2015):
- Giữ nguyên bản án sơ thẩm;

445
- Sửa bản án sơ thẩm;
- Hủy bản án sơ thẩm, hủy một phần bản án sơ thẩm và chuyển hồ
sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm;
- Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án;
- Đình chỉ xét xử phúc thẩm;
- Tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án khi có văn bản của Chánh
án TANDTC kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét sửa
đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái
với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết
của Ủy ban thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ
quan nhà nước cấp trên cho đến khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền
có văn bản trả lời Tòa án kết quả xử lý.
Sau khi nghị án, Hội đồng xét xử tuyên án, thường là chủ tọa
phiên toà hoặc một thành viên Hội đồng xét xử công bố toàn văn bản
án. Đối với trường hợp xử kín thì Hội đồng xét xử có thể tóm tắt bản
án, nhưng phần quyết định của bản án phải được tuyên công khai.
Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm cụ thể như sau:
- Giữ nguyên bản án sơ thẩm
Khi Tòa án cấp sơ thẩm đã thu thập chứng cứ đầy đủ và ra bản án
đúng pháp luật, tại cấp phúc thẩm không có tình tiết nào mới thì Hội
đồng xét xử phúc thẩm sẽ quyết định giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Sửa bản án sơ thẩm
Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa một phần hoặc toàn bộ bản án sơ
thẩm trong các trường hợp sau:
+ Tại cấp phúc thẩm các đương sự có sự thỏa thuận được với
nhau về việc giải quyết vụ án và thỏa thuận của họ là tự nguyện, không
vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội thì Hội đồng
xét xử phúc thẩm mở phiên tòa ra bản án phúc thẩm sửa bản án sơ
thẩm, công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

446
+ Tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện đầy đủ việc thu thập chứng cứ
và chứng minh đúng theo quy định của BLTTDS nhưng quyết định và
bản án áp dụng pháp luật không đúng, không đầy đủ, hoặc cách tuyên
án không rõ ràng, bỏ sót tài sản dẫn đến việc khó khăn trong khâu thi
hành án.
+ Việc thu thập chứng cứ và chứng minh chưa được thực hiện
đầy đủ ở cấp sơ thẩm nhưng tại cấp phúc thẩm và tại phiên tòa phúc
thẩm đã được bổ sung đầy đủ.
- Hủy bản án sơ thẩm
Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm, hủy một phần
bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải
quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm nếu:
+ Việc thu thập chứng cứ và chứng minh của Tòa án cấp sơ thẩm
không thực hiện theo đúng quy định của BLTTDS hoặc chưa được
thực hiện đầy đủ mà tại phiên tòa phúc thẩm không thể thực hiện bổ
sung được.
+ Thành phần của Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng quy định
của BLTTDS hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải
quyết vụ án nếu:
+ Nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước khi mở phiên tòa hoặc tại
phiên tòa phúc thẩm mà được bị đơn đồng ý chấp nhận việc rút đơn
khởi kiện của nguyên đơn.
+ Trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm, vụ án
thuộc một trong các trường hợp được quy định tại Điều 217 BLTTDS
2015 dẫn đến việc phải đình chỉ việc giải quyết vụ án.
- Đình chỉ xét xử phúc thẩm
Hội đồng xét xử phúc thẩm đình chỉ xét xử phúc thẩm và giữ
nguyên bản án sơ thẩm khi người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo

447
hoặc Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị. Trong trường hợp này, bản
án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật từ ngày Tòa án cấp phúc
thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm.
Thẩm phán cần lưu ý nếu người kháng cáo rút toàn bộ kháng
cáo, Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị trước khi Tòa án cấp phúc
thẩm ra quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm thì Thẩm phán
được phân công làm chủ tọa phiên tòa ra quyết định đình chỉ xét xử
phúc thẩm. Nếu người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo, Viện kiểm
sát rút toàn bộ kháng nghị sau khi Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết
định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm hoặc tại phiên tòa phúc thẩm
thì việc ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm do Hội đồng xét xử
phúc thẩm quyết định.
Trường hợp người kháng cáo đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai
mà không có mặt theo quy định tại khoản 3 Điều 296 của BLTTDS
2015 thì Hội đồng xét xử phúc thẩm đình chỉ xét xử phúc thẩm và
giữ nguyên bản án sơ thẩm trừ trường hợp trong vụ án có người khác
kháng cáo hoặc Viện kiểm sát kháng nghị.
* Kỹ năng soạn thảo bản án phúc thẩm
Hội đồng xét xử phúc thẩm ra bản án phúc thẩm nhân danh nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo quy định của Điều 313
BLTTDS 2015, bao gồm các nội dung: Phần mở đầu; phần nội dung
vụ án, kháng cáo, kháng nghị và nhận định; phần quyết định.
- Phần mở đầu của bản án phúc thẩm phải ghi rõ tên của Tòa án
xét xử phúc thẩm; số và ngày thụ lý vụ án; số bản án và ngày tuyên
án; họ, tên của các thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa,
Kiểm sát viên, người giám định, người phiên dịch; tên, địa chỉ của
nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, cơ quan,
tổ chức, cá nhân khởi kiện; người đại diện hợp pháp, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của họ; người kháng cáo, Viện kiểm sát
kháng nghị; xét xử công khai hoặc xét xử kín; thời gian và địa điểm
xét xử.

448
- Phần nội dung vụ án, kháng cáo, kháng nghị và nhận định phải
tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm; nội dung
kháng cáo, kháng nghị.
Tòa án phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại
phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa để phân tích, đánh giá, nhận
định về kháng cáo, kháng nghị, các tình tiết của vụ án, việc giải quyết,
xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm, những căn cứ pháp luật mà Tòa án áp
dụng, nếu vụ án thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 4 của
BLTTDS 2015 thì còn phải căn cứ vào tập quán, tương tự pháp luật,
những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ hoặc lẽ công
bằng, để chấp nhận hoặc không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và
giải quyết các vấn đề khác có liên quan.
- Phần quyết định phải ghi rõ các căn cứ pháp luật, quyết định
của Hội đồng xét xử về từng vấn đề phải giải quyết trong vụ án, về áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, án phí sơ thẩm, phúc thẩm, chi phí
tố tụng (nếu có).
Thẩm phán cần lưu ý đối với trường hợp xét xử lại vụ án mà bản
án, quyết định đã bị hủy một phần hoặc toàn bộ theo quyết định giám
đốc thẩm, tái thẩm thì cần chú ý đến việc giải quyết vấn đề tài sản,
nghĩa vụ đã được thi hành (nếu có) theo bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật nhưng bị hủy và ghi rõ trong bản án. Bản án phúc thẩm có
hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Như vậy, về cơ bản bản án phúc thẩm được cơ cấu gồm ba phần
giống như đối với bản án sơ thẩm, tuy nhiên tùy vào việc Hội đồng xét
xử chấp nhận kháng cáo, không chấp nhận kháng cáo tương ứng với
thẩm quyền của Hội đồng xét xử trong từng trường hợp giữ nguyên
án sơ thẩm, sửa hoặc hủy án sơ thẩm thì phần nội dung và phần quyết
định của bản án phúc thẩm sẽ có những điểm khác với bản án sơ thẩm.
Ví dụ:
Vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng T và vợ
chồng bà H ông S trú tại phố N quận L thành phố H.

449
Bà H và ông S vay tiền tại ngân hàng T theo Hợp đồng tín dụng số
07102013-004-CN ngày 16/10/2013: số tiền vay: 2.500.000.000đ;
thời hạn vay: 168 tháng; mục đích sử dụng tiền vay: mua bất động
sản; lãi suất cho vay (trong hạn) tại thời điểm giải ngân đầu tiên là
6%/năm. Mức lãi suất này sẽ được thay đổi theo phương thức: mức
lãi suất 0,6%/năm được cố định trong 6 tháng kể từ ngày giải ngân
đầu tiên. Lãi suất cho vay sẽ được điều chỉnh kỳ đầu tiên vào ngày
16/4/2014, kỳ thứ hai vào ngày 01/7/2014. Sau đó sẽ được điều
chỉnh 03 tháng/01 lần vào các ngày 01/01, 01/4, 01/7 và 01/10
hàng năm. Mức điều chỉnh bằng lãi suất bán vốn của bên Ngân
hàng tương ứng với kỳ hạn vay tại thời điểm điều chỉnh cộng biên
độ 5,5%/năm. Lãi suất quá hạn bằng 150% mức lãi suất trong hạn
kể từ thời điểm phát sinh nợ quá hạn.
Tài sản bảo đảm cho khoản vay là: Quyền sử dụng đất và tài
sản gắn liền với đất tại thửa đất số 51(2), tờ bản đồ số 04, tại phố
N, quận L, thành phố H thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông
S và bà H theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban
nhân dân quận L cấp ngày 24/11/2006 theo Hợp đồng thế chấp
số 2065/2013 quyển số 04-2013 ngày 12/10/2013 tại Văn phòng
công chứng K và đã đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định
của pháp luật.
Quá trình thực hiện hợp đồng, bà H, ông S đã vi phạm nghĩa
vụ trả nợ đối với Ngân hàng kể từ ngày 25/4/2014 và phải chịu lãi
suất nợ quá hạn theo thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
Nay Ngân hàng yêu cầu Toà buộc bà H, ông S phải thanh toán
trả toàn bộ số tiền nợ gốc, nợ lãi, phạt chậm trả và các khoản phí
phát sinh khác có liên quan, tính đến hết ngày xét xử sơ thẩm gồm
Nợ gốc: 2.060.600.000đ; Nợ lãi và phạt chậm trả: 783.799.195đ;
Tổng cộng: 2.844.399.195đ.
Đề nghị Toà tiếp tục cho tính lãi suất theo đúng thoả thuận
trong các Hợp đồng tín dụng trên cho đến ngày bà H, ông S thực tế
thanh toán hết nợ cho Ngân hàng, trường hợp bà H, ông S không
trả được nợ thì Ngân hàng có quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án

450
dân sự tiến hành kê biên, phát mại tài sản thế chấp của bà H, ông
S để thu hồi nợ.
Ông S, bà H xác nhận có vay Ngân hàng số tiền theo hợp đồng
tín dụng nêu trên, do chưa bán được bất động sản và kinh doanh
gặp khó khăn nên chưa có tiền trả cho Ngân hàng như thỏa thuận
trong hợp đồng, đề nghị Ngân hàng cho giãn nợ, xóa bỏ lãi suất,
gia đình sẽ cố gắng trả tiền gốc cho Ngân hàng trong thời hạn
hai năm.
Bản án sơ thẩm của Tòa án quận L đã áp dụng các quy định của
BLDS, các quy định của Chính phủ và Ngân hàng về quy chế cho
vay của tổ chức tín dụng, xử và quyết định:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng T đối với ông S,
bà H.
- Buộc ông S, bà H phải thanh toán trả cho Ngân hàng số tiền
là: 2.844.399.195đ tính đến ngày xét xử sơ thẩm gồm: Nợ gốc:
2.060.600.000đ; Nợ lãi và phạt chậm trả: 783.799.195đ;
- Ông S, bà H phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi suất kể từ sau
ngày tuyên bản án sơ thẩm đối với khoản nợ gốc cho đến khi thực
tế thanh toán hết khoản nợ theo mức lãi suất đã thoả thuận trong
Hợp đồng tín dụng.
- Trường hợp ông S, bà H không trả được khoản nợ trên thì
Ngân hàng có quyền yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm
quyền kê biên và tổ chức phát mại tài sản thế chấp để thu hồi toàn
bộ khoản nợ cho Ngân hàng bao gồm khối tài sản là Quyền sử
dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 51(2), tờ bản
đồ số 04, tại phố N, quận L, thành phố H thuộc quyền sở hữu và sử
dụng của ông S và bà H theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
do Ủy ban nhân dân quận L cấp ngày 24/11/2006 theo Hợp đồng
thế chấp số 2065/2013 quyển số 04-2013 ngày 12/10/2013 tại Văn
phòng công chứng K.
Bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo cho các
đương sự.

451
Trong thời hạn luật định ông S, bà H kháng cáo toàn bộ bản án
sơ thẩm, đề nghị cấp phúc thẩm hủy án sơ thẩm do không đưa các
con, cháu của ông S, bà H là những người hiện đang đăng ký hộ
khẩu và sinh sống tại nhà đất mà ông S, bà H đã thế chấp để vay
tiền ngân hàng.
Theo nội dung bản án sơ thẩm chúng ta thấy Tòa án cấp sơ thẩm
đã có sai sót về tố tụng và nội dung như sau:
- Về tố tụng: thu thập chứng cứ chưa đầy đủ, đưa thiếu người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng.
- Về nội dung: cấp sơ thẩm không bóc tách các khoản lãi trong
hạn, lãi quá hạn? lãi phạt cụ thể là bao nhiêu? Theo hướng dẫn tại Văn
bản số 1335/NHNN-CSTT ngày 22/02/2010, Ngân hàng nhà nước
hướng dẫn về việc phạt chậm trả đối với nợ quá hạn như sau: “Các tổ
chức tín dụng áp dụng lãi suất nợ quá hạn theo quy định tại khoản 2
Điều 11 quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban
hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001;
theo đó, mức lãi suất áp dụng đối với khoản nợ quá hạn do tổ chức tín
dụng ấn định và thỏa thuận với khách hàng trong hợp đồng tín dụng
nhưng không vượt quá 150% lãi suất cho vay áp dụng trong thời hạn
cho vay”. Theo quy định này thì không được phạt lãi nhiều lần (lãi
chồng lãi) về cùng một vi phạm trong hợp đồng tín dụng, do đó cần
xác định rõ các khoản lãi trong hạn, lãi quá hạn theo hợp đồng để buộc
vợ chồng ông S, bà H thanh toán trả cho ngân hàng. Khoản lãi phạt
chậm trả ông S, bà H không phải chịu. Ngoài ra việc buộc ông S, bà H
phải tiếp tục chịu lãi suất kể từ sau ngày tuyên bản án sơ thẩm đối với
khoản nợ gốc cho đến khi thanh toán hết khoản nợ theo mức lãi suất
đã thoả thuận trong Hợp đồng tín dụng là chưa đúng với quy định tại
khoản 2 Điều 305 BLDS 2005 về trách nhiệm dân sự do chậm thực
hiện nghĩa vụ dân sự. Điều luật quy định bên có nghĩa vụ chậm trả tiền
thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân
hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm
thanh toán.

452
Như vậy khi soạn thảo bản án sẽ có 2 khả năng xảy ra:
Thứ nhất: Căn cứ khoản 2 Điều 308 và 2 Điều 309 BLTTDS,
không chấp nhận kháng cáo của ông S, bà H, sửa một phần bản án sơ
thẩm về các nội dung nêu trên nếu Tòa cấp phúc thẩm đã thu thập bổ
sung được chứng cứ và đưa thêm những người có quyền lợi, nghĩa vụ
có liên quan vào tham gia tố tụng tại cấp phúc thẩm.
Thứ hai: Căn cứ khoản 3 Điều 308 và khoản 1 Điều 310 BLTTDS,
chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông S, bà H, hủy bản án sơ thẩm và
chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo
thủ tục sơ thẩm vì việc thu thập chứng cứ và chứng minh chưa được
thực hiện đầy đủ mà tại phiên tòa phúc thẩm không thể thực hiện bổ
sung được.
Tùy vào kết quả của việc thu thập tài liệu, chứng cứ trong giai
đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm mà Thẩm phán phải nêu rõ nhận
định và căn cứ của Hội đồng xét xử trong phần nội dung bản án
phúc thẩm theo hướng chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu của
người kháng cáo.
* Dự kiến một số tình huống có thể phải xử lý tại phiên tòa
phúc thẩm
Quá trình nghiên cứu hồ sơ và tiến hành các thủ tục chuẩn bị mở
phiên tòa phúc thẩm Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa
cần đánh giá đặc điểm, tính chất phúc tạp của vụ án để dự liệu một số
tình huống có thể xảy ra gây trở ngại cho quá trình xét xử tại phiên tòa
phúc thẩm để chủ động chuẩn bị xử lý tình huống.
Một số tình huống thực tiễn có thể xảy ra tại phiên tòa phúc thẩm
phải giải quyết:
- Cần công bố công khai các tài liệu liên quan đến vấn đề kỹ thuật
như đĩa CD, đĩa VCD, lời khai của đương sự được ghi lại qua băng,
đĩa… Thẩm phán phải liên hệ với bộ phận phụ trách kỹ thuật của Văn
phòng Tòa án để chuẩn bị trước các phương tiện kỹ thuật tương ứng

453
cần sử dụng tại phòng xét xử như màn hình, máy chiếu, đầu đọc băng
đĩa, loa đài…
- Có phóng viên báo chí, truyền hình tác nghiệp tại phiên tòa,
Thẩm phán cần tìm hiểu và nắm rõ các quy định của Luật báo chí để
các bộ phận có liên quan của Tòa án cùng phối hợp với các cơ quan
truyền thông, cơ quan báo chí và các phóng viên thực hiện đúng các
quy định của Luật báo chí, BLTTDS, BLDS. Thực tế đã có trường hợp
một trong các bên đương sự kiên quyết không đồng ý cho phóng viên
báo chí ghi hình, chụp ảnh và đưa thông tin cá nhân của họ trên các
phương tiện thông tin đại chúng.
- Dự kiến có khả năng các đương sự sẽ gây mất trật tự tại phiên
tòa, Thẩm phán phải đề xuất lực lượng hỗ trợ bảo vệ phiên tòa gồm
Cảnh sát tư pháp phối hợp với nhân viên bảo vệ để giám sát thành phần
tham gia phiên tòa, phân bổ chỗ ngồi hợp lý giảm thiểu tốt đa nguy cơ
xảy ra xung đột ngay trong những người tham dự phiên tòa.
- Vấn đề sức khỏe của đương sự, nếu trong vụ án có đương sự là
người cao tuổi hoặc tiền sử có bệnh mãn tính… Thẩm phán cần hướng
dẫn họ làm thủ tục ủy quyền hoặc nhờ Luật sư đại diện, trường hợp
những người này trực tiếp tham gia phiên tòa thì cần chuẩn bị nhân
viên y tế thường trực để có thể ứng cứu khi cần thiết.
2.2.3. Kỹ năng phúc thẩm quyết định của Toà án cấp sơ thẩm bị
kháng cáo, kháng nghị
Theo quy định tại Điều 314 BLTTDS 2015 khi xét các quyết định
của Toà án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị Hội đồng cấp phúc
thẩm không phải mở phiên toà, không phải triệu tập các đương sự, trừ
trường hợp Hội đồng cấp phúc thẩm xét thấy cần phải nghe ý kiến của
họ trước khi ra quyết định.
Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án phúc thẩm, Tòa
án phải mở phiên họp phúc thẩm để xem xét quyết định của Toà án cấp
sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị, trường hợp có lý do chính đáng thì
thời hạn này là 02 tháng.

454
- Thành phần tham gia phiên họp xét quyết định bị kháng cáo,
kháng nghị có:
+ Hội đồng phúc thẩm gồm ba Thẩm phán;
+ Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp;
+ Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên họp.
Thẩm phán lưu ý trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt tại phiên
họp thì Tòa án vẫn tiến hành phiên họp, trừ trường hợp Viện kiểm sát
có kháng nghị đối với quyết định sơ thẩm.
- Thẩm quyền của Hội đồng phúc thẩm: khi xem xét quyết định
của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị Hội đồng phúc thẩm
có quyền:
+ Giữ nguyên quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm;
+ Sửa quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm;
+ Hủy quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án
cho Tòa án cấp sơ thẩm để tiếp tục giải quyết vụ án.
- Trình tự, thủ tục giải quyết tại phiên họp phúc thẩm:
Một thành viên của Hội đồng phúc thẩm trình bày tóm tắt nội
dung quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị, nội dung của kháng
cáo, kháng nghị và tài liệu, chứng cứ kèm theo (nếu có).
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc
giải quyết kháng cáo, kháng nghị trước khi Hội đồng phúc thẩm
ra quyết định.
Hội đồng phúc thẩm thảo luận và quyết định theo đa số.
Quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định.
2.3. Kỹ năng của Kiểm sát viên trong thủ tục giải quyết vụ án
dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm
2.3.1. Kỹ năng kháng nghị phúc thẩm
Chúng ta có thể thấy một trong những chức năng quan trọng nhất

455
của VKSND trong việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng nói
chung cũng như chức năng giám sát công tác giải quyết vụ án dân sự
của Tòa án cấp sơ thẩm là việc kháng nghị phúc thẩm đối với bản án,
quyết định dân sự sơ thẩm của Toà án.
Kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát góp phần phát hiện và
khắc phục vi phạm trong quá trình giải quyết vụ, việc dân sự, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, của Nhà nước và bên thứ
ba tại giai đoạn xét xử sơ thẩm.
Để thực hiện tốt kỹ năng kháng nghị phúc thẩm, Kiểm sát viên
cần hiểu rõ về phạm vi, thời hạn cũng như thẩm quyền của Viện kiểm
sát có quyền kháng nghị phúc thẩm đối với những văn bản nào do Tòa
án ban hành.
* Phạm vi kháng nghị phúc thẩm
Điều 278 BLTTDS 2015 quy định Viện kiểm sát có quyền kháng
nghị các bản án của Toà án cấp sơ thẩm và kháng nghị phúc thẩm đối
với các quyết định đình chỉ, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ
án dân sự của Toà án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm
giải quyết lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm. Như vậy, ngoài bản án sơ
thẩm, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết vụ án của Tòa
án cấp sơ thẩm thì các quyết định khác của Tòa án cấp sơ thẩm được
ban hành tại giai đoạn sơ thẩm Viện kiểm sát không có quyền ra quyết
định kháng nghị.
* Thẩm quyền ban hành quyết định kháng nghị
BLTTDS 2015 quy định người có thẩm quyền ký kháng nghị
phúc thẩm tại Điều 278 là Viện trưởng VKSND cùng cấp và Viện
trưởng VKSND cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án, quyết
định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Toà án cấp sơ
thẩm để yêu cầu Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục
phúc thẩm. Theo quy định này thì thẩm quyền ban hành quyết định
kháng nghị phúc thẩm được thực hiện như sau:

456
- Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng VKSND cấp huyện được
Viện trưởng uỷ nhiệm kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm những bản
án, quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án chưa
có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp huyện.
- Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng VKSND cấp tỉnh được Viện
trưởng uỷ nhiệm kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm những bản án,
quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án chưa có
hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp tỉnh và Toà án nhân dân
cấp huyện.
- Viện trưởng VKSND tối cao uỷ quyền cho Viện trưởng VKSND
cấp cao thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án, quyết định đình chỉ, quyết
định tạm đình chỉ giải quyết vụ án chưa có hiệu lực pháp luật của Toà
án nhân dân cấp tỉnh.
* Thời hạn kháng nghị
Kháng nghị phúc thẩm đối với việc giải quyết các vụ án dân
sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động được
BLTTDS 2015 quy định có thời hạn dài ngắn khác nhau đối với các
cấp Viện kiểm sát tương ứng với các hình thức là bản án hay quyết
định sơ thẩm, cụ thể như sau:
- Đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm: thời hạn kháng nghị của
Viện kiểm sát cùng cấp là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp
là 01 tháng, kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp Kiểm sát viên không tham gia phiên tòa thì thời hạn
kháng nghị tính từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được bản án
(khoản 1 Điều 280).
- Đối với quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ giải
quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm: thời hạn kháng nghị của Viện
kiểm sát cùng cấp là 07 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là

457
10 ngày, kể từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được quyết định
(khoản 2 Điều 280).
Kiểm sát viên cần lưu ý: trường hợp khi Tòa án cấp sơ thẩm
có yêu cầu Viện kiểm sát giải thích lý do của việc Viện kiểm sát ra
quyết định kháng nghị đã quá thời hạn theo luật định tại Điều 280
BLTTDS 2015, thì Kiểm sát viên phải báo cáo lãnh đạo để ban hành
văn bản trả lời Tòa án về lý do của việc ra quyết định kháng nghị chậm
hơn so với thời hạn theo luật định.
Do tính chất của các bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật ngay và có thể bị kháng cáo, kháng nghị nên ngay sau khi
kết thúc phiên tòa sơ thẩm hoặc sau khi nhận được quyết định dân sự
sơ thẩm của Toà án, Kiểm sát viên phải nghiên cứu, đánh giá nội dung
của bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm để phát hiện xem bản
án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm có vi phạm các quy định của
pháp luật không. Sau khi xác định được các vi phạm của bản án, quyết
định sơ thẩm giải quyết vụ án dân sự theo các điểm, khoản, điều của
văn bản pháp luật nào thì Kiểm sát viên được phân công kiểm sát quá
trình giải quyết vụ án phải chuẩn bị dự thảo kháng nghị để báo cáo với
người có thẩm quyền kháng nghị biết và quyết định có ra quyết định
kháng nghị hay không.
* Quyết định kháng nghị
Văn bản kháng nghị của Viện kiểm sát có hình thức và nội dung
theo đúng quy định của Điều 279 BLTTDS 2015, cụ thể như sau:
- Ngày, tháng, năm ra quyết định kháng nghị và số của quyết định
kháng nghị;
- Tên của Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị;
- Kháng nghị toàn bộ hoặc phần của bản án, quyết định của Tòa
án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật;
- Lý do của việc kháng nghị và yêu cầu của Viện kiểm sát;

458
- Họ, tên của người ký quyết định kháng nghị và đóng dấu của
Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị.
Ngoài những nội dung nêu trên khi soạn thảo văn bản kháng
nghị, Kiểm sát viên cần lưu ý việc trình bày sự việc và các vấn đề phải
chính xác, ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu. Nếu cần viện dẫn các quy phạm
pháp luật thì phải ghi đúng trích yếu nội dung văn bản, số ký hiệu văn
bản, ngày, tháng, năm ban hành văn bản và cơ quan, tổ chức đã ban
hành văn bản pháp luật đó.
Tại phần lý do của việc kháng nghị phải thể hiện rõ nội dung vụ
việc, phân tích các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ đối chiếu với bản án,
quyết định sơ thẩm để xác định chính xác các vi phạm pháp luật của
bản án, quyết định sơ thẩm, từ đó chỉ rõ căn cứ để kháng nghị toàn bộ
hay phần nào của bản án, quyết định của Toà án sơ thẩm chưa có hiệu
lực pháp luật.
Do BLTTDS 2015 không có quy định cụ thể về căn cứ kháng
nghị phúc thẩm nên Viện kiểm sát có thể kháng nghị phúc thẩm đối
với mọi bản án, quyết định sơ thẩm (trong phạm vi kháng nghị) có vi
phạm về pháp luật mà không phân biệt vi phạm đó là vi phạm pháp
luật về nội dung hay vi phạm pháp luật về hình thức (thủ tục tố tụng).
Thực tiễn cho thấy Viện kiểm sát thường kháng nghị phúc thẩm
đối với những bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng về
thủ tục tố tụng.
Đối với những vi phạm khác trong các vụ án dân sự (chủ yếu về
nội dung), Viện kiểm sát thường không kháng nghị mà dành quyền cho
các đương sự thực hiện việc kháng cáo hay không kháng cáo bản án và
quyết định sơ thẩm có vi phạm đó nhằm đảm bảo nguyên tắc tôn trọng
quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự.
Sau khi nêu rõ lý do việc kháng nghị, nội dung quyết định kháng
nghị phải nêu rõ yêu cầu của Viện kiểm sát, quan điểm và hướng giải
quyết vụ án dân sự ở Tòa án cấp phúc thẩm theo quy định về thẩm

459
quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo quy định tại Điều 308,
Điều 314 BLTTDS 2015.
Tuỳ thuộc vào nội dung kháng nghị Viện kiểm sát đưa ra yêu cầu
và quan điểm, hướng giải quyết vụ án dân sự ở Tòa án cấp phúc thẩm
theo một trong những hướng sau:
- Sửa bản án, quyết định sơ thẩm;
- Huỷ bản án, quyết định sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Toà
án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án;
- Huỷ bản án, quyết định sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án.
Theo quy định của khoản 2 Điều 21 BLTTDS 2015 thì Viện kiểm
sát chỉ tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự do Tòa án
tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công,
lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có đương sự là người
chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi hoặc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 4 BLTTDS 2015,
vì vậy, để có thể thực hiện tốt quyền kháng nghị phúc thẩm thì Viện
kiểm sát phải giám sát việc chuyển giao đầy đủ, kịp thời các bản án và
quyết định sơ thẩm của Toà án cấp sơ thẩm, nếu Tòa án cấp sơ thẩm
có sự chậm trễ trong việc chuyển giao bản án, quyết định sơ thẩm thì
Kiểm sát viên cần đôn đốc nhắc nhở kịp thời, trong trường hợp cần
thiết phải ban hành văn bản liệt kê đầy đủ những bản án, quyết định
mà Tòa án chuyển giao cho Viện kiểm sát không đúng thời hạn theo
luật định.
Trường hợp Viện kiểm sát cùng cấp tham gia phiên toà xét xử
sơ thẩm nếu thấy bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án có vi phạm
thì Kiểm sát viên phải báo cáo ngay với Viện trưởng cùng cấp về nội
dung, diễn biến phiên toà cũng như phán quyết của Hội đồng xét xử để
xem xét ban hành quyết định kháng nghị.
Viện kiểm sát không tham gia phiên toà sơ thẩm, nhưng qua

460
nghiên cứu bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án và qua nội dung
kháng cáo của đương sự thấy có dấu hiệu vi phạm trong việc giải quyết
vụ án của Toà án thì Viện kiểm sát yêu cầu Toà án đã xét xử sơ thẩm
chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu theo quy định tại khoản 6
Điều 97 BLTTDS 2015.
Đối với Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp khi thực
hiện quyền kháng nghị cần trao đổi với Viện kiểm sát đã tham gia kiểm
sát giải quyết vụ án dân sự ở cấp sơ thẩm để thống nhất việc xác định
vi phạm của Toà án làm cơ sở cho việc kháng nghị phúc thẩm.
Khi đã xác định rõ về những vi phạm của bản án, quyết định
dân sự sơ thẩm, Kiểm sát viên được phân công kiểm sát quá trình giải
quyết vụ án chuẩn bị dự thảo kháng nghị báo cáo với Viện trưởng Viện
kiểm sát cấp mình để ban hành quyết định kháng nghị.
Quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát phải được gửi ngay cho
Tòa án cấp sơ thẩm đã ra bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng nghị.
Kèm theo quyết định kháng nghị là tài liệu, chứng cứ bổ sung (nếu có)
để chứng minh cho kháng nghị của Viện kiểm sát là có căn cứ và hợp
pháp. Quyết định kháng nghị cũng được gửi cho các đương sự có liên
quan theo quy định của BLTTDS và gửi cho Viện kiểm sát cấp trên
trực tiếp (nếu kháng nghị của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp thì gửi
cho Viện kiểm sát cấp sơ thẩm) để theo dõi.
* Rút kháng nghị, thay đổi, bổ sung kháng nghị
Để bảo đảm cho công tác kháng nghị của Viện kiểm sát được
chính xác, đầy đủ, đúng theo trình tự do BLTTDS quy định, Kiểm sát
viên cần hiểu và nắm vững trình tự, thủ tục về việc thay đổi, bổ sung,
rút kháng nghị theo Điều 284 BLTTDS ở những nội dung sau:
Phạm vi thay đổi, bổ sung kháng nghị:
- Trường hợp chưa hết thời hạn kháng nghị theo quy định tại
Điều 280 của BLTTDS thì việc thay đổi, bổ sung kháng nghị không bị
giới hạn bởi phạm vi kháng nghị ban đầu.

461
- Khi thời hạn kháng nghị nêu trên đã hết thì nội dung thay đổi,
bổ sung kháng nghị không được vượt quá phạm vi kháng nghị ban đầu.
Chủ thể bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị:
- Việc thay đổi, bổ sung kháng nghị thuộc thẩm quyền của Viện
trưởng Viện kiểm sát đã ban hành quyết định kháng nghị.
- Việc rút kháng nghị được thực hiện bởi Viện trưởng Viện kiểm
sát đã ban hành kháng nghị hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên
trực tiếp.             
Thời điểm và hình thức thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị:
- Trước khi mở phiên tòa hoặc phiên họp phúc thẩm, việc thay
đổi, bổ sung, rút kháng nghị phải làm thành văn bản gửi cho Tòa án
cấp phúc thẩm.
Toà án cấp phúc thẩm phải thông báo cho đương sự biết về việc
thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị của Viện kiểm sát.
- Tại phiên tòa hoặc phiên họp phúc thẩm, việc thay đổi, bổ sung,
rút kháng nghị do Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, phiên họp trực tiếp
thực hiện. Việc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị tại phiên toà, phiên
họp phúc thẩm không bắt buộc phải thể hiện bằng văn bản nhưng nội
dung thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị đó phải được ghi vào biên bản
phiên toà, phiên họp phúc thẩm.
Hậu quả của việc rút kháng nghị:
Giống như trường hợp đương sự rút một phần hoặc toàn bộ yêu
cầu kháng cáo, Tòa án cấp phúc thẩm đình chỉ xét xử phúc thẩm đối
với những phần của vụ án mà Viện kiểm sát đã rút kháng nghị.
Ví dụ:
Thay đổi nội dung kháng nghị trong vụ đòi tài sản của TAND
quận H, thành phố HN.
Khoảng tháng 10/2010, bà N có giao cho chị gái là bà T

462
số tiền 650.000.000 đồng, mục đích để mấy anh chị em trong
nhà mua đất cùng bán kiếm lời, ngày 11/11/2012 bà T viết giấy
biên nhận xác nhận đã nhận số tiền 650.000.000 đồng. Ngày
30/5/2014, sau khi bán đất bà T nhờ chồng là ông M chuyển
trả tiền bà N qua tài khoản ngân hàng, số tiền chuyển là
650.357.500 đồng (trong đó 650.000.000 đồng là tiền trả nợ
và 357.500 đồng là phí chuyển tiền qua ngân hàng), do giấy
biên nhận cũ bà N vẫn giữ nên đã khởi kiện đòi bà T trả số tiền
650.000.000 đồng. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là
ông M xác định: ông không vay bà N số tiền 650.000.000 đồng
để mua ô tô như bà N khai. Việc ông chuyển khoản trả bà N
650.000.000 đồng qua ngân hàng ngày 30/5/2014 là tiền bán
đất vợ ông nhờ chuyển trả bà N đã góp cho vợ ông mua đất
trước đây, đề nghị bà N cung cấp chứng cứ việc ông vay tiền
của bà. Ông đã nhận được thông báo của Toà án về việc yêu
cầu độc lập đòi lại số tiền 650.000.000 đồng đã chuyển cho bà
N ngày 30/5/2014, nhưng đây là số tiền ông chuyển hộ vợ ông
nên ông không khởi kiện đòi lại bà N số tiền này.
Bản án sơ thẩm đã xử và quyết định: Chấp nhận đơn yêu cầu khởi
kiện của bà N đối với bà T. Buộc bà T phải hoàn trả cho bà N số tiền
đã nhận là 650.000.000 đồng (sáu trăm năm mươi triệu đồng chẵn).
Ngoài ra bản án còn tuyên về lãi suất chậm thi hành án, về án
phí và quyền kháng cáo cho các đương sự.
Trong thời hạn luật định bà T kháng cáo không đồng ý với quyết
định của bản án sơ thẩm.
VKSND quận H có quyết định kháng nghị đối với bản án sơ thẩm
với nội dung: Bà N không đưa ra được tài liệu chứng minh về việc
cho ông M vay số tiền 650.000.000 đồng để mua ô tô thì phải chịu
hậu quả của việc không chứng minh được đó, nhưng Tòa án sơ thẩm
chỉ căn cứ vào lời khai của bà N (nguyên đơn) để kết luận số tiền ông
M chuyển cho bà N là tiền ông M trả nợ là không đủ căn cứ vững

463
chắc, không khách quan trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ, vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng quy định tại Điều 96 BLTTDS.
Việc bà T nhờ ông M trả hộ tiền cho bà N là phù hợp với quy
định tại khoản 3 Điều 95 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án cấp sơ
thẩm tách việc giải quyết số tiền 650.357.000 đồng ông M chuyển
khoản cho bà N qua ngân hàng ngày 30/5/2014 thành vụ kiện dân
sự khác là không bảo đảm quyền lợi của đương sự, không giải
quyết triệt để vụ án.
Đề nghị Tòa phúc thẩm xét xử lại theo hướng sửa bản án sơ
thẩm, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà N.
Tại phiên tòa, sau khi hỏi, xem xét tài liệu do các đương sự
xuất trình thêm là hồ sơ góp vốn mua nhà đất tại Tập đoàn C và
nghe ý kiến của người đại diện theo ủy quyền của bà N đề nghị
Tòa án giải quyết lại vụ án để đưa tất cả những người cùng góp
vốn mua đất bán kiếm lời vào tham gia tố tụng lấy lời khai làm rõ
chính xác giá mua, bán đất từ đó mới có căn cứ giải quyết chính
xác số tiền buộc bà T phải trả cho bà N, đại diện Viện kiểm sát đã
thay đổi nội dung kháng nghị xác định Tòa án cấp sơ thẩm đã có
vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng trong việc thu thập, đánh
giá chứng cứ, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp đòi tài sản là
không đúng với bản chất của quan hệ pháp luật dẫn tới việc đưa
thiếu người tham gia tố tụng. Đây là những nội dung mà cấp phúc
thẩm không thể khắc phục được do đó đề nghị Hội đồng xét xử căn
cứ khoản 3 Điều 308, khoản 1 Điều 310 BLTTDS hủy toàn bộ bản
án, chuyển hồ sơ vụ án về Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án
theo thủ tục chung.
* Gửi quyết định kháng nghị
Sau khi ban hành quyết định kháng nghị, Viện kiểm sát đã
ban hành quyết định kháng nghị phải gửi ngay quyết định kháng
nghị cho Toà án cấp sơ thẩm đã ra bản án, quyết định sơ thẩm bị

464
kháng nghị để Toà án cấp sơ thẩm tiến hành các thủ tục gửi hồ
sơ vụ án cho Toà án cấp phúc thẩm theo quy định tại Điều 283
BLTTDS 2015. Kèm theo quyết định kháng nghị là tài liệu, chứng
cứ bổ sung (nếu có) để chứng minh cho kháng nghị của Viện kiểm
sát là có căn cứ và hợp pháp. Đồng thời quyết định kháng nghị
cũng phải được gửi ngay cho các đương sự có liên quan đến kháng
nghị (Điều 281 BLTTDS).
2.3.2. Chuẩn bị cho việc tham gia phiên tòa và lập hồ sơ kiểm sát
* Nghiên cứu hồ sơ vụ án
Theo quy định tại các điều 290, 292, 294 BLTTDS 2015, thì sau
khi ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm, Tòa án phải
gửi ngay quyết định và hồ sơ cho Viện kiểm sát cùng cấp để nghiên
cứu. Thời hạn nghiên cứu hồ sơ vụ án của Viện kiểm sát cùng cấp là
15 ngày, kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án, hết thời hạn đó, Viện kiểm sát
phải trả hồ sơ vụ án cho Tòa án.
Kiểm sát viên tham gia phiên toà phúc thẩm phải nghiên cứu hồ
sơ vụ án và lập hồ sơ kiểm sát đối với những trường hợp Viện kiểm
sát tham gia phiên toà; xem xét lý do kháng cáo, kháng nghị, thủ tục
kháng cáo, kháng nghị; đơn khiếu nại của đương sự về việc thu thập
chứng cứ của Toà án ở cấp phúc thẩm (nếu có).
Quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án Kiểm sát viên phải trích cứu
đầy đủ các lời khai của đương sự, những người tham gia tố tụng, các
tài liệu liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị, đề xuất hướng giải
quyết vụ án, báo cáo lãnh đạo Viện cho ý kiến.
Ngoài việc lập hồ sơ kiểm sát để chuẩn bị cho việc tham gia
phiên tòa phúc thẩm, Kiểm sát viên cũng lập hồ sơ kiểm sát thực
hiện chức năng kiểm sát trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa
án cấp phúc thẩm thông qua việc kháng nghị phúc thẩm, cụ thể
như sau:
- Trường hợp Viện kiểm sát không tham gia phiên tòa xét xử

465
sơ thẩm, nhưng sau khi nghiên cứu bản án sơ thẩm của Tòa án cấp
sơ thẩm và kháng cáo của đương sự phát hiện thấy có vi phạm thì
báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát cấp mình để ra văn bản kiến nghị,
nhắc nhở Tòa án khắc phục vi phạm hoặc đề xuất xem xét kháng nghị
phúc thẩm. Nếu đã quá thời hạn kháng nghị đối với bản án sơ thẩm
(15 ngày), thì Kiểm sát viên báo cáo với Lãnh đạo Viện cấp mình để
đề xuất với Viện kiểm sát cấp trên xem xét thực hiện việc kháng nghị.
Trường hợp này, báo cáo kết quả kiểm sát xét xử sơ thẩm phải được
gửi ngay cho Viện kiểm sát cấp trên cùng với bản sao bản án sơ thẩm
của Tòa án cấp sơ thẩm để Viện kiểm sát cấp trên kịp thời xem xét thực
hiện thủ tục kháng nghị.
- Trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm thì
Kiểm sát viên có điều kiện nắm vững nội dung vụ án, diễn biến phiên
tòa cũng như bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm. Nếu phát hiện
có vi phạm thì Kiểm sát viên phải báo cáo ngay Viện trưởng Viện kiểm
sát cấp mình để ra văn bản kiến nghị khắc phục vi phạm hoặc đề xuất
xem xét kháng nghị phúc thẩm.
* Chuẩn bị bài phát biểu
Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên được phân
công tham gia phiên tòa phải trích yếu hồ sơ vụ án, các tài liệu có
liên quan để đưa ra quan điểm về việc giải quyết vụ án và chuẩn
bị đề cương tham gia xét hỏi tại phiên tòa. Kiểm sát viên cần lưu ý
các câu hỏi phải tập trung vào nội dung bản án, quyết định bị kháng
cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng
cáo, kháng nghị và theo dõi diễn biến phiên tòa để tránh đưa ra các
câu hỏi trùng lặp.
Qua nghiên cứu hoặc tại phiên tòa nếu phát hiện kháng nghị của
Viện kiểm sát không đủ căn cứ hoặc không phù hợp với tình tiết của vụ
việc thì Kiểm sát viên đề xuất với Lãnh đạo Viện để thay đổi, bổ sung
hoặc rút một phần hay toàn bộ kháng nghị phúc thẩm.

466
Dự thảo bài phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải
quyết vụ án phải thông qua Lãnh đạo Viện trước khi tham gia phiên
tòa phúc thẩm.
Phần mở đầu dự thảo bài phát biểu Kiểm sát viên phải nêu căn
cứ pháp luật về thẩm quyền của VKSND, tóm tắt nội dung vụ án,
nhận xét, đánh giá tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đánh giá kháng cáo
của đương sự có căn cứ và hợp pháp hay không (viện dẫn pháp luật
áp dụng), nêu những nội dung vi phạm của Tòa án cấp sơ thẩm và căn
cứ kháng nghị; Trong phần đề xuất hướng giải quyết vụ án phải viện
dẫn căn cứ pháp lý cụ thể cần áp dụng để giải quyết vụ án; hướng giải
quyết vụ án phải nêu rõ là đề nghị giữ nguyên, sửa hay hủy bản án sơ
thẩm theo thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm được quy định
tại Điều 308 BLTTDS 2015.
* Lập hồ sơ kiểm sát phúc thẩm
Hồ sơ kiểm sát là hồ sơ vụ án được tóm tắt lại hay còn gọi là tiểu
hồ sơ, hồ sơ phụ… do Kiểm sát viên hoặc Kiểm tra viên giúp việc cho
Kiểm sát viên trực tiếp nghiên cứu hồ sơ vụ án lập ra dựa trên hồ sơ
vụ án do Tòa án xây dựng và thu thập được. Đây là tài liệu có ý nghĩa
quan trọng giúp Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, phiên họp được
thuận lợi; đồng thời cũng có tác dụng trong việc nghiên cứu xây dựng
các chuyên đề nghiên cứu khoa học nghiệp vụ kiểm sát.
Hồ sơ kiểm sát phải phản ánh được nội dung và những tình tiết
của vụ án, quan điểm của Lãnh đạo Viện kiểm sát về vụ án. Tài liệu có
trong hồ sơ phải được sắp xếp thứ tự theo đúng các tiêu mục trên bìa
hồ sơ, được đánh số bút lục theo thứ tự có trích yếu cụ thể đến bút lục
hay tài liệu ngày, tháng nào theo hồ sơ chính của Tòa án để tiện cho
việc đối chiếu, theo dõi.
Kiểm sát viên cùng Kiểm tra viên lập hồ sơ phải ký tên vào
phần cuối của mục lục tài liệu, sau khi kết thúc việc kiểm sát xét xử
phải hoàn chỉnh hồ sơ kiểm sát để nộp lưu chiểu theo quy định của
VKSNDTC.

467
Hồ sơ kiểm sát bao gồm các nội dung chủ yếu sau:
- Văn bản thông báo thụ lý vụ án dân sự của Toà án;
- Đơn khởi kiện, đơn yêu cầu và các tài liệu, chứng cứ kèm theo
đơn khởi kiện, đơn yêu cầu;
- Văn bản ghi ý kiến của bị đơn đối với yêu cầu của người khởi
kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo (nếu có), yêu cầu phản tố của
bị đơn;
- Ý kiến, yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
- Các tài liệu, chứng cứ do Toà án tự thu thập hoặc thu thập theo
yêu cầu của đương sự;
- Khiếu nại của đương sự đối với quyết định áp dụng biện pháp
thu thập chứng cứ của Toà án;
- Quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm
thời của Toà án (nếu có);
- Lời khai của đương sự, người làm chứng, biên bản đối chất,
biên bản hoà giải;
- Quyết định phân công, thay đổi Kiểm sát viên thực hiện
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng, tham gia
phiên toà, phiên họp giải quyết vụ án dân sự của Viện trưởng Viện
kiểm sát;
- Văn bản của Viện kiểm sát yêu cầu Toà án xác minh, thu thập
chứng cứ trên cơ sở khiếu nại của đương sự;
- Bản nhận xét đánh giá chứng cứ có trong hồ sơ vụ án dân sự,
quan điểm về việc giải quyết vụ án dân sự của Kiểm sát viên (Kiểm
tra viên, chuyên viên) được phân công kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong hoạt động tố tụng, tham gia phiên toà giải quyết vụ án
dân sự;
- Bản chuẩn bị về những vấn đề cần hỏi tại phiên toà;

468
- Ý kiến bằng văn bản của lãnh đạo Viện kiểm sát và của Viện
kiểm sát về đường lối giải quyết vụ án dân sự;
- Diễn biến và kết quả phiên toà, phiên họp;
- Bản án, quyết định về giải quyết vụ án dân sự của Toà án cấp
sơ thẩm (quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự, quyết
định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án dân sự,
quyết định đưa vụ án ra xét xử…);
- Kết luận của Viện kiểm sát và kháng nghị của Viện kiểm sát.
Hồ sơ kiểm sát phải được quản lý chặt chẽ theo đúng quy định
của Nhà nước, của Ngành Kiểm sát về quản lý, lưu trữ tài liệu.
2.3.3. Kỹ năng tham gia phiên toà phúc thẩm
Hoạt động của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm được thực
hiện từ khi bắt đầu cho đến khi Hội đồng xét xử tuyên án hoặc ra quyết
định giải quyết vụ án thông qua các nhiệm vụ sau:
* Kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa phúc thẩm
Khi tham gia phiên toà phúc thẩm theo quy định của BLTTDS
Kiểm sát viên phải kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Toà án cấp
phúc thẩm về thành phần Hội đồng xét xử, sự có mặt của những người
tham gia phiên toà phúc thẩm, việc hoãn phiên toà, ghi chép đầy đủ
diễn biến và kết quả phiên toà.
- Kiểm sát việc khai mạc phiên tòa và bắt đầu phiên tòa phúc
thẩm theo quy định tại các điều 237, 239, 240, 241 và 242 BLTTDS;      
- Kiểm sát đối với thành phần Hội đồng xét xử và Thư ký Tòa án
xem có ai bị đương sự đề nghị thay đổi hoặc thuộc vào những trường
hợp phải từ chối hoặc bị thay đổi theo quy định tại các điều 52, 53, 54
BLTTDS;
- Theo dõi thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên tòa theo quy định từ
Điều 243 đến Điều 263 BLTTDS; bảo đảm việc hỏi và tranh luận về
những vấn đề thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm;

469
- Xem biên bản phiên tòa ngay sau khi phiên tòa kết thúc, yêu cầu
ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa và ký xác nhận theo
quy định tại khoản 4 Điều 236 BLTTDS;
- Kiểm sát quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn
cấp tạm thời hoặc việc không ra quyết định áp dụng, thay đổi, hủy
bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời của Hội đồng xét xử tại phiên tòa,
nếu xét thấy không có căn cứ hoặc có vi phạm pháp luật thì kịp thời
kiến nghị.
Kiểm sát viên cần lưu ý, khi tham gia phiên tòa phúc thẩm
ngoài việc hiểu rõ các quy định của pháp luật còn cần có bản lĩnh và
kinh nghiệm nghề nghiệp. Thông qua việc quan sát, ghi chép diễn
biến phiên tòa, đối chiếu với quy định của pháp luật để xác định có
việc vi phạm pháp luật hay không? Nếu có vi phạm, Kiểm sát viên
yêu cầu, kiến nghị Hội đồng xét xử khắc phục kịp thời. Khi đưa ra
các yêu cầu, kiến nghị, tác phong và thái độ của Kiểm sát viên cần
điềm tĩnh, mềm dẻo, tránh gay gắt, nóng nảy ảnh hưởng đến tâm lý
xét xử vụ án dân sự.
* Thực hiện các quyền yêu cầu, trình bày nội dung kháng nghị,
tham gia hỏi
- Nếu vụ án chỉ có Viện kiểm sát kháng nghị thì Kiểm sát viên
trình bày về nội dung kháng nghị và căn cứ của việc kháng nghị (có thể
xuất trình bổ sung tài liệu, chứng cứ). Trường hợp vừa có kháng cáo,
vừa có kháng nghị thì Kiểm sát viên trình bày về nội dung kháng nghị
và căn cứ của việc kháng nghị sau khi nghe các đương sự trình bày về
nội dung kháng cáo và căn cứ của việc kháng cáo.    
- Hỏi đương sự và những người tham gia tố tụng khác để làm sáng
tỏ những tình tiết vụ án theo quy định tại Điều 249, 303 BLTTDS 2015;
nội dung hỏi cần tập trung làm rõ những vấn đề liên quan đến kháng cáo,
kháng nghị (để bảo vệ quan điểm kháng nghị của Viện kiểm sát hoặc
quan điểm của Viện kiểm sát về hướng giải quyết kháng cáo), tránh lặp

470
lại những câu hỏi mà Hội đồng xét xử hoặc những người tham gia tố
tụng khác đã hỏi, căn cứ vào diễn biến tại phiên tòa để điều chỉnh nội
dung hỏi đã chuẩn bị trước và đưa ra câu hỏi khác nhằm làm sáng tỏ
những tình tiết mới phát sinh tại phiên tòa.
- Yêu cầu Hội đồng xét xử công bố tài liệu vụ án theo quy định tại
điểm c khoản 1 Điều 254, khoản 3 Điều 257, Điều 303 BLTTDS 2015;
- Yêu cầu Hội đồng xét xử cho nghe băng, đĩa ghi âm, xem
băng, đĩa ghi hình tại phiên tòa theo quy định tại Điều 255, 303
BLTTDS 2015;
- Đưa ra ý kiến nhận xét về kết luận giám định, hỏi người giám
định về những vấn đề còn chưa rõ hoặc có mâu thuẫn trong kết luận
giám định hoặc có mâu thuẫn với những tình tiết khác của vụ án
(khoản 2 Điều 257 BLTTDS 2015);
- Căn cứ kết quả của việc hỏi tại phiên tòa, tranh luận tại
phiên tòa, Kiểm sát viên điều chỉnh quan điểm tại bản dự thảo của
Viện kiểm sát cho phù hợp với diễn biến của vụ án để phát biểu
trước Tòa.
- Phần ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa cần tóm
tắt ngắn gọn nội dung vụ án, kháng cáo của đương sự, kháng nghị của
Viện kiểm sát (nếu có), yêu cầu của các bên đương sự, đại diện của họ
và những người tham gia tố tụng khác; phân tích những căn cứ để bảo
vệ kháng nghị của Viện kiểm sát (nếu có), những căn cứ để chấp nhận
hoặc không chấp nhận kháng cáo của đương sự và đại diện của họ và đề
xuất quan điểm về việc giải quyết vụ án. Hướng giải quyết vụ án phải
nêu rõ là đề nghị giữ nguyên, sửa hay hủy bản án sơ thẩm theo quy định
tại Điều 308 BLTTDS 2015. Sau khi tham gia hỏi, tranh luận nếu thấy
kháng nghị không có cơ sở bảo vệ hoặc thiếu căn cứ thì Kiểm sát viên
cần xem xét để thực hiện việc thay đổi, bổ sung hoặc rút kháng nghị.
* Phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát tại phiên toà
Điều 306 BLTTDS 2015 quy định sau khi những người tham gia

471
tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, Kiểm sát viên phát biểu ý
kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải
quyết vụ án dân sự ở giai đoạn phúc thẩm.
Kiểm sát viên phải chuẩn bị bản dự thảo ý kiến của Viện kiểm sát
để tham gia phiên toà. Tùy vào diễn biến tại phiên toà, Kiểm sát viên
có thể điều chỉnh lại phần phát biểu của mình cho phù hợp với các hoạt
động tố tụng tại phiên tòa. Nếu có căn cứ thay đổi, bổ sung hoặc rút
kháng nghị tại phiên tòa phúc thẩm, Kiểm sát viên cần liên lạc báo cáo
với Viện trưởng để thực hiện việc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị.
Trường hợp có ý kiến thay đổi thì Kiểm sát viên phải báo cáo ngay với
lãnh đạo đơn vị sau khi phiên tòa kết thúc.
Ngay sau khi kết thúc phiên tòa, Kiểm sát viên phải gửi văn bản
phát biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ việc.
Kiểm sát viên phải tập trung theo dõi nội dung của bản án, quyết
định được Hội đồng xét xử công bố tại phần tuyên án xem có phản ánh
chính xác và đầy đủ kết quả hỏi, tranh luận trước đó tại phiên tòa hay
không, đồng thời phải chú ý nghe xem ý kiến của Kiểm sát viên về việc
giải quyết vụ án có được Hội đồng xét xử chấp nhận hay không.
2.3.4. Hoạt động của Kiểm sát viên sau phiên tòa phúc thẩm
Sau phiên toà phúc thẩm, Kiểm sát viên báo cáo kết quả xét xử
với lãnh đạo Viện; nghiên cứu đề xuất kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm trong trường hợp xét thấy bản án, quyết định có vi phạm
pháp luật nghiêm trọng.
Kiểm sát chặt chẽ việc gửi bản án, quyết định phúc thẩm theo
đúng thời hạn quy định tại Điều 315 BLTTDS 2015.
* Kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm
Khi nhận được bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm,
Kiểm sát viên phải kiểm tra, đối chiếu với ghi chép của mình để phát
hiện những thiếu sót, vi phạm (nếu có); nghiên cứu phần nhận định

472
bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm có phù hợp với các tình
tiết của vụ án hay không, xem xét việc vận dụng pháp luật để giải
quyết vụ án của Tòa án cấp phúc thẩm có đúng không, có phù hợp với
quan điểm của Viện kiểm sát hay không.
* Báo cáo kết quả kiểm sát xét xử phúc thẩm
Báo cáo kết quả kiểm sát xét xử phúc thẩm được làm thành 2 bản,
một bản báo cáo lãnh đạo Viện kiểm sát sau đó lưu hồ sơ kiểm sát, một
bản báo cáo lãnh đạo Viện kiểm sát cấp trên.
Nội dung báo cáo kết quả kiểm sát xét xử phúc thẩm có các nội
dung sau:
- Tóm tắt quá trình xét xử phúc thẩm;
- Nhận xét việc chấp hành thủ tục tại phiên tòa của Hội đồng xét
xử, Thư ký Tòa án, đương sự và những người tham gia tố tụng khác.
- Đánh giá, nhận xét về tính hợp pháp và có căn cứ của bản án,
quyết định phúc thẩm.
- Trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm ra bản án, quyết định khác
với quan điểm của Viện kiểm sát, Kiểm sát viên phải nêu rõ những bất
đồng về quan điểm giữa Hội đồng xét xử và ý kiến phát biểu tại phiên
tòa của Kiểm sát viên, qua đó đề xuất ý kiến, quan điểm của mình tại
báo cáo.
Kiểm sát viên cần lưu ý sau phiên tòa phúc thẩm nếu phát hiện có
nội dung kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm
không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án; có vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng; có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp
dụng pháp luật hoặc khi phát hiện có một trong những căn cứ quy định
tại Điều 326, Điều 352 BLTTDS thì Kiểm sát viên phải chuẩn bị tài
liệu, chứng cứ và làm văn bản đề xuất Viện trưởng Viện kiểm sát cấp
mình để ra văn bản kiến nghị khắc phục vi phạm hoặc đề xuất Lãnh
đạo Viện báo cáo Viện kiểm sát cấp trên xem xét việc kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.

473
Hoàn thiện hồ sơ kiểm sát ở trình tự phúc thẩm và tập hợp, báo
cáo để Viện trưởng kiến nghị với Chánh án Toà án nhân dân cùng cấp
về những vi phạm pháp luật trong việc giải quyết vụ án dân sự để Toà
án khắc phục và có biện pháp phòng ngừa.
3. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
1. Hãy nêu các công việc Luật sư phải thực hiện khi được thân
chủ yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong giai đoạn xét xử
phúc thẩm vụ án dân sự?
2. Kỹ năng soạn thảo đơn kháng cáo phúc thẩm vụ án dân sự?
3. Trình bày các công việc Thẩm phán thực hiện trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự?
4. Kỹ năng điều khiển phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự?
5. Trình bày kỹ năng kháng nghị phúc thẩm vụ án dân sự?
6. Kỹ năng của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm vụ án
dân sự?

474
Chương 8
KỸ NĂNG THAM GIA GIẢI QUYẾT VỤ ÁN
THEO THỦ TỤC RÚT GỌN

Mục tiêu của bài học: Nội dung:


Chương này sẽ trang bị cho người học: 1. Một số vấn đề chung về
Về kiến thức, người học có được sự thủ tục rút gọn
hiểu biết cơ bản về thủ tục tố tụng 2. Kỹ năng của Luật sư, Thẩm
dân sự rút gọn. Có thể vận dụng phán, Kiểm sát viên trong
kiến thức đã học vào công việc thủ tục rút gọn.
thực tiễn. 2.1. Kỹ năng của Luật sư
Về kỹ năng, người học được cung trong thủ tục rút gọn
cấp kỹ năng cho từng chức danh 2.2. Kỹ năng của Thẩm phán
Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên trong thủ tục rút gọn
khi tham gia giải quyết vụ án theo
thủ tục rút gọn. 2.3. Kỹ năng của Kiểm sát
viên trong thủ tục rút gọn
Về thái độ, người học có thái độ,
ứng xử chuẩn mực phù hợp với 3. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
quy tắc nghề nghiệp của Luật sư,
Thẩm phán, Kiểm sát viên khi
tham gia giải quyết vụ án theo thủ
tục rút gọn.
1. Một số vấn đề chung về thủ tục rút gọn
1.1. Bản chất, phạm vi và nguyên tắc áp dụng pháp luật trong
thủ tục rút gọn
Quy định tại Điều 316 BLTTDS 2015 đã xác định bản chất, phạm
vi áp dụng thủ tục rút gọn. Theo đó, thủ tục rút gọn là trình tự đơn giản

475
hơn so với trình tự giải quyết các vụ tranh chấp dân sự thông thường,
được áp dụng để giải quyết nhanh chóng một số vụ án dân sự có đủ
điều kiện nhất định. Khi áp dụng thủ tục rút gọn cần lưu ý là các quy
định tại Phần thứ tư của BLTTDS 2015 về “Giải quyết vụ án dân sự
theo thủ tục rút gọn” sẽ được ưu tiên áp dụng để giải quyết những
tranh chấp thỏa mãn một số điều kiện nhất định, đối với những vấn đề
không được quy định tại Phần này thì các quy định khác của BLTTDS
sẽ được áp dụng để giải quyết tranh chấp. Trường hợp các văn bản
pháp luật khác ngoài BLTTDS 2015 có dẫn chiếu việc áp dụng thủ tục
rút gọn để giải quyết một số tranh chấp dân sự nào đó thì các quy định
tại Phần thứ tư của BLTTDS 2015 về “Giải quyết vụ án dân sự theo
thủ tục rút gọn” sẽ được áp dụng để giải quyết những tranh chấp này.
Chẳng hạn, khoản 2 Điều 41 Luật Bảo vệ người tiêu dùng 2010 đã dẫn
chiếu: “… Vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được
giải quyết theo thủ tục đơn giản quy định trong pháp luật về tố tụng
dân sự...”. Do vậy, các quy định tại Phần thứ tư của BLTTDS 2015 về
“Giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn” sẽ được áp dụng để giải
quyết những tranh chấp này.
1.2. Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn
Khi nhận hồ sơ vụ việc để tư vấn cho đương sự, thụ lý hồ sơ vụ
án hay kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giải quyết vụ án theo thủ
tục rút gọn thì Luật sư hay Thẩm phán, Kiểm sát viên cần nắm vững
các quy định của pháp luật về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn. Theo
quy định tại khoản 1 Điều 317 BLTTDS 2015 thì vụ án sẽ được giải
quyết theo thủ tục rút gọn khi có đủ các điều kiện sau đây:
- Điều kiện thứ nhất: Vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp
luật rõ ràng, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ; tài liệu, chứng cứ đầy
đủ, bảo đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ án và Tòa án không phải thu
thập tài liệu, chứng cứ;
- Điều kiện thứ hai: Các đương sự đều có địa chỉ nơi cư trú, trụ
sở rõ ràng;

476
- Điều kiện thứ ba: Không có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài
sản tranh chấp ở nước ngoài, trừ trường hợp đương sự ở nước ngoài và
đương sự ở Việt Nam có thỏa thuận đề nghị Tòa án giải quyết theo thủ
tục rút gọn hoặc các đương sự đã xuất trình được chứng cứ về quyền sở
hữu hợp pháp tài sản và có thỏa thuận thống nhất về việc xử lý tài sản.
Đối với trường hợp đương sự cố tình giấu địa chỉ thì mặc dù vụ
án không thỏa mãn điều kiện thứ hai: “Các đương sự đều có địa chỉ
nơi cư trú, trụ sở rõ ràng” nhưng nếu có đủ các điều kiện khác theo
quy định tại khoản 1 Điều 317 BLTTDS 2015 thì vụ án vẫn được giải
quyết theo thủ tục rút gọn. Theo đó, đối với vụ án lao động đã được
thụ lý, giải quyết theo thủ tục rút gọn mà người sử dụng lao động có
quốc tịch nước ngoài hoặc người đại diện theo pháp luật của họ đã rời
khỏi địa chỉ nơi cư trú, nơi có trụ sở mà không thông báo cho đương
sự khác, Tòa án biết thì bị coi là trường hợp cố tình giấu địa chỉ. Tòa
án vẫn giải quyết vụ án đó theo thủ tục rút gọn.
Trường hợp vụ án đã được thụ lý giải quyết theo thủ tục rút gọn
nhưng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án, xét thấy có xuất hiện
tình tiết mới làm cho vụ án không còn đủ điều kiện để giải quyết
theo thủ tục rút gọn thì vụ án cần được chuyển sang giải quyết theo
thủ tục thông thường. Thẩm phán cần chủ động nghiên cứu hồ sơ và
lường trước tình huống này để có thể kịp thời ra quyết định chuyển
vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường. Luật sư, Kiểm sát
viên trong quá trình tác nghiệp nếu phát hiện có tình tiết mới làm cho
vụ án không còn đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục rút gọn thì
có thể đề nghị hoặc kiến nghị với Tòa án ra quyết định chuyển vụ án
sang giải quyết theo thủ tục thông thường. Theo quy định tại khoản
3 Điều 317 BLTTDS 2015 thì nếu xuất hiện một trong 06 căn cứ sau
đây thì Tòa án ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ
tục thông thường:
- Phát sinh tình tiết mới mà các đương sự không thống nhất do
đó cần phải xác minh, thu thập thêm tài liệu, chứng cứ hoặc cần phải
tiến hành giám định;

477
- Cần phải định giá, thẩm định giá tài sản tranh chấp mà các
đương sự không thống nhất về giá;
- Cần phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
- Phát sinh người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
- Phát sinh yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập;
- Phát sinh đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở nước
ngoài, yêu cầu xác minh, thu thập chứng cứ ở nước ngoài mà cần phải
thực hiện ủy thác tư pháp.
Việc xuất hiện các tình tiết trên đã làm cho vụ án không còn tính
chất đơn giản, rõ ràng nữa, do vậy, Tòa án cần có thêm thời gian để xác
minh nhằm bảo đảm cho việc giải quyết tranh chấp được chính xác. Đây
là lý do dẫn tới khoản 4 Điều 317 BLTTDS 2015 đã có những quy định
về việc tính lại thời hạn tố tụng. Cụ thể là trường hợp chuyển vụ án sang
giải quyết theo thủ tục thông thường thì thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án
được tính lại kể từ ngày ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo
thủ tục thông thường. Với quy định này có thể giúp Thẩm phán có thêm
thời gian để giải quyết vụ án. Tuy nhiên, đối với Luật sư bảo vệ quyền
lợi cho nguyên đơn thì đây là quy định cần phải cân nhắc để bảo đảm
hiệu quả trong việc bảo vệ quyền lợi cho thân chủ của mình.
1.3. Về quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn và
quyền khiếu nại, kiến nghị
Khi tham gia vụ án theo thủ tục rút gọn thì Luật sư, Thẩm phán,
Kiểm sát viên cần lưu ý những điểm đặc thù của thủ tục này so với
thủ tục tố tụng thông thường về thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, thời
hạn gửi quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn, thời hạn
Tòa án phải gửi hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát và thời hạn Viện kiểm
sát nghiên cứu hồ sơ để chuẩn bị cho việc tham gia phiên tòa theo thủ
tục rút gọn.
Theo quy định tại Điều 203 BLTTDS 2015 thì thời hạn chuẩn bị
xét xử tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình theo thủ tục thông

478
thường được quy định dài hơn so với thủ tục rút gọn. Cụ thể là thời hạn
chuẩn bị xét xử tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình theo thủ tục
thông thường là 04 tháng (hoặc 06 tháng), kể từ ngày thụ lý vụ án; thời
hạn chuẩn bị xét xử tranh chấp về kinh doanh, thương mại và lao động
là 02 tháng (hoặc 03 tháng); thời hạn mở phiên tòa theo thủ tục thông
thường là 01 tháng (hoặc 02 tháng), kể từ ngày có quyết định đưa vụ án
ra xét xử1. Trong khi đó, theo quy định tại khoản 1 Điều 318 BLTTDS
2015 về thủ tục rút gọn thì trong thời hạn không quá 01 tháng, kể từ
ngày thụ lý vụ án, nếu xét thấy vụ tranh chấp có đủ các điều kiện áp
dụng thủ tục rút gọn thì Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án
phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn và mở phiên
tòa xét xử trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày ra quyết định này.
Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn phải bao gồm
những nội dung chính sau đây: Tên Tòa án ra quyết định; Vụ án được
đưa ra xét xử theo thủ tục rút gọn; Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa
chỉ thư điện tử (nếu có) của nguyên đơn, bị đơn hoặc cơ quan, tổ chức,
cá nhân khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; Họ, tên
Thẩm phán, Thư ký Tòa án; họ, tên Thẩm phán dự khuyết (nếu có);
Họ, tên Kiểm sát viên; họ, tên Kiểm sát viên dự khuyết (nếu có); Ngày,
giờ, tháng, năm, địa điểm mở phiên tòa; Xét xử công khai hoặc xét xử
kín; Họ, tên những người được triệu tập tham gia phiên tòa (khoản 2
Điều 318 BLTTDS 2015).
Theo quy định tại khoản 3 Điều 318 BLTTDS 2015 thì quyết
định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn phải được gửi ngay cho
đương sự để họ biết và có thể thực hiện các quyền tố tụng của mình
như quyền khiếu nại về việc áp dụng thủ tục rút gọn, yêu cầu thay đổi
Thẩm phán, Thư ký Tòa án, Kiểm sát viên, quyền tham gia phiên tòa.
Quyết định này cũng phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp
để Viện kiểm sát thực hiện việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
tố tụng dân sự và chuẩn bị cho việc tham gia phiên tòa. Như vậy, cần
lưu ý là quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn phải được
1
Xem thêm quy định tại Điều 203 BLTTDS 2015.

479
gửi ngay cho đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp chứ không phải là
trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định như đối với
quyết định đưa vụ án dân sự ra xét xử đối với các vụ tranh chấp được
giải quyết theo thủ tục thông thường1. Thời hạn Viện kiểm sát nghiên
cứu hồ sơ để chuẩn bị cho việc tham gia phiên tòa theo thủ tục rút gọn
chỉ là 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ, thay vì là 15 ngày
làm việc như đối với các vụ tranh chấp được giải quyết theo thủ tục
thông thường khác2. Hết thời hạn 03 ngày này, Viện kiểm sát phải trả
lại hồ sơ cho Tòa án.
Để bảo đảm quyền tố tụng của đương sự cũng như bảo đảm tuân
thủ pháp luật trong giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn, pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam đã quy định đương sự có quyền khiếu nại và
Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kiến nghị về quyết định đưa vụ án ra
xét xử theo thủ tục rút gọn. Điều 319 BLTTDS 2015 quy định trong
thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định đưa vụ án
ra xét xử theo thủ tục rút gọn, đương sự có quyền khiếu nại, Viện kiểm
sát cùng cấp có quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án đã ra quyết định.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến
nghị về quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn, Chánh án
Tòa án phải ra quyết định giữ nguyên quyết định đưa vụ án ra xét xử
theo thủ tục rút gọn hoặc quyết định hủy quyết định đưa vụ án ra xét xử
theo thủ tục rút gọn và chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông
thường. Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Chánh án Tòa án
là quyết định cuối cùng và phải được gửi ngay cho đương sự, Viện kiểm
sát cùng cấp.
1.4. Về phiên tòa xét xử sơ thẩm theo thủ tục rút gọn
Điều 320 BLTTDS 2015 đã quy định về thủ tục tố tụng dân sự
rút gọn theo hướng đơn giản hóa thủ tục so với thủ tục tố tụng thông
thường. Theo đó, việc đương sự được triệu tập tham gia phiên tòa sơ
thẩm theo thủ tục rút gọn vắng mặt lần thứ nhất có thể không làm cho
1
Xem thêm quy định tại khoản 2 Điều 220 BLTTDS 2015.
2
Xem thêm quy định tại khoản 2 Điều 220 BLTTDS 2015.

480
phiên tòa bị gián đoạn như trong thủ tục tố tụng thông thường1. Theo
quy định tại Điều 320 BLTTDS 2015 thì các đương sự, Kiểm sát viên
Viện kiểm sát cùng cấp phải có mặt tại phiên tòa xét xử theo thủ tục
rút gọn. Trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn
tiến hành xét xử. Đương sự có quyền đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.
Trường hợp bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được
triệu tập hợp lệ mà vắng mặt không có lý do chính đáng thì Thẩm phán
vẫn tiến hành phiên tòa.
Theo quy định tại Điều 11, Điều 14 và Điều 65 BLTTDS 2015
thì nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự, Toà
án xét xử tập thể không được áp dụng với thủ tục tố tụng dân sự rút
gọn. Toàn bộ quy trình hòa giải, xét xử trong thủ tục rút gọn đều do
một Thẩm phán đảm nhiệm. Quy định này phù hợp với những cải
cách của Hiến pháp 2013 về nguyên tắc việc xét xử của Tòa án có
Hội thẩm nhân dân tham gia; nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định
theo đa số. Theo quy định tại khoản 1 và khoản 4 Điều 103 Hiến
pháp 2013 thì: “Việc xét xử sơ thẩm của Toà án nhân dân có Hội
thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn” và “Toà
án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp
xét xử theo thủ tục rút gọn”.
Theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 320 BLTTDS 2015
thì đối với thủ tục rút gọn pháp luật không bắt buộc Thẩm phán phải
tiến hành hòa giải vụ án trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm2 mà
việc hòa giải được kết hợp với việc tiến hành phiên tòa sơ thẩm theo
thủ tục rút gọn. Sau khi Thẩm phán tiến hành thủ tục khai mạc phiên
tòa, Thẩm phán sẽ tiến hành hòa giải (trừ trường hợp không được hòa
giải hoặc không tiến hành hòa giải được). Trường hợp các đương sự
thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì
Thẩm phán ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự
theo quy định tại Điều 212 BLTTDS 2015. Trường hợp các đương sự

1
Xem thêm quy định tại Điều 227 BLTTDS 2015.
2
Xem thêm quy định tại Điều 205 BLTTDS 2015.

481
không thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án
thì Thẩm phán tiến hành xét xử.
Việc trình bày, tranh luận, đối đáp, đề xuất quan điểm về việc
giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn được thực hiện theo quy định
chung tại Mục 3 Chương XIV BLTTDS 2015 về tranh tụng tại phiên
tòa theo thủ tục tố tụng thông thường. Nếu tại phiên tòa mà phát sinh
tình tiết mới quy định tại khoản 3 Điều 317 BLTTDS 2015 làm cho vụ
án không còn đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục rút gọn thì Thẩm
phán xem xét, ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục
thông thường (khoản 4 Điều 320 BLTTDS 2015). Trong trường hợp
này thì thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án được tính lại kể từ ngày ra quyết
định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường1.
1.5. Về thời hạn kháng cáo, kháng nghị đối với bản án, quyết
định sơ thẩm theo thủ tục rút gọn
Theo quy định tại Điều 321 BLTTDS 2015 thì đương sự có
quyền kháng cáo, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị đối với bản án,
quyết định sơ thẩm của Tòa án theo thủ tục rút gọn để yêu cầu Tòa
án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm rút gọn. Bản
án, quyết định theo thủ tục rút gọn đã có hiệu lực pháp luật có thể bị
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm nếu phát hiện có sai
lầm, vi phạm pháp luật hoặc tình tiết mới theo quy định của BLTTDS
2015. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu về tính nhanh chóng, hiệu quả
của việc giải quyết tranh chấp theo thủ tục rút gọn và chống lại việc
lạm quyền kháng cáo của đương sự, nhà lập pháp đã thiết lập các quy
định về thời hạn kháng cáo, kháng nghị đối với bản án, quyết định
theo thủ tục rút gọn trên cơ sở rút ngắn các thời hạn này so với thủ
tục tố tụng thông thường.
Theo quy định tại Điều 322 BLTTDS 2015 thì thời hạn kháng
cáo đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm theo thủ tục
rút gọn là 07 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự không có

1
Xem thêm quy định tại khoản 4 Điều 317 BLTTDS 2015.

482
mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án, quyết
định được giao cho họ hoặc bản án, quyết định được niêm yết. Quy
định mốc tính thời hạn 07 ngày, kể từ ngày tuyên án hoặc ngày bản
án, quyết định được giao cho đương sự hoặc bản án, quyết định được
niêm yết là nhằm tạo điều kiện cho đương sự được biết nội dung bản
án, quyết định của Tòa án có liên quan đến quyền lợi của mình để thực
hiện quyền kháng cáo, đồng thời cũng là giải pháp nhằm chống lại việc
trì hoãn, trốn tránh không nhận bản án, quyết định của Tòa án. Thời
hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với bản án, quyết định
của Tòa án cấp sơ thẩm theo thủ tục rút gọn được rút ngắn chỉ còn là 07
ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp chỉ còn là 10 ngày, kể từ ngày
nhận được bản án, quyết định thay vì là 15 ngày hay 01 tháng đối với
bản án sơ thẩm theo thủ tục tố tụng thông thường1.
1.6. Về chuẩn bị xét xử phúc thẩm theo thủ tục rút gọn
Theo quy định tại khoản 1 Điều 323 BLTTDS 2015 thì trong thời
hạn 01 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án, tuỳ từng trường hợp, Thẩm phán
được phân công giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm ra một trong
các quyết định: tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án; đình chỉ xét xử
phúc thẩm vụ án hoặc đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm. Như vậy, thời
hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm theo thủ tục rút gọn được rút ngắn hơn,
chỉ còn 01 tháng so với thời hạn 02 hoặc 03 tháng trong thủ tục tố tụng
thông thường2.
Nội dung của quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm theo thủ
tục rút gọn được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 323 và Điều
290 BLTTDS 2015. Theo đó, quyết định này phải có các nội dung
chính sau đây: ngày, tháng, năm ra quyết định; tên Tòa án ra quyết
định; vụ án được đưa ra xét xử; tên, địa chỉ của nguyên đơn, bị đơn
hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan; ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm mở phiên tòa; xét xử
công khai hoặc xét xử kín; họ, tên người được triệu tập tham gia phiên
1
Xem thêm quy định tại Điều 273, Điều 280 BLTTDS 2015.
2
Xem thêm quy định tại Điều 286 BLTTDS 2015.

483
tòa; họ, tên Thẩm phán, Thư ký Tòa án; họ, tên Thẩm phán dự khuyết;
họ, tên, tư cách tham gia tố tụng của người kháng cáo; Viện kiểm sát
kháng nghị; họ, tên Kiểm sát viên tham gia phiên tòa; họ, tên Kiểm sát
viên dự khuyết (nếu có).
Theo quy định tại khoản 2 Điều 323 BLTTDS 2015 thì quyết
định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm theo thủ tục rút gọn phải được gửi
ngay cho những người có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị và Viện
kiểm sát cùng cấp kèm theo hồ sơ vụ án để nghiên cứu thay vì được
gửi trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định như đối
với quyết định đưa vụ án dân sự ra xét xử phúc thẩm theo thủ tục thông
thường1. Theo thủ tục tố tụng dân sự phúc thẩm rút gọn, thì thời hạn
nghiên cứu hồ sơ của Viện kiểm sát cùng cấp được rút ngắn chỉ còn là
05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án thay vì là 15 ngày
đối với thủ tục phúc thẩm thông thường2. Hết thời hạn 05 ngày làm
việc, Viện kiểm sát phải trả hồ sơ vụ án cho Tòa án.
Khoản 3 Điều 323 BLTTDS 2015 quy định trường hợp có quyết
định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án thì thời hạn chuẩn bị xét xử
phúc thẩm được tính lại kể từ ngày Tòa án cấp phúc thẩm tiếp tục xét
xử phúc thẩm vụ án khi lý do tạm đình chỉ không còn. Ngoài ra, theo
quy định tại khoản 4 của Điều luật này thì trong thời hạn chuẩn bị xét
xử nếu xuất hiện tình tiết mới quy định tại khoản 3 Điều 317 BLTTDS
2015 làm cho vụ án không còn đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục
rút gọn thì Tòa án ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo
thủ tục thông thường. Trong trường hợp này, thời hạn chuẩn bị xét xử
vụ án được tính theo quy định tại khoản 4 Điều 317 BLTTDS 2015.
Khoản 4 Điều 323 BLTTDS 2015 không quy định rõ là việc chuyển
vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường là theo thủ tục sơ thẩm
hay theo thủ tục phúc thẩm và thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án trong
trường hợp này được tính lại theo thủ tục sơ thẩm hay theo thủ tục
phúc thẩm thông thường. Do vậy, khi áp dụng trong thực tiễn, Luật sư,

1
Xem thêm quy định tại khoản 2 Điều 290 BLTTDS 2015.
2
Xem thêm quy định tại Điều 292 BLTTDS 2015.

484
Thẩm phán, Kiểm sát viên cần phải lưu ý tới các văn bản hướng dẫn
hay án lệ của Tòa án tối cao về vấn đề này.
1.7. Về phiên tòa phúc thẩm rút gọn đối với bản án, quyết định
của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị
Cần lưu ý là các quy định về thời hạn mở phiên tòa phúc thẩm
theo thủ tục rút gọn đã được rút ngắn so với thủ tục tố tụng thông
thường. Theo đó, trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày có quyết định đưa
vụ án ra xét xử phúc thẩm, Thẩm phán phải mở phiên tòa phúc thẩm.
Như vậy, thời hạn mở phiên tòa phúc thẩm theo thủ tục rút gọn được
rút ngắn hơn, chỉ còn 15 ngày so với thời hạn từ 01 đến 02 tháng trong
thủ tục tố tụng thông thường1. Việc xét xử phúc thẩm vụ án dân sự
theo thủ tục rút gọn chỉ do một Thẩm phán tiến hành (Điều 65, Điều
324 BLTTDS 2015). Tuy nhiên, khoản 2 Điều 324 BLTTDS 2015 lại
quy định trong trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì Hội đồng xét xử
vẫn tiến hành xét xử, trừ trường hợp Viện kiểm sát có kháng nghị phúc
thẩm. Đây là một quy định chưa tương thích với quy định tại Điều 65
BLTTDS 2015 cần được lưu ý trong quá trình áp dụng.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 324 BLTTDS 2015 thì việc vắng
mặt đương sự tham gia phiên tòa phúc thẩm theo thủ tục rút gọn trong
một số trường hợp có thể không làm cho phiên tòa bị gián đoạn như
trong thủ tục phúc thẩm thông thường2. Theo đó, các đương sự, Kiểm
sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải có mặt tại phiên tòa phúc thẩm.
Trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành
xét xử, trừ trường hợp Viện kiểm sát có kháng nghị phúc thẩm. Đương
sự có quyền đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Trường hợp đương sự
không kháng cáo đã được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt không có lý do
chính đáng thì Thẩm phán vẫn tiến hành phiên tòa.
Các quy định về tranh tụng theo thủ tục phúc thẩm rút gọn tại các
khoản 3, 4, 5 Điều 324 BLTTDS 2015 tương tự như quy định về thủ
1
Xem thêm quy định tại Điều 286 BLTTDS 2015.
2
Xem thêm quy định tại Điều 296 BLTTDS 2015.

485
tục phúc thẩm thông thường (từ Điều 301 tới Điều 307 BLTTDS 2015)
nhưng được giản lược hơn và không có quy định riêng về việc nghị án.
Theo đó, Thẩm phán trình bày tóm tắt nội dung bản án, quyết định sơ
thẩm bị kháng cáo, kháng nghị, nội dung của kháng cáo, kháng nghị và
tài liệu, chứng cứ kèm theo. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự trình bày, đương sự bổ sung ý kiến về nội dung kháng
cáo, kháng nghị, tranh luận, đối đáp, đề xuất quan điểm của mình về
việc giải quyết vụ án. Sau khi kết thúc việc tranh luận và đối đáp, Kiểm
sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật
trong quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai đoạn phúc thẩm. Ngay
sau khi kết thúc phiên tòa, Kiểm sát viên phải gửi văn bản phát biểu ý
kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ án.
Theo quy định tại Điều 316 BLTTDS 2015 thì các quy định tại
Phần thứ tư của BLTTDS 2015 về “Giải quyết vụ án dân sự theo thủ
tục rút gọn” sẽ được ưu tiên áp dụng để giải quyết những tranh chấp
thỏa mãn một số điều kiện nhất định, đối với những vấn đề không
được quy định tại Phần thứ tư này thì các quy định khác của BLTTDS
sẽ được áp dụng để giải quyết tranh chấp. Do vậy, tuy khoản 6 Điều
324 BLTTDS 2015 không có quy định cụ thể về cơ sở thực hiện quyền
hạn của Tòa án cấp phúc thẩm trong thủ tục rút gọn nhưng có thể vận
dụng tinh thần của các quy định từ Điều 308 đến Điều 312 BLTTDS
2015 về quyền hạn của Hội đồng xét xử phúc thẩm để áp dụng trong
thực tiễn. Theo quy định tại khoản 6 Điều 324 BLTTDS năm 2015 thì
mặc dù việc xét xử theo thủ tục rút gọn do một Thẩm phán tiến hành
nhưng Thẩm phán của Tòa án cấp phúc thẩm có các quyền hạn tương
tự như quyền hạn của Hội đồng xét xử phúc thẩm thông thường. Đó là
quyền giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm; sửa bản
án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm; hủy bản án, quyết định của Tòa
án cấp sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm để giải
quyết lại vụ án theo thủ tục rút gọn hoặc theo thủ tục thông thường;
hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án; đình chỉ xét xử phúc
thẩm và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

486
Nếu vận dụng tương tự tinh thần của các quy định từ Điều 308
đến Điều 312 BLTTDS 2015 về quyền hạn của Hội đồng xét xử phúc
thẩm thì khi xem xét bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị
kháng cáo, kháng nghị, Thẩm phán có quyền giữ nguyên bản án, quyết
định theo thủ tục rút gọn của Tòa án cấp sơ thẩm nếu kháng cáo, kháng
nghị không có cơ sở. Việc sửa bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ
thẩm sẽ được thực hiện nếu Thẩm phán của Tòa án cấp phúc thẩm đã
có đủ chứng cứ, tài liệu để quyết định về vụ án.
Việc hủy bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và chuyển
hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm để giải quyết lại vụ án theo thủ tục
rút gọn hoặc theo thủ tục thông thường sẽ được thực hiện nếu không
còn đủ các điều kiện để giải quyết theo thủ tục rút gọn; Thẩm phán đã
tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án thuộc trường hợp phải từ chối tiến hành
tố tụng hoặc bị thay đổi; có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Việc Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ
giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn được thực hiện trong các trường
hợp yêu cầu tố tụng ở cấp sơ thẩm không còn tồn tại hoặc Tòa án sơ
thẩm thụ lý vụ án không đúng. Việc đình chỉ xét xử phúc thẩm và giữ
nguyên bản án sơ thẩm được thực hiện nếu yêu cầu tố tụng ở cấp phúc
thẩm không còn tồn tại hoặc có sự suy đoán về việc đương sự từ bỏ yêu
cầu tố tụng của mình. Đây là những vấn đề cần được lưu ý trong thực
tiễn áp dụng pháp luật được thống nhất trên thực tế.
2. Kỹ năng của Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên trong
khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự
2.1. Kỹ năng của Luật sư trong thủ tục rút gọn
2.1.1. Tiếp xúc với khách hàng
Khi tiếp xúc với khách hàng lần đầu, Luật sư chưa thể có đủ
thông tin để xác định vụ tranh chấp có thể khởi kiện theo thủ tục tố
tụng thông thường hay theo thủ tục rút gọn. Do vậy, về cơ bản thì kỹ
năng tiếp xúc với khách hàng của Luật sư cũng được thực hiện như đối

487
với các vụ án theo thủ tục tố tụng thông thường khác. Khi tiếp xúc với
khách hàng, Luật sư cần xác định yêu cầu cụ thể của họ, nội dung của
tranh chấp, đối chiếu với pháp luật để xác định quan hệ pháp luật có
tranh chấp cần yêu cầu Tòa án giải quyết. Việc xác định những vấn đề
này được thực hiện thông qua việc Luật sư lắng nghe lời trình bày của
khách hàng, đặt câu hỏi dẫn dắt để định hướng việc trình bày của họ.
Tuy nhiên, trong quá trình tiếp xúc với khách hàng, kiểm tra và xem
xét sơ bộ các tài liệu, chứng cứ mà đương sự cung cấp nếu xác định vụ
việc có thể đáp ứng các điều kiện khởi kiện vụ án theo thủ tục rút gọn
thì Luật sư cần tiếp tục tập trung khai thác để làm rõ các điều kiện này.
Nếu xét thấy có thể khởi kiện vụ án theo thủ tục rút gọn thì Luật
sư cũng cần phân tích cho đương sự về những thuận lợi và khó khăn
khi quyết định lựa chọn việc khởi kiện theo thủ tục rút gọn so với việc
lựa chọn thủ tục thông thường. Luật sư cần phân tích cho khách hàng
biết, thời hạn giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn được rút ngắn so
với thủ tục thông thường, do vậy, việc khởi kiện theo thủ tục rút gọn
nếu thành công có thể giúp họ nhanh chóng có trong tay bản án, quyết
định buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ. Tuy nhiên, trường hợp có
khiếu nại đối với quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn
và Chánh án Tòa án hủy bỏ quyết định này thì vụ án sẽ được chuyển
sang giải quyết theo thủ tục thông thường (Điều 319 BLTTDS 2015).
Trong trường hợp này, thời hạn giải quyết vụ án sẽ bị kéo dài hơn do
thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án được tính lại kể từ ngày ra quyết định
chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường (Điều 317
BLTTDS 2015). Đây là điểm bất lợi mà khách hàng cần cân nhắc trước
khi quyết định lựa chọn việc khởi kiện theo thủ tục rút gọn hay thủ tục
tố tụng thông thường. Nếu khách hàng quyết định khởi kiện theo thủ
tục rút gọn thì Luật sư cần phải xem xét và củng cố hồ sơ nhằm đáp
ứng các điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn tại Điều 317 BLTTDS 2015.
2.1.2. Chuẩn bị hồ sơ khởi kiện
Pháp luật hiện hành không có những quy định riêng biệt về hồ
sơ khởi kiện theo thủ tục rút gọn so với thủ tục thông thường. Do vậy,

488
hồ sơ khởi kiện theo thủ tục rút gọn cũng bao gồm đơn khởi kiện; tài
liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của nguyên đơn. Tuy nhiên,
khi soạn thảo đơn khởi kiện và chuẩn bị tài liệu, chứng cứ nộp kèm
theo đơn khởi kiện, Luật sư cần lưu ý tới những đặc thù về điều kiện
áp dụng thủ tục rút gọn. Cụ thể như sau:
- Đơn khởi kiện theo thủ tục rút gọn phải tuân theo thể thức tại
Điều 189 BLTTDS 2015, thể hiện được nội dung tranh chấp và yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn. Ngoài ra, đơn khởi kiện này còn phải
thể hiện được các điểm đặc thù sau:
+ Vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng, đương
sự đã thừa nhận nghĩa vụ; tài liệu, chứng cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ
để giải quyết vụ án và Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ;
+ Các đương sự đều có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ ràng;
+ Không có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở
nước ngoài hoặc tuy có đương sự ở nước ngoài nhưng đương sự này và
đương sự ở Việt Nam có thỏa thuận đề nghị Tòa án giải quyết theo thủ
tục rút gọn hoặc các đương sự đã xuất trình được chứng cứ về quyền sở
hữu hợp pháp tài sản và có thỏa thuận thống nhất về việc xử lý tài sản.
- Luật sư phải giúp khách hàng của mình chuẩn bị các chứng cứ, tài
liệu nộp kèm theo đơn khởi kiện để chứng minh vụ tranh chấp thỏa mãn
các điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn:
+ Giấy vay nợ, văn bản hợp đồng, văn bản thỏa thuận giữa các
bên… có chữ ký của bên bị khởi kiện;
+ Văn bản có chữ ký của bên bị khởi kiện về việc thừa nhận
nghĩa vụ đã cam kết, thỏa thuận: Giấy thừa nhận nợ hoặc khoản tiền
chưa thanh toán, biên bản chốt nợ...
+ Giấy tờ chứng minh các đương sự đều có địa chỉ nơi cư trú,
trụ sở rõ ràng như chứng minh thư nhân dân, hộ khẩu gia đình, giấy
xác nhận nơi bị đơn cư trú của chính quyền địa phương; giấy tờ chứng
minh trụ sở của bị đơn;

489
+ Đối với trường hợp có một bên đương sự cư trú ở nước ngoài
thì cần xuất trình văn bản thỏa thuận của họ với đương sự ở Việt Nam về
việc đề nghị Tòa án giải quyết theo thủ tục rút gọn;
+ Đối với trường hợp tài sản tranh chấp ở nước ngoài thì cần xuất
trình được chứng cứ, tài liệu về quyền sở hữu hợp pháp tài sản và văn bản
thỏa thuận thống nhất của các đương sự về việc xử lý tài sản.
2.1.3. Nộp hồ sơ khởi kiện
Luật sư cần hướng dẫn cho khách hàng gửi đơn khởi kiện kèm
theo tài liệu, chứng cứ mà mình hiện có đến Tòa án có thẩm quyền giải
quyết vụ án bằng các phương thức sau:
- Nộp trực tiếp tại Tòa án và nhận giấy xác nhận của Tòa án về
việc đã nhận đơn. Trường hợp này thì ngày khởi kiện là ngày đương
sự nộp đơn khởi kiện tại Tòa án;
- Gửi đến Tòa án theo đường dịch vụ bưu chính, trường hợp này
thì ngày khởi kiện là ngày được ghi trên dấu của tổ chức dịch vụ bưu
chính nơi gửi;
- Gửi trực tuyến bằng hình thức điện tử qua Cổng thông tin điện
tử của Tòa án, trường hợp này thì ngày khởi kiện là ngày gửi đơn.
Tuy pháp luật có quy định 03 phương thức hợp lệ của việc nộp hồ
sơ khởi kiện nhưng Luật sư cần nghiên cứu kỹ vụ việc của khách hàng
để phân tích và hướng dẫn khách hàng lựa chọn phương thức gửi hồ sơ
khởi kiện phù hợp. Luật sư cần hết sức lưu ý là vụ việc của khách hàng
đủ điều kiện giải quyết theo thủ tục rút gọn thì khả năng thắng kiện
của khách hàng là khá lớn. Do vậy, Luật sư không được chủ quan mà
cần phải xem xét ngay để xác định vụ việc còn thời hiệu khởi kiện hay
không và quyết định ngay việc nộp đơn để tránh việc khách hàng thua
kiện do việc chậm trễ dẫn tới nộp đơn khởi kiện khi mà thời hiệu khởi
kiện đã hết. Nếu hồ sơ khởi kiện của khách hàng rơi vào ngày cuối
cùng của thời hiệu khởi kiện mà không thể nộp trực tiếp tại Tòa án vì
những lý do khác nhau thì có thể lựa chọn phương thức gửi trực tuyến

490
bằng hình thức điện tử qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án hoặc gửi
đến Tòa án theo đường dịch vụ bưu chính. Tuy nhiên, Luật sư cũng cần
phân tích cho khách hàng biết về những rủi ro của việc nộp hồ sơ khởi
kiện bằng các phương thức này do những vấn đề về kỹ thuật hoặc thất
lạc hồ sơ đồng thời phải kiểm tra lại thông tin về việc hồ sơ đã được
tiếp nhận từ bộ phận nhận hồ sơ khởi kiện tại Tòa án. Khi có thông báo
của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng án phí, Luật sư cần hướng dẫn
khách hàng nộp tiền tạm ứng án phí tại Cơ quan thi hành án dân sự và
nộp cho Tòa án biên lai thu tiền tạm ứng án phí.
2.1.4. Kỹ năng của Luật sư trong việc thu thập chứng cứ theo thủ
tục rút gọn
Theo quy định tại Điều 6 và Điều 70 BLTTDS 2015 thì đương sự
có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ cho Tòa
án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Do
vậy, Luật sư cần hướng dẫn đương sự hoặc trợ giúp đương sự thu thập
chứng cứ. Cần lưu ý là thủ tục rút gọn được áp dụng đối với những vụ
án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng, đương sự đã thừa
nhận nghĩa vụ; tài liệu, chứng cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để giải
quyết vụ án và Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ. Tòa án
không giữ vai trò quan trọng trong việc thu thập chứng cứ mà chỉ xem
xét các tài liệu, chứng cứ do đương sự xuất trình để xác định có đủ
điều kiện cần thiết để áp dụng thủ tục rút gọn đối với vụ tranh chấp
hay không. Do vậy, Luật sư cần tập trung vào việc hướng dẫn đương
sự hoặc trợ giúp đương sự thu thập đầy đủ các chứng cứ, tài liệu cần
thiết để chứng minh về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn đối với vụ
tranh chấp. Để thực hiện được điều này, Luật sư có thể thực hiện các
quyền của mình đã được ghi nhận tại Điều 76 BLTTDS 2015 về quyền
thu thập và cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án; quyền yêu cầu cơ
quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung
cấp tài liệu, chứng cứ đó.
Các chứng cứ, tài liệu mà Luật sư cần hướng dẫn đương sự hoặc
trợ giúp đương sự thu thập và xuất trình bao gồm: giấy tờ, tài liệu

491
hiện do khách hàng đang lưu giữ như bản hợp đồng, giấy vay nợ, văn
bản thỏa thuận giữa các bên, giấy bảo hành, giấy tờ về quyền sở hữu,
sử dụng tài sản, giấy tờ về việc thế chấp, biên bản giao nhận tài sản;
chứng minh thư nhân dân, hộ khẩu gia đình v.v… Nếu văn bản hợp
đồng được công chứng hoặc các giấy tờ về tài sản và các tài liệu khác
đang được cơ quan công chứng hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền
lưu giữ thì Luật sư cần hướng dẫn đương sự hoặc trợ giúp đương sự
yêu cầu các cơ quan này cung cấp để có tài liệu xuất trình tại Tòa án.
Luật sư có thể trợ giúp khách hàng soạn thảo văn bản yêu cầu cơ quan,
tổ chức đang lưu giữ giấy tờ, tài liệu liên quan đến vụ tranh chấp cung
cấp những tài liệu này. Văn bản yêu cầu cơ quan, tổ chức cung cấp tài
liệu, chứng cứ liên quan đến vụ tranh chấp cần ghi rõ tên, địa chỉ của
cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng cứ cần cung cấp;
tài liệu, chứng cứ yêu cầu được cung cấp và lý do đề nghị cung cấp
tài liệu, chứng cứ này. Trong trường hợp yêu cầu không được đáp ứng
thì Luật sư trợ giúp khách hàng soạn thảo văn bản đề nghị cơ quan, tổ
chức trả lời về lý do không cung cấp giấy tờ, tài liệu liên quan đến vụ
tranh chấp cho đương sự. Văn bản này là cơ sở để Luật sư đề nghị Tòa
án ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức đang lưu giữ, quản lý tài
liệu, chứng cứ cung cấp hoặc đề nghị Tòa án tiến hành thu thập tài liệu,
chứng cứ nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ án dân sự đúng đắn.
Bên cạnh đó, Luật sư cũng cần hướng dẫn đương sự hoặc trợ
giúp đương sự thu thập thêm văn bản có chữ ký của bên bị khởi
kiện về việc thừa nhận nghĩa vụ đã cam kết, thỏa thuận: Giấy thừa
nhận nợ hoặc thừa nhận khoản tiền chưa thanh toán, biên bản chốt
nợ v.v… Đây là những tài liệu hết sức quan trọng để có thể đề nghị
Tòa án áp dụng thủ tục rút gọn giải quyết tranh chấp. Việc thu thập
loại chứng cứ, tài liệu này đòi hỏi Luật sư phải có kinh nghiệm và sự
mềm dẻo, linh hoạt cần thiết để có được văn bản có chữ ký của bị đơn
về nghĩa vụ mà họ phải thực hiện. Ngoài ra, Luật sư có thể tự mình
hoặc hướng dẫn khách hàng thu thập các giấy tờ, tài liệu từ chính
quyền địa phương để chứng minh các đương sự có địa chỉ nơi cư trú,

492
trụ sở rõ ràng như hộ khẩu gia đình, giấy xác nhận nơi bị đơn cư trú
của chính quyền địa phương; giấy tờ chứng minh trụ sở của bị đơn
do Sở Kế hoạch và Đầu tư xác nhận v.v... Đối với trường hợp có một
bên đương sự cư trú ở nước ngoài thì Luật sư cần hướng dẫn đương
sự hoặc trợ giúp đương sự có được văn bản thỏa thuận về việc đề nghị
Tòa án giải quyết theo thủ tục rút gọn. Trường hợp tài sản tranh chấp
ở nước ngoài thì Luật sư cần trợ giúp đương sự thu thập chứng cứ, tài
liệu về quyền sở hữu hợp pháp tài sản và văn bản thỏa thuận thống nhất
của các đương sự về việc xử lý tài sản.
2.1.5. Kỹ năng của Luật sư trong việc nghiên cứu hồ sơ, tham gia
hòa giải, tham gia phiên tòa sơ thẩm theo thủ tục rút gọn
a) Nghiên cứu hồ sơ
Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án của Luật sư nhằm hướng tới việc
xác định vụ kiện của khách hàng có thực sự có đủ điều kiện để giải
quyết theo thủ tục rút gọn hay không, do vậy, khi nghiên cứu hồ sơ,
Luật sư cần lưu ý xác định quan hệ pháp luật có tranh chấp cần phải
giải quyết; xác định quy phạm pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động cần được áp dụng để giải quyết
tranh chấp. Luật sư cần căn cứ vào yêu cầu của đương sự, các tài liệu,
chứng cứ có trong hồ sơ và đối chiếu với pháp luật để xác định các
tình tiết của vụ tranh chấp là đơn giản hay phức tạp, quan hệ pháp luật
tranh chấp có rõ ràng không. Luật sư cần nghiên cứu kỹ các tài liệu,
chứng cứ trong hồ sơ để xác định những ưu thế về chứng cứ, tài liệu
của khách hàng, nhất là kiểm tra xem với tài liệu, chứng cứ hiện có đã
đủ để Tòa án ra phán quyết buộc bị đơn thực hiện nghĩa vụ mà không
cần phải thu thập thêm tài liệu, chứng cứ hay chưa? Chứng cứ, tài liệu
nào cần được củng cố, bổ sung trong hồ sơ.
Ngoài ra, khi nghiên cứu hồ sơ, Luật sư cũng cần xác định nơi cư
trú hiện tại, trụ sở của bị đơn có phù hợp với các tài liệu đã được thể
hiện trong hồ sơ không? Có cần bổ sung các tài liệu để chứng minh các
đương sự có nơi cư trú, trụ sở rõ ràng hay không? Nếu tài liệu có trong

493
hồ sơ đã thể hiện được vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ
ràng thì cần xác định bị đơn có thừa nhận nghĩa vụ của mình không, sự
thừa nhận này có tính ổn định không; có tình tiết, sự kiện nào trong hồ
sơ có thể dẫn tới việc bị đơn phản bác lời thừa nhận của mình không.
Trong trường hợp bị đơn phản bác thì chứng cứ, tài liệu nào có thể sử
dụng để củng cố cho việc khởi kiện của khách hàng. Khi nghiên cứu
hồ sơ, Luật sư cần ghi chép lại những điểm mấu chốt quan trọng của
vụ án như quan hệ pháp luật có tranh chấp, quy phạm pháp luật cần
được áp dụng; những tình tiết, sự kiện các bên đã có sự thống nhất và
tài liệu, chứng cứ thể hiện sự thống nhất này (ghi chú lại số bút lục);
Những tình tiết, sự kiện mà các bên còn có quan điểm khác nhau, các
chứng cứ, tài liệu còn mâu thuẫn cần được cũng cố thêm.
Thông thường Luật sư cần nghiên cứu văn bản hợp đồng để xác
định quyền, nghĩa vụ các bên đã cam kết thỏa thuận; các tài liệu phản
ánh quá trình thực hiện hợp đồng như giấy tờ về việc thế chấp, biên bản
giao nhận tài sản v.v… Trường hợp bị đơn ký hợp đồng tín dụng được
bảo đảm bằng tài sản thế chấp của chính mình thì thông thường đây là
vụ kiện có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn nếu bị đơn không phản
đối về nghĩa vụ phải thực hiện. Luật sư cần nghiên cứu bản hợp đồng
tín dụng giữa khách hàng của mình là ngân hàng và doanh nghiệp là bị
đơn để xác định cụ thể số tiền mà bị đơn phải thanh toán. Tuy nhiên,
trường hợp hợp đồng tín dụng được bảo đảm bằng tài sản thế chấp của
người thứ ba thì cần lưu ý quan hệ nghĩa vụ giữa ngân hàng (nguyên
đơn) và người vay (bị đơn) có thể là quan hệ nghĩa vụ đã rõ ràng nhưng
Luật sư cần nghiên cứu về hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và
tài sản gắn liền với đất giữa ngân hàng với người vay và bên thứ ba
có tài sản thế chấp để xác định bên thứ ba có tài sản thế chấp có phản
đối hợp đồng thế chấp hay không. Trường hợp bên thứ ba không phản
đối hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thì
vụ tranh chấp hợp đồng tín dụng được bảo đảm bằng tài sản thế chấp
của người thứ ba có thể được giải quyết theo thủ tục rút gọn. Nếu bên
thứ ba có yêu cầu tuyên bố vô hiệu hợp đồng thế chấp quyền sử dụng

494
đất và tài sản gắn liền với đất thì vụ tranh chấp sẽ rơi vào trường hợp
phải chuyển sang giải quyết theo thủ tục thông thường do “phát sinh
yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập”1. Đối với các tranh chấp phát
sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng dịch vụ... thì Luật sư
cần nghiên cứu văn bản hợp đồng, các tài liệu liên quan đến việc thực
hiện hợp đồng, các tài liệu mà phía bị đơn phản hồi hoặc cung cấp cho
Tòa án để xác định nội dung của hợp đồng, các bên có tranh chấp hay
không có tranh chấp về các điều khoản của hợp đồng đã cam kết, bị
đơn có thư xác nhận công nợ hoặc chốt số tiền còn phải thanh toán hay
không...
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án theo thủ tục rút gọn, Luật
sư cần nghiên cứu kỹ hồ sơ để xác định có khả năng xuất hiện tình tiết
mới làm cho vụ án không còn đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục
rút gọn và phải chuyển sang giải quyết theo thủ tục thông thường hay
không. Luật sư cần lường trước tình huống này để có phương án thu
thập thêm chứng cứ, tài liệu cần thiết đủ để chứng minh cho yêu cầu
khởi kiện của khách hàng. Cụ thể là Luật sư cần xác định có hay không
có khả năng phát sinh các tình tiết sau đây:
- Phát sinh tình tiết mới mà các đương sự không thống nhất do
đó cần phải xác minh, thu thập thêm tài liệu, chứng cứ hoặc cần phải
tiến hành giám định;
- Cần phải định giá, thẩm định giá tài sản tranh chấp do các đương
sự không thống nhất về giá;
- Cần phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
- Phát sinh người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
- Phát sinh yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập;
- Phát sinh đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở nước
ngoài, yêu cầu xác minh, thu thập chứng cứ ở nước ngoài mà cần phải
thực hiện ủy thác tư pháp.

1
Xem thêm: Khoản 3 Điều 317 BLTTDS 2015.

495
Bên cạnh việc tập trung nghiên cứu những tài liệu, chứng cứ chứng
minh vụ tranh chấp đủ điều kiện giải quyết theo thủ tục rút gọn thì Luật
sư cũng cần nghiên cứu toàn bộ chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ để nắm
vững nguyên nhân, nội dung của tranh chấp; yêu cầu và nguyện vọng
của mỗi bên; những điểm mạnh, điểm yếu về chứng cứ, tài liệu cũng
như căn cứ pháp lý của mỗi bên đương sự để chuẩn bị phương án hòa
giải và tham gia tranh tụng tại phiên tòa. Việc nghiên cứu này là cần
thiết để chuẩn bị cho phương án dự phòng trong trường hợp yêu cầu giải
quyết vụ án theo thủ tục rút gọn không được Tòa án chấp thuận. Trong
trường hợp này, Luật sư sẽ tiếp tục theo đuổi vụ kiện để bảo vệ quyền
lợi cho khách hàng theo thủ tục tố tụng thông thường.
b) Tham gia hòa giải theo thủ tục rút gọn
Thủ tục rút gọn là thủ tục được giản lược hơn so với thủ tục
tố tụng thông thường, do vậy, Thẩm phán không phải tiến hành hòa
giải trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm theo thủ tục rút gọn (01
tháng kể từ ngày thụ lý vụ án). Tuy nhiên, sau khi khai mạc phiên
tòa sơ thẩm, Thẩm phán vẫn tiến hành hòa giải giữa các đương sự
ngay tại phiên tòa. Do vậy, trước khi Tòa án mở phiên tòa, Luật sư
cần phân tích và chuẩn bị các chứng cứ, tài liệu mà khách hàng có
thể sử dụng khi hòa giải nhằm khẳng định quyền lợi chính đáng mà
họ được thụ hưởng và các nghĩa vụ mà bên bị đơn đương nhiên sẽ
phải thực hiện.
Luật sư cũng cần chuẩn bị tâm lý và các phương án hòa giải cần
thiết cho khách hàng. Luật sư có thể phân tích cho khách hàng thấy
tuy họ có lợi thế về chứng cứ, tài liệu; quan hệ nghĩa vụ là đơn giản, rõ
ràng nhưng nếu Tòa án phải tiến hành xét xử để ra bản án thì đương sự
có nghĩa vụ vẫn có thể kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem
xét lại nhằm trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ. Do vậy, Luật sư cần phân
tích bất lợi này cho khách hàng và cùng khách hàng cân nhắc, tìm kiếm
một phương án tối ưu nhất trong hòa giải. Nếu bị đơn đã thừa nhận
nghĩa vụ của mình thì Luật sư cũng cần phân tích cho khách hàng biết
Tòa án chỉ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự

496
nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ
quan hệ pháp luật có tranh chấp và cả về án phí sơ thẩm trong vụ án để
khách hàng có thể cân nhắc và lựa chọn phương án hòa giải thích hợp
nhất. Luật sư và khách hàng cũng cần trao đổi, thống nhất về những
quyền lợi có thể nhượng bộ để đạt được thỏa thuận.
Luật sư cần chỉ dẫn cho khách hàng về giá trị pháp lý của biên
bản hòa giải thành do Tòa án lập ghi nhận nội dung mà các đương
sự đã thỏa thuận được. Cụ thể là theo quy định tại khoản 3 Điều 320
BLTTDS 2015 thì trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau
về vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì Thẩm phán ra quyết định công
nhận sự thoả thuận của các đương sự theo quy định tại Điều 212 chứ
không phải theo quy định tại Điều 246 của Bộ luật này. Theo tinh thần
của quy định tại Điều 212 BLTTDS 2015 nếu các đương sự thỏa thuận
được với nhau về việc giải quyết toàn bộ tranh chấp thì không có nghĩa
là thỏa thuận đó có giá trị thi hành ngay mà phải hết thời hạn 07 ngày,
kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành nếu không có đương sự nào thay
đổi ý kiến về sự thoả thuận đó thì Thẩm phán mới ra quyết định công
nhận sự thoả thuận của các đương sự. Quyết định này sẽ có hiệu lực
pháp luật và đương sự có thể yêu cầu cơ quan thi hành án tổ chức việc
thi hành theo quy định của pháp luật.
c) Tham gia phiên tòa sơ thẩm theo thủ tục rút gọn
Theo quy định tại Điều 320 BLTTDS 2015 thì trường hợp vụ
án không được hòa giải hoặc không có điều kiện để tiến hành hòa
giải, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải
giải quyết trong vụ án thì Thẩm phán tiến hành xét xử. Do vậy,
Luật sư cần phân tích cho khách hàng biết, khác với thủ tục tố tụng
thông thường, trong phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn nếu bị
đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp
lệ mà vắng mặt không có lý do chính đáng thì Thẩm phán vẫn tiến
hành phiên tòa. Luật sư cần chỉ rõ cho khách hàng là nguyên đơn
biết điều này để họ chủ động sắp xếp công việc, thời gian tham
gia phiên tòa. Nếu Luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị đơn thì cũng

497
cần phân tích cho khách hàng biết nếu họ vắng mặt không có lý do
chính đáng thì Thẩm phán vẫn có thể tiến hành phiên tòa và bị đơn
sẽ phải đối mặt với những bất lợi do việc không tham gia phiên tòa
để bảo vệ quyền lợi cho mình.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 320 BLTTDS 2015 thì việc trình
bày, tranh luận, đối đáp, đề xuất quan điểm về việc giải quyết vụ án
được thực hiện theo quy định về tranh tụng đối với thủ tục tố tụng
thông thường tại Mục 3 Chương XIV của Bộ luật này. Tuy nhiên, mục
đích của việc nguyên đơn và Luật sư bảo vệ quyền lợi của nguyên đơn
tranh tụng tại phiên tòa theo thủ tục rút gọn là thuyết phục Thẩm phán
chấp nhận yêu cầu khởi kiện và ra bản án buộc bị đơn phải thực hiện
nghĩa vụ. Nếu tại phiên tòa theo thủ tục rút gọn bị đơn thừa nhận nghĩa
vụ của mình thì nguyên đơn, Luật sư bảo vệ quyền lợi của nguyên đơn
chỉ cần đề xuất với Tòa án ra bản án buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa
vụ. Trường hợp bị đơn vắng mặt tại phiên tòa thì Luật sư bảo vệ quyền
lợi của nguyên đơn cần giúp khách hàng trình bày về yêu cầu khởi
kiện, đưa ra các lập luận và tài liệu, chứng cứ chứng minh nghĩa vụ mà
bị đơn phải thực hiện. Nếu trước đó Luật sư đã thu thập được văn bản
có chữ ký của bị đơn về việc xác nhận hoặc thừa nhận nghĩa vụ thì cần
công khai tài liệu này tại phiên tòa.
Trường hợp bị đơn không thừa nhận nghĩa vụ thì Luật sư bảo
vệ quyền lợi của nguyên đơn cần trợ giúp và hướng dẫn khách hàng
của mình tập trung vào việc khai thác các chứng cứ, tài liệu thể hiện
tính có căn cứ và rõ ràng của nghĩa vụ mà bị đơn phải thực hiện nhằm
tránh nguy cơ Thẩm phán ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết
theo thủ tục thông thường do cần phải xác minh, thu thập thêm tài liệu,
chứng cứ hoặc cần phải tiến hành giám định. Câu hỏi của Luật sư bảo
vệ quyền lợi của nguyên đơn đối với khách hàng của mình nên nhấn
vào việc có sự kiện giao kết hợp đồng không, nghĩa vụ của bị đơn và
chứng cứ, tài liệu để khẳng định nghĩa vụ mà bị đơn phải thực hiện đối
với nguyên đơn. Đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
đã rõ ràng, Luật sư cần hỏi khách hàng của mình về ai là người gây

498
thiệt hại, lỗi của họ; mức độ thiệt hại và các tài liệu cần viện dẫn để
chứng minh thiệt hại v.v…
Khi đặt câu hỏi đối với bị đơn, Luật sư bảo vệ quyền lợi của
nguyên đơn nên đặt trọng tâm vào việc bị đơn xác nhận hay thừa nhận
nghĩa vụ của mình, tránh đặt câu hỏi theo hướng gợi ý bị đơn có phản
bác yêu cầu khởi kiện không? Chẳng hạn, Luật sư có thể hỏi giữa
bị đơn và nguyên đơn có ký kết hợp đồng không; trình bày của phía
nguyên đơn về nội dung thỏa thuận theo hợp đồng có xác thực không;
quá trình thực hiện nghĩa vụ diễn ra như thế nào? Nghĩa vụ mà bị đơn
còn phải thực hiện theo trình bày của bên nguyên đơn có phù hợp với
thực tế hay không. Đối với trường hợp yêu cầu bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Luật sư của nguyên đơn cần hỏi bị đơn theo hướng
gây thiệt hại cho nguyên đơn trong hoàn cảnh nào? Lỗi thuộc về ai và
ý kiến của bị đơn về số tiền bồi thường thiệt hại mà phía nguyên đơn
đề xuất.
2.1.6. Kỹ năng tham gia tố tụng của Luật sư theo thủ tục rút gọn
tại Tòa án cấp phúc thẩm
Theo pháp luật hiện hành thì bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa
án theo thủ tục rút gọn có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục
phúc thẩm rút gọn. Do vậy, tùy theo từng trường hợp, Luật sư có thể
tiếp tục tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện theo ủy quyền
hoặc người bảo vệ quyền lợi của đương sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.
Tại Tòa án cấp phúc thẩm, Luật sư có thể giúp đương sự thực hiện việc
kháng cáo, chuẩn bị hồ sơ kháng cáo và nghiên cứu hồ sơ chuẩn bị cho
việc tham gia phiên tòa và tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm.
a) Trao đổi với khách hàng về việc kháng cáo và thời hạn
kháng cáo
Luật sư cần lưu ý phân tích cho khách hàng biết những lợi ích và
bất lợi của việc kháng cáo bản án, quyết định theo thủ tục rút gọn. Luật
sư cần căn cứ vào toàn bộ tài liệu, chứng cứ của vụ án, căn cứ pháp luật

499
để phân tích cho khách hàng về những mục tiêu có khả năng đạt được
hoặc không đạt được ở Tòa án cấp phúc thẩm, những bất lợi về chi phí
tố tụng, về việc chậm thi hành án do phải đợi kết quả giải quyết vụ án
tại Tòa án cấp phúc thẩm. Tùy theo yêu cầu khởi kiện của khách hàng
không được Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận hoặc chỉ được chấp nhận
một phần mà Luật sư cân nhắc và tư vấn cho đương sự về việc kháng
cáo hay không kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm.
Luật sư cần lưu ý khách hàng của mình là thời hạn kháng cáo đối
với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm theo thủ tục rút gọn chỉ
là 07 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự không có mặt tại
phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án, quyết định được
giao cho họ hoặc bản án, quyết định được niêm yết. Như vậy, Luật sư
cần tùy theo trường hợp khách hàng của mình có mặt hay vắng mặt
tại phiên tòa sơ thẩm theo thủ tục rút gọn để xác định thời hạn cụ thể
mà khách hàng phải nộp đơn kháng cáo tại Tòa án. Nếu Luật sư không
tham gia tố tụng từ cấp sơ thẩm thì cần hỏi khách hàng và nghiên cứu
kỹ bản án sơ thẩm của Tòa án để xác định thân chủ của mình có mặt
hay vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm, nếu vắng mặt thì đã được Tòa án
tống đạt bản án, quyết định sơ thẩm hay chưa để xác định thời hạn
cuối cùng được thực hiện quyền kháng cáo. Nếu khách hàng vắng mặt
tại phiên tòa và chưa nhận được bản án, quyết định sơ thẩm thì Luật
sư cần hướng dẫn hoặc trợ giúp khách hàng tìm hiểu tại Ủy ban nhân
dân xã, phường, thị trấn về việc niêm yết bản án, quyết định này. Nếu
thời hạn kháng cáo của khách hàng đã hết thì cần xác định lý do chính
đáng của việc kháng cáo quá hạn và các tài liệu cần thiết, có độ tin cậy
để chứng minh việc kháng cáo quá hạn là có lý do chính đáng nên cần
được Tòa án chấp nhận.
b) Trợ giúp khách hàng soạn thảo và nộp đơn kháng cáo
Do thủ tục phúc thẩm đối với bản án, quyết định theo thủ tục rút
gọn có nhiều điểm khác biệt so với thủ tục tố tụng thông thường nên
đơn kháng cáo cần ghi rõ là đơn kháng cáo bản án, quyết định theo thủ
tục rút gọn. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành không có quy định mẫu

500
đơn kháng cáo riêng đối với bản án, quyết định theo thủ tục rút gọn
nên việc soạn đơn kháng cáo bản án, quyết định theo thủ tục rút gọn về
căn bản vẫn dựa trên quy định tại Điều 272 BLTTDS 2015.
Đơn kháng cáo phải có các nội dung chính như ngày, tháng, năm
làm đơn kháng cáo; Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện
tử (nếu có) của người kháng cáo; Kháng cáo toàn bộ hoặc phần của
bản án, quyết định của Tòa án; Lý do của việc kháng cáo và yêu cầu
cụ thể của người kháng cáo; Chữ ký hoặc điểm chỉ của người kháng
cáo. Luật sư cần lưu ý về tính hợp lệ của người ký đơn kháng cáo, nếu
người kháng cáo là cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân
sự thì ở phần cuối đơn kháng cáo, người kháng cáo phải ký tên hoặc
điểm chỉ. Nếu đương sự ủy quyền cho Luật sư tham gia tố tụng thì cần
có văn bản ủy quyền hợp pháp của đương sự (có công chứng, chứng
thực hợp pháp, trong đó phải có nội dung về ủy quyền về việc kháng
cáo) gửi kèm theo đơn kháng cáo và cuối đơn kháng cáo, Luật sư với
tư cách là người đại diện theo ủy quyền sẽ ký tên. Đối với trường hợp
đương sự là cơ quan, tổ chức thì người đại diện theo pháp luật của
đương sự sẽ ký tên và đóng dấu của cơ quan, tổ chức đó. Nếu cơ quan,
tổ chức ủy quyền cho Luật sư tham gia tố tụng thì cần có văn bản ủy
quyền hợp pháp của đương sự gửi kèm theo đơn kháng cáo và cuối
đơn kháng cáo, Luật sư với tư cách là người đại diện theo ủy quyền sẽ
ký tên. Luật sư cần hướng dẫn khách hàng nộp đơn kháng cáo cho Tòa
án cấp sơ thẩm đã ra bản án, quyết định theo thủ tục rút gọn. Bởi vì nếu
đơn kháng cáo được gửi cho Tòa án cấp phúc thẩm thì Tòa án cấp phúc
thẩm lại phải chuyển cho Tòa án cấp sơ thẩm để tiến hành các thủ tục
cần thiết nên sẽ mất nhiều thời gian hơn.
c) Trợ giúp khách hàng chuẩn bị chứng cứ, tài liệu
Luật sư cần hỗ trợ khách hàng của mình chuẩn bị những chứng
cứ, tài liệu cần thiết để nộp cùng với đơn kháng cáo. Nếu Luật sư bảo
vệ quyền lợi cho khách hàng không kháng cáo thì cũng cần chủ động
giúp khách hàng của mình chuẩn bị những chứng cứ, tài liệu để phản
bác kháng cáo của đối phương. Luật sư cần lưu ý là vụ án được giải

501
quyết theo thủ tục rút gọn thường là vụ án có tình tiết đơn giản, quan
hệ pháp luật rõ ràng, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ; tài liệu, chứng
cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ án và Tòa án không
phải thu thập tài liệu, chứng cứ. Do vậy, Luật sư có thể chủ động giúp
khách hàng của mình thu thập thêm các chứng cứ, tài liệu cần thiết để
bổ sung tại Tòa án cấp phúc thẩm. Tuy nhiên, Luật sư cần lưu ý rằng
đối với những chứng cứ, tài liệu đã được Tòa án cấp sơ thẩm ấn định
thời hạn giao nộp mà khách hàng chưa giao nộp được thì chỉ có thể bổ
sung ở cấp phúc thẩm nếu việc chậm giao nộp chứng cứ, tài liệu của
khách hàng là có lý do chính đáng. Do vậy, Luật sư cần chuẩn bị thêm
những tài liệu để chứng minh về lý do chính đáng của việc bổ sung
những tài liệu, chứng cứ này hoặc chứng minh đây là những tài liệu,
chứng cứ mà khách hàng của mình không thể biết được trong quá trình
giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm.
d) Nghiên cứu hồ sơ và tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm
Khi đã thu thập đủ các chứng cứ, tài liệu cần thiết, Luật sư cần
nghiên cứu kỹ những tài liệu này. Luật sư có thể thực hiện quyền đề
nghị Tòa án cho sao chụp thêm những tài liệu, chứng cứ mà đương sự
đối phương cung cấp, giao nộp trong hồ sơ để nghiên cứu. Luật sư cần
đối chiếu giữa yêu cầu, nguyện vọng của khách hàng với các chứng
cứ, tài liệu trong hồ sơ để xác định những điểm mạnh, điểm yếu của
khách hàng, từ đó trao đổi với khách hàng để xây dựng phương án bảo
vệ và chuẩn bị bản luận cứ để bảo vệ quyền lợi cho khách hàng tại
phiên tòa phúc thẩm.
Tùy theo nội dung phán quyết của Tòa án cấp sơ thẩm mà Luật sư
cần phải chuẩn bị bản luận cứ theo hướng thuyết phục Tòa án cấp phúc
thẩm giữ nguyên hoặc sửa bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm
theo thủ tục rút gọn. Luật sư cũng cần chuẩn bị tâm lý cho khách hàng
và chủ động hỗ trợ họ trong việc xây dựng lập luận để phản bác lại đề
nghị hủy bản án, quyết định theo thủ tục rút gọn để sơ thẩm lại vụ án.
Xét về hiệu quả tố tụng thì việc hủy bản án, quyết định theo thủ tục rút
gọn của Tòa án cấp sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ

502
thẩm để giải quyết lại vụ án từ đầu sẽ dẫn tới một vòng quay mới của
tố tụng, thời gian giải quyết vụ án bị kéo dài là điều mà cả Luật sư và
khách hàng đều không mong muốn.
2.2. Kỹ năng của Thẩm phán trong thủ tục rút gọn
Theo quy định tại Điều 316 BLTTDS 2015 thì các quy định tại
Phần thứ tư của BLTTDS 2015 về giải quyết vụ án dân sự theo thủ
tục rút gọn sẽ được áp dụng đối với những vụ án đủ điều kiện giải
quyết theo thủ tục rút gọn. Cụ thể là các quy định từ Điều 316 đến
Điều 324 BLTTDS 2015 sẽ được Thẩm phán áp dụng để giải quyết
các vụ án theo thủ tục rút gọn. Đối với những vấn đề không được
quy định trong Phần thứ tư của BLTTDS 2015 về giải quyết vụ án
dân sự theo thủ tục rút gọn thì Thẩm phán áp dụng những quy định
khác của BLTTDS 2015 có liên quan để giải quyết vụ án. Các quy
định từ Điều 316 đến Điều 324 BLTTDS 2015 chỉ đề cập tới phạm
vi, điều kiện, quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm theo thủ tục rút
gọn; khiếu nại, kiến nghị và giải quyết khiếu nại, kiến nghị đối với
quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm theo thủ tục rút gọn; phiên
tòa xét xử theo thủ tục rút gọn; hiệu lực của bản án, quyết định theo
thủ tục rút gọn; thời hạn kháng cáo, kháng nghị đối với bản án, quyết
định theo thủ tục rút gọn; thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm theo
thủ tục rút gọn; thủ tục phúc thẩm rút gọn đối với bản án, quyết định
của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị. Do vậy, khi thụ lý
giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn, Thẩm phán cần nghiên cứu kỹ
các quy định từ Điều 316 đến Điều 324 BLTTDS 2015 để áp dụng.
Đối với những vấn đề không được quy định trong các điều khoản
này thì Thẩm phán cần nghiên cứu áp dụng những quy định khác của
BLTTDS 2015 có liên quan để giải quyết vụ án.
2.2.1. Kỹ năng của Thẩm phán trong thụ lý vụ án dân sự theo thủ
tục rút gọn
Các quy định từ Điều 316 đến Điều 324 BLTTDS 2015 không
có quy định riêng về thụ lý vụ án theo thủ tục rút gọn. Do vậy, khi

503
thụ lý vụ án theo thủ tục rút gọn, Thẩm phán cần căn cứ vào các quy
định chung về thụ lý vụ án được quy định từ Điều 191 đến Điều 196
BLTTDS 2015 để áp dụng đối với những vụ án đủ điều kiện giải quyết
theo thủ tục rút gọn.
a) Nhận đơn khởi kiện và các giấy tờ, tài liệu kèm theo đơn
khởi kiện
Vụ tranh chấp được giải quyết theo thủ tục rút gọn cũng được
bắt đầu từ việc nhận và xử lý đơn khởi kiện của Tòa án. Việc tiếp
nhận hồ sơ khởi kiện dựa trên các quy định tại Điều 190, Điều 191
BLTTDS 2015 và tham khảo hướng dẫn nghiệp vụ tại Điều 7 Nghị
quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 hướng dẫn BLTTDS
sửa đổi năm 2011 trước đây. Theo đó, việc tiếp nhận hồ sơ khởi kiện
được thực hiện thông qua bộ phận tiếp nhận đơn tại Tòa án. Bộ phận
này phải nhận đơn khởi kiện do người khởi kiện nộp trực tiếp tại Tòa
án hoặc gửi qua dịch vụ bưu chính và phải ghi vào sổ nhận đơn ngày,
tháng, năm nhận đơn của đương sự để làm căn cứ xác định ngày khởi
kiện, đồng thời ghi (hoặc đóng dấu nhận đơn có ghi) ngày, tháng, năm
nhận đơn vào góc trên bên trái của đơn khởi kiện. Khi nhận đơn khởi
kiện nộp trực tiếp, Tòa án có trách nhiệm cấp ngay giấy xác nhận đã
nhận đơn cho người khởi kiện. Trong trường hợp này, ngày khởi kiện
được xác định là ngày nộp đơn khởi kiện tại Tòa án. Việc ghi ngày,
tháng, năm nhận đơn trong sổ nhận đơn và trong giấy xác nhận cần bảo
đảm sự chính xác vì ngày nhận đơn là cơ sở để xác định ngày khởi kiện
của đương sự, đồng thời là cơ sở để xác định vụ tranh chấp có còn thời
hiệu khởi kiện hay không.
Đối với trường hợp nhận đơn qua dịch vụ bưu chính thì Toà án
ghi ngày, tháng, năm nhận đơn do tổ chức dịch vụ bưu chính chuyển
đến vào sổ nhận đơn và ngày, tháng, năm đương sự gửi đơn theo
ngày, tháng, năm có dấu của tổ chức dịch vụ bưu chính nơi gửi đơn.
Phong bì có dấu tổ chức dịch vụ bưu chính phải được đính kèm đơn
khởi kiện. Trong trường hợp này, ngày khởi kiện được xác định là
ngày được ghi trên dấu của tổ chức dịch vụ bưu chính nơi gửi. Trong

504
thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn, Tòa án phải gửi
thông báo nhận đơn cho người khởi kiện để họ được biết về việc Tòa
án đã nhận đơn. Trường hợp không xác định được ngày, tháng, năm
theo dấu bưu chính nơi gửi thì ngày khởi kiện là ngày đương sự gửi
đơn tại tổ chức dịch vụ bưu chính. Trong trường hợp này, Tòa án cần
yêu cầu đương sự phải chứng minh ngày mình gửi đơn tại tổ chức dịch
vụ bưu chính; trường hợp đương sự không chứng minh được thì ngày
khởi kiện là ngày Tòa án nhận được đơn khởi kiện do tổ chức dịch vụ
bưu chính chuyển đến.
Trường hợp Tòa án nhận đơn khởi kiện được gửi bằng phương
thức gửi trực tuyến thì Tòa án in ra bản giấy và phải ghi vào sổ nhận
đơn ngày, tháng, năm nhận đơn của đương sự. Trong trường hợp này
thì ngày khởi kiện là ngày đương sự gửi đơn khởi kiện trực tuyến. Tòa
án phải thông báo ngay việc nhận đơn cho người khởi kiện qua Cổng
thông tin điện tử của Tòa án.
Về nguyên tắc thì đương sự phải giao nộp kèm theo đơn khởi kiện
các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình. Do
vậy, khi nhận đơn khởi kiện của đương sự Tòa án cần thu nhận luôn cả
các tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người
khởi kiện. Trong các vụ kiện theo thủ tục thông thường nếu trường hợp
vì lý do khách quan mà người khởi kiện không thể nộp đầy đủ tài liệu,
chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện thì họ phải nộp tài liệu, chứng cứ
hiện có để chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị
xâm phạm. Người khởi kiện có thể bổ sung hoặc giao nộp bổ sung tài
liệu, chứng cứ khác theo yêu cầu của Tòa án trong quá trình giải quyết
vụ án. Tuy nhiên, nếu trong đơn khởi kiện đương sự yêu cầu Tòa án
giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn thì Tòa án cần yêu cầu đương sự
giao nộp các chứng cứ, tài liệu có liên quan chứng minh vụ tranh chấp
có đủ các điều kiện cần thiết để giải quyết theo thủ tục rút gọn. Việc
yêu cầu đương sự giao nộp những tài liệu, chứng cứ này là cần thiết để
Thẩm phán được phân công xem xét đơn khởi kiện có cơ sở để quyết
định tiến hành thủ tục thụ lý vụ án theo thủ tục thông thường hoặc theo

505
thủ tục rút gọn. Các chứng cứ, tài liệu được giao nộp phải chứng minh
vụ tranh chấp có đủ các điều kiện sau đây:
- Vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng, đương sự
đã thừa nhận nghĩa vụ;
- Tài liệu, chứng cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ
án và Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ;
- Các đương sự đều có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ ràng ở Việt
Nam và không có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở
nước ngoài.
Về nguyên tắc trong trường hợp người khởi kiện giao nộp trực
tiếp đơn khởi kiện và chứng cứ kèm theo tại Toà án, thì cán bộ bộ phận
chuyên môn, nghiệp vụ của Toà án được Chánh án Toà án phân công
nhận đơn chịu trách nhiệm nhận đơn và chứng cứ kèm theo đó. Cán
bộ Toà án phải ghi việc nhận đơn và chứng cứ kèm theo vào sổ nhận
đơn, đồng thời, phải tiến hành lập biên bản về việc giao nhận chứng
cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 96 BLTTDS 2015. Cán bộ Toà án
phải đối chiếu danh mục chứng cứ, tài liệu gửi kèm theo đơn khởi
kiện và chứng cứ, tài liệu được gửi kèm theo để ghi vào sổ nhận đơn
chứng cứ đó. Nếu thấy chứng cứ nào còn thiếu hoặc không đầy đủ so
với danh mục thì phải thông báo ngay cho họ biết để họ giao nộp bổ
sung. Khi tiến hành lập biên bản về việc giao nhận chứng cứ cần lưu ý
trong biên bản phải ghi rõ tên gọi, hình thức, nội dung, đặc điểm của
tài liệu, chứng cứ; số bản, số trang của chứng cứ và thời gian nhận; chữ
ký hoặc điểm chỉ của người giao nộp, chữ ký của người nhận và dấu
của Tòa án. Biên bản phải lập thành hai bản, một bản lưu vào hồ sơ vụ
việc dân sự và một bản giao cho đương sự nộp chứng cứ. Trường hợp
đương sự giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ bằng tiếng dân tộc
thiểu số, tiếng nước ngoài thì phải yêu cầu họ gửi kèm theo bản dịch
sang tiếng Việt, được công chứng, chứng thực hợp pháp.
b) Kiểm tra, xử lý đơn khởi kiện và các giấy tờ, tài liệu kèm theo
Việc Tòa án nhận đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn

506
khởi kiện chỉ là thủ tục ban đầu. Tòa án cần phải tiếp tục nghiên cứu,
đối chiếu và kiểm tra những tài liệu này để xác định hồ sơ khởi kiện có
thỏa mãn các điều kiện của việc khởi kiện, thụ lý hay không. Theo quy
định tại Điều 191 BLTTDS 2015 thì trong thời hạn 03 ngày làm việc,
kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Chánh án Tòa án phân công một
Thẩm phán xem xét đơn khởi kiện. Thẩm phán được Chánh án Tòa
án phân công xem xét đơn khởi kiện cần nghiên cứu các tài liệu để
xác định quan hệ pháp luật có tranh chấp cần được Tòa án giải quyết;
thẩm quyền của Tòa án; tư cách pháp lý của chủ thể khởi kiện; sự việc
tranh chấp có thuộc trường hợp đã được Tòa án giải quyết bằng bản
án, quyết định có hiệu lực hay chưa; chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ khởi
kiện có đủ để khẳng định vụ tranh chấp thỏa mãn các điều kiện để thụ
lý giải quyết theo thủ tục rút gọn hay không.
- Thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công xem xét đơn khởi
kiện cần lưu ý rằng thời hạn nghiên cứu, xem xét hồ sơ khởi kiện để
xác định những vấn đề trên chỉ là 05 ngày làm việc, kể từ ngày được
Chánh án phân công. Do vậy, công việc nghiên cứu, xem xét hồ sơ
khởi kiện cần phải được tiến hành một cách nhanh chóng và khẩn
trương để có thể có một trong các quyết định sau đây:
+ Yêu cầu đương sự phải sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện;
+ Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án theo thủ tục thông thường hoặc
theo thủ tục rút gọn nếu vụ án có đủ điều kiện để giải quyết theo thủ
tục rút gọn;
+ Chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và thông báo
cho người khởi kiện nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
án khác;
+ Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện nếu vụ việc đó không
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
- Thẩm phán cần nghiên cứu, kiểm tra hình thức và nội dung đơn
khởi kiện để xác định hình thức và nội dung đơn khởi kiện đã theo
đúng thể thức mà pháp luật quy định hay chưa, có cần phải yêu cầu

507
đương sự sửa đổi, bổ sung vấn đề gì trong đơn khởi kiện không. Khi
kiểm tra hình thức, nội dung đơn khởi kiện và các tài liệu ban đầu,
Thẩm phán cũng cần xác định tư cách pháp lý và năng lực hành vi của
người khởi kiện. Nếu Thẩm phán xác định là người khởi kiện không
có quyền khởi kiện (do không phải là chủ thể của quan hệ pháp luật dân
sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; không phải
là người đại diện hợp pháp của đương sự) hoặc không có đủ năng lực
hành vi tố tụng dân sự để thực hiện việc khởi kiện thì cần phải trả lại
đơn khởi kiện cho người khởi kiện theo quy định tại điểm a khoản 1
Điều 192 BLTTDS 2015.
- Thẩm phán cần kiểm tra đơn khởi kiện, đối chiếu với những
tài liệu có trong hồ sơ khởi kiện để xác định quan hệ pháp luật có tranh
chấp cần được giải quyết là quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia
đình hay kinh doanh, thương mại, lao động. Trên cơ sở đó, Thẩm phán
cần đối chiếu với các quy định tại Điều 26, Điều 28, Điều 30 và Điều
32 BLTTDS 2015 để xác định vụ tranh chấp có thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án hay không. Nếu xác định vụ tranh chấp không thuộc
thẩm quyền của Tòa án mà thuộc thẩm quyền của Trọng tài hay cơ
quan, tổ chức khác thì Thẩm phán cần trả lại đơn khởi kiện cho người
khởi kiện theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 192 BLTTDS 2015.
Trường hợp xác định vụ tranh chấp thuộc thẩm quyền của Tòa án thì
Thẩm phán cần đối chiếu với các quy định về thẩm quyền theo cấp Tòa
án từ Điều 35 đến Điều 38 BLTTDS 2015 và các quy định về thẩm
quyền theo lãnh thổ tại Điều 39 và Điều 40 BLTTDS 2015 để xác định
vụ tranh chấp có thuộc thẩm quyền thụ lý giải quyết của Tòa án mình
hay không. Nếu xác định vụ tranh chấp thuộc thẩm quyền theo cấp
hoặc theo lãnh thổ của một Tòa án khác thì Thẩm phán cần quyết
định chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và thông báo
cho người khởi kiện biết.
- Thẩm phán cần kiểm tra đơn khởi kiện, đối chiếu với những tài
liệu có trong hồ sơ khởi kiện để xác định sự việc tranh chấp có thuộc
trường hợp đã được Tòa án giải quyết bằng bản án, quyết định có hiệu

508
lực hay chưa. Nếu sự việc đã từng được Tòa án giải quyết bằng bản
án, quyết định có hiệu lực pháp luật thì có thuộc trường hợp đương sự
có quyền khởi kiện lại theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 192 và
Điều 218 BLTTDS 2015 hay không. Nếu xác định sự việc không thuộc
trường hợp đương sự có quyền khởi kiện lại thì Thẩm phán cần phải trả
lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện theo quy định tại điểm c khoản 1
Điều 192 BLTTDS 2015.
- Trường hợp Thẩm phán thông qua việc nghiên cứu đơn khởi
kiện và các tài liệu, chứng cứ ban đầu đã xác định được quan hệ pháp
luật có tranh chấp cần được giải quyết thuộc quan hệ pháp luật dân sự,
hôn nhân và gia đình hay kinh doanh, thương mại, lao động; tranh chấp
thuộc thẩm quyền của Tòa án đã nhận đơn; người khởi kiện có đầy đủ
tư cách pháp lý của chủ thể khởi kiện; sự việc tranh chấp chưa được
Tòa án giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực thì cần tiếp
tục kiểm tra, đối chiếu để xác định chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ khởi
kiện có đủ để khẳng định vụ tranh chấp có thỏa mãn các điều kiện để
thụ lý giải quyết theo thủ tục rút gọn hay không để quyết định tiến
hành thủ tục thụ lý vụ án theo thủ tục thông thường hoặc theo thủ tục
rút gọn. Cụ thể là Thẩm phán cần kiểm tra, đối chiếu để xác định vụ
tranh chấp có đủ các điều kiện sau đây hay không:
+ Vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng, đương
sự đã thừa nhận nghĩa vụ;
+ Tài liệu, chứng cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ
án và Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ;
+ Các đương sự đều có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ ràng ở Việt
Nam và không có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở
nước ngoài.
Nếu vụ tranh chấp thỏa mãn các điều kiện trên thì Thẩm phán sẽ
tiến hành thụ lý vụ án để giải quyết theo thủ tục rút gọn. Trường hợp
ngược lại thì Tòa án sẽ tiến hành thủ tục thụ lý vụ án để giải quyết theo
thủ tục thông thường.

509
Về nguyên tắc, sau khi nhận đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ
kèm theo, nếu xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
thì Thẩm phán phải thông báo ngay cho người khởi kiện biết để họ
đến Tòa án làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí. Thẩm phán dự tính số
tiền tạm ứng án phí, ghi vào giấy báo và giao cho người khởi kiện để
họ nộp tiền tạm ứng án phí. Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận
được giấy báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng án phí, người khởi
kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí và nộp cho Tòa án biên lai thu tiền
tạm ứng án phí. Thẩm phán thụ lý vụ án khi người khởi kiện nộp cho
Tòa án biên lai thu tiền tạm ứng án phí, trừ trường hợp người khởi kiện
được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm
phán phải thông báo bằng văn bản cho nguyên đơn, bị đơn và cho Viện
kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý vụ án theo thủ tục rút gọn.
Đối với vụ án do người tiêu dùng khởi kiện thì Tòa án phải niêm yết
công khai tại trụ sở Tòa án thông tin về việc thụ lý vụ án trong thời hạn 03
ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án. Văn bản thông báo phải có các
nội dung chính sau đây:
- Ngày, tháng, năm làm văn bản thông báo;
- Tên, địa chỉ Tòa án đã thụ lý vụ án;
- Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của
người khởi kiện;
- Những vấn đề cụ thể người khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết;
- Vụ án được thụ lý theo thủ tục rút gọn;
- Danh mục tài liệu, chứng cứ người khởi kiện nộp kèm theo đơn
khởi kiện;
- Thời hạn bị đơn phải có ý kiến bằng văn bản nộp cho Tòa án đối
với yêu cầu của người khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo;
- Hậu quả pháp lý của việc bị đơn không nộp cho Tòa án văn bản
về ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện.

510
Trường hợp nguyên đơn có đơn yêu cầu Tòa án hỗ trợ trong
việc gửi tài liệu, chứng cứ thì kèm theo thông báo về việc thụ lý vụ
án, Tòa án gửi cho bị đơn bản sao tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn
cung cấp.
2.2.2. Kỹ năng của Thẩm phán trong nghiên cứu hồ sơ vụ án dân
sự theo thủ tục rút gọn
Theo quy định tại Điều 318 BLTTDS 2015 thì trong thời hạn
không quá 01 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán được phân
công giải quyết vụ án phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ
tục rút gọn và mở phiên tòa xét xử trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày
ra quyết định. Như vậy, theo quy định này thì Thẩm phán có thời
hạn không quá 01 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án để nghiên cứu hồ
sơ trước khi ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn.
Có thể nhận thấy nếu Tòa án thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục rút
gọn thì thời hạn nghiên cứu hồ sơ của Thẩm phán là khá ngắn so với
thời hạn nghiên cứu hồ sơ và chuẩn bị xét xử sơ thẩm theo thủ tục tố
tụng thông thường. Cụ thể là theo thủ tục tố tụng thông thường thì
thời hạn chuẩn bị xét sơ thẩm đối các tranh chấp dân sự, hôn nhân và
gia đình là từ 04 đến 06 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án; đối với các
tranh chấp về kinh doanh, thương mại, lao động thì thời hạn này là 02
đến 03 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án. Do vậy, để thuận lợi cho việc
giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn thì Chánh án Tòa án nên phân
công Thẩm phán đã thụ lý vụ án tiếp tục nghiên cứu hồ sơ vụ án để
chuẩn bị cho việc xét xử sơ thẩm. Tuy nhiên, trường hợp cần bảo đảm
nguyên tắc vô tư, khách quan, ngẫu nhiên thì Chánh án Tòa án có thể
phân công một Thẩm phán khác nghiên cứu hồ sơ vụ án để chuẩn bị
cho việc xét xử sơ thẩm tại phiên tòa. Trong cả hai trường hợp trên thì
Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án cần khẩn trương nghiên
cứu hồ sơ vụ án để có thể nhanh chóng ra quyết định đưa vụ án ra
xét xử theo thủ tục rút gọn hoặc ra quyết định chuyển vụ án sang giải
quyết theo thủ tục thông thường.

511
Nếu Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án theo thủ tục
rút gọn chính là Thẩm phán đã xem xét thụ lý vụ án trước đây thì việc
nghiên cứu hồ sơ để quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút
gọn hoặc chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường sẽ
được thuận lợi hơn. Tuy nhiên, không vì thế mà Thẩm phán chủ quan
dẫn tới việc nghiên cứu hồ sơ một cách hình thức, thiếu cẩn trọng.
Thẩm phán cần coi đây là cơ hội để kiểm tra, rà soát lại việc thụ lý
của mình đồng thời nghiên cứu kỹ hồ sơ để có thể xét xử và ra bản án
một cách thuyết phục nhất. Đối với Thẩm phán mới được phân công
giải quyết vụ án thì họ cần phải nghiên cứu hồ sơ một cách thận trọng
để xác định việc thụ lý giải quyết theo thủ tục rút gọn của Thẩm phán
trước đó có hợp lý và đúng pháp luật không; chứng cứ, tài liệu trong
hồ sơ đã đủ để kết luận vụ án có thể đưa ra xét xử theo thủ tục rút gọn
hay chưa. Trong cả hai trường hợp nêu trên thì việc nghiên cứu hồ sơ
đều cần phải được tiến hành một cách thận trọng, khách quan và toàn
diện. Việc nghiên cứu hồ sơ thiếu thận trọng, khách quan, toàn diện
có thể dẫn tới sai lầm do quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm theo
thủ tục rút gọn không đúng và dẫn tới việc phải hủy quyết định này
và chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường, gây kéo
dài thời gian giải quyết vụ án.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử đối với các vụ kiện theo thủ tục tố
tụng thông thường, Thẩm phán phải tiến hành các công việc như lập hồ
sơ vụ án; xác định tư cách đương sự, người tham gia tố tụng khác; xác
định quan hệ tranh chấp giữa các đương sự và pháp luật cần áp dụng; làm
rõ những tình tiết khách quan của vụ án; xác minh, thu thập chứng cứ;
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; tổ chức phiên họp kiểm tra việc
giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Tuy nhiên, trong thủ
tục tố tụng dân sự rút gọn, Thẩm phán chủ yếu tiến hành nghiên cứu các
tài liệu, chứng cứ đã được đương sự cung cấp để xác định vụ tranh chấp
có thỏa mãn các điều kiện như có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật
rõ ràng, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ; chứng cứ, tài liệu được cung

512
cấp đã đủ để buộc bị đơn thực hiện nghĩa vụ mà Tòa án không cần phải
thu thập thêm tài liệu, chứng cứ; nguyên đơn và bị đơn có địa chỉ nơi
cư trú, trụ sở rõ ràng tại Việt Nam; tài sản tranh chấp có trên lãnh thổ
Việt Nam. Nếu qua việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, Thẩm phán xác định
vụ tranh chấp thỏa mãn các điều kiện trên thì Thẩm phán có thể quyết
định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn. Nếu qua nghiên cứu mà
xác định vụ tranh chấp không thỏa mãn các điều kiện áp dụng thủ tục rút
gọn thì Thẩm phán cần phải ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết
theo thủ tục thông thường. Cụ thể là Thẩm phán sẽ ra quyết định chuyển
vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường nếu phát sinh tình tiết
mới mà các đương sự không thống nhất do đó cần phải xác minh, thu thập
thêm tài liệu, chứng cứ hoặc cần phải tiến hành giám định; cần phải định
giá, thẩm định giá tài sản tranh chấp mà các đương sự không thống nhất
về giá; cần phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; phát sinh người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; phát sinh yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu
độc lập; phát sinh đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở nước
ngoài, yêu cầu xác minh, thu thập chứng cứ ở nước ngoài mà cần phải thực
hiện ủy thác tư pháp. Trong cả hai trường hợp (Thẩm phán có thể quyết
định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn hoặc chuyển vụ án sang
giải quyết theo thủ tục thông thường) thì việc nghiên cứu hồ sơ vụ án sẽ
giúp Thẩm phán nắm vững nguyên nhân và nội dung của vụ tranh chấp;
những vấn đề các bên có sự thống nhất hoặc có sự thừa nhận của bị đơn,
những vấn đề các bên còn có sự khác biệt, trên cơ sở đó xác định phương
án hòa giải tại phiên tòa theo thủ tục rút gọn hoặc hòa giải trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm nếu vụ án được chuyển sang giải quyết theo thủ
tục thông thường.
Các tài liệu cần được Thẩm phán nghiên cứu trong thủ tục rút gọn
bao gồm:
- Tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp khi khởi kiện theo thủ
tục rút gọn bao gồm đơn khởi kiện; chứng cứ, tài liệu được gửi kèm đơn
khởi kiện;

513
- Văn bản phản hồi của phía bị đơn về yêu cầu khởi kiện theo thủ
tục rút gọn của nguyên đơn và các tài liệu, chứng cứ được phía bị đơn gửi
kèm theo văn bản phản hồi của bị đơn về việc kiện;
- Tài liệu, chứng cứ được các đương sự giao nộp bổ sung hoặc lời
khai của họ.
(1) Nghiên cứu đơn khởi kiện:
Khi nghiên cứu đơn khởi kiện theo thủ tục rút gọn, Thẩm phán cần
đọc và xem xét kỹ đơn khởi kiện của nguyên đơn để xác định tên, địa
chỉ của nguyên đơn, bị đơn, nội dung sự việc; yêu cầu của nguyên đơn,
lập luận để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện và danh mục những tài
liệu, chứng cứ được gửi kèm theo đơn khởi kiện. Theo kinh nghiệm nghề
nghiệp của mình Thẩm phán có thể nhận thấy nếu đơn khởi kiện theo thủ
tục rút gọn do Luật sư soạn thảo thì các vấn đề thuộc về điều kiện áp dụng
thủ tục rút gọn thường được mô tả khá rõ ràng trong đơn khởi kiện. Do
vậy, trong trường hợp này Thẩm phán cần căn cứ vào nội dung đơn khởi
kiện, kiểm tra, đối chiếu với danh mục tài liệu, chứng cứ gửi kèm theo
để xác định các điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn theo quy định tại Điều
317 BLTTDS 2015. Đối với trường hợp đơn khởi kiện do đương sự tự
soạn thảo thì Thẩm phán cần nghiên cứu thận trọng để xác định nguyên
đơn có nguyện vọng thụ lý giải quyết theo thủ tục rút gọn hay thủ tục tố
tụng thông thường, nội dung đơn khởi kiện và danh mục tài liệu, chứng
cứ kèm theo có đủ để xác định vụ kiện có thể được giải quyết theo thủ
tục rút gọn hay không.
(2) Nghiên cứu tài liệu, chứng cứ gửi kèm theo đơn khởi kiện:
Khi nghiên cứu đơn khởi kiện và danh mục tài liệu, chứng cứ
kèm theo, Thẩm phán mới bước đầu xác định vụ tranh chấp có khả
năng được giải quyết theo thủ tục rút gọn. Thẩm phán cần tiếp tục
nghiên cứu, đối chiếu đơn khởi kiện, các tài liệu, chứng cứ kèm theo
với các điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn để tiếp tục củng cố cho
giả thuyết này. Thông thường, Thẩm phán cần đọc kỹ bản hợp đồng,

514
giấy vay nợ, văn bản thỏa thuận... được nộp kèm theo đơn khởi kiện
để xác định tính hợp pháp của hợp đồng, nội dung quyền, nghĩa vụ
được các bên cam kết, thỏa thuận. Thẩm phán cũng cần so sánh, đối
chiếu với các tài liệu khác như giấy bảo hành, giấy tờ về quyền sở
hữu, sử dụng tài sản, giấy tờ về việc thế chấp, biên bản giao nhận tài
sản... để làm rõ quá trình thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng, trên cơ
sở đó xác định tính đơn giản, rõ ràng của quan hệ pháp luật có tranh
chấp. Tiếp theo đó, Thẩm phán cần nghiên cứu kỹ các tài liệu khác
do nguyên đơn cung cấp về việc bị đơn thừa nhận nghĩa vụ đã cam
kết, thỏa thuận như giấy thừa nhận khoản tiền chưa thanh toán, biên
bản thừa nhận nợ hoặc chốt nợ... Đây là những tài liệu hết sức quan
trọng để có thể quyết định vụ tranh chấp sẽ được đưa ra xét xử theo
thủ tục rút gọn. Tuy nhiên, Thẩm phán cũng cần đối chiếu, so sánh
các tài liệu để xác định sự phù hợp và tính xác thực của tài liệu cũng
như kiểm tra chữ viết, chữ ký của các đương sự trên các tài liệu này
để xác định độ tin cậy và giá trị chứng minh của chứng cứ.
Trên cơ sở địa chỉ của bị đơn được mô tả trong đơn khởi kiện,
Thẩm phán tiến hành đối chiếu với các tài liệu do nguyên đơn cung
cấp như chứng minh thư nhân dân, hộ khẩu gia đình, giấy xác nhận nơi
bị đơn cư trú của chính quyền địa phương; giấy tờ chứng minh trụ sở
của bị đơn do Sở Kế hoạch và Đầu tư xác nhận... để xác định bị đơn
có nơi cư trú, trụ sở rõ ràng hay không. Đối với trường hợp có một bên
đương sự cư trú ở nước ngoài thì Thẩm phán cần kiểm tra trong hồ sơ
khởi kiện có văn bản thỏa thuận của các bên về việc đề nghị Tòa án giải
quyết theo thủ tục rút gọn hay không. Đối với trường hợp tài sản tranh
chấp ở nước ngoài thì Thẩm phán cần kiểm tra hồ sơ khởi kiện để xác
định có chứng cứ, tài liệu về quyền sở hữu hợp pháp tài sản và văn bản
thỏa thuận của các đương sự về việc xử lý tài sản hay không.
(3) Nghiên cứu văn bản phản hồi của bị đơn về việc khởi kiện và
các tài liệu, chứng cứ được phía bị đơn gửi kèm theo:
Ở phần trên, chúng ta đã đề cập tới việc nghiên cứu của Thẩm

515
phán đối với đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn
cung cấp, trong đó có những văn bản, tài liệu có chữ ký của bị đơn. Tuy
nhiên, để bảo đảm tính khách quan, toàn diện trong việc quyết định đưa
vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn thì Thẩm phán vẫn cần phải nghiên
cứu cả văn bản phản hồi của bị đơn về việc khởi kiện và các tài liệu,
chứng cứ được bị đơn gửi kèm theo để có thể xác định và đưa ra kết
luận cuối cùng về vụ tranh chấp cần được đưa ra xét xử theo thủ tục tố
tụng thông thường hay thủ tục rút gọn. Thẩm phán cũng có thể lấy lời
khai của các đương sự để có thêm cơ sở chắc chắn cho việc quyết định.
Nếu bị đơn phản đối yêu cầu khởi kiện, không nhất trí về khoản tiền
phải thanh toán hay các điều khoản của hợp đồng, bác bỏ các tài liệu
mà phía nguyên đơn cung cấp, không thừa nhận chữ ký trong các tài
liệu... thì vụ tranh chấp không còn hội đủ các điều kiện để quyết định
đưa ra xét xử theo thủ tục rút gọn nữa và cần được quyết định chuyển
sang giải quyết theo thủ tục thông thường.
2.2.3. Kỹ năng của Thẩm phán trong việc ra quyết định đưa vụ
án ra xét xử theo thủ tục rút gọn và tiến hành phiên tòa sơ thẩm
a) Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn
Như đã phân tích ở trên, việc nghiên cứu hồ sơ vụ án được thụ
lý theo thủ tục rút gọn có thể dẫn tới việc Thẩm phán ra một trong
hai quyết định là ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút
gọn hoặc quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông
thường. Khi ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút
gọn, Thẩm phán cần lưu ý quyết định này phải có các nội dung chính
sau đây:
- Ngày, tháng, năm ra quyết định;
- Tên Tòa án ra quyết định;
- Vụ án được đưa ra xét xử theo thủ tục rút gọn;
- Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của

516
nguyên đơn, bị đơn hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
- Họ, tên Thẩm phán, Thư ký Tòa án; họ, tên Thẩm phán dự
khuyết (nếu có);
- Họ, tên Kiểm sát viên; họ, tên Kiểm sát viên dự khuyết
(nếu có);
- Ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm mở phiên tòa;
- Xét xử công khai hoặc xét xử kín;
- Họ, tên những người được triệu tập tham gia phiên tòa.
Thẩm phán cũng cần lưu ý là để bảo đảm quyền tố tụng của
đương sự và quyền kiểm sát của Viện kiểm sát đối với việc giải quyết
của Tòa án theo thủ tục rút gọn thì quyết định đưa vụ án ra xét xử theo
thủ tục rút gọn phải được gửi ngay cho đương sự, Viện kiểm sát cùng
cấp khi ra quyết định. Trường hợp Viện kiểm sát bắt buộc phải tham
gia phiên tòa theo quy định thì Tòa án phải gửi hồ sơ vụ án cùng quyết
định đưa vụ án ra xét xử cho Viện kiểm sát cùng cấp.
b) Tiến hành phiên tòa sơ thẩm theo thủ tục rút gọn
Thẩm phán có thời hạn 10 ngày, kể từ ngày ra quyết định đưa vụ
án ra xét xử theo thủ tục rút gọn để chuẩn bị cho việc xét xử tại phiên
tòa. Trong thời hạn này, Thẩm phán phải tiến hành việc triệu tập các
đương sự đến tham gia phiên tòa. Thẩm phán phải gửi hồ sơ vụ án cùng
quyết định đưa vụ án ra xét xử cho Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu
để tham gia phiên tòa. Thẩm phán cũng cần nghiên cứu, rà soát lại toàn
bộ hồ sơ vụ án và cân nhắc về các phương án dự kiến sẽ tiến hành hòa
giải tại phiên tòa; chuẩn bị kế hoạch điều hành tranh tụng tại phiên tòa
trong trường hợp việc hòa giải không thành. Do phiên tòa sơ thẩm chỉ
do một mình Thẩm phán tiến hành nên Thẩm phán cần chuẩn bị dự thảo
bản án theo thủ tục rút gọn và phương án điều chỉnh dự thảo bản án theo
diễn biến tại phiên tòa. Thẩm phán cũng cần phải chuẩn bị phương án

517
dự phòng trong trường hợp phát sinh tình tiết mới tại phiên tòa làm cho
vụ án không còn đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục rút gọn và phải
quyết định chuyển sang giải quyết theo thủ tục thông thường.
Thẩm phán tiến hành thủ tục khai mạc phiên tòa và đọc quyết
định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn. Sau khi nghe Thư ký
phiên tòa báo cáo về sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia
phiên tòa theo giấy triệu tập, giấy báo của Tòa án và lý do vắng mặt,
Thẩm phán phải lưu ý tiến hành các công việc sau đây:
- Kiểm tra lại sự có mặt của những người tham gia phiên tòa theo
giấy triệu tập, giấy báo của Tòa án và kiểm tra căn cước của đương sự,
người tham gia tố tụng khác.
- Phổ biến quyền, nghĩa vụ của đương sự và của người tham gia
tố tụng khác.
- Giới thiệu họ, tên những người tiến hành tố tụng.
- Hỏi đương sự và người bảo vệ quyền lợi của họ có yêu cầu thay
đổi Thẩm phán, Kiểm sát viên, Thư ký phiên tòa không.
Thẩm phán cần lưu ý là khác với phiên tòa theo thủ tục thông
thường, phiên tòa theo thủ tục rút gọn vẫn được tiến hành trong trường
hợp bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập
hợp lệ mà vắng mặt không có lý do chính đáng hoặc trường hợp Kiểm
sát viên vắng mặt tại phiên tòa.
Sau khi khai mạc phiên tòa, Thẩm phán tiến hành hòa giải để
giúp các bên đương sự thương lượng với nhau về việc giải quyết
tranh chấp. Trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về
vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì Thẩm phán ra quyết định công
nhận sự thoả thuận của các đương sự. Trường hợp các đương sự
không thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ
án thì Thẩm phán tiến hành xét xử. Kỹ năng điều hành việc trình bày,
tranh luận, đối đáp, đề xuất quan điểm về việc giải quyết vụ án được

518
thực hiện theo quy định như đối với phiên tòa theo thủ tục tố tụng
thông thường.
2.3. Kỹ năng của Kiểm sát viên trong thủ tục rút gọn
2.3.1. Kiểm sát việc thụ lý vụ án theo thủ tục rút gọn
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm
phán phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp về việc
Tòa án đã thụ lý vụ án theo thủ tục rút gọn. Văn bản thông báo phải có
các nội dung chính sau đây:
- Ngày, tháng, năm làm văn bản thông báo;
- Tên, địa chỉ Tòa án đã thụ lý vụ án;
- Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của
người khởi kiện;
- Những vấn đề cụ thể người khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết;
- Vụ án được thụ lý theo thủ tục rút gọn;
- Danh mục tài liệu, chứng cứ người khởi kiện nộp kèm theo đơn
khởi kiện;
- Thời hạn bị đơn phải có ý kiến bằng văn bản nộp cho Tòa án đối
với yêu cầu của người khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo;
- Hậu quả pháp lý của việc bị đơn không nộp cho Tòa án văn bản
về ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện.
Về nguyên tắc thì khi nhận được thông báo của Tòa án về việc
trả lại đơn khởi kiện hoặc thụ lý vụ án theo thủ tục rút gọn thì Kiểm
sát viên được phân công kiểm sát việc giải quyết vụ án phải vào sổ
thụ lý, lập phiếu kiểm sát và kiểm tra nội dung của thông báo có phù
hợp với quy định về trả đơn hay thụ lý vụ án theo thủ tục rút gọn hay
không để báo cáo lãnh đạo Viện kiểm sát xem xét kiến nghị Tòa án
tuân thủ theo đúng các quy định về thủ tục tố tụng. Để xác định việc
trả đơn khởi kiện có vi phạm quy định của pháp luật hay không, Kiểm

519
sát viên cần nghiên cứu, đối chiếu lý do trả lại đơn khởi kiện theo văn
bản của Tòa án về việc trả lại đơn khởi kiện với các quy định tại Điều
192 BLTTDS 2015 để xác định việc trả đơn khởi kiện có dựa trên các
căn cứ được BLTTDS 2015 quy định hay không. Nếu phát hiện việc
trả lại đơn khởi kiện không dựa trên các căn cứ được BLTTDS 2015
thì Kiểm sát viên cần báo cáo với lãnh đạo Viện kiểm sát để có văn
bản kiến nghị với Chánh án Tòa án để xem xét lại việc trả lại đơn khởi
kiện của Tòa án.
Đối với trường hợp vụ án được thụ lý theo thủ tục rút gọn thì
Kiểm sát viên cũng cần nghiên cứu nội dung thông báo của Tòa án về
việc đã thụ lý vụ án theo thủ tục rút gọn, đặc biệt là yêu cầu khởi kiện
của đương sự và danh mục tài liệu, chứng cứ được gửi kèm, trên cơ sở
đối chiếu với các quy định tại Điều 317 BLTTDS 2015 về điều kiện
áp dụng thủ tục rút gọn để xác định việc thụ lý vụ án theo thủ tục này
có phù hợp với quy định của BLTTDS 2015 hay không. Nếu xác định
được việc thụ lý vụ án theo thủ tục rút gọn là không đúng thì Kiểm sát
viên cần báo cáo với lãnh đạo Viện Kiểm sát để có văn bản kiến nghị
với Tòa án ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục
thông thường.
2.3.2. Kiểm sát việc ra các quyết định trong giai đoạn chuẩn bị
xét xử sơ thẩm theo thủ tục rút gọn
Về nguyên tắc thì trong thời hạn không quá 01 tháng, kể từ
ngày thụ lý vụ án theo thủ tục rút gọn, Thẩm phán có thể ra một
trong các quyết định như tạm đình chỉ giải quyết vụ án, đình chỉ
giải quyết vụ án hoặc quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục
rút gọn. Hoạt động kiểm sát việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán
trong việc ra các quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án, đình chỉ
giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn được tiến hành như đối với việc
kiểm sát các quyết định theo thủ tục thông thường. Có nghĩa là Kiểm
sát viên cần nghiên cứu nội dung của các quyết định này, đối chiếu
với các quy định về căn cứ tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án từ

520
Điều 214 đến Điều 219 BLTTDS 2015 để xác định việc ra quyết định
của Thẩm phán có tuân theo các quy định của BLTTDS 2015 hay
không. Tuy nhiên, điểm đặc thù trong hoạt động của Kiểm sát viên
đối với việc kiểm sát các quyết định được ban hành trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm theo thủ tục rút gọn chính là kiểm sát việc ra
quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn của Thẩm phán.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì quyết định đưa vụ án ra
xét xử theo thủ tục rút gọn của Thẩm phán cần được gửi ngay cho
Viện kiểm sát cùng cấp. Kiểm sát viên được phân công cần nghiên
cứu quyết định này, đối chiếu với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ
sơ để xác định việc ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục
rút gọn của Thẩm phán có phù hợp với quy định của pháp luật hay
không. Cụ thể là Kiểm sát viên cần căn cứ vào các quy định về điều
kiện áp dụng thủ tục rút gọn tại Điều 317 BLTTDS 2015, đối chiếu
với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ để xác định vụ tranh chấp có
đáp ứng đủ các điều kiện sau đây hay không:
- Vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng, đương sự
đã thừa nhận nghĩa vụ;
- Tài liệu, chứng cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ
án và Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ;
- Các đương sự đều có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ ràng ở Việt
Nam và không có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở
nước ngoài.
Ngoài ra, ngay cả trường hợp việc ra quyết định đưa vụ án ra xét
xử theo thủ tục rút gọn của Thẩm phán là hoàn toàn đúng đắn thì Kiểm
sát viên cũng cần xác định sau khi Thẩm phán ra quyết này thì có xuất
hiện tình tiết mới làm cho vụ án không còn đủ điều kiện để giải quyết
theo thủ tục rút gọn hay không. Kiểm sát viên có thể căn cứ vào các tài
liệu có trong hồ sơ, các tài liệu do Kiểm sát viên thu thập được để xác
định có hay không có việc phát sinh một trong các tình tiết sau đây:

521
- Phát sinh tình tiết mới mà các đương sự không thống nhất do
đó cần phải xác minh, thu thập thêm tài liệu, chứng cứ hoặc cần phải
tiến hành giám định;
- Cần phải định giá, thẩm định giá tài sản tranh chấp mà các
đương sự không thống nhất về giá;
- Cần phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
- Phát sinh người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
- Phát sinh yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập;
- Phát sinh đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở nước
ngoài, yêu cầu xác minh, thu thập chứng cứ ở nước ngoài mà cần phải
thực hiện ủy thác tư pháp.
Nếu xác định Thẩm phán ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo
thủ tục rút gọn nhưng tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ và do Viện kiểm
sát thu thập được lại thể hiện vụ tranh chấp không thỏa mãn các điều
kiện trên thì Kiểm sát viên cần báo cáo với lãnh đạo Viện kiểm sát để
có văn bản kiến nghị với Chánh án Tòa án ra quyết định đưa vụ án
ra xét xử theo thủ tục rút gọn để Tòa án này xem xét việc hủy quyết
định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn và chuyển vụ án sang
giải quyết theo thủ tục thông thường. Về nguyên tắc thì quyết định giải
quyết kiến nghị của Chánh án Tòa án là quyết định cuối cùng và phải
được gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp.
2.3.3. Việc tham gia của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm theo
thủ tục rút gọn
Về nguyên tắc trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên tòa theo
quy định tại khoản 2 Điều 21 BLTTDS 2015 thì Tòa án phải gửi hồ sơ
vụ án cùng quyết định đưa vụ án ra xét xử cho Viện kiểm sát cùng cấp;
trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Viện kiểm
sát phải nghiên cứu và trả lại hồ sơ cho Tòa án. Thời hạn nghiên cứu hồ
sơ để chuẩn bị cho việc tham gia phiên tòa sơ thẩm của Kiểm sát viên là

522
khá ngắn. Tại phiên tòa sơ thẩm theo thủ tục rút gọn, Kiểm sát viên phải
phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán,
Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải
quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Thẩm phán ra bản
án, quyết định và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án. Do vậy, khi
nghiên cứu hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên cần tập trung vào việc xác định
có hay không có những vi phạm tố tụng của Thẩm phán, Thư ký phiên
tòa trong quá trình thụ lý, hoàn thiện hồ sơ và tiến hành phiên tòa xét
xử sơ thẩm theo thủ tục rút gọn. Để có thể đại diện cho Viện kiểm sát
phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án thì Kiểm sát
viên cũng cần tập trung nghiên cứu về tính đơn giản, rõ ràng của nghĩa
vụ phải thực hiện, độ tin cậy của các chứng cứ, tài liệu được các bên
đương sự cung cấp; dự kiến các vấn đề cần đặt câu hỏi tại phiên tòa để
làm rõ về tính đơn giản, rõ ràng của nghĩa vụ mà bị đơn phải thực hiện.
Kiểm sát viên cần chuẩn bị bản dự thảo quan điểm của Viện kiểm sát về
việc tuân theo pháp luật và về việc giải quyết vụ án dự kiến được phát
biểu tại phiên tòa. Kiểm sát viên cần lưu ý là theo quy định hiện hành
thì ngay sau khi kết thúc phiên tòa văn bản này phải được Kiểm sát viên
gửi lại cho Thẩm phán để lưu vào hồ sơ vụ án. Do vậy, việc chuẩn bị
bản dự thảo quan điểm của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật
và về việc giải quyết vụ án cần được Kiểm sát viên tiến hành cẩn trọng,
bám sát hồ sơ, diễn biến của quá trình tố tụng từ khi Tòa án thụ lý và
tại phiên tòa.
Để làm rõ việc tuân thủ quy định về thủ tục tố tụng, Kiểm sát viên
cần nghiên cứu kỹ từng văn bản tố tụng do Tòa án ban hành như thông
báo thụ lý, quyết định phân công Thẩm phán giải quyết vụ án, quyết
định tạm đình chỉ giải quyết vụ án, quyết định đưa vụ án ra xét xử theo
thủ tục rút gọn, quyết định giải quyết khiếu nại... Trên cơ sở nghiên cứu,
Kiểm sát viên đối chiếu với quy định của pháp luật về điều kiện thụ lý,
căn cứ tạm đình chỉ, điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn, thời hạn tố tụng
để xác định người tiến hành tố tụng có tuân thủ theo đúng các quy trình,

523
thủ tục tố tụng hay không; các văn bản tố tụng có được tống đạt cho
đương sự theo đúng thể thức mà pháp luật quy định hay chưa. Việc giải
quyết vụ án theo thủ tục rút gọn chỉ do một Thẩm phán tiến hành, do
vậy, Kiểm sát viên cũng cần xác định Thẩm phán được phân công giải
quyết vụ án theo thủ tục rút gọn có thuộc trường hợp phải từ chối tiến
hành tố tụng hoặc bị thay đổi hay không.
Kiểm sát viên cũng cần nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu trong hồ
sơ vụ án để xác định tính hợp pháp, độ tin cậy và giá trị chứng minh của
từng chứng cứ, tài liệu để có cơ sở đề xuất quan điểm của Viện kiểm
sát về việc giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn. Nếu qua nghiên cứu
hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, Kiểm sát viên nhận thấy phát sinh tình
tiết mới quy định tại khoản 3 Điều 317 BLTTDS 2015 làm cho vụ án
không đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục rút gọn thì Kiểm sát viên
cần đề nghị Thẩm phán xem xét, ra quyết định chuyển vụ án sang giải
quyết theo thủ tục thông thường.
Theo quy định tại Điều 4, Điều 21 và Điều 318 BLTTDS 2015
thì Kiểm sát viên Viện kiểm sát phải tham gia phiên tòa sơ thẩm đối
với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối
tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng
đất, nhà ở hoặc có đương sự là người chưa thành niên, người mất
năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự,
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc trường hợp
Tòa án vẫn phải thụ lý giải quyết vụ tranh chấp mặc dù chưa có điều
luật để áp dụng. Theo quy định tại Điều 320 BLTTDS 2015 về phiên
tòa xét xử theo thủ tục rút gọn thì Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng
cấp phải có mặt tại phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn. Tuy nhiên,
trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì Thẩm phán vẫn tiến hành xét
xử. Do vậy, nếu xét thấy việc tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm
là thực sự cần thiết thì Viện kiểm sát cần phải căn cứ vào quyết định
đưa vụ án ra xét xử, thời gian mở phiên tòa để sắp xếp, bố trí Kiểm
sát viên tham gia phiên tòa sơ thẩm theo thủ tục rút gọn, trong trường

524
hợp vì lý do khách quan thì cần gửi văn bản thể hiện quan điểm của
Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật và về việc giải quyết vụ
án. Sự cẩn trọng này có thể giảm hoặc tránh được nguy cơ phải thực
hiện việc kháng nghị phúc thẩm sau khi Thẩm phán ra bản án, quyết
định theo thủ tục rút gọn.
3. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
1. Nêu những điều kiện để Tòa án thụ lý giải quyết yêu cầu theo
thủ tục rút gọn?
2. Phân tích các hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án theo thủ tục
rút gọn?
3. Trình bày thủ tục phiên tòa sơ thẩm theo thủ tục rút gọn?
4. Trình bày thủ tục kháng cáo, kháng nghị vụ án theo thủ tục
rút gọn?
5. Trình bày thủ tục phúc thẩm vụ án theo thủ tục rút gọn?
6. Trình bày các kỹ năng của Luật sư khi tham gia thủ tục
rút gọn?
7. Trình bày các kỹ năng của Thẩm phán khi tham gia thủ tục
rút gọn?
8. Trình bày các kỹ năng của Kiêm sát viên khi tham gia thủ tục
rút gọn?

525
CHƯƠNG 9
THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VIỆC DÂN SỰ

Mục tiêu của bài học: Nội dung:


Chương này sẽ trang bị cho người học: 1. Một số vấn đề chung về
Về kiến thức, người học có được thủ tục giải quyết việc dân sự
những kiến thức cơ bản về thủ tục 2. Kỹ năng của Luật sư,
giải quyết việc dân sự. Thẩm phán, Kiểm sát viên,
Về kỹ năng, người học có được kỹ Luật sư trong thủ tục giải
năng của Thẩm phán, Kiểm sát viên quyết việc dân sự
và Luật sư khi tham gia giải quyết 2.1. Kỹ năng của Luật sư
việc dân sự. Cụ thể: kỹ năng ban đầu tham gia thủ tục giải quyết
khi thực hiện quyền yêu cầu Tòa án việc dân sự
giải quyết việc dân sự, kỹ năng chuẩn 2.2. Kỹ năng của Thẩm phán
bị tham gia phiên họp sơ thẩm, kỹ trong thủ tục giải quyết việc
năng tham gia phiên họp sơ thẩm, kỹ dân sự
năng tham gia phúc thẩm việc dân sự.
2.3. Kỹ năng của Kiểm sát
Về thái độ, người học có được thái độ viên trong thủ tục giải quyết
tự tin, chuẩn mực, bản lĩnh khi tham việc dân sự
gia thủ tục giải quyết việc dân sự.
3. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
1. Một số vấn đề chung về thủ tục giải quyết việc dân sự
1.1. Phạm vi áp dụng thủ tục giải quyết việc dân sự
Việc dân sự là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức không có tranh
chấp nhưng có yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận một
sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ trong các
quan hệ về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao

526
động của mình hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức khác; yêu cầu Tòa
án công nhận cho mình quyền về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động (Điều 361 BLTTDS 2015). Việc dân sự là
những việc được quy định tại BLTTDS 2015, cụ thể: Điều 27 (Những
yêu cầu về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án), Điều
29 (Những yêu cầu về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án), Điều 31 (Những yêu cầu về kinh doanh, thương
mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án (trừ khoản 4, khoản 5)),
Điều 33 (Những yêu cầu về lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án (trừ khoản 3, khoản 4)).
Khác với vụ án dân sự là những tranh chấp về quyền và nghĩa vụ
dân sự, việc dân sự không có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ dân sự,
do vậy không có các bên đương sự như trong vụ án dân sự. Đương sự
tham gia việc dân sự gọi là người yêu cầu và người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan. Đó cũng là lý do phải có quy định riêng về thủ tục để giải
quyết việc dân sự, được quy định tại Phần thứ sáu BLTTDS 2015. Thủ
tục giải quyết việc dân sự thường nhanh và đơn giản hơn so với thủ tục
giải quyết vụ án dân sự. Trường hợp nếu phần thủ tục giải quyết việc
dân sự không quy định thì áp dụng những quy định khác của BLTTDS
2015 để giải quyết.
Tuy nhiên, Điều 361 BLTTDS 2015 đã quy định rõ “phạm vi
áp dụng” giải quyết các việc dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án.
Theo đó, không phải mọi yêu cầu dân sự nào khi Tòa án giải quyết
cũng được áp dụng các quy định tại Phần thứ sáu BLTTDS 2015.
Yêu cầu dân sự quy định tại khoản 5 Điều 27; khoản 9 Điều 29;
khoản 4, khoản 5 Điều 31; khoản 4, khoản 5 Điều 33 BLTTDS 2015
không áp dụng các quy định tại Phần thứ sáu và quy định khác mà
áp dụng các quy định riêng trong Phần thứ bảy BLTTDS 2015 để
giải quyết.
Ví dụ 1: theo Điều 361 thì những yêu cầu dân sự quy định tại
khoản 5 của Điều 27 BLTTDS 2015 không thuộc giới hạn áp dụng thủ
tục giải quyết quy định tại Phần thứ sáu và các quy định khác mà phải

527
giải quyết theo thủ tục “công nhận và cho thi hành hoặc không công
nhận bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài; công nhận
và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài” được quy định
riêng trong Phần thứ bảy BLTTDS 2015.
1.2. Trình tự giải quyết việc dân sự theo thủ tục sơ thẩm
1.2.1. Đơn yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự
Người yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự phải gửi đơn đến
Tòa án có thẩm quyền. Trường hợp Chấp hành viên yêu cầu Tòa án
giải quyết việc dân sự theo quy định của Luật Thi hành án dân sự thì
có quyền, nghĩa vụ của người yêu cầu giải quyết việc dân sự.
Theo quy định tại Điều 362, đơn yêu cầu phải có các nội dung
chính sau đây: Ngày, tháng, năm làm đơn; Tên Tòa án có thẩm quyền
giải quyết việc dân sự; Tên, địa chỉ; Số điện thoại, fax, địa chỉ thư
điện tử (nếu có) của người yêu cầu; Những vấn đề cụ thể yêu cầu
Tòa án giải quyết và lý do, mục đích, căn cứ của việc yêu cầu Tòa
án giải quyết việc dân sự đó; Tên, địa chỉ của những người có liên
quan đến việc giải quyết việc dân sự đó (nếu có); Các thông tin khác
mà người yêu cầu xét thấy cần thiết cho việc giải quyết yêu cầu của
mình; Người yêu cầu là cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ, nếu là cơ
quan, tổ chức thì đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó phải ký
tên và đóng dấu vào phần cuối đơn; Trường hợp tổ chức yêu cầu là
doanh nghiệp thì việc sử dụng con dấu được thực hiện theo quy định
của Luật Doanh nghiệp. Kèm theo đơn yêu cầu, người yêu cầu phải
gửi tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn
cứ và hợp pháp.
1.2.2. Thủ tục thụ lý đơn yêu cầu
a) Thủ tục nhận đơn yêu cầu
Tòa án nhận đơn yêu cầu theo quy định tại khoản 1 Điều 191
BLTTDS 2015, theo đó Tòa án qua bộ phận tiếp nhận đơn phải nhận
đơn yêu cầu do người yêu cầu nộp trực tiếp tại Tòa án hoặc gửi qua

528
dịch vụ bưu chính và phải ghi vào sổ nhận đơn; trường hợp Tòa án
nhận đơn yêu cầu được gửi bằng phương thức gửi trực tuyến thì Tòa
án in ra bản giấy và phải ghi vào sổ nhận đơn. Khi nhận đơn nộp trực
tiếp, Tòa án có trách nhiệm cấp ngay giấy xác nhận đã nhận đơn cho
người yêu cầu. Đối với trường hợp nhận đơn qua dịch vụ bưu chính
thì trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn, Tòa án
phải gửi thông báo nhận đơn cho người yêu cầu. Trường hợp nhận
đơn bằng phương thức gửi trực tuyến thì Tòa án phải thông báo ngay
việc nhận đơn cho người yêu cầu qua Cổng thông tin điện tử của Tòa
án (nếu có).
b) Xử lý đơn yêu cầu
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn yêu cầu và
tài liệu, chứng cứ kèm theo, Chánh án Tòa án phân công Thẩm phán
giải quyết đơn yêu cầu. Trường hợp đơn yêu cầu chưa ghi đầy đủ nội
dung theo quy định tại khoản 2 Điều 362 thì Thẩm phán yêu cầu người
yêu cầu sửa đổi, bổ sung trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được
yêu cầu. Thủ tục sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu được thực hiện theo quy
định tại khoản 1 Điều 193 của BLTTDS 2015: Thẩm phán thông báo
bằng văn bản nêu rõ những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung cho người yêu
cầu để họ sửa đổi, bổ sung trong thời hạn do Thẩm phán ấn định nhưng
không quá 01 tháng; trường hợp đặc biệt, Thẩm phán có thể gia hạn
nhưng không quá 15 ngày. Văn bản thông báo có thể được giao trực
tiếp, gửi trực tuyến hoặc gửi qua dịch vụ bưu chính và phải ghi chú vào
sổ nhận đơn để theo dõi. Thời hạn thực hiện việc sửa đổi, bổ sung đơn
yêu cầu không tính vào thời hiệu yêu cầu. Hết thời hạn này mà người
yêu cầu không sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu thì Thẩm phán trả lại đơn
yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo.
c) Trả lại đơn yêu cầu
Nếu việc yêu cầu không đủ điều kiện thụ lý, Tòa án trả lại đơn
yêu cầu, cụ thể trong các trường hợp được quy định tại Điều 364: (1)
Người yêu cầu không có quyền yêu cầu hoặc không có đủ năng lực

529
hành vi tố tụng dân sự; (2) Sự việc người yêu cầu yêu cầu đã được
Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết; (3) Việc dân
sự không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án; (4) Người yêu cầu
không sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu trong thời hạn quy định; (5) Người
yêu cầu không nộp lệ phí trong thời hạn quy định, trừ trường hợp được
miễn hoặc không phải nộp lệ phí hoặc chậm nộp vì sự kiện bất khả
kháng, trở ngại khách quan; (6) Người yêu cầu rút đơn yêu cầu; (7)
Những trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
Khi trả lại đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo, Tòa án
phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do. Việc khiếu nại và giải
quyết khiếu nại việc trả lại đơn yêu cầu được thực hiện theo quy định
tại Điều 194 của BLTTDS 2015. Theo đó, trong thời hạn 10 ngày,
kể từ ngày nhận được văn bản trả lại đơn yêu cầu, người yêu cầu có
quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Tòa án đã
trả lại đơn yêu cầu. Ngay sau khi nhận được khiếu nại, kiến nghị về
việc trả lại đơn yêu cầu, Chánh án Tòa án phải phân công một Thẩm
phán khác xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị. Trong thời hạn
05 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải mở
phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị. Phiên họp xem
xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị có sự tham gia của đại diện Viện
kiểm sát cùng cấp và đương sự có khiếu nại; trường hợp đương sự
vắng mặt thì Thẩm phán vẫn tiến hành phiên họp. Căn cứ vào tài
liệu, chứng cứ có liên quan đến việc trả lại đơn yêu cầu, ý kiến của
đại diện Viện kiểm sát và đương sự có khiếu nại tại phiên họp, Thẩm
phán phải ra một trong các quyết định sau đây: (1) Giữ nguyên việc
trả lại đơn yêu cầu và thông báo cho đương sự, Viện kiểm sát cùng
cấp; (2) Nhận lại đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo để tiến
hành việc thụ lý vụ án.
Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định trả
lời khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn yêu cầu của Thẩm phán,
người yêu cầu có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị
với Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp xem xét, giải quyết.

530
Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị về
việc trả lại đơn yêu cầu, Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp phải
ra một trong các quyết định sau đây: (1) Giữ nguyên việc trả lại đơn
khởi kiện; (2) Yêu cầu Tòa án cấp sơ thẩm nhận lại đơn khởi kiện và
tài liệu, chứng cứ kèm theo để tiến hành việc thụ lý vụ án. Quyết định
giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Chánh án Tòa án trên một cấp trực
tiếp có hiệu lực thi hành và được gửi ngay cho người yêu cầu, Viện
kiểm sát cùng cấp, Viện kiểm sát đã kiến nghị và Tòa án đã ra quyết
định trả lại đơn yêu cầu.
Trường hợp có căn cứ xác định quyết định giải quyết của Chánh
án Tòa án trên một cấp trực tiếp có vi phạm pháp luật thì trong thời hạn
10 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định, đương sự có quyền khiếu
nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Chánh án TAND cấp cao
nếu quyết định bị khiếu nại, kiến nghị là của Chánh án TAND cấp tỉnh
hoặc với Chánh án TANDTC nếu quyết định bị khiếu nại, kiến nghị là
của Chánh án TAND cấp cao. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận
được khiếu nại của đương sự, kiến nghị của Viện kiểm sát thì Chánh
án phải giải quyết. Quyết định của Chánh án là quyết định cuối cùng.
d) Thụ lý đơn yêu cầu
Trường hợp xét thấy đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm
theo đã đủ điều kiện thụ lý thì Thẩm phán (1) thông báo cho người
yêu cầu về việc nộp lệ phí yêu cầu giải quyết việc dân sự trong thời
hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo nộp lệ phí,
trừ trường hợp người đó được miễn hoặc không phải nộp lệ phí theo
quy định của pháp luật về phí, lệ phí. (2) Tòa án thụ lý đơn yêu cầu
khi người yêu cầu nộp cho Tòa án biên lai thu tiền lệ phí yêu cầu giải
quyết việc dân sự. (3) Trường hợp người yêu cầu được miễn hoặc
không phải nộp lệ phí thì Thẩm phán thụ lý việc dân sự kể từ ngày
nhận được đơn yêu cầu.
đ) Thông báo thụ lý đơn yêu cầu
Điều 365 BLTTDS 2015 quy định, trong thời hạn 03 ngày làm

531
việc, kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu, Tòa án phải thông báo bằng văn
bản cho người yêu cầu, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến
việc giải quyết việc dân sự, cho Viện kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án
đã thụ lý đơn yêu cầu. Văn bản thông báo phải có các nội dung chính
sau đây: Ngày, tháng, năm làm văn bản thông báo; Tên, địa chỉ Tòa
án đã thụ lý đơn yêu cầu; Tên, địa chỉ của đương sự; Những vấn đề
cụ thể đương sự yêu cầu Tòa án giải quyết; Danh mục tài liệu, chứng
cứ đương sự nộp kèm theo đơn yêu cầu; Thời hạn người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan phải có ý kiến bằng văn bản nộp cho Tòa án đối
với yêu cầu của người yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo (nếu
có); Hậu quả pháp lý của việc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
không nộp cho Tòa án văn bản về ý kiến của mình đối với yêu cầu giải
quyết việc dân sự.
1.2.3. Chuẩn bị xét đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự
a) Thời hạn chuẩn bị xét đơn
Theo quy định tại Điều 366 BLTTDS 2015, thời hạn chuẩn bị
xét đơn yêu cầu là 01 tháng, kể từ ngày Tòa án thụ lý đơn yêu cầu, trừ
trường hợp BLTTDS 2015 có quy định khác.
b) Những công việc chuẩn bị
- Yêu cầu đương sự bổ sung chứng cứ, tài liệu: Trong thời hạn
chuẩn bị xét đơn yêu cầu, xét thấy tài liệu, chứng cứ chưa đủ căn cứ để
Tòa án giải quyết thì Tòa án yêu cầu đương sự bổ sung tài liệu, chứng
cứ trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu của
Tòa án.
- Yêu cầu cung cấp chứng cứ, tài liệu: Trường hợp đương sự có
yêu cầu hoặc khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán ra quyết định yêu cầu
cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ; triệu tập người
làm chứng, trưng cầu giám định, định giá tài sản. Nếu hết thời hạn
chuẩn bị xét đơn yêu cầu mà chưa có kết quả giám định, định giá tài
sản thì thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu được kéo dài nhưng không
quá 01 tháng.

532
- Đình chỉ việc xét đơn yêu cầu: Nếu người yêu cầu rút đơn yêu
cầu, Thẩm phán sẽ ra Quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu và trả
lại đơn yêu cầu, tài liệu, chứng cứ kèm theo.
- Mở phiên họp: Hết thời hạn chuẩn bị xét xử, nếu không có căn
cứ đình chỉ, Thẩm phán phải ra Quyết định mở phiên họp giải quyết
việc dân sự. Quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự và hồ sơ
việc dân sự được gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp để nghiên cứu.
Viện kiểm sát phải nghiên cứu trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận
được hồ sơ; hết thời hạn này, Viện kiểm sát phải trả hồ sơ cho Tòa án
để mở phiên họp giải quyết việc dân sự.
1.2.4. Phiên họp giải quyết việc dân sự
a) Thời hạn mở phiên họp
Tòa án phải mở phiên họp để giải quyết việc dân sự trong thời
hạn 15 ngày, kể từ ngày ra quyết định mở phiên họp (khoản 4 Điều 366
BLTTDS 2015).
b) Thành phần giải quyết việc dân sự
Theo quy định tại Điều 67 BLTTDS 2015, yêu cầu về dân sự,
hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại
khoản 5 Điều 27, khoản 9 Điều 29, khoản 4 và khoản 5 Điều 31,
khoản 2, 3 và 4 Điều 33 của BLTTDS 2015 do tập thể gồm ba Thẩm
phán giải quyết. Những việc dân sự khác do một Thẩm phán giải quyết.
Thành phần giải quyết yêu cầu về kinh doanh, thương mại quy
định tại khoản 2 Điều 31 của BLTTDS 2015 được thực hiện theo quy
định của pháp luật về Trọng tài thương mại.
c) Những người tham gia phiên họp
Theo quy định tại Điều 367 BLTTDS 2015 thì Kiểm sát viên
Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên họp; trường hợp Kiểm sát
viên vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành phiên họp.
Người yêu cầu hoặc người đại diện hợp pháp, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của họ phải tham gia phiên họp theo giấy

533
triệu tập của Tòa án. Người yêu cầu vắng mặt lần thứ nhất thì Tòa án
hoãn phiên họp, trừ trường hợp người yêu cầu đề nghị Tòa án giải
quyết việc dân sự vắng mặt họ. Trường hợp người yêu cầu đã được
triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ yêu cầu
và Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết việc dân sự; trong trường
hợp này, quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự đó theo thủ tục
do BLTTDS 2015 quy định vẫn được bảo đảm.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc người đại diện hợp
pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ được Tòa án
triệu tập tham gia phiên họp. Trong trường hợp cần thiết, Tòa án có thể
triệu tập người làm chứng, người giám định, người phiên dịch tham
gia phiên họp; nếu có người vắng mặt thì Tòa án quyết định hoãn phiên
họp hoặc vẫn tiến hành phiên họp.
d) Quyết định việc thay đổi người tiến hành tố tụng
Theo quy định tại Điều 368 BLTTDS 2015, trước khi mở phiên
họp, việc thay đổi Thẩm phán, Thư ký phiên họp do Chánh án của Tòa
án đang giải quyết việc dân sự đó quyết định; nếu Thẩm phán bị thay
đổi là Chánh án của Tòa án đang giải quyết việc dân sự đó thì việc thay
đổi do Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp quyết định.
Tại phiên họp giải quyết việc dân sự, việc thay đổi Thẩm phán,
Thư ký phiên họp, nếu do một Thẩm phán giải quyết thì việc thay đổi
Thẩm phán, Thư ký phiên họp do Chánh án của Tòa án đang giải quyết
việc dân sự đó quyết định; nếu Thẩm phán bị thay đổi là Chánh án
của Tòa án đang giải quyết việc dân sự đó thì việc thay đổi do Chánh
án Tòa án trên một cấp trực tiếp quyết định. Trường hợp việc dân sự
do Hội đồng giải quyết việc dân sự gồm ba Thẩm phán giải quyết thì
việc thay đổi thành viên Hội đồng, Thư ký phiên họp do Hội đồng giải
quyết việc dân sự quyết định.
Trước khi mở phiên họp, việc thay đổi Kiểm sát viên do Viện
trưởng Viện kiểm sát cùng cấp quyết định. Tại phiên họp, việc thay
đổi Kiểm sát viên do Thẩm phán, Hội đồng giải quyết việc dân sự

534
quyết định. Trường hợp phải thay đổi Kiểm sát viên thì Thẩm phán,
Hội đồng giải quyết việc dân sự ra quyết định hoãn phiên họp và thông
báo cho Viện kiểm sát. Việc cử Kiểm sát viên thay thế Kiểm sát viên bị
thay đổi do Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp quyết định. Nếu Kiểm
sát viên bị thay đổi là Viện trưởng Viện kiểm sát thì do Viện trưởng
Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp quyết định.
đ) Trình tự, thủ tục tiến hành phiên họp giải quyết việc dân sự
Phiên họp giải quyết việc dân sự được tiến hành theo quy định
tại Điều 369 BLTTDS 2015 với trình tự như sau: Thư ký phiên họp
báo cáo Thẩm phán, Hội đồng giải quyết việc dân sự về sự có mặt,
vắng mặt của những người tham gia phiên họp; Thẩm phán chủ tọa
phiên họp khai mạc phiên họp, kiểm tra về sự có mặt, vắng mặt của
những người được triệu tập tham gia phiên họp và căn cước của họ,
giải thích quyền và nghĩa vụ của người tham gia phiên họp; Người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người yêu cầu, người yêu cầu
hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày về những vấn đề cụ thể
yêu cầu Tòa án giải quyết, lý do, mục đích và căn cứ của việc yêu cầu
Tòa án giải quyết việc dân sự đó; Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày ý
kiến về những vấn đề có liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong việc giải quyết việc dân sự; Người
làm chứng trình bày ý kiến; Người giám định trình bày kết luận giám
định, giải thích những vấn đề còn chưa rõ hoặc có mâu thuẫn (nếu có);
Thẩm phán, Hội đồng giải quyết việc dân sự xem xét tài liệu, chứng
cứ; Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết
việc dân sự và gửi văn bản phát biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ
sơ việc dân sự ngay sau khi kết thúc phiên họp; Thẩm phán, Hội đồng
giải quyết việc dân sự xem xét, quyết định chấp nhận hoặc không chấp
nhận yêu cầu giải quyết việc dân sự.
Trường hợp có người được Tòa án triệu tập tham gia phiên họp
vắng mặt thì Thẩm phán, Hội đồng giải quyết việc dân sự cho công bố

535
lời khai, tài liệu, chứng cứ do người đó cung cấp trước khi xem xét tài
liệu, chứng cứ.
e) Quyết định giải quyết việc dân sự
Theo quy định tại Điều 370 BLTTDS 2015, quyết định giải quyết
việc dân sự phải có các nội dung sau đây: Ngày, tháng, năm ra quyết
định; Tên Tòa án ra quyết định; Họ, tên của Thẩm phán, Kiểm sát
viên, Thư ký phiên họp; Tên, địa chỉ của người yêu cầu giải quyết việc
dân sự; Những vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết; Tên, địa chỉ
của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; Nhận định của Tòa án và
những căn cứ để chấp nhận hoặc không chấp nhận đơn yêu cầu; Căn
cứ pháp luật để giải quyết việc dân sự; Quyết định của Tòa án; Lệ phí
phải nộp.
Trên thực tế, quyết định giải quyết việc dân sự gồm 4 phần.
Phần mở đầu gồm các thông tin tương tự phần mở đầu của bản án sơ
thẩm dân sự. Phần nhận thấy gồm các nội dung về sự kiện, tình tiết,
chứng cứ và yêu cầu của người yêu cầu; đề nghị của người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát. Phần xét
thấy: nhận định của Tòa án (phân tích những căn cứ để chấp nhận
hoặc không chấp nhận từng yêu cầu, đề nghị cụ thể của người yêu
cầu; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, ý kiến của đại diện Viện
kiểm sát). Cần viện dẫn nội dung điểm, khoản và điều luật của văn
bản quy phạm pháp luật mà Toà án căn cứ để chấp nhận hoặc không
chấp nhận. Phần quyết định: Trong phần này ghi việc áp dụng điểm,
khoản, điều luật của văn bản quy phạm pháp luật mà Toà án căn cứ
để ra quyết định. Ghi các quyết định của Toà án về việc chấp nhận
hay không chấp nhận yêu cầu, về quyền và nghĩa vụ của người yêu
cầu, người có liên quan, về lệ phí và quyền kháng cáo đối với quyết
định giải quyết việc dân sự Đối với quyết định công nhận thuận tình
ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn và quyết định công nhận sự
thoả thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn thì
không ghi quyền kháng cáo.

536
Quyết định giải quyết việc dân sự phải được gửi cho Viện kiểm
sát cùng cấp, người yêu cầu giải quyết việc dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết việc dân sự trong thời hạn 05
ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định. Việc gửi quyết định giải quyết
việc dân sự cho cơ quan thi hành án được thực hiện theo quy định của
Luật Thi hành án dân sự (theo quy định tại Điều 2, Điều 28 Luật Thi
hành án dân sự). Quyết định giải quyết việc dân sự có hiệu lực pháp
luật của Tòa án có liên quan đến việc thay đổi hộ tịch của cá nhân phải
được Tòa án gửi cho Ủy ban nhân dân nơi đã đăng ký hộ tịch của cá
nhân đó theo quy định của Luật Hộ tịch (Điều 30 Luật Hộ tịch).
Quyết định giải quyết việc dân sự có hiệu lực pháp luật của Tòa
án được công bố trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có),
trừ quyết định có chứa thông tin quy định tại khoản 2 Điều 109 của
BLTTDS 2015.
1.3. Giải quyết việc dân sự theo thủ tục phúc thẩm
1.3.1. Quyền kháng cáo, kháng nghị quyết định giải quyết việc
dân sự
Người yêu cầu, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc
giải quyết việc dân sự có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát cùng cấp,
Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị quyết định giải
quyết việc dân sự để yêu cầu Tòa án trên một cấp trực tiếp giải quyết
lại theo thủ tục phúc thẩm, trừ quyết định giải quyết yêu cầu công
nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án (khoản 7 Điều 27); yêu cầu
công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly
hôn (khoản 2 Điều 29); yêu cầu công nhận thỏa thuận của cha, mẹ
về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn hoặc công nhận
việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn của cơ quan, tổ
chức, cá nhân theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình
(khoản 3 Điều 29).
1.3.2. Thời hạn kháng cáo, kháng nghị
Điều 372 BLTTDS 2015 quy định, người yêu cầu, người có

537
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết việc dân sự có quyền
kháng cáo quyết định giải quyết việc dân sự trong thời hạn 10 ngày, kể
từ ngày Tòa án ra quyết định. Trường hợp họ không có mặt tại phiên
họp giải quyết việc dân sự thì thời hạn đó được tính từ ngày họ nhận
được quyết định giải quyết việc dân sự hoặc kể từ ngày quyết định đó
được thông báo, niêm yết.
Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kháng nghị quyết định giải
quyết việc dân sự trong thời hạn 10 ngày, Viện kiểm sát cấp trên trực
tiếp có quyền kháng nghị trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa án ra
quyết định.
1.3.3. Chuẩn bị xét kháng cáo, kháng nghị
a) Thời hạn chuẩn bị xét kháng cáo, kháng nghị là 15 ngày, kể
từ ngày Tòa án nhận được kháng cáo, kháng nghị (khoản 1 Điều 373).
b) Những công việc chuẩn bị
Trong thời hạn chuẩn bị xét kháng cáo, kháng nghị, xét thấy tài
liệu, chứng cứ chưa đủ căn cứ để Tòa án giải quyết thì Tòa án yêu cầu
đương sự bổ sung tài liệu, chứng cứ trong thời hạn 05 ngày làm việc,
kể từ ngày nhận được yêu cầu của Tòa án. Trường hợp đương sự có
yêu cầu hoặc khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán ra quyết định yêu cầu
cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ; triệu tập người
làm chứng, trưng cầu giám định, định giá. Nếu hết thời hạn 15 ngày
chuẩn bị xét kháng cáo, kháng nghị mà chưa có kết quả giám định,
định giá thì thời hạn chuẩn bị xét kháng cáo, kháng nghị được kéo
dài nhưng không quá 15 ngày. Trường hợp tất cả người kháng cáo rút
đơn kháng cáo, Viện kiểm sát rút kháng nghị thì Tòa án ra quyết định
đình chỉ giải quyết việc xét đơn yêu cầu theo thủ tục phúc thẩm. Trong
trường hợp này, quyết định giải quyết việc dân sự theo thủ tục sơ thẩm
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định
đình chỉ.
c) Quyết định mở phiên họp phúc thẩm giải quyết việc dân sự
Hết thời hạn chuẩn bị, Tòa án phải ra quyết định mở phiên họp

538
phúc thẩm giải quyết việc dân sự nếu không có căn cứ đình chỉ việc
giải quyết việc dân sự. Quyết định mở phiên họp phúc thẩm giải quyết
việc dân sự và hồ sơ việc dân sự được gửi ngay cho Viện kiểm sát
cùng cấp để nghiên cứu. Viện kiểm sát phải nghiên cứu trong thời hạn
07 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ; hết thời hạn này, Viện kiểm sát
phải trả hồ sơ cho Tòa án để mở phiên họp phúc thẩm giải quyết việc
dân sự.
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra quyết định mở phiên họp,
Thẩm phán phải mở phiên họp phúc thẩm giải quyết việc dân sự.
1.3.4. Phiên họp giải quyết việc dân sự theo thủ tục phúc thẩm
a) Thành phần tham gia giải quyết phiên họp phúc thẩm việc
dân sự
Theo quy định tại khoản 1 Điều 67 BLTTDS 2015, thành phần
giải quyết việc kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định giải quyết
việc dân sự do tập thể gồm ba Thẩm phán giải quyết.
b) Những người tham gia phiên họp phúc thẩm
Theo quy định tại Điều 374 BLTTDS 2015, Kiểm sát viên Viện
kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên họp phúc thẩm giải quyết việc
dân sự; trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành
phiên họp, trừ trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm.
Người có đơn kháng cáo, người đại diện hợp pháp, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của họ phải tham gia phiên họp theo giấy
triệu tập của Tòa án. Người kháng cáo vắng mặt lần thứ nhất có lý do
chính đáng thì Tòa án hoãn phiên họp phúc thẩm giải quyết việc dân
sự, trừ trường hợp người kháng cáo yêu cầu giải quyết vắng mặt họ.
Nếu người kháng cáo đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng
mặt thì bị coi là từ bỏ kháng cáo và Tòa án ra quyết định đình chỉ giải
quyết phúc thẩm việc dân sự đối với yêu cầu kháng cáo của họ, trừ
trường hợp họ có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt hoặc do sự kiện bất
khả kháng, trở ngại khách quan.

539
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người đại diện hợp pháp,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ được Tòa án triệu tập
tham gia phiên họp. Trong trường hợp cần thiết, Tòa án có thể triệu tập
người làm chứng, người giám định, người phiên dịch tham gia phiên
họp; nếu có người vắng mặt thì Tòa án quyết định hoãn phiên họp hoặc
vẫn tiến hành phiên họp.
c) Thủ tục phiên họp phúc thẩm
Điều 375 BLTTDS 2015 quy định trình tự phiên họp như sau:
Thư ký phiên họp báo cáo về sự có mặt, vắng mặt của những người
tham gia phiên họp; Thẩm phán chủ tọa phiên họp khai mạc phiên
họp, kiểm tra về sự có mặt, vắng mặt của những người được triệu tập
tham gia phiên họp và căn cước của họ, giải thích quyền và nghĩa vụ
của người tham gia phiên họp; Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người kháng cáo, người kháng cáo hoặc người đại diện
hợp pháp của họ trình bày về nội dung kháng cáo và căn cứ của việc
kháng cáo.
Trường hợp chỉ có Viện kiểm sát kháng nghị thì Kiểm sát viên
trình bày về nội dung kháng nghị và căn cứ của việc kháng nghị.
Trường hợp vừa có kháng cáo, vừa có kháng nghị thì các đương sự
trình bày về nội dung kháng cáo và các căn cứ của việc kháng cáo
trước, sau đó Kiểm sát viên trình bày về nội dung kháng nghị và căn
cứ của việc kháng nghị. Trường hợp Viện kiểm sát không kháng nghị
thì Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết
kháng cáo trước khi Hội đồng phúc thẩm ra quyết định. Ngay sau khi
kết thúc phiên họp, Kiểm sát viên phải gửi văn bản phát biểu ý kiến
cho Tòa án để lưu vào hồ sơ việc dân sự.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc người
đại diện hợp pháp của họ trình bày ý kiến về những vấn đề có liên quan
đến quyền, nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong
nội dung kháng cáo, kháng nghị. Người làm chứng trình bày ý kiến;

540
người giám định trình bày kết luận giám định, giải thích những vấn đề
còn chưa rõ hoặc có mâu thuẫn.
Trường hợp có người được Tòa án triệu tập tham gia phiên họp
vắng mặt thì Thẩm phán cho công bố lời khai, tài liệu, chứng cứ do
người đó cung cấp.
d) Quyền hạn của Hội đồng phúc thẩm
Hội đồng phúc thẩm xem xét quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm
bị kháng cáo, kháng nghị; tài liệu, chứng cứ có liên quan và ra một trong
các quyết định sau đây: Giữ nguyên quyết định giải quyết việc dân sự
của Tòa án cấp sơ thẩm; sửa quyết định giải quyết việc dân sự của Tòa
án cấp sơ thẩm; hủy quyết định giải quyết việc dân sự của Tòa án cấp sơ
thẩm và chuyển hồ sơ việc dân sự cho Tòa án cấp sơ thẩm để giải quyết
lại theo thủ tục sơ thẩm; hủy quyết định giải quyết việc dân sự của Tòa
án cấp sơ thẩm và đình chỉ giải quyết việc dân sự; đình chỉ giải quyết
việc xét đơn yêu cầu theo thủ tục phúc thẩm nếu tại phiên họp tất cả
người kháng cáo rút đơn kháng cáo, Viện kiểm sát rút kháng nghị.
Quyết định phúc thẩm giải quyết việc dân sự có hiệu lực pháp
luật kể từ ngày ra quyết định và được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp,
người kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải
quyết việc dân sự. Trường hợp quyết định phúc thẩm giải quyết việc
dân sự có liên quan đến việc thay đổi hộ tịch của cá nhân thì phải được
Tòa án gửi cho Ủy ban nhân dân nơi đã đăng ký hộ tịch của cá nhân đó
theo quy định của Luật Hộ tịch.
Quyết định phúc thẩm giải quyết việc dân sự có hiệu lực pháp
luật được công bố trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có),
trừ quyết định có chứa thông tin liên quan đến bí mật nhà nước, thuần
phong mỹ tục của dân tộc, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh,
bí mật cá nhân, bí mật gia đình theo yêu cầu chính đáng của đương
sự nhưng phải thông báo cho đương sự biết những tài liệu, chứng
cứ không được công khai theo quy định tại khoản 2 Điều 109 của
BLTTDS 2015.

541
2. Kỹ năng của Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên trong thủ
tục giải quyết việc dân sự
2.1. Kỹ năng của Luật sư tham gia thủ tục giải quyết việc dân sự
2.1.1. Tư vấn giúp đỡ khách hàng xác định việc dân sự
Ngay khi nhận được đề nghị giúp đỡ trong những việc dân sự,
Luật sư cần xác định yêu cầu của khách hàng giải quyết theo thủ tục
việc dân sự hay vụ án dân sự. Để phân biệt được vụ án dân sự và việc
dân sự, phải căn cứ vào quy định của BLTTDS 2015 và những quy
định trong các văn bản pháp luật về nội dung tương ứng với các việc
dân sự cần giải quyết. Theo Điều 1 BLTTDS 2015 thì các tranh chấp
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động giải
quyết theo thủ tục vụ án dân sự; các yêu cầu về dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động giải quyết theo thủ tục
việc dân sự. Cụ thể hơn, Điều 27 liệt kê những yêu cầu về dân sự
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Điều 29 liệt kê những yêu
cầu về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Điều 31 liệt kê những yêu cầu về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án. Điều 33 liệt kê những yêu cầu về lao
động thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Từ những quy định
này và trong thực tế, loại việc về dân sự và về hôn nhân và gia đình là
những việc thường gặp nhiều hơn.
Khi có những yêu cầu về dân sự, về hôn nhân và gia đình, Luật
sư cần xác định yêu cầu đó tương ứng với loại việc được quy định tại
khoản nào của các điều luật tương ứng. Một số trường hợp thì phức
tạp hơn, từ yêu cầu của khách hàng, nguyện vọng của khách hàng mà
Luật sư phải xác định là cần giải quyết theo khoản nào, điều nào của
BLTTDS 2015.
Ví dụ: khách hàng đề nghị tư vấn về trường hợp làm thế nào để
có một giấy xác nhận của Tòa án về người giám hộ của người bị bệnh
tâm thần (để giải quyết một vụ việc khác ở nước ngoài theo quy định
của pháp luật nước sở tại). Về vấn đề này, theo pháp luật của Việt Nam,

542
việc xác định giám hộ không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
án mà thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp xã . Theo Điều 54
BLDS năm 20151 thì trong trường hợp người chưa thành niên, người
mất năng lực hành vi dân sự không có người giám hộ đương nhiên theo
quy định tại Điều 52 và Điều 53 của BLDS thì Ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn nơi cư trú của người được giám hộ có trách nhiệm cử
người giám hộ.
Trong khi đó, phía nước sở tại yêu cầu phải có quyết định của
Tòa án về người giám hộ thì mới giải quyết vụ việc liên quan. Đáp
ứng yêu cầu này, trong trường hợp cụ thể, chỉ có thể làm đơn yêu cầu
Tòa án xác định người mất năng lực hành vi dân sự. Trong quyết định
tuyên bố người mất năng lực hành vi dân sự, đề nghị Tòa án xác định
người đại diện của người mất năng lực hành vi dân sự. Với nội dung
quyết định của Tòa án hoàn toàn có thể đáp ứng được yêu cầu của
nước sở tại và đó cũng là mong muốn của khách hàng. Như vậy, chỉ có
thể lựa chọn để yêu cầu Tòa án giải quyết theo loại việc được quy định
tại khoản 1 Điều 27 BLTTDS 2015.
Một trường hợp khá phức tạp và thường gặp trong thực tiễn là
yêu cầu liên quan đến quan hệ hôn nhân. Trước khi có BLTTDS, tất
cả yêu cầu liên quan đến chấm dứt quan hệ hôn nhân do một bên yêu
cầu, thuận tình ly hôn hay yêu cầu chấm dứt quan hệ hôn nhân đều
được Tòa án thụ lý là vụ án dân sự. Quá trình giải quyết, tùy theo
yêu cầu của đương sự, bản chất của sự việc mà Tòa án xác định đó
là vụ án ly hôn, vụ án thuận tình ly hôn hay vụ án huỷ việc kết hôn
trái pháp luật. Nhưng theo quy định của BLTTDS, ngay từ khi nộp
đơn yêu cầu, người yêu cầu đã phải tự xác định yêu cầu của mình là
việc ly hôn hay thuận tình ly hôn hay hủy hôn nhân trái pháp luật.
Việc xác định này có ý nghĩa quan trọng ở chỗ sẽ xác định đây là loại
vụ án dân sự hay là việc dân sự. Ngay từ thời điểm tư vấn cho khách
hàng quyết định việc có yêu cầu Tòa án giải quyết hay không, Luật

1
BLDS số 91/2015/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 24/11/2015, có hiệu lực từ 01/01/2017.

543
sư đã phải giúp khách hàng xác định yêu cầu của đương sự tương
ứng với khoản nào, thuộc điều nào của BLTTDS và là loại việc dân
sự hay vụ án dân sự.
Cùng với việc căn cứ BLTTDS, để xác định được là việc dân sự
hay vụ án dân sự, Luật sư phải căn cứ vào những văn bản pháp luật về
nội dung. Chẳng hạn, đối với trường hợp xác định về quan hệ hôn nhân
như ví dụ trên, để xác định đó là vụ án ly hôn do một bên yêu cầu thì
điều đầu tiên cần xác định quan hệ hôn nhân của khách hàng có đăng
ký kết hôn hay không. Nếu có đăng ký kết hôn thì đăng ký kết hôn đó
có hợp pháp hay không. Trong thực tế đã có trường hợp có đăng ký kết
hôn nhưng vẫn bị xác định quan hệ hôn nhân không hợp pháp vì trước
khi kết hôn, người vợ hoặc người chồng đã có đăng ký kết hôn với
người khác. Vì một lý do nào đó, như do có gian dối hoặc do cơ quan
có thẩm quyền có sơ xuất dẫn đến việc đã làm thủ tục cấp đăng ký kết
hôn cho người đã có vợ có chồng. Trường hợp này, dù khách hàng có
yêu cầu ly hôn (là một vụ án dân sự theo khoản 1 Điều 28 BLTTDS
2015), nhưng Luật sư vẫn phải xác định đây là yêu cầu hủy hôn nhân
trái pháp luật, được thụ lý theo khoản 1 Điều 29 BLTTDS 2015 và là
một loại việc dân sự.
Hoặc đối với trường hợp đòi nợ nhưng bị đơn bỏ trốn không rõ
địa chỉ, một số Tòa án hay hướng dẫn đương sự khởi kiện yêu cầu xác
định người mất tích, sau đó đương sự tiếp tục khởi kiện yêu cầu đòi nợ.
Trong trường hợp này, Luật sư có thể tư vấn cho khách hàng chỉ cần
làm thủ tục thông báo người vắng mặt tại nơi cư trú. Có hai lý do nên
tư vấn yêu cầu giải quyết theo thủ tục này: thời hạn yêu cầu thông báo
người vắng mặt tại nơi cư trú chỉ cần người đó biệt tích sáu tháng liền
trở lên; trong khi đó, thời gian để yêu cầu tuyên bố người mất tích là
hai năm không có tin tức. Hậu quả của việc thông báo tìm người vắng
mặt tại nơi cư trú là người quản lý tài sản của người vắng mặt có quyền
trích một phần tài sản của người vắng mặt để thực hiện nghĩa vụ thanh
toán nợ đến hạn của người vắng mặt mà không phải nhất thiết làm thủ
tục tuyên bố mất tích mới giải quyết được hậu quả này. Sẽ có hai thủ

544
tục giải quyết khác nhau: trước tiên cần hướng dẫn khách hàng yêu
cầu Tòa án thông báo tìm kiếm người vắng mặt theo loại việc dân sự
được quy định tại khoản 2 Điều 28 BLTTDS 2015. Sau khi Tòa án ra
quyết định tuyên bố người vắng mặt tại nơi cư trú và quyết định quản
lý tài sản của người đó, Luật sư hướng dẫn khách hàng khởi kiện yêu
cầu đòi nợ theo loại vụ án dân sự được quy định tại khoản 3 Điều 26
BLTTDS 2015.
Nói chung, để tư vấn chính xác yêu cầu của khách hàng là việc
dân sự hay là vụ án dân sự, nên giải quyết và phải giải quyết theo
những thủ tục nào đòi hỏi Luật sư phải nắm chắc những quy định của
BLTTDS và những quy định liên quan của luật nội dung, được quy
định trong BLDS, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Thương mại, Bộ
luật Lao động và các luật có liên quan.
Một vấn đề khác cũng rất quan trọng là sau khi đã xác định những
yêu cầu của khách hàng giải quyết theo thủ tục việc dân sự và nên giải
quyết thế nào, Luật sư cũng nên tư vấn cho khách hàng là với thực
trạng đó, yêu cầu của khách hàng có nên đề nghị Tòa án giải quyết hay
không. Luật sư cần phân tích cho khách hàng những lợi ích hay bất
lợi của việc theo đuổi thủ tục tố tụng tại Tòa án. Quyết định cuối cùng
thuộc về chính khách hàng.
2.1.2. Thỏa thuận về tư cách tham gia tố tụng của Luật sư
Sau khi đã tư vấn cho khách hàng về những vấn đề pháp lý liên
quan đến yêu cầu của họ và thủ tục giải quyết yêu cầu của họ, nếu
khách hàng quyết định yêu cầu Tòa án giải quyết và đề nghị Luật sư
tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho khách hàng, Luật sư cần thảo
luận rõ với khách hàng về đề nghị Luật sư tham gia tố tụng bảo vệ
quyền lợi hợp pháp cho họ. Theo quy định của pháp luật, đương sự có
thể đề nghị Luật sư làm người đại diện theo ủy quyền hoặc làm người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Luật sư cũng cần nói
rõ với khách hàng là nếu là người đại diện ủy quyền thì Luật sư có
quyền và nghĩa vụ thế nào, quyền và nghĩa vụ của khách hàng với tư

545
cách là đương sự trong vụ án, quan hệ giữa người đại diện ủy quyền
và khách hàng (là đương sự trong vụ án) ra sao. Tương tự, nếu khách
hàng muốn nhờ Luật sư làm người bảo vệ quyền lợi của đương sự thì
Luật sư cũng cần giải thích rõ vai trò của người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng, mối quan hệ giữa người bảo
vệ và đương sự.
Sau khi khách hàng đã quyết định lựa chọn Luật sư làm người đại
diện hay người bảo vệ, Luật sư chú ý đến một số thủ tục liên quan để
Luật sư có thể tham gia tố tụng.
a) Luật sư là người đại diện ủy quyền
Đầu tiên phải là một hợp đồng dịch vụ pháp lý giao kết giữa tổ
chức hành nghề Luật sư với khách hàng. Đó phải là một hợp đồng
dân sự và có các nội dung được quy định tại Điều 26 Luật Luật sư.
Theo đó, hợp đồng dịch vụ pháp lý phải được lập thành văn bản và
có các nội dung chính sau đây: (1) Tên, địa chỉ của khách hàng hoặc
người đại diện của khách hàng, đại diện của tổ chức hành nghề Luật
sư hoặc Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân; (2) Nội dung dịch vụ;
thời hạn thực hiện hợp đồng; (3) Quyền, nghĩa vụ của các bên; (4)
Phương thức tính và mức thù lao cụ thể; các khoản chi phí (nếu có);
(5) Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng; (6) Phương thức giải quyết
tranh chấp.
Trên cơ sở hợp đồng dịch vụ pháp lý (1), khách hàng và Văn
phòng Luật sư hoặc công ty luật sẽ lập tiếp hợp đồng ủy quyền giữa
khách hàng và Luật sư được cử làm đại diện theo ủy quyền (2). Theo
quy định của BLDS 1995 thì hợp đồng ủy quyền nhất thiết phải được
lập thành văn bản, có xác nhận của công chứng hoặc cơ quan có thẩm
quyền, BLDS 2015 không quy định các dấu hiệu bắt buộc về hình
thức, nhưng tốt nhất Luật sư nên cùng với khách hàng công chứng hợp
đồng ủy quyền. Văn bản ủy quyền sẽ là cơ sở pháp lý xác định tư cách
pháp lý của Luật sư trong tố tụng dân sự với vai trò là người đại diện
ủy quyền của đương sự.

546
b) Luật sư là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự
Theo quy định của BLTTDS 2015, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự là người được đương sự nhờ và Tòa án
chấp nhận.
Trước hết, giữa Văn phòng Luật sư hoặc Công ty luật sẽ ký kết
hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách hàng (1). Trưởng văn phòng Luật
sư hoặc Công ty luật sẽ có quyết định (2) cử Luật sư tham gia vụ việc
theo hợp đồng dịch vụ pháp lý, đồng thời sẽ có một giấy giới thiệu (3)
Luật sư tham gia tố tụng gửi Tòa án. Thông thường, giấy (2) và giấy
(3) là những tài liệu bắt buộc phải có để xác định tính hợp pháp cho
việc tham gia của Luật sư. Đối với giấy (1) thì đó là một thỏa thuận
pháp lý giữa khách hàng và Văn phòng Luật sư hoặc Công ty luật và
được lưu vào hồ sơ giữa khách hàng và Công ty hoặc Văn phòng. Nếu
có Tòa án yêu cầu Luật sư phải cung cấp thỏa thuận giữa Luật sư và
khách hàng thì có thể giấy (1) được thay bằng một đơn của khách hàng
mời Luật sư tham gia tố tụng.
Giấy (2) và (3) được nộp cho Tòa án, đề nghị Tòa án làm thủ tục
đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Tòa
án cấp một “Giấy chứng nhận người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự”. Giấy chứng nhận người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự là cơ sở pháp lý xác định vai trò của Luật sư với tư
cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố
tụng dân sự.
2.1.3. Thỏa thuận về thù lao
Tùy theo từng văn phòng hoặc công ty luật, thù lao có thể được
tính theo từng công đoạn của tiến trình giải quyết việc dân sự hoặc
được tính theo toàn bộ kết quả giải quyết. Ví dụ, khách hàng chỉ đề
nghị tư vấn xác định một việc có đủ điều kiện yêu cầu Tòa án giải
quyết hay không thì có thể tính phí theo giờ tư vấn. Nếu khách hàng
đề nghị nhờ văn phòng luật cử Luật sư tham gia bảo vệ quyền lợi của

547
khách hàng tại Tòa án thì sẽ tính thù lao giải quyết toàn bộ việc dân sự.
Có thể đó là mức phí được văn phòng định sẵn, nhưng cũng có thể là
mức mà hai bên thỏa thuận trực tiếp với nhau.
Luật sư nên giải thích cho khách hàng rõ khoản thù lao là khoản
tiền mà khách hàng phải trả cho các hoạt động tố tụng mà Luật sư
phải tiến hành theo quy định của pháp luật để giải quyết việc dân
sự theo yêu cầu của khách hàng, nhưng không đồng nhất với đầu
việc thứ ba mà Luật sư nên tách riêng khỏi hai đầu việc trước, đó
là kết quả của công việc. Không phải trong mọi trường hợp yêu cầu
của khách hàng về việc giải quyết vụ việc của họ cũng được Tòa án
đáp ứng hoặc đáp ứng toàn bộ. Tùy từng vụ việc cụ thể, Luật sư và
khách hàng có thể thỏa thuận về thù lao của kết quả công việc. Ví dụ,
trường hợp khách hàng yêu cầu xác định tìm kiếm người vắng mặt.
Kết quả có thể là Tòa án chấp nhận yêu cầu hoặc không chấp nhận
yêu cầu xác định người vắng mặt. Với khả năng, sự hiểu biết và kinh
nghiệm, Luật sư phải lường trước được kết quả giải quyết để từ đó
có thể tư vấn cho khách hàng là có nên yêu cầu Tòa án giải quyết vụ
việc của họ hay không. Nhưng cũng có nhiều trường hợp, vì nhiều
lý do khách quan, kết quả của việc giải quyết tại Tòa án nằm ngoài
khả năng phán đoán của Luật sư và của khách hàng, không như mong
muốn của khách hàng cũng như của chính Luật sư. Tách kết quả giải
quyết vụ việc thành một đầu việc thứ ba để tính thù lao, trong bối
cảnh đó là một việc làm cần thiết.
Việc tách các phần đầu việc trong tiến trình giải quyết vụ việc
dân sự chỉ mang tính tương đối, hết sức linh hoạt với từng vụ việc, với
từng khách hàng và điều quan trọng là để Luật sư ý thức được từng
phần công việc của mình nhằm xác định thù lao tương ứng và phù hợp.
Dù có tính thù lao theo đầu công việc hay tính theo toàn bộ việc
giải quyết vụ việc dân sự, Luật sư luôn nhớ rằng hoạt động Luật sư là
một hoạt động đặc thù. Luật sư là người hành nghề tự do, nhà nước
không trả lương nhưng nghề Luật sư không phải là một nghề kinh
doanh thuần túy để có thể kiếm lợi nhuận bằng mọi giá. Thỏa thuận

548
về thù lao Luật sư, xét theo khía cạnh này, gắn liền với đạo đức nghề
nghiệp của Luật sư, đồng thời đó cũng là yếu tố góp phần xác định uy
tín của Luật sư trong lĩnh vực hoạt động của mình.
2.1.4. Thủ tục yêu cầu giải quyết việc dân sự
a) Soạn đơn yêu cầu
Đơn yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự được làm theo mẫu
quy định tại khoản 2 Điều 362 BLTTDS 2015. Đối với mục b: Tên
Tòa án có thẩm quyền giải quyết cần xác định theo thẩm quyền giải
quyết của các cấp Tòa án và thẩm quyền theo lãnh thổ. Cụ thể loại
việc dân sự sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp huyện
hay của TAND cấp tỉnh và cụ thể là của Tòa án tỉnh nào hoặc Tòa
án huyện nào. Về vấn đề này, ngoài những quy định tại Điều 35,
Điều 36, khoản 2 Điều 39, khoản 2 Điều 40 BLTTDS 2015, có thể
tham khảo những phần viết tương ứng về xác định thẩm quyền giải
quyết vụ án dân sự.
Đối với mục d: Những vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết
và lý do, mục đích, căn cứ của việc yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân
sự đó. Khi viết những vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết, phải
xác định yêu cầu của đương sự tương ứng với khoản nào của Điều 27,
Điều 29, Điều 31, Điều 33 BLTTDS 2015. Ví dụ: “Yêu cầu Tòa án
tuyên bố người mất tích theo khoản 3 Điều 27 BLTTDS 2015. Người
bị đề nghị xác định mất tích là ông Nguyễn Văn A, địa chỉ cư trú trước
khi mất tích là...”.
Mục lý do có thể viết: ông A đã không có tin tức gì trong thời
gian... năm, từ năm... đến năm...
Mục mục đích có thể viết: Để xin ly hôn với ông A. Mục này tùy
từng việc có thể viết hoặc có thể không viết.
Mục căn cứ phải nêu được những tài liệu, giấy tờ thể hiện thời
gian vắng mặt ít nhất là hai năm của ông A, có thể viết: những giấy tờ
thể hiện việc ông A vắng mặt từ năm...

549
Đối với mục đ: Tên, địa chỉ của những người có liên quan đến
việc giải quyết đơn yêu cầu, nếu có. Mục này không bắt buộc mà tùy
từng loại việc dân sự cần ghi cho phù hợp.
Đối với mục g cần lưu ý: người yêu cầu ở đây có thể chính là
người có quyền, lợi ích liên quan đến yêu cầu, có thể là người đại diện
hợp pháp của người có yêu cầu. Trường hợp là người đại diện phải ghi
rõ “Người đại diện theo ủy quyền”, sau đó ký tên. Cuối đơn có mục:
“Tài liệu gửi kèm theo đơn yêu cầu” cần liệt kê đầy đủ những tài liệu
có trong hồ sơ yêu cầu giải quyết việc dân sự.
b) Hồ sơ yêu cầu
Theo khoản 3 Điều 362 BLTTDS 2015, đơn yêu cầu giải quyết
việc dân sự phải được gửi kèm tài liệu, chứng cứ chứng minh cho
yêu cầu là có căn cứ và hợp pháp. Tùy từng loại việc mà xác định
đó là những giấy tờ, tài liệu gì, căn cứ vào quy định của BLTTDS
2015 và những quy định liên quan trong các văn bản pháp luật nội
dung khác. Rất nhiều trường hợp khách hàng không biết là phải có
những giấy tờ này hoặc có biết thì cũng không biết bằng cách nào
có thể thu thập được. Luật sư phải hướng dẫn khách hàng thu thập
những loại giấy tờ, tài liệu cần thiết và trong nhiều trường hợp,
Luật sư phải giúp khách hàng tìm kiếm. Đây cũng là những điểm
lưu ý quan trọng để Luật sư có thể thỏa thuận với khách hàng về
thù lao của Luật sư.
Ví dụ, đối với trường hợp yêu cầu tuyên bố một người mất năng
lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, kèm
theo đơn yêu cầu phải có kết luận của cơ quan chuyên môn và những
chứng cứ khác để chứng minh người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc
các chứng bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi
của mình. Nếu khách hàng đã có những giấy tờ này thì Luật sư chỉ cần
tập hợp thành hồ sơ yêu cầu. Nếu khách hàng chưa có thì trước hết,
thay vì gửi đơn yêu cầu đến Tòa án, Luật sư hướng dẫn khách hàng
phải đưa người bị yêu cầu tuyên bố mất năng lực hành vi đi khám y tế

550
để xác định tình trạng tâm thần hoặc tình trạng bệnh lý của người này.
Nhiều trường hợp người bị yêu cầu tự nguyện đi khám bệnh hoặc ít
nhất không có chống đối gì việc đi khám. Nhưng sẽ khó khăn hơn nếu
người bị yêu cầu cương quyết không chịu đi khám y tế. Đối với trường
hợp này, Luật sư có thể hướng dẫn khánh hàng tìm kiếm những cách
thức khác, ví dụ yêu cầu họ hàng chứng kiến hoặc đại diện của chính
quyền địa phương (nếu có thể) hoặc công an phường, xã chứng kiến
và lập biên bản về việc người bị yêu cầu từ chối không đi khám y tế.
Biên bản này sẽ là tài liệu quan trọng trong hồ sơ yêu cầu, làm cơ sở
để có thể yêu cầu trưng cầu giám định sức khỏe, bệnh tật của người bị
yêu cầu sau khi Tòa án đã thụ lý việc dân sự.
Đây là công việc linh hoạt, mềm dẻo đòi hỏi Luật sư phải vận
dụng phù hợp trong từng trường hợp cụ thể.
c) Hướng dẫn khách hàng nộp tiền tạm ứng lệ phí yêu cầu
Trong trường hợp đơn yêu cầu được Tòa án chấp nhận thụ lý,
Tòa án hướng dẫn người yêu cầu nộp tạm ứng lệ phí yêu cầu với mức
tiền cụ thể và nơi nộp. Nếu trong hợp đồng dịch vụ pháp lý thỏa thuận
việc này do Luật sư phải làm thì Luật sư phải thực hiện việc nộp tạm
ứng lệ phí yêu cầu. Dù tham gia với tư cách gì, tất cả những hoạt động
tố tụng của khách hàng cần được Luật sư hướng dẫn tận tình, chu đáo,
có trách nhiệm.
Một số trường hợp được miễn nộp tiền tạm ứng lệ phí, miễn nộp
lệ phí theo quy định tại Luật Phí và lệ phí năm 2015 cần được Luật sư
lưu ý nghiên cứu để áp dụng cho việc cụ thể.
Sau khi đã nộp tiền tạm ứng án phí, Luật sư hướng dẫn khách
hàng nộp biên lai thu tạm ứng tại Tòa án để Tòa án tiến hành thụ lý yêu
cầu theo quy định của pháp luật.
2.1.5. Chuẩn bị tham gia phiên họp giải quyết việc dân sự
a) Chuẩn bị chứng cứ, tài liệu giải quyết việc dân sự
So với thủ tục giải quyết vụ án dân sự, thủ tục giải quyết việc dân

551
sự không có tranh tụng do bản chất việc dân sự không có tranh chấp.
Chuẩn bị tham gia phiên họp giải quyết việc dân sự, vì thế cũng đơn
giản hơn rất nhiều.
Đối với từng việc cụ thể, việc chuẩn bị tham gia phiên họp giải
quyết cũng khác nhau, thời gian chuẩn bị khác nhau nên Luật sư phải
căn cứ vào từng việc để xác định những công việc cụ thể và thời hạn
chuẩn bị cụ thể.
Ví dụ, đối với yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại
nơi cư trú, thời hạn chuẩn bị xét đơn là hai mươi ngày, kể từ ngày Tòa
án thụ lý đơn yêu cầu. Trong khi đó thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu
tuyên bố người mất tích là năm tháng năm ngày, kể từ ngày thụ lý đơn
yêu cầu, bao gồm cả thời hạn thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu
tuyên bố mất tích.
Phần lớn các yêu cầu đều liên quan đến một sự kiện pháp lý nhất
định nên việc xác nhận những sự kiện này chủ yếu do Tòa án thực hiện
trên cơ sở quy định của pháp luật. Nếu đã chuẩn bị đủ chứng cứ, tài
liệu để yêu cầu Tòa án tuyên bố về sự kiện yêu cầu thì người yêu cầu
không phải mất nhiều thời gian để chuẩn bị cho việc giải quyết. Chủ
yếu là vấn đề thủ tục, cụ thể là đợi Tòa án thực hiện những công việc
chuẩn bị theo quy định của pháp luật.
Nhìn chung, việc chuẩn bị cho phiên họp giải quyết yêu cầu, về
phương diện chứng cứ sẽ không quá phức tạp như đối với việc chuẩn
bị giải quyết vụ án dân sự.
b) Xem xét đề nghị áp dụng quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải
quyết yêu cầu
BLTTDS không quy định cụ thể về căn cứ đình chỉ hoặc tạm đình
chỉ giải quyết yêu cầu. Việc xem xét để áp dụng những quyết định này
trong quá trình chuẩn bị xét đơn yêu cầu được áp dụng tương tự những
căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự quy định tại Điều 214
BLTTDS 2015 hoặc căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án dân sự quy định
tại Điều 217 BLTTDS 2015.

552
Các Luật sư cần nghiên cứu kỹ những căn cứ này cho từng việc
cụ thể mà mình đang tham gia giải quyết. Ví dụ, đối với trường hợp
người yêu cầu rút đơn yêu cầu thì Tòa án sẽ đình chỉ giải quyết yêu
cầu. Như vậy, trường hợp nào rút đơn, việc rút đơn sẽ ảnh hưởng có
lợi hay bất lợi đối với khách hàng của mình phải được Luật sư nghiên
cứu kỹ.
c) Chuẩn bị ý kiến phát biểu trong phiên họp
Do không có yếu tố tranh tụng như đối với việc giải quyết vụ
án dân sự, nên Luật sư cũng không phải chuẩn bị bản luận cứ bảo vệ
quyền lợi của đương sự giống như trong thủ tục giải quyết vụ án dân
sự. Tuy nhiên, tại phiên họp, người yêu cầu phải trình bày về những
vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết, lý do, mục đích và căn cứ của
việc yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự, nên Luật sư, dù tham gia
với tư cách người bảo vệ hoặc người đại diện ủy quyền của người yêu
cầu hoặc người liên quan phải chuẩn bị cho việc phát biểu ý kiến này.
Cách chuẩn bị, về căn bản cũng giống như đối với bản luận cứ
cho phiên tòa dân sự trong thủ tục giải quyết vụ án dân sự. Có thể cũng
có các phần chủ yếu. Phần đầu giới thiệu qua về bản thân Luật sư,
thuộc đoàn Luật sư nào, hiện làm việc cho Văn phòng Luật sư hoặc
công ty luật nào, tham gia với tư cách gì. Phần nội dung tập trung vào
những yêu cầu Tòa án giải quyết, lý do có những yêu cầu đó, mục đích
và căn cứ. Chủ yếu phần này là nêu mà không phải lập luận hoặc trình
bày các lý lẽ như trong tranh tụng vụ án dân sự.
2.1.6. Tham gia phiên họp giải quyết việc dân sự
Thủ tục phiên họp giải quyết việc dân sự được quy định tại Điều
369 BLTTDS 2015. Do không có tính chất tranh chấp trong đối tượng
giải quyết nên việc tham gia phiên họp chỉ đơn thuần để trình bày ý
kiến mà không phải tranh tụng. Tuy nhiên, Luật sư vẫn cần thiết ghi
lại các nội dung, diễn biến của phiên họp. Qua việc ghi chép, nếu thấy
có những vấn đề còn thiếu thì khi phát biểu, Luật sư phải bổ sung đầy
đủ các yêu cầu của khách hàng của mình, căn cứ cho các yêu cầu đó.

553
2.1.7. Tham gia phúc thẩm quyết định giải quyết việc dân sự
Theo quy định tại Điều 371 BLTTDS 2015, người yêu cầu và
cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến quyết
định giải quyết việc dân sự có quyền kháng cáo đối với quyết định giải
quyết việc dân sự. Trong trường hợp quyết định giải quyết của Tòa
án không phù hợp với mong muốn của khách hàng và khách hàng có
nguyện vọng kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp trên xem xét, Luật sư giúp
khách hàng làm đơn kháng cáo.
Về căn bản, đơn kháng cáo quyết định giải quyết việc dân sự
cũng được viết giống như đơn kháng cáo bản án, quyết định trong thủ
tục giải quyết vụ án dân sự. Thủ tục tham gia phúc thẩm quyết định
giải quyết việc dân sự cũng tiến hành theo thủ tục phúc thẩm trong thủ
tục giải quyết vụ án dân sự. Luật sư cần nghiên cứu các nội dung này
trong thủ tục giải quyết vụ án dân sự.
Có hai loại việc dân sự mà quyết định giải quyết có hiệu lực pháp
luật ngay, đương sự không có quyền kháng cáo (cũng như Viện kiểm
sát không có quyền kháng nghị). Theo Điều 371 BLTTDS 2015 đó là
yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản sau khi ly
hôn và yêu cầu công nhận sự thỏa thuận về thay đổi người trực tiếp
nuôi con sau khi ly hôn. Sau khi có quyết định giải quyết, nếu đương
sự muốn kháng cáo thì Luật sư giải thích cho đương sự rõ họ không có
quyền kháng cáo đối với quyết định giải quyết hai loại việc này.
2.2. Kỹ năng của Thẩm phán trong thủ tục giải quyết việc dân sự
2.2.1. Thụ lý đơn yêu cầu
a) Kiểm tra đơn yêu cầu
Nếu việc khởi kiện vụ án dân sự được thể hiện bằng đơn khởi
kiện thì yêu cầu giải quyết việc dân sự được thể hiện bằng đơn yêu
cầu, kèm theo là các tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của
mình là có căn cứ và hợp pháp. Đơn yêu cầu được gửi trực tiếp đến
Tòa án hoặc được gửi qua dịch vụ bưu chính hoặc gửi trực tuyến bằng

554
hình thức điện tử qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có) theo
quy định tại Điều 190 BLTTDS 2015, giống như đối với việc gửi đơn
khởi kiện. Khi nhận được đơn yêu cầu nộp trực tiếp hoặc qua dịch vụ
bưu chính, Tòa án phải ghi vào sổ nhận đơn. Khi nhận đơn yêu cầu
nộp trực tiếp, Tòa án có trách nhiệm cấp ngay giấy xác nhận đã nhận
đơn cho người yêu cầu. Đối với trường hợp nhận đơn qua dịch vụ bưu
chính thì trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn, Tòa
án phải gửi thông báo nhận đơn cho người yêu cầu. Trường hợp nhận
đơn yêu cầu bằng phương thức gửi trực tuyến thì Tòa án in ra bản giấy
và phải ghi vào sổ nhận đơn; đồng thời phải thông báo ngay việc nhận
đơn cho người yêu cầu qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có)
theo quy định tại Điều 191 BLTTDS 2015.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn yêu
cầu và các chứng cứ, tài liệu kèm theo, Chánh án Tòa án phân công
Thẩm phán giải quyết đơn yêu cầu. Thẩm phán kiểm tra đơn yêu cầu
theo các nội dung quy định tại Điều 362 BLTTDS 2015: a) Ngày,
tháng, năm làm đơn; b) Tên Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc dân
sự; c) Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của
người yêu cầu; d) Những vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết và
lý do, mục đích, căn cứ của việc yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự
đó; đ) Tên, địa chỉ của những người có liên quan đến việc giải quyết
việc dân sự đó (nếu có); e) Các thông tin khác mà người yêu cầu xét
thấy cần thiết cho việc giải quyết yêu cầu của mình.
Đối với mục (c), cần chú ý xem người yêu cầu có quyền yêu cầu
hay không. Tùy từng việc cụ thể, quyền yêu cầu của người yêu cầu
được thể hiện thông qua các giấy tờ xác định quan hệ với người được
yêu cầu, ví dụ đối với yêu cầu xác định người mất năng lực hành vi
dân sự, thì thông thường đó là quan hệ huyết thống, nuôi dưỡng, hôn
nhân, đối với yêu cầu xác định mất tích thì quan hệ đó có thể là quan
hệ hôn nhân, có thể là quan hệ pháp luật dân sự như quan hệ vay nợ…
Đồng thời, phải xác định yêu cầu nêu trong đơn yêu cầu có phù hợp
với loại việc dân sự hay không. Thẩm phán cần nghiên cứu những quy

555
định của pháp luật nội dung điều chỉnh yêu cầu giải quyết, đối chiếu
với những loại việc dân sự được quy định tại BLTTDS 2015. Cụ thể,
đối với những yêu cầu về dân sự, cần nghiên cứu quy định của BLDS,
Luật Đất đai, Luật Nhà ở và các văn bản pháp luật liên quan, đối chiếu
với Điều 27 BLTTDS 2015: “Những yêu cầu về dân sự thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án”. Đối với các yêu cầu về hôn nhân và gia
đình, cần nghiên cứu Luật Hôn nhân và gia đình và những văn bản liên
quan, đối chiếu với Điều 29 BLTTDS 2015: “Những yêu cầu về hôn
nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án”. Đối với các
yêu cầu về kinh doanh, thương mại, cần nghiên cứu Luật Thương mại,
Luật Doanh nghiệp, Luật Kinh doanh bất động sản và các luật liên
quan, đối chiếu với Điều 31 BLTTDS 2015: “Những yêu cầu về kinh
doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án”. Đối với
những yêu cầu về lao động, cần nghiên cứu Bộ luật Lao động và những
văn bản liên quan, đối chiếu với Điều 33 BLTTDS 2015: “Những yêu
cầu về lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án”.
Đối với mục (d), đơn yêu cầu phải thể hiện rõ yêu cầu, lý do, mục
đích, căn cứ của việc yêu cầu, nếu đơn yêu cầu chưa thể hiện rõ thì Tòa
án phải yêu cầu người có đơn sửa đổi, bổ sung.
Đơn yêu cầu của cá nhân phải có chữ ký hoặc điểm chỉ; nếu là
cơ quan, tổ chức thì đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó phải
ký tên và đóng dấu vào phần cuối đơn; trường hợp tổ chức yêu cầu là
doanh nghiệp thì việc sử dụng con dấu được thực hiện theo quy định
của Luật Doanh nghiệp.
b) Kiểm tra các chứng cứ, tài liệu kèm theo đơn yêu cầu
Đơn yêu cầu phải được gửi kèm những tài liệu, chứng cứ làm
căn cứ cho yêu cầu. Tùy từng loại yêu cầu mà xác định các loại giấy
tờ, tài liệu cụ thể. Phần lớn các trường hợp, việc xác định chứng cứ,
tài liệu gửi kèm theo đơn yêu cầu được xác định trên cơ sở những quy
định chung của pháp luật và căn cứ vào từng trường hợp cụ thể. Nhưng
cũng có trường hợp, các chứng cứ, tài liệu kèm theo đơn được pháp

556
luật quy định, ví dụ, trường hợp xác định người mất năng lực hành vi
hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự. Khoản 2 Điều 381 BLTTDS
2015 quy định gửi kèm theo đó yêu cầu thông báo tìm kiếm người
vắng mặt tại nơi cư trú, người yêu cầu phải gửi tài liệu, chứng cứ kèm
tài liệu, chứng cứ để chứng minh là người bị yêu cầu biệt tích 06 tháng
liền trở lên; trường hợp có yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp quản lý
tài sản của người vắng mặt thì phải cung cấp tài liệu, chứng cứ về tình
hình tài sản của người đó, việc quản lý tài sản hiện có và danh sách
những người thân thích của người đó.
c) Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu và các tài liệu kèm theo
đơn yêu cầu
Qua kiểm tra đơn yêu cầu, nếu thấy chưa đủ nội dung theo quy
định của pháp luật, Thẩm phán thông báo cho người yêu cầu sửa đổi,
bổ sung đơn yêu cầu trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được yêu
cầu, theo đúng quy định tại khoản 1 Điều 193 BLTTDS 2015. Cụ thể,
việc thông báo phải thể hiện bằng văn bản, trong đó nêu rõ: (1) những
nội dung cần sửa đổi, bổ sung; (2) những loại tài liệu cụ thể (tên của tài
liệu, nếu có thể) cần bổ sung; (3) thời hạn sửa đổi, bổ sung; (4) hậu quả
pháp lý nếu người yêu cầu không sửa đổi, bổ sung. Trong đó, mục (1)
và mục (2), cần ghi cụ thể các yêu cầu đối với người có đơn yêu cầu;
mục (3) và mục (4) có thể ghi: “Trong thời hạn… ngày, nếu ông (bà)…
không sửa đổi, bổ sung theo yêu cầu của Tòa án, Tòa án sẽ không thụ
lý yêu cầu của ông (bà)”. Có thể tham khảo mẫu Thông báo về việc
sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện trong thủ tục giải quyết vụ án dân sự.
Hết thời hạn 07 ngày, người yêu cầu không sửa đổi, bổ sung đơn
yêu cầu thì Thẩm phán trả lại đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm
theo cho họ theo khoản 3 Điều 363 BLTTDS 2015.
d) Thông báo nộp lệ phí
Nếu xét thấy đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo đã đủ
điều kiện thụ lý thì Thẩm phán thông báo cho người yêu cầu về việc
nộp lệ phí yêu cầu giải quyết việc dân sự trong thời hạn 05 ngày làm

557
việc, kể từ ngày nhận được thông báo nộp lệ phí, trừ trường hợp người
đó được miễn hoặc không phải nộp lệ phí theo quy định của pháp luật.
Mức lệ phí yêu cầu thực hiện theo quy định tại Luật Phí và lệ phí năm
2015. Việc thông báo thực hiện qua hình thức phiếu báo, trong đó ghi
rõ số tiền lệ phí, nơi nộp, trách nhiệm nộp lại cho Tòa án biên lai thu
tiền lệ phí nộp đơn yêu cầu.
đ) Vào sổ thụ lý đơn yêu cầu
Khi người yêu cầu nộp biên lai lệ phí nộp đơn yêu cầu, Tòa án sẽ
thụ lý việc dân sự. Trường hợp người yêu cầu được miễn hoặc không
phải nộp lệ phí thì Tòa án thụ lý việc dân sự kể từ ngày nhận được đơn
yêu cầu. Việc thụ lý được ghi vào Sổ thụ lý việc dân sự, trong đó có số
thụ lý, ngày thụ lý, tên việc dân sự, tên, địa chỉ người yêu cầu.
e) Thông báo thụ lý đơn yêu cầu
Theo quy định tại Điều 365, trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể
từ ngày thụ lý đơn yêu cầu, Tòa án phải thông báo bằng văn bản cho
người yêu cầu, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải
quyết việc dân sự, cho Viện kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án đã thụ
lý đơn yêu cầu.
Văn bản thông báo phải có các nội dung chính sau đây: Ngày,
tháng, năm làm văn bản thông báo; tên, địa chỉ Tòa án đã thụ lý đơn
yêu cầu; tên, địa chỉ của đương sự; những vấn đề cụ thể đương sự yêu
cầu Tòa án giải quyết; danh mục tài liệu, chứng cứ đương sự nộp kèm
theo đơn yêu cầu; thời hạn người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải
có ý kiến bằng văn bản nộp cho Tòa án đối với yêu cầu của người yêu
cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo (nếu có); hậu quả pháp lý của việc
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không nộp cho Tòa án văn bản
về ý kiến của mình đối với yêu cầu giải quyết việc dân sự.
g) Trả lại đơn yêu cầu
Qua nghiên cứu đơn, nếu không đáp ứng đủ các điều kiện thụ lý,
theo quy định tại khoản 1 Điều 364, Tòa án trả lại đơn yêu cầu trong

558
những trường hợp sau đây: a) Người yêu cầu không có quyền yêu cầu
hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự; b) Sự việc người
yêu cầu yêu cầu đã được Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền
giải quyết; c) Việc dân sự không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
án; d) Người yêu cầu không sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu trong thời
hạn quy định tại khoản 2 Điều 363 của Bộ luật này; đ) Người yêu cầu
không nộp lệ phí trong thời hạn quy định tại điểm a khoản 4 Điều 363
của Bộ luật này, trừ trường hợp được miễn hoặc không phải nộp lệ
phí hoặc chậm nộp vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan; e)
Người yêu cầu rút đơn yêu cầu; g) Những trường hợp khác theo quy
định của pháp luật.
Khi trả lại đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo, Tòa án
phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do. Người yêu cầu có quyền
khiếu nại, kiến nghị việc trả lại đơn yêu cầu. Việc khiếu nại, kiến nghị
và giải quyết khiếu nại, kiến nghị việc trả lại đơn yêu cầu được thực
hiện theo quy định tại Điều 194 BLTTDS 2015, cụ thể: trong thời hạn
10 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản trả lại đơn yêu cầu, người yêu
cầu có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Tòa án
đã trả lại đơn yêu cầu. Ngay sau khi nhận được khiếu nại, kiến nghị về
việc trả lại đơn yêu cầu, Chánh án Tòa án phải phân công một Thẩm
phán khác xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị. Trong thời hạn 05
ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải mở phiên
họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị. Phiên họp xem xét, giải
quyết khiếu nại, kiến nghị có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát
cùng cấp và đương sự có khiếu nại; trường hợp đương sự vắng mặt thì
Thẩm phán vẫn tiến hành phiên họp. Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có
liên quan đến việc trả lại đơn yêu cầu, ý kiến của đại diện Viện kiểm
sát và đương sự có khiếu nại tại phiên họp, Thẩm phán phải ra một
trong các quyết định sau đây: a) Giữ nguyên việc trả lại đơn yêu cầu
và thông báo cho đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp; b) Nhận lại đơn
yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo để tiến hành việc thụ lý vụ án.
Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định trả lời khiếu

559
nại, kiến nghị về việc trả lại đơn yêu cầu của Thẩm phán, người yêu
cầu có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Chánh
án Tòa án trên một cấp trực tiếp xem xét, giải quyết. Trong thời hạn
10 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn
yêu cầu, Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp phải ra một trong các
quyết định sau đây: a) Giữ nguyên việc trả lại đơn khởi kiện; b) Yêu
cầu Tòa án cấp sơ thẩm nhận lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ
kèm theo để tiến hành việc thụ lý vụ án. Quyết định giải quyết khiếu
nại, kiến nghị của Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp có hiệu lực
thi hành và được gửi ngay cho người yêu cầu, Viện kiểm sát cùng cấp,
Viện kiểm sát đã kiến nghị và Tòa án đã ra quyết định trả lại đơn yêu
cầu. Trường hợp có căn cứ xác định quyết định giải quyết của Chánh
án Tòa án trên một cấp trực tiếp quy định tại khoản 6 Điều 194 có vi
phạm pháp luật thì trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được quyết
định, đương sự có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị
với Chánh án TAND cấp cao nếu quyết định bị khiếu nại, kiến nghị là
của Chánh án TAND cấp tỉnh hoặc với Chánh án TANDTC nếu quyết
định bị khiếu nại, kiến nghị là của Chánh án TAND cấp cao. Trong thời
hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại của đương sự, kiến nghị
của Viện kiểm sát thì Chánh án phải giải quyết. Quyết định của Chánh
án là quyết định cuối cùng.
2.2.2. Chuẩn bị xét đơn yêu cầu
Thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu là 01 tháng, kể từ ngày Tòa án
thụ lý đơn yêu cầu, trừ trường hợp có quy định khác.
a) Bổ sung tài liệu, chứng cứ
Trong thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu, trường hợp xét thấy tài
liệu, chứng cứ chưa đủ căn cứ để Tòa án giải quyết thì Tòa án yêu cầu
đương sự bổ sung tài liệu, chứng cứ trong thời hạn 05 ngày làm việc,
kể từ ngày nhận được yêu cầu của Tòa án.
b) Thu thập chứng cứ
Trường hợp đương sự có yêu cầu hoặc khi xét thấy cần thiết thì

560
Thẩm phán ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp
tài liệu, chứng cứ; triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định,
định giá tài sản. Nếu hết thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu mà chưa có
kết quả giám định, định giá tài sản thì thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu
cầu được kéo dài nhưng không quá 01 tháng.
c) Đình chỉ xét đơn yêu cầu
Nếu người yêu cầu rút đơn yêu cầu thì Thẩm phán ra quyết định
đình chỉ việc xét đơn yêu cầu và trả lại đơn yêu cầu, tài liệu, chứng cứ
kèm theo cho người yêu cầu.
d) Quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự
Hết thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu, nếu người yêu cầu không
rút đơn thì Thẩm phán phải ra quyết định mở phiên họp giải quyết
việc dân sự và gửi ngay cho VKSND cùng cấp kèm theo hồ sơ việc
dân sự để Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu chuẩn bị tham gia phiên
họp. Thời hạn Viện kiểm sát nghiên cứu là 07 ngày, kể từ ngày nhận
được hồ sơ; hết thời hạn này, Viện kiểm sát phải trả hồ sơ cho Tòa
án để mở phiên họp giải quyết việc dân sự. Việc gửi và nhận hồ sơ
giữa Tòa án và Viện kiểm sát phải thực hiện đúng theo quy định của
pháp luật.
Quyết định mở phiên họp xét đơn yêu cầu cũng có hình thức
giống như quyết định đưa vụ án ra xét xử. Điểm khác biệt là do Viện
kiểm sát bắt buộc tham gia phiên họp giải quyết việc dân sự nên trong
quyết định mở phiên họp xét đơn yêu cầu, mục tên đại diện Viện kiểm
sát phải được ghi rõ. Trước khi ra quyết định mở phiên họp, Thẩm
phán cần trao đổi, đề nghị trước với Viện trưởng Viện kiểm sát cùng
cấp về việc cử Kiểm sát viên tham gia phiên họp. Sau khi có quyết
định mở phiên họp, Thẩm phán làm thủ tục gửi ngay quyết định và hồ
sơ việc dân sự cho Viện kiểm sát cùng cấp để Viện kiểm sát nghiên
cứu1. Khi chuyển hồ sơ từ Tòa án cho Viện kiểm sát, tất cả các tài liệu

1
Thủ tục gửi và nhận hồ sơ việc dân sự giữa TAND và VKSND thực hiện theo quy
định tại Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016 của

561
có trong hồ sơ việc dân sự phải được đánh số thứ tự và có bản kê danh
mục các tài liệu. Trong khi chuyển hồ sơ việc dân sự từ Tòa án sang
Viện kiểm sát hoặc ngược lại, cần kiểm tra đầy đủ tài liệu trong hồ sơ
việc dân sự. Người nhận hồ sơ việc dân sự phải đối chiếu với bản kê
danh mục tài liệu với tài liệu đã được đánh số thứ tự trong hồ sơ việc.
Việc bàn giao phải được lập biên bản, có ký nhận của hai bên. Trong
trường hợp gửi hồ sơ theo đường bưu điện, cán bộ nhận hồ sơ vụ việc
đầu tiên phải kiểm tra đầy đủ tài liệu có trong hồ sơ, nếu phát hiện
trong hồ sơ thiếu tài liệu nào thì phải lập biên bản ghi rõ tài liệu thiếu
và thông báo ngay cho cơ quan gửi hồ sơ biết.
Thông thường, người giao hoặc nhận ở Tòa án cũng như Viện
kiểm sát là cán bộ thư ký hoặc cán bộ văn phòng mà không phải là
Thẩm phán. Nhưng Thẩm phán phụ trách việc dân sự phải tự kiểm tra
lại quá trình giao nhận hồ sơ việc dân sự giữa Tòa án và Viện kiểm sát
có đúng thủ tục hay không.
2.2.3. Phiên họp xét đơn yêu cầu
Phiên họp xét đơn yêu cầu do Thẩm phán điều hành. Các kỹ năng
như sau:
a) Giải quyết những vấn đề mang tính thủ tục
(1) Trước khi khai mạc, Thẩm phán: “Yêu cầu thư ký báo cáo về
sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia phiên họp”.
(2) Sau khi nghe thư ký báo cáo, Thẩm phán khai mạc phiên họp.
Câu nói thường được sử dụng: “Hôm nay, ngày… tháng… năm...,
TAND quận (huyện)… mở phiên họp công khai giải quyết yêu cầu (ví
dụ tuyên bố mất tích)… của ông (ví dụ Nguyễn Văn A)… Tôi tuyên
bố khai mạc phiên họp”.
(3) Thẩm phán kiểm tra căn cước đối với người có mặt bằng cách
đặt câu hỏi: “Yêu cầu người có đơn yêu cầu đứng lên. Đề nghị ông
cho biết rõ họ, tên, địa chỉ”. Những người khác cũng được đặt câu hỏi

VKSNDTC, TANDTC quy định việc phối hợp giữa VKSND và TAND trong việc thi hành
một số quy định của BLTTDS 2015.

562
tương tự. Đối với trường hợp có nghi ngờ về người này (không phải là
người cần được triệu tập), Thẩm phán yêu cầu “Đề nghị ông (bà) xuất
trình giấy tờ tùy thân”.
Trường hợp có người vắng mặt, Thẩm phán quyết định việc
hoãn phiên họp hay vẫn tiến hành phiên họp theo quy định tại
Điều 367 BLTTDS 2015: Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải
tham gia phiên họp; trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì Tòa án
vẫn tiến hành phiên họp. Người yêu cầu hoặc người đại diện hợp
pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ phải tham gia
phiên họp theo giấy triệu tập của Tòa án. Người yêu cầu vắng mặt
lần thứ nhất thì Tòa án hoãn phiên họp, trừ trường hợp người yêu
cầu đề nghị Tòa án giải quyết việc dân sự vắng mặt họ. Trường hợp
người yêu cầu đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt
thì bị coi là từ bỏ yêu cầu và Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết
việc dân sự; trong trường hợp này, quyền yêu cầu Tòa án giải quyết
việc dân sự đó theo thủ tục do BLTTDS quy định vẫn được bảo đảm.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc người đại diện hợp
pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ được Tòa án
triệu tập tham gia phiên họp. Trong trường hợp cần thiết, Tòa án có
thể triệu tập người làm chứng, người giám định, người phiên dịch
tham gia phiên họp; nếu có người vắng mặt thì Tòa án quyết định
hoãn phiên họp hoặc vẫn tiến hành phiên họp.
Do vậy, nếu Kiểm sát viên vắng mặt, Thẩm phán tuyên bố: “Tại
phiên họp, đại diện Viện kiểm sát cùng cấp, ông (bà)… vắng mặt;
căn cứ khoản 1 Điều 367, tôi tuyên bố vẫn tiến hành phiên họp”. Nếu
là người có đơn yêu cầu vắng mặt lần đầu và không có yêu cầu giải
quyết vắng mặt, Thẩm phán không tiến hành thủ tục kiểm tra căn cước
những người có mặt mà tuyên bố: “Do người có đơn yêu cầu vắng
mặt lần thứ nhất và không có yêu cầu giải quyết vắng mặt nên căn cứ
khoản 2 Điều 367, tôi tuyên bố hoãn phiên họp”. Nếu người có đơn
yêu cầu có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt thì Thẩm phán tiến hành
phiên họp vắng mặt họ. Trong trường hợp này, Thẩm phán phải công

563
bố đơn đề nghị giải quyết vắng mặt và tuyên bố: “Do có đơn yêu cầu
xử vắng mặt nên phiên họp được tiến hành với sự vắng mặt của ông
(bà)… theo quy định tại khoản 2 Điều 367 BLTTDS 2015”. Trường
hợp người yêu cầu đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng
mặt thì bị coi là từ bỏ yêu cầu và Tòa án ra quyết định đình chỉ giải
quyết việc dân sự.
Nếu người vắng mặt là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
hoặc người đại diện hợp pháp, ngưởi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của họ, người giám định, người làm chứng, người phiên dịch, tùy từng
trường hợp, Thẩm phán quyết định hoãn phiên họp hay vẫn tiến hành
phiên họp. Cách thức hoãn cũng giống như đối với trường hợp người
có đơn yêu cầu vắng mặt.
Khi hoãn phiên họp, Thẩm phán ra quyết định hoãn, ghi rõ thời
gian, địa điểm mở lại phiên họp. Quyết định hoãn phiên họp được thông
báo công khai tại phiên họp và gửi ngay cho những người vắng mặt.
b) Giải quyết những vấn đề về nội dung
(i) Thẩm phán yêu cầu người có yêu cầu hoặc người đại diện
hoặc người có bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trình bày về
những yêu cầu, lý do, mục đích và căn cứ của việc yêu cầu Tòa án giải
quyết việc dân sự.
(ii) Sau khi người có yêu cầu trình bày xong, Thẩm phán yêu cầu
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc đại diện hợp pháp hoặc
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trình bày ý kiến về
những vấn đề có liên quan đến quyền, nghĩa vụ của họ trong việc giải
quyết việc dân sự. Nếu có người vắng mặt, Thẩm phán cho công bố lời
khai, tài liệu, chứng cứ do người đó cung cấp hoặc đã khai với Tòa án.
(iii) Thẩm phán yêu cầu người làm chứng (nếu có) trình bày ý
kiến; người giám định trình bày kết luận giám định, giải thích những
vấn đề còn chưa rõ hoặc mâu thuẫn.
(iv) Thẩm phán, Hội đồng giải quyết việc dân sự cho xem xét tài
liệu, chứng cứ.

564
(v) Sau cùng, Thẩm phán đề nghị Kiểm sát viên phát biểu ý kiến
của Viện kiểm sát về việc giải quyết việc dân sự, đồng thời đề nghị gửi
văn bản phát biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ việc dân sự ngay
sau khi kết thúc phiên họp.
(vi) Thẩm phán, Hội đồng giải quyết việc dân sự xem xét, quyết
định chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu giải quyết việc dân sự.
Điểm khác biệt lớn nhất với thủ tục phiên tòa giải quyết vụ án dân sự,
quyết định về việc giải quyết vụ án do Hội đồng xét xử thảo luận tại
phòng nghị án, nhưng phiên họp giải quyết việc dân sự nếu do một
Thẩm phán chịu trách nhiệm tiến hành nên Thẩm phán công bố ngay
mà không có thủ tục thảo luận, nghị án. Thực hiện được nhiệm vụ này,
Thẩm phán phải tập trung vào công việc, lắng nghe, ghi chép phần
trình bày của tất cả những người tham gia phiên họp, căn cứ vào những
tài liệu, chứng cứ được xem xét, căn cứ vào quy định của pháp luật đưa
ra những đánh giá của mình đối với việc giải quyết yêu cầu. Các văn
bản pháp luật cần thiết cũng phải được Thẩm phán chuẩn bị ngay từ
trước khi mở phiên họp.
Về nguyên tắc, quyết định giải quyết việc dân sự phải được Thẩm
phán công bố ngay tại phiên họp. Để có thể soạn xong quyết định,
Thẩm phán cần tuyên bố cho giải lao phiên họp để chuẩn bị quyết định
giải quyết việc dân sự. Sau khi soạn xong quyết định, Thẩm phán phải
tuyên bố công khai trong phiên họp.
c) Quyết định giải quyết việc dân sự
Nội dung cơ bản của quyết định giải quyết việc dân sự được quy
định tại khoản 1 Điều 370 BLTTDS 2015.
Phần đầu của quyết định
Gồm ngày tháng, năm ra quyết định; tên Tòa án ra quyết định;
họ và tên của Thẩm phán, Kiểm sát viên, thư ký phiên họp; tên, địa chỉ
của người yêu cầu giải quyết việc dân sự, những vấn đề cụ thể yêu cầu
Tòa án giải quyết; tên, địa chỉ của người có liên quan... Có thể sử dụng
hướng dẫn viết phần đầu bản án sơ thẩm như sau:

565
Tòa án nhân dân...(1) CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Quyết định số:... (2) Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Ngày:... (3)
V/v... (4)
QUYẾT ĐỊNH GIẢI QUYẾT VIỆC DÂN SỰ
TÒA ÁN NHÂN DÂN...
Chủ tọa phiên họp: ông/bà…, Thẩm phán Toà án
Khi viết mục (1): nếu là Tòa án nhân dân cấp huyện thì ghi rõ tên
Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc cấp tỉnh nào. Ví dụ Tòa án nhân dân
quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
Khi viết mục (2): ghi số, ghi năm, ghi ký hiệu đối với quyết định
về dân sự là QĐDS-ST, ví dụ số 01/2012/QĐDS-ST; đối với quyết định
về hôn nhân, gia đình, ghi ký hiệu QĐHNGĐ-ST, ví dụ số 15/2012/
QĐHNGĐ-ST; đối với quyết định về kinh doanh, thương mại, ghi ký
hiệu QĐKDTM-ST, ví dụ số 03/2012/QĐKDTM-ST; đối với quyết
định về lao động, ghi ký hiệu QĐLĐ-ST, ví dụ số 02/2012/QĐLĐ-ST.
Khi viết mục (3): ghi rõ ngày, tháng, năm ra quyết định, không
phân biệt là việc dân sự được giải quyết trong một ngày hay trong
nhiều ngày.
Khi viết mục (4): ghi trích yếu cần xác định yêu cầu cụ thể mà
Tòa án thụ lý giải quyết được quy định tại khoản tương ứng vào phần
trích yếu của quyết định. Ví dụ yêu cầu mà Tòa án thụ lý giải quyết
là yêu cầu tuyên bố một người mất tích được quy định tương ứng tại
khoản 3 Điều 27 BLTTDS 2015 thì ghi: “V/v yêu cầu tuyên bố một
người mất tích”. Đối với quyết định giải quyết yêu cầu về hôn nhân,
gia đình, yêu cầu về kinh doanh, thương mại, yêu cầu về lao động cũng
ghi trích yếu tương tự như cách ghi trích yếu đối với yêu cầu về dân sự
theo hướng dẫn trên.
Phần nội dung
Phần nội dung của quyết định gồm nhận định của Tòa án và căn
cứ để chấp nhận hay không chấp nhận đơn yêu cầu.

566
Khi viết mục nhận định của Tòa án và những căn cứ để chấp
nhận hoặc không chấp nhận đơn yêu cầu và mục căn cứ pháp luật để
giải quyết việc dân sự, Thẩm phán nên kết hợp lại khi viết. Chẳng hạn
viết: “Từ những sự việc như người có đơn yêu cầu trình bày cũng như
đã xem xét công khai tại phiên họp, căn cứ vào (khoản, Điều) luật…,
thì đây là trường hợp (hoặc không phải là trường hợp)… Tòa án có cơ
sở (hoặc không có cơ sở) chấp nhận yêu cầu… của ông (bà)”.
Phần quyết định
Đối với mục (i): Quyết định của Tòa án, trước khi viết, có thể sử
dụng câu chuyển: “Từ những nhận định trên đây
Tòa án quyết định:
1. Chấp nhận yêu cầu của ông… về việc...
2. Ông (bà)… phải nộp… tiền lệ phí giải quyết việc dân sự.
3. Người yêu cầu, người liên quan được quyền kháng cáo quyết
định trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày Tòa án ra quyết định (nếu có
người vắng mặt thì phần này ghi “ông (bà)… được quyền kháng cáo
trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được quyết định (hoặc kể từ
ngày quyết định được thông báo, niêm yết công khai)”.
Quyết định giải quyết việc dân sự được gửi cho VKSND, người
yêu cầu, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến quyết định đó trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày ra
quyết định. Việc gửi quyết định giải quyết việc dân sự cho cơ quan thi
hành án được thực hiện theo quy định của Luật Thi hành án dân sự.
Quyết định giải quyết việc dân sự có hiệu lực pháp luật của Tòa án có
liên quan đến việc thay đổi hộ tịch của cá nhân phải được Tòa án gửi
cho Ủy ban nhân dân nơi đã đăng ký hộ tịch của cá nhân đó theo quy
định của Luật Hộ tịch. Quyết định giải quyết việc dân sự có hiệu lực
pháp luật của Tòa án được công bố trên Cổng thông tin điện tử của Tòa
án (nếu có), trừ quyết định có chứa thông tin quy định tại khoản 2
Điều 109 của BLTTDS 2015.

567
2.2.4. Phúc thẩm quyết định giải quyết việc dân sự
a) Chuẩn bị xét đơn kháng cáo, kháng nghị
Quyết định giải quyết việc dân sự bị kháng cáo, kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm, trừ các trường hợp được quy định tại
khoản 7 Điều 27: “Yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài
Tòa án”, khoản 2 Điều 29: “Yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn,
thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn”, khoản 3 Điều 29: “Yêu
cầu công nhận thỏa thuận của cha, mẹ về thay đổi người trực tiếp
nuôi con sau khi ly hôn hoặc công nhận việc thay đổi người trực tiếp
nuôi con sau khi ly hôn của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định
của pháp luật về hôn nhân và gia đình”. Thời hạn kháng cáo là 10
ngày kể từ ngày Tòa án ra quyết định hoặc kể từ ngày họ nhận được
quyết định giải quyết việc dân sự đối với trường hợp vắng mặt. Thời
hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là 10 ngày, Viện kiểm sát
cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị trong thời hạn 15 ngày, kể từ
ngày Tòa án ra quyết định kháng nghị.
Khi có kháng cáo, kháng nghị Tòa án có thẩm quyền xét kháng
cáo, kháng nghị phải tiến hành các công việc sau đây:
(1) Trường hợp xét thấy tài liệu, chứng cứ chưa đủ căn cứ để Tòa
án giải quyết thì Tòa án yêu cầu đương sự bổ sung tài liệu, chứng cứ
trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu của
Tòa án.
(2) Trường hợp đương sự có yêu cầu hoặc khi xét thấy cần thiết,
Thẩm phán ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp
tài liệu, chứng cứ; triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định,
định giá. Nếu hết thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 373 BLTTDS
2015 mà chưa có kết quả giám định, định giá thì thời hạn chuẩn bị xét
kháng cáo, kháng nghị được kéo dài nhưng không quá 15 ngày.
(3) Trong thời hạn chuẩn bị xét kháng cáo, kháng nghị, nếu tất cả
người kháng cáo rút đơn kháng cáo, Viện kiểm sát rút kháng nghị thì
Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết việc xét đơn yêu cầu theo thủ

568
tục phúc thẩm. Trong trường hợp này, quyết định giải quyết việc dân
sự theo thủ tục sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Tòa án cấp
phúc thẩm ra quyết định đình chỉ.
(4) Quyết định mở phiên họp phúc thẩm giải quyết việc dân sự:
Tòa án phải gửi ngay quyết định mở phiên họp phúc thẩm giải quyết
việc dân sự và hồ sơ việc dân sự cho Viện kiểm sát cùng cấp để nghiên
cứu. Viện kiểm sát phải nghiên cứu trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày
nhận được hồ sơ; hết thời hạn này, Viện kiểm sát phải trả hồ sơ cho Tòa
án để mở phiên họp phúc thẩm giải quyết việc dân sự.
b) Phiên họp phúc thẩm
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra quyết định mở phiên họp,
Thẩm phán phải mở phiên họp phúc thẩm giải quyết việc dân sự. Trình
tự phiên họp được quy định tại Điều 375:
(i) Thư ký báo cáo về sự có mặt, vắng mặt của người tham gia
phiên họp.
(ii) Thẩm phán chủ tọa phiên họp tuyên bố khai mạc phiên họp,
kiểm tra về sự có mặt, vắng mặt của những người được triệu tập tham
gia phiên họp và căn cước của họ, giải thích quyền và nghĩa vụ của
người tham gia phiên họp.
(iii) Thẩm phán yêu cầu những người tham gia tố tụng trình bày
nội dung về yêu cầu theo thứ tự được quy định tại điểm c khoản 1
Điều 375: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người kháng
cáo, người kháng cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày về
nội dung kháng cáo và căn cứ của việc kháng cáo; Trường hợp chỉ có
Viện kiểm sát kháng nghị thì Kiểm sát viên trình bày về nội dung kháng
nghị và căn cứ của việc kháng nghị. Trường hợp vừa có kháng cáo, vừa
có kháng nghị thì các đương sự trình bày về nội dung kháng cáo và các
căn cứ của việc kháng cáo trước, sau đó Kiểm sát viên trình bày về nội
dung kháng nghị và căn cứ của việc kháng nghị. Trường hợp Viện kiểm
sát không kháng nghị thì Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm
sát về việc giải quyết kháng cáo trước khi Hội đồng phúc thẩm ra quyết

569
định. Ngay sau khi kết thúc phiên họp, Kiểm sát viên phải gửi văn bản
phát biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ việc dân sự.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc người
đại diện hợp pháp của họ trình bày ý kiến về những vấn đề có liên quan
đến quyền, nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong
nội dung kháng cáo, kháng nghị. Người làm chứng trình bày ý kiến;
người giám định trình bày kết luận giám định, giải thích những vấn đề
còn chưa rõ hoặc có mâu thuẫn.
Trường hợp có người được Tòa án triệu tập tham gia phiên họp
vắng mặt thì Thẩm phán cho công bố lời khai, tài liệu, chứng cứ do
người đó cung cấp.
c) Quyền hạn của Hội đồng phúc thẩm
Hội đồng phúc thẩm xem xét quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm
bị kháng cáo, kháng nghị, các tài liệu, chứng cứ có liên quan và ra một
trong các quyết định sau đây:
(i) Giữ nguyên quyết định giải quyết việc dân sự của Tòa án cấp
sơ thẩm;
(ii) Sửa quyết định giải quyết việc dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm;
(iii) Hủy quyết định giải quyết việc dân sự của Tòa án cấp sơ
thẩm và chuyển hồ sơ việc dân sự cho Tòa án cấp sơ thẩm để giải quyết
lại theo thủ tục sơ thẩm;
(iv) Hủy quyết định giải quyết việc dân sự của Tòa án cấp sơ
thẩm và đình chỉ giải quyết việc dân sự;
(v) Đình chỉ giải quyết việc xét đơn yêu cầu theo thủ tục phúc
thẩm nếu tại phiên họp tất cả người kháng cáo rút đơn kháng cáo, Viện
kiểm sát rút kháng nghị.
Quyết định phúc thẩm giải quyết việc dân sự có hiệu lực pháp
luật kể từ ngày ra quyết định và được gửi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân

570
quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 370. Quyết định phúc thẩm giải
quyết việc dân sự có hiệu lực pháp luật được công bố trên Cổng thông
tin điện tử của Tòa án (nếu có), trừ quyết định có chứa thông tin quy
định tại khoản 2 Điều 109 BLTTDS 2015.
Thủ tục phúc thẩm quyết định giải quyết việc dân sự được thực
hiện giống như với thủ tục phúc thẩm vụ án dân sự. Các Thẩm phán
cần nghiên cứu kỹ các quy định này.
2.3. Kỹ năng của Kiểm sát viên trong thủ tục giải quyết việc
dân sự
Theo quy định tại Điều 21, Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến
nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm cho việc
giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật. Viện kiểm sát tham
gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; phiên tòa sơ thẩm
đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối
tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất,
nhà ở hoặc có đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực
hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc trường hợp quy định
tại khoản 2 Điều 4 BLTTDS 2015. Viện kiểm sát tham gia phiên tòa,
phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Như vậy, trong thủ tục
giải quyết việc dân sự, Viện kiểm sát có quyền tham gia phiên họp sơ
thẩm, quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị, tham gia phiên họp phúc
thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
Kiểm sát viên thực hiện kỹ năng kiểm sát giải quyết việc dân sự
căn cứ quy định của BLTTDS 2015, Thông tư liên tịch số 02/2016/
TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016 của VKSNDTC,
TANDTC quy định việc phối hợp giữa VKSND và TAND trong việc
thi hành một số quy định của BLTTDS và Quy chế Công tác kiểm sát
việc giải quyết các vụ, việc dân sự do VKSNDTC ban hành kèm theo
Quyết định số 364/QĐ-VKSTC ngày 02/10/2017.

571
2.3.1. Kỹ năng tham gia kiểm sát thủ tục sơ thẩm việc dân sự
a) Xác định những việc dân sự mà Viện kiểm sát phải tham gia
tố tụng
Theo Điều 21 BLTTDS 2015: “VKSND tham gia các phiên họp
sơ thẩm đối với các việc dân sự”. Theo quy định này, các việc dân sự
mà Viện kiểm sát phải tham gia tố tụng là những việc được quy định
tại Điều 27, Điều 29, Điều 31, Điều 33 BLTTDS 2015, gồm:
* Những yêu cầu về dân sự
(1) Yêu cầu tuyên bố hoặc hủy bỏ quyết định tuyên bố một người
mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc
có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
(2) Yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và
quản lý tài sản của người đó.
(3) Yêu cầu tuyên bố hoặc hủy bỏ quyết định tuyên bố một người
mất tích.
(4) Yêu cầu tuyên bố hoặc hủy bỏ quyết định tuyên bố một người
là đã chết.
(5) Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hoặc không
công nhận bản án, quyết định về dân sự, quyết định về tài sản trong
bản án, quyết định hình sự, hành chính của Tòa án nước ngoài hoặc
không công nhận bản án, quyết định về dân sự, quyết định về tài sản
trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của Tòa án nước ngoài
không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
(6) Yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu.
(7) Yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án.
(8) Yêu cầu công nhận tài sản có trên lãnh thổ Việt Nam là vô
chủ, công nhận quyền sở hữu của người đang quản lý đối với tài
sản vô chủ trên lãnh thổ Việt Nam theo quy định tại điểm đ khoản 2
Điều 470 của BLTTDS.

572
(9) Yêu cầu xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản, phân
chia tài sản chung để thi hành án và yêu cầu khác theo quy định của
Luật Thi hành án dân sự.
(10) Các yêu cầu khác về dân sự, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền
giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
* Những yêu cầu về hôn nhân và gia đình
(1) Yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật.
(2) Yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con,
chia tài sản khi ly hôn.
(3) Yêu cầu công nhận thỏa thuận của cha, mẹ về thay đổi người
trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn hoặc công nhận việc thay đổi người
trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo
quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình.
(4) Yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành
niên hoặc quyền thăm nom con sau khi ly hôn.
(5) Yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi.
(6) Yêu cầu liên quan đến việc mang thai hộ theo quy định của
pháp luật hôn nhân và gia đình.
(7) Yêu cầu công nhận thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc
chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân đã được thực hiện theo bản
án, quyết định của Tòa án.
(8) Yêu cầu tuyên bố vô hiệu thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ
chồng theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình.
(9) Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hoặc không
công nhận bản án, quyết định về hôn nhân và gia đình của Tòa án nước
ngoài hoặc cơ quan khác có thẩm quyền của nước ngoài hoặc không
công nhận bản án, quyết định về hôn nhân và gia đình của Tòa án nước
ngoài hoặc cơ quan khác có thẩm quyền của nước ngoài không có yêu
cầu thi hành tại Việt Nam.

573
(10) Yêu cầu xác định cha, mẹ cho con hoặc con cho cha, mẹ
theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình.
(11) Các yêu cầu khác về hôn nhân và gia đình, trừ trường hợp
thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định
của pháp luật.
* Những yêu cầu về kinh doanh, thương mại
(1) Yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông,
nghị quyết của Hội đồng thành viên theo quy định của pháp luật về
doanh nghiệp.
(2) Yêu cầu liên quan đến việc Trọng tài thương mại Việt Nam
giải quyết tranh chấp theo quy định của pháp luật về Trọng tài
thương mại.
(3) Yêu cầu bắt giữ tàu bay, tàu biển theo quy định của pháp luật
về hàng không dân dụng Việt Nam, về hàng hải Việt Nam, trừ trường
hợp bắt giữ tàu bay, tàu biển để bảo đảm giải quyết vụ án.
(4) Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hoặc không
công nhận bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Tòa án nước
ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định kinh doanh, thương
mại của Tòa án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
(5) Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết
kinh doanh, thương mại của Trọng tài nước ngoài.
(6) Các yêu cầu khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp
thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định
của pháp luật.
* Những yêu cầu về lao động
(1) Yêu cầu tuyên bố hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập
thể vô hiệu.
(2) Yêu cầu xét tính hợp pháp của cuộc đình công.
(3) Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hoặc không

574
công nhận bản án, quyết định lao động của Tòa án nước ngoài hoặc
không công nhận bản án, quyết định lao động của Tòa án nước ngoài
không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
(4) Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết
lao động của Trọng tài nước ngoài.
(5) Các yêu cầu khác về lao động, trừ trường hợp thuộc thẩm
quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của
pháp luật.
b) Kiểm sát việc thụ lý
* Kiểm sát đơn yêu cầu có phù hợp với quy định của pháp luật về
việc dân sự hay không.
* Kiểm sát các thời hạn mà Tòa án phải thực hiện khi thụ lý vụ
án: Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn, Chánh án
Tòa án phải phân công Thẩm phán giải quyết đơn yêu cầu; Thẩm phán
yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu trong thời hạn 07 ngày, kể từ
ngày nhận đơn; thời hạn thông báo nộp lệ phí là 05 ngày, kể từ ngày
nhận được thông báo; thông báo thụ lý trong thời hạn 03 ngày, kể từ
ngày thụ lý đơn.
* Kiểm sát việc trả lại đơn yêu cầu theo quy định tại khoản 1
Điều 58.
c) Nghiên cứu hồ sơ việc dân sự
VKSND tham gia tất cả các phiên họp giải quyết việc dân sự. Vì
vậy, sau khi có quyết định mở phiên họp, Tòa án phải chuyển hồ sơ
việc dân sự cho Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu.
Khi nhận được quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân
sự và hồ sơ việc dân sự do Tòa án chuyển sang, Viện trưởng Viện
kiểm sát phải ra quyết định cử Kiểm sát viên tham gia tố tụng đối
với việc dân sự. Trong thực tế, quyết định cử Kiểm sát viên tham
gia tố tụng phải có từ trước khi Viện kiểm sát nhận được quyết
định. Thông tin này đã được trao đổi giữa Tòa án và Viện kiểm sát

575
vì trong quyết định mở phiên họp mục ghi họ tên Kiểm sát viên
tham gia phiên họp. Kiểm sát viên phải nghiên cứu hồ sơ việc dân
sự để tham gia phiên họp.
Mục đích của việc nghiên cứu hồ sơ việc dân sự trước khi tham
gia phiên họp là (1) kiểm tra thủ tục thụ lý và chuẩn bị xét đơn yêu cầu
do Tòa án thực hiện đã đúng quy định của pháp luật tố tụng hay chưa
và (2) nghiên cứu nội dung việc dân sự để chuẩn bị ý kiến của Viện
kiểm sát để phát biểu tại phiên họp. Về nguyên tắc, tất cả những thủ
tục tố tụng mà Tòa án đã thực hiện đều phải thể hiện thành các tài liệu
trong hồ sơ việc dân sự. Các giấy tờ này thường gồm các nhóm (1)
giấy tờ của người yêu cầu, của người có liên quan đến yêu cầu, (2) các
giấy tờ liên quan đến thủ tục giải quyết của Tòa án.
Đối với nhóm giấy tờ của người có yêu cầu và những người có
liên quan, theo quy định của BLTTDS thì trách nhiệm của Tòa án mà
cụ thể là Thẩm phán phải kiểm tra và nếu cần thiết đã yêu cầu người
có đơn phải sửa chữa, bổ sung đơn yêu cầu và những tài liệu chứng cứ
gửi kèm theo. Kiểm sát viên khi nghiên cứu nhóm giấy tờ này chủ yếu
là để hiểu nội dung của việc dân sự, xác định các văn bản pháp luật
dùng để giải quyết yêu cầu, chuẩn bị ý kiến phát biểu trong phiên họp.
Từ các giấy tờ này, Kiểm sát viên cũng có thể phát hiện thấy Tòa án
thụ lý việc dân sự là có đúng thẩm quyền (theo vụ việc, theo cấp Tòa
án hay theo lãnh thổ) hay không; hoặc có đúng thời hiệu yêu cầu giải
quyết hay không.
Nhóm giấy tờ liên quan đến thủ tục của Tòa án gồm (1) các giấy
triệu tập, giấy báo, (2) các thông báo theo quy định của pháp luật tố
tụng, (3) các biên bản làm việc của Tòa án (nếu có) và các tài liệu khác
(nếu có).
Khi đọc các giấy báo, giấy triệu tập, Kiểm sát viên phải xác định
(1) người được triệu tập có đúng không, có đủ không; (2) thủ tục triệu
tập có hợp lệ không, giấy triệu tập, giấy báo có đến được với người cần
báo, cần triệu tập hay không.

576
Tùy từng việc dân sự cụ thể, các thông báo liên quan đến giải
quyết việc dân sự được quy định có thể khác nhau, ví dụ trong thủ tục
tuyên bố người mất tích, Tòa án phải làm thông báo tìm kiếm người
mất tích trước khi mở phiên họp xét đơn, nhưng trong thủ tục tuyên
bố một người đã chết, Tòa án không phải làm thông báo tìm kiếm. Khi
đọc các thông báo này, Kiểm sát viên phải rút ra được kết luận là các
thông báo này đã làm đúng hình thức, nội dung có phù hợp hay không,
thủ tục gửi, thủ tục thông báo có đúng quy định của pháp luật tố tụng
hay không.
Nghiên cứu các biên bản làm việc của Tòa án như biên bản lấy
lời khai, biên bản làm việc ở chính quyền địa phương... hoặc các giấy
tờ, tài liệu khác như kết luận giám định, kết luận của cơ quan y tế giúp
Kiểm sát viên có thêm cơ sở để đưa ra quan điểm của Viện kiểm sát về
việc giải quyết việc dân sự.
Sau khi nghiên cứu xong hồ sơ việc dân sự, Kiểm sát viên phải
(1) rút ra được kết luận chính về việc giải quyết yêu cầu (có cơ sở để
đề nghị Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu), (2) các tài
liệu, văn bản pháp luật cần thiết để giải quyết yêu cầu. Kiểm sát viên
yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết
việc dân sự theo quy định tại khoản 6 Điều 97 BLTTDS 2015.
Quy chế hoạt động của Ngành Kiểm sát là theo nguyên tắc thủ
trưởng chế, thủ trưởng là người có quyền quyết định và cũng là người
chịu trách nhiệm về hoạt động kiểm sát nên sau khi nghiên cứu xong
hồ sơ việc dân sự, Kiểm sát viên phải trình bày ý kiến của mình với
Viện trưởng để Viện trưởng có quan điểm đối với việc giải quyết việc
dân sự. Chỉ sau khi có ý kiến của Viện trưởng, Kiểm sát viên được
phân công tham gia việc dân sự mới chuẩn bị viết bản ý kiến của Viện
kiểm sát để trình bày tại phiên họp.
d) Tại phiên họp
Viện kiểm sát phải tham gia tất cả các phiên họp giải quyết
việc dân sự. Các hoạt động nghiệp vụ trước khi mở phiên họp, tại

577
phiên họp và sau phiên họp, Kiểm sát viên phải kiểm sát việc tuân
theo pháp luật về trình tự, thủ tục, thành phần giải quyết việc dân
sự. Theo quy định tại khoản 1 Điều 367, kiểm sát viên phải tham gia
phiên họp, trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì Tòa án vẫn phải
tiến hành phiên họp. Do vậy, cần tránh hết sức để điều này không xảy
ra. Về phía Viện kiểm sát, nên chuẩn bị Kiểm sát viên dự phòng để
trong trường hợp bất khả kháng, Kiểm sát viên đã được phân công
tham gia phiên họp không thể có mặt tại phiên họp thì có Kiểm sát
viên thay thế ngay.
Về thành phần giải quyết việc dân sự được quy định tại Điều 67
BLTTDS 2015: Yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động quy định tại khoản 5 Điều 27, khoản 9 Điều 29,
khoản 4 và khoản 5 Điều 31, khoản 2, 3 và 4 Điều 33 do tập thể gồm
ba Thẩm phán giải quyết. Yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động không thuộc trường hợp trên do một
Thẩm phán giải quyết. Thành phần giải quyết yêu cầu về kinh doanh,
thương mại quy định tại khoản 2 Điều 31 được thực hiện theo quy định
của pháp luật về Trọng tài thương mại.
Thủ tục phiên họp gồm (1) Thẩm phán làm thủ tục khai mạc
phiên họp, kiểm tra căn cước của người có mặt, (2) trình bày của người
yêu cầu, người có liên quan.
Trước khi Thẩm phán quyết định chấp nhận hoặc không chấp
nhận yêu cầu, Kiểm sát viên được phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát
về việc giải quyết vụ án.
Trước khi phát biểu, Kiểm sát viên phải lắng nghe và ghi chép
lại những điểm cần thiết trong lời trình bày của người có yêu cầu và
những người liên quan. Đặc biệt phải chú ý đến những điểm có mâu
thuẫn với những vấn đề mà Kiểm sát viên đã rút ra được khi đọc và
nghiên cứu hồ sơ việc dân sự trước khi mở phiên Tòa. Trong trường
hợp này, Kiểm sát viên có thể yêu cầu Thẩm phán chủ tọa phiên họp
cho Kiểm sát viên đặt câu hỏi làm rõ hoặc cũng có thể từ sự mâu thuẫn

578
này, Kiểm sát viên, nếu có đủ cơ sở thì kết luận yêu cầu của đương sự
chưa đủ căn cứ để Tòa án chấp nhận.
Khi phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về giải quyết việc dân sự,
Kiểm sát viên nên bắt đầu: “Thưa ông (bà) Thẩm phán chủ tọa phiên
họp, tôi là (nêu rõ họ và tên đầy đủ), là Kiểm sát viên (sơ cấp, trung
cấp hoặc cao cấp) của VKSND... Tôi thay mặt VKSND... phát biểu ý
kiến về việc giải quyết yêu cầu... như sau...”.
Phần nội dung, Kiểm sát viên nên kết hợp giữa phần đã chuẩn bị
trước với diễn biến của phiên họp. Trong thực tế, các Kiểm sát viên
thường cầm văn bản đã chuẩn bị trước để đọc. Điều này tạo ấn tượng
là Kiểm sát viên không quan tâm đến diễn biến phiên họp mà chỉ nặng
về hồ sơ. Để loại bỏ ấn tượng này, Kiểm sát viên nên tập cho mình
khả năng nói mà không dựa vào văn bản. Văn bản được Kiểm sát viên
chuẩn bị trước chỉ nên gạch ra những ý lớn cần phát biểu, những văn
bản, điều luật mà Kiểm sát viên sử dụng cho từng ý để kết hợp với diễn
biến của phiên họp. Bài phát biểu của Kiểm sát viên phải thể hiện được
đúng diễn biến của phiên họp. Kết luận của bài phát biểu dứt khoát
phải đưa ra được một cách rõ ràng quan điểm của Viện kiểm sát về
việc giải quyết việc dân sự là chấp nhận hay không chấp nhận. Kiểm
sát viên có thể kết luận: “Với những lập luận trên đây, Viện kiểm sát
đề nghị Tòa án chấp nhận (hoặc không chấp nhận) yêu cầu... của ông
(bà)... Trân trọng cám ơn”.
Sau phiên họp, Kiểm sát viên phải kiểm sát việc Toà án gửi
quyết định giải quyết việc dân sự trong thời hạn năm ngày làm việc và
gửi cho Ủy ban nhân dân hoặc cơ quan thi hành án theo quy định tại
khoản 2, khoản 3 Điều 370 BLTTDS 2015.
đ) Vấn đề thay đổi Kiểm sát viên
Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, trước khi mở phiên
họp cũng như tại phiên họp xét đơn yêu cầu, Kiểm sát viên có thể phải
từ chối tham gia tố tụng hoặc bị yêu cầu thay đổi trong các trường
hợp sau đây: Họ đồng thời là đương sự, người đại diện, người thân

579
thích của đương sự; Họ đã tham gia tố tụng với tư cách là người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người
giám định, người phiên dịch trong cùng vụ việc đó; Có căn cứ rõ ràng
cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ; Họ đã là người
tiến hành tố tụng trong vụ việc đó với tư cách là Thẩm phán, Hội thẩm
nhân dân, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên.
Theo Điều 61 BLTTDS 2015, trước khi mở phiên họp việc từ
chối tiến hành tố tụng hoặc đề nghị thay đổi Kiểm sát viên phải được
lập thành biên bản, trong đó nêu rõ lý do và căn cứ của việc từ chối
hoặc đề nghị thay đổi Kiểm sát viên. Việc thay đổi Kiểm sát viên
do Viện trưởng VKSND cùng cấp quyết định. Nếu thay đổi Kiểm
sát viên là Viện trưởng Viện kiểm sát thì Viện trưởng VKSND cấp
trên trực tiếp quyết định. Để có thể thực hiện được việc thay đổi, thì
người có yêu cầu phải có đơn. Tòa án phải chuyển ngay đơn yêu cầu
cho Viện trưởng VKSND có thẩm quyền xem xét, quyết định. Viện
kiểm sát phải thông báo bằng văn bản cho Tòa án biết việc thay đổi
hay không chấp nhận thay đổi Kiểm sát viên. Nếu thay đổi Kiểm sát
viên thì Viện kiểm sát phải thông báo luôn họ, tên của Kiểm sát viên
thay thế.
Tại phiên họp giải quyết việc dân sự, trường hợp do một tập thể
gồm ba Thẩm phán giải quyết, nếu tại phiên họp có yêu cầu thay đổi
Kiểm sát viên, thì Hội đồng xét đơn sẽ quyết định thay đổi, sau khi
nghe ý kiến của người bị yêu cầu thay đổi. Hội đồng xét đơn thảo luận
tại phòng nghị án và quyết định theo đa số. Trường hợp chấp nhận yêu
cầu thay đổi thì Hội đồng xét đơn phải ra quyết định chấp nhận. Quyết
định phải được gửi ngay cho Viện trưởng VKSND. Sau khi nhận được
quyết định của Hội đồng xét đơn, Viện trưởng Viện kiểm sát phải
quyết định phân công Kiểm sát viên thay thế và thông báo bằng văn
bản cho Tòa án để Tòa án tiếp tục giải quyết việc dân sự theo thủ tục
chung. Viện kiểm sát phải gửi ngay cho Tòa án (1) thông báo về việc
đã ra quyết định phân công Kiểm sát viên thay thế, (2) quyết định phân
công Kiểm sát viên thay thế.

580
Trường hợp phiên họp giải quyết việc dân sự do một Thẩm phán
giải quyết, nếu tại phiên họp có yêu cầu thay đổi kiểm sát viên và xét
thấy yêu cầu đó là có căn cứ, thì Thẩm phán ra quyết định hoãn phiên
họp và chuyển đơn yêu cầu thay đổi kiểm sát viên cho Viện trưởng
VKSND có thẩm quyền xem xét và quyết định. Sau khi có quyết định,
Viện kiểm sát phải thông báo bằng văn bản cho Tòa án biết việc thay
đổi hay không thay đổi Kiểm sát viên.
2.3.2. Kháng nghị quyết định giải quyết việc dân sự
a) Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm
Theo khoản 2 Điều 372 BLTTDS 2015, Viện kiểm sát cùng cấp
có quyền kháng nghị quyết định giải quyết việc dân sự trong thời
hạn 10 ngày, Viện kiểm sát cấp trên có quyền kháng nghị trong thời
hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa án ra quyết định. Các quyết định giải
quyết việc dân sự có thể bị kháng nghị là (1) Quyết định tạm đình chỉ
giải quyết việc dân sự; (2) Quyết định đình chỉ giải quyết việc dân sự
(3) Quyết định giải quyết việc dân sự, trừ quyết định giải quyết yêu
cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án (khoản 7 Điều 27);
yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản
khi ly hôn (khoản 2 Điều 29); yêu cầu công nhận sự thỏa thuận của
cha, mẹ về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn hoặc công
nhận sự thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn của cơ quan,
tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình
(khoản 3 Điều 29).
Do tất cả các việc dân sự Viện kiểm sát đều tham gia phiên họp
giải quyết nên ngay sau khi có quyết định giải quyết việc dân sự của
Tòa án, nếu thấy quyết định của Tòa án là chưa phù hợp với quan
điểm của Viện kiểm sát, kiểm sát viên tham dự phiên Tòa phải báo cáo
ngay ý kiến của mình cho Viện trưởng Viện trưởng sát để Viện trưởng
Viện kiểm sát xem xét việc kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Đối
với quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ giải quyết việc dân sự, sau
khi nhận quyết định này do Tòa án sơ thẩm chuyển qua, nếu thấy cần

581
kháng nghị phúc thẩm, Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Tòa án chuyển
hồ sơ việc dân sự cho Viện kiểm sát nghiên cứu trước khi quyết định
kháng nghị và phải có văn bản yêu cầu. Khi soạn văn bản yêu cầu,
Viện kiểm sát phải nói rõ yêu cầu (Tòa án chuyển hồ sơ việc dân sự), lý
do (để nghiên cứu, xem xét kháng nghị), đối tượng kháng nghị (quyết
định gì).
Đối với trường hợp Viện kiểm sát cấp trên, sau khi nhận được
quyết định về việc giải quyết việc dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm,
nếu xét thấy có thể phải kháng nghị, Viện kiểm sát cấp trên cũng có
văn bản yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ việc dân sự cho Viện kiểm sát
nghiên cứu, xem xét. Ngay sau khi nhận được yêu cầu của Viện kiểm
sát, Tòa án chuyển hồ sơ việc dân sự cho Viện kiểm sát có văn bản yêu
cầu. Thủ tục chuyển hồ sơ việc dân sự từ Tòa án sang Viện kiểm sát
và ngược lại được tiến hành theo quy định thống nhất giữa Tòa án và
Viện kiểm sát.
Người có thẩm quyền kháng nghị là Viện trưởng VKSND cùng
cấp và cấp trên trực tiếp. Các nội dung chính của quyết định kháng
nghị có thể áp dụng tương tự quy định của quyết định kháng nghị bản
án, quyết định của Tòa án theo thủ tục giải quyết vụ án dân sự. Phần
đầu của kháng nghị, ngoài hình thức chung của văn bản, phải có (1)
tên là Quyết định kháng nghị, số quyết định, ngày tháng năm ra quyết
định; (2) tên của Viện kiểm sát đã ra quyết định kháng nghị. Phần nội
dung của kháng nghị phải ghi (3) phần của quyết định của Tòa án về
việc giải quyết việc dân sự bị kháng nghị; (4) lý do kháng nghị; (5)
yêu cầu cụ thể của Viện kiểm sát. Phần cuối của kháng nghị phải có (6)
họ, tên của người ký quyết định kháng nghị, đóng dấu Viện kiểm sát
ra quyết định kháng nghị, (7) nơi gửi: Tòa án (đã giải quyết việc dân
sự theo thủ tục sơ thẩm), các đương sự có liên quan đến kháng nghị,
VKSND (cấp trên trực tiếp để báo cáo), lưu văn phòng.
Quyết định kháng nghị được gửi cho Tòa án đã giải quyết sơ
thẩm việc dân sự. Thủ tục gửi quyết định kháng nghị được tiến hành
theo thủ tục chung. Quyết định kháng nghị cũng phải được chính Viện

582
kiểm sát đã kháng nghị gửi cho những đương sự có liên quan đến
kháng nghị.
b) Kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm
Khi Viện kiểm sát thấy cần thiết phải nghiên cứu hồ sơ việc dân
sự để xem xét việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc theo
thủ tục tái thẩm, Viện kiểm sát cần có văn bản yêu cầu Tòa án đã ra
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật chuyển hồ sơ việc dân sự
cho Viện kiểm sát. Thời hạn để Tòa án thực hiện yêu cầu của Viện
kiểm sát là bảy ngày, kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu của Viện
kiểm sát.
Thời hạn để Viện kiểm sát nghiên cứu hồ sơ là ba tháng, kể từ
ngày nhận được hồ sơ việc dân sự. Hết thời hạn ba tháng, nếu Viện
kiểm sát không kháng nghị giám đốc thẩm hoặc không kháng nghị tái
thẩm thì Viện kiểm sát phải chuyển trả hồ sơ việc dân sự cho Tòa án.
Nếu Viện kiểm sát kháng nghị thì Viện kiểm sát chuyển trả cho Tòa án
(1) hồ sơ việc dân sự, (2) quyết định kháng nghị giám đốc thẩm (hoặc
quyết định kháng nghị tái thẩm).
Nếu Viện kiểm sát có văn bản yêu cầu Tòa án đã ra bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật chuyển hồ sơ việc dân sự cho
Viện kiểm sát nghiên cứu, Tòa án cấp trên có thẩm quyền cũng có
văn bản yêu cầu Tòa án có bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật chuyển hồ sơ để nghiên cứu, xem xét việc ra kháng nghị giám
đốc thẩm, tái thẩm theo quy định, thì cơ quan nào (Tòa án hoặc Viện
kiểm sát) có văn bản yêu cầu trước, Tòa án đã ra bản án, quyết định
có hiệu lực pháp luật có trách nhiệm chuyển hồ sơ việc dân sự cho
cơ quan đó nghiên cứu trước. Sau khi nghiên cứu hồ sơ, cơ quan này
có trách nhiệm chuyển hồ sơ cho cơ quan đã có yêu cầu chuyển hồ
sơ mà chưa nhận được hồ sơ. Nếu cơ quan có yêu cầu chuyển hồ sơ
mà chưa nhận được hồ sơ có đề nghị không chuyển hồ sơ nữa thì cơ
quan đã nhận hồ sơ chuyển trả hồ sơ việc dân sự cho Tòa án đã gửi
hồ sơ cho mình.

583
2.3.3. Quyền yêu cầu đối với Tòa án trong quá trình giải quyết
việc dân sự
Quyền yêu cầu của Viện kiểm sát được thực hiện khi giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự. Viện kiểm sát có quyền yêu cầu
Tòa án cùng cấp và Tòa án cấp dưới ra văn bản giải quyết khiếu nại, tố
cáo trong tố tụng dân sự khi có một trong những trường hợp sau đây:
(1) Viện kiểm sát nhận được khiếu nại, tố cáo Tòa án, người có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo không ra văn bản giải quyết khiếu
nại, tố cáo trong thời hạn quy định; (2) Viện kiểm sát có căn cứ xác
định Tòa án, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo không
ra văn bản giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thời hạn quy định.
Thời hạn để Tòa án thực hiện yêu cầu của Viện kiểm sát là ba
ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu. Tòa án cũng có thể đề nghị thời
hạn thực hiện yêu cầu là mười lăm ngày, nhưng Tòa án phải có văn bản
gửi Viện kiểm sát thông báo lý do cho Viện kiểm sát biết.
Văn bản yêu cầu của Viện kiểm sát gửi, ngoài những nội dung cơ
bản của hình thức văn bản, phải xác định được căn cứ cụ thể cho việc
yêu cầu, nội dung yêu cầu, thời hạn thực hiện yêu cầu.
Viện kiểm sát cũng có quyền yêu cầu Tòa án cùng cấp kiểm tra
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của Tòa án cấp mình và Tòa án cấp
dưới khi có một trong những trường hợp sau đây: (1) Viện kiểm sát
nhận được yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền; (2) Viện kiểm sát nhận
được đơn khiếu nại, tố cáo về việc Tòa án, người có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại, tố cáo vi phạm pháp luật trong khi giải quyết; (3) Viện
kiểm sát có căn cứ xác định việc Tòa án, người có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại, tố cáo vi phạm pháp luật trong giải quyết.
Tòa án có trách nhiệm trả lời Viện kiểm sát trong thời hạn mười
lăm ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu. Trường hợp vụ việc phức tạp
cần thêm thời gian thì Tòa án phải có văn bản thông báo lý do cho Viện
kiểm sát biết và trả lời cho Viện kiểm sát trong thời hạn ba mươi ngày,
kể từ ngày nhận được yêu cầu.

584
Nếu Viện kiểm sát có yêu cầu mà Tòa án không thực hiện hoặc
thực hiện không đầy đủ, Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Tòa án cung
cấp hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo cho
Viện kiểm sát. Tòa án có trách nhiệm trả lời cho Viện kiểm sát trong
thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu.
2.3.4. Đối với việc thực hiện quyền kiến nghị
Quyền kiến nghị của Viện kiểm sát đối với Tòa án cũng áp dụng
khi Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật khi giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự. Nếu qua việc nghiên cứu hồ sơ,
tài liệu được Tòa án cung cấp và xác minh thấy việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo của Tòa án, người có thẩm quyền là thiếu căn cứ, không
đúng quy định của pháp luật, thì Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với
Tòa án cùng cấp và Tòa án cấp dưới khắc phục vi phạm pháp luật. Nếu
Tòa án không thực hiện yêu cầu của Viện kiểm sát thì Viện kiểm sát có
quyền kiến nghị với TAND cấp trên.
Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kiến nghị với TAND cấp trên
của Tòa án được yêu cầu thực hiện việc khiếu nại, tố cáo của đương
sự, nhưng Tòa án đã không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ yêu
cầu của Viện kiểm sát.
2.3.5. Tham gia phúc thẩm
Sau khi có quyết định về việc giải quyết việc dân sự, trong thời
hạn luật định, Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực
tiếp có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, trừ 3 trường hợp được
quy định tại khoản 7 Điều 27, khoản 2 và khoản 3 Điều 29 BLTTDS
2015. Toàn bộ các kỹ năng soạn quyết định kháng nghị, thông báo
kháng nghị, tham gia phiên họp phúc thẩm việc dân sự của Viện kiểm
sát giống như các kỹ năng tương ứng trong thủ tục giải quyết vụ án
dân sự
3.2.6. Tham gia giám đốc thẩm, tái thẩm
Khoản 3 Điều 21 BLTTDS 2015 quy định Viện kiểm sát tham

585
gia phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Viện
kiểm sát nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với TANDTC hướng dẫn
cụ thể, tuy nhiên, trước khi có hướng dẫn, việc Viện kiểm sát tham
gia giám đốc thẩm, tái thẩm việc dân sự có thể áp dụng những quy
định tương tự như đối với thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án
dân sự.
3. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
1. Phân biệt việc dân sự với vụ án dân sự.
2. Nêu những yêu cầu về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án?
3. Nêu những yêu cầu về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án?
4. Nêu những yêu cầu về kinh doanh thương mại thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án?
5. Nêu những yêu cầu về lao động thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án?
6. Trình bày những quy định về thụ lý việc dân sự?
7. Phân tích các hoạt động chuẩn bị xét đơn yêu?
8. Trình bày thủ tục phiên họp sơ thẩm xét đơn yêu cầu?
9. Trình bày thủ tục kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm việc dân sự?
10. Trình bày thủ tục phúc thẩm việc dân sự?
Các câu hỏi dành cho học viên Luật sư:
11. Trình bày các kỹ năng của Luật sư khi thực hiện quyền yêu
cầu giải quyết việc dân sự?
12. Trình bày kỹ năng của Luật sư khi chuẩn bị tham gia phiên
họp sơ thẩm giải quyết việc dân sự?
13. Trình bày kỹ năng của Luật sư khi tham gia phiên họp sơ thẩm?

586
14. Trình bày kỹ năng của Luật sư khi tham gia phúc thẩm việc
dân sự?
Các câu hỏi dành cho học viên Thẩm phán:
15. Trình bày kỹ năng thụ lý việc dân sự của Thẩm phán?
16. Trình bày kỹ năng của Thẩm phán khi chuẩn bị phiên họp
sơ thẩm?
17. Trình bày kỹ năng của Thẩm phán khi điều hành phiên họp
sơ thẩm?
18. Trình bày cách viết quyết định giải quyết việc dân sự?
19. Trình bày kỹ năng của Thẩm phán ở giai đoạn phúc thẩm
việc dân sự?
Các câu hỏi dành cho học viên Kiểm sát:
20. Các hình thức tham gia việc dân sự của Viện kiểm sát?
21. Nêu những việc dân sự mà Viện kiểm sát không phải tham
gia tố tụng?
22. Nêu những kỹ năng kiểm sát hoạt động thụ lý việc dân sự?
23. Trình bày kỹ năng kiểm sát hoạt động chuẩn bị phiên họp
sơ thẩm?
24. Trình bày kỹ năng kiểm sát tại phiên họp sơ thẩm?
25. Trình bày kỹ năng kiểm sát tại cấp phúc thẩm?

587
Chương 10
THỦ TỤC XÉT LẠI BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH
CỦA TÒA ÁN ĐÃ CÓ HIỆU LỰC PHÁP LUẬT

Mục tiêu của bài học: Nội dung:


Chương này sẽ trang bị cho 1. Một số vấn đề chung về thủ
người học: tục xét lại bản án, quyết định của
Về kiến thức, người học có được Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
những kiến thức, kỹ năng nghề 2. Kỹ năng của Luật sư, Thẩm
nghiệp cơ bản trong việc xác định phán, Kiểm sát viên trong
căn cứ và điều kiện xét lại bản án, thủ tục xét lại bản án, quyết
quyết định đã có hiệu lực pháp luật định của Tòa án đã có hiệu lực
tương ứng với từng chức danh Thẩm pháp luật
phán, Kiểm sát viên và Luật sư. 2.1. Kỹ năng của Luật sư trong
Về kỹ năng, cung cấp những kỹ thủ tục xét lại bản án, quyết
năng riêng biệt cho từng chức định của Tòa án đã có hiệu lực
danh; kỹ năng nâng cao về xử lý pháp luật
một số trường hợp, tình huống 2.2. Kỹ năng của Thẩm phán
khi thực hiện các công việc đối trong trong thủ tục xét lại bản
với thủ tục xét lại bản án, quyết án, quyết định của Tòa án đã có
định của Tòa án đã có hiệu lực hiệu lực pháp luật
pháp luật.
2.3. Kỹ năng của Kiểm sát viên
Về thái độ, thông qua các tình trong thủ tục xét lại bản án,
huống thực tế, học viên có thể quyết định của Tòa án đã có
nắm bắt, tự chuẩn bị, giải quyết hiệu lực pháp luật
các tình huống xảy ra trên thực
tế, đúc rút kinh nghiệm để từ đó 3. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
có thái độ, ý thức chuyên nghiệp
trong hành nghề sau này.

588
Thực tiễn hoạt động giải quyết vụ việc tại Tòa án chứng minh,
có nhiều trường hợp, vì lý do chủ quan cũng như khách quan của
cơ quan tiến hành tố tụng hay của đương sự mà nhiều bản án, quyết
định, dù là kết quả của một quá trình chuẩn bị, thành quả của một
phiên tòa công khai với sự tham gia của nhiều chủ thể tố tụng nhưng
sản phẩm đó của Thẩm phán hoặc của cả Hội đồng xét xử vẫn có thể
mắc sai lầm, vi phạm pháp luật nhất định. Để đảm bảo tính chính xác
trong hoạt động xét xử, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, ổn định trật tự xã hội thì đa số các nước trên thế giới, trong đó
có Việt Nam đã có cơ chế đảm bảo tính hợp pháp của các bản án,
quyết định trước khi có hiệu lực pháp luật thông qua thủ tục phúc
thẩm. Tuy nhiên, trên thực tế điều này vẫn chưa đủ đảm bảo cho sự
đúng đắn tuyệt đối của bản án, quyết định của Tòa án. Với sự kế thừa
những quy định của BLTTDS năm 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011
cũng như trên cơ sở bổ sung, thay thế bằng những quy định phù hợp,
BLTTDS 2015 dành một phần riêng quy định về thủ tục đặc biệt sửa
chữa những sai lầm đó ngay cả khi bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật. Phần thứ năm BLTTDS 2015 quy định thủ tục xét lại bản
án quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật gồm các thủ tục riêng
biệt là: (1) thủ tục giám đốc thẩm; (2) thủ tục tái thẩm và (3) thủ tục
đặc biệt xem xét lại quyết định của HĐTP TANDTC. Mỗi thủ tục có
một quy trình tố tụng riêng, tuy nhiên các thủ tục đều tuân thủ nội
dung cơ bản sau đây: (i) kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, yêu
cầu, kiến nghị, đề nghị xem xét theo thủ tục đặc biệt bản án, quyết
định của HĐTP TANDTC; (ii) chuẩn bị phiên tòa, phiên họp xem xét
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật; (iii) phiên tòa, phiên họp
xem xét bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và (iv) các hoạt
động tố tụng sau phiên tòa, phiên họp của các chủ thể có thẩm quyền.
Xuất phát từ vai trò, chức năng của Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát
viên trong mỗi thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật, bên cạnh những kỹ năng chung, mỗi chức danh tư pháp nói trên
sẽ có kỹ năng đặc thù riêng trong việc vận dụng và thực thi pháp luật
tố tụng dân sự.

589
1. Một số vấn đề chung về thủ tục xét lại bản án, quyết định
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
1.1. Yêu cầu, kiến nghị, đề nghị, kháng nghị giám đốc thẩm,
tái thẩm và xem xét theo thủ tục đặc biệt bản án, quyết định của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
1.1.1. Đề nghị kháng nghị
BLTTDS 2015 quy định mỗi thủ tục xét lại bản án, quyết định
có hiệu lực pháp luật được mở ra phải dựa trên quyết định kháng nghị
của chủ thể có thẩm quyền (trừ thủ tục đặc biệt xem xét lại bản án,
quyết định của HĐTP TANDTC). Căn cứ để chủ thể có thẩm quyền ra
quyết định kháng nghị (giám đốc thẩm, tái thẩm) là đơn đề nghị của
người có yêu cầu kháng nghị. Dựa trên đơn đề nghị này, các chủ thể có
thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm mới xem xét có căn
cứ kháng nghị hay không để ban hành quyết định kháng nghị giám đốc
thẩm, tái thẩm. Riêng đối với thủ tục đặc biệt xem xét lại bản án, quyết
định của HĐTP TANDTC, BLTTDS 2015 quy định những chủ thể
trực tiếp có thẩm quyền yêu cầu, kiến nghị, đề nghị là Ủy ban thường
vụ Quốc hội, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, Chánh án TANDTC và
Viện trưởng VKSNDTC chứ không cần phải dựa trên văn bản yêu cầu
để ra quyết định xem xét lại bản án, quyết định của HĐTP TANDTC
như thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm. Vì thế, tùy vào việc xem xét lại
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục nào và tùy vào
từng vai trò tham gia đối với mỗi thủ tục tố tụng xét lại bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật, Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên có
thể lưu ý đến những kỹ năng sau: Đề nghị kháng nghị và xác định căn
cứ đề nghị; Nộp và nhận đơn đề nghị; Ra quyết định kháng nghị (đối
với thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm).
a) Xác định căn cứ và điều kiện xét lại bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật
Căn cứ và điều kiện xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật là một nội dung rất quan trọng mà các chức danh Luật sư,

590
Thẩm phán, Kiểm sát viên cần lưu ý khi thực hiện nhiệm vụ nghề
nghiệp của mình. Theo quy định của BLTTDS 2015 khi xem xét căn
cứ và điều kiện xét lại thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm hay quyết định
của HĐTP TANDTC thì Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên đều phải
dựa vào các tiêu chí sau để đánh giá tính hợp pháp và tính có căn cứ
của mỗi thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật:
căn cứ xét lại bản án, quyết định; thẩm quyền kháng nghị (đối với
thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm); yêu cầu, kiến nghị, đề nghị xét lại
bản án, quyết định (đối với thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định
của HĐTP TANDTC); thời hạn kháng nghị (đối với thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm), thời hạn yêu cầu, đề nghị, kiến nghị (đối với quyết
định của HĐTP TANDTC) và văn bản kháng nghị (đối với thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm), yêu cầu, đề nghị, kiến nghị (đối với thủ tục
đặc biệt xem xét lại quyết định của HĐTP TANDTC). Dù có cùng
tiêu chí để xem xét tính hợp pháp và có căn cứ nhưng thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm hay thủ tục xem xét lại quyết định của HĐTP
TANDTC lại có những cơ sở pháp lý và điều kiện để xem xét riêng
dựa vào bản chất pháp lý của mỗi thủ tục.
Thứ nhất, căn cứ xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật
Sự khác biệt về tính chất của các căn cứ kháng nghị là cơ sở
chủ yếu cho việc thiết lập các thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật. Vì thế, căn cứ xem xét lại bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật không chỉ là tiêu chí, là điều kiện tiên quyết để
Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên lựa chọn, áp dụng thủ tục xét lại
phù hợp mà còn là cơ sở có tính định hướng để xem xét các điều kiện
khác dùng làm cơ sở cho các chủ thể có thẩm quyền ra quyết định
kháng nghị. Thực hiện được kỹ năng này, yêu cầu Luật sư, Thẩm
phán, Kiểm sát viên phải nắm được những quy định pháp luật tố tụng
dân sự về các căn cứ của từng thủ tục xét lại bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật và phải biết vận dụng những quy định này để đánh
giá, xác định căn cứ.

591
- Căn cứ kháng nghị thủ tục giám đốc thẩm
Thủ tục giám đốc thẩm thực chất là một thủ tục xét lại bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện
có sai lầm của Tòa án khi nhận định về những tình tiết, sự kiện của vụ
án hoặc có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án.
Vì thế, để kiểm tra tính hợp pháp, tính có căn cứ của các bản án, quyết
định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát
viên phải căn cứ theo quy định tại Điều 326 BLTTDS 2015 để xem xét
có cơ sở kháng nghị hay không. Các căn cứ để xem xét kháng nghị thủ
tục giám đốc thẩm được quy định tại khoản 1 Điều 326 BLTTDS 2015
gồm có ba trường hợp, đó là:
+ Trường hợp 1, khi “kết luận trong bản án, quyết định không
phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án gây thiệt hại đến
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự”1. Khi xem xét, đánh giá căn
cứ này, Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên phải làm rõ ba yếu tố thỏa
mãn: (1) kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những
tình tiết khách quan của vụ án; (2) việc kết luận không phù hợp với các
tình tiết khách quan đó phải gây thiệt hại cho quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự và (3) là người có đơn đề nghị theo quy định tại Điều 328
BLTTDS 2015 phải là người có quyền, lợi ích bị thiệt hại chứ không
phải bất kỳ đương sự trong vụ việc dân sự đã được giải quyết bằng bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật (dựa vào kết luận trong bản án,
quyết định có hiệu lực pháp luật, có đương sự có quyền, lợi ích bị thiệt
hại nhưng có đương sự có quyền, lợi ích không bị thiệt hại, thậm chí có
lợi hơn dựa trên kết luận đó của Tòa án). Yếu tố (1) là điều kiện cần và
yếu tố (2), (3) là điều kiện đủ khi xem xét căn cứ này. Tình tiết khách
quan của vụ án là những tình tiết tồn tại ngoài ý muốn chủ quan của
con người có liên quan đến vụ án mà Tòa án đã giải quyết. Để đánh giá
nhận thức đúng đắn về các tình tiết vụ án, Tòa án phải có quan điểm
toàn diện và khách quan. Mỗi tình tiết phải được Tòa án xem xét thận
trọng, đánh giá đầy đủ các mặt, mối liên hệ nội tại trong bản thân tình
1
Điểm a khoản 1 Điều 326 BLTTDS 2015.

592
tiết và trong mối quan hệ biện chứng với các tình tiết khác của vụ án.
Tòa án phải lấy sự thật làm căn cứ, không được suy diễn hoặc đưa ra
những kết luận có tính duy ý chí về vụ án khi chưa xem xét, đánh giá
toàn bộ các tình tiết vụ án. Theo đó, khi đánh giá kết luận của Tòa án
không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án, thì Tòa án cấp
trên, Luật sư, Viện kiểm sát có thể nhận diện điều này dưới các dạng
sau: thứ nhất, chưa đủ các chứng cứ, tài liệu để giải quyết vụ án nhưng
Tòa án vẫn thực hiện việc giải quyết vụ án nên nhận định của Tòa án
thiếu cơ sở; thứ hai, Tòa án đánh giá sai chứng cứ, tài liệu trong vụ án
(đánh giá sai tính khách quan, tính hợp pháp, tính liên quan của chứng
cứ) nên quyết định giải quyết vụ việc dân sự sai; thứ ba, kết hợp cả
hai trường hợp trên. Ví dụ: trong vụ án chia thừa kế, dựa trên lời khai
của các đương sự và chứng cứ mà các đương sự cung cấp, Tòa án đã
xác định ngay có 5 người ở hàng thừa kế thứ nhất của người chết được
nhận di sản thừa kế theo pháp luật. Thực tế, trước khi chết, người để lại
di sản còn có một người con nuôi ở địa phương khác mà các đồng thừa
kế tham gia tố tụng cố tình giấu đi vì mục đích muốn được hưởng một
suất thừa kế có giá trị lớn hơn. Hoặc trong vụ án về bồi thường tai nạn
lao động, Tòa án xác định là tai nạn lao động, buộc chủ sử dụng lao
động bồi thường cho người lao động. Nhưng thực tế, đây không phải là
tai nạn lao động vì tai nạn xảy ra ngoài thời gian làm việc và địa điểm
tai nạn nằm ngoài cung đường từ nơi người lao động làm việc về nhà
hoặc không thuộc trường hợp người lao động phải thực công việc của
chủ sử dụng lao động giao vì lợi ích của người sử dụng lao động,…1
Đương sự trong thủ tục giải quyết vụ án dân sự là nguyên đơn, bị đơn,
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan2, đương sự trong thủ tục giải
quyết việc dân sự là người yêu cầu và người có liên quan đến việc giải
quyết việc dân sự3. Quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự bị thiệt
hại nghĩa là lợi ích vật chất cũng như tinh thần của đương sự bị xấu đi,
khác với quyền và lợi ích của đương sự bị thay đổi (có thể xấu đi hoặc

1
Học viện Tư pháp, Giáo trình luật Tố tụng Dân sự Việt Nam, Nxb. Tư pháp, 2014, tr. 346.
2
Xem Điều 68 BLTTDS 2015.
3
Xem khoản 2 Điều 326 BLTTDS 2015.

593
tốt lên). Vậy Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát phải xác định chỉ khi nào
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự bị xấu đi thì mới có căn cứ
xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Điều này liên quan
mật thiết đến việc Luật sư, Kiểm sát viên, Thẩm phán xác định đúng
tên, địa chỉ của người đề nghị trong đơn đề nghị xem xét thủ tục giám
đốc thẩm theo Điều 328 BLTTDS 2015.
+ Trường hợp 2, “có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm
cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình,
dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ không được bảo vệ theo đúng
quy định của pháp luật”1. Để xác định được căn cứ kháng nghị thủ tục
giám đốc thẩm này, Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên phải hiểu được
thế nào là có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Thủ tục tố tụng ở
đây có thể hiểu là trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc dân sự sơ thẩm,
phúc thẩm theo quy định của của BLTTDS 2015. Vi phạm thủ tục tố
tụng có thể là vi phạm các nguyên tắc cơ bản của BLTTDS, vi phạm
về thẩm quyền thụ lý cấp sơ thẩm, phúc thẩm của Tòa án, vi phạm quy
định về thành phần Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm, phúc thẩm, xác định
sai tư cách hoặc bỏ sót đương sự ở cấp xét xử sơ thẩm, phúc thẩm…
Ví dụ, BLTTDS 2015 quy định hòa giải trong thủ tục công nhận thuận
tình ly hôn là thủ tục bắt buộc trước khi mở phiên họp giải quyết yêu
cầu thuận tình ly hôn của vợ và chồng ở cấp sơ thẩm nhưng Thẩm
phán đã không tiến hành hoặc ở phiên tòa sơ thẩm, bị đơn, người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính
đáng và họ không yêu cầu xử vắng mặt nhưng Tòa án vẫn xử vắng
mặt là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng,… Tuy nhiên, không phải
mọi trường hợp vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng đều là căn cứ
để xét lại bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám
đốc thẩm. Chỉ có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng khiến cho
đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình dẫn
đến quyền, lợi ích hợp pháp không được bảo vệ theo đúng quy định
của pháp luật. Để xác định đương sự không thực hiện được quyền và

1
Điểm b khoản 1 Điều 326 BLTTDS 2015.

594
nghĩa vụ tố tụng, bắt buộc Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên phải đối
chiếu, so sánh giữa quy định pháp luật ghi nhận quyền và nghĩa vụ tố
tụng của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
trong vụ án dân sự và người yêu cầu, người có liên quan trong việc
dân sự1 và hoạt động thực hiện quyền đương sự trên thực tế. Hoạt động
thực hiện quyền và nghĩa vụ này được ghi nhận cụ thể trong hồ sơ vụ
án. Vì vậy, Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên phải nghiên cứu các tài
liệu có trong hồ sơ vụ án như thông báo thụ lý vụ án, biên bản phiên
tòa sơ thẩm, phúc thẩm, biên bản định giá tài sản, xem xét, thẩm định
tại chỗ… để tìm ra sự chưa đồng nhất giữa quy định pháp luật và hoạt
động tố tụng mà cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện có khiến đương
sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình hay không.
Kết luận của việc đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố
tụng thì Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên có thể dựa vào căn cứ: (i)
Thẩm phán có thẩm quyền bỏ sót người tham gia tố tụng (theo tình tiết
vụ án thì có nhiều người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan nhưng Tòa
án chỉ xác định một người) hoặc (ii) Thẩm phán giải quyết vụ việc xác
định đưa đầy đủ số lượng đương sự nhưng xác định sai tư cách đương
sự (đáng nhẽ đương sự là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
lại xác định là bị đơn) hoặc (iii) đưa đầy đủ nhưng không cho đương
sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật (không
cho đương sự bổ sung chứng cứ tại phiên tòa sơ thẩm dù chứng cứ đó
là tình tiết, sự kiện mới phát sinh),... Ngoài ra, Luật sư, Thẩm phán,
Kiểm sát viên còn phải thu thập chứng cứ chứng minh việc đương
sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng đó đã dẫn đến việc
quyền, lợi ích hợp pháp của họ không được bảo vệ theo đúng quy định
của pháp luật. Đương sự không được bảo vệ theo đúng quy định pháp
luật là việc quyền, lợi ích của đương sự trong bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật không được tiệm cận với quyền, lợi ích hợp pháp
mà đáng lẽ ra họ được hưởng theo quy định của pháp luật. Để xác định
được yếu tố này, Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên phải căn cứ vào

1
Xem từ Điều 70 đến Điều 74 BLTTDS 2015.

595
từng quy định pháp luật nội dung cụ thể được áp dụng cho từng vụ,
việc (BLDS qua các thời kỳ, văn bản pháp luật nội dung chuyên ngành
như Luật HN&GĐ, Luật Đất đai, Luật Nhà ở,…) để xem xét sau khi
đánh giá, sử dụng các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được các bên đưa
ra để lập luận, chứng minh cho yêu cầu dân sự của mình.
+ Trường hợp 3, “có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn
đến việc ra bản án, quyết định không đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi
ích hợp pháp của đương sự, xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích
của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba”1. Với căn
cứ này, Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên phải xác định được: (1) có
sai lầm trong việc áp dụng pháp luật là sai lầm trong việc Tòa án áp
dụng sai các quy định về pháp luật nội dung như quy định pháp luật về
dân sự, hôn nhân, gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động khi đưa
ra phán quyết về quyền và nghĩa vụ của các bên; (2) ra bản án, quyết
định không đúng có thể được thể hiện ở những nội dung như: không
xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, quyền và nghĩa vụ các
bên trong bản án…, (3) hậu quả của việc ra bản án, quyết định không
đúng đã dẫn đến quyền và lợi ích của đương sự không được đảm bảo,
bị thiệt hại, giảm sút, (4) xâm phạm đến lợi ích công công, lợi ích của
Nhà nước và làm ảnh hưởng, làm xấu đi hiện trạng tài sản, giá trị tinh
thần của Nhà nước như: tài sản thuộc sở hữu của toàn dân do Nhà
nước chịu trách nhiệm quản lý, ví dụ: đất đai, sông hồ…; lợi ích chung
dành cho mọi người và xã hội, ví dụ: công viên, cầu đường, bệnh viện,
trường học… Tài sản nhà nước và lợi ích công cộng có vai trò quan
trọng trong phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân. Vì thế, pháp luật quy định bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật mà ảnh hưởng đến những lợi ích này là một trong những yếu
tố để xem xét kháng nghị giám đốc thẩm; (5) xâm phạm quyền và lợi
ích hợp pháp của người thứ ba. Người thứ ba trong giao dịch dân sự có
thể là người không có bất kỳ mối quan hệ nào trong giao dịch dân sự
với nguyên đơn, bị đơn nhưng lại bị ảnh hưởng bởi việc thực hiện các

1
Điểm c khoản 1 Điều 326 BLTTDS 2015.

596
giao dịch đó. Người thứ ba cũng có thể là những người không có bất
kỳ mối quan hệ nào với giao dịch của nguyên đơn, bị đơn nhưng lại bị
ảnh hưởng bởi việc thực hiện giao dịch đó hoặc là những người không
xác lập giao dịch nhưng lại được hưởng lợi từ việc xác định giao dịch.
Vì thế, căn cứ vào từng vụ, việc dân sự cụ thể, Luật sư, Thẩm phán,
Kiểm sát viên xác định chủ thể nào là người thứ ba và từ đó xác định
được thiệt hại mà người thứ ba phải chịu.
- Căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
Giống như giám đốc thẩm, thủ tục tái thẩm cùng là thủ tục xét lại
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Nhưng căn cứ để kháng
nghị thủ tục tái thẩm là hoàn toàn khác. Cụ thể là phải có những tình
tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản
án, quyết định mà Tòa án, các đương sự không biết được khi Tòa án ra
bản án, quyết định đó1. Như vậy, khi xem xét đến căn cứ tái thẩm, các
nội dung mà Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên cần phải xác định rõ:
+ Có hay không có tình tiết là căn cứ để kháng nghị. Để đánh giá
được điều này, Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên phải trả lời được
các câu hỏi:
 Tình tiết mới phải là tình tiết đã tồn tại vào lúc Tòa án giải
quyết vụ án nhưng Tòa án và đương sự không thể biết được. Những
tình tiết mới phát sinh sau khi Tòa án ra bản án, quyết định giải quyết
vụ án thì không phải là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm. Nếu
có thì đây chỉ là căn cứ để đương sự khởi kiện vụ án mới.
 Thời điểm đương sự phát hiện tình tiết mới phải là sau khi
đã có bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Nếu
tình tiết này đã được biết trong quá trình giải quyết vụ án đến trước khi
Tòa án ra bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật không được
coi là các tình tiết mới hoặc những tình tiết đã được biết nhưng không
được Tòa án áp dụng dẫn đến việc ra quyết định hoặc bản án không
đúng pháp luật thì đây không phải là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục
1
Xem Điều 351 BLTTDS 2015.

597
tái thẩm. Ví dụ, trường hợp nguyên đơn khởi kiện yêu cầu phân chia
tài sản thừa kế theo pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã xét
xử và phán quyết bằng một bản án phân chia tài sản thừa kế cho các
bên đương sự. Sau đó, một trong các bên đương sự lại phát hiện ra di
chúc. Tình tiết mới về di chúc được xác định sau khi bản án phúc thẩm
đã có hiệu lực, làm cho việc chia di sản thừa kế bị thay đổi là căn cứ
để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.
 Phải là những tình tiết có giá trị làm thay đổi cơ bản nội
dung của bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Nếu
thời điểm tồn tại và thời điểm biết được tình tiết là yếu tố cần thì tính
chất giá trị của tình tiết là yếu tố đủ. Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát
viên phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ việc xác định được tình tiết mới này
có tính chất “làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định” hay
không. Tình tiết mới làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết
định có nghĩa là sự thay đổi hoàn toàn hoặc thay đổi lớn về nội dung
của bản án, quyết định đó, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích
hợp pháp của các bên đương sự trong vụ án dân sự. Ví dụ, phát hiện
thêm người ở hàng thừa kế, phát hiện có di chúc của người chết để lại
sau khi đã có bản án chia thừa kế theo pháp luật trong vụ án chia thừa
kế. Ngược lại, với nhưng tình tiết tuy mới được phát hiện nhưng không
làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật giữa các đương sự,
không có mối quan hệ nhân quả đối với quyết định của Tòa án thì Luật
sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên phải xác định đó không phải là tình tiết
làm căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.
+ Có cơ sở chứng minh kết luận của người giám định, lời dịch
của người phiên dịch không đúng sự thật hoặc có giả mạo chứng cứ.
Kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch là một
trong những căn cứ quan trọng để xác định sự thật khách quan của vụ
việc. Thậm chí, trong nhiều trường hợp, đây là những yếu tố đặc biệt
quan trọng, mang tính chất quyết định đối với quá trình đánh giá, sử
dụng chứng cứ của Hội đồng xét xử để đưa ra bản án, quyết định đúng
pháp luật. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, người giám định, người

598
phiên dịch đã không trung thực khi thực hiện chức năng công việc của
mình. Với sự vi phạm quy định về nghề nghiệp như vậy, người giám
định, người phiên dịch đã tạo ra những kết quả giám định không đúng
sự thật, những văn bản, tài liệu dịch thuật giả mạo. Vì thế BLTTDS
2015 đã quy định, đây cũng là căn cứ để kháng nghị thủ tục tái thẩm.
Khi xem xét căn cứ kháng nghị này, Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát
viên phải xác định được những nội dung sau: (1) Thời điểm phát hiện
kết luận giám định, chứng cứ, tài liệu đã được dịch thuật, phiên dịch
không đúng sự thật, giả mạo sau khi Tòa án ra bản án, quyết định; (2)
Có cơ sở để kết luận giám định không đúng sự thật theo quy định của
pháp luật liên quan đến hoạt động giám định1 hoặc có sự giả mạo trong
lời dịch của người phiên dịch (dịch sai tài liệu, giấy tờ,… do đương sự
cung cấp, trình bày hoặc do Tòa án thu thập trong quá trình giải quyết
vụ án); (3) Sự thay đổi nội dung của kết luận giám định, chứng cứ,
tài liệu sau khi giám định lại, phiên dịch lại làm thay đổi cơ bản nội
dung bản án, quyết định của Tòa án như làm thay đổi quan hệ pháp
luật tranh chấp, quyền và nghĩa vụ các bên, tư cách đương sự,…Ví dụ,
trường hợp đương sự yêu cầu truy nhận cha cho con thông qua chứng
cứ là kết luận giám định gen của tổ chức giám định có thẩm quyền.
Dựa vào kết luận giám định này, Tòa án ra quyết định công nhận cha
cho con. Sau khi quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, một bên
đương sự có chứng cứ chứng minh kết quả giám định mà Tòa án dựa
vào đó để ra quyết định công nhận cha cho con là giả mạo và cung cấp
kết quả giám định lại của một tổ chức giám định khác với kết quả giám
định hoàn toàn trái ngược với kết quả giám định lần đầu mà đương sự
cung cấp cho Tòa án.
+ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm sai
lệch hồ sơ vụ án hoặc cố ý kết luận trái pháp luật2. Thẩm phán, Hội
thẩm nhân dân, Kiểm sát viên là những người tiến hành tố tụng có vai
trò quan trọng trong việc giải quyết vụ án dân sự. Họ vừa là người xem

1
Xem Luật Giám định tư pháp 2012.
2
Khoản 3 Điều 352 BLTTDS 2015.

599
xét, giải quyết vụ việc dân sự theo đúng quy định của pháp luật. Nếu
những người tiến hành tố tụng này cố tình vi phạm nguyên tắc đạo đức
nghề nghiệp, cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án hay cố tình kết luận trái
pháp luật thì đây chính là cơ sở để Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên
lấy làm căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm. Khi vận dụng căn cứ
này để xem xét thủ tục tái thẩm, Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên
phải làm rõ được những nội dung của căn cứ này như sau: (1) Thời
điểm phát hiện Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm
sai lệch hồ sơ vụ án hoặc cố ý kết luận trái pháp luật là sau khi bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật; (2) Cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án
có thể là việc cố tình bớt đi những chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ việc
hoặc thêm vào những chứng cứ, tài liệu mà đương sự không cung cấp,
Tòa án không thu thập để phục vụ cho một mục đích cá nhân nào đó
của những người tiến hành tố tụng; (3) Cố ý kết luận trái pháp luật là
việc người tiến hành tố tụng nhận thức được với những chứng cứ, tài
liệu thực sự đã có trong hồ sơ vụ án (là những chứng cứ chưa bị làm sai
lệch) thì theo quy định của pháp luật sẽ phải đưa ra những kết luận phù
hợp với những chứng cứ, tài liệu đó nhưng đã không làm như vậy; (4)
Có chứng cứ chứng minh Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát
viên cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc cố ý kết luận trái pháp luật. Trên
thực tế, căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm này gần giống với căn
cứ kháng nghị “kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với
những tình tiết khách quan của vụ án...”1 theo thủ tục giám đốc thẩm.
Sự giống nhau thể hiện ở mặt hiện tượng. Đó là kết luận trong bản án,
quyết định để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hay tái thẩm đều
không phản ánh đúng sự thật khách quan của vụ án. Tuy nhiên, điểm
khác nhau chính là ở bản chất, nguyên nhân dẫn đến hiện tượng. Nếu
xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm thì phải chứng minh
việc đưa ra kết luận không phù hợp trong bản án, quyết định đã có hiệu
lực là do lỗi vô ý của người Thẩm phán hoặc của những thành viên
khác trong Hội đồng xét xử khi đánh giá chứng cứ, tài liệu trong vụ án

1
Điểm a khoản 1 Điều 326 BLTTDS 2015.

600
chưa toàn diện, đầy đủ nhưng đã vội vàng đưa ra kết luận theo ý chí
chủ quan. Ví dụ, trường hợp Thẩm phán không đề nghị các bên cung
cấp thêm chứng cứ hoặc không tự thu thập thêm chứng cứ để xác định
quan hệ con nuôi thực tế, chỉ dựa vào lời khai của một bên đương sự đã
vội vàng kết luận đó là con nuôi của người để lại hay như để xác định
tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì Hội đồng xét xử
phải căn cứ vào các thông tin trên các giấy tờ, tài liệu như: Giấy chứng
nhận đăng ký kết hôn, Giấy khai sinh, chứng minh thư, sổ hộ khẩu…
để xác định quan hệ hôn nhân hợp pháp. Nhưng nhiều trường hợp, Hội
đồng xét xử đã xác định sai thời điểm bắt đầu tính thời kỳ hôn nhân vì
chỉ căn cứ vào các thông tin suy nhất trên Giấy chứng nhận đăng ký
kết hôn của vợ và chồng. Những trường hợp này thẩm phán đã không
đánh giá chứng cứ toàn diện, đầy đủ. Thực tế ở Việt Nam vào những
năm 80 - 90 của thế kỷ XX, với nhiều lý do (trình độ pháp luật còn
thấp, còn hiện tượng tư lợi cá nhân, quan hệ làng xóm nể nang,...) một
số cán bộ cấp xã đã cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn cho hai bên
nam - nữ cho dù một trong các bên nam - nữ chưa đủ tuổi kết hôn theo
quy định của pháp luật. Sau nhiều năm chung sống với nhau, vợ chồng
xảy ra mâu thuẫn, một bên có yêu cầu ly hôn, Tòa án vẫn giải quyết
cho ly hôn theo thủ tục chung nhưng quan hệ hôn nhân phải được tính
từ thời điểm các bên đã đủ tuổi kết hôn theo luật định.
Như vậy, Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên có thể thấy nguyên
nhân sâu xa của việc “kết luận trong bản án, quyết định không phù
hợp với những tình tiết khách quan của vụ án” theo căn cứ kháng nghị
giám đốc thẩm chính là xuất phát từ nghiệp vụ nghề nghiệp của những
người trong Hội đồng xét xử chưa cao, kinh nghiệm chưa nhiều nên
chưa có cái nhìn khách quan, toàn diện về việc đánh giá và sử dụng
chứng cứ để giải quyết vụ án. Ngược lại, nếu xem xét kháng nghị theo
thủ tục tái thẩm thì việc đưa ra chứng cứ sai, kết luận trái pháp luật là
do lỗi cố ý của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên. Điều
này được thể hiện ở việc mặc dù những người tiến hành tố tụng này
biết và đánh giá được toàn bộ chứng cứ có trong hồ sơ vụ việc, hiểu rõ

601
được câu chuyện pháp lý và câu chuyện chứng cứ giữa các bên trong
vụ việc dân sự nhưng cố tình làm cho chứng cứ khác đi (về số lượng,
về nội dung) để từ đó đưa ra kết luận trái pháp luật vi phạm nguyên tắc
tố tụng nhằm phục vụ ý đồ riêng tư của thành viên Hội đồng xét xử.
+ Bản án, quyết định hình sự, hành chính, dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Toà án hoặc quyết
định của cơ quan nhà nước mà Toà án căn cứ vào đó để giải quyết
vụ án đã bị huỷ bỏ1. Căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm ở đây là
trường hợp quá trình giải quyết vụ án dân sự, Toà án vẫn căn cứ vào
các phán quyết của Tòa án các cấp trong nhiều lĩnh lực khác nhau hoặc
quyết định của cơ quan nhà nước đã bị hủy bỏ, không còn giá trị thi
hành để ban hành bản án, quyết định (bản án, quyết định bị kháng nghị
theo thủ tục tái thẩm). Vận dụng căn cứ này để xem xét kháng nghị thủ
tục tái thẩm, Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên phải xác định được:
(1) Tòa án đã sử dụng những bản án, quyết định hình sự, hành chính,
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động hoặc
quyết định của cơ quan nhà nước đã bị hủy bỏ để giải quyết vụ việc bị
kháng nghị theo thủ tục tái thẩm; (2) Thời điểm hủy bỏ những bản án,
quyết định mà Tòa án đã sử dụng trước thời điểm Tòa án ra bản án,
quyết định bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm. Ví dụ, trong vụ án tranh
chấp về việc ai là người có quyền sử dụng đất hợp pháp, Tòa án cấp
sơ thẩm và cấp phúc thẩm đã dựa vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất của cơ quan nhà nước cấp cho nguyên đơn nhưng đã bị cơ quan
nhà nước có thẩm quyền thu hồi buộc bị đơn trả lại quyền sử dụng đất
cho nguyên đơn.
- Căn cứ xem xét lại quyết định của HĐTP TANDTC
+ Về nội dung: có căn cứ xác định quyết định của HĐTP
TANDTC vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc phát hiện có tình
tiết quan trọng mới có thể làm thay đổi cơ bản về nội dung quyết
định mà đương sự, HĐTP TANDTC không biết được khi ra quyết

1
Khoản 4 Điều 352 BLTTDS 2015.

602
định đó1. BLTTDS 2015 không quy định cụ thể như thế nào là
trường hợp có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc phát hiện tình
tiết quan trọng mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định.
Có thể thấy, về câu chữ điều luật, căn cứ để xem xét lại quyết định
của HĐTP TANDTC là sự gộp lại các căn cứ theo thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm. Điều này nghĩa là có vi phạm pháp luật nghiêm trọng
hoặc phát hiện tình tiết quan trọng mới có thể làm thay đổi cơ bản
nội dung quyết định mà HĐTP TANDTC đã ban hành thì chủ thể
có thẩm quyền có quyền yêu cầu xem xét lại quyết định của HĐTP
TANDTC. Vì thế, khi đánh giá về vấn đề nội dung của căn cứ xem
xét lại quyết định của HĐTP TANDTC, Luật sư, Thẩm phán, Kiểm
sát viên có thể viện dẫn kỹ năng xem xét căn cứ thủ tục giám đốc
thẩm, thủ tục tái thẩm để soi xét.
+ Về thủ tục: Yêu cầu thứ nhất về thủ tục là bắt buộc phải có
yêu cầu, kiến nghị, đề nghị thể hiện bằng văn bản của những chủ thể
đặc biệt được pháp luật quy định. Các chủ thể đặc biệt đó là: Ủy ban
thường vụ Quốc hội (yêu cầu); Ủy ban Tư pháp của Quốc hội (kiến
nghị); Viện trưởng VKSNDTC (kiến nghị chứ không phải kháng nghị);
Chánh án TANDTC (đề nghị chứ không phải kháng nghị). Yêu cầu thứ
hai về thủ tục là cần phải được sự chấp thuận của HĐTP TANDTC
về việc xét lại thì thủ tục xét lại quyết định của HĐTP TANDTC mới
được mở. Sự chấp thuận của HĐTP TANDTC về việc mở thủ tục xét
lại phán quyết của chính mình được xem như là một điều kiện tiên
quyết (diễn ra ở phiên họp thứ nhất để xét kiến nghị, đề nghị) để HĐTP
TANDTC có thể tiến hành các thủ tục tiếp theo nhằm xem xét lại quyết
định của HĐTP (diễn ra ở phiên họp thứ hai). Tuy nhiên, không phải
mọi yêu cầu, kiến nghị, đề nghị thì đều phải tổ chức phiên họp thứ nhất
(phiên họp với tính chất là kiểm tra có đủ căn cứ để xét lại quyết định
của HĐTP). HĐTP TANDTC chỉ phải tổ chức phiên họp thứ nhất cho
trường hợp có kiến nghị của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, kiến nghị

1
Khoản 1 Điều 358 BLTTDS 2015.

603
của Viện trưởng VKSNDTC hoặc đề nghị của Chánh án TANDTC1.
Đối với trường hợp có yêu cầu của Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc
xét lại thì Chánh án TANDTC báo cáo HĐTP TANDTC xem xét lại
quyết định của HĐTP TANDTC mà không cần phải thông qua phiên
họp của HĐTP TANDTC để xem xét yêu cầu của Ủy ban thường vụ
Quốc hội có cơ sở để mở thủ tục xét lại hay không2.
Thứ hai, thời hạn xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật
Thời hạn xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
được BLTTDS 2015 quy định dựa trên tính chất pháp lý của mỗi thủ
tục tố tụng trên cơ sở hài hòa giữa việc đảm bảo tính ổn định của bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng không vi phạm quyền
được tiếp cận công lý tới cùng của đương sự và các chủ thể khác. Thời
hạn kháng nghị giám đốc thẩm tạo điều kiện cho đương sự có điều
kiện khiếu nại và đề nghị người có thẩm quyền xem xét kháng nghị,
cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng cũng có điều kiện
hơn để xem xét kỹ càng, thận trọng để đi đến quyết định kháng nghị
hay không kháng nghị.
- Đối với thủ tục giám đốc thẩm: Theo quy định tại khoản 1
Điều 334 BLTTDS 2015, người có thẩm quyền kháng nghị có thời
hạn là 03 năm kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực
pháp luật. Ngoài ra, Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên cũng cần phải
lưu ý những trường hợp kéo dài thời hạn kháng nghị thêm hai năm
kể từ ngày hết thời hạn kháng nghị “cứng” được quy định tại khoản 1
Điều 3343. Tuy nhiên, để áp dụng được kéo dài thời hạn kháng nghị
như thế này thì phải xác định được việc kháng nghị phải thỏa mãn các
điều kiện sau:
+ Điều kiện đương sự đã có đơn đề nghị xem xét kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm trong thời hạn một năm, kể từ ngày bản
1
Xem khoản 2 và khoản 3 Điều 358 BLTTDS 2015.
2
Bình luận khoa học BLTTDS năm 2015, Nxb. Lao động, 2016, tr. 446.
3
Xem khoản 2 Điều 334 BLTTDS 2015.

604
án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật và sau khi hết thời hạn
kháng nghị (ba năm kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu
lực pháp luật) đương sự vẫn tiếp tục có đơn đề nghị xem xét kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm;
+ Điều kiện bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật có vi phạm pháp luật dẫn đến kết luận trong bản án, quyết định
không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án gây thiệt
hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự1, xâm phạm nghiêm
trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, của người thứ ba,
xâm phạm lợi ích của cộng đồng, lợi ích của Nhà nước và phải kháng
nghị để khắc phục sai lầm trong bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật đó.
- Đối với thủ tục tái thẩm: Thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái
thẩm là 01 năm, kể từ ngày người có thẩm quyền kháng nghị biết được
căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm2. Luật sư, Thẩm phán, Kiểm
sát viên phải xác định được các thời hạn sau:
+ Thời hạn từ khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật cho tới
khi người có thẩm quyền kháng nghị biết được căn cứ để kháng nghị
(thời điểm mà Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC hoặc chánh
án TAND cấp cao, Viện trưởng VKSND cấp cao biết được căn cứ kháng
nghị trong thông báo của Tòa án, Viện kiểm sát) là không xác định.
+ Thời hạn kể từ khi Chánh án TANDTC (TAND cấp cao) hoặc
Viện trưởng VKSNDTC (VKSND cấp cao) biết được căn cứ kháng
nghị cho tới khi gửi văn bản kháng nghị cho chủ thể có thẩm quyền
xem xét kháng nghị (Hội đồng xét xử tái thẩm) là một năm. Đây mới
chính là thời hạn để kháng nghị thủ tục tái thẩm theo quy định của
pháp luật.
- Đối với thủ tục xem xét lại quyết định của HĐTP TANDTC:
BLTTDS 2015 không có quy định ràng buộc về thời hạn mà các chủ

1
Điểm a khoản 1 Điều 326 BLTTDS 2015.
2
Điều 355 BLTTDS 2015.

605
thể có thẩm quyền thực hiện quyền “yêu cầu, kiến nghị, đề nghị”
xem xét lại quyết định của HĐTP TANDTC. Nếu hiểu theo nguyên
tắc luật không quy định thì không phải áp dụng thì các “yêu cầu, kiến
nghị, đề nghị” của các chủ thể nêu trên về việc xem xét lại quyết định
của HĐTP TANDTC có thể được thực hiện vào bất cứ thời điểm nào.
Tuy nhiên, cũng có những quan điểm cho rằng, căn cứ để xem xét
lại quyết định của HĐTP TANDTC bao hàm cả căn cứ để xem xét
lại bản án, quyết định đã có hiệu lực theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm nên vận dụng nguyên tắc áp dụng tương tự pháp luật sẽ có hai
trường hợp xảy ra:
+ Nếu có căn cứ cho rằng quyết định của HĐTP TANDTC có vi
phạm pháp luật nghiêm trọng thì tương đương với căn cứ kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm và sẽ áp dụng thời hạn kháng nghị của thủ
tục giám đốc thẩm.
+ Nếu phát hiện tình tiết quan trọng mới có thể làm thay đổi cơ
bản nội dung quyết định mà HĐTP TANDTC và đương sự không thể
biết được khi ra quyết định đó thì tương đương với căn cứ kháng nghị
theo thủ tục tái thẩm và sẽ áp dụng thời hạn kháng nghị của thủ tục
giám đốc thẩm.
Trên đây mới chỉ là những quan điểm luật học, vì thế cần có
hướng dẫn cụ thể của HĐTP TANDTC về vấn đề này để các chủ thể
Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên dễ dàng và thống nhất trong việc
áp dụng.
Thứ ba, thẩm quyền kháng nghị xem xét lại bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật
Trên cơ sở có văn bản yêu cầu xem xét lại bản án, quyết định
đã có hiệu lực của đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát hoặc cơ quan,
tổ chức, cá nhân khác, Chánh án TAND cấp tỉnh, Chánh án TAND
cấp cao, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội,
Viện trưởng VKSNDTC, Chánh án TANDTC1 trong những trường
1
Điều 327, khoản 1 Điều 353, khoản 1 Điều 358 BLTTDS 2015.

606
hợp cụ thể, BLTTDS 2015 trao thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết
định cho các chủ thể nhất định tùy thuộc vào từng tính chất thủ tục
xem xét lại.
- Chủ thể có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm:
Căn cứ vào quy định tại Điều 331 BLTTDS 2015, cấp Tòa án ban hành
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật phát hiện có vi phạm pháp
luật, Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên sẽ xác định được thẩm quyền
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, đó là:
+ Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC có thẩm quyền
kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp
cao, các bản án, quyết định đã có hiệu luật pháp luật khác nhưng phải
trong trường hợp xét thấy cần thiết (trừ quyết định giám đốc thẩm của
HĐTP TANDTC)1.
+ Chánh án TAND cấp cao, Viện trưởng VKSND cấp cao có
thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của TAND cấp tỉnh, TAND cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo
lãnh thổ2.
- Chủ thể có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm: căn cứ
vào việc xác định bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật do Tòa án
nào ban hành và quy định của Điều 354 BLTTDS 2015, xác định thẩm
quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm như sau:
+ Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao có thẩm
quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của TAND cấp cao; bản án, quyết định có hiệu lực pháp
luật của Tòa án khác khi xét thấy cần thiết (trừ quyết định giám đốc
thẩm của HĐTP TANDTC)3;
+ Chánh án TAND cấp cao, Viện trưởng VKSND cấp cao có
thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết định đã có

1
Khoản 1 Điều 331 BLTTDS 2015.
2
Khoản 2 Điều 331 BLTTDS 2015.
3
Khoản 1 Điều 354 BLTTDS 2015.

607
hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh, TAND cấp huyện trong phạm
vi thẩm quyền theo lãnh thổ1.
- Chủ thể có thẩm quyền xem xét theo thủ tục đặc biệt quyết định
của HĐTP TANDTC là HĐTP TANDTC trong mọi trường hợp (dựa
trên yêu cầu của Ủy ban thường vụ Quốc hội, kiến nghị của Ủy ban
Tư pháp Quốc hội, kiến nghị của Viện trưởng VKSNDTC, đề nghị của
Chánh án TANDTC)2.
b) Đề nghị xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
Khi xác định được các điều kiện liên quan đến việc kháng nghị
giám đốc thẩm, tái thẩm, thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của
HĐTP TANDTC thì “đương sự có quyền đề nghị bằng văn bản với
người có thẩm quyền kháng nghị để xem xét kháng nghị”, “Tòa án,
Viện kiểm sát hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác… phải thông báo
bằng văn bản cho người có thẩm quyền kháng nghị”3, “có yêu cầu của
Ủy ban thường vụ Quốc hội, kiến nghị của Ủy ban Tư pháp của Quốc
hội, kiến nghị của Viện trưởng VKSNDTC hoặc đề nghị của Chánh
án TANDTC thì HĐTP TANDTC xem xét lại quyết định đó”4. Luật sư,
Kiểm sát viên, Thẩm phán cần lưu ý những vấn đề sau:
- Xác định chủ thể có thẩm quyền yêu cầu đề nghị xem xét lại bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật: Người có thẩm quyền yêu cầu
đề nghị chủ thể có thẩm quyền xét lại bản án, quyết định theo thủ tục
giám đốc thẩm, thủ tục tái thẩm, thủ tục đặc biệt xét lại quyết định của
HĐTP là không giống nhau trong mỗi thủ tục. Vì vậy, cần căn cứ vào
từng trường hợp xét lại bản án, quyết định cụ thể để xác định tính hợp
pháp của chủ thể có thẩm quyền yêu cầu.
+ Đối với thủ tục giám đốc thẩm: Những chủ thể có thẩm quyền

1
Khoản 2 Điều 354 BLTTDS 2015.
2
Xem Điều 358 BLTTDS 2015.
3
Xem Điều 327 BLTTDS 2015.
4
Xem khoản 1 Điều 358 BLTTDS 2015.

608
là đương sự1, Tòa án, Viện kiểm sát hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân
khác2, Chánh án TAND cấp tỉnh, Chánh án TAND cấp cao3.
 Đương sự có quyền đưa ra yêu cầu khi đáp ứng được những
điều kiện sau: (1) Yêu cầu được đưa ra trong thời hạn là 01 năm, kể
từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật; (2) phát
hiện có vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định đó; (3) hình thức
thể hiện yêu cầu là văn bản đề nghị với chủ thể có thẩm quyền kháng
nghị theo quy định tại Điều 331 BLTTDS 2015.
 Tòa án, Viện kiểm sát hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác:
không có quy định về thời hạn phải đưa ra yêu cầu, chỉ cần phát hiện
có vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
và thông báo bằng văn bản cho người có thẩm quyền kháng nghị quy
định tại Điều 331 BLTTDS 2015. Tuy nhiên, căn cứ vào thời hạn ra
quyết định kháng nghị của chủ thể có thẩm quyền là 03 năm kể từ ngày
bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật nên yêu cầu của
các chủ thể này cũng phải nằm trong thời hạn không quá 03 năm kể từ
ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.
 Chánh án TAND cấp tỉnh: chỉ có thẩm quyền trong trường
hợp phát hiện kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với
những tình tiết khách quan của vụ án gây thiệt hại đến quyền, lợi ích
hợp pháp của đương sự. Hình thức kiến nghị là bằng văn bản gửi tới
Chánh án TAND cấp cao.
 Chánh án TAND cấp cao: chỉ có thẩm quyền trong trường
hợp phát hiện kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với
những tình tiết khách quan của vụ án gây thiệt hại đến quyền, lợi ích
hợp pháp của đương sự. Hình thức kiến nghị là bằng văn bản gửi tới
Chánh án TANDTC.

1
Khoản 1 Điều 327 BLTTDS 2015.
2
Khoản 2 Điều 327 BLTTDS 2015.
3
Khoản 3 Điều 327 BLTTDS 2015.

609
+ Đối với thủ tục tái thẩm: Những chủ thể có thẩm quyền là
đương sự hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác1. Điều kiện để chủ thể
kháng nghị theo thủ tục tái thẩm quy định tại Điều 354 BLTTDS 2015
chấp nhận yêu cầu của những người này là: (1) phát hiện những tình
tiết mới của vụ việc quy định tại Điều 351 và Điều 352 BLTTDS 2015;
(2) được thông báo bằng văn bản.
+ Đối với thủ tục xem xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán:
Những chủ thể có thẩm quyền là Ủy ban thường vụ Quốc hội, Ủy ban
Tư pháp của Quốc hội, Viện trưởng VKSNDTC, Chánh án TANDTC2.
Các yêu cầu, kiến nghị, đề nghị xem xét lại quyết định của HĐTP
TANDTC, Chánh án TANDTC không xem xét để ra quyết định kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm thông thường mà phải có
trách nhiệm báo cáo với HĐTP TANDTC quyết định.
- Soạn thảo văn bản đề nghị xem xét kháng nghị bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật (chỉ áp dụng cho thủ tục giám đốc thẩm,
tái thẩm): Văn bản, thông báo đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm của
đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác, Tòa án, Viện kiểm sát là
căn cứ để Chánh án TANDTC, Chánh án TAND cấp cao, Viện trưởng
VKSNDTC, Viện trưởng VKSND cấp cao ra quyết định kháng nghị
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Đơn đề nghị, văn bản
thông báo đề nghị là tài liệu quan trọng, là một kênh giúp cho người
có quyền kháng nghị trong việc phát hiện vi phạm pháp luật trong bản
án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Căn cứ vào những
thông tin trong đơn đề nghị, chủ thể có thẩm quyền theo quy định pháp
luật quyết định có hay không có việc ban hành quyết định kháng nghị
giám đốc thẩm. Nội dung và hình thức đơn đề nghị và văn bản thông
báo phải tuân thủ những quy định về hình thức và nội dung theo quy
định của BLTTDS 2015.

1
Khoản 1 Điều 353 BLTTDS 2015.
2
Khoản 1 Điều 358 BLTTDS 2015.

610
- Nộp đơn đề nghị kháng nghị
Ngoài đơn đề nghị, người đề nghị phải gửi kèm theo bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, tài liệu, chứng cứ
(nếu có) để chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ và
hợp pháp1.
Sau khi chuẩn bị đơn và các tài liệu, chứng cứ cần thiết, người
yêu cầu gửi hồ sơ đề nghị cho người có thẩm quyền theo quy định của
BLTTDS 2015 theo hình thức nộp trực tiếp tại Tòa án, Viện kiểm sát
hoặc gửi qua dịch vụ bưu chính.2
1.1.2. Kỹ năng kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm và yêu cầu,
kiến nghị, đề nghị xem xét quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân Tối cao
a) Thủ tục kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm
Trên cơ sở có đơn của đương sự và các cá nhân, cơ quan, tổ chức
khác yêu cầu xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
thì chủ thể có thẩm quyền mới quyết định kháng nghị hay không kháng
nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Vì thế, sau khi có đơn
gửi đến, TAND và VKSND phải tiến hành các thủ tục sau:
(i) Nhận và thụ lý đơn đề nghị, tài liệu, chứng cứ giám đốc thẩm
thẩm, tái thẩm.
(ii) Nghiên cứu đơn đề nghị và hồ sơ vụ việc giám đốc thẩm,
tái thẩm.
(iii) Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.
- Nhận và thụ lý đơn đề nghị, tài liệu chứng cứ giám đốc thẩm,
tái thẩm: Ngay sau khi nhận được đơn đề nghị và tài liệu, chứng cứ
kèm theo của đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát phải thực hiện các
công việc:

1
Khoản 2 Điều 328 BLTTDS 2015.
2
Xem khoản 1 Điều 329 BLTTDS 2015.

611
+ Xác định thẩm quyền nhận đơn của TAND, VKSND: Để xác
định đúng TAND, VKSND có thẩm quyền nhận đơn yêu cầu kháng
nghị giám đốc thẩm, tái thẩm của đương sự và các chủ thể khác,
người nhận đơn được TAND, VKSND phân công phải căn cứ vào các
điều 331, 354 BLTTDS 2015. Trường hợp đơn đề nghị và tài liệu,
chứng cứ kèm theo do đương sự nộp hoặc gửi đến Tòa án, Viện kiểm
sát không có thẩm quyền xem xét, giải quyết đơn thì Tòa án, Viện
Kiểm sát xử lý như sau: (1) Nếu đương sự nộp trực tiếp đơn đề nghị
và tài liệu, chứng cứ kèm theo tại Tòa án, Viện kiểm sát không có
thẩm quyền xem xét, giải quyết đơn, thì Tòa án, Viện kiểm sát giải
thích cho đương sự nộp đơn đến người có thẩm quyền theo quy định
của BLTTDS 2015. Nếu đương sự vẫn đề nghị được nộp tại Tòa án,
Viện kiểm sát không có thẩm quyền xem xét, giải quyết đơn, thì Tòa
án, Viện kiểm sát nhận đơn, xác nhận ngày nhận đơn vào đơn đề nghị
và chuyển đơn đến Tòa án, Viện kiểm sát có thẩm quyền xem xét, giải
quyết đơn và thông báo cho đương sự biết. Ngày đề nghị kháng nghị
là ngày Tòa án, Viện kiểm sát nhận đơn đề nghị; (2) Nếu đương sự gửi
đơn đề nghị và tài liệu, chứng cứ kèm theo theo đường bưu chính đến
Tòa án, Viện kiểm sát không có thẩm quyền xem xét, giải quyết đơn,
thì Tòa án, Viện kiểm sát nhận được đơn phải xác nhận ngày nhận đơn
vào đơn đề nghị và chuyển đến Tòa án, Viện kiểm sát có thẩm quyền
xem xét, giải quyết đơn và thông báo cho đương sự biết. Ngày đề nghị
kháng nghị là ngày theo dấu bưu điện nơi gửi.
+ Kiểm tra tính hợp lệ của đơn đề nghị: Tính hợp lệ của đơn
đề nghị được thể hiện ở việc đơn đề nghị có được gửi trong thời hạn
BLTTDS 2015 cho phép người yêu cầu được quyền gửi đơn đề nghị
và đơn đề nghị có đáp ứng đủ nội dung, hình thức theo quy định của
pháp luật tố tụng hay không. Theo quy định, chỉ có thời hạn yêu cầu
kháng nghị giám đốc thẩm của đương sự là bị giới hạn về thời gian
yêu cầu (trong vòng 01 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án
có hiệu lực pháp luật), quyền được yêu cầu kháng nghị giám đốc thẩm
của cơ quan, tổ chức, chủ thể khác không bị giới hạn thời gian. Đối với

612
yêu cầu kháng nghị tái thẩm, BLTTDS 2015 không quy định về thời
hạn. Điều này đồng nghĩa chủ thể có quyền được phép yêu cầu kháng
nghị vào bất cứ thời điểm nào. Nội dung của đơn đề nghị phải tuân thủ
Điều 328 BLTTDS 2015 và có kèm theo bản án, quyết định của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật, tài liệu, chứng cứ để chứng minh (nếu có)
cho những yêu cầu của mình là có căn cứ. Vì vậy, căn cứ vào việc đơn
đề nghị có đảm bảo về nội dung và hình thức theo quy định của pháp
luật tố tụng dân sự hay không mà Tòa án, Viện kiểm sát sẽ có những
nghiệp vụ tương ứng.
Trường hợp đơn đề nghị thỏa mãn những yêu cầu trên thì Tòa án,
Viện kiểm sát thực hiện những công việc sau:
 Vào sổ nhận đơn: Tòa án, Viện kiểm sát ghi hoặc đóng
dấu nhận đơn ghi rõ ngày, tháng, năm nhận đơn đề nghị vào góc trên
bên trái của đơn đề nghị. Trường hợp sửa chữa thì người tiếp nhận
đơn đề nghị phải ký xác nhận và đóng dấu của Tòa án, Viện kiểm sát
vào nội dung sửa chữa. Khi nhận đơn đề nghị của đương sự yêu cầu
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, Tòa án, Viện kiểm sát lưu ý
đến việc tính ngày nhận đơn của đương sự như sau: (1) Trường hợp
đương sự nộp trực tiếp đơn đề nghị tại Tòa án, Viện kiểm sát có thẩm
quyền thì ngày đề nghị kháng nghị là ngày Tòa án, Viện kiểm sát có
thẩm quyền nhận đơn đề nghị; (2) Trường hợp đơn đề nghị được gửi
đến Tòa án, Viện kiểm sát qua đường bưu chính, thì Tòa án, Viện
kiểm sát nhận đơn đề nghị do nhân viên bưu chính chuyển đến và
ngày theo dấu bưu điện nơi gửi. Phong bì có dấu bưu điện phải được
đính kèm đơn đề nghị. Ngày đề nghị kháng nghị là ngày theo dấu bưu
điện nơi gửi. Trường hợp không xác định được ngày, tháng, năm theo
dấu bưu điện nơi gửi, thì TAND, VKSND phải xác định hai trường
hợp: (i) Trường hợp ngày TAND, VKSND nhận được đơn do nhân
viên bưu chính chuyển đến mà thời hạn yêu cầu kháng nghị giám đốc
thẩm vẫn còn thì ngày đề nghị kháng nghị là ngày TAND, VKSND
nhận được đơn do nhân viên bưu chính chuyển đến; (ii) Trường hợp
ngày TAND, VKSND nhận được đơn đề nghị do nhân viên bưu chính

613
chuyển đến mà yêu cầu kháng nghị giám đốc thẩm đã hết, thì Tòa án,
Viện kiểm sát yêu cầu bưu điện và đương sự cung cấp ngày đương sự
gửi đơn đề nghị tại bưu điện. Trường hợp xác định được ngày đương
sự gửi đơn đề nghị tại bưu điện, thì ngày đề nghị kháng nghị là ngày
đương sự gửi đơn đề nghị tại bưu điện. Trường hợp không xác định
được ngày đương sự gửi đơn đề nghị tại bưu điện, thì ngày đề nghị
kháng nghị là ngày ghi trong đơn đề nghị.
 Cấp giấy xác nhận đã nhận đơn: Khi cấp Giấy xác nhận
nhận đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm (Giấy
xác nhận nhận đơn đề nghị) cho đương sự thì Tòa án, Viện kiểm sát
lưu ý những vấn đề sau: (1) Thời hạn cấp Giấy xác nhận là 07 ngày
kể từ ngày nhận được đơn đề nghị1; (2) trường hợp trong thời hạn một
năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, đương sự gửi
nhiều đơn đề nghị về cùng một bản án, quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật, thì Tòa án, Viện kiểm sát chỉ cấp một Giấy xác nhận
nhận đơn đề nghị cho đương sự. Trường hợp đương sự đã được cấp
Giấy xác nhận nhận đơn đề nghị trong thời hạn 01 năm kể từ ngày bản
án, quyết định của Tòa án có hiệu lực và sau khi hết thời hạn ba năm,
kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật mà đương sự tiếp
tục có đơn đề nghị, thì Tòa án, Viện kiểm sát cấp một Giấy xác nhận
nhận đơn đề nghị cho đương sự về việc họ tiếp tục có đơn đề nghị2.
Trường hợp đơn đề nghị không thỏa mãn những yêu cầu về thời
hạn gửi đơn, nội dung và hình thức đơn yêu cầu thì Tòa án, Viện Kiểm
sát thực hiện những công việc như:
 Thông báo và yêu cầu người gửi đơn sửa đổi, bổ sung đơn
đề nghị, bổ sung bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật, tài liệu, chứng cứ kèm theo (nếu có). Thông báo này phải được
Tòa án, Viện kiểm sát làm bằng văn bản theo Mẫu số 03 ban hành kèm
theo Thông tư liên tịch số 03/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày
15/10/2013 của TANDTC, VKSNDTC hướng dẫn thi hành một số quy
1
Điều 6 Thông tư liên tịch số 03/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC.
2
Điều 7 Thông tư liên tịch số 03/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC.

614
định về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm và thủ tục đặc biệt xem xét
lại quyết định của HĐTP TANDTC của BLTTDS đã được sửa đổi, bổ
sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS (Thông tư
liên tịch số 03/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC). Trong thông báo
đó, Tòa án, Viện kiểm sát phải nêu rõ những vấn đề cần sửa đổi, bổ
sung cho người đề nghị biết để họ thực hiện. Văn bản này có thể được
giao trực tiếp hoặc gửi cho người đề nghị qua đường bưu chính. Việc
giao trực tiếp hoặc gửi qua đường bưu chính phải được ký nhận vào
sổ theo dõi và lưu tại cơ quan đã nhận đơn đề nghị. Trường hợp người
gửi đơn sửa đổi, bổ sung theo yêu cầu của Tòa án, Viện kiểm sát, thì
không làm thay đổi ngày kháng nghị lần đầu của đương sự. Thời hạn
cho phép đương sự sửa đổi là 01 tháng kể từ ngày đương sự nhận được
thông báo.
 Trường hợp hết thời hạn 01 tháng kể từ ngày người gửi đơn
nhận được thông báo sửa đổi của Viện kiểm sát, Tòa án mà người gửi
đơn không sửa đổi, bổ sung thì Tòa án, Viện kiểm sát trả lại đơn đề
nghị, nêu rõ lý do cho đương sự và ghi chú vào sổ nhận đơn.
- Nghiên cứu đơn đề nghị và hồ sơ vụ việc giám đốc thẩm, tái
thẩm: Sau khi nhận được đơn đề nghị hợp lệ, người có quyền kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm có trách nhiệm phân công cán bộ tiến
hành nghiên cứu đơn, hồ sơ vụ án, báo cáo người có quyền kháng nghị
xem xét, quyết định. Trường hợp có đủ căn cứ kháng nghị theo quy
định của pháp luật thì ra quyết định kháng nghị. Trường hợp không
đủ căn cứ kháng nghị thì thông báo bằng văn bản cho đương sự biết.
Người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm cần
lưu ý những vấn đề sau:
+ Xác định chủ thể có thẩm quyền kháng nghị: Đề cao trách
nhiệm của những người có thẩm quyền trong việc tổ chức, kiểm tra,
giám đốc thẩm việc xét xử, tránh việc kháng nghị, yêu cầu, kiến nghị,
đề nghị tràn lan thì chỉ những người có thẩm quyền mới có quyền
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật. Để xác định đúng người có thẩm quyền của

615
người kháng nghị, Tòa án, Viện kiểm sát căn cứ vào các quy định tại
Điều 331 và Điều 354 BLTTDS 2015 để xác định (xem mục 1.1.1
Chương 10)
+ Phân công người có trách nhiệm tiến hành nghiên cứu đơn,
thông báo, kiến nghị, hồ sơ vụ án, báo cáo người có thẩm quyền kháng
nghị xem xét, quyết định; trường hợp không kháng nghị thì thông báo
bằng văn bản, nêu rõ lý do cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có
văn bản thông báo, kiến nghị. Cụ thể: Chánh án TANDTC phân công
Thẩm phán TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC phân công Kiểm sát
viên VKSNDTC nghiên cứu đơn, thông báo, kiến nghị, hồ sơ vụ án,
báo cáo Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC xem xét, quyết
định kháng nghị1. Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, xem xét thu thập tài
liệu, chứng cứ phải làm rõ có hay không có căn cứ để kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm quy định tại Điều 326 và Điều 352
BLTTDS 20152.
- Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm: Dựa trên kết
quả nghiên cứu đơn và hồ sơ kháng nghị của người được giao nhiệm
vụ, Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC, Chánh án TAND
cấp cao, Viện trưởng VKSND cấp cao theo thẩm quyền quy định có
quyền quyết định kháng nghị hoặc không kháng nghị. Tùy thuộc vào
mỗi trường hợp, chủ thể có quyền kháng nghị phải thực hiện những
công việc khác nhau.
+ Quyết định kháng nghị:
 Nội dung quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm
được thực hiện theo quy định tại Điều 333 BLTTDS 2015 và được
làm theo Mẫu số 08 ban hành kèm theo Thông tư liên tịch số 03/2013/
TTLT-TANDTC-VKSNDTC.
 Gửi quyết định kháng nghị: Quyết định kháng nghị giám
đốc thẩm, tái thẩm phải được gửi ngay cho Tòa án ra bản án, quyết

1
Xem khoản 3 Điều 329 BLTTDS 2015.
2
Xem khoản 2 Điều 8 Thông tư liên tịch số 03/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC.

616
định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị, các đương sự, cơ quan thi
hành án dân sự có thẩm quyền, người khác có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến nội dung kháng nghị1.
 Khi quyết định kháng nghị, căn cứ vào thẩm quyền, Chánh
án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC, Chánh án TAND cấp cao, Viện
trưởng VKSND cấp cao có quyền yêu cầu hoãn thi hành bản án, quyết
định để xem xét việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
Việc hoãn thi hành bản án, quyết định được thực hiện theo quy định
của pháp luật thi hành án dân sự; có quyền quyết định tạm đình chỉ
thi hành bản án, quyết định đó cho đến khi có quyết định giám đốc
thẩm, tái thẩm2. Yêu cầu hoãn thi hành án thực hiện theo quy định
của pháp luật thi hành án dân sự. Người có thẩm quyền kháng nghị có
văn bản yêu cầu Tòa án có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật
có yêu cầu kháng nghị chuyển hồ sơ vụ án để người có thẩm quyền
nghiên cứu việc ra kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. Theo khoản 3
Điều 2 Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-VKSNDTC-TANDTC
ngày 01/8/2012 của VKSNDTC, TANDTC hướng dẫn thi hành một
số quy định của BLTTDS về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
tố tụng dân sự (Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-VKSNDTC-
TANDTC), trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu,
Tòa án ra bản án, quyết định có yêu cầu kháng nghị chuyển hồ sơ vụ
án dân sự cho Viện kiểm sát, Tòa án có thẩm quyền kháng nghị.
 Thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị: Theo quy định của
BLTTDS 2015, người có thẩm quyền ra quyết định kháng nghị giám
đốc thẩm, tái thẩm có quyền thay đổi, bổ sung, rút quyết định kháng
nghị. Khi thay đổi, bổ sung, rút quyết định kháng nghị, Chánh án Tòa
án và Viện trưởng Viện kiểm sát cần lưu ý những nội dung sau: (1)
Người có thẩm quyền thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị là Chánh án
TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC, Chánh án TAND cấp cao, Viện
trưởng VKSND cấp cao, người đã kháng nghị giám đốc thẩm, tái

1
Xem khoản 1 Điều 336 BLTTDS 2015.
2
Xem Điều 332 BLTTDS 2015.

617
thẩm; (2) Về phạm vi: (i) Trường hợp thay đổi, bổ sung rút kháng
nghị. Nếu chưa hết thời hạn kháng nghị thì có thể thay đổi, bổ sung
kháng nghị. Nếu bổ sung, thay đổi khi thời hạn kháng nghị đã hết thì
nội dung thay đổi, bổ sung kháng nghị không được vượt quá phạm vi
kháng nghị ban đầu; (ii) Trường hợp rút kháng nghị: Chủ thể kháng
nghị cũng có quyền rút một phần hoặc toàn bộ kháng nghị trước khi
mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm mà không bị
giới hạn bởi thời hạn kháng nghị còn hay hết. (3) Thời điểm thay đổi,
bổ sung, rút kháng nghị: BLTTDS 2015 không quy định thời điểm
thay đổi, bổ sung kháng nghị mà chỉ quy định về thời điểm rút kháng
nghị là trước khi mở phiên toà hoặc tại phiên tòa giám đốc thẩm, tái
thẩm; (4) Hình thức thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị: bằng quyết
định. Quyết định thay đổi, bổ sung kháng nghị phải được gửi ngay cho
các chủ thể tương tự như khi gửi quyết định kháng nghị lần đầu1; (5)
Hậu quả của việc rút kháng nghị: BLTTDS cũng không quy định Toà
án phải ra quyết định đình chỉ việc xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm khi
người kháng nghị rút toàn bộ kháng nghị. Do đó, mặc dù người kháng
nghị rút toàn bộ kháng nghị, Toà án vẫn có thể tiếp tục xét xử.
+ Không kháng nghị:
 Trường hợp không kháng nghị thì Chánh án TANDTC, Viện
trưởng VKSNDTC, Chánh án TAND cấp cao, Viện trưởng VKSND
cấp cao tự mình hoặc ủy quyền cho Thẩm phán TAND và Kiểm sát
viên VKSND do mình quản lý thông báo bằng văn bản cho đương sự,
cơ quan, tổ chức, cá nhân có văn bản thông báo, kiến nghị2.
 Văn bản thông báo về việc không kháng nghị của Tòa án,
Viện kiểm sát được làm theo Mẫu số 06 và Mẫu số 07 ban hành kèm
theo Thông tư liên tịch số 03/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC.
Trong thông báo không kháng nghị cần nêu rõ lý do không kháng
nghị cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có văn bản thông báo,
kiến nghị.
1
Xem Điều 335 và Điều 336 BLTTDS 2015.
2
Xem khoản 3 Điều 329 BLTTDS 2015.

618
 Viện kiểm sát, Tòa án cần lưu ý trường hợp xử lý đối với
đơn đề nghị khi đã có văn bản thông báo về việc không kháng nghị của
Tòa án, Viện kiểm sát có thẩm quyền: Trên thực tế, dù Tòa án, Viện
kiểm sát đã có thông báo không kháng nghị mà đương sự vẫn kháng
nghị tiếp thì Tòa án, Viện kiểm sát căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 12
Thông tư liên tịch số 03/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC xem xét,
giải quyết đơn đề nghị kháng nghị tiếp theo quy định giải quyết đơn
kháng nghị lần đầu.
b) Thủ tục xem xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao
Theo quy định của BLTTDS 2015, việc xem xét lại quyết định
của HĐTP TANDTC theo thủ tục đặc biệt được dựa trên yêu cầu
của Ủy ban thường vụ Quốc hội, kiến nghị của Ủy ban Tư pháp của
Quốc hội, kiến nghị của Viện trưởng VKSNDTC hoặc đề nghị của
Chánh án TANDTC chứ không phải dựa trên kháng nghị của Chánh
án TANDTC và Viện trưởng VKSNDTC. Vì vậy, người có thẩm quyền
yêu cầu xem xét lại quyết định của HĐTP TANDTC chỉ giới hạn bởi
Ủy ban thường vụ Quốc hội, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, Chánh
án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC. Thủ tục xét kiến nghị, đề nghị
xem xét theo thủ tục đặc biệt cũng có sự khác biệt so với thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm xuất phát từ đối tượng được xem xét là quyết định
của HĐTP TANDTC.
- Trường hợp có yêu cầu của Ủy ban thường vụ Quốc hội đề
nghị xem xét lại quyết định của HĐTP TANDTC thì HĐTP TANDTC
không tiến hành thủ tục xem xét có căn cứ xem xét lại hay không mà
Chánh án TANDTC sẽ có trách nhiệm báo cáo HĐTP TANDTC để
xem xét lại quyết định của HĐTP TANDTC. HĐTP TANDTC sau khi
nhận được báo cáo của Chánh án TANDTC sẽ mở phiên họp với sự
tham gia của toàn thể Thẩm phán TANDTC để xem xét lại quyết định
của HĐTP TANDTC1.

1
Khoản 5 Điều 359 BLTTDS 2015.

619
- Trường hợp có kiến nghị của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội,
kiến nghị của Viện trưởng VKSNDTC hoặc đề nghị của Chánh án
TANDTC đề nghị xem xét lại quyết định của HĐTP TANDTC thì
HĐTP TANDTC phải mở phiên họp để xem xét kiến nghị, đề nghị.
Thành phần tham gia phiên họp: HĐTP TANDTC, Viện trưởng
VKSNDTC và đại diện Ủy ban Tư pháp của Quốc hội (trong trường
hợp xem xét kiến nghị của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội)1. Trình tự,
thủ tục phiên họp tuân thủ quy định tại khoản 3 Điều 359 BLTTDS
2015. Kết thúc phiên họp, HĐTP TANDTC thảo luận và biểu quyết
theo đa số về việc nhất trí hoặc không nhất trí với kiến nghị, đề nghị
xem xét lại quyết định của HĐTP TANDTC.
1.2. Phiên tòa, phiên họp xem xét lại bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật
1.2.1. Thời hạn mở phiên tòa, phiên họp
- Thời hạn Tòa án mở phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm là 04
tháng, kể từ ngày nhận được kháng nghị kèm theo hồ sơ vụ án2.
- Thời hạn Tòa án mở phiên họp xem xét lại quyết định của HĐTP
TANDTC
+ Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày nhận được kiến nghị của
Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, kiến nghị của Viện trưởng VKSNDTC
hoặc kể từ ngày Chánh án TANDTC có văn bản đề nghị thì HĐTP
TANDTC phải mở phiên họp để xem xét kiến nghị, đề nghị.3
+ Trong thời hạn 04 tháng, kể từ ngày nhận được yêu cầu
của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định tại khoản 2 Điều 358
BLTTDS 2015 hoặc kể từ ngày có quyết định của HĐTP TANDTC
quy định tại điểm đ khoản 3 Điều 359 BLTTDS 2015, HĐTP TANDTC
phải mở phiên họp để xem xét lại quyết định của HĐTP TANDTC.

1
Xem khoản 2 Điều 359 BLTTDS 2015.
2
Xem Điều 339, Điều 357 BLTTDS 2015.
3
Khoản 2 Điều 359 BLTTDS 2015.

620
1.2.2. Thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm và xem xét lại theo
thủ tục đặc biệt quyết định của HĐTP TANDTC
Thứ nhất, thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm thuộc về TAND
cấp cao và TANDTC
Việc xét lại vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm của TAND
cấp cao sẽ do Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tiến hành. Khi xác
định thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm của Ủy ban Thẩm phán
TAND cấp cao, Kiểm sát viên và Thẩm phán cần lưu ý đến số lượng
Thẩm phán tham gia trong Hội đồng xét xử như sau: (i) Ủy ban Thẩm
phán TAND cấp cao xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm bằng Hội đồng
xét xử gồm ba Thẩm phán đối với bản án, quyết định của TAND cấp
tỉnh, TAND cấp huyện có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm, tái thẩm; (ii) Toàn thể Ủy ban Thẩm phán TAND
cấp cao xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định của
TAND cấp tỉnh và TAND cấp huyện đã có hiệu lực pháp luật nhưng
có tính chất phức tạp hoặc bản án, quyết định đã được Ủy ban Thẩm
phán TAND cấp cao xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm bằng Hội đồng xét
xử gồm ba Thẩm phán nhưng không đạt được sự thống nhất khi biểu
quyết thông qua quyết định về việc giải quyết vụ án. Chánh án TAND
cấp cao xem xét, quyết định việc tổ chức xét xử giám đốc thẩm, tái
thẩm thuộc thẩm quyền của TAND cấp cao.
Đối với việc xét lại vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm ở
TAND cấp cao do HĐTP TANDTC tiến hành. HĐTP TANDTC xét xử
giám đốc thẩm, tái thẩm bằng Hội đồng xét xử gồm năm Thẩm phán
đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp cao bị kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm, tái thẩm; Toàn thể HĐTP TANDTC xét xử giám
đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Tòa án cấp cao bị kháng nghị nhưng có tính chất phức tạp hoặc
bản án, quyết định đã được HĐTP TANDTC xét xử giám đốc thẩm,
tái thẩm bằng Hội đồng xét xử gồm năm Thẩm phán nhưng không đạt
được sự thống nhất khi biểu quyết thông qua quyết định về việc giải
quyết vụ án. Chánh án TANDTC xem xét, quyết định việc tổ chức xét

621
xử giám đốc thẩm, tái thẩm trong các trường hợp thuộc thẩm quyền
của TANDTC1.
Để xác định tính chất phức tạp của vụ án, Kiểm sát viên, Thẩm
phán căn cứ vào khoản 3 Điều 337 BLLTDS 2015 để xác định. Theo
đó, những vụ án phức tạp là những vụ án có một trong yếu tố sau: quy
định của pháp luật về những vấn đề cần giải quyết trong vụ án chưa rõ
ràng, chưa được hướng dẫn áp dụng thống nhất; Việc đánh giá chứng
cứ, áp dụng pháp luật có nhiều ý kiến khác nhau; Việc giải quyết vụ án
liên quan đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân được dư luận xã hội đặc biệt quan tâm.
Khi xem xét thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm của TANDTC
và TAND cấp cao, Thẩm phán, Kiểm sát viên cũng lưu ý trường hợp
xung đột thẩm quyền. Đó là trường hợp những bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật về cùng một vụ án dân sự cùng thuộc thẩm quyền
giám đốc thẩm của TAND cấp cao và TANDTC thì TANDTC có thẩm
quyền giám đốc thẩm toàn bộ vụ án2.
Thứ hai, thẩm quyền xem xét lại theo thủ tục đặc biệt quyết định
của HĐTP TANDTC.
Căn cứ vào khoản 2 và khoản 5 Điều 359 BLTTDS 2015, HĐTP
TANDTC là chủ thể có thẩm quyền mở phiên họp để xét kiến nghị,
đề nghị của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, kiến nghị của Viện trưởng
VKSNDTC, đề nghị của Chánh án TANDTC và mở phiên họp với sự
tham gia của toàn thể Thẩm phán TANDTC để xem xét lại quyết định
của HĐTP TANDTC.
1.2.3. Thành phần tham gia phiên tòa, phiên họp xem xét lại
quyết định, bản án có hiệu lực pháp luật.
Thứ nhất, thành phần tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm
Thẩm phán là thành viên của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm,

1
Xem Điều 337 BLTTDS 2015.
2
Xem khoản 5 Điều 337 BLTTDS 2015.

622
tái thẩm (thông thường Chánh án TAND cấp cao sẽ chủ tọa phiên tòa
của Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao và Chánh án TANDTC sẽ chủ
tọa phiên tòa của HĐTP TANDTC); Viện kiểm sát, Thư ký phiên tòa,
Thẩm tra viên hoặc chuyên viên Tòa án và đương sự, người đại diện
hợp pháp cho đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho đương sự (trong trường hợp Tòa án thấy cần thiết). Khi xem xét về
thành phần tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm, Kiểm sát viên,
Thẩm phán cần lưu ý đến những vấn đề sau:
- Trường hợp thay đổi Thẩm phán hoặc Thẩm phán phải từ chối
tiến hành tố tụng: Về nguyên tắc trong giai đoạn giám đốc thẩm, tái
thẩm thì Thẩm phán cũng phải từ chối hoặc bị thay thế trong các trường
hợp tương tự như giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm trừ trường hợp
Thẩm phán đó là thành viên của HĐTP TANDTC, Ủy ban Thẩm phán
TANDTC thì có thể tham gia xét xử nhiều lần cùng vụ án theo thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm.
- Sự tham gia của Viện kiểm sát trong phiên tòa giám đốc
thẩm, tái thẩm là bắt buộc1. Trường hợp thiếu kiểm sát viên đại
diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa giám đốc thẩm và tái thẩm
thì Hội đồng xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm phải ra quyết định
hoãn phiên tòa.
- Sự tham gia của Thư ký phiên tòa, Thẩm tra viên hoặc Chuyên
viên Tòa án trong phiên tòa giám đốc thẩm: Tuy pháp luật tố tụng dân
sự không quy định cụ thể và bắt buộc phải có sự tham gia của Thư ký
phiên tòa, Thẩm tra viên hoặc Chuyên viên, nhưng trên thực tế xét xử
giám đốc thẩm, sự tham gia của họ là rất quan trọng và hết sức cần
thiết. Thư ký ghi biên bản phiên tòa giám đốc thẩm có thể là Thư ký
Tòa án, Thẩm tra viên hoặc Chuyên viên của Tòa án để ghi lại toàn
bộ diễn biến phiên tòa. Ngoài ra, Thẩm tra viên, Chuyên viên của Tòa
án được phân công cùng với Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ, xây dựng
tờ trình giải quyết đơn đề nghị theo thủ tục giám đốc thẩm không thể

1
Xem khoản 1 Điều 338 BLTTDS 2015.

623
thiếu vì họ chính là người tham gia thuyết trình trước Hội đồng giám
đốc thẩm, tái thẩm về các nội dung của vụ án.
- Những người tham gia tố tụng là đương sự (nguyên đơn; bị
đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan), người đại diện hợp pháp
cho đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự (Luật sư) chỉ được có mặt tại phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm khi
Tòa án triệu tập trong trường hợp xét thấy cần thiết. Vì thế, nếu được
triệu tập mà những chủ thể này vắng mặt tại phiên tòa thì Hội đồng
xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm vẫn tiến hành phiên tòa mà không phụ
thuộc vào việc những người này có tham gia hay không. Điều này xuất
phát từ tính chất đặc thù của thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm là hoạt
động xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật chứ không phải
là xét xử lại vụ án nên pháp luật tố tụng dân sự không quy định bắt
buộc sự có mặt của những người tham gia tố tụng. Việc xét xử giám
đốc thẩm, tái thẩm để xem xét lại vụ án trên cơ sở các chứng cứ, tài
liệu có trong hồ sơ vụ án hoặc các chứng cứ do Tòa án thu thập thêm
nên sự có mặt của những người tham gia tố tụng rất hạn chế. Trên thực
tế từ trước tới nay, tuy luật quy định như vậy, sự tham gia của họ tại
phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm gần như là chưa từng có.
Thứ hai, thành phần tham gia phiên họp xem xét quyết định của
HĐTP TANDTC.
Tham gia phiên họp xem xét kiến nghị, đề nghị của Ủy ban Tư
pháp của Quốc hội, Chánh án TANDTC và Viện trưởng VKSNDTC
gồm các Thẩm phán HĐTP TANDTC, đại diện Ủy ban Tư pháp của
Quốc hội, Viện trưởng VKSNDTC, Chánh án TANDTC1.
Tham gia phiên họp xem xét quyết định của HĐTP TANDTC
có sự tham gia của toàn thể Thẩm phán HĐTP TANDTC, Chánh án
TANDTC và Viện trưởng VKSNDTC, cơ quan, tổ chức, cá nhân có
liên quan trong trường hợp xét thấy cần thiết.2

1
Xem khoản 3 Điều 359 BLTTDS 2015.
2
Xem khoản 5 Điều 359 BLTTDS 2015.

624
1.2.4 Trình tự, thủ tục phiên tòa, phiên họp xem xét lại quyết
định, bản án có hiệu lực pháp luật
Trình tự, thủ tục phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm: tuân theo quy
định tại Điều 341, 357 BLTTDS 2015.
Trình tự, thủ tục phiên họp xem xét kiến nghị, đề nghị xem xét
lại quyết định của HĐTP TANDTC của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội,
Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC tuân theo quy định tại
khoản 3 Điều 359 BLTTDS 2015.
Trình tự, thủ tục phiên họp xem xét quyết định của HĐTP
TANDTC tuân theo quy định tại khoản 5 Điều 359 BLTTDS 2015.
1.2.5. Thẩm quyền của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm
và thẩm quyền xem xét lại quyết định của HĐTP TANDTC
Thẩm quyền của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm tuân theo quy
định tại Điều 343, 344, 345, 346, 347 BLTTDS 2015. Thẩm quyền của
Hội đồng xét xử tái thẩm tuân theo quy định tại Điều 356 BLTTDS
2015. Thẩm quyền xem xét lại quyết định của HĐTP TANDTC tuân
theo quy định tại Điều 360 BLTTDS 2015.
2. Kỹ năng của Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên trong thủ
tục xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
2.1. Kỹ năng của Luật sư trong thủ tục xét lại bản án, quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
Xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật là thủ
tục đặc biệt, được tiến hành khi bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật. Vì vậy, nếu đương sự có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm
theo thủ tục phúc thẩm, thì đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật, chỉ những người có thẩm quyền theo quy định của pháp
luật mới có quyền đề nghị, kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, xem xét lại quyết định của
HĐTP TANDTC trên cơ sở những căn cứ kháng nghị theo quy định
của pháp luật.

625
Ở cấp sơ thẩm, phúc thẩm, ngay từ đầu Luật sư có thể giúp đương
sự chuẩn bị hồ sơ khởi kiện, hồ sơ kháng cáo và tham gia trực tiếp vào
quá trình phúc thẩm. Đối với thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, xem
xét lại quyết định của HĐTP TANDTC, BLTTDS 2015 quy định Luật
sư chỉ có thể tham gia vào các hoạt động sau: giúp đương sự đề nghị
kháng nghị (không áp dụng đối với thủ tục xem xét lại quyết định của
HĐTP TANDTC) và trong trường hợp được Tòa án triệu tập, Luật sư
(với tư cách là người đại diện hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích cho
đương sự) có thể tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm.
2.1.1. Kỹ năng xác định căn cứ kháng nghị
Thứ nhất, Luật sư phải nghiên cứu kỹ hồ sơ và đối chiếu nội dung
bản án. Từ đó xác định có sự vi phạm pháp luật về nội dung và thủ tục
tố tụng hoặc có tình tiết mới theo quy định tại Điều 326: “Căn cứ, điều
kiện để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm”, Điều 352: “Căn cứ
để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm” BLTTDS 2015.
Thứ hai, Luật sư xác định thời hạn yêu cầu kháng nghị: Sau khi
xác định các căn cứ kháng nghị đã đảm bảo, Luật sư phải xác định có
đảm bảo thời hạn yêu cầu kháng nghị hay không. Đặc biệt lưu ý thời
hạn yêu cầu kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, xem xét lại quyết
định của HĐTP TANDTC:
(i) Về yêu cầu đề nghị giám đốc thẩm: Mặc dù thời hạn kháng
nghị giám đốc thẩm được quy định ba năm nhưng khoản 1 Điều 327
quy định: “Trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của
Tòa án có hiệu lực pháp luật, nếu phát hiện có vi phạm pháp luật trong
bản án, quyết định đó thì đương sự có quyền đề nghị bằng văn bản với
người có thẩm quyền kháng nghị quy định tại Điều 331 của Bộ luật
này để xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm”. Theo quy
định này, đương sự chỉ có thời hạn 01 năm kể từ ngày bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật để đưa ra yêu cầu kháng nghị. Do đó, để
xác định đúng căn cứ và điều kiện giúp đương sự kháng nghị thủ tục
giám đốc thẩm, Luật sư đồng thời phải xác định được các điều kiện

626
sau: (1) Yêu cầu được đưa ra trong thời hạn là 01 năm, kể từ ngày
bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật; (2) Phát hiện có
vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định đó phù hợp với Điều 326
BLTTDS 2015
(ii) Về yêu cầu kháng nghị tái thẩm: Theo quy định tại Điều 355
BLTTDS 2015, thời hạn kháng nghị là 01 năm. Tuy nhiên, mốc để bắt
đầu tính thời hạn kháng nghị là kể từ thời điểm chủ thể có thẩm quyền
biết được căn cứ kháng nghị (yêu cầu kháng nghị của đương sự là một
trong những cơ sở giúp cho chủ thể có thẩm quyền biết được căn cứ
kháng nghị) chứ không phải 01 năm kể từ ngày bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, có thể thấy, khác với quy định về quyền
yêu cầu kháng nghị của đương sự chỉ được thực hiện trong 01 năm đối
với thủ tục giám đốc thẩm, quyền yêu cầu kháng nghị của đương sự
đối với thủ tục tái thẩm không giới hạn về thời gian.
2.1.2. Giúp khách hàng soạn thảo đơn yêu cầu kháng nghị
Mặc dù đã xác định được các điều kiện liên quan đến việc kháng
nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, đương sự cũng không có quyền kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, mà chỉ những người có
thẩm quyền mới có quyền kháng nghị trên cơ sở có yêu cầu của đương
sự. Trường hợp đương sự không tự viết đơn để yêu cầu kháng nghị thì
Luật sư có thể giúp đương sự soạn thảo đơn. Để làm tốt kỹ năng này,
Luật sư phải xác định được những nội dung sau:
Đơn đề nghị kháng nghị thủ tục giám đốc thẩm phải có các nội
dung chính quy định tại Điều 328 BLTTDS 2015. Người đề nghị là cá
nhân, thì phải ký tên hoặc điểm chỉ và phải có xác nhận của Uỷ ban
nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc phải nộp kèm
theo bản phô tô giấy tờ tùy thân của họ; người đề nghị là cơ quan, tổ
chức, thì người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên
và đóng dấu ở phần cuối đơn; trường hợp tổ chức đề nghị là doanh
nghiệp thì việc sử dụng con dấu được thực hiện theo quy định của Luật
Doanh nghiệp.

627
Đơn đề nghị thủ tục tái thẩm không được BLTTDS quy định cụ thể.
Căn cứ vào Điều 357 BLTTDS 2015, quy định về việc áp dụng các quy
định khác của thủ tục giám đốc thẩm nếu thủ tục tái thẩm không có quy
định thì có thể hiểu đơn đề nghị thủ tục tái thẩm sẽ gồm những nội dung
đã được quy định tại Điều 328 BLTTDS 2015. Ở phần cuối đơn, người đề
nghị là cá nhân, thì phải ký tên hoặc điểm chỉ và phải có xác nhận của Uỷ
ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc phải nộp kèm
theo bản phô tô giấy tờ tùy thân của họ; người đề nghị là cơ quan, tổ chức,
thì người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng
dấu; trường hợp tổ chức đề nghị là doanh nghiệp thì việc sử dụng con dấu
được thực hiện theo quy định của Luật Doanh nghiệp.
2.1.3. Hướng dẫn khách hàng chuẩn bị tài liệu gửi kèm đơn
kháng nghị
Theo quy định của BLTTDS và Thông tư liên tịch số 03/2013/
TTLT-VKSNDTC-TANDTC thì “kèm theo đơn đề nghị, người đề nghị
phải gửi bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, tài
liệu, chứng cứ (nếu có) để chứng minh cho những yêu cầu của mình
là có căn cứ và hợp pháp”1. Như vậy, chỉ với bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật thì mới là tài liệu bắt buộc phải gửi kèm theo khi
đương sự gửi đơn yêu cầu kháng nghị cho cơ quan có thẩm quyền. Đối
với tài liệu, chứng cứ khác, BLTTDS quy định đây là quyền của đương
sự. Đương sự có thể nộp kèm theo đơn hoặc không nộp kèm theo đơn.
Việc nộp hay không nộp các chứng cứ này sẽ không phải là căn cứ để
VKSND hoặc TAND yêu cầu đương sự bổ sung hoặc trả lại đơn trong
các trường hợp. Nắm được quy định pháp luật này, Luật sư sẽ giúp
đương sự chuẩn bị tài liệu phù hợp để gửi kèm đơn kháng nghị và có
căn cứ để khiếu nại TAND, VKSND khi những cơ quan này trả lại đơn
yêu cầu với lý do đương sự không bổ sung tài liệu khác vì đương sự
không có nghĩa vụ cung cấp những tài liệu này.
Đương sự có quyền được cung cấp cho Viện trưởng VKSNDTC
1
Xem khoản 2 Điều 328 BLTTDS 2015 và Điều 1 Thông tư liên tịch số 03/2013/TTLT-VKSNDTC-
TANDTC.

628
hay Viện trưởng VKSND cấp cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm, tái thẩm những tài liệu, chứng cứ chưa được Tòa án
cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm yêu cầu đương sự giao nộp hoặc đã
yêu cầu giao nộp nhưng đương sự không giao nộp được vì có lý do chính
đáng hoặc tài liệu, chứng cứ mà đương sự không thể biết được trong quá
trình giải quyết vụ án.1 Căn cứ vào quy định này của BLTTDS 2015,
Luật sư có thể giúp đương sự chuẩn bị những tài liệu, chứng cứ phù hợp.
2.1.4. Gửi đơn và chứng cứ (nếu có) yêu cầu kháng nghị
Luật sư có thể giúp đương sự gửi đơn yêu cầu kháng nghị và các
chứng cứ cần thiết qua đường bưu điện hoặc trực tiếp tại TANDTC
hoặc VKSNDTC. Việc giao nhận chứng cứ được thực hiện theo
Điều 96 BLTTDS 2015 và hướng dẫn tại Điều 14 Nghị quyết
số 04/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của HĐTP TANDTC2. Khi
gửi đơn, Luật sư phải xác định được Tòa án có thẩm quyền giải quyết
để nộp đơn theo quy định tại Điều 337 (đối với yêu cầu kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm) và theo quy định tại Điều 354 (đối với yêu
cầu kháng nghị theo thủ tục tái thẩm) BLTTDS 2015.
Sau khi nộp đơn và giấy tờ, tài liệu cần thiết, Luật sư cùng với
đương sự chờ những người này có thụ lý đơn yêu cầu hay không.
Trường hợp không thụ lý đơn yêu cầu mà không có lý do chính đáng,
Luật sư có thể giúp đương sự soạn thảo và gửi đơn khiếu nại lên cơ
quan có thẩm quyền từ chối thụ lý đơn.
2.2. Kỹ năng của Thẩm phán trong thủ tục xét lại bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật
2.2.1. Kỹ năng kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm và yêu cầu,
kiến nghị, đề nghị xem xét theo thủ tục đặc biệt bản án, quyết định của
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
a) Đề nghị kháng nghị
Theo quy định, một trong những nguồn phát hiện vi phạm pháp
1
Điều 330 BLTTDS 2015.
2
Xem Điều 9 Thông tư liên tịch số 03/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC.

629
luật để chủ thể có thẩm quyền ra kháng nghị là báo cáo đề nghị,
kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm của Kiểm sát viên (Kiểm tra
viên) và của Thẩm phán (Thẩm tra viên). Để làm tốt nhiệm vụ này,
ngoài những kỹ năng chung, Thẩm phán (Thẩm tra viên), phải lưu ý
những thủ tục sau đây:
Thứ nhất, yêu cầu chuyển hồ sơ vụ việc dân sự để nghiên cứu
Khi Tòa án, Viện kiểm sát xét thấy cần thiết phải nghiên cứu hồ
sơ vụ việc dân sự để báo cáo người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, Tòa án, VKSND cấp cao cần có văn
bản yêu cầu Tòa án cấp huyện, cấp tỉnh đã ra bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật chuyển hồ sơ vụ việc dân sự đó cho TAND cấp cao,
VKSND cấp cao. TANDTC, VKSNDTC, TAND cấp cao, VKSND
cấp cao có văn bản yêu cầu Tòa án đang quản lý hồ sơ chuyển hồ sơ vụ
việc dân sự đó cho TANDTC, VKSNDTC, TAND cấp cao, VKSND
cấp cao. Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn
bản yêu cầu chuyển hồ sơ, Toà án chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cho Tòa
án, Viện kiểm sát có văn bản yêu cầu1.
- Trường hợp Tòa án, Viện kiểm sát là chủ thể có yêu cầu kháng
nghị giám đốc thẩm, tái thẩm
+ Trường hợp Tòa án có yêu cầu kháng nghị: Thẩm tra viên
nghiên cứu hồ sơ vụ việc dân sự do Tòa án cấp dưới gửi để tìm căn
cứ yêu cầu kháng nghị; sau đó đề xuất với Chánh án là người có thẩm
quyền xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối
với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Trong quá
trình thẩm tra hồ sơ, Thẩm tra viên có quyền thu thập tài liệu, chứng
cứ có liên quan đến vụ việc dân sự hay giúp cho Thẩm phán thực hiện
các hoạt động tố tụng. Việc thu thập tài liệu, chứng cứ của Thẩm tra
viên tuân thủ quy định của BLTTDS 2015.
+ Trường hợp Viện kiểm sát có yêu cầu kháng nghị: Để phát
hiện vi phạm pháp luật của bản án, quyết định đã có hiệu lực vi của
1
Xem khoản 2 Điều 2 Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-VKSNDTC-TANDTC.

630
Toà án, Viện kiểm sát phải dựa vào các nguồn tài liệu như: bản án,
quyết định do Toà án nhân dân các cấp chuyển đến; đơn khiếu nại của
đương sự; kiến nghị của các cơ quan, tổ chức; qua Quy chế nghiệp
vụ; qua các phương tiện thông tin đại chúng. Quá trình nghiên cứu
những tài liệu trên, bước đầu phát hiện có vi phạm pháp luật trong
quá trình giải quyết vụ án ở cấp sơ, phúc thẩm, Viện kiểm sát phải ra
văn bản yêu cầu Toà án nhân dân đã ra bản án, quyết định có vi phạm
chuyển hồ sơ vụ án để Viện kiểm sát xem xét, nghiên cứu hồ sơ và
lập hồ sơ kiểm sát.1
- Phối hợp chuyển hồ sơ giữa Tòa án và Viện kiểm sát: Trường
hợp Tòa án, Viện kiểm sát cùng có yêu cầu chuyển hồ sơ vụ việc dân
sự để xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm thì
việc chuyển hồ sơ được thực hiện như sau: (1) Trường hợp cùng nhận
được văn bản yêu cầu của Toà án và Viện kiểm sát hoặc trường hợp
đã nhận được văn bản yêu cầu của Viện kiểm sát trước nhưng trong
thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu, hồ sơ chưa
được chuyển cho Viện kiểm sát mà lại nhận được yêu cầu của Tòa án,
thì Toà án đang quản lý hồ sơ chuyển hồ sơ cho Tòa án có yêu cầu và
thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát có yêu cầu biết; (2) Trường
hợp Tòa án hoặc Viện kiểm sát là cơ quan nhận hồ sơ trước thì trong
thời hạn 03 tháng (đối với vụ án phức tạp hoặc có trở ngại khách quan
thì thời hạn không quá 06 tháng) kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án: (i)
nếu Tòa án là cơ quan nhận hồ sơ trước nhưng không kháng nghị mà
Viện kiểm sát vẫn tiếp tục có yêu cầu chuyển hồ sơ thì Tòa án chuyển
hồ sơ cho Viện kiểm sát đã có yêu cầu và thông báo ngay cho Tòa án
đã chuyển hồ sơ cho mình biết. Khi nhận được hồ sơ mà Viện kiểm
sát không kháng nghị thì Viện kiểm sát chuyển hồ sơ vụ việc dân sự
cho Tòa án đã chuyển hồ sơ ban đầu. Nếu Viện kiểm sát đã có yêu
cầu không tiếp tục yêu cầu chuyển hồ sơ thì Tòa án trả lại hồ sơ cho
Tòa án đã chuyển hồ sơ ban đầu; (ii) Trường hợp Viện kiểm sát là cơ

1
Xem: Học viện Tư pháp, Giáo trình Kỹ năng giải quyết các vụ việc dân sự, Nxb. Công an nhân dân,
2007.

631
quan nhận hồ sơ trước mà Viện kiểm sát không kháng nghị, nếu Toà
án vẫn tiếp tục có yêu cầu chuyển hồ sơ thì Viện kiểm sát chuyển hồ
sơ cho Tòa án đã có yêu cầu và thông báo ngay cho Tòa án đã chuyển
hồ sơ cho mình biết. Sau khi nhận được hồ sơ mà Tòa án có yêu cầu
không kháng nghị thì Tòa án chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cho Tòa án
đã chuyển hồ sơ ban đầu. Nếu Tòa án đã có yêu cầu không tiếp tục yêu
cầu chuyển hồ sơ thì Viện kiểm sát trả lại hồ sơ cho Tòa án đã chuyển
hồ sơ ban đầu. (3) Trường hợp thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm còn lại không quá 06 tháng hoặc trường hợp người
có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đã có văn bản yêu
cầu hoãn thi hành bản án, quyết định của Tòa án hoặc để phục vụ hoạt
động giám sát của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền, thì Tòa án
và Viện kiểm sát phối hợp trong việc chuyển hồ sơ vụ việc dân sự để
bảo đảm việc xem xét, giải quyết1.
Thứ hai, thông báo bằng văn bản cho lãnh đạo Tòa án, Viện kiểm
sát để yêu cầu kháng nghị
Nếu có căn cứ xác định bản án, quyết định có vi phạm pháp luật
nghiêm trọng hoặc có tình tiết mới làm thay đổi cơ bản nội dung của
bản án, quyết định thì Thẩm phán, Thẩm tra viên và Kiểm sát viên,
Kiểm tra viên đề xuất với Thẩm phán, Kiểm sát viên là lãnh đạo đơn
vị báo cáo lãnh đạo TAND, VKSND có thẩm quyền nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm. Văn bản thông báo của Tòa án, Viện kiểm sát
theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm với lãnh đạo Tòa án, Viện kiểm
sát phải tuân thủ hình thức và nội dung theo quy định của pháp luật.
Đối với thông báo kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm phải có nội
dung chính sau đây: Ngày, tháng, năm làm văn bản thông báo; Tên Tòa
án, Viện kiểm sát có thẩm quyền xem xét, giải quyết văn bản thông
báo; Tên, địa chỉ của Tòa án, Viện kiểm sát hoặc cá nhân, cơ quan, tổ
chức khác phát hiện vi phạm; Tên bản án, quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật mà Tòa án, Viện kiểm sát phát hiện có vi phạm pháp
luật; Nội dung thông báo của Tòa án, Viện kiểm sát về vi phạm pháp
1
Xem khoản 4 Điều 2 Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-TANDTC-VKSNDTC.

632
luật trong bản án, quyết định của Tòa án; Tên tài liệu, chứng cứ chứng
minh bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật1. Văn bản
thông báo của Tòa án, Viện kiểm sát kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
gồm có những nội dung như: Ngày, tháng, năm làm văn bản thông
báo; Tên Tòa án, Viện kiểm sát có thẩm quyền xem xét, giải quyết văn
bản thông báo; Tên, địa chỉ của Tòa án, Viện kiểm sát hoặc cá nhân,
cơ quan, tổ chức khác phát hiện tình tiết mới; Tên bản án, quyết định
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà Tòa án, Viện kiểm sát hoặc cá
nhân, cơ quan, tổ chức khác phát hiện có tình tiết mới; Nội dung thông
báo của Tòa án, Viện kiểm sát hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức khác về
tình tiết mới được phát hiện; Tên tài liệu, chứng cứ chứng minh những
tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của
bản án, quyết định mà Tòa án, đương sự không biết được khi Tòa án
ra bản án, quyết định đó2.
b) Kỹ năng kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm và yêu cầu, kiến
nghị, đề nghị xem xét quyết định của HĐTP TANDTC
Thứ nhất, kỹ năng của Thẩm phán đối với thủ tục giám đốc thẩm,
tái thẩm
Trường hợp Chánh án TANDTC hoặc Chánh án TAND cấp cao
kháng nghị thì quyết định kháng nghị cùng hồ sơ vụ án phải được gửi
ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp. Viện kiểm sát nghiên cứu hồ sơ
trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án; hết thời hạn
này, Viện kiểm sát phải chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền
giám đốc thẩm.3
Thứ hai, đối với thủ tục xem xét lại quyết định của HĐTP TANDTC
Thẩm phán gửi yêu cầu, đề nghị, kiến nghị và hồ sơ vụ án cho
VKSNDTC: Sau khi nhận được yêu cầu của Ủy ban thường vụ Quốc
hội, kiến nghị của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội hoặc sau khi Chánh

1
Xem khoản 2 Điều 2 Thông tư liên tịch số 03/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC.
2
Khoản 2 Điều 14 Thông tư liên tịch số 03/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC.
3
Khoản 2 Điều 336 BLTTDS 2015.

633
án TANDTC có văn bản đề nghị xem xét lại quyết định của HĐTP
TANDTC theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 358 BLTTDS
2015, TANDTC có trách nhiệm gửi cho VKSNDTC bản sao văn bản
yêu cầu, kiến nghị hoặc đề nghị đó kèm theo hồ sơ vụ án để VKSNDTC
nghiên cứu và chuẩn bị ý kiến phát biểu tại phiên họp xem xét kiến
nghị, đề nghị, yêu cầu.
HĐTP TANDTC mở phiên họp xét kiến nghị: Trong thời hạn 01
tháng, kể từ ngày nhận được kiến nghị của Ủy ban Tư pháp của Quốc
hội, kiến nghị của Viện trưởng VKSNDTC hoặc kể từ ngày Chánh án
TANDTC có văn bản đề nghị thì HĐTP TANDTC phải mở phiên họp
để xem xét kiến nghị, đề nghị.
TANDTC thông báo về mở phiên họp xét kiến nghị, đề nghị:
TANDTC thông báo bằng văn bản về thời gian mở phiên họp để xem
xét kiến nghị, đề nghị cho Viện trưởng VKSNDTC.
Tòa án mời đại diện Ủy ban Tư pháp của Quốc hội tham dự phiên
họp của HĐTP TANDTC để xem xét kiến nghị của Ủy ban Tư pháp
của Quốc hội.
Thẩm phán thực hiện các hoạt động tại phiên họp xem xét kiến
nghị, đề nghị: (i) Chánh án TANDTC tự mình hoặc phân công một thành
viên HĐTP TANDTC trình bày tóm tắt nội dung vụ án và quá trình giải
quyết vụ án; (ii) Trường hợp có đề nghị xem xét lại quyết định của HĐTP
TANDTC, đại diện Ủy ban Tư pháp, Viện trưởng VKSNDTC, Chánh án
TANDTC trình bày về nội dung đề nghị; căn cứ của việc đề nghị; phân
tích, đánh giá các tình tiết của vụ án, chứng cứ cũ và chứng cứ mới bổ
sung (nếu có) để làm rõ việc vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong quyết
định của HĐTP TANDTC hoặc những tình tiết quan trọng mới có thể
làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định của HĐTP TANDTC; (iii) Biểu
quyết thông qua phiên họp: HĐTP TANDTC thảo luận và biểu quyết
theo đa số về việc nhất trí hoặc không nhất trí với kiến nghị, đề nghị
xem xét lại quyết định của HĐTP TANDTC. Trường hợp nhất trí với
kiến nghị của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, kiến nghị của Viện trưởng

634
VKSNDTC hoặc đề nghị của Chánh án TANDTC thì HĐTP TANDTC
quyết định về việc mở phiên họp để xem xét lại quyết định của HĐTP
TANDTC, đồng thời giao cho Chánh án TANDTC tổ chức nghiên cứu
hồ sơ, báo cáo HĐTP TANDTC xem xét, quyết định tại phiên họp xem
xét lại quyết định của HĐTP TANDTC. Trường hợp không nhất trí kiến
nghị, đề nghị thì HĐTP TANDTC phải thông báo bằng văn bản và nêu
rõ lý do cho cá nhân, cơ quan đã kiến nghị, đề nghị; (iv) Mọi diễn biến
tại phiên họp xem xét kiến nghị, đề nghị và các quyết định được thông
qua tại phiên họp phải được ghi vào biên bản phiên họp và lưu hồ sơ
xem xét kiến nghị, đề nghị.
HĐTP TANDTC gửi thông báo nội dung phiên họp xét kiến
nghị, đề nghị: trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc
phiên họp xem xét kiến nghị, đề nghị xem xét lại quyết định của HĐTP
TANDTC, HĐTP TANDTC gửi cho Viện trưởng VKSNDTC, Ủy ban
Tư pháp của Quốc hội văn bản thông báo về việc HĐTP TANDTC
nhất trí hoặc không nhất trí với kiến nghị, đề nghị xem xét lại quyết
định của HĐTP TANDTC.
2.2.2. Kỹ năng chuẩn bị phiên tòa, phiên họp xem xét bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật
a) Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ
Thứ nhất, nghiên cứu hồ sơ kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm
- Theo quy định của BLTTDS 2015, cấp giám đốc thẩm, tái thẩm
không phải là cấp xét xử trực tiếp nên khác với phiên toà sơ thẩm,
hay phiên toà phúc thẩm, Hội đồng xét xử chủ yếu nghe trình bày của
Thẩm phán được phân công nghiên cứu hồ sơ. Và các thành viên khác
của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm cũng không trực tiếp nghiên cứu
hồ sơ. Trong khi đó, đương sự hoặc người đại diện hợp pháp, người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hoặc người tham gia
tố tụng khác có liên quan đến việc kháng nghị chỉ được Tòa án triệu
tập trong trường hợp xét thấy cần thiết1. Vì vậy, Thẩm phán được phân
1
Khoản 2 Điều 338 BLTTDS 2015.

635
công có trách nhiệm và vai trò quan trọng trong việc tìm ra căn cứ
để Hội đồng xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm ra quyết định chấp nhận
kháng nghị hay không kháng nghị. Thẩm phán được phân công phải
nghiên cứu đầy đủ hồ sơ, toàn diện các tình tiết của vụ án, đánh giá
khách quan các chứng cứ để giúp cho các thành viên của Hội đồng xét
xử nắm được tường tận vụ việc ngay cả đối với những vụ án phức tạp,
nhiều hồ sơ, bút lục. Nếu Thẩm phán được phân công nghiên cứu hồ sơ
kháng nghị không hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ sẽ khiến cho
Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm không có đủ căn cứ để ra quyết định
sáng suốt. Thực tế hoạt động xét xử chứng minh đã có những quyết
định giám đốc thẩm, tái thẩm bị kháng nghị hoặc có những quyết định
giám đốc thẩm, tái thẩm nhận định một cách chung chung, chưa đưa ra
được những cơ sở pháp lý có tính chất thuyết phục1. Vì vậy, hoạt động
nghiên cứu hồ sơ của Thẩm phán trước phiên tòa giám đốc thẩm, tái
thẩm là một kỹ năng quan trọng. Để thực hiện tốt kỹ năng này, Thẩm
phán phải nắm được những nội dung sau:
- Người có trách nhiệm nghiên cứu hồ sơ là Thẩm phán được
Chánh án Tòa án có thẩm quyền kháng nghị phân công nghiên cứu
hồ sơ.
+ Hồ sơ nghiên cứu sẽ bao gồm: hồ sơ sơ thẩm và hồ sơ phúc
thẩm và hồ sơ đã có kháng nghị của người có thẩm quyền. Trong hồ
sơ kháng nghị gồm có đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm của đương
sự, chủ thể khác và văn bản kiến nghị của cơ quan có thẩm quyền và
quyết định kháng nghị của người có thẩm quyền.
+ Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ nhằm mục đích: (i) Nắm rõ được
phạm vi kháng nghị trong quyết định kháng nghị là kháng nghị toàn
bộ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật hay kháng nghị một
phần bản án hay quyết định đó. Phạm vi kháng nghị được thể hiện cụ
thể trong quyết định kháng nghị của chủ thể có thẩm quyền, vì vậy,
Thẩm phán phải nghiên cứu cụ thể quyết định kháng nghị để từ đó tìm
1
Xem Học viện Tư pháp, Giáo trình kỹ năng giải quyết các vụ việc dân sự, Nxb. Công an
nhân dân, 2007.

636
cơ sở cho căn cứ kháng nghị ở các tài liệu, giấy tờ khác; (ii) Xác định
có hay không căn cứ kháng nghị phù hợp với phạm vi kháng nghị.
Về nội dung này, Thẩm phán nghiên cứu kỹ phần đề nghị kháng nghị
(xem thêm mục 1.1.1 Chương 10) và cần phân biệt giữa căn cứ kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm với căn cứ kháng nghị theo thủ tục
tái thẩm. Theo quy định thì chỉ những bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật xét xử có vi phạm pháp luật sẽ bị kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm. Còn những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật, sau đó có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản
nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án, các đương sự không biết
được khi Tòa án ra bản án, quyết định đó sẽ bị kháng nghị theo thủ
tục tái thẩm. Thẩm phán cần phân biệt tình tiết mới là những tài liệu,
chứng cứ mới được phát hiện với những chứng cứ đã tồn tại trong vụ
án từ trước, nhưng do quá trình thu thập không đầy đủ dẫn đến việc bỏ
sót chứng cứ này và sau đó mới thu thập được. Ví dụ, khi vợ và chồng
ly hôn, người vợ đã cho biết con chung không phải là con của người
chồng, nhưng Tòa án không cho trưng cầu giám định để xác định con
chung có phải con của người chồng không và vẫn quyết định giao con
chung đó cho người chồng nuôi. Sau khi bản án ly hôn có hiệu lực
pháp luật, giám định gen xác định con chung đó không phải là con
của người chồng, thì kết luận giám định gen là chứng cứ chưa được
thu thập trong quá trình giải quyết vụ án ly hôn làm căn cứ để kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Còn trong quá trình giải quyết vụ án
ly hôn, vợ và chồng đều không biết con chung không phải là con của
người chồng. Sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật, giám định
gen xác định con chung đó không phải là con của người chồng, thì
kết luận giám định gen là chứng cứ mới được phát hiện làm căn cứ để
kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.
+ Phương pháp nghiên cứu hồ sơ: Phụ thuộc vào tính chất và
căn cứ kháng nghị của từng thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm nên
phương pháp nghiên cứu hồ sơ của mỗi loại thủ tục cũng không
giống nhau.

637
Với hồ sơ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, Thẩm phán có
thể tham khảo và áp dụng hai phương pháp nghiên cứu hồ sơ, đó là: (i)
Trên cơ sở những vấn đề kháng nghị đặt ra mà nghiên cứu hồ sơ, để rút
ra kết luận bước đầu là kháng nghị đúng hay bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật đúng; (ii) Phương pháp nghiên cứu toàn diện hồ sơ
vụ án bị kháng nghị, sau đó đối chiếu với những vấn đề kháng nghị nêu
ra, để đưa ra phương án xử lý. Phương pháp (i) có ưu điểm đi đúng vào
những vấn đề kháng nghị nêu ra làm cho việc nghiên cứu hồ sơ được
nhanh. Ví dụ, trường hợp kháng nghị chỉ đặt ra bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật áp dụng pháp luật không đúng... Trong trường
hợp này, Thẩm phán chỉ đi sâu nghiên cứu xem việc xét xử của Toà
án cấp dưới có đúng hay không. Trên cơ sở để chấp nhận hay không
chấp nhận kháng nghị. Tuy nhiên, phương pháp này có nhược điểm là
nghiên cứu hồ sơ không toàn diện, trong thực tế nhiều khi kháng nghị
không đúng, hơn nữa, pháp luật không hạn chế cấp giám đốc thẩm chỉ
xem xét trong phạm vi kháng nghị. Phương pháp (ii) mất thời gian hơn
phương pháp (i) nhưng Thẩm phán nắm được toàn bộ hồ sơ, giúp cho
việc phán quyết của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm chính xác, đầy
đủ và tránh tình trạng kháng nghị nhiều lần. Phương pháp này thường
được tiến hành như sau: nghiên cứu bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật từ đó đối chiếu với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được
trong hồ sơ để đánh giá bản án, quyết định đúng hay sai. Thông thường,
sau khi nghiên cứu bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, Thẩm
phán cần nghiên cứu ngay đến khiếu nại của đương sự. Đơn khiếu nại
của đương sự thường nêu ra những điểm người khiếu nại không đồng ý
với quyết định của Toà án, lý do không đồng ý. Đây là những điểm mà
Thẩm phán được phân công nghiên cứu hồ sơ kháng nghị cần đi sâu
làm rõ để đưa ra kết luận. Vì vậy, đơn khiếu nại của chủ thể có quyền
là một kênh quan trọng cần xem xét khi Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ.
Với hồ sơ kháng nghị tái thẩm, Thẩm phán không cần thiết phải
đi sâu nghiên cứu xem bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
đúng hay sai mà phải đi sâu nghiên cứu những tình tiết, những cơ

638
sở pháp lý mà kháng nghị nêu ra đúng hay sai. Vì thế, phương pháp
tối ưu khi nghiên cứu hồ sơ kháng nghị tái thẩm là xuất phát từ nội
dung kháng nghị để có định hướng nghiên cứu hồ sơ. Nhìn chung,
khi kháng nghị theo thủ tục tái thẩm, người làm kháng nghị cũng đã
thu thập những chứng cứ cần thiết để bảo vệ cho những luận cứ mà
kháng nghị nêu ra. Vì vậy, khi nghiên cứu hồ sơ để chuẩn bị cho việc
xét xử tái thẩm, Thẩm phán cần đi sâu nghiên cứu xem kháng nghị
đúng hay sai.
Thực tế cho thấy, khi được phân công, mỗi Thẩm phán có cách
thức, phương pháp và trình tự nghiên cứu hồ sơ khác nhau. Tuy nhiên
để hoàn thành nhiệm vụ được giao thì kết quả cuối cùng của quá trình
nghiên cứu hồ sơ ấy, Thẩm phán phải chỉ ra được những nội dung sau:
Đối với hoạt động nghiên cứu hồ sơ kháng nghị giám đốc thẩm,
Thẩm phán cần làm rõ những điểm sau:
(1) Đánh giá toàn diện các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án do
Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm thu thập, cụ thể: (i) Bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật có xác định đúng quan hệ pháp luật
đang tranh chấp hay không. Vấn đề này tưởng đơn giản, nhưng thực
tế Toà án cấp dưới vẫn có những trường hợp xác định không đúng
quan hệ pháp luật đang tranh chấp; (ii) Việc xét xử của Toà án cấp
dưới có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng không như xét xử
không đúng thẩm quyền; xét xử vắng mặt các đương sự (nguyên đơn,
bị đơn, người có quyền, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập) mà
không chứng minh được đã tống đạt giấy báo cho họ hợp lệ hoặc đã
làm đầy đủ các thủ tục như niêm yết công khai tại nơi cư trú của các
đương sự; không hoà giải được do bị đơn cố tình vắng mặt, hồ sơ đã
làm đầy đủ các thủ tục để ghi nhận việc không tiến hành hoà giải hay
không; (iii) Hồ sơ mà bản án, quyết định đã có hiệu lực bị kháng nghị
đã thu thập đầy đủ chứng cứ chưa? Việc đánh giá chứng cứ trong bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có khách quan hay không. Tất
nhiên, việc đánh giá chứng cứ là vấn đề cốt lõi để giải quyết triệt để
vụ án. Trong cùng một hồ sơ vụ án, nhiều trường hợp Tòa án cấp sơ

639
thẩm và phúc thẩm đánh giá chứng cứ trái ngược nhau. Trong nhiều
vụ án chứng cứ tương tự như nhau, nhưng cùng một cấp Tòa án lại
có sự đánh giá chứng cứ một cách khác nhau. Song, để xem xét việc
đánh giá chứng cứ của Toà án các cấp một cách khách quan, toàn
diện thì Thẩm phán cần phải so sánh chứng cứ của các đương sự đưa
ra về mặt thời gian, không gian; nghiên cứu hồ sơ phải xem xét giá
trị pháp lý hợp pháp của chứng cứ, so sánh sự mâu thuẫn giữa các
chứng cứ của các đương sự đưa ra; đối chiếu các chứng cứ thu thập
được với việc áp dụng pháp luật để giải quyết.
(2) Những vấn đề liên quan đến bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật như: quyết định của bản án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng
nghị có hợp tình, hợp lý phù hợp với thực tế không, phán quyết đưa ra
có phù hợp với đánh giá chứng cứ hay không? Nhiều khi Tòa án các
cấp áp dụng pháp luật đúng để xét xử nhưng phần quyết định lại không
phù hợp với thực tế. Ví dụ, trong vụ án yêu cầu phân chia di sản thừa
kế, Tòa án các cấp xác định đúng thời điểm mở thừa kế, diện và hàng
thừa kế, kỷ phần của từng người thừa kế, nhưng phần quyết định khi
phân chia hiện vật lại không phù hợp với thực tế. Người đáng được
nhận chia hiện vật thì phải nhận chia giá trị và ngược lại hay phân chia
di sản bằng hiện vật cho từng người thừa kế không dành lối đi chung
dẫn đến không thi hành án được…
(3) Tìm những điểm không đồng tình với quyết định của Toà án
trong bản án, quyết định đã có hiệu lực trên cơ sở nội dung của đơn đề
nghị giám đốc thẩm của đương sự, văn bản kiến nghị của cơ quan có
thẩm quyền đồng thời, chỉ rõ lý do đề nghị người có thẩm quyền xem
xét kháng nghị.
(4) Làm rõ nhưng nội dung trong quyết định kháng nghị của chủ
thể có thẩm quyền như: căn cứ để kháng nghị là bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật; phạm vi kháng nghị là kháng nghị toàn bộ bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, hay kháng nghị một phần bản
án hay quyết định đó.

640
(5) Dự kiến hướng giải quyết vụ án: Sau khi đã nghiên cứu hồ sơ,
Thẩm phán cần phải dự kiến phương án giải quyết vụ án, đề xuất với
Hội đồng xét xử giám đốc thẩm. Các hướng giải quyết là có chấp nhận
kháng nghị hay không chấp nhận kháng nghị; hoặc chấp nhận toàn bộ
hay một phần kháng nghị và đưa ra cơ sở của việc lựa chọn đó. Trong
trường hợp Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ có ý kiến không chấp nhận
một phần hay toàn bộ kháng nghị thì cần báo với người có quyền ra
kháng nghị đó biết trước khi mở phiên tòa. Người đã kháng nghị giám
đốc thẩm có quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị nếu chưa hết thời hạn
kháng nghị. Hoặc người đã kháng nghị có quyền rút một phần hoặc
toàn bộ kháng nghị trước khi mở phiên tòa giám đốc thẩm1. Trường
hợp người có thẩm quyền kháng nghị vẫn giữ nguyên quan điểm của
mình thì quyết định cuối cùng thuộc về Hội đồng giám đốc thẩm.
(6) Ngoài những vấn đề kháng nghị đã nêu, Thẩm phán cũng cần
phải làm rõ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật còn những điểm
nào sai dẫn đến vi phạm lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước, lợi
ích của người thứ ba không phải là đương sự trong vụ án hay không.
Vì đây cũng chính là một trong những căn cứ mà Hội đồng xét xử
giám đốc thẩm có thể xem xét kháng nghị theo quy định tại khoản 2
Điều 342 BLTTDS 2015.
Đối với hoạt động nghiên cứu hồ sơ kháng nghị tái thẩm, những
nội dung mà Thẩm phán phải làm rõ để chuẩn bị cho phiên toà tái
thẩm, đó là: (1) Xác định tình tiết mà trong quyết định kháng nghị cho
rằng đây là căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm. Vì thế, Thẩm phán phải
kiểm tra cụ thể đề nghị kháng nghị và quyết định kháng nghị của người
có thẩm quyền để biết được nội dung cũng như số lượng tình tiết mới;
(2) Xác định tình tiết đó có thỏa mãn các yêu cầu để được xem xét là
căn cứ kháng nghị tái thẩm hay không (thời điểm xuất hiện tình tiết,
hậu quả xuất hiện tình tiết,…). Ví dụ, A, B, C tranh chấp di sản thừa
kế của bố mẹ để lại, trong quá trình điều tra xét xử ở cấp sơ thẩm và
phúc thẩm không ai nêu ra tình tiết là bố mẹ họ đã để lại di chúc trước
1
Điều 335 BLTTDS 2015.

641
khi chết nên các cấp Toà án sơ thẩm và phúc thẩm chia di sản thừa kế.
Sau khi xử phúc thẩm, A xuất trình di chúc bố mẹ để lại cho A toàn bộ
di sản. Vì vậy, bản án có hiệu lực bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.
Trong vụ án này, nếu di chúc A xuất trình là di chúc thật thì sẽ làm thay
đổi bản chất và các quyết định của bản án đã có hiệu lực pháp luật.
Trong trường hợp này khi nghiên cứu hồ sơ, Thẩm phán có thể yêu cầu
A nêu lý do tại sao sau khi xử phúc thẩm mới đưa ra di chúc. Ngoài ra,
Thẩm phán có thể yêu cầu giám định chữ ký, chữ viết trong di chúc
để xác định có phải là di chúc thật hay di chúc giả. Tuy nhiên, Thẩm
phán cũng cần lưu ý những việc làm trên chỉ đặt ra trong trường hợp
các đương sự đến để lấy lời khai không gây ảnh hưởng lớn đến kinh
tế cũng như thời gian đi lại của đương sự hay trong những trường hợp
có đương sự yêu cầu Toà án giám định bản di chúc đó... và Thẩm phán
thấy việc làm trên là cần thiết,…
Thứ hai, kỹ năng nghiên cứu hồ sơ xem xét lại quyết định của
HĐTP TANDTC
Đối tượng của thủ tục đặc biệt xem xét lại là quyết định giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm của HĐTP TANDTC. Căn cứ để xem xét lại giống
như căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm là có vi
phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc phát hiện tình tiết quan trọng mới
có thể làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định mà HĐTP TANDTC
ban hành. Để xem xét lại các quyết định này, HĐTP TANDTC phải mở
phiên họp để xem xét kiến nghị đề nghị và mở phiên họp xem xét lại
quyết định của HĐTP TANDTC.
Thẩm phán xác định người có trách nhiệm nghiên cứu hồ sơ: (1)
Trường hợp nghiên cứu hồ sơ chuẩn bị cho phiên họp xem xét kiến
nghị, đề nghị xem xét lại quyết định của HĐTP TANDTC: Theo quy
định tại điểm b khoản 3 Điều 359 BLTTDS 2015, trong trường hợp
Chánh án TANDTC có đề nghị xem xét lại quyết định của HĐTP
TANDTC thì Chánh án TANDTC phải trình bày về nội dung đề nghị;
căn cứ của việc đề nghị; phân tích, đánh giá các tình tiết của vụ án,
chứng cứ cũ và chứng cứ mới bổ sung (nếu có) để làm rõ việc vi phạm

642
pháp luật nghiêm trọng trong quyết định của HĐTP TANDTC hoặc
những tình tiết quan trọng mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung
quyết định của HĐTP TANDTC. Vì thế người có trách nhiệm nghiên
cứu hồ sơ vụ án, xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để đề nghị xem
xét lại quyết định của HĐTP TANDTC trong trường hợp này có thể là
Chánh án TANDTC hoặc một thành viên của HĐTP TANDTC được
Chánh án TANDTC giao; (2) Trường hợp nghiên cứu hồ sơ chuẩn bị
cho phiên họp xem xét lại Quyết định của HĐTP TANDTC: Chánh án
TANDTC tổ chức việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, xác minh, thu thập tài
liệu, chứng cứ trong trường hợp cần thiết.
Nội dung và mục đích Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ, thủ tục xem
xét lại quyết định của HĐTP TANDTC là xác minh, thu thập tài liệu,
chứng cứ phải làm rõ có hay không có vi phạm pháp luật nghiêm trọng
hoặc tình tiết quan trọng mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung
quyết định của HĐTP TANDTC1.
Phương pháp nghiên cứu hồ sơ và kết quả nghiên cứu hồ sơ:
giống với nghiên cứu hồ so kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm,
tái thẩm.
b) Kỹ năng chuẩn bị bản thuyết trình
Thứ nhất, chuẩn bị bản thuyết trình tại phiên tòa giám đốc thẩm,
tái thẩm
Theo quy định của BLTTDS 2015, trong giai đoạn chuẩn bị giám
đốc thẩm, tái thẩm, Chánh án Tòa án phân công một Thẩm phán làm
bản thuyết trình về vụ án tại phiên tòa. Để chuẩn bị tốt bản thuyết
trình, Thẩm phán được Chánh án Tòa án giao nhiệm vụ phải nắm được
những nội dung sau: Tóm tắt nội dung vụ án, các bản án, quyết định
của các cấp Tòa án và nội dung của kháng nghị. Để làm được điều này,
Thẩm phán phải nắm được kỹ năng nghiên cứu hồ sơ đối với từng thủ
tục kháng nghị.

1
Xem khoản 4 Điều 359 BLTTDS 2015.

643
Thời hạn gửi bản thuyết trình: Bản thuyết trình phải được gửi cho
các thành viên Hội đồng xét xử giám đốc thẩm chậm nhất là 07 ngày
trước ngày mở phiên tòa giám đốc thẩm1.
Thứ hai, chuẩn bị bản thuyết trình tại phiên họp xem xét lại quyết
định của HĐTP TANDTC
Chuẩn bị bản thuyết trình tại phiên họp xem xét kiến nghị, đề
nghị của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, của Chánh án TANDTC và
Viện trưởng VKSNDTC: Chánh án TANDTC tự mình hoặc phân công
một thành viên HĐTP TANDTC chuẩn bị bản tóm tắt nội dung vụ án
và quá trình giải quyết vụ án để trình bày tại phiên họp xem xét lại
quyết định của HĐTP TANDTC.
Chuẩn bị bản thuyết tình tại phiên họp xem xét lại Quyết định
của HĐTP TANDTC: Chánh án TANDTC có nhiệm vụ chuẩn bị và
báo cáo tại phiên họp2.
c) Chuẩn bị các tài liệu và văn bản pháp luật liên quan đến việc
xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
Thẩm phán được phân công nghiên cứu hồ sơ, ngoài làm bản
thuyết trình, còn chuẩn bị các tài liệu, chứng cứ quan trọng liên quan
đến việc đánh giá chứng cứ của vụ án và các văn bản pháp luật kèm
theo làm căn cứ giải quyết vụ án.
d) Gửi thông báo về thời gian mở phiên họp
Thẩm phán có trách nhiệm gửi thông báo về thời gian mở phiên
họp cho Viện kiểm sát và các chủ thể có liên quan. Đối với phiên họp
giám đốc thẩm, tái thẩm, BLTTDS 2015 không quy định về nghĩa vụ
gửi thông báo phiên họp của Tòa án. Đối với phiên họp xét kiến nghị,
đề nghị và phiên họp xem xét quyết định của HĐTP TANDTC thì
TANDTC thông báo bằng văn bản về thời gian mở phiên họp để xem

1
Điều 340 BLTTDS 2015.
2
Xem khoản 1 Điều 360 BLTTDS 2015.

644
xét kiến nghị, đề nghị và phiên họp xem xét lại quyết định của HĐTP
TANDTC cho Viện trưởng VKSNDTC1.
2.2.3. Kỹ năng tham gia phiên tòa, phiên họp
Ở phần kỹ năng tham gia phiên tòa, phiên họp xem xét lại bản án,
quyết định đã có hiệu lực, Thẩm phán cần lưu ý những nội dung sau
trong hoạt động thực tiễn nghề:
Thứ nhất, Thẩm phán xem xét tính hợp pháp thành phần tham
gia phiên tòa, phiên họp xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật. Thẩm phán phải căn cứ vào quy định của BLTTDS 2015
liên quan đến việc có mặt, vắng mặt, thay đổi, bổ sung thành viên của
Hội đồng xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm và HĐTP TANDTC để xem
xét tính hợp pháp của thành phần tiến hành tố tụng. Ngoài ra, dựa vào
các vụ, việc dân sự cụ thể, căn cứ vào từng tính chất của từng thủ tục
xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, Thẩm phán
triệu tập đương sự, cơ quan, cá nhân khác trong trường hợp cần có
thêm lời khai của những người này để việc đưa ra quyết định có căn
cứ vững chắc hơn.
Thứ hai, Thẩm phán lưu ý về kỹ năng điều khiển phiên tòa,
phiên họp giám đốc thẩm, tái thẩm, xem xét lại quyết định của HĐTP
TANDTC. Để thực hiện tốt kỹ năng này, yêu cầu Thẩm phán chủ
tọa phiên tòa, phiên họp phải nắm vững trình tự, thủ tục phiên tòa,
phiên họp giám đốc thẩm, tái thẩm, xem xét lại quyết định của HĐTP
TANDTC xử lý được những tình huống có thể phát sinh tại phiên tòa,
phiên họp như phát sinh các chứng cứ mới,…
Thứ ba, kỹ năng ban hành quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm,
xem xét lại quyết định của HĐTP TANDTC: Quyết định giám đốc
thẩm, tái thẩm, xem lại quyết định của HĐTP TANDTC là kết tinh trí
tuệ của tất cả các chủ thể tham gia phiên họp, phiên tòa xem xét lại bản
án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, đặc biệt là thể hiện
công sức, tài năng của những người Thẩm phán, Kiểm sát viên, Thư
1
Xem khoản 2, khoản 4 Điều 359 BLTTDS 2015.

645
ký Tòa án, Thẩm tra viên,… trong hoạt động xét xử chỉ tuân theo pháp
luật, đảm bảo công bằng, quyền và lợi ích hợp pháp cho tất cả các chủ
thể trong quan hệ pháp luật dân sự. Vì vậy, để có một quyết định “hợp
tình, hợp lý” và đúng theo quy định của pháp luật, chủ thể ban hành
quyết định phải thực hiện tốt những hoạt động sau đây:
- Xác định đúng thẩm quyền của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm,
tái thẩm và xem xét lại quyết định của HĐTP TANDTC theo quy định
của BLTTDS 2015. Đối với quyết định giám đốc thẩm, chủ thể ban
hành chỉ có những quyết định pháp lý sau: Không chấp nhận kháng
nghị và giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật; Hủy bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và
giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án cấp dưới
đã bị hủy hoặc bị sửa; Hủy một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm
hoặc xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm; Hủy bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải quyết vụ án; Sửa một phần hoặc
toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật1. Đối
với thủ tục tái thẩm, Hội đồng xét xử tái thẩm chỉ có quyền ra những
quyết định sau: Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật; Hủy bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại theo thủ tục do BLTTDS quy định;
Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải quyết
vụ án.2 Khi ra quyết định xem xét lại quyết định của HĐTP TANDT,
toàn thể Thẩm phán HĐTP TANDTC xem xét và đưa ra những quyết
định, đó là: Hủy quyết định của HĐTP TANDTC, hủy bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật và quyết định về nội dung vụ án; Hủy
quyết định của HĐTP TANDTC, hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật và xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của TANDTC
có quyết định vi phạm pháp luật nghiêm trọng bị hủy do lỗi vô ý hoặc
cố ý và gây thiệt hại cho đương sự hoặc xác định trách nhiệm bồi hoàn

1
Xem Điều 343 BLTTDS 2015.
2
Xem Điều 356 BLTTDS 2015.

646
giá trị tài sản theo quy định của pháp luật; Hủy quyết định của HĐTP
TANDTC, hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để giao hồ
sơ vụ án cho Tòa án cấp dưới giải quyết theo quy định của pháp luật1.
- Xác định giá trị pháp lý của quyết định xem xét lại bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật:
+ Đối với quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm: (1) Nếu bản án,
quyết định được xem xét giải quyết ở TAND cấp cao và trường hợp
Hội đồng xét xử gồm 3 Thẩm phán thì quyết định của Hội đồng xét xử
giám đốc thẩm, tái thẩm chỉ được thông qua khi tất cả các thành viên
của Hội đồng biểu quyết tán thành.2 Trường hợp những bản án, quyết
định này được xem xét bởi toàn thể Thẩm phán Ủy ban Thẩm phán
TAND cấp cao thì phiên tòa, phiên họp phải có ít nhất hai phần ba tổng
số thành viên tham gia và quá nửa tổng số thành viên tham gia phải
biểu quyết tán thành.3 (2) Trường hợp giám đốc thẩm, tái thẩm bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp cao bị kháng nghị:
(i) nếu xét xử bằng Hội đồng xét xử gồm năm Thẩm phán thì quyết
định giám đốc thẩm, tái thẩm chỉ được thông qua khi tất cả các thành
viên của Hội đồng xét xử biểu quyết tán thành; (ii) nếu Hội đồng xét
xử là toàn thể HĐTP TANDTC thì phải có phải có ít nhất hai phần ba
tổng số thành viên tham gia; quyết định của Hội đồng Thẩm phán phải
được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành4.
+ Đối với quyết định xem xét lại quyết định của HĐTP TANDTC:
Quyết định của HĐTP TANDTC phải được ít nhất ba phần tư tổng số
thành viên của HĐTP TANDTC biểu quyết tán thành.5
- Thẩm phán cũng phải tuân thủ về mặt nội dung và hình thức
khi ban hành quyết định xem xét bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật: Khi ban hành quyết định xem xét lại bản án, quyết định

1
Xem khoản 1 Điều 360 BLTTDS 2015.
2
Xem khoản 6 Điều 341, Điều 357 BLTTDS 2015.
3
Xem khoản 5 Điều 341 BLTTDS 2015.
4
Xem khoản 6 Điều 341 BLTTDS 2015.
5
Xem khoản 2 Điều 360 BLTTDS 2015.

647
có hiệu lực của Tòa án, chủ thể có thẩm quyền phải tuân thủ về mặt
nội dung cũng như hình thức quyết định do BLTTDS 2015 quy định.
Đối với quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm thì Hội đồng xét xử phải
căn cứ Điều 348, Điều 357 BLTTDS 2015 để ban hành. Điều 348,
Điều 357 BLTTDS 2015 yêu cầu quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm
phải có các nội dung sau: Ngày, tháng, năm và địa điểm mở phiên
tòa giám đốc thẩm; Họ, tên các thành viên Hội đồng xét xử giám đốc
thẩm, tái thẩm. Trường hợp Hội đồng xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm
là Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao hoặc HĐTP TANDTC thì ghi họ,
tên, chức vụ của chủ tọa phiên tòa và số lượng thành viên tham gia xét
xử; Họ, tên Thư ký Tòa án, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa giám đốc
thẩm, tái thẩm; Tên vụ án mà Hội đồng đưa ra xét xử giám đốc thẩm;
Tên, địa chỉ của các đương sự trong vụ án; Tóm tắt nội dung vụ án,
quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng
nghị; Quyết định kháng nghị, lý do kháng nghị; Nhận định của Hội
đồng xét xử, trong đó phải phân tích quan điểm về việc giải quyết vụ
án và những căn cứ để chấp nhận hoặc không chấp nhận kháng nghị;
Điểm, khoản, điều của BLTTDS, văn bản quy phạm pháp luật khác mà
Hội đồng xét xử căn cứ để ra quyết định; Quyết định của Hội đồng xét
xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Ngoài ra, quyết định của Hội đồng xét xử
của HĐTP TANDTC cần có lập luận để làm rõ quy định của pháp luật
còn có cách hiểu khác nhau; phân tích, giải thích các vấn đề, sự kiện
pháp lý và chỉ ra nguyên nhân, đường lối xử lý, quy phạm pháp luật
cần áp dụng (nếu có).
2.2.4. Kỹ năng của Thẩm phán sau phiên tòa
Thẩm phán gửi quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm. Theo quy
định tại Điều 350, Điều 357 BLTTDS 2015, trong thời hạn 05 ngày
làm việc, kể từ ngày ra quyết định, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm, tái
thẩm phải gửi quyết định giám đốc thẩm cho cơ quan, tổ chức, cá nhân
sau đây: Đương sự, người khác có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo
quyết định giám đốc thẩm; Tòa án ra bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật bị kháng nghị; Viện kiểm sát cùng cấp, cơ quan thi hành

648
án dân sự có thẩm quyền. Quyết định giám đốc thẩm được Tòa án có
thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm công bố trên Cổng thông tin điện
tử của Tòa án (nếu có), trừ quyết định có chứa thông tin quy định tại
khoản 2 Điều 109 BLTTDS 2015.
Thẩm phán có trách nhiệm thông báo kết quả phiên họp HĐTP
TANDTC xem xét lại quyết định của HĐTP TANDTC: Trong thời hạn
ba mươi ngày, kể từ ngày HĐTP TANDTC ra quyết định xem xét lại
quyết định của HĐTP TANDTC thì TANDTC gửi quyết định cho Uỷ
ban thường vụ Quốc hội, Uỷ ban Tư pháp của Quốc hội, VKSDNTC,
TAND đã giải quyết vụ án và các đương sự.1
2.3. Kỹ năng của Kiểm sát viên trong thủ tục xét lại bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
2.3.1. Kỹ năng kháng nghị của Kiểm sát viên
Đối với thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm: Trường hợp Viện trưởng
VKSNDTC hoặc Viện trưởng VKSND cấp cao kháng nghị thì quyết
định kháng nghị phải được gửi ngay cho Tòa án có thẩm quyền giám
đốc thẩm2.
Đối với thủ tục xem xét lại quyết định của HĐTP TANDTC:
Viện kiểm sát có trách nhiệm trả hồ sơ vụ án do TANDTC gửi trước
khi mở phiên họp xét kiến nghị, đề nghị. Theo quy định của BLTTDS
2015, trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án do
TANDTC gửi, VKSNDTC phải trả lại hồ sơ vụ án cho TANDTC để
HĐTP TANDTC mở phiên họp xét kiến nghị, đề nghị xem xét lại
quyết định của HĐTP TANDTC.
Kiểm sát viên lưu ý về hoạt động phát biểu tại phiên họp xét kiến
nghị, đề nghị. Trường hợp Viện trưởng VKSNDTC có kiến nghị xem
xét lại quyết định của HĐTP TANDTC thì Viện trưởng VKSNDTC tự
mình trình bày về nội dung đề nghị; căn cứ của việc kiến nghị; phân
tích, đánh giá các tình tiết của vụ án, chứng cứ cũ và chứng cứ mới
1
Xem Điều 24 Thông tư liên tịch số 03/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC.
2
Xem khoản 3 Điều 336 BLTTDS 2015.

649
bổ sung (nếu có) để làm rõ việc vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong
quyết định của HĐTP TANDTC hoặc những tình tiết quan trọng mới
có thể làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định của HĐTP TANDTC.
Trường hợp xem xét kiến nghị của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội hoặc
xem xét đề nghị của Chánh án TANDTC thì Viện trưởng VKSNDTC
phát biểu quan điểm và lý do nhất trí hoặc không nhất trí với kiến nghị,
đề nghị đó.
Viện kiểm sát có trách nhiệm gửi ý kiến phát biểu của Viện trưởng
VKSNDTC cho TANDTC trong trường hợp xét kiến nghị của Ủy ban
thường vụ Quốc hội hoặc Chánh án TANDTC. Ý kiến phát biểu của
Viện trưởng VKSNDTC phải thể hiện bằng văn bản, có chữ ký của
Viện trưởng VKSNDTC và phải được gửi cho TANDTC trong thời
hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc phiên họp
2.3.2. Kỹ năng chuẩn bị phiên tòa, phiên họp xem xét bản án,
quyết định có hiệu lực pháp luật
a) Kỹ năng chuẩn bị phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm
Để chuẩn bị phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm, Kiểm sát viên
phải có những kỹ năng cơ bản như kỹ năng nghiên cứu hồ sơ, kỹ năng
thu thập chứng cứ, kỹ năng chuẩn bị nội dung phát biểu quan điểm của
Viện kiểm sát tại phiên tòa, lập hồ sơ kiểm sát,…
Thứ nhất, kỹ năng nghiên cứu hồ sơ
Kiểm sát viên cần xem xét thời hạn nghiên cứu hồ trong trường
hợp Chánh án TANDTC hoặc Chánh án TAND cấp cao kháng nghị để
thực hiện tốt công việc nghiên cứu hồ sơ. Trên cơ sở quyết định kháng
nghị cùng hồ sơ vụ án được Tòa án có thẩm quyền gửi, Viện kiểm sát
có trách nhiệm nghiên cứu hồ sơ trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày
nhận được hồ sơ vụ án. Hết thời hạn này, Viện kiểm sát phải chuyển
hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm1. Như
vậy, thời hạn nghiên cứu hồ sơ giám đốc thẩm, tái thẩm của Kiểm sát

1
Khoản 2 Điều 336, Điều 357 BLTTDS 2015.

650
viên được phân công đối với vụ án dân sự do Chánh án TANDTC hoặc
Chánh án TAND cấp cao kháng nghị là 15 ngày.
Khi nghiên cứu hồ sơ, Kiểm sát viên cần làm rõ những nội dung
sau: (1) Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án trong trường hợp Chánh án Tòa
án có thẩm quyền kháng nghị tương tự như đối với việc nghiên cứu
hồ sơ vụ án trong giai đoạn xét đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm
để tìm căn cứ kháng nghị. Đồng thời, Kiểm sát viên được phân công
cần nghiên cứu nội dung kháng nghị đánh giá có căn cứ kháng nghị
hay không; kháng nghị một phần hay toàn bộ bản án, quyết định của
Tòa án có hiệu lực pháp luật chính xác chưa; đối chiếu các chứng
cứ có trong hồ sơ vụ án với việc áp dụng pháp luật đúng hay không.
Ngoài ra, Kiểm sát viên còn cần phải xem xét những nội dung bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà quyết định kháng
nghị không đề cập đến. Nếu xét thấy các nội dung đó có vi phạm pháp
luật mà người có thẩm quyền kháng nghị của Tòa án chưa xem xét thì
Kiểm sát viên làm bản thuyết trình báo cáo với người có thẩm quyền
kháng nghị của Viện kiểm sát để xem xét kháng nghị; (2) Đối với
trường hợp Viện trưởng VKSNDTC hoặc Viện trưởng VKSND cấp
cao kháng nghị thì cùng với quyết định kháng nghị, hồ sơ vụ án phải
được gửi ngay cho Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm1.
Kiểm sát viên được phân công tham dự phiên tòa giám đốc thẩm, tái
thẩm cần phải nắm được toàn bộ nội dung hồ sơ trong giai đoạn nghiên
cứu hồ sơ để ra quyết định kháng nghị.
Phương pháp nghiên cứu hồ sơ và kết quả nghiên cứu hồ sơ mà
Kiểm sát viên áp dụng tương tự như kỹ năng của Thẩm phán (xem
thêm mục 2.2.1 Chương 10).
Thứ hai, kỹ năng thu thập chứng cứ
Sau khi đã kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm,
Viện kiểm sát có quyền thu thập hồ sơ, tài liệu, vật chứng để bảo
vệ quan điểm kháng nghị của Viện kiểm sát tại phiên tòa giám đốc

1
Khoản 3 Điều 336 BLTTDS 2015.

651
thẩm, tái thẩm. Viện kiểm sát yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang
quản lý, lưu giữ cung cấp cho mình hồ sơ, tài liệu, vật chứng theo
quy định tại khoản 4 Điều 106 BLTTDS 2015. Yêu cầu phải bằng
văn bản, nêu rõ hồ sơ, tài liệu, vật chứng cần cung cấp. Cá nhân, cơ
quan, tổ chức được yêu cầu có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, kịp thời
chứng cứ theo yêu cầu của Viện kiểm sát trong thời hạn 15 ngày, kể
từ ngày nhận được yêu cầu. Trường hợp không cung cấp đầy đủ, kịp
thời chứng cứ theo yêu cầu của Viện kiểm sát thì phải gửi văn bản
cho Viện kiểm sát nêu rõ lý do. Chứng cứ do đương sự, cá nhân, cơ
quan, tổ chức cung cấp cho Viện kiểm sát theo yêu cầu của Viện
kiểm sát được chuyển cho Tòa án để đưa vào hồ sơ vụ việc dân sự
và bảo quản tại Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 107 BLTTDS
2015. Thủ tục giao nhận chứng cứ được thực hiện theo hướng dẫn
như sau: Trước khi mở phiên tòa, phiên họp, nếu hồ sơ vụ việc dân
sự đã được chuyển cho Viện kiểm sát mà có chứng cứ do đương sự,
cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu
thập bổ sung thì Tòa án chuyển cho Viện kiểm sát bản sao chứng cứ
đó. Việc chuyển bản sao chứng cứ cho Viện kiểm sát trong trường
hợp này phải bảo đảm thời gian để Viện kiểm sát nghiên cứu, tham
gia phiên tòa1.
Thứ ba, chuẩn bị nội dung phát biểu quan điểm của Viện kiểm
sát tại phiên tòa
Kiểm sát viên phải chuẩn bị bài phát biểu ý kiến của Viện kiểm
sát, phải thể hiện chính xác quan điểm của Viện kiểm sát, dự kiến
những vấn đề có thể phát sinh tại phiên tòa. Ý kiến phát biểu của Kiểm
sát viên phải bằng văn bản thể hiện: căn cứ pháp luật của việc phát
biểu ý kiến của Viện kiểm sát theo Luật Tổ chức VKSND và BLTTDS;
nội dung phân tích, nhận xét bản án, quyết định bị kháng nghị đã có
những vi phạm pháp luật nào hay không có vi phạm pháp luật (đối
chiếu với những căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm); đề xuất
ý kiến về quan điểm giải quyết vụ án như: không chấp nhận kháng
1
Xem khoản 5 Điều 2 Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-TANDTC-VKSNDTC.

652
nghị và giữ nguyên bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật bị kháng
nghị; chấp nhận một phần hay toàn bộ kháng nghị; hủy bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm hoặc xét xử phúc thẩm
lại; hủy bản án, quyết định của Tòa án đã xét xử vụ án và đình chỉ giải
quyết vụ án.
Đối với những trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị mà sau khi
nghiên cứu hồ sơ vụ án thấy cần phải thay đổi, bổ sung hoặc rút kháng
nghị trước phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm thì Kiểm sát viên phải
kịp thời báo cáo lãnh đạo Viện kiểm sát xem xét, quyết định.
Thứ tư, lập hồ sơ kiểm sát
Hồ sơ vụ án dân sự do Viện kiểm sát lập là hồ sơ vụ án dân sự
được thu gọn. Kiểm sát viên sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án dân
sự do Tòa án chuyển cho thì phải lập Hồ sơ kiểm sát - là tài liệu
rất quan trọng giúp cho Kiểm sát viên tham gia được phiên tòa.
Trong quá trình xem xét đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, khi
nhận được hồ sơ vụ án dân sự, Kiểm sát viên, cán bộ phải nghiên
cứu, lập hồ sơ kiểm sát. Nếu có căn cứ xác định bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc
có tình tiết mới làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết
định thì bằng văn bản đề xuất với lãnh đạo đơn vị báo cáo lãnh
đạo Viện kiểm sát kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc
tái thẩm.
Việc lập hồ sơ kiểm sát được thực hiện theo quy định tại Điều 12
và Điều 29 của Quy chế công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc
dân sự; bổ sung đơn, thông báo đề nghị xem xét lại bản án, quyết định
có hiệu lực pháp luật của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân; kháng
nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát hoặc Chánh án Tòa án; tài liệu,
chứng cứ do Tòa án, Viện Kiểm sát xác minh, thu thập, do đương sự
giao nộp cho Tòa án ở giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm1. Hồ sơ kiểm

1
Điều 42 Quy chế công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự ban hành kèm theo Quyết định
số 364/QĐ-VKSTC ngày 02/10/2017 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

653
sát phải phản ánh được nội dung và những tình tiết quan trọng của vụ
án, quan điểm của Lãnh đạo Viện kiểm sát về giải quyết vụ án dân sự.
Tài liệu có trong hồ sơ phải được sắp xếp thứ tự theo đúng các tiêu
mục trên bìa hồ sơ, được đánh số bút lục từ 1 đến hết. Kiểm sát viên
lập hồ sơ phải ký tên vào phần cuối của danh mục lục tài liệu. Kiểm
sát viên phải hoàn chỉnh hồ sơ kiểm sát.
Ngoài các nguồn tài liệu trên, hồ sơ kiểm sát theo trình tự
giám đốc thẩm, tái thẩm còn bao gồm các tài liệu như: Các tài liệu,
chứng cứ do Toà án tự thu thập hoặc thu thập theo yêu cầu của
đương sự; Quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn
cấp tạm thời của Toà án; Quyết định phân công thay đổi Kiểm sát
viên thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố
tụng, tham gia phiên toà giải quyết vụ việc dân sự của Viện trưởng
Viện kiểm sát; văn bản của Viện kiểm sát yêu cầu Toà án xác minh,
thu thập chứng cứ trên cơ sở khiếu nại của đương sự; Bản nhận xét
đánh giá chứng cứ có trong hồ sơ vụ án dân sự, quan điểm về giải
quyết vụ án dân sự của Kiểm sát viên được phân công kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng, tham gia phiên toà giải
quyết vụ án dân sự; Bản thuyết trình về những vấn đề cần phát biểu
tại phiên toà; Ý kiến bằng văn bản của lãnh đạo Viện kiểm sát và
của Viện kiểm sát về đường lối giải quyết vụ án dân sự tại Hội đồng
giám đốc thẩm, tái thẩm; Bản án, quyết định đã có hiệu lực về giải
quyết vụ án dân sự của Toà án; Kháng nghị của Toà án nhân dân; Ý
kiến của Viện kiểm sát, kháng nghị của Toà án nhân dân và kháng
nghị của Viện kiểm sát.
b) Kỹ năng chuẩn bị phiên họp xem xét quyết định của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Thứ nhất, Kiểm sát viên nghiên cứu và chuẩn bị ý kiến phát
biểu tại phiên họp xem xét kiến nghị, đề nghị thì cần lưu ý những nội
dung sau:
+ Văn bản nghiên cứu: văn bản yêu cầu, kiến nghị hoặc đề nghị

654
đó kèm theo hồ sơ vụ án do TANDTC gửi sau khi TANDTC nhận
được yêu cầu của Ủy ban thường vụ Quốc hội, kiến nghị của Ủy ban
Tư pháp của Quốc hội hoặc Chánh án TANDTC có văn bản đề nghị
xem xét lại quyết định của HĐTP TANDTC theo quy định tại khoản 2
và khoản 3 Điều 358 BLTTDS 2015.
+ Nội dung nghiên cứu: Kiểm sát viên nghiên cứu các nội dung
như nội dung kiến nghị, đề nghị; căn cứ của việc kiến nghị, đề nghị;
phân tích, đánh giá các tình tiết của vụ án, chứng cứ cũ và chứng
cứ mới bổ sung (nếu có) để làm rõ việc vi phạm pháp luật nghiêm
trọng trong quyết định của HĐTP TANDTC hoặc những tình tiết quan
trọng mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định của HĐTP
TANDTC (xem thêm mục 1.1.1 Chương 10).
+ Thời hạn nghiên cứu: 15 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ
án, VKSNDTC phải trả lại hồ sơ vụ án cho TANDTC.
Thứ hai, Kiểm sát viên nghiên cứu và chuẩn bị ý kiến phát
biểu tại phiên họp xem xét quyết định của HĐTP TANDTC: Chánh
án TANDTC tổ chức việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, xác minh, thu
thập tài liệu, chứng cứ trong trường hợp cần thiết. Việc nghiên cứu
hồ sơ vụ án, xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ phải làm rõ có
hay không có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc tình tiết quan
trọng mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định của
HĐTP TANDTC.1
Thứ ba, Kiểm sát viên có trách nhiệm lập hồ sơ kiểm sát.
c) Kỹ năng của kiểm sát viên tại phiên tòa, phiên họp
Thứ nhất, kỹ năng tại phiên tòa, phiên họp giám đốc thẩm, tái thẩm
Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát bắt buộc phải tham gia
phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm. Viện kiểm sát tham gia tất cả các
phiên tòa, phiên họp giám đốc thẩm, tái thẩm, kể cả trường hợp Viện
1
Xem khoản 4 Điều 359 BLTTDS 2015.

655
kiểm sát kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm và trường hợp Tòa án
kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. Quy định Viện kiểm sát phải
tham gia tất cả các phiên tòa, phiên họp giám đốc thẩm, tái thẩm xuất
phát từ lý do thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm là thủ tục tố tụng đặc biệt,
không phải là một cấp xét xử, nhằm xem xét lại những bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, đã được đưa ra thi hành, thậm
chí có thể đã thi hành xong.
Kiểm sát viên phải trình bày, phát biểu tại phiên tòa, phiên họp
giám đốc thẩm, tái thẩm. Trong quá trình diễn ra phiên tòa, phiên họp
giám đốc thẩm, tái thẩm, Kiểm sát viên nên chú ý lắng nghe thành viên
của Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm trình bày tóm tắt nội dung vụ
án, quá trình xét xử vụ án, quyết định kháng nghị, các căn cứ, nhận
định của kháng nghị và đề nghị của người kháng nghị. Để từ những
thông tin này, Kiểm sát viên đối chiếu với hồ sơ vụ án đã nghiên cứu,
dự thảo bài phát biểu của Viện kiểm sát đã chuẩn bị trước, điều chỉnh
quan điểm của Viện kiểm sát (đã dự thảo) về việc giải quyết vụ án cho
phù hợp với diễn biến của vụ án để phát biểu. Sau đó, Kiểm sát viên sẽ
trình bày quan điểm kháng nghị của Viện kiểm sát (nếu có) hoặc phát
biểu quan điểm của Viện kiểm sát về quyết định kháng nghị của Chánh
án Tòa án. Khi trình bày, Kiểm sát viên cần lưu ý:
- Đối với trường hợp Viện trưởng Viện kiểm sát kháng nghị
thì Kiểm sát viên trình bày nội dung kháng nghị và căn cứ của việc
kháng nghị; có quyền xuất trình bổ sung hồ sơ, tài liệu, vật chứng;
phát biểu quan điểm kháng nghị và phân tích để làm rõ quan điểm
kháng nghị của Viện kiểm sát đối với bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật hoặc những tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội
dung của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật; phát biểu quan
điểm của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ việc dân sự. Kiểm sát
viên phải bảo vệ quan điểm đã thể hiện trong quyết định kháng nghị.
- Đối với trường hợp Chánh án Tòa án kháng nghị, thì Kiểm sát
viên phát biểu ý kiến về tính có căn cứ và hợp pháp của kháng nghị,
nêu rõ lý do nhất trí hoặc không nhất trí với quan điểm kháng nghị của

656
Chánh án Tòa án; phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải
quyết vụ việc dân sự1.
- Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên phải thể hiện bằng văn bản,
có chữ ký của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa và phải được gửi cho
Tòa án trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc phiên tòa,
phiên họp để lưu vào hồ sơ vụ việc dân sự2.
Tại phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm, nếu có tài liệu, chứng cứ
hoặc căn cứ khác làm thay đổi kháng nghị của Viện kiểm sát thì Kiểm
sát viên đề nghị Hội đồng xét xử tạm ngừng phiên toà để báo cáo lãnh
đạo Viện kiểm sát xem xét, quyết định việc thay đổi, bổ sung hoặc rút
kháng nghị; nếu Hội đồng xét xử không chấp nhận và vẫn tiến hành xét
xử thì Kiểm sát viên tiếp tục tham gia phiên toà và thực hiện nhiệm vụ
theo quy định của pháp luật.
Trường hợp Viện trưởng VKSNDTC kháng nghị đưa vụ án ra xét
xử tại Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm TAND cấp cao, nếu phát hiện
tài liệu, chứng cứ hoặc căn cứ khác dẫn đến phải thay đổi, bổ sung, rút
kháng nghị thì xử lý như sau: Trước khi mở phiên tòa, Kiểm sát viên của
VKSND cấp cao được phân công kiểm sát tại phiên tòa phải báo cáo
Viện trưởng VKSND cấp cao để báo cáo Viện trưởng VKSNDTC. Quyết
định của Viện trưởng VKSNDTC là quyết định cuối cùng; Tại phiên tòa,
Kiểm sát viên của VKSND cấp cao được phân công kiểm sát tại phiên tòa
đề nghị Hội đồng xét xử tạm ngừng phiên toà để báo cáo lãnh đạo Viện
kiểm sát có thẩm quyền. Nếu Hội đồng xét xử không chấp nhận và vẫn
tiến hành xét xử thì Kiểm sát viên tiếp tục tham gia phiên toà và thực hiện
nhiệm vụ theo quy định của pháp luật; nhưng sau phiên tòa phải báo cáo
ngay Viện trưởng VKSND cấp cao để báo cáo Viện trưởng VKSNDTC3.
Việc kiểm sát tại phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm được thực
hiện theo quy định tại Điều 22 và Điều 35 của Quy chế công tác

1
Điều 11 Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-VKSNDTC-TANDTC.
2
Xem khoản 3 Điều 11 Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-TANDTC-VKSNDTC.
3
Điều 49 Quy chế công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự ban hành kèm theo
Quyết định số 364/QĐ-VKSTC ngày 02/10/2017 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

657
kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự; đồng thời, kiểm sát
việc cung cấp, thu thập tài liệu, chứng cứ tại phiên tòa; việc thay
đổi, bổ sung, rút kháng nghị của Chánh án Tòa án1. Sau khi nghe
Kiểm sát viên phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải
quyết vụ án, Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm biểu quyết về việc
giải quyết vụ án.
Thứ hai, kỹ năng tại phiên họp xem xét quyết định của HĐTP TANDTC
Đối với phiên họp xem xét kiến nghị, đề nghị của Ủy ban Tư pháp
của Quốc hội, Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC bắt buộc
phải tham gia. Trường hợp có kiến nghị thì Viện trưởng VKSNDTC
trình bày về nội dung kiến nghị, căn cứ của việc kiến nghị, phân tích,
đánh giá các tình tiết của vụ án, chứng cứ cũ và chứng cứ mới bổ sung
(nếu có) để làm rõ việc vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong quyết
định của HĐTP TANDTC hoặc những tình tiết quan trọng mới có thể
làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định của HĐTP TANDTC. Trường
hợp Viện trưởng VKSNDTC không có kiến nghị xem xét lại quyết
định của HĐTP TANDTC thì Viện trưởng VKSNDTC phải phát biểu ý
kiến và lý do nhất trí hay không nhất trí với kiến nghị, đề nghị của Ủy
ban Tư pháp của Quốc hội và Chánh án TANDTC xem xét lại quyết
định của HĐTP TANDTC. Ý kiến này của Viện trưởng VKSDNTC
phải thể hiện bằng văn bản, có chữ ký của Viện trưởng VKSNDTC và
phải được gửi cho TANDTC trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ
ngày kết thúc phiên họp.2
Tương tự như phiên họp xem xét kiến nghị, đề nghị xem xét
lại quyết định của HĐTP TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC phải
tham dự phiên họp xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán
TANDTC. Khi tham gia phiên họp, Viện trưởng VKSNDTC phải
phát biểu quan điểm về việc có hay không có vi phạm pháp luật
nghiêm trọng hoặc tình tiết quan trọng mới có thể làm thay đổi cơ

1
Điều 50 Quy chế công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự ban hành kèm theo
Quyết định số 364/QĐ-VKSTC ngày 02/10/2017 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
2
Xem khoản 3 Điều 359 BLTTDS 2015.

658
bản nội dung quyết định của HĐTP TANDTC và quan điểm về việc
giải quyết vụ án. Ý kiến phát biểu của Viện trưởng VKSNDTC phải
thể hiện bằng văn bản, có chữ ký của Viện trưởng VKSNDTC và
phải được gửi cho TANDTC trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ
ngày kết thúc phiên họp1.
d) Kỹ năng của Kiểm sát viên sau phiên tòa
Ngoài việc thực hiện những thao tác nghiệp vụ tương tự như hoạt
động của Kiểm sát viên sau phiên tòa xét xử phúc thẩm, Kiểm sát viên
sau phiên tòa, phiên họp xem xét bản án, quyết định có hiệu lực của
Tòa án cần lưu ý:
- Gửi văn bản ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên: Kiểm sát viên
phải thể hiện bằng văn bản, có chữ ký của Kiểm sát viên tham gia
phiên tòa, phiên họp và phải được gửi cho Tòa án trong thời hạn 05
ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc phiên tòa, phiên họp để lưu vào hồ
sơ vụ việc dân sự2.
- Báo cáo và theo dõi về kết quả xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm:
Kiểm sát viên báo cáo bằng văn bản với lãnh đạo Viện kiểm sát và lãnh
đạo đơn vị về kết quả xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm; theo dõi việc
ban hành quyết định và gửi các quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của
Tòa án; thông báo kết quả xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm và sao gửi
quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm cho Viện kiểm sát nơi có bản án,
quyết định bị kháng nghị.
- Nếu thấy phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng hoặc phát hiện quyết định giám đốc thẩm, tái
thẩm có vi phạm pháp luật cần kháng nghị tiếp (trừ quyết định giám
đốc thẩm, tái thẩm của HĐTP TANDTC) thì Kiểm sát viên kịp thời
báo cáo Lãnh đạo VKSNDTC hoặc đề xuất với Lãnh đạo VKSNDTC
để có đường lối giải quyết. Đồng thời kiểm sát viên ra quyết định tạm
đình chỉ thi hành án giám đốc thẩm, tái thẩm và yêu cầu Tòa án ra

1
Xem khoản 6 Điều 359 BLTTDS 2015.
2
Khoản 3 Điều 11 Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-VKSNDTC-TANDTC.

659
quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm chuyển hồ sơ vụ án để xem xét
việc kháng nghị.
3. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
1. Phân tích các căn cứ, điều kiện để kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm?
2. Phân tích các căn cứ, điều kiện để kháng nghị theo thủ tục
tái thẩm?
3. Phân tích các căn cứ, điều kiện để yêu cầu, kiến nghị, đề nghị
xem xét lại quyết định của HĐTP TANDTC?
4. Tình huống
Tranh chấp đất đai giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị D, sinh
năm 1931, trú tại số 1108/56, khóm Bình Đức 1, phường B, thành
phố LX, tỉnh H và bị đơn là bà Trần Thị N, sinh năm 1942, trú tại
1050 khóm Bình Đức 1, phường B, thành phố LX, tỉnh H. Nội dung
kiện đòi lại đất đã hiến cho tập đoàn sản xuất trong thời kỳ cải tạo
đất đai sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Bản án sơ thẩm số
69/2010/DS-ST ngày 09/02/2010 của TAND thành phố LX, tỉnh H xử
buộc bà N phải trả lại đất canh tác của tập đoàn sản xuất cho bà D là
chủ sở hữu trước thời kỳ miền Nam giải phóng. Bản án phúc thẩm số
54/2011/DS-PT ngày 25/10/2011 y án sơ thẩm buộc bà N phải hoàn
trả cho bà D 6579m2 đất. Bà N có đơn khiếu nại đến Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam ngày 01/01/2013 và cho rằng năm 1976, gia
đình bà D đã tự nguyện giao đất của mình cho Nhà nước và được tập
đoàn sản xuất tiếp nhận giao cho gia đình bà N sản xuất ổn định và
đóng thuế liên tục cho Nhà nước. Năm 1996, bà N đã kê khai và được
cấp quyền sử dụng đất toàn bộ diện tích đất canh tác trên. Bà N không
có lỗi trong việc được giao đất. Đất đó là do Nhà nước giao cho bà N
nên bà N hoàn toàn có quyền của chủ sử dụng đất. Trong quá trình giải
quyết đơn khiếu nại của bà N, TANDTC nhận được biên bản xác minh
ngày 11/4/2008 của ông Nguyễn Xuân V, nguyên là cán bộ địa chính

660
phường B thời điểm năm 1996 và bản xác nhận ngày 19/12/2008 của
ông Trần Văn T, nguyên là Tập đoàn phó Tập đoàn sản xuất và xác
nhận của ông Nguyễn Văn Đ, nguyên là kế toán của Tập đoàn sản xuất
đã xác định khi thực hiện chính sách quản lý đất đai của Nhà nước,
diện tích đất trên đã được đưa vào Tập đoàn sản xuất và sau đó đã được
giao cho bà N quản lý, sử dụng.
a) Theo anh, chị, nội dung biên bản xác minh ngày 11/4/2008 và
ngày 19/12/2008 có được xem là tình tiết mới kháng nghị để chủ thể có
thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm không? Vì sao?
b) Giả sử anh, chị là Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho bà N, anh chị cần trao đổi với bà N những vấn đề gì trước khi gửi
đơn đề nghị xem xét kháng nghị Bản án phúc thẩm số 54/2011/DS-PT
ngày 25/10/2011?
c) Soạn thảo đơn đề nghị xem xét Bản án phúc thẩm số 54/2011/
DS-PT ngày 25/10/2011 theo thủ tục tái thẩm?

661
Chương 11
KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ, KIỂM SÁT VIÊN,
THẨM PHÁN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

Mục tiêu của bài học: Nội dung:


Chương này sẽ trang bị cho người học:
1. Một số quy định chung về
Về kiến thức, người học nhận diện thi hành án dân sự
được các quy định chung của pháp 2. Kỹ năng của Luật sư, Kiểm
luật thi hành án dân sự. sát viên, Thẩm phán trong hoạt
Về kỹ năng, người học hiểu và động thi hành án dân sự
vận dụng được kỹ năng cơ bản 2.1. Kỹ năng của Luật sư trong
của Thẩm phán, Kiểm sát viên, hoạt động thi hành án dân sự
Luật sư trong hoạt động thi hành 2.2. Kỹ năng của Kiểm sát viên
án dân sự. trong hoạt động thi hành án
Về thái độ, người học có xử dân sự
sự đúng đắn khi tham gia hoạt 2.3. Kỹ năng của Thẩm phán
động thi hành án dân sự. Nhận trong thực hiện các công việc
thức được những vai trò, yêu liên quan đến thi hành án dân sự
cầu và trách nhiệm nghề nghiệp
của Thẩm phán, Kiểm sát viên, 3. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
Luật sư khi thực thi nghề nghiệp
của mình.
1. Một số quy định chung về thi hành án dân sự
1.1. Những bản án, quyết định được thi hành theo thủ tục thi
hành án dân sự
Theo Điều 1, Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, được
sửa đổi, bổ sung năm 2014 (sau đây gọi chung là Luật Thi hành án dân

662
sự), những bản án, quyết định được thi hành theo thủ tục thi hành án
dân sự gồm: Bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản,
truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí
và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản
trong bản án, quyết định hành chính của Tòa án, quyết định của Tòa án
giải quyết phá sản, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng
xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành
và phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại (gọi chung là bản
án, quyết định).
Những bản án, quyết định của Tòa án được đưa ra thi hành khi
có hiệu lực pháp luật theo quy định của pháp luật tố tụng hoặc chưa có
hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay để bảo đảm quyền, lợi ích
của các bên. Những bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm được
thi hành ngay, mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị bao gồm: Bản
án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi
việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường
thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tổn thất về tinh thần, nhận người lao
động trở lại làm việc; quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Đối với phán quyết của Trọng tài thương mại thì khoản 1
Điều 66 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 quy định hết thời hạn thi
hành phán quyết mà người phải thi hành án không tự nguyện thi hành
và cũng không yêu cầu hủy phán quyết trọng tài thì có quyền yêu cầu
cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền tổ chức thi hành án. Đối với
phán quyết của Trọng tài vụ việc thì khoản 2 Điều 66 Luật Trọng tài
thương mại năm 2010 quy định phán quyết được đưa ra thi hành sau
khi đã được đăng ký tại Tòa án có thẩm quyền.
Đối với Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý
vụ việc cạnh tranh thì điểm đ khoản 1 Điều 2 Luật Thi hành án dân sự
và Điều 106 Luật Cạnh tranh năm 2004 quy định quyết định xử lý vụ
việc cạnh tranh có hiệu lực thi hành sau 30 ngày, kể từ ngày ký nếu
trong thời hạn đó không bị khiếu nại theo quy định tại Điều 107 Luật
Cạnh tranh.

663
1.2. Quyền yêu cầu thi hành án
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 7, điểm a khoản 1 Điều 7a,
Điều 31 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải
thi hành án căn cứ vào bản án, quyết định có quyền yêu cầu cơ quan thi
hành án dân sự tổ chức thi hành án. Khi yêu cầu thi hành án thì đương sự
có thể tự mình hoặc ủy quyền cho người khác bằng hình thức trực tiếp
nộp đơn hoặc trình bày bằng lời nói hoặc gửi đơn qua bưu điện.
1.3. Thời hiệu yêu cầu thi hành án
Theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự thì thời hiệu yêu cầu thi
hành án được xác định như sau:
- Trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu
lực pháp luật, người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền
yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi
hành án.
- Trường hợp thời hạn thực hiện nghĩa vụ được ấn định trong bản
án, quyết định thì thời hạn 05 năm được tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn.
- Đối với bản án, quyết định thi hành theo định kỳ thì thời hạn
05 năm được áp dụng cho từng định kỳ, kể từ ngày nghĩa vụ đến hạn.
- Đối với các trường hợp hoãn, tạm đình chỉ thi hành án thì thời
gian hoãn, tạm đình chỉ không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án,
trừ trường hợp người được thi hành án đồng ý cho người phải thi hành
án hoãn thi hành án.
- Trường hợp người yêu cầu thi hành án chứng minh được do trở
ngại khách quan hoặc do sự kiện bất khả kháng mà không thể yêu cầu
thi hành án đúng thời hạn thì thời gian có trở ngại khách quan hoặc
sự kiện bất khả kháng không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án.
Trong trường hợp này, người yêu cầu thi hành án có quyền đề nghị Thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành án xem xét,
quyết định về việc chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu thi hành
án quá hạn.

664
Theo quy định tại khoản 3 Điều 4 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP
ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật Thi hành án dân sự (Nghị định số 62/2015/NĐ-CP)
thì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thuộc một trong
các trường hợp sau đây:
+ Sự kiện bất khả kháng là trường hợp thiên tai, hỏa hoạn,
địch họa.
+ Trở ngại khách quan là trường hợp đương sự không nhận
được bản án, quyết định mà không phải do lỗi của họ; đương sự đi
công tác ở vùng biên giới, hải đảo mà không thể yêu cầu thi hành án
đúng hạn; tai nạn, ốm nặng đến mức mất khả năng nhận thức hoặc
đương sự chết mà chưa xác định được người thừa kế; tổ chức hợp
nhất, sáp nhập, chia, tách, giải thể, cổ phần hóa mà chưa xác định
được tổ chức, cá nhân mới có quyền yêu cầu thi hành án theo quy
định của pháp luật hoặc do lỗi của cơ quan xét xử, cơ quan thi hành
án hoặc cơ quan, cá nhân khác dẫn đến việc đương sự không thể yêu
cầu thi hành án đúng hạn.
1.4. Nhận bản án, quyết định, tiếp nhận yêu cầu thi hành án
1.4.1. Nhận bản án, quyết định
a) Cơ quan có thẩm quyền chuyển giao bản án, quyết định
Theo quy định tại Điều 485 BLTTDS 2015; khoản 1 Điều 262,
khoản 2 Điều 395, Điều 403 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; khoản 3
Điều 196, khoản 1 Điều 244, Điều 279, Điều 286 Luật Tố tụng hành
chính 2015 và Điều 28 Luật Thi hành án dân sự thì cơ quan có trách
nhiệm chuyển giao bản án, quyết định cho cơ quan thi hành án dân
sự có thẩm quyền là Toà án đã ra bản án, quyết định đó và Trọng tài
thương mại đã ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
b) Thời hạn chuyển giao bản án, quyết định
Theo quy định tại Điều 28 Luật Thi hành án dân sự thì thời hạn
chuyển giao bản án, quyết định được quy định như sau:

665
(i) Đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật:
Tòa án đã ra bản án, quyết định quy định tại các điểm a, b, c, d
và g khoản 1 Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự phải chuyển giao bản
án, quyết định đó cho cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền trong
thời hạn 30 ngày, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.
Bản án, quyết định quy định tại các điểm a, b, c, d và g khoản 1
Điều 2 Luật Thi hành án dân sự là những bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật, bao gồm:
+ Bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Toà án
cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm;
+ Bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm;
+ Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Toà án;
+ Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định
của Trọng tài nước ngoài đã được Toà án Việt Nam công nhận và cho
thi hành tại Việt Nam;
+ Quyết định của Tòa án giải quyết phá sản.
(ii) Đối với những bản án, quyết định tuy chưa có hiệu lực pháp
luật nhưng được thi hành ngay:
Tòa án đã ra bản án, quyết định quy định tại điểm a khoản 2
Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự phải chuyển giao bản án, quyết
định đó cho cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền trong thời hạn
15 ngày, kể từ ngày ra bản án, quyết định.
Bản án, quyết định quy định tại điểm a khoản 2 Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự là những bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương,
trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất
sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất
về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc.
(iii) Đối với quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời:
Tòa án, Trọng tài thương mại đã ra quyết định áp dụng biện pháp

666
khẩn cấp tạm thời phải chuyển giao quyết định đó cho cơ quan thi hành
án dân sự có thẩm quyền ngay sau khi ra quyết định.
c) Thủ tục nhận bản án, quyết định
Theo Điều 29 Luật Thi hành án dân sự, khi nhận bản án, quyết
định do Tòa án, Trọng tài thương mại chuyển giao, cơ quan thi hành án
dân sự phải kiểm tra, vào sổ nhận bản án, quyết định. Việc giao, nhận
trực tiếp bản án, quyết định phải có chữ ký của hai bên; trường hợp
nhận được bản án, quyết định có liên quan bằng đường bưu điện thì
cơ quan thi hành án dân sự phải thông báo bằng văn bản cho Tòa án,
Trọng tài thương mại đã chuyển giao biết.
1.4.2. Tiếp nhận, từ chối yêu cầu thi hành án
a) Tiếp nhận yêu cầu thi hành án
Theo quy định tại khoản 4 Điều 31 Luật Thi hành án dân sự thì
khi tiếp nhận yêu cầu thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự phải kiểm
tra nội dung yêu cầu và các tài liệu kèm theo, vào sổ nhận yêu cầu thi
hành án và thông báo bằng văn bản cho người yêu cầu.
b) Từ chối yêu cầu thi hành án
Theo quy định tại khoản 5 Điều 31 Luật Thi hành án dân
sự, cơ quan thi hành án dân sự từ chối yêu cầu thi hành án và
phải thông báo bằng văn bản cho người yêu cầu trong thời hạn 05
ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu thi hành án trong các
trường hợp sau đây:
- Người yêu cầu không có quyền yêu cầu thi hành án hoặc nội
dung yêu cầu không liên quan đến nội dung của bản án, quyết định;
bản án, quyết định không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các đương
sự theo quy định của Luật Thi hành án dân sự;
- Cơ quan thi hành án dân sự được yêu cầu không có thẩm quyền
thi hành án;
- Hết thời hiệu yêu cầu thi hành án.

667
1.5. Ra quyết định thi hành án
1.5.1. Thẩm quyền thi hành án
Theo quy định tại Điều 35 Luật Thi hành án dân sự thì thẩm
quyền thi hành án được quy định như sau:
(i) Cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện có thẩm quyền thi hành
các bản án, quyết định sau đây:
- Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án cấp huyện nơi cơ quan
thi hành án dân sự có trụ sở;
- Bản án, quyết định phúc thẩm của Tòa án cấp tỉnh đối với bản
án, quyết định sơ thẩm của Tòa án cấp huyện nơi cơ quan thi hành án
dân sự cấp huyện có trụ sở;
- Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của TAND cấp cao đối với
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND quận, huyện,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương nơi cơ quan thi hành án
dân sự có trụ sở;
- Bản án, quyết định do cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện nơi
khác, cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh hoặc cơ quan thi hành án cấp
quân khu ủy thác.
(ii) Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh có thẩm quyền thi hành
các bản án, quyết định sau đây:
- Bản án, quyết định sơ thẩm của TAND tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương trên cùng địa bàn;
- Bản án, quyết định của TAND cấp cao;
- Quyết định của TANDTC chuyển giao cho cơ quan thi hành án
dân sự cấp tỉnh;
- Bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng
tài nước ngoài được Tòa án công nhận và cho thi hành tại Việt Nam;
- Phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại;

668
- Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc
cạnh tranh;
- Bản án, quyết định do cơ quan thi hành án dân sự nơi khác hoặc
cơ quan thi hành án cấp quân khu ủy thác;
- Bản án, quyết định thuộc thẩm quyền thi hành của cơ quan thi
hành án dân sự cấp huyện - mà thấy cần thiết lấy lên để thi hành;
- Bản án, quyết định mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài
hoặc cần phải ủy thác tư pháp về thi hành án.
(iii) Cơ quan thi hành án cấp quân khu có thẩm quyền thi hành
các bản án, quyết định sau đây:
- Quyết định về hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài
sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân
sự trong bản án, quyết định hình sự của Tòa án quân sự quân khu và
tương đương trên địa bàn;
- Quyết định về hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài
sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân
sự trong bản án, quyết định hình sự của Tòa án quân sự khu vực trên
địa bàn;
- Quyết định về hình phạt tiền, tịch thu tài sản, xử lý vật chứng,
tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí và quyết định dân
sự trong bản án, quyết định hình sự của Tòa án quân sự trung ương
chuyển giao cho cơ quan thi hành án cấp quân khu;
- Quyết định dân sự của TANDTC chuyển giao cho cơ quan thi
hành án cấp quân khu;
- Bản án, quyết định do cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, cơ
quan thi hành án dân sự cấp huyện, cơ quan thi hành án cấp quân khu
khác ủy thác.
1.5.2. Ra quyết định thi hành án đối với khoản thuộc diện chủ động
(i) Các khoản thuộc diện chủ động ra quyết định thi hành án:

669
Theo quy định tại khoản 2 Điều 36 Luật Thi hành án dân sự, Thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền chủ động ra quyết
định thi hành án và phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành đối với
phần bản án, quyết định sau:
- Hình phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí, lệ
phí Tòa án;
- Trả lại tiền, tài sản cho đương sự;
- Tịch thu sung quỹ nhà nước, tịch thu tiêu hủy vật chứng, tài sản;
các khoản thu khác cho Nhà nước;
Các khoản thu khác cho nhà nước bao gồm: khoản truy thu thuế;
khoản viện trợ cho nhà nước và các khoản bồi thường cho nhà nước
trong các vụ án xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, tham nhũng thuộc
loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; các khoản thu khác nộp trực tiếp
vào ngân sách nhà nước.
- Thu hồi quyền sử dụng đất và tài sản khác thuộc diện sung quỹ
nhà nước;
- Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
- Quyết định của Tòa án giải quyết phá sản.
(ii) Thời hạn ra quyết định thi hành án:
Đối với quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì phải
ra ngay quyết định thi hành án.
Đối với quyết định của Tòa án giải quyết phá sản thì phải ra
quyết định thi hành án trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày
nhận được quyết định.
Đối với phần bản án, quyết định về hình phạt tiền, truy thu tiền,
tài sản thu lợi bất chính, án phí, lệ phí Tòa án; trả lại tiền, tài sản cho
đương sự; tịch thu sung quỹ nhà nước, tịch thu tiêu hủy vật chứng, tài
sản, các khoản thu khác cho nhà nước; thu hồi quyền sử dụng đất và tài
sản thuộc diện sung quỹ nhà nước thì trong thời hạn 05 ngày làm việc,

670
kể từ ngày nhận được bản án, quyết định Thủ trưởng cơ quan thi hành
án dân sự phải ra quyết định thi hành án.
(iii) Phạm vi ra quyết định thi hành án:
Theo quy định tại Điều 6 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, Thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra một quyết định thi hành án
chung cho các khoản thuộc diện chủ động thi hành trong một bản án,
quyết định, trừ trường hợp trong một bản án, quyết định có khoản
chủ động về trả lại tiền, tài sản thì ra một quyết định thi hành án đối
với mỗi người được thi hành án; trong một bản án, quyết định có
nhiều người phải thi hành nhiều khoản chủ động khác nhau thì ra
một quyết định thi hành án chung cho các khoản thuộc diện chủ động
thi hành án đối với mỗi người phải thi hành án. Trường hợp thi hành
quyền, nghĩa vụ liên đới thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra
một quyết định thi hành án chung cho những người có quyền, nghĩa
vụ liên đới.
1.5.3. Ra quyết định thi hành án theo yêu cầu thi hành án
(i) Các khoản ra quyết định thi hành án theo yêu cầu thi hành án:
Ngoài các trường hợp chủ động ra quyết định thi hành án, Thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự chỉ ra quyết định thi hành án khi có
yêu cầu thi hành án.
(ii) Thời hạn ra quyết định thi hành án:
Thời hạn ra quyết định thi hành án theo yêu cầu là 05 ngày làm
việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu thi hành án.
(iii) Phạm vi ra quyết định thi hành án:
Theo quy định tại Điều 7 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP thì Thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra một quyết định thi hành án cho
mỗi yêu cầu thi hành án. Trường hợp trong bản án, quyết định có một
người phải thi hành án cho nhiều người được thi hành án và các đương
sự yêu cầu thi hành án vào cùng thời điểm thì Thủ trưởng cơ quan thi
hành án dân sự ra một quyết định thi hành án chung cho nhiều yêu cầu.

671
Trường hợp nhiều người được nhận một tài sản cụ thể hoặc nhận
chung một khoản tiền theo bản án, quyết định nhưng chỉ có một hoặc
một số người có yêu cầu thi hành án thì Thủ trưởng cơ quan thi hành
án dân sự ra quyết định thi hành án đối với những người đã có yêu cầu,
đồng thời thông báo cho những người được thi hành án khác theo bản
án, quyết định đó biết để yêu cầu thi hành án trong thời hạn 30 ngày,
kể từ ngày được thông báo hợp lệ.
Trường hợp thi hành quyền và nghĩa vụ liên đới thì Thủ trưởng
cơ quan thi hành án dân sự ra một quyết định thi hành án chung cho
những người có quyền và nghĩa vụ liên đới.
1.6. Thông báo về thi hành án
1.6.1. Các văn bản cần thông báo và người được thông báo
Theo quy định tại khoản 1 Điều 39 Luật Thi hành án dân sự thì
các quyết định về thi hành án, giấy báo, giấy triệu tập và các văn bản
khác có liên quan đến việc thi hành án phải thông báo cho đương sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để họ thực hiện quyền, nghĩa
vụ theo nội dung của văn bản đó.
1.6.2. Thời hạn thông báo về thi hành án
Theo quy định tại khoản 2 Điều 39 Luật Thi hành án dân sự thì
việc thông báo phải thực hiện trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ
ngày ra văn bản, trừ trường hợp cần ngăn chặn đương sự tẩu tán, hủy
hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án.
1.6.3. Thủ tục thông báo về thi hành án
a) Thông báo trực tiếp
(i) Thông báo trực tiếp cho cá nhân:
Theo quy định tại Điều 40 Luật Thi hành án dân sự thì:
Văn bản thông báo cho cá nhân phải được giao trực tiếp và yêu
cầu người đó ký nhận hoặc điểm chỉ.
Trường hợp người được thông báo vắng mặt thì văn bản thông

672
báo được giao cho một trong số những người thân thích có đủ năng
lực hành vi dân sự cùng cư trú với người đó, bao gồm vợ, chồng, con,
ông, bà, cha, mẹ, bác, chú, cô, cậu, dì, anh, chị, em của đương sự, của
vợ hoặc chồng của đương sự.
Việc giao thông báo phải lập thành biên bản. Ngày lập biên bản
là ngày được thông báo hợp lệ.
Trường hợp người được thông báo không có người thân thích
có đủ năng lực hành vi dân sự cùng cư trú hoặc có nhưng người đó
từ chối nhận văn bản thông báo hoặc người được thông báo vắng mặt
mà không rõ thời điểm trở về thì người thực hiện thông báo phải lập
biên bản về việc không thực hiện được thông báo, có chữ ký của người
chứng kiến và thực hiện việc niêm yết công khai theo quy định tại
Điều 42 của Luật Thi hành án dân sự.
Ngoài ra, theo quy định tại khoản 4 Điều 12 Nghị định
số 62/2015/NĐ-CP thì trường hợp người được thông báo từ chối không
nhận thông báo thì phải lập biên bản có chữ ký của người chứng kiến
và việc thông báo được coi là hợp lệ.
(ii) Thông báo trực tiếp cho cơ quan, tổ chức
Theo quy định tại Điều 41 Luật Thi hành án dân sự, trường hợp
người được thông báo là cơ quan, tổ chức thì văn bản thông báo phải
được giao trực tiếp cho người đại diện theo pháp luật hoặc người chịu
trách nhiệm nhận văn bản của cơ quan, tổ chức đó và phải được những
người này ký nhận. Trường hợp cơ quan, tổ chức được thông báo có
người đại diện tham gia việc thi hành án hoặc cử người đại diện nhận
văn bản thông báo thì những người này ký nhận văn bản thông báo.
Ngày ký nhận là ngày được thông báo hợp lệ.
b) Niêm yết công khai
Theo quy định tại Điều 42 Luật Thi hành án dân sự, việc niêm yết
công khai văn bản thông báo chỉ được thực hiện khi không rõ địa chỉ
của người được thông báo hoặc không thể thực hiện được việc thông
báo trực tiếp, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

673
Cơ quan thi hành án dân sự trực tiếp hoặc ủy quyền cho Ủy ban
nhân dân cấp xã nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của người được
thông báo hoặc cá nhân, tổ chức có đủ điều kiện theo quy định của
pháp luật thực hiện việc niêm yết.
- Việc niêm yết được thực hiện theo thủ tục sau đây:
+ Niêm yết văn bản thông báo tại trụ sở cơ quan thi hành án dân
sự, trụ sở Uỷ ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng
của người được thông báo;
+ Lập biên bản về việc niêm yết công khai, trong đó ghi rõ ngày,
tháng, năm niêm yết; số, ngày, tháng, năm, tên của văn bản thông báo;
có chữ ký của người chứng kiến.
- Thời gian niêm yết công khai văn bản thông báo là 10 ngày, kể
từ ngày niêm yết. Ngày niêm yết là ngày được thông báo hợp lệ.
c) Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng.
Theo quy định tại Điều 43 Luật Thi hành án dân sự, thông báo
trên phương tiện thông tin đại chúng chỉ được thực hiện khi pháp luật
có quy định hoặc khi đương sự có yêu cầu.
Thủ tục thực hiện thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng
được quy định như sau:
+ Trường hợp xác định đương sự đang có mặt tại địa phương nơi
đương sự cư trú thì việc thông báo được thực hiện trên báo ngày trong
hai số liên tiếp hoặc trên đài phát thanh, đài truyền hình của tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương của địa phương đó hai lần trong 02 ngày
liên tiếp.
+ Trường hợp xác định đương sự không có mặt tại địa phương
nơi đương sự cư trú thì việc thông báo được thực hiện trên báo ngày
trong hai số liên tiếp hoặc trên đài phát thanh, đài truyền hình của
trung ương hai lần trong 02 ngày liên tiếp.
Ngày thực hiện việc thông báo lần hai trên phương tiện thông tin
đại chúng là ngày được thông báo hợp lệ.

674
1.7. Xác minh điều kiện thi hành án
Theo quy định tại Điều 44 Luật Thi hành án dân sự thì trong
thời hạn 10 ngày, kể từ ngày hết thời hạn tự nguyện thi hành án mà
người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì Chấp hành viên
tiến hành xác minh; trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời thì phải tiến hành xác minh ngay.
Trường hợp người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án
thì ít nhất 06 tháng một lần, Chấp hành viên phải xác minh điều kiện
thi hành án; trường hợp người phải thi hành án chưa có điều kiện thi
hành án là người đang chấp hành hình phạt tù mà thời gian chấp hành
hình phạt tù còn lại từ 02 năm trở lên hoặc không xác định được địa
chỉ, nơi cư trú mới của người phải thi hành án thì thời hạn xác minh ít
nhất 01 năm một lần. Sau hai lần xác minh mà người phải thi hành án
vẫn chưa có điều kiện thi hành án thì cơ quan thi hành án dân sự phải
thông báo bằng văn bản cho người được thi hành án về kết quả xác
minh. Việc xác minh lại được tiến hành khi có thông tin mới về điều
kiện thi hành án của người phải thi hành án.
Khi xác minh điều kiện thi hành án, Chấp hành viên có trách
nhiệm sau đây:
- Xuất trình thẻ Chấp hành viên;
- Yêu cầu người phải thi hành án kê khai trung thực, cung cấp
đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án. Trường hợp
người phải thi hành án không kê khai hoặc kê khai không trung thực
thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án thì Chấp hành viên
có quyền xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 9 Nghị
định số 67/2015/NĐ-CP;
- Xác minh cụ thể tài sản, thu nhập, các điều kiện khác để thi
hành án; đối với tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, sử dụng hoặc đăng
ký giao dịch bảo đảm thì còn phải xác minh tại cơ quan có chức năng
đăng ký tài sản, giao dịch đó;

675
- Trường hợp xác minh bằng văn bản thì văn bản yêu cầu xác
minh phải nêu rõ nội dung xác minh và các thông tin cần thiết khác;
- Trường hợp người phải thi hành án là cơ quan, tổ chức thì Chấp
hành viên trực tiếp xem xét tài sản, sổ sách quản lý vốn, tài sản; xác
minh tại cơ quan, tổ chức khác có liên quan đang quản lý, bảo quản,
lưu giữ thông tin về tài sản, tài khoản của người phải thi hành án;
- Yêu cầu cơ quan chuyên môn hoặc mời, thuê chuyên gia để làm
rõ các nội dung cần xác minh trong trường hợp cần thiết;
- Lập biên bản thể hiện đầy đủ kết quả xác minh có xác nhận của
Ủy ban nhân dân hoặc công an cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân
nơi tiến hành xác minh.
1.8. Ghi nhận sự thoả thuận của đương sự
Theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 7a Luật Thi hành án dân
sự, Điều 5 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP thì đối với trường hợp cơ
quan thi hành án dân sự đã ra quyết định thi hành án đương sự vẫn
có quyền tự thỏa thuận về thời gian, địa điểm, phương thức, nội dung
thi hành án. Khi đương sự có yêu cầu, Chấp hành viên có trách nhiệm
chứng kiến và ký tên vào văn bản thoả thuận. Trường hợp thỏa thuận
vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội, không đúng với
thực tế, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ
ba hoặc nhằm trốn tránh phí thi hành án thì Chấp hành viên có quyền
từ chối nhưng phải lập biên bản và nêu rõ lý do.
1.9. Áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án và cưỡng chế thi
hành án
1.9.1. Áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án
Theo quy định tại Điều 66 Luật Thi hành án dân sự, Chấp hành
viên có quyền tự mình hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của đương sự
áp dụng ngay biện pháp bảo đảm thi hành án nhằm ngăn chặn việc
tẩu tán, huỷ hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án. Khi áp dụng biện
pháp bảo đảm thi hành án, Chấp hành viên không phải thông báo trước

676
cho đương sự. Các biện pháp bảo đảm thi hành án gồm: Phong tỏa tài
khoản, tài sản ở nơi gửi giữ; tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự; tạm
dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng
tài sản.
a) Phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ
Theo quy định tại Điều 67 Luật Thi hành án dân sự, việc phong
toả tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ được thực hiện trong trường hợp
người phải thi hành án có tài khoản, tài sản gửi giữ. Khi áp dụng biện
pháp này, Chấp hành viên phải ra quyết định phong tỏa tài khoản, tài
sản ở nơi gửi giữ. Quyết định này phải xác định rõ số tiền, tài sản bị
phong tỏa. Chấp hành viên phải giao quyết định phong toả cho cơ
quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý tài khoản, tài sản của người phải
thi hành án.
Trường hợp cần phong tỏa ngay tài khoản, tài sản của người phải
thi hành án ở nơi gửi giữ mà chưa ban hành quyết định phong tỏa thì
Chấp hành viên lập biên bản yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang
quản lý tài khoản, tài sản của người phải thi hành án phong tỏa tài
khoản, tài sản đó. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi lập biên bản, Chấp
hành viên phải ra quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý tài khoản, tài sản phải
thực hiện ngay yêu cầu của Chấp hành viên về phong toả tài khoản, tài
sản. Biên bản, quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản trong trường hợp
này phải được gửi ngay cho VKSND cùng cấp.
Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày ra quyết định phong toả tài
khoản, tài sản ở nơi gửi giữ, Chấp hành viên phải áp dụng biện pháp
cưỡng chế hoặc ra quyết định chấm dứt việc phong tỏa theo quy định
của Luật Thi hành án dân sự.
c) Tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự
Theo quy định tại Điều 68 Luật Thi hành án dân sự, Chấp hành
viên đang thực hiện nhiệm vụ thi hành án có quyền tạm giữ tài sản,

677
giấy tờ liên quan đến việc thi hành án mà đương sự, tổ chức, cá nhân
khác đang quản lý, sử dụng. Khi áp dụng biện pháp này, Chấp hành
viên phải ra quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ. Quyết định này phải
xác định rõ loại tài sản, giấy tờ bị tạm giữ. Chấp hành viên phải giao
quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ cho đương sự hoặc tổ chức, cá nhân
đang quản lý, sử dụng.
Trường hợp cần tạm giữ ngay tài sản, giấy tờ mà chưa ban hành
quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ thì Chấp hành viên yêu cầu giao tài
sản, giấy tờ và lập biên bản về việc tạm giữ. Trong thời hạn 24 giờ, kể
từ khi lập biên bản, Chấp hành viên phải ban hành quyết định tạm giữ
tài sản, giấy tờ. Biên bản, quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ phải được
gửi ngay cho VKSND cùng cấp.
Khi tạm giữ tài sản, giấy tờ phải lập biên bản có chữ ký của Chấp
hành viên và người đang quản lý, sử dụng tài sản, giấy tờ; trường hợp
người đang quản lý, sử dụng tài sản, giấy tờ không ký thì phải có chữ
ký của người làm chứng. Biên bản tạm giữ tài sản, giấy tờ phải được
giao cho người quản lý, sử dụng tài sản, giấy tờ.
Chấp hành viên yêu cầu đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có
liên quan cung cấp các giấy tờ, tài liệu cần thiết để chứng minh quyền
sở hữu, sử dụng; thông báo cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có
liên quan về quyền khởi kiện yêu cầu xác định quyền sở hữu, sử dụng
đối với tài sản, giấy tờ tạm giữ.
Trường hợp cần thiết, Chấp hành viên phải xác minh, làm rõ
hoặc yêu cầu Tòa án, cơ quan có thẩm quyền xác định người có quyền
sở hữu, sử dụng đối với tài sản, giấy tờ tạm giữ.
Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày có căn cứ xác định tài sản,
giấy tờ tạm giữ thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi hành
án, Chấp hành viên phải ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế
theo quy định tại Chương IV của Luật Thi hành án dân sự; trường hợp
có căn cứ xác định tài sản, giấy tờ tạm giữ không thuộc quyền sở hữu,
sử dụng của người phải thi hành án hoặc thuộc quyền sở hữu, sử dụng

678
của người phải thi hành án nhưng đã thực hiện xong nghĩa vụ của mình
thì Chấp hành viên phải ra quyết định trả lại tài sản, giấy tờ cho người
có quyền sở hữu, sử dụng.
c) Tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay
đổi hiện trạng tài sản
Theo quy định tại Điều 69 Luật Thi hành án dân sự, trường hợp
cần ngăn chặn hoặc phát hiện đương sự có hành vi chuyển quyền sở
hữu, sử dụng, tẩu tán, hủy hoại, thay đổi hiện trạng tài sản, trốn tránh
việc thi hành án, Chấp hành viên ra quyết định tạm dừng việc đăng
ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản của
người phải thi hành án, tài sản chung của người phải thi hành án với
người khác.
Quyết định tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử
dụng, thay đổi hiện trạng tài sản phải được gửi ngay cho cơ quan, tổ
chức, cá nhân có liên quan để tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền
sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản đó.
Chấp hành viên yêu cầu đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có
liên quan cung cấp các giấy tờ, tài liệu cần thiết để chứng minh quyền
sở hữu, sử dụng; thông báo cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có
liên quan về quyền khởi kiện yêu cầu xác định quyền sở hữu, sử dụng
đối với tài sản.
Trường hợp cần thiết, Chấp hành viên phải xác minh, làm rõ
hoặc yêu cầu Tòa án, cơ quan có thẩm quyền xác định quyền sở
hữu, sử dụng tài sản để thi hành án, giải quyết tranh chấp tài sản;
yêu cầu hủy giấy tờ, giao dịch liên quan đến tài sản theo quy định
của pháp luật.
Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày có căn cứ xác định tài sản
thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án, Chấp hành
viên phải ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế theo quy định
tại Chương IV của Luật Thi hành án dân sự; trường hợp có căn cứ xác
định tài sản không thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi

679
hành án thì Chấp hành viên phải ra quyết định chấm dứt việc tạm dừng
đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản.
1.9.2. Áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án
(i) Các biện pháp cưỡng chế thi hành án:
Theo quy định tại Điều 71 Luật Thi hành án dân sự thì trong quá
trình thi hành án Chấp hành viên được quyền áp dụng 06 biện pháp
cưỡng chế sau:
- Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá
của người phải thi hành án.
- Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án.
- Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản
đang do người thứ ba giữ.
- Khai thác tài sản của người phải thi hành án.
- Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ.
- Buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không được thực
hiện công việc nhất định.
(ii) Thời điểm áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án
Theo quy định tại Điều 45, Điều 46 Luật Thi hành án dân sự thì
thời hạn tự nguyện thi hành án là 10 ngày, kể từ ngày người phải thi
hành án nhận được quyết định thi hành án hoặc được thông báo hợp lệ
quyết định thi hành án. Hết thời hạn tự nguyện thi hành án, người phải
thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án
thì bị cưỡng chế thi hành án. Trường hợp cần ngăn chặn người phải thi
hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc hành vi khác nhằm
trốn tránh việc thi hành án thì Chấp hành viên được quyền áp dụng
ngay biện pháp cưỡng chế thi hành án mặc dù chưa hết thời hạn tự
nguyện thi hành án.
(iii) Trình tự, thủ tục cưỡng chế thi hành án:
- Ra quyết định cưỡng chế thi hành án:

680
Theo Điều 70 Luật Thi hành án dân sự thì trước khi cưỡng chế
thi hành án Chấp hành viên phải ra quyết định cưỡng chế thi hành án,
trừ trường hợp bản án, quyết định đã tuyên kê biên, phong tỏa tài sản,
tài khoản và trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời của Tòa án.
- Xác minh và xây dựng kế hoạch cưỡng chế:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 72 Luật Thi hành dân sự thì trước
khi cưỡng chế thi hành án, Chấp hành viên phải lập kế hoạch cưỡng
chế thi hành án trong trường hợp cần huy động lực lượng. Kế hoạch
cưỡng chế phải được gửi ngay cho VKSND, cơ quan Công an cùng
cấp, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi tổ chức cưỡng chế và cơ quan, tổ
chức, cá nhân có liên quan đến việc cưỡng chế thi hành án. Cơ quan,
tổ chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm thực hiện theo kế hoạch,
yêu cầu của Chấp hành viên.
Ngoài ra, trước khi cưỡng chế thi hành án, Chấp hành viên dự trù
chi phí cưỡng chế và thông báo cho người phải thi hành án biết ít nhất
03 ngày làm việc trước ngày cưỡng chế đã được ấn định, trừ trường
hợp cần thiết phải cưỡng chế ngay. Chi phí cưỡng chế thi hành án được
tạm ứng từ ngân sách nhà nước.
- Thực hiện cưỡng chế thi hành án:
Chấp hành viên thực hiện việc cưỡng chế thi hành án theo quy
định tại mục 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10 Chương IV Luật Thi hành án dân sự.
1.10. Ủy thác thi hành án, hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ thi
hành án và xác định việc chưa có điều kiện thi hành án
1.10.1. Ủy thác thi hành án
Theo quy định tại Điều 55, Điều 57 Luật Thi hành án dân sự,
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải uỷ thác thi hành án cho
cơ quan thi hành án dân sự nơi người phải thi hành án có tài sản, làm
việc, cư trú hoặc có trụ sở. Trường hợp người phải thi hành án có tài
sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở ở nhiều địa phương thì Thủ trưởng

681
cơ quan thi hành án dân sự uỷ thác thi hành án từng phần cho cơ quan
thi hành án dân sự nơi người phải thi hành án có điều kiện thi hành án
để thi hành phần nghĩa vụ của họ. Trường hợp ủy thác thi hành nghĩa
vụ liên quan đến tài sản thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ủy
thác đến cơ quan thi hành án dân sự nơi người phải thi hành án có tài
sản; nếu không xác định được nơi có tài sản hoặc nơi có tài sản trùng
với nơi làm việc, cư trú, có trụ sở của người phải thi hành án thì ủy
thác đến nơi làm việc, cư trú hoặc nơi có trụ sở của người đó. Trường
hợp thi hành nghĩa vụ liên đới mà người phải thi hành án cư trú hoặc
có tài sản ở các địa phương khác nhau thì Thủ trưởng cơ quan thi hành
án dân sự uỷ thác toàn bộ nghĩa vụ thi hành án đến cơ quan thi hành án
dân sự thuộc một trong các địa phương nơi người phải thi hành án có
điều kiện thi hành án.
Trước khi ủy thác, cơ quan thi hành án dân sự phải xử lý xong tài
sản tạm giữ, thu giữ, tài sản kê biên tại địa bàn có liên quan đến khoản
uỷ thác.
Về thời hạn ủy thác phải thực hiện trong 05 ngày làm việc, kể
từ ngày xác định có căn cứ ủy thác. Trường hợp cần thiết phải ủy
thác việc thi hành quyết định của Tòa án về áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời thì việc uỷ thác phải thực hiện ngay sau khi có căn cứ
uỷ thác.
Cơ quan thi hành án dân sự nhận ủy thác không được trả lại
quyết định ủy thác cho cơ quan thi hành án dân sự đã ủy thác mà
phải tiếp tục thực hiện việc thi hành án theo quy định của Luật Thi
hành án dân sự, trừ trường hợp quyết định ủy thác có sự nhầm lẫn,
sai sót rõ ràng về thẩm quyền của cơ quan nhận ủy thác thi hành án,
nội dung thi hành án.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết
định ủy thác, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi
hành án và thông báo bằng văn bản cho cơ quan thi hành án dân sự đã
ủy thác về việc nhận được quyết định ủy thác.

682
1.10.2. Hoãn thi hành án
(i) Các trường hợp ra quyết định hoãn thi hành án:
Theo quy định tại Điều 48 Luật Thi hành án dân sự, Thủ trưởng
cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định hoãn thi hành án trong các
trường hợp sau đây:
- Người phải thi hành án bị ốm nặng, có xác nhận của cơ sở y tế
từ cấp huyện trở lên; bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
theo quyết định của Tòa án.
- Chưa xác định được địa chỉ của người phải thi hành án hoặc vì
lý do chính đáng khác mà người phải thi hành án không thể tự mình
thực hiện nghĩa vụ theo bản án, quyết định.
- Đương sự đồng ý hoãn thi hành án; việc đồng ý hoãn thi hành
án phải lập thành văn bản ghi rõ thời hạn hoãn, có chữ ký của đương
sự; trong thời gian hoãn thi hành án thì người phải thi hành án không
phải chịu lãi suất chậm thi hành án, trừ trường hợp đương sự có thỏa
thuận khác.
- Tài sản để thi hành án đã được Tòa án thụ lý để giải quyết theo
quy định tại Điều 74 và Điều 75 của Luật Thi hành án dân sự; tài sản
được kê biên theo Điều 90 của Luật Thi hành án dân sự nhưng sau khi
giảm giá theo quy định mà giá trị bằng hoặc thấp hơn chi phí và nghĩa
vụ được bảo đảm.
- Việc thi hành án đang trong thời hạn cơ quan có thẩm quyền
giải thích bản án, quyết định và trả lời kiến nghị của cơ quan thi hành
án dân sự theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 170 và khoản 2
Điều 179 của Luật Thi hành án dân sự.
- Người được nhận tài sản, người được giao nuôi dưỡng đã được
thông báo hợp lệ 02 lần về việc nhận tài sản, nhận người được nuôi
dưỡng nhưng không đến nhận.
- Việc chuyển giao quyền và nghĩa vụ thi hành án theo quy định

683
tại Điều 54 của Luật Thi hành án dân sự chưa thực hiện được vì sự kiện
bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan.
- Tài sản kê biên không bán được mà người được thi hành án
không nhận để thi hành án theo quy định tại khoản 3 Điều 104 của
Luật Thi hành án dân sự.
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định hoãn thi
hành án khi nhận được yêu cầu hoãn thi hành án của người có thẩm
quyền kháng nghị ít nhất 24 giờ trước thời điểm cưỡng chế thi hành
án đã được ấn định trong quyết định cưỡng chế. Trường hợp cơ quan
thi hành án nhận được yêu cầu hoãn thi hành án của người có thẩm
quyền kháng nghị ít hơn 24 giờ trước thời điểm cưỡng chế đã được ấn
định trong quyết định cưỡng chế thi hành án thì Thủ trưởng cơ quan thi
hành án dân sự có quyền quyết định hoãn thi hành án khi xét thấy cần
thiết. Trường hợp vụ việc đã được thi hành một phần hoặc đã được thi
hành xong thì cơ quan thi hành án dân sự phải có văn bản thông báo
ngay cho người yêu cầu hoãn thi hành án.
(ii) Thời hạn ra quyết định hoãn thi hành án:
Thời hạn ra quyết định hoãn thi hành án là 05 ngày làm việc, kể
từ ngày có căn cứ hoãn thi hành án.
Trường hợp nhận được yêu cầu hoãn thi hành án của người có
thẩm quyền kháng nghị thì phải ra ngay quyết định hoãn thi hành án
khi nhận được yêu cầu của người có thẩm quyền.
(iii) Ra quyết định tiếp tục thi hành án:
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ khi căn cứ hoãn thi hành
án không còn, hết thời hạn hoãn thi hành án theo yêu cầu của người có
thẩm quyền kháng nghị hoặc khi nhận được văn bản trả lời của người
có thẩm quyền kháng nghị về việc không có căn cứ kháng nghị thì Thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định tiếp tục thi hành án.
1.10.3. Tạm đình chỉ thi hành án
Theo Điều 49 Luật Thi hành án dân sự, Thủ trưởng cơ quan thi

684
hành án dân sự thông báo về việc tạm đình chỉ thi hành án khi nhận
được quyết định tạm đình chỉ thi hành án của người có thẩm quyền
kháng nghị bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
hoặc ra quyết định tạm đình chỉ thi hành án trong thời hạn 05 ngày làm
việc, kể từ ngày nhận được thông báo của Toà án về việc đã thụ lý đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với người phải thi hành án.
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định tiếp tục thi
hành án trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được một
trong các quyết định sau đây: quyết định rút kháng nghị của người
có thẩm quyền; quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án giữ
nguyên bản án, quyết định bị kháng nghị; quyết định của Toà án về
việc đình chỉ tiến hành thủ tục phá sản, đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng
phá sản.
1.10.4. Đình chỉ thi hành án
(i) Các trường hợp ra quyết định đình chỉ thi hành án:
Theo Điều 50 Luật Thi hành án dân sự thì Thủ trưởng cơ quan
thi hành án dân sự phải ra quyết định đình chỉ thi hành án khi có các
căn cứ sau đây:
- Người phải thi hành án chết không để lại di sản hoặc theo quy
định của pháp luật nghĩa vụ của người đó theo bản án, quyết định
không được chuyển giao cho người thừa kế.
- Người được thi hành án chết mà theo quy định của pháp luật
quyền và lợi ích của người đó theo bản án, quyết định không được
chuyển giao cho người thừa kế hoặc không có người thừa kế.
- Đương sự có thỏa thuận bằng văn bản hoặc người được thi hành
án có văn bản yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự đình chỉ thi hành một
phần hoặc toàn bộ quyền, lợi ích được hưởng theo bản án, quyết định,
trừ trường hợp việc đình chỉ thi hành án ảnh hưởng đến quyền, lợi ích
hợp pháp của người thứ ba.

685
- Bản án, quyết định bị hủy một phần hoặc toàn bộ, trừ trường
hợp quy định tại khoản 2 Điều 103 của Luật Thi hành án dân sự.
- Người phải thi hành án là tổ chức đã bị giải thể, không còn
tài sản mà theo quy định của pháp luật, nghĩa vụ của họ không được
chuyển giao cho tổ chức khác.
- Có quyết định miễn nghĩa vụ thi hành án.
- Tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản đối với người phải thi
hành án.
- Người chưa thành niên được giao nuôi dưỡng theo bản án, quyết
định đã chết hoặc đã thành niên.
(ii) Thời hạn ra quyết định đình chỉ thi hành án:
Thời hạn ra quyết định đình chỉ thi hành án là 05 ngày làm việc,
kể từ ngày có căn cứ đình chỉ thi hành án.
1.10.5. Xác định việc chưa có điều kiện thi hành án
(i) Các trường hợp ra quyết định xác định việc chưa có điều kiện
thi hành án:
Theo quy định tại Điều 44a Luật Thi hành án dân sự, căn cứ kết
quả xác minh điều kiện thi hành án, Thủ trưởng cơ quan thi hành án
dân sự ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án khi thuộc
một trong các trường hợp sau đây:
- Người phải thi hành án không có thu nhập hoặc có thu nhập chỉ
bảo đảm cuộc sống tối thiểu cho người phải thi hành án, người mà họ
có trách nhiệm nuôi dưỡng và không có tài sản để thi hành án hoặc có
tài sản nhưng giá trị tài sản chỉ đủ để thanh toán chi phí cưỡng chế thi
hành án hoặc tài sản theo quy định của pháp luật không được kê biên,
xử lý để thi hành án;
- Người phải thi hành án phải thi hành nghĩa vụ về trả vật đặc
định nhưng vật phải trả không còn hoặc hư hỏng đến mức không thể

686
sử dụng được; phải trả giấy tờ nhưng giấy tờ không thể thu hồi và cũng
không thể cấp lại được mà đương sự không có thỏa thuận khác;
- Chưa xác định được địa chỉ, nơi cư trú của người phải thi hành
án, người chưa thành niên được giao cho người khác nuôi dưỡng.
(ii) Thời hạn ra quyết định xác định việc chưa có điều kiện thi
hành án:
Theo khoản 4 Điều 9 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP thì trong thời
hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày có căn cứ xác định việc chưa có điều
kiện thi hành án thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết
định về việc chưa có điều kiện thi hành án.
1.11. Thanh toán tiền, trả tài sản thi hành án
1.11.1. Thứ tự thanh toán tiền thi hành án
Theo quy định tại Điều 47 Luật Thi hành án dân sự thì việc thanh
toán tiền thi hành án được thực hiện như sau:
(i) Số tiền thi hành án, sau khi trừ các chi phí thi hành án và
khoản tiền quy định tại khoản 5 Điều 115 của Luật Thi hành án dân sự
thì được thanh toán theo thứ tự sau đây:
Thứ nhất, tiền cấp dưỡng; tiền lương, tiền công lao động, trợ
cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động; tiền bồi
thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tổn thất về tinh thần;
Thứ hai, án phí, lệ phí Toà án;
Thứ ba, các khoản phải thi hành án khác theo bản án, quyết định.
(ii) Trường hợp có nhiều người được thi hành án thì việc thanh
toán tiền thi hành án được thực hiện như sau:
- Việc thanh toán được thực hiện theo thứ tự trên; trường hợp
trong cùng một hàng ưu tiên có nhiều người được thi hành án thì việc
thanh toán được thực hiện theo tỷ lệ số tiền mà họ được thi hành án;
- Số tiền thi hành án thu theo quyết định cưỡng chế thi hành án
được thanh toán cho những người được thi hành án tính đến thời điểm

687
có quyết định cưỡng chế đó; số tiền còn lại được thanh toán cho những
người được thi hành án theo các quyết định thi hành án khác tính đến
thời điểm thanh toán;
- Sau khi thanh toán theo quy định trên, số tiền còn lại được trả
cho người phải thi hành án.
(iii) Trường hợp xử lý tài sản cầm cố, thế chấp mà bên nhận cầm
cố, thế chấp là bên được thi hành án hoặc trường hợp bán tài sản mà
bản án, quyết định tuyên kê biên để bảo đảm thi hành một nghĩa vụ
cụ thể thì số tiền thu được từ việc bán tài sản cầm cố, thế chấp, bị kê
biên được ưu tiên thanh toán cho bên nhận cầm cố, thế chấp hoặc bên
có nghĩa vụ được bảo đảm sau khi trừ án phí của bản án, quyết định
đó, chi phí cưỡng chế và khoản tiền quy định tại khoản 5 Điều 115 của
Luật Thi hành án dân sự.
Trường hợp xử lý tài sản cầm cố, thế chấp mà bên nhận cầm cố,
thế chấp không phải là người được thi hành án thì người nhận cầm cố,
thế chấp được ưu tiên thanh toán trước khi thanh toán các khoản theo
quy định tại Điều 47 Luật Thi hành án dân sự.
(iv) Thứ tự thanh toán tiền thi hành án về phá sản thực hiện theo
quy định của pháp luật về phá sản. Cụ thể, theo quy định tại Điều 54
Luật Phá sản năm 2014 thì thanh toán tiền thi hành án về phá sản theo
thứ tự sau:
- Chi phí phá sản;
- Khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế đối với người lao động, quyền lợi khác theo hợp đồng lao động và
thỏa ước lao động tập thể đã ký kết;
- Khoản nợ phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản nhằm mục đích
phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã;
- Nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước, khoản nợ không có bảo đảm
phải trả cho chủ nợ trong danh sách chủ nợ, khoản nợ có bảo đảm chưa
được thanh toán do giá trị tài sản bảo đảm không đủ thanh toán nợ.

688
1.11.2. Thời hạn thanh toán tiền, tài sản thi hành án
Theo quy định tại khoản 5 Điều 47 Luật Thi hành án dân sự,
khoản 4 Điều 27 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP thì:
Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày thu được tiền, tài sản thi hành
án, Chấp hành viên phải thực hiện việc thanh toán tiền, trả tài sản thi
hành án.
Đối với trường hợp bán đấu giá tài sản kê biên thì cơ quan thi
hành án dân sự thực hiện việc thanh toán tiền thi hành án trong thời
hạn 10 ngày, kể từ ngày giao tài sản cho người mua được tài sản bán
đấu giá.
1.12. Thu phí thi hành án
Việc thu phí thi hành án được quy định tại Điều 60 Luật Thi hành
án dân sự và Thông tư số 216/2016/TT-BTC ngày 10/11/2016 của Bộ
Tài chính về việc quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử
dụng phí thi hành án dân sự (Thông tư số 216/2016/TT-BTC) như sau:
1.12.1. Mức thu phí thi hành án
Người được thi hành án phải nộp phí thi hành án khi được nhận
tiền, tài sản với mức phí sau đây:
- Số tiền, giá trị tài sản thực nhận từ trên hai lần mức lương cơ
sở đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang do Nhà
nước quy định đến 5.000.000.000 đồng thì mức phí thi hành án là 3%
số tiền, giá trị tài sản thực nhận.
- Số tiền, giá trị tài sản thực nhận từ trên 5.000.000.000 đồng đến
7.000.000.000 đồng thì mức phí thi hành án là 150.000.000 đồng cộng
với 2% của số tiền, giá trị tài sản thực nhận vượt quá 5.000.000.000 đồng.
- Số tiền, giá trị tài sản thực nhận từ trên 7.000.000.000 đồng đến
10.000.000.000 đồng thì mức phí thi hành án là 190.000.000 đồng cộng
với 1% của số tiền, giá trị tài sản thực nhận vượt quá 7.000.000.000 đồng.

689
- Số tiền, giá trị tài sản thực nhận từ trên 10.000.000.000 đồng
đến 15.000.000.000 đồng thì mức phí thi hành án là 220.000.000
đồng cộng với 0,5% của số tiền, giá trị tài sản thực nhận vượt quá
10.000.000.000 đồng;
- Số tiền, giá trị tài sản thực nhận từ trên 15.000.000.000 đồng thì
mức phí thi hành án là 245.000.000 đồng cộng với 0,01% của số tiền,
giá trị tài sản thực nhận vượt quá 15.000.000.000 đồng.
1.12.2. Các trường hợp không phải chịu phí thi hành án
Người được thi hành án không phải chịu phí thi hành án khi được
nhận các khoản tiền, tài sản thuộc các trường hợp sau đây:
- Tiền cấp dưỡng; tiền bồi thường thiệt hại tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm; tiền lương, tiền công lao động; tiền trợ cấp mất
việc làm, trợ cấp thôi việc; tiền bảo hiểm xã hội; tiền bồi thường thiệt
hại vì bị sa thải, chấm dứt hợp đồng lao động.
- Khoản kinh phí thực hiện chương trình chính sách xã hội của
Nhà nước xóa đói, giảm nghèo, hỗ trợ vùng sâu, vùng xa, vùng khó
khăn, đặc biệt khó khăn, các khoản kinh phí trực tiếp phục vụ việc
chăm sóc sức khỏe, giáo dục của nhân dân không vì mục đích kinh
doanh mà người được thi hành án được nhận.
- Hiện vật được nhận chỉ có ý nghĩa tinh thần, gắn với nhân thân
người nhận, không có khả năng trao đổi.
- Tiền hoặc giá trị tài sản theo yêu cầu thi hành án không vượt
quá hai lần mức lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức và
lực lượng vũ trang do Nhà nước quy định.
- Khoản thu hồi nợ vay cho Ngân hàng Chính sách xã hội trong
trường hợp Ngân hàng cho vay đối với người nghèo và các đối tượng
chính sách khác.
- Bản án, quyết định của Tòa án xác định không có giá ngạch và
không thu án phí có giá ngạch khi xét xử.

690
- Tiền, tài sản được trả lại cho đương sự trong trường hợp chủ
động thi hành án quy định tại điểm b khoản 2 Điều 36 Luật Thi hành
án dân sự.
- Tiền, tài sản mà đương sự tự nguyện thi hành trong thời hạn tự
nguyện thi hành án theo quy định tại Điều 45 Luật Thi hành án dân sự.
1.12.3. Các trường hợp miễn, giảm phí thi hành án
- Người được thi hành án được miễn phí thi hành án đối với các
trường hợp sau:
+ Được hưởng chế độ ưu đãi người có công với cách mạng.
+ Thuộc diện neo đơn được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người
đó cư trú xác nhận; thuộc diện tàn tật, ốm đau kéo dài có tóm tắt hồ
sơ bệnh án được cơ sở khám bệnh, chữa bệnh từ cấp huyện trở lên
xác nhận.
+ Người được thi hành án xác minh chính xác sau khi cơ quan
thi hành án dân sự đã ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành
án theo quy định tại khoản 1 Điều 44a Luật Thi hành án dân sự và cơ
quan thi hành án dân sự xử lý được tài sản để thi hành án.
- Người được thi hành án được giảm phí thi hành án như sau:
+ Giảm đến 80% đối với người có khó khăn về kinh tế thuộc
chuẩn hộ nghèo và được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú
hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc xác nhận;
+ Giảm 30% phí thi hành án tương ứng với số tiền thực nhận
từ việc xử lý tài sản của người phải thi hành án mà người được thi
hành án xác minh chính xác khi yêu cầu thi hành án và cơ quan thi
hành án dân sự xử lý được tài sản để thi hành án mà không phải áp
dụng biện pháp cưỡng chế cần huy động lực lượng, trừ trường hợp
tài sản đã được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án, Trọng
tài thương mại.
+ Giảm 20% phí thi hành án trong trường hợp người được thi
hành án xác minh chính xác khi yêu cầu thi hành án và cơ quan thi

691
hành án dân sự xử lý được tài sản để thi hành án, nếu phải áp dụng
biện pháp cưỡng chế cần huy động lực lượng, trừ trường hợp tài
sản đã được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án, Trọng tài
thương mại.
1.13. Kết thúc thi hành án
Theo quy định tại Điều 52 Luật Thi hành án dân sự, việc thi hành
án đương nhiên kết thúc trong các trường hợp sau đây:
- Có xác nhận của cơ quan thi hành án dân sự về việc đương sự
đã thực hiện xong quyền, nghĩa vụ của mình;
- Có quyết định đình chỉ thi hành án.
2. Kỹ năng của Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên trong thi
hành án dân sự
2.1. Kỹ năng của Luật sư trong hoạt động thi hành án dân sự
2.1.1. Kỹ năng soạn thảo và gửi đơn yêu cầu thi hành án
a) Các công việc cần tiến hành trước khi soạn thảo đơn yêu cầu
thi hành án
Khi người yêu cầu thi hành án đến Văn phòng Luật sư yêu cầu
Luật sư soạn thảo đơn yêu cầu thi hành án thì Luật sư cần thực hiện
theo trình tự sau:
(i) Xác định loại bản án, quyết định yêu cầu thi hành án có hiệu
lực thi hành chưa?
Đối với bản án, quyết định của Tòa án thì Luật sư căn cứ vào
Điều 1, 2 Luật THADS để kiểm tra và tiến hành như sau:
- Xem xét bản án, quyết định yêu cầu thi hành án có thuộc các
bản án, quyết định được thi hành án theo Luật THADS hay không?
Nếu không thuộc các bản án, quyết định quy định tại Điều 1, Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì Luật sư từ chối soạn đơn yêu cầu thi hành
án cho khách hàng.

692
- Xem xét bản án, quyết định yêu cầu thi hành án đã có hiệu lực
pháp luật chưa? Nếu bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật thì
Luật sư căn cứ vào khoản 2 Điều 2 Luật Thi hành án dân sự để soạn
thảo đơn yêu cầu đối với các bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả
lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ
cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe,
tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc.
- Đối với Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng
xử lý vụ việc cạnh tranh thì Luật sư cần căn cứ vào Điều 106
Luật Cạnh tranh để xem xét quyết định đó đã có hiệu lực thi hành chưa?
Lưu ý, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có hiệu lực thi hành sau 30
ngày, kể từ ngày ký nếu trong thời hạn đó không bị khiếu nại theo quy
định tại Điều 107 Luật Cạnh tranh. Đồng thời, Luật sư cần căn cứ vào
điểm đ khoản 1 Điều 2 Luật Thi hành án dân sự để xem xét hiệu lực thi
hành của quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh.
- Đối với phán quyết của Trọng tài thương mại thì Luật sư cần
phân biệt được hai loại phán quyết đó là phán quyết của Hội đồng
trọng tài và phán quyết của Trọng tài vụ việc, cụ thể như sau:
+ Đối với phán quyết của Hội đồng trọng tài, Luật sư cần xác
định thời hạn thi hành phán quyết trọng tài được ghi nhận trong phần
quyết định của phán quyết là thời hạn nào? Sau khi hết thời hạn đó,
bên phải thi hành phán quyết đã tự nguyện thi hành chưa hoặc có yêu
cầu Tòa án hủy phán quyết trọng tài không? Nếu hết thời hạn thi hành
phán quyết mà người phải thi hành án không tự nguyện thi hành và
cũng không yêu cầu Tòa án hủy phán quyết trọng tài thì Luật sư soạn
thảo đơn yêu cầu thi hành án và gửi cơ quan thi hành án dân sự có
thẩm quyền để yêu cầu thi hành án theo khoản 1 Điều 66 Luật Trọng
tài thương mại năm 2010.
+ Đối với phán quyết của Trọng tài vụ việc thì Luật sư cần xem
xét phán quyết trọng tài vụ việc đã có hiệu lực thi hành chưa? Cụ thể,
Luật sư phải xác định phán quyết này đã được đăng ký chưa? Nếu đã

693
được Tòa án có thẩm quyền đăng ký thì Luật sư soạn thảo đơn yêu cầu
thi hành án và gửi cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền để yêu
cầu thi hành án theo khoản 2 Điều 66 Luật Trọng tài thương mại 2010.
(ii) Xác định thời hiệu yêu cầu thi hành án
Thời hiệu yêu cầu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật
Thi hành án dân sự, vì vậy để xem xét về thời hiệu yêu cầu thi hành án,
Luật sư cần xác định rõ các vấn đề sau:
- Vấn đề bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật khi nào? Để
xác định hiệu lực pháp luật của bản án, quyết định, Luật sư lưu ý có 02
loại bản án, quyết định và mỗi loại bản án, quyết định có cách xác định
hiệu lực pháp luật khác nhau, cụ thể:
+ Đối với bản án, quyết định sơ thẩm: căn cứ vào các quy
định của khoản 1 Điều 273, khoản 1 Điều 280, khoản 2 Điều 282
BLTTDS 2015; khoản 1 Điều 333, khoản 1 Điều 337, Điều 343 Bộ
luật Tố tụng hình sự 2015; khoản 1 Điều 206, khoản 1 Điều 213,
khoản 2 Điều 215 Luật Tố tụng hành chính quy định về thời hạn
kháng cáo, thời hạn kháng nghị để khẳng định bản án sơ thẩm có
hiệu lực pháp luật khi nào? Theo nguyên tắc hết thời hạn kháng
cáo, kháng nghị theo luật định thì bản án, quyết định sơ thẩm đó
mới có hiệu lực pháp luật.
+ Đối với bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám đốc
thẩm, quyết định tái thẩm và quyết định công nhận sự thỏa thuận của
các đương sự thì bản án, quyết định đó có hiệu lực pháp luật ngay kể
từ ngày tuyên án hoặc ngày ra quyết định đó.
Sau khi xác định được thời điểm bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật thì thời hiệu yêu cầu thi hành án là 05 năm, kể từ ngày bản
án, quyết định có hiệu lực pháp luật.
- Cách xác định thời hiệu thi hành án đối với nghĩa vụ được ấn
định trong bản án, quyết định thì thời hạn 05 năm được tính từ ngày
nghĩa vụ đến hạn.

694
Ví dụ:
Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 100/
QĐ-CNSTTCĐS ngày 05/01/2017 của TAND quận 2, thành phố
H có nội dung: “Công nhận sự thỏa thuận của bà Vũ Thị M và
Ngân hàng S. Bà Vũ Thị M phải trả cho ngân hàng S số tiền là
400.000.000 đồng, cụ thể như sau:
Đợt 1: Ngày 01/02/2017, bà Vũ Thị M phải trả 200.000.000 đồng;
Đợt 2: Ngày 03/4/2017, bà Vũ Thị M phải trả 200.000.000 đồng”.
Như vậy, Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự
là loại quyết định có hiệu lực pháp luật ngay kể từ ngày ban hành
quyết định (từ ngày 05/01/2017) nhưng thời hiệu yêu cầu thi hành
án quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 100/
QĐ-CNSTTCĐS ngày 05/01/2017 được tính theo từng đợt thanh
toán và mỗi đợt là 05 năm kể từ ngày ấn định nghĩa vụ. Cụ thể, thời
hiệu yêu cầu thi hành án đợt 1 là 05 năm kể từ ngày 01/02/2017;
đợt 2 là 05 năm kể từ ngày 03/4/2017 chứ không được xác định
05 năm, kể từ ngày 05/01/2017 theo quy định tại khoản 1 Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
- Cách tính thời hiệu yêu cầu thi hành án đối với nghĩa vụ theo
định kỳ: Đối với bản án, quyết định thi hành án theo định kỳ thì thời
hạn 05 năm được áp dụng cho từng kỳ, kể từ ngày nghĩa vụ đến hạn.
Theo đó, Luật sư phải xác định được các vấn đề sau:
+ Xác định được “kỳ thi hành án” trong bản án, quyết định được
thi hành.
+ Xác định được “ngày nghĩa vụ đến hạn”.
Ví dụ:
Tại bản án số 103/2017/HNGĐ-PT ngày 06/02/2017, có tuyên
“Anh Vũ Văn N và chị Nguyễn Thị L được thuận tình ly hôn. Về con
chung, giao cháu Vũ Văn M sinh ngày 12/5/2011 cho chị Nguyễn
Thị L nuôi dưỡng, chăm sóc và anh Vũ Văn N có trách nhiệm
cấp dưỡng nuôi cháu M cho chị L mỗi tháng 1.000.000 đồng, kể
từ tháng 02/2017 đến khi cháu M đủ 18 tuổi”. Trong trường hợp

695
này, Luật sư phải xác định “kỳ” thi hành án là 01 tháng; ngày
nghĩa vụ đến hạn là ngày cuối cùng của từng tháng. Vì vậy, thời
hiệu yêu cầu khoản cấp dưỡng của chị L là 05 năm cho mỗi tháng
chứ không phải 05 năm, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật
(ngày 06/02/2017).
Lưu ý, khi bản án, quyết định hết thời hiệu yêu cầu thi hành án thì
Luật sư cần hướng dẫn các khách hàng tìm kiếm các tài liệu quy định
tại Điều 4 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP nhằm chứng minh có sự kiện
bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan để tiếp tục giúp khách hàng
yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền khôi phục lại thời hiệu yêu
cầu thi hành án.
(iii) Xác định thẩm quyền thi hành án
Để soạn thảo được đơn yêu cầu thi hành án, Luật sư cần xác định
cơ quan thi hành án nào có thẩm quyền tổ chức thi hành bản án, quyết
định mà người yêu cầu yêu cầu thi hành án. Để xem xét về thẩm quyền
tổ chức thi hành án, Luật sư căn cứ vào từng loại bản án, quyết định
được thi hành, cụ thể như sau:
- Đối với bản án, quyết định của Tòa án: Luật sư căn cứ vào
khoản 1, 2, 3 Điều 35 Luật Thi hành án dân sự để xác định cơ quan
có thẩm quyền tổ chức thi hành án là Chi cục Thi hành án dân sự,
Cục Thi hành án dân sự hay cơ quan thi hành án cấp quân khu nào tổ
chức thi hành.
- Đối với Phán quyết, Quyết định của Trọng tài thương mại thì
có 02 loại sau:
+ Đối với phán quyết của Trọng tài thì Luật sư căn cứ vào
điểm đ khoản 2 Điều 35 Luật Thi hành án dân sự và khoản 1 Điều 8
Luật Trọng tài thương mại năm 2010 để xác định, theo đó tất cả các
phán quyết của Trọng tài thuộc thẩm quyền thi hành án của cơ quan thi
hành án dân sự cấp tỉnh (Cục Thi hành án dân sự) nhưng để xác định
được Cục Thi hành án dân sự nào có thẩm quyền thi hành án đối với
phán quyết của trọng tài thì Luật sư cần xem xét tiếp đến quy định của

696
Luật Trọng tài thương mại, cụ thể là khoản 1 Điều 8 Luật Trọng tài
thương mại 2010 quy định về cơ quan có thẩm quyền thi hành án phán
quyết của Trọng tài là cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh nơi Hội đồng
trọng tài ra phán quyết.
Ví dụ:
Ngày 06/12/2016, tại trụ sở Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt
Nam (số 9, Đào Duy Anh, Hà Nội), Hội đồng Trọng tài vụ kiện
số 40 đã mở phiên họp giữa nguyên đơn là Công ty trách nhiệm
hữu hạn Minh T, địa chỉ: Khu công nghiệp Giao Khẩu, thành phố
N, tỉnh N, Việt Nam và bị đơn là ông Vũ Văn K. Địa chỉ: Marketa
Severova, Petrovice Clstinadla berm 4034, C. Tại phần quyết định
có nội dung: “Buộc bị đơn - ông Vũ Văn K phải thanh toán cho
Nguyên đơn (Công ty trách nhiệm hữu hạn Minh T) toàn bộ số tiền
còn nợ là 42.000 USD (bốn mươi hai nghìn đô la Mỹ). Nếu chậm
trả, bị đơn còn phải trả thêm tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo
mức lãi suất quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh
toán tương ứng với thời gian chậm trả”.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 8 Luật Trọng tài thương mại
năm 2010, Phán quyết số 40 ngày 06/12/2016 của Hội đồng Trọng
tài sẽ thuộc thẩm quyền thi hành của Cục Thi hành án dân sự thành
phố Hà Nội vì Phán quyết này do Hội đồng trọng tài ra tại thành
phố Hà Nội.
- Đối với quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của
Trọng tài: Luật sư căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 35 Luật Thi hành
án dân sự và khoản 2 Điều 8 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 để
xác định, theo đó tất cả các quyết định của Trọng tài thuộc thẩm quyền
thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh (Cục Thi hành án
dân sự) nhưng để xác định được Cục Thi hành án dân sự nào có thẩm
quyền thi hành án đối với quyết định khẩn cấp tạm thời của trọng tài
thì Luật sư cần căn cứ vào khoản 2 Điều 8 Luật Trọng tài thương mại
năm 2010. Theo đó, cơ quan có thẩm quyền thi hành Quyết định khẩn
cấp của Trọng tài là cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh nơi biện pháp
khẩn cấp tạm thời cần được áp dụng.

697
- Đối với Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử
lý vụ việc cạnh tranh: Luật sư căn cứ vào điểm e khoản 2 Điều 35 Luật
Thi hành án dân sự và Điều 121 Luật Cạnh tranh để xác định cơ quan
thi hành án dân sự có thẩm quyền tổ chức thi hành án. Theo đó, cơ
quan thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có
trụ sở, nơi cư trú hoặc nơi có tài sản của bên phải thi hành án có thẩm
quyền tổ chức thi hành quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh.
(iv) Xác định quyền yêu cầu thi hành án của khách hàng
Người có quyền yêu cầu thi hành các bản án, quyết định là người
được thi hành án và người phải thi hành án theo quy định tại Điều 7,
Điều 7a Luật Thi hành án dân sự. Vì vậy, Luật sư cần căn cứ vào
khoản 1 Điều 3 Luật Thi hành án dân sự để xác định khách hàng có là
người được thi hành án hoặc là người phải thi hành án trong bản án,
quyết định đó không. Trường hợp khách hàng không phải là người
được thi hành án hoặc người phải thi hành án thì Luật sư tư vấn cho
khách hàng phải có ủy quyền của người được thi hành án hoặc người
phải thi hành án thì đơn yêu cầu thi hành án mới hợp lệ.
(v) Xác định nội dung yêu cầu thi hành án
Theo nguyên tắc chung, nội dung yêu cầu thi hành án của người
được thi hành án và người phải thi hành án phải luôn phù hợp với
quyền lợi, nghĩa vụ được ghi nhận trong phần quyết định của bản án,
quyết định đưa ra thi hành. Vì vậy, Luật sư cần xem xét kỹ phần này và
trao đổi với khách hàng về việc sẽ yêu cầu thi hành những khoản nào,
khoản nào không yêu cầu để soạn thảo vào phần nội dung của đơn yêu
cầu thi hành án và tư vấn cho khách hàng không yêu cầu những nội
dung không liên quan đến bản án, quyết định.
Ví dụ:
Bản án tuyên: Công nhận quyền sở hữu 01 nhà, đất cho ông Vũ
Văn N, nhưng thực tế thì bà Vũ Thị M đang quản lý, sử dụng nhà
đất này. Vì vậy, ông Vũ Văn N đã đến Văn phòng Luật sư đề nghị
soạn thảo đơn yêu cầu với nội dung yêu cầu bà Vũ Thị M phải trả

698
nhà, đất cho ông N. Trong trường hợp này, bản án chỉ tuyên công
nhận quyền sở hữu nhà, đất của ông N mà không tuyên nghĩa vụ bà
M phải giao trả nhà, đất cho ông N. Nên Luật sư không nên soạn
thảo đơn yêu cầu thi hành án với nội dung bà M phải trả nhà, đất
cho ông N.
b) Soạn thảo nội dung yêu cầu thi hành án
Sau khi Luật sư đã làm rõ các nội dung trên, Luật sư sẽ tiến hành
các bước sau:
- Chọn mẫu đơn yêu cầu thi hành án: mẫu số D04-THADS ban
hành theo Thông tư số 01/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của Bộ Tư
pháp hướng dẫn thực hiện một số thủ tục về quản lý hành chính và biểu
mẫu nghiệp vụ trong thi hành án dân sự (Thông tư số 01/2016/TT-BTP).
- Viết/đánh máy vào các mục trong biểu mẫu.
- Yêu cầu khách hàng ký tên vào đơn tại mục người yêu cầu thi
hành án.
Lưu ý: Luật sư căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 31 Luật Thi hành
án dân sự và khoản 3 Điều 1 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-
TANDTC-VKSNDTC ngày 01/8/2016 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định một số vấn đề về
thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân
sự (Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC)
để xử lý một số tình huống sau:
+ Trường hợp khách hàng không biết chữ thì Luật sư yêu cầu họ
điểm chỉ.
+ Trường hợp khách hàng là pháp nhân thì yêu cầu người đại
diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền của pháp nhân
đó ký, ghi rõ họ tên và đóng dấu của pháp nhân nếu có.
+ Trường hợp khách hàng ủy quyền cho Luật sư làm đơn yêu cầu
thi hành án và tham gia vào quá trình thi hành án thì Luật sư là người
ký tên trong đơn yêu cầu thi hành án.

699
c) Gửi đơn yêu cầu thi hành án
Luật sư tư vấn cho khách hàng gửi đơn yêu cầu thi hành án bằng
một trong các hình thức sau:
- Trực tiếp nộp đơn yêu cầu thi hành án tại cơ quan thi hành án
có thẩm quyền;
- Gửi qua bưu điện.
Theo quy định tại Điều 31 Luật Thi hành án dân sự, Luật sư cũng
nên tư vấn về những thuận lợi và khó khăn khi gửi đơn yêu cầu thi
hành án bằng hai hình thức trên. Chẳng hạn, đối với hình thức trực tiếp
nộp đơn yêu cầu thi hành án tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm
quyền thì người nộp đơn sẽ được trả lời một cách rõ ràng, cụ thể những
vấn đề còn chưa rõ và được hướng dẫn một cách chi tiết về những vấn
đề còn chưa đầy đủ trong nội dung đơn yêu cầu thi hành án hoặc các tài
liệu cần thiết phải kèm theo đơn yêu cầu. Tuy nhiên, việc nộp đơn trực
tiếp sẽ làm mất thời gian của khách hàng vì phải đến trực tiếp cơ quan
thi hành án dân sự có thẩm quyền tổ chức thi hành. Còn nếu nộp đơn
qua đường bưu điện thì khách hàng sẽ tiết kiệm được thời gian nhưng
lại phải chờ đợi công văn trả lời của cơ quan thi hành án về việc tiếp
nhận hay không tiếp nhận đơn yêu cầu. Vì vậy, khách hàng cần cân
nhắc để lựa chọn hình thức gửi đơn cho phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh của mình. Khi gửi đơn yêu cầu thi hành án cần gửi kèm theo bản
án, quyết định và tài liệu có liên quan như biên bản xác minh điều kiện
thi hành án, văn bản yêu cầu cơ quan thi hành án áp dụng biện pháp
bảo đảm, nếu cần...
2.1.2. Kỹ năng tư vấn về trình tự, thủ tục thi hành án
a) Tư vấn trong việc tiếp nhận yêu cầu thi hành án và ra quyết
định thi hành án.
(i) Tư vấn trong việc tiếp nhận yêu cầu thi hành án
Trong nội dung này, Luật sư tập trung vào việc tư vấn khi
khách hàng bị cơ quan thi hành án từ chối yêu cầu. Theo quy định tại

700
khoản 5 Điều 31 Luật Thi hành án dân sự và khoản 4 Điều 7 Nghị định
số 62/2015/NĐ-CP để đối chiếu xem xét việc từ chối yêu cầu thi hành
án của cơ quan thi hành án đúng hay sai. Trường hợp cơ quan thi hành
án từ chối yêu cầu thi hành án mà không có căn cứ pháp luật thì Luật
sư tư vấn cho khách hàng khiếu nại hành vi đó của cơ quan thi hành án.
(ii) Tư vấn về việc ra quyết định thi hành án
Khi xem xét việc ra quyết định thi hành án của cơ quan thi hành
án, Luật sư căn cứ vào Điều 23, 36 Luật Thi hành án dân sự để xem
xét các vấn đề sau:
- Thời hạn ra quyết định thi hành án: 05 ngày làm việc, kể từ
ngày nhận được yêu cầu thi hành án theo quy định tại khoản 1 Điều 36
Luật Thi hành án dân sự.
- Nội dung quyết định thi hành án: Luật sư đối chiếu giữa nội
dung yêu cầu với nội dung quyết định thi hành án để xem xét nội dung
quyết định thi hành án có đúng không.
- Người ký quyết định: Là Thủ trưởng cơ quan thi hành án hoặc
Phó Thủ trưởng cơ quan thi hành án nếu được Thủ trưởng ủy quyền.
Trường hợp một trong các vấn đề trên không đúng, gây thiệt hại
cho khách hàng thì Luật sư tư vấn cho khách hàng làm đơn khiếu nại
về những nội dung đó.
(iii) Tư vấn về việc thông báo thi hành án
Tư vấn về việc thông báo thi hành án có nghĩa là Luật sư phải
xem xét việc thông báo của cơ quan thi hành án đã thực hiện đúng hay
sai. Khi xem xét việc thông báo của cơ quan thi hành án thì Luật sư cần
tập trung xem xét các nội dung sau:
* Loại văn bản thông báo
Theo khoản 1 Điều 39 Luật Thi hành án dân sự, văn bản thông
báo gồm:
- Quyết định về thi hành án.

701
- Giấy báo, giấy triệu tập.
- Văn bản khác.
Lưu ý, không phải tất cả các văn bản trên đều phải thông báo cho
người phải thi hành án, người được thi hành án và người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan mà mỗi loại văn bản khác nhau thì chủ thể được
nhận văn bản đó cũng khác nhau. Chẳng hạn, quyết định đình chỉ thi
hành án thì người phải thi hành án và người được thi hành án đều được
nhận, còn quyết định thu phí thi hành án thì chỉ người được thi hành
án mới có quyền được nhận… Khi người được thi hành án, người phải
thi hành án hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền được
nhận văn bản thi hành án thì nghĩa vụ của cơ quan thi hành án phải
thực hiện việc thông báo cho họ biết để họ thực hiện các nghĩa vụ,
quyền, lợi ích trong nội dung văn bản thông báo.
* Thời hạn thực hiện thông báo
Luật sư căn cứ vào khoản 2 Điều 39 Luật Thi hành án dân sự để
kiểm tra về thời hạn thực hiện thông báo của cơ quan thi hành án đã
đúng chưa? Cụ thể như sau:
Nguyên tắc chung là thời hạn thực hiện thông báo văn bản thi
hành án là 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra văn bản, trừ trường hợp
cần ngăn chặn đương sự tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc thi
hành án.
Lưu ý, đối với văn bản thông báo về việc kê biên tài sản là bất
động sản, thì phải thông báo trước khi kê biên ít nhất là 03 ngày làm
việc cho đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về thời
gian, địa điểm, tài sản kê biên, trừ trường hợp cần ngăn chặn đương sự
tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án theo quy định tại
Điều 88 Luật Thi hành án dân sự.
* Chủ thể thực hiện thông báo
Theo quy định tại khoản 1 Điều 12 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP,
việc thông báo trực tiếp cho đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ

702
liên quan được thực hiện bởi Chấp hành viên, công chức làm công tác
thi hành án và do bưu tá; người được cơ quan thi hành án ủy quyền; tổ
trưởng tổ dân phố, trưởng thôn, làng, ấp, bản, khóm, buôn, sóc, phum;
Ủy ban nhân dân, công an cấp xã; Thủ trưởng cơ quan, đơn vị; Giám
thị trại giam, trại tạm giam; Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự
công an cấp huyện nơi người được thông báo có địa chỉ, cư trú, công
tác, chấp hành hình phạt tù giao văn bản cần thông báo cho người được
thông báo.
Lưu ý, nếu cơ quan thi hành án thực hiện việc thông báo bằng
dịch vụ bưu điện thì Luật sư căn cứ vào Điều 2 Thông tư liên tịch
số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC để xác định điều kiện
thông báo qua bưu tá của cơ quan thi hành án có đảm bảo đúng quy
định không?
* Thủ tục thông báo
Thủ tục thông báo được cơ quan thi hành án thực hiện theo cấp
độ khác nhau, theo quy định tại khoản 3 Điều 39 Luật THADS thì có
03 hình thức, gồm: thông báo trực tiếp, niêm yết công khai và thông
báo trên phương tiện thông tin đại chúng. Khi tư vấn về thủ tục thông
báo, Luật sư xem xét các vấn đề sau:
- Thông báo trực tiếp cho cá nhân: Luật sư căn cứ vào Điều 40
Luật Thi hành án dân sự và Điều 12 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP
và Điều 2 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-
VKSNDTC để xem xét việc thực hiện thông báo trực tiếp cho cá nhân
đã đầy đủ và đúng quy định pháp luật chưa? Đối với việc thông báo
trực tiếp cho cá nhân, người thực hiện thông báo phải giao trực tiếp
cho người được nhận văn bản thông báo và có chữ ký của người nhận
văn bản thông báo hoặc người nhận văn bản thông báo cố tình không
ký nhận văn bản thông báo thì người giao văn bản thông bản lập biên
bản ghi rõ lý do và có chữ ký của người chứng kiến việc thông báo này
cũng được coi là hợp lệ mặc dù không có chữ ký của người nhận văn
bản. Trường hợp người được nhận văn bản vắng mặt thì pháp luật cũng

703
cho phép người thực hiện thông báo được thông báo qua người thân
(khoản 2 Điều 40 Luật Thi hành án dân sự). Biên bản giao văn bản
thông báo qua người thân phải đầy đủ theo đúng quy định tại khoản 5
Điều 2 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC.
- Thông báo trực tiếp cho cơ quan, tổ chức: Luật sư căn cứ
Điều 41 Luật Thi hành án dân sự để xác định người được nhận văn bản
thông báo cho cơ quan, tổ chức là người đại diện theo pháp luật của cơ
quan, tổ chức đó hoặc là người chịu trách nhiệm nhận văn bản của cơ
quan, tổ chức đó. Hoặc là người đại diện theo ủy quyền của cơ quan,
tổ chức được nhận văn bản thông báo.
- Niêm yết văn bản thông báo: Luật sư căn cứ Điều 42 Luật Thi
hành án dân sự để xem xét các vấn đề như điều kiện thực hiện việc
niêm yết văn bản thông báo; thủ tục niêm yết; địa điểm, thời gian niêm
yết và biên bản niêm yết có đầy đủ, đúng quy định không?
- Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng: Luật sư căn
cứ vào các quy định tại Điều 43 Luật Thi hành án dân sự để xem xét
về 02 vấn đề: Điều kiện thực hiện và thủ tục thực hiện việc thông báo
trên phương tiện thông tin đại chúng đã đúng quy định chưa, có sai sót
gì làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng không?
b) Tư vấn về việc xác minh điều kiện thi hành án
Khi xem xét, tư vấn về hoạt động xác minh điều kiện thi hành án
trong thi hành án dân sự, Luật sư cần xem xét các biên bản xác minh
điều kiện thi hành án được lưu tại hồ sơ thi hành án, sau đó đối chiếu
với các quy định của pháp luật. Cụ thể, Luật sư cần xem xét, tư vấn về
các vấn đề sau:
(i) Thời hạn xác minh
Để tư vấn về thời hạn xác minh điều kiện thi hành án của người
phải thi hành án, Luật sư cần làm rõ các vấn đề sau:
- Thời hạn xác minh điều kiện thi hành án theo quy định của
pháp luật:

704
Điều 44 Luật Thi hành án dân sự quy định trong thời hạn 10
ngày, kể từ ngày hết thời gian tự nguyện thi hành án mà người phải thi
hành án không tự nguyện thi hành thì Chấp hành viên tiến hành xác
minh. Thời gian tự nguyện thi hành án được ấn định trong Quyết định
thi hành án là 10 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định thi hành án
hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án.
- Xem xét thời gian Chấp hành viên thực hiện việc xác minh điều
kiện thi hành án (ghi tại biên bản xác minh):
Như vậy, để xác định thời hạn xác minh điều kiện thi hành án của
Chấp hành viên có đúng quy định pháp luật không, Luật sư cần phải
xem xét thời gian (ngày) người phải thi hành án nhận được hoặc được
thông báo hợp lệ quyết định thi hành án và thời gian thực hiện việc xác
minh điều kiện thi hành án của Chấp hành viên.
(ii) Thời hạn xác minh lại
Để tư vấn về thời hạn xác minh lại, Luật sư cần làm rõ các vấn
đề sau:
- Thời hạn xác minh lại theo quy định của pháp luật: Thời hạn
xác minh lại được quy định khoản 2 Điều 44 Luật Thi hành án dân sự
và khoản 4 Điều 9 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP.
- Xem xét thời gian thực hiện việc xác minh lại tại các biên bản
xác minh điều kiện thi hành án của Chấp hành viên.
(iii) Địa điểm xác minh
Để xem xét địa điểm xác minh điều kiện thi hành án mà Chấp
hành viên thực hiện có đúng quy định của pháp luật không, Luật sư
cần căn cứ vào điểm b, d khoản 4 Điều 44 Luật Thi hành án dân sự để
xác định như sau:
- Đối với trường hợp người phải thi hành án là cơ quan, tổ chức:
Chấp hành viên phải trực tiếp xem xét tài sản, sổ sách quản lý vốn và
xác minh tại các cơ quan, tổ chức khác có liên quan đang quản lý, bảo
quản, lưu giữ thông tin về tài sản, tài khoản của người phải thi hành án.

705
- Đối với tài sản có đăng ký quyền sở hữu, sử dụng hoặc đăng
ký giao dịch bảo đảm: Địa điểm xác minh là tại cơ quan có chức năng
đăng ký tài sản, giao dịch đó. Ví dụ: biên bản xác minh về quyền sở
hữu nhà, quyền sử dụng đất của người phải thi hành án thì địa điểm xác
minh phải là Văn phòng đăng ký đất đai.
c) Tư vấn về việc áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án
Để xem xét, tư vấn về việc áp dụng biện pháp bảo đảm thi
hành án của Chấp hành viên, Luật sư cần căn cứ vào các quy định tại
Điều 66, 67, 68, 69 Luật Thi hành án dân sự và Điều 13, 18, 19, 20
Nghị định số 62/2015/NĐ-CP. Theo đó, khi xem xét việc áp dụng các
biện pháp bảo đảm thi hành án, Luật sư cần xem xét các vấn đề sau:
- Chủ thể áp dụng:
Theo quy định tại Điều 66 Luật Thi hành án dân sự thì người có
thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án là Chấp hành viên.
Vì vậy, Luật sư cần xác định chủ thể ký quyết định áp dụng biện pháp
bảo đảm thi hành án, lập biên bản áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành
án có phải là Chấp hành viên không?
- Nguyên tắc áp dụng:
Theo quy định tại Điều 13 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP thì việc
áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án phải tương ứng với nghĩa vụ
thi hành án và các chi phí cần thiết. Vì vậy, Luật sư cần xem xét Chấp
hành viên áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án có tương ứng với
nghĩa vụ phải thi hành án và các chi phí cần thiết không?
Ngoài ra, Điều 13 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP còn quy định
trường hợp người phải thi hành án chỉ có một tài sản duy nhất lớn hơn
nhiều lần so với nghĩa vụ phải thi hành án mà tài sản đó không thể
phân chia được hoặc việc phân chia làm giảm đáng kể giá trị của tài
sản thì Chấp hành viên vẫn có quyền áp dụng biện pháp bảo đảm để thi
hành án. Nên Luật sư cần lưu ý đối với trường hợp này.
- Trình tự, thủ tục áp dụng:

706
Để tư vấn về trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành
án, Luật sư cần xem xét một số vấn đề sau:
+ Ra quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án: Khi xem
xét việc ra quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án của Chấp
hành viên, Luật sư cần căn cứ vào Điều 67, 68, 69 Luật Thi hành án
dân sự và lưu ý những nội dung sau:
Đối với biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ và
tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự: Chấp hành viên có thể ra quyết
định phong tỏa, tạm giữ hoặc lập biên bản phong tỏa, tạm giữ chứ
không nhất thiết ngay lập tức phải ra quyết định phong tỏa, tạm giữ
trước khi áp dụng. Tuy nhiên, trường hợp Chấp hành viên lựa chọn
hình thức lập biên bản phong tỏa, tạm giữ thì trong thời hạn 24 giờ kể
từ khi lập biên bản, Chấp hành viên phải ra quyết định phong tỏa tài
khoản, tài sản hoặc quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ.
Đối với biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu,
sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản: Chấp hành viên bắt buộc phải ra
quyết định tạm dừng trước khi áp dụng.
+ Giao quyết định, biên bản:
Khi xem xét việc Chấp hành viên giao quyết định áp dụng biện
pháp bảo đảm, biên bản có đúng pháp luật không, Luật sư cần căn cứ
vào Điều 67, 68, 69 Luật Thi hành án dân sự; Điều 18, 20 Nghị định
số 62/2015/NĐ-CP và lưu ý một số nội dung sau:
Thứ nhất, đối với quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi
gửi giữ, Chấp hành viên phải trực tiếp giao quyết định phong tỏa cho
người đại diện theo pháp luật của Kho bạc nhà nước, tổ chức tín dụng,
cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ
hoặc người có trách nhiệm nhận văn bản của cơ quan, tổ chức đó.
Thứ hai, đối với đương sự thì việc thông báo quyết định áp dụng
biện pháp bảo đảm thi hành án vẫn được thực hiện theo trình tự, thủ tục
thông thường. Tuy nhiên, Chấp hành viên không phải thông báo cho

707
đương sự trước khi áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án. Ngoài việc
giao quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án cho đương sự,
Chấp hành viên còn phải giao biên bản tạm giữ tài sản, giấy tờ cho
người quản lý, sử dụng tài sản, giấy tờ.
+ Thời hạn áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án:
Khi xem xét thời hạn áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án của
Chấp hành viên, Luật sư cần căn cứ vào Điều 67, 68, 69 Luật Thi hành
án dân sự và làm rõ những nội dung sau:
Thứ nhất, hết thời hạn theo quy định của pháp luật, Chấp hành
viên có ra quyết định cưỡng chế thi hành án hoặc ra quyết định chấm
dứt phong tỏa; quyết định trả lại tài sản, giấy tờ tạm giữ; quyết định
chấm dứt việc tạm dừng đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay
đổi hiện trạng tài sản không?
Thứ hai, căn cứ để ra các quyết định trên có đúng quy định của
pháp luật không?
d) Tư vấn về việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án
Khi xem xét, tư vấn về việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi
hành án của Chấp hành viên, Luật sư cần căn cứ vào các quy định tại
Chương IV Luật Thi hành án dân sự và xem xét các vấn đề sau:
(i) Điều kiện áp dụng
Để xem xét điều kiện áp dụng biện pháp cưỡng chế của Chấp
hành viên có đúng quy định của pháp luật không, Luật sư cần làm rõ
thời điểm Chấp hành viên ký, ban hành quyết định cưỡng chế thi hành
án. Nếu Chấp hành viên ký, ban hành quyết định cưỡng chế thi hành
án sau khi đã hết thời gian tự nguyện thi hành án thì việc áp dụng biện
pháp cưỡng chế thi hành án của Chấp hành viên là đúng. Nếu Chấp
hành viên ký, ban hành quyết định cưỡng chế thi hành án trong thời
gian tự nguyện thi hành án thì Luật sư cần xem xét đến các minh chứng
chứng minh về hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc có hành vi khác
nhằm trốn tránh việc thi hành án, nếu Chấp hành viên không chứng

708
minh được thì Luật sư tư vấn cho người phải thi hành án có quyền
khiếu nại quyết định cưỡng chế thi hành án đó.
(ii) Nguyên tắc áp dụng
Để xem xét Chấp hành viên có tuân thủ nguyên tắc áp dụng biện
pháp cưỡng chế thi hành án không, Luật sư cần căn cứ vào Điều 13 Nghị
định số 62/2015/NĐ-CP. Tuy nhiên, khi xem xét Luật sư cần lưu ý:
- Xem xét tính tương ứng giữa giá trị tài sản cưỡng chế thi hành
án với nghĩa vụ thi hành án và các chi phí cần thiết đối với biện pháp
cưỡng chế thi hành án sau: Khấu trừ tài khoản, thu hồi, xử lý tiền, giấy
tờ có giá của người phải thi hành án; Trừ vào thu nhập của người phải
thi hành án; Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả
tài sản đang do người thứ ba giữ; Khai thác tài sản của người phải thi
hành án.
- Chấp hành viên có thể áp dụng nhiều biện pháp cưỡng chế thi
hành án khác nhau để thi hành nghĩa vụ của người phải thi hành án, tuy
nhiên, việc cưỡng chế này phải không vi phạm nguyên tắc tương ứng.
- Chấp hành viên cũng có quyền cưỡng chế đối với tài sản là
quyền sử dụng đất thuộc sở hữu chung của người phải thi hành án với
vợ (chồng) của họ nếu người phải thi hành án không có tài sản khác
hoặc tài sản khác không đủ để thi hành án.
(iii) Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án
Khi tư vấn về trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp cưỡng chế thi
hành án, Luật sư cần tập trung xem xét các vấn đề sau:
- Thời điểm ra quyết định cưỡng chế:
Để xem xét thời điểm ra quyết định cưỡng chế thi hành án, Luật
sư cần làm rõ các nội dung sau:
+ Đã hết thời gian tự nguyện thi hành án chưa?
+ Xem xét biên bản xác minh điều kiện thi hành án thể hiện
người phải thi hành án có điều kiện thi hành án.

709
Sau khi đã xem xét, nếu đủ điều kiện mà Chấp hành viên không
ra quyết định cưỡng chế thi hành án làm trì hoãn quá trình thi hành án
hoặc dẫn đến việc đương sự tẩu tán tài sản thì Luật sư có thể tư vấn
cho khách hàng là người được thi hành án khiếu nại về hành vi không
ra quyết định cưỡng chế của Chấp hành viên.
- Chủ thể ký quyết định cưỡng chế: Phải là Chấp hành viên. Luật
sư kiểm tra quyết định cưỡng chế thi hành án do ai ký, ban hành.
- Việc dự trù chi phí cưỡng chế, thông báo dự trù chi phí cưỡng chế:
Trường hợp Luật sư tư vấn cho khách hàng là người phải thi hành
án thì Luật sư cần xem xét các nội dung sau:
+ Các khoản mà Chấp hành viên dự trù chi phí cưỡng chế cho
người phải thi hành án có đúng quy định pháp luật không? Để xác định
được Luật sư cần căn cứ vào khoản 1 Điều 73 Luật Thi hành án dân sự.
+ Chấp hành viên có thông báo dự trù chi phí cưỡng chế cho
người phải thi hành án không? Việc thông báo có đúng thời hạn
pháp luật quy định không? Để xác định được Luật sư cần căn cứ vào
khoản 4 Điều 73 Luật Thi hành án dân sự.
Trường hợp Luật sư tư vấn cho khách hàng là người được thi
hành án thì Luật sư cần lưu ý: Người được thi hành án chỉ phải nộp
chi phí cưỡng chế thi hành án đối với khoản chi phí định giá lại tài sản
(nếu người được thi hành án yêu cầu định giá lại) và một phần hoặc
toàn bộ chi phí xây ngăn, phá dỡ (trong trường hợp bản án, quyết định
xác định người được thi hành án phải chịu). Vì vậy, nếu Chấp hành
viên yêu cầu người được thi hành án phải nộp chi phí cưỡng chế thi
hành án ngoài các khoản ở trên thì Luật sư có thể tư vấn cho người
được thi hành án từ chối yêu cầu của Chấp hành viên.
- Việc thực hiện quyết định cưỡng chế:
Để xem xét việc thực hiện quyết định cưỡng chế thi hành án của
Chấp hành viên có đúng pháp luật không, Luật sư cần lưu ý:
+ Đối với biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải

710
thi hành án; khấu trừ tài khoản, thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của
người phải thi hành án: Luật sư chỉ cần quan tâm đến kết quả thực hiện
quyết định cưỡng chế thi hành án mà không cần quan tâm đến tiến
trình thực hiện quyết định cưỡng chế thi hành án của Chấp hành viên.
+ Đối với biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người
phải thi hành án; buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản,
giấy tờ; buộc thực hiện công việc hoặc không thực hiện công việc nhất
định; khai thác tài sản của người phải thi hành án: Luật sư phải xem
xét toàn bộ tiến trình thực hiện cưỡng chế thi hành án của Chấp hành
viên trên cơ sở biên bản cưỡng chế thi hành án hoặc tham gia trực tiếp
buổi cưỡng chế thi hành án.
Ví dụ: Chấp hành viên thực hiện buổi cưỡng chế kê biên tài sản
của người phải thi hành án sẽ mời rất nhiều thành phần tham gia như
cơ quan tài chính, cơ quan quản lý nhà, đất, chính quyền địa phương,…
nhưng theo quy định tại khoản 2 Điều 88 Luật Thi hành án dân sự thì
trong biên bản kê biên chỉ cần có chữ ký của đại diện chính quyền địa
phương hoặc đại diện tổ dân phố nơi tổ chức cưỡng chế. Vì vậy, nếu
Chấp hành viên cho dừng buổi cưỡng chế kê biên do vắng mặt VKSND
cùng cấp hoặc vắng mặt cơ quan tài chính, vắng mặt cơ quan quản lý
nhà, đất hoặc vắng mặt đương sự thì Luật sư cũng có thể tư vấn cho
người được thi hành án thực hiện quyền khiếu nại. Hoặc trong trường
hợp Chấp hành viên thực hiện buổi cưỡng chế chuyển giao quyền sử
dụng đất nhưng tại buổi cưỡng chế lại vắng mặt đại diện cơ quan quản
lý nhà nước về đất đai cùng cấp hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có
đất được chuyển giao mà Chấp hành viên vẫn tiến hành cưỡng chế thi
hành án thì Luật sư cũng có thể tư vấn cho người phải thi hành án thực
hiện quyền khiếu nại.
2.1.3. Tư vấn về việc thanh toán tiền và thu phí thi hành án
a) Tư vấn về việc thanh toán tiền
Để tư vấn về việc thanh toán tiền thi hành án của Chấp hành viên,
Luật sư cần xem xét các vấn đề sau:

711
(i) Về thời gian thanh toán tiền
Để xem xét thời gian thanh toán tiền của Chấp hành viên có
đúng quy định của pháp luật không, Luật sư cần căn cứ vào khoản 5
Điều 47 Luật Thi hành án dân sự và khoản 4 Điều 27 Nghị định
số 62/2015/NĐ-CP. Cụ thể:
- Về nguyên tắc chung, thời hạn thanh toán tiền, trả tài sản thi
hành án là trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày thu được tiền, tài sản thi
hành án.
- Đối với trường hợp cơ quan thi hành án bán đấu giá tài sản để
thu tiền thi hành án thì thời hạn thanh toán tiền là 10 ngày, kể từ ngày
giao tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá. Vì vậy, đối với
trường hợp này, nếu cơ quan thi hành án chưa giao được tài sản bán
đấu giá do người phải thi hành án chống đối thì với tư cách là Luật
sư của người được thi hành án, Luật sư không tư vấn cho khách hàng
khiếu nại về việc chậm thanh toán tiền thi hành án.
(ii) Về thứ tự thanh toán tiền thi hành án
Để xem xét thứ tự thanh toán tiền thi hành án của Chấp hành
viên có đúng quy định của pháp luật không, Luật sư cần căn cứ vào
Điều 47, Điều 74 Luật Thi hành án dân sự; Điều 24, Điều 49 Nghị định
số 62/2015/NĐ-CP và Điều 6 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-
BTP-TANDTC-VKSNDTC. Ngoài ra, Luật sư cần tham khảo thêm
Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội về thí điểm
xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (Nghị quyết số 42/2017/QH14).
Cụ thể, Luật sư cần làm rõ các vấn đề sau:
- Số tiền thu được do người phải thi hành án nộp hay do bán tài
sản kê biên. Trường hợp số tiền thu được do bán tài sản kê biên thì cần
làm rõ thêm: Tài sản đó có phải là tài sản mà bản án, quyết định của
Tòa án đã tuyên kê biên để đảm bảo thi hành một nghĩa vụ cụ thể; tài
sản cầm cố, thế chấp trước khi có bản án có hiệu lực pháp luật; tài sản
cầm cố, thế chấp được tuyên theo bản án, quyết định của Tòa án đang

712
thi hành; tài sản thuộc sở hữu, sử dụng chung của người phải thi hành
án với người khác không?
Luật sư cần lưu ý:
+ Đối với trường hợp Chấp hành viên kê biên, xử lý tài sản thuộc
sở hữu, sử dụng chung của người phải thi hành án với người khác thì
Chấp hành viên phải trả lại cho người có quyền sở hữu, sử dụng chung
giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người đó. Vì vậy,
trước khi thanh toán khoản chi phí cưỡng chế, án phí, lệ phí Tòa án và
các nghĩa vụ khác của người phải thi hành án thì Chấp hành viên phải
thanh toán cho người có quyền sở hữu, sử dụng chung trước.
+ Đối với trường hợp xử lý tài sản cầm cố, thế chấp phải kiểm tra
xem có thuộc trường hợp xử lý nợ xấu được quy định tại Nghị quyết
số 42/2017/QH14 không?
- Số tiền chi phí cưỡng chế mà người phải thi hành án phải chịu:
Để kiểm tra số tiền chi phí cưỡng chế thi hành án mà người phải thi
hành án phải chịu có đúng không, Luật sư căn cứ vào Điều 73 Luật Thi
hành án dân sự và Thông tư số 200/2016/TT-BTC ngày 09/11/2016
của Bộ Tài chính quy định việc lập, quản lý, sử dụng và quyết toán
kinh phí bảo đảm hoạt động thi hành án dân sự, kinh phí cưỡng chế thi
hành án dân sự.
- Số tiền án phí, lệ phí Tòa án mà người phải thi hành án phải nộp;
- Thời điểm Chấp hành viên ra quyết định cưỡng chế thi hành án
và số người được thi hành án tính đến thời điểm có quyết định cưỡng
chế thi hành án.
Khi xác định người được thi hành án tính đến thời điểm có quyết
định cưỡng chế thi hành án, Luật sư cần lưu ý: Chấp hành viên có thể
căn cứ vào bản án, quyết định hoặc các bản án, quyết định đang do
cơ quan thi hành án đang trực tiếp tổ chức thi hành để xác định người
được thi hành án mà không căn cứ vào việc người được thi hành án
đã yêu cầu thi hành án hay chưa. Vì vậy, nếu khách hàng của Luật

713
sư là người duy nhất đã yêu cầu thi hành án trong số rất nhiều người
được thi hành án và Chấp hành viên không thanh toán toàn bộ số tiền
thu được cho họ mà trích lại khoản tiền tương ứng với tỉ lệ cho những
người được thi hành án chưa có yêu cầu thi hành án thì Luật sư không
nên tư vấn cho khách hàng khiếu nại về việc trích lại này của Chấp
hành viên. Tuy nhiên, Luật sư cần xem xét về thủ tục thông báo cho
những người chưa có yêu cầu thi hành án của Chấp hành viên và thủ
tục thanh toán tiếp nếu những người này không yêu cầu thi hành án.
b) Tư vấn về phí thi hành án
Để tư vấn về phí thi hành án, Luật sư cần căn cứ vào Điều 60
Luật Thi hành án dân sự và Thông tư số 216/2016/TT-BTC ngày
10/11/2016 của Bộ Tài chính quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản
lý và sử dụng phí thi hành án dân sự (Thông tư số 216/2016/TT-BTC)
và xem xét các nội dung sau:
- Đối tượng nộp phí thi hành án: Đối tượng nộp phí thi hành án
là người được thi hành án khi nhận được tiền, tài sản theo bản án,
quyết định của Tòa án, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội
đồng xử lý vụ việc cạnh tranh; phán quyết, quyết định của Trọng tài
thương mại.
Tuy nhiên, Luật sư cần lưu ý trong trường hợp người được thi
hành án không có yêu cầu thi hành án nhưng vẫn nhận tiền, tài sản theo
bản án, quyết định thì vẫn phải nộp phí thi hành án.
- Mức phí thi hành án: Mức phí thi hành án được quy định tại
khoản 1 Điều 4 Thông tư số 216/2016/TT-BTC. Khi xem xét, Luật sư
cần lưu ý một số trường hợp cụ thể sau:
+ Đối với vụ việc chia tài sản chung, chia thừa kế; chia tài sản
trong ly hôn; vụ việc mà các bên vừa có quyền, vừa có nghĩa vụ đối
với tài sản thi hành án (chỉ cần một trong các bên có yêu cầu thi hành
án), thì người được cơ quan thi hành án dân sự giao tiền, tài sản thi
hành án phải nộp phí thi hành án dân sự tương ứng với giá trị tiền, tài
sản thực nhận.

714
+ Đối với trường hợp nhiều người được nhận một tài sản cụ thể
hoặc nhận chung một khoản tiền theo bản án, quyết định nhưng chỉ có
một hoặc một số người có yêu cầu thi hành án mà Chấp hành viên đã
tổ chức giao tài sản, khoản tiền đó cho người đã yêu cầu hoặc người
đại diện của người đã có yêu cầu để quản lý thì người yêu cầu hoặc
người đại diện đó phải nộp phí thi hành án dân sự tính trên toàn bộ giá
trị tiền, tài sản thực nhận.
+ Đối với trường hợp cơ quan thi hành án dân sự đã ra quyết định
thi hành án nhưng chưa ra quyết định cưỡng chế thi hành án hoặc đã
ra quyết định cưỡng chế thi hành án nhưng chưa thực hiện việc cưỡng
chế thi hành án mà đương sự tự giao, nhận tiền, tài sản cho nhau thì
người được thi hành án phải nộp 1/3 mức phí thi hành án dân sự tính
trên số tiền, tài sản thực nhận, trừ trường hợp tiền, tài sản mà đương sự
tự nguyện thi hành trong thời hạn tự nguyện thi hành án theo quy định
tại Điều 45 Luật Thi hành án dân sự.
+ Trường hợp cơ quan thi hành án dân sự đã thu được tiền hoặc
đã thực hiện việc cưỡng chế thi hành án thì người được thi hành án
phải nộp 100% mức phí thi hành án dân sự tính trên số tiền, tài sản
thực nhận.
- Các trường hợp không phải chịu phí thi hành án: Các trường
hợp không phải chịu phí thi hành án được quy định tại Điều 6 Thông
tư số 216/2016/TT-BTC.
- Các trường hợp miễn, giảm phí thi hành án: Các trường
hợp miễn, giảm phí thi hành án được quy định tại Điều 7 Thông tư
số 216/2016/TT-BTC.
Tuy nhiên, khi xem xét Luật sư cần lưu ý trong trường hợp xác
định người được thi hành án thuộc trường hợp được miễn hoặc giảm
phí thi hành án thì tư vấn cho khách hàng soạn thảo đơn đề nghị miễn,
giảm phí thi hành án theo mẫu D07-THADS ban hành kèm theo Thông
tư số 01/2016/TT-BTP và chuẩn bị các tài liệu để xuất trình cho cơ
quan thi hành án theo Điều 7 Thông tư số 216/2016/TT-BTC.

715
- Thủ tục thu, nộp phí thi hành án: Thủ tục thu, nộp phí thi hành
án được quy định tại Điều 5 Thông tư số 216/2016/TT-BTC. Khi xem
xét, Luật sư cần lưu ý một số nội dung sau:
+ Thẩm quyền ra quyết định thu phí thi hành án: Là Thủ trưởng
tổ chức thu phí.
+ Đối với trường hợp giao tài sản thì trước khi giao tài sản ít
nhất 15 ngày, tổ chức thu phí phải thông báo số tiền phí thi hành án dân
sự mà người được thi hành án phải nộp.
2.1.4. Tư vấn một số vấn đề khác
a) Tư vấn về việc ủy thác thi hành án
Khi tư vấn về vấn đề ủy thác thi hành án, Luật sư cần căn cứ
các điều 55, 56, 57 Luật Thi hành án dân sự và Điều 16 Nghị định số
62/2015/NĐ-CP để lưu ý các vấn đề sau:
- Thứ nhất, về thẩm quyền ủy thác: Nếu Luật sư nhận tư vấn thi
hành án các bản án, quyết định về nhận người lao động trở lại làm việc
hoặc bồi thường thiệt hại mà người phải thi hành án là cơ quan nhà
nước cấp tỉnh trở lên; bản án, quyết định có yếu tố nước ngoài hoặc
liên quan đến quyền ở hữu trí tuệ; quyết định của Trọng tài thương
mại; quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc
cạnh tranh thì khi có việc ủy thác thi hành án, Luật sư cần lưu ý về
cơ quan nhận ủy thác phải là cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh chứ
không phải là cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện.
- Thứ hai, về căn cứ ủy thác: Khi người phải thi hành án có tài
sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở ở địa phương khác thì cơ quan thi
hành án dân sự phải ủy thác thi hành án. Đồng thời, nếu nghĩa vụ thi
hành án liên quan đến tài sản thì cơ quan thi hành án dân sự phải ủy
thác đến nơi người phải thi hành án có tài sản, chỉ khi không xác định
được nơi có tài sản hoặc nơi có tài sản trùng với nơi làm việc, cư trú,
có trụ sở của người phải thi hành án thì ủy thác đến nơi làm việc, cư
trú hoặc nơi có trụ sở của người đó.

716
- Thứ ba, về vấn đề ủy thác thi hành nghĩa vụ liên đới: Trước khi
thực hiện việc ủy thác, Chấp hành viên phải xác minh điều kiện thi
hành án của những người phải thi hành nghĩa vụ liên đới và phải thực
hiện việc ủy thác toàn bộ nghĩa vụ thi hành án đến nơi có điều kiện
thi hành án. Vì vậy, Luật sư cần kiểm tra xem chấp hành viên có tiến
hành xác minh điều kiện thi hành án của những người có nghĩa vụ liên
đới hay không; việc ủy thác của cơ quan thi hành án là ủy thác toàn bộ
nghĩa vụ hay chỉ ủy thác phần nghĩa vụ của từng người. Đồng thời, để
bảo vệ cho quyền lợi của người được thi hành án, Luật sư cũng có thể
đề nghị Chấp hành viên áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án đối với
tài sản ở địa phương có điều kiện thi hành án nhưng cơ quan thi hành
án không lựa chọn ủy thác thi hành án.
b) Tư vấn về việc hoãn thi hành án
Luật sư căn cứ các quy định tại Điều 48 Luật Thi hành án dân sự
và Điều 14 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP để tư vấn cho khách hàng về
việc hoãn thi hành án của cơ quan thi hành án như sau:
- Thứ nhất, về căn cứ ra quyết định hoãn thi hành án: cơ quan
thi hành án dân sự chỉ được ra quyết định hoãn thi hành án trong các
trường hợp quy định tại Điều 48 Luật Thi hành án dân sự.
- Thứ hai, về thời hạn ra quyết định hoãn thi hành án:
+ Đối với trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 48: thời hạn ra
quyết định hoãn thi hành án là 05 ngày làm việc, kể từ ngày có căn cứ
hoãn thi hành án.
+ Đối với trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 48: thời hạn ra
quyết định hoãn thi hành án là ngay khi nhận được yêu cầu của người
có thẩm quyền.
- Thứ ba, về thời gian hoãn thi hành án: Luật sư cần lưu ý đối với
trường hợp hoãn theo yêu cầu của người có thẩm quyền kháng nghị
bản án, quyết định thì thời hạn hoãn thi hành án là không quá 03 tháng
kể từ ngày ra văn bản yêu cầu hoãn thi hành án của người có thẩm

717
quyền kháng nghị chứ không phải là kể từ ngày nhận được văn bản
yêu cầu hoãn.
- Thứ tư, về vấn đề xử lý khoản tiền đã thu được nhưng bị hoãn
thi hành án để xem xét lại bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm: trường hợp cơ quan thi hành án đã thu được tiền nhưng
bị hoãn thi hành án để xem xét lại bản án, quyết định theo thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm thì cơ quan thi hành án dân sự không chi trả tiền
cho người được thi hành án mà làm thủ tục gửi tiền vào ngân hàng theo
hình thức tiết kiệm không kỳ hạn.
c) Tư vấn về việc tạm đình chỉ thi hành án
Luật sư căn cứ vào Điều 49 Luật Thi hành án dân sự để tư vấn
cho khách hàng về vấn đề tạm đình chỉ của cơ quan thi hành án dân sự
như sau:
- Thứ nhất, về căn cứ tạm đình chỉ thi hành án: Cơ quan thi hành
án dân sự chỉ có hai căn cứ để tạm đình chỉ thi hành án là khi nhận
được quyết định tạm đình chỉ thi hành án của người có thẩm quyền
kháng nghị bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm và
khi nhận được thông báo của Tòa án về việc đã thụ lý đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản đối với người phải thi hành án.
- Thứ hai, về căn cứ ra quyết định tiếp tục thi hành án: Do
khoản 5 Điều 343 BLTTDS 2015 đã bổ sung thêm một thẩm quyền
của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm là thẩm quyền sửa một phần hoặc
toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, nhưng
Luật Thi hành án dân sự chưa quy định nên cơ quan thi hành án dân sự áp
dụng tương tự Điều 49 Luật Thi hành án dân sự để ra quyết định tiếp tục thi
hành án theo hướng dẫn tại mục 8 của Công văn số 1103/TCTHADS-NV1
ngày 30/3/2017 hướng dẫn một số vấn đề về nghiệp vụ thi hành án
dân sự. Vì vậy, nếu có việc tạm đình chỉ hoặc không tạm đình chỉ
của cơ quan thi hành án trong trường hợp này, Luật sư cũng cần cân
nhắc hướng dẫn tại Công văn số 1103/TCTHADS-NV1 để tư vấn cho
khách hàng.

718
- Thứ ba, về việc xử lý tài sản đã bán đấu giá và khoản tiền đã
thu được sau khi bán đấu giá: Trường hợp cơ quan thi hành án dân
sự đã bán đấu giá tài sản của người phải thi hành án và người trúng
đấu giá đã nộp đủ tiền mua tài sản bán đấu giá mà cơ quan thi hành
án nhận được quyết định tạm đình chỉ thi hành án của người có thẩm
quyền kháng nghị thì Chấp hành viên căn cứ khoản 5 Điều 49 Nghị
định số 62/2015/NĐ-CP để gửi khoản tiền đã thu được vào ngân hàng
theo hình thức tiết kiệm không kỳ hạn và căn cứ Điều 103 Luật Thi
hành án dân sự để tiến hành giao tài sản cho người trúng đấu giá ngay
tình. Trong trường hợp này, tùy thuộc vào đối tượng khách hàng mà
Luật sư nhận tư vấn để khiếu nại hay không khiếu nại về việc không
giao tài sản, không trả tiền đã thu được trong thời hạn luật định.
d) Tư vấn về việc đình chỉ thi hành án
Luật sư căn cứ vào Điều 50 Luật Thi hành án dân sự để tư vấn về
việc đình chỉ thi hành án như sau:
- Thứ nhất, về căn cứ ra quyết định đình chỉ thi hành án: Cơ quan
thi hành án chỉ ra quyết định đình chỉ thi hành án khi thỏa mãn các
căn cứ được quy định tại Điều 50 Luật Thi hành án dân sự. Một trong
những căn cứ được áp dụng nhiều nhất trên thực tế đó là đương sự có
thỏa thuận bằng văn bản hoặc người được thi hành án có văn bản yêu
cầu cơ quan thi hành án dân sự đình chỉ thi hành một phần hoặc toàn
bộ quyền, lợi ích được hưởng theo bản án, quyết định. Tuy nhiên, có
nhiều trường hợp Chấp hành viên từ chối ghi nhận sự thỏa thuận yêu
cầu cơ quan thi hành án dân sự đình chỉ thi hành một phần hoặc toàn
bộ quyền, lợi ích được hưởng theo bản án, quyết định với lý do việc
đình chỉ thi hành án ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người
thứ ba thì Luật sư cần tư vấn cho khách hàng về việc tìm các chứng cứ
để chứng minh việc đình chỉ này không ảnh hưởng đến quyền, lợi ích
hợp pháp của người thứ ba.
- Thứ hai, về cách xử lý hồ sơ thi hành án của Chấp hành viên khi
người có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ thi hành án: Đối với trường
hợp Chấp hành viên đã ra quyết định kê biên, xử lý tài sản thì sau khi có

719
quyết định đình chỉ thi hành án, Chấp hành viên phải ra quyết định giải
tỏa kê biên tài sản; trường hợp đình chỉ với căn cứ người được thi hành
chết mà không có người thừa kế thì bên cạnh việc giải tỏa kê biên tài sản,
Chấp hành viên phải trả lại tài sản cho người phải thi hành án, nếu Chấp
hành viên đã bán đấu giá tài sản và thu được tiền thì số tiền phải thi hành
cho người được thi hành án đã chết được nộp vào Ngân sách nhà nước.
đ) Tư vấn về xác định việc chưa có điều kiện thi hành án
Luật sư căn cứ vào Điều 44a Luật Thi hành án dân sự, Điều 9
Nghị định số 62/2015/NĐ-CP để tư vấn về việc xác định việc chưa có
điều kiện thi hành án như sau:
- Thứ nhất, về căn cứ ra quyết định xác định việc chưa có điều
kiện thi hành án: Bên cạnh việc đối chiếu với quy định pháp luật về căn
cứ xác định việc chưa có điều kiện thi hành án, Luật sư cần phải kiểm
tra kết quả xác minh của Chấp hành viên để xem xét việc ra quyết định
xác định việc chưa có điều kiện thi hành án của Cơ quan thi hành án
dân sự là đúng hay sai.
- Thứ hai, về cách xử lý hồ sơ thi hành án khi ra quyết định xác
định việc chưa có điều kiện thi hành án. Trường hợp Luật sư nhận tư
vấn cho người được thi hành án thì Luật sư sẽ xem xét thủ tục công
khai thông tin của người phải thi hành án theo quy định tại khoản 2
Điều 44a Luật Thi hành án dân sự. Đồng thời, Luật sư cần tư vấn cho
khách hàng trong việc cung cấp thông tin mới về điều kiện thi hành án
của người phải thi hành án cho Chấp hành viên và yêu cầu Chấp hành
viên tiến hành xác minh nội dung thông tin theo quy định tại khoản 4,
khoản 5 Điều 9 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP.
2.1.5. Kỹ năng tư vấn về việc khiếu nại, giải quyết khiếu nại trong
thi hành án dân sự
a) Soạn thảo đơn khiếu nại về thi hành án
(i) Xác định chủ thể khiếu nại về thi hành án
Khi tư vấn về chủ thể khiếu nại về thi hành án, Luật sư cần xem
xét các vấn đề sau:

720
- Người có quyền khiếu nại: Theo quy định tại Điều 140 Luật
Thi hành án dân sự thì người có quyền khiếu nại bao gồm người
phải thi hành án, người được thi hành án và người có quyền, lợi ích
liên quan.
- Đối tượng bị khiếu nại: Cũng theo quy định tại Điều 140
Luật Thi hành án dân sự thì đối tượng bị khiếu nại là quyết định,
hành vi của Chấp hành viên, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân
sự nếu có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật,
xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại. Để xác
định các hành vi, quyết định của Chấp hành viên, Thủ trưởng cơ
quan thi hành án dân sự có trái pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi
ích hợp pháp của người khiếu nại hay không, Luật sư cần xem xét
và đối chiếu với các quy định của pháp luật theo phần phân tích tại
mục “tư vấn về trình tự, thủ tục thi hành án” để nhận biết và tư vấn
cho người khiếu nại.
- Người bị khiếu nại: Theo quy định tại Điều 140 Luật Thi hành
án dân sự thì người bị khiếu nại chỉ là Chấp hành viên, Thủ trưởng cơ
quan thi hành án dân sự. Luật sư lưu ý, trên thực tế, người phải thi hành
án, người được thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có
thể làm việc với rất nhiều chức danh khác trong quá trình thi hành án
tại cơ quan thi hành án như Thẩm tra viên, Thư ký thi hành án, chuyên
viên, cán sự, văn thư, thủ quỹ, thủ kho cơ quan thi hành án dân sự,...
nhưng họ không phải là những người bị khiếu nại, mà Luật sư chỉ có
thể tư vấn cho khách hàng khiếu nại đối với Chấp hành viên hoặc Thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự.
(ii) Xác định thời hiệu khiếu nại
Khi tư vấn về việc khiếu nại thi hành án, Luật sư cần căn cứ
khoản 2 Điều 140 Luật Thi hành án dân sự để xác định thời hiệu khiếu
nại đối với quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan thi hành án,
Chấp hành viên như sau:
- Đối với quyết định, hành vi về thi hành án trước khi áp dụng

721
biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế là 15 ngày, kể từ ngày nhận
được quyết định hoặc biết được hành vi đó;
- Đối với quyết định về áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản là
03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định;
- Đối với quyết định, hành vi về áp dụng biện pháp bảo đảm khác
(tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự; tạm dừng việc đăng ký, chuyển
quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản) là 10 ngày, kể từ
ngày nhận được quyết định hoặc biết được hành vi đó;
- Đối với quyết định, hành vi về áp dụng biện pháp cưỡng chế là
30 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hoặc biết được hành vi đó;
- Đối với quyết định, hành vi sau khi áp dụng biện pháp cưỡng
chế là 30 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hoặc biết được hành
vi đó.
Trường hợp do trở ngại khách quan hoặc do sự kiện bất khả
kháng mà người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo
đúng thời hạn thì thời gian có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả
kháng không tính vào thời hạn khiếu nại.
Lần khiếu nại tiếp theo, thời hiệu là 15 ngày, kể từ ngày nhận
được quyết định giải quyết khiếu nại của người có thẩm quyền.
Như vậy, với mỗi loại quyết định, hành vi thì thời hiệu khiếu nại
được xác định khác nhau, Luật sư cần phải biết được loại quyết định, hành
vi sẽ khiếu nại thuộc vào nhóm nào để xác định là còn thời hiệu hay không
còn thời hiệu, từ đó, quyết định khiếu nại hay không khiếu nại.
Ngoài ra, theo khoản 3 Điều 38 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP
thì quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định áp dụng
biện pháp bảo đảm thi hành án có hiệu lực thi hành. Do đó, nếu đương
sự hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khiếu nại tiếp đối với
quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu về quyết định áp dụng biện
pháp bảo đảm thi hành án thì Luật sư tư vấn không nên khiếu nại đối
với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu vì cơ quan thi hành án dân

722
sự sẽ không thụ lý, giải quyết việc khiếu nại của họ mà sẽ tư vấn cho
khách hàng khiếu nại các quyết định, hành vi tiếp theo của Chấp hành
viên như quyết định khấu trừ tài khoản sau khi áp dụng biện pháp
phong tỏa tài khoản hoặc quyết định kê biên của Chấp hành viên sau
khi áp dụng biện pháp tạm giữ tài sản…
(iii) Xác định thẩm quyền giải quyết khiếu nại
Khi tư vấn về việc giải quyết khiếu nại thì Luật sư cũng cần
phải lưu ý về thẩm quyền giải quyết khiếu nại được quy định tại Điều 142
Luật Thi hành án dân sự và Điều 7 Thông tư số 02/2016/TT-BTP
ngày 01/02/2016 của Bộ Tư pháp quy định quy trình giải quyết đơn
khiếu nại, tố cáo, đề nghị, kiến nghị, phản ánh trong thi hành án dân sự
(Thông tư số 02/2016/TT-BTP). Theo đó, có 07 chủ thể có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại, bao gồm:
- Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện;
- Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh;
- Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp;
- Bộ trưởng Bộ Tư pháp;
- Thủ trưởng cơ quan thi hành án cấp quân khu;
- Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng;
- Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Mỗi chủ thể nói trên đều có những thẩm quyền riêng biệt được
quy định cụ thể tại Điều 142 Luật Thi hành án dân sự. Do vậy, khi soạn
thảo đơn khiếu nại Luật sư cần xem xét kỹ về thẩm quyền để tránh
trường hợp gửi đến chủ thể có thẩm quyền giải quyết không đúng quy
định pháp luật.
b) Kỹ năng tư vấn về trình tự giải quyết khiếu nại
(i) Tư vấn về việc thụ lý đơn khiếu nại
Theo quy định tại Điều 148 Luật Thi hành án dân sự và

723
Điều 9 Thông tư số 02/2016/TT-BTP thì trong thời hạn 05 ngày
làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền
giải quyết và không thuộc trường hợp quy định tại Điều 141 Luật
Thi hành án dân sự, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần
đầu phải thụ lý để giải quyết và thông báo bằng văn bản cho người
khiếu nại biết.
Như vậy, trong trường hợp người có thẩm quyền không thụ lý
đơn khiếu nại để giải quyết thì phải thông báo và nêu rõ lý do. Để xác
định việc người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại không thụ lý đơn
khiếu nại là có căn cứ hay không thì Luật sư căn cứ vào Điều 141 Luật
Thi hành án dân sự để tư vấn cho người khiếu nại. Những trường hợp
không thụ lý giải quyết đơn khiếu nại gồm:
+ Quyết định, hành vi bị khiếu nại không liên quan trực tiếp đến
quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại.
+ Người khiếu nại không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ mà
không có người đại diện hợp pháp, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác.
+ Người đại diện không có giấy tờ chứng minh về việc đại diện
hợp pháp của mình.
+ Thời hiệu khiếu nại đã hết.
+ Việc khiếu nại đã có quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu
lực thi hành, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 4 và điểm b
khoản 7 Điều 142 của Luật Thi hành án dân sự.
(ii) Tư vấn về thời hạn giải quyết khiếu nại
Theo quy định tại Điều 146 Luật Thi hành án dân sự thì với mỗi
loại hành vi, quyết định khác nhau, người có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại sẽ có các thời hạn khác nhau để giải quyết khiếu nại, nếu vi
phạm thời hạn đó thì người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đã vi
phạm quy định pháp luật về việc giải quyết khiếu nại. Vì vậy, Luật sư
cần xác định được hành vi, quyết định bị khiếu nại thuộc điểm nào

724
khoản 2 của Điều 140 Luật Thi hành án dân sự để xác định thời hạn
giải quyết khiếu nại của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại.
(iii) Tư vấn về trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại
Khi tư vấn về trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, Luật sư cần
đối chiếu với quy định tại các Điều 150, 152 Luật Thi hành án dân sự
và Thông tư số 02/2016/TT-BTP để xem xét người có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại đã thực hiện đúng trình tự luật định không, ví dụ: tiến
hành xác minh chưa, đã yêu cầu người bị khiếu nại giải trình chưa,
trường hợp cần trưng cầu giám định thì người giải quyết khiếu nại đã
trưng cầu giám định chưa,… Nếu chưa thực hiện các công việc theo
trình tự, thủ tục luật định thì Luật sư tư vấn cho người khiếu nại yêu
cầu phải xác minh, phải trưng cầu giám định, tổ chức đối thoại khi cần
thiết. Cụ thể, trình tự giải quyết khiếu nại lần đầu và giải quyết khiếu
nại lần hai được quy định tại Điều 150 và Điều 152 Luật Thi hành án
dân sự như sau:
- Trình tự giải quyết khiếu nại lần đầu: Sau khi thụ lý đơn khiếu
nại, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiến hành xác minh, yêu
cầu người bị khiếu nại giải trình, trong trường hợp cần thiết, có thể
trưng cầu giám định hoặc tổ chức đối thoại để làm rõ nội dung khiếu
nại, yêu cầu của người khiếu nại và hướng giải quyết khiếu nại. Người
có thẩm quyền giải quyết khiếu nại phải ra quyết định giải quyết khiếu
nại đối với khiếu nại thuộc thẩm quyền.
- Trình tự giải quyết khiếu nại lần hai: Trường hợp tiếp tục khiếu
nại thì người khiếu nại phải gửi đơn kèm theo bản sao quyết định giải
quyết khiếu nại lần đầu và tài liệu liên quan cho người có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại lần hai.
Trong quá trình giải quyết khiếu nại lần hai, người có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại có các quyền được quy định tại Điều 145 của Luật
Thi hành án dân sự và có quyền yêu cầu người giải quyết khiếu nại
lần đầu, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin, tài
liệu và những bằng chứng liên quan đến nội dung khiếu nại; triệu tập

725
người bị khiếu nại, người khiếu nại để tổ chức đối thoại khi cần thiết;
xác minh; trưng cầu giám định, tiến hành các biện pháp khác theo quy
định của pháp luật để giải quyết khiếu nại. Cơ quan, tổ chức, cá nhân
khi nhận được yêu cầu phải thực hiện đúng các yêu cầu đó.
Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai phải ra quyết
định giải quyết khiếu nại.
2.2. Kỹ năng của Kiểm sát viên trong hoạt động thi hành án dân sự
Kiểm sát thi hành án dân sự là một trong những công tác thực
hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND theo
quy định của Hiến pháp và pháp luật. Kiểm sát thi hành án dân sự là
hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Thủ trưởng, Phó Thủ
trưởng, Chấp hành viên, cán bộ cơ quan thi hành án trong hoạt động tổ
chức thi hành án. Vì vậy, khi thực hiện chức năng này, Kiểm sát viên
sẽ tiến hành các công việc sau:
2.2.1. Xác định đối tượng kiểm sát thi hành án dân sự
Theo quy định tại Điều 2 Quy chế Công tác kiểm sát thi hành
án dân sự, thi hành án hành chính (ban hành kèm theo Quyết định số
810/2016/QĐ-VKSTCV11 ngày 20/12/2016 của VKSNDTC về việc
ban hành quy chế công tác kiểm sát thi hành án dân sự, thi hành án hành
chính) thì đối tượng của công tác kiểm sát thi hành án dân sự là việc tuân
theo pháp luật trong việc thi hành bản án, quyết định dân sự đã có hiệu
lực thi hành của Tòa án; các quyết định của Trọng tài thương mại; quyết
định của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh của các chủ thể sau:
- Tòa án nhân dân;
- Cơ quan thi hành án dân sự;
- Chấp hành viên;
- Cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có liên quan.
Như vậy, kiểm sát viên chỉ kiểm sát quyết định, hành vi của các
chủ thể nói trên trong quá trình tổ chức thi hành bản án, quyết định
dân sự.

726
2.2.2. Xác định quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong công
tác kiểm sát thi hành án dân sự
Khi kiểm sát hoạt động thi hành án dân sự, các Kiểm sát viên
cần căn cứ quy định của Luật Tổ chức VKSND năm 2014; Điều 5
Quy chế Công tác kiểm sát thi hành án dân sự, thi hành án hành chính
ban hành kèm theo Quyết định số 810/2016/QĐ-VKSTC-V11 để xác
định các quyền hạn của VKSND trong công tác kiểm sát thi hành án
dân sự.
2.2.3. Xác định các nội dung kiểm sát thi hành án dân sự
2.2.3.1. Kiểm sát việc cấp, giao bản án, quyết định; giải thích,
đính chính, sửa chữa, bổ sung bản án, quyết định của Tòa án
Khi kiểm sát việc cấp, giao bản án, quyết định; giải thích, đính
chính, sửa chữa, bổ sung bản án, quyết định, Kiểm sát viên lưu ý, chỉ
kiểm sát việc cấp, giao bản án, quyết định; giải thích, đính chính, sửa
chữa, bổ sung bản án, quyết định của Tòa án mà không kiểm sát việc
cấp, giao bản án, quyết định; giải thích, đính chính, sửa chữa, bổ sung
quyết định của các cơ quan có thẩm quyền khác như Trọng tài thương
mại hoặc Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh.
- Kiểm sát việc cấp, giao bản án, quyết định:
Kiểm sát viên phải kiểm sát về loại bản án, quyết định được cấp
cho đương sự; thời hạn, trình tự thủ tục cấp, giao bản án, quyết định.
Cụ thể:
+ Đối với loại bản án, quyết định được cấp cho đương sự: kiểm
sát viên căn cứ Điều 27 Luật Thi hành dân sự để xác định trong bản án,
quyết định được cấp có ghi chữ “Để thi hành” không?
+ Đối với thời hạn cấp, giao bản án, quyết định: Kiểm sát viên
căn cứ vào quy định của BLTTDS 2015, Điều 196, 197, 244, 264, 279
Luật Tố tụng hành chính, Điều 262 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 28
Luật Thi hành án dân sự để xác định Tòa án đã ra bản án, quyết định
có cấp, giao bản án, quyết định cho cơ quan thi hành án, người được

727
thi hành án, người phải thi hành án, VKSND đúng thời hạn luật định
hay chưa?
+ Đối với thủ tục giao nhận bản án, quyết định: Kiểm sát viên sẽ
căn cứ vào Điều 29 Luật Thi hành án dân sự để kiểm sát việc giao bản
án, quyết định; giao biên bản kê biên, tạm giữ vật chứng, tang vật, tài
sản và các tài liệu khác có liên quan của Tòa án cho cơ quan thi hành
án dân sự và kiểm sát thủ tục nhận bản án, quyết định; nhận biên bản
kê biên, tạm giữ vật chứng, tang vật, tài sản và các tài liệu khác có liên
quan của cơ quan thi hành án.
- Kiểm sát việc giải thích, sửa chữa, bổ sung bản án, quyết định
của Tòa án:
Kiểm sát viên căn cứ vào Điều 179 Luật Thi hành án dân sự,
Điều 268, 486 BLTTDS 2015, Điều 310 Luật Tố tụng hành chính để
xác định Tòa án có thực hiện nghĩa vụ giải thích; sửa đổi, bổ sung bản
án, quyết định theo yêu cầu của cơ quan thi hành án không? Nếu có thì
việc giải thích; sửa đổi, bổ sung bản án, quyết định có đúng trong thời
hạn luật định không?
2.2.3.2. Kiểm sát việc nhận đơn, thủ tục nhận đơn, từ chối nhận
đơn yêu cầu thi hành án
Kiểm sát viên căn cứ Điều 31 Luật Thi hành án dân sự để xác
định việc nhận đơn, từ chối nhận đơn yêu cầu thi hành án của cơ quan
thi hành án là đúng hay sai. Khi kiểm sát việc nhận đơn thì Kiểm sát
viên cần lưu ý các vấn đề sau:
- Trường hợp người yêu cầu là cơ quan, tổ chức: kiểm sát viên
phải xem xét người yêu cầu thi hành án có phải là người đại diện theo
pháp luật của cơ quan, tổ chức không;
- Trường hợp người yêu cầu là người được ủy quyền: Kiểm sát
viên phải xem xét về hình thức và nội dung của văn bản ủy quyền có
đúng với quy định của pháp luật không.
Riêng đối với việc từ chối yêu cầu thi hành án thì Kiểm sát viên

728
còn phải căn cứ vào Điều 4 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP để xác định
việc nhận đơn trong trường hợp vượt quá thời hiệu yêu cầu thi hành
án do sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan; nhận đơn trong
trường hợp đã trả đơn yêu cầu thi hành án trước ngày 01/7/2015 và
trường hợp phạm nhân là người phải thi hành án, thân nhân của họ
hoặc người được họ ủy quyền yêu cầu thi hành án tự nguyện nộp tiền,
tài sản thi hành án khi đã hết thời hiệu yêu cầu thi hành án; và khoản 4
Điều 7 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP để xác định cơ quan thi hành án
được từ chối nhận yêu cầu thi hành án trong trường hợp bản án, quyết
định không xác định cụ thể người phải thi hành án và nghĩa vụ phải
thi hành.
2.2.3.3. Kiểm sát việc ra quyết định thi hành án dân sự; yêu cầu,
đôn đốc thi hành bản án, quyết định hành chính
(i) Kiểm sát việc ra quyết định thi hành án dân sự
Khi kiểm sát việc ra quyết định thi hành án dân sự, Kiểm sát viên
sẽ kiểm sát các nội dung sau:
- Kiểm sát căn cứ ra quyết định thi hành án dân sự
Kiểm sát viên căn cứ Điều 2 Luật Thi hành án dân sự để xác
định loại bản án, quyết định mà cơ quan thi hành án ra quyết định
có phải là loại bản án quyết định được thi hành không? Khi kiểm
sát nội dung này, Kiểm sát viên cần lưu ý việc ra quyết định thi
hành án đối với loại bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm có
hiệu lực thi hành ngay mặc dù có thể bị kháng cáo kháng nghị. Trên
thực tế, phần có hiệu lực thi hành ngay này chỉ là một phần trong
bản án, quyết định. Ví dụ, bên cạnh việc định đoạt nghĩa vụ cấp
dưỡng, trong bản án, quyết định hôn nhân và gia đình còn định đoạt
các khoản khác như phân chia tài sản chung, án phí,… Hoặc trong
bản án, quyết định hình sự, bên cạnh khoản bồi thường thiệt hại về
tính mạng, sức khỏe, còn có các khoản như bồi thường về tài sản,
án phí,… Như vậy, các khoản về cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại
về tính mạng, sức khỏe thì có hiệu lực thi hành ngay nhưng khoản

729
phân chia tài sản chung, bồi thường thiệt hại về tài sản, án phí chưa
được thi hành ngay. Ngoài ra, đối với phán quyết, quyết định của
Trọng tài thương mại, Kiểm sát viên cũng cần lưu ý là không phải
phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại đều sẽ được thi
hành ngay sau khi có hiệu lực pháp luật mà nó phải đáp ứng các
điều kiện khác phải có chứng cứ về việc các bên không tự nguyện
thi hành và không yêu cầu Tòa án hủy phán quyết.
- Kiểm sát thẩm quyền ra quyết định thi hành án
Kiểm sát viên căn cứ Điều 23, 35, 36 Luật Thi hành án dân sự để
xác định bản án, quyết định của cơ quan thi hành án đã ban hành có
đúng thẩm quyền về chủ thể và địa hạt không. Đối với các phán quyết,
quyết định của Trọng tài thương mại, các cơ quan thi hành án rất dễ
nhầm lẫn về thẩm quyền theo địa hạt, do đó, Kiểm sát viên cần căn cứ
vào Điều 8 Luật Trọng tài thương mại để xác định Cục Thi hành án
dân sự đã ra quyết định thi hành án đối với phán quyết, quyết định của
Trọng tài thương mại có đúng thẩm quyền không.
- Kiểm sát thời hạn ra quyết định thi hành án
Kiểm sát viên căn cứ Điều 36 Luật Thi hành án dân sự để xác
định cơ quan thi hành án dân sự đã ra quyết định thi hành án đúng thời
hạn hay chưa.
- Kiểm sát về nội dung quyết định thi hành án
Kiểm sát viên căn cứ vào Điều 31 Luật Thi hành án dân sự,
Điều 6, 7 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP để xác định các nội dung sau:
+ Cơ quan thi hành án lựa chọn loại quyết định thi hành án (chủ
động ra quyết định thi hành án hay ra quyết định thi hành án theo yêu
cầu thi hành án) đã đúng chưa;
+ Đối với mỗi loại quyết định thi hành án thì số lượng các quyết
định thi hành án mà cơ quan thi hành án ban hành đã phù hợp với quy
định của pháp luật chưa?;
+ Phần nghĩa vụ phải thi hành có phù hợp với bản án không;

730
+ Quyết định thi hành án có định đoạt thời hạn tự nguyện thi
hành án không? Việc định đoạt thời hạn tự nguyện có phù hợp với
Điều 45 Luật Thi hành án dân sự không?
(ii) Kiểm sát việc yêu cầu, đôn đốc thi hành bản án, quyết định
hành chính
Kiểm sát viên căn cứ Điều 311, 312 Luật Tố tụng hành chính,
Điều 14, 15, 16, 17, 18, 19 Nghị định số 71/2016/NĐ-CP
ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định thời hạn, trình tự, thủ tục thi
hành án hành chính và xử lý trách nhiệm đối với người không thi hành
bản án, quyết định của Tòa án để kiểm sát việc theo dõi thi hành bản
án, quyết định hành chính của cơ quan thi hành án.
2.2.3.4. Kiểm sát việc gửi các quyết định về thi hành án, thông
báo thi hành án
(i) Kiểm sát việc gửi các quyết định về thi hành án
Kiểm sát viên căn cứ Điều 38 Luật Thi hành án dân sự, Điều 13
Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC để
kiểm sát việc gửi các quyết định về thi hành án của cơ quan thi hành án
cho VKSND cùng cấp, gửi các quyết định cưỡng chế thi hành án cho
Ủy ban nhân dân cấp xã, cho cơ quan, tổ chức có liên quan đến việc
cưỡng chế thi hành án.
(ii) Kiểm sát việc thông báo và thủ tục thông báo thi hành án
Kiểm sát viên căn cứ vào Điều 39, 40, 41, 42, 43 Luật Thi hành
án dân sự; Điều 12 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP và Điều 2 Thông
tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC để kiểm sát
các nội dung sau:
- Loại văn bản được thông báo;
- Thời hạn thực hiện việc thông báo;
- Thủ tục thông báo trực tiếp cho cá nhân;
- Thủ tục thông báo trực tiếp cho cơ quan, tổ chức;

731
- Thủ tục niêm yết công khai;
- Thủ tục thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng.
2.2.3.5. Kiểm sát việc ủy thác thi hành án
- Kiểm sát viên căn cứ vào Điều 55, 56 Luật Thi hành án dân sự,
khoản 1, 2, 3 Điều 16 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP để kiểm sát các
nội dung như nghĩa vụ thực hiện việc ủy thác, thẩm quyền ủy thác, thời
gian ủy thác.
Theo đó, Kiểm sát viên cần lưu ý một số việc ủy thác mà cơ
quan thi hành án hay có sai sót và nhầm lẫn như việc ủy thác thi hành
nghĩa vụ liên đới; thời gian ủy thác từ khi xác định có căn cứ ủy thác;
ủy thác đến cơ quan thi hành án cấp tỉnh hay cấp huyện; trường hợp
người phải thi hành án có nhiều tài sản ở nhiều địa phương khác nhau;
trường hợp người phải thi hành án thế chấp tài sản và tài sản thế chấp
có ở địa phương khác…
- Kiểm sát viên căn cứ Điều 57 Luật Thi hành án dân sự, khoản 4,
5 Điều 16 và Điều 34 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP để kiểm sát trình
tự, thủ tục, nội dung ủy thác và nhận ủy thác thi hành án dân sự.
Khi kiểm sát các vấn đề này, Kiểm sát viên cần lưu ý về trường
hợp trả lại quyết định ủy thác của các cơ quan thi hành án; trường hợp
cơ quan thi hành án phải xử lý tài sản tạm giữ, thu giữ, tài sản kê biên
tại địa bàn có liên quan đến khoản ủy thác.
2.2.3.6. Kiểm sát việc áp dụng thời hiệu yêu cầu thi hành án
dân sự
- Kiểm sát viên căn cứ Điều 30 Luật Thi hành án dân sự, Điều 4
Nghị định số 62/2015/NĐ-CP để kiểm sát việc áp dụng thời hiệu trong
thi hành án.
Khi kiểm sát vấn đề này, Kiểm sát viên cần lưu ý các nội dung sau:
+ Thời hiệu yêu cầu thi hành án của đương sự;
+ Thời hiệu yêu cầu thi hành án của đương sự đối với bản án,

732
quyết định thi hành án theo định kỳ, nghĩa vụ được ấn định trong bản
án, quyết định.
- Kiểm sát viên căn cứ khoản 2, 3 Điều 30 Luật Thi hành án dân
sự, Điều 4 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP để kiểm sát việc trừ vào thời
hiệu yêu cầu và khôi phục thời hiệu yêu cầu thi hành án.
Khi kiểm sát vấn đề này, kiểm sát viên cần lưu ý các nội dung sau:
+ Điều kiện được khôi phục thời hiệu thi hành án;
+ Thẩm quyền khôi phục thời hiệu thi hành án;
+ Xem xét những tài liệu trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất
khả kháng do người yêu cầu chứng minh;
+ Những trường hợp không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án.
2.2.3.7. Kiểm sát việc ra các quyết định hoãn, tạm đình chỉ, đình
chỉ thi hành án, tiếp tục việc thi hành án, quyết định xác định việc chưa
có điều kiện thi hành án
Kiểm sát viên căn cứ Điều 44a, 48, 49, 50 Luật Thi hành án dân
sự, Điều 14 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP để kiểm sát các nội dung sau:
- Nội dung các quyết định;
- Căn cứ pháp luật áp dụng;
- Thẩm quyền;
- Thời hạn hoãn, tạm đình chỉ, tiếp tục thi hành án.
Ngoài ra, khi kiểm sát đối với từng loại quyết định nói trên, Kiểm
sát viên cần có một số lưu ý sau:
- Đối với quyết định hoãn thi hành án:
+ Với căn cứ hoãn tại điểm a, điểm b khoản 1 Điều 48 Luật Thi
hành án dân sự thì cơ quan thi hành án chỉ được ra quyết định hoãn
trong trường hợp người phải thi hành án phải thi hành loại nghĩa vụ mà
phải do chính người đó thực hiện, còn các nghĩa vụ về trả tiền, giao trả

733
tài sản,… là loại nghĩa vụ không bắt buộc phải do chính người phải thi
hành án phải thực hiện thì không được ra quyết định hoãn.
+ Với căn cứ hoãn tại điểm d khoản 1 Điều 48 Luật Thi hành án
dân sự thì cơ quan thi hành án chỉ được hoãn khi Tòa án thụ lý để giải
quyết vụ việc về chia tài sản chung, tài sản bị cưỡng chế có tranh chấp,
yêu cầu hủy giấy tờ, giao dịch liên quan đến tài sản thi hành án, còn
các trường hợp thụ lý khác như thụ lý yêu cầu hủy kết quả bán đấu
giá tài sản, đòi nợ đối với người khác… thì không thuộc phạm vi căn
cứ của điều luật này. Đồng thời, nếu trong biên bản xác minh thể hiện
người phải thi hành án còn có tài sản khác thì cơ quan thi hành án cũng
không được hoãn kể cả Tòa án đã thụ lý để giải quyết vụ việc. Trong
trường hợp này, cơ quan Thi hành án sẽ dừng việc thi hành án đối với
tài sản mà Tòa án đã thụ lý giải quyết nhưng vẫn tiếp tục tổ chức thi
hành án đối với tài sản khác của người phải thi hành án.
+ Đối với căn cứ hoãn tại khoản 2 Điều 48 Luật Thi hành án dân
sự thì Kiểm sát viên cũng cần lưu ý, trong trường hợp biện pháp cưỡng
chế mà Chấp hành viên sử dụng là biện pháp kê biên, xử lý tài sản thì
việc hoãn thi hành án cũng được áp dụng đối với cả trường hợp cơ
quan thi hành án nhận được văn bản yêu cầu hoãn của người có thẩm
quyền kháng nghị trong thời điểm cơ quan thi hành án đang tiến hành
định giá, bán đấu giá đối với tài sản.
- Đối với quyết định tạm đình chỉ thi hành án:
Kiểm sát viên cần lưu ý về việc cơ quan thi hành án chỉ ra quyết
định tạm đình chỉ khi nhận được thông báo của Tòa án về việc đã thụ
lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với người phải thi hành án; còn
trong trường hợp nhận được quyết định kháng nghị của người có thẩm
quyền kháng nghị thì cơ quan thi hành án chỉ ra thông báo tạm đình
chỉ thi hành án.
- Đối với quyết định đình chỉ thi hành án:
Kiểm sát viên cần lưu ý về biên bản xác minh của Chấp hành
viên khi căn cứ đình chỉ thi hành án là người phải thi hành án chết

734
không để lại di sản và người được thi hành án chết nhưng không có
người thừa kế. Còn trong trường hợp đương sự có thỏa thuận bằng văn
bản về việc yêu cầu cơ quan thi hành án đình chỉ thi hành án thì Kiểm
sát viên cần lưu ý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba.
- Đối với quyết định xác định việc chưa có điều kiện thi hành án:
+ Kiểm sát viên cần lưu ý các biên bản xác minh điều kiện thi
hành án của Chấp hành viên, nhất là trong trường hợp người phải thi
hành án là cơ quan, tổ chức;
+ Kiểm sát viên lưu ý về thủ tục công khai thông tin của cơ quan
thi hành án trong trường hợp người phải thi hành án chưa có điều kiện
thi hành án;
+ Nghĩa vụ xác minh lại của cơ quan thi hành án khi nhận được
thông tin về điều kiện thi hành án của cá nhân, cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền.
2.2.3.8. Kiểm sát việc chuyển giao quyền, nghĩa vụ thi hành án
Kiểm sát viên căn cứ quy định tại Điều 54 Luật Thi hành án
dân sự, Điều 15 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP để kiểm sát các nội
dung sau:
- Căn cứ chuyển giao quyền, nghĩa vụ thi hành án;
- Trình tự, thủ tục chuyển giao quyền, nghĩa vụ thi hành án.
Riêng đối với trường hợp kiểm sát việc chuyển giao quyền, nghĩa
vụ thi hành án có liên quan đến hợp đồng mua bán nợ giữa các tổ
chức tín dụng với Công ty mua bán nợ (VAMC) thì căn cứ Nghị định
số 53/2013/NĐ-CP ngày 18/5/2013 của Chính phủ về thành lập, tổ
chức và hoạt động của Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng
Việt Nam và Nghị định số 34/2015/NĐ-CP ngày 05/4/2015 sửa đổi, bổ
sung Nghị định số 53/2013/NĐ-CP.
Ngoài ra, khi kiểm sát việc chuyển giao quyền, nghĩa vụ thi hành
án, Kiểm sát viên cần lưu ý vấn đề sau: Hiện nay, các công ty thường

735
có hoạt động đổi tên doanh nghiệp trong giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh, đây hoàn toàn không phải là hoạt động chuyển giao quyền,
nghĩa vụ nên không được áp dụng quy định tại Điều 54 Luật Thi hành
án dân sự để thực hiện việc chuyển giao quyền, nghĩa vụ. Hoặc trường
hợp các ngân hàng có hoạt động sáp nhập các chi nhánh hoặc phòng
giao dịch thì cũng không thuộc trường hợp chuyển giao quyền, nghĩa
vụ vì ngân hàng là người được thi hành án vẫn không thay đổi, chỉ thay
đổi chi nhánh hoặc phòng giao dịch mà thôi.
2.2.3.9. Kiểm sát việc xác minh điều kiện thi hành án dân sự
Kiểm sát viên căn cứ Điều 44 Luật Thi hành án dân sự, Điều 9
Nghị định số 62/2015/NĐ-CP và Điều 3 Thông tư liên tịch số 11/2016/
TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC để kiểm sát các nội dung sau:
- Thời hạn xác minh điều kiện thi hành án;
- Xác minh đối với trường hợp người phải thi hành án chưa có
điều kiện thi hành án;
- Ủy quyền xác minh điều kiện thi hành án;
- Thủ tục xác minh điều kiện thi hành án;
- Thành phần tham gia xác minh;
- Nội dung xác minh.
Khi kiểm sát việc xác minh điều kiện thi hành án, Kiểm sát viên
cần lưu ý: đối với trường hợp người phải thi hành án chưa có điều kiện
thi hành án thì cơ quan thi hành án, Chấp hành viên chỉ xác minh hai
lần và sẽ tiến hành xác minh lại khi có thông tin mới về điều kiện thi
hành án của người phải thi hành án kể cả đối với án chủ động hay án
theo đơn yêu cầu.
2.2.3.10. Kiểm sát việc thoả thuận thi hành án dân sự
Kiểm sát viên căn cứ Điều 6, 7, 7a Luật Thi hành án dân sự và
Điều 5 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP để kiểm sát các nội dung sau:
- Nội dung thoả thuận;

736
- Thủ tục thoả thuận;
- Trách nhiệm của đương sự và cơ quan thi hành án trong trường
hợp không thực hiện đúng việc thoả thuận.
Khi kiểm sát việc thỏa thuận thi hành án, Kiểm sát viên lưu
ý, trên thực tế, các đương sự thường thỏa thuận rất nhiều vấn đề,
trong đó, rất nhiều thỏa thuận khác với nội dung bản án, quyết
định; thậm chí, có nhiều thỏa thuận khác với tiến trình thi hành án
mà cơ quan thi hành án đang tổ chức thi hành. Trong những trường
hợp như vậy, Kiểm sát viên phải xem xét nội dung thỏa thuận và
nội dung đó không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo
đức xã hội và không làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp
của người thứ ba, không nhằm mục đích trốn phí thi hành án và
đúng với thực tế thì việc cơ quan thi hành án chấp nhận thỏa thuận
cũng là phù hợp.
Ví dụ:
Bản án tuyên A phải trả cho Ngân hàng X số tiền là 2 tỷ đồng.
Nếu A không trả thì Ngân hàng X được quyền yêu cầu cơ quan có
thẩm quyền phát mãi tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất của B
tại thửa đất Z, địa chỉ M. Quá trình thi hành án, giữa Ngân hàng X,
A, và B có thỏa thuận về việc cho B được chuộc lại tài sản là thửa
đất Z với số tiền là 1,5 tỷ đồng. Số tiền còn lại A sẽ có trách nhiệm
trả Ngân hàng. Rõ ràng, trong trường hợp này việc thỏa thuận của
các bên rất khác với nội dung bản án của Tòa án nhưng việc ghi
nhận sự thỏa thuận sẽ thuận lợi cho quá trình thi hành án, đồng
thời, thỏa thuận này không vi phạm điều cấm của pháp luật, không
trái đạo đức xã hội nên việc ghi nhận thỏa thuận của Chấp hành
viên là không vi phạm quy định của pháp luật.
2.2.3.11. Kiểm sát việc thu, chi, thanh toán tiền thi hành án, phí
thi hành án, chi phí cưỡng chế thi hành án
Kiểm sát viên căn cứ vào quy định tại các điều 47, 60, 73, 128,
129 Luật Thi hành án dân sự, Luật Phí và lệ phí và các quy định
tại Điều 24, 27, 43, 44, 45, 49 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, Thông

737
tư số 01/2016/TT- BTP, Thông tư số 200/2016/TT-BTC, Thông tư số
216/2016/TT-BTC, Thông tư số 91/2010/TT-BTC... để kiểm sát các
nội dung sau:
- Thủ tục thu, chi, nộp tiền, thanh toán tiền thi hành án;
- Nội dung thu, chi;
- Thời hạn thu, chi, nộp tiền thi hành án theo quy định của pháp luật;
- Thứ tự thanh toán tiền thi hành án;
- Thanh toán tiền trong trường hợp có nhiều người được thi
hành án;
- Thanh toán tiền trong trường hợp cầm cố, thế chấp;
- Thanh toán tiền trong trường hợp phá sản.
Khi kiểm sát việc thu, chi, nộp tiền thi hành án, Kiểm sát viên cần
lưu ý đối với các vấn đề sau:
- Xác định những người được thi hành án trước thời điểm có
quyết định cưỡng chế là những người được hưởng quyền, lợi ích trong
các bản án, quyết định mà cơ quan thi hành án đang tổ chức thi hành
mà không phân biệt họ có hay chưa có đơn yêu cầu thi hành án. Nếu họ
chưa có đơn yêu cầu thi hành án thì cơ quan thi hành án vẫn phải trích
lại khoản tiền theo tỷ lệ họ được hưởng, sau đó thông báo cho họ về
việc làm đơn yêu cầu thi hành án, nếu họ không làm đơn yêu cầu trong
thời hạn quy định thì số tiền trích lại sẽ được thanh toán cho những
người đã có đơn yêu cầu thi hành án tính đến thời điểm có thông báo;
- Đối với việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp thì cần phân biệt
trường hợp bên nhận cầm cố, thế chấp là người được thi hành án và
bên nhận cầm cố, thế chấp không phải là người được thi hành án để
xác định thanh toán đối với khoản tiền chi phí cưỡng chế, án phí và
tiền thuê nhà (nếu có);
- Thời hạn thực hiện thanh toán đối với trường hợp bán đấu giá
tài sản để thi hành án là 10 ngày, kể từ ngày giao tài sản cho người mua
được tài sản bán đấu giá;

738
- Việc trích lại khoản tiền thuê nhà của Chấp hành viên cho người
phải thi hành án trong trường hợp xử lý tài sản thuộc sở hữu chung của
vợ chồng trong khi chỉ một trong hai người là người phải thi hành án,
người còn lại được nhận một khoản tiền và trường hợp sau khi bán tài
sản là nhà ở duy nhất, người phải thi hành án còn có các tài sản khác
như ô tô, xe máy,…
2.2.3.12. Kiểm sát việc bảo quản tài sản; giao tài sản để thi hành
án; giao tài sản bán đấu giá; giải toả kê biên tài sản; xử lý tài sản bán
đấu giá không thành; tiêu huỷ và xử lý vật chứng, tài sản; trả lại tiền,
tài sản tạm giữ cho đương sự
- Bảo quản tài sản:
Kiểm sát viên căn cứ Điều 58 Luật Thi hành án dân sự, riêng đối
việc giao quản lý, khai thác, sử dụng diện tích đất đã kê biên, Kiểm
sát viên căn cứ Điều 112 Luật Thi hành án dân sự để kiểm sát việc bảo
quản tài sản của Chấp hành viên.
Khi kiểm sát việc bảo quản tài sản kê biên, Kiểm sát viên cần lưu
ý về trường hợp khi kê biên người phải thi hành án vắng mặt thì Chấp
hành viên có thể giao cho người được thi hành án bảo quản hoặc thuê
tổ chức, cá nhân có điều kiện bảo quản tài sản.
- Giao tài sản để thi hành án:
Kiểm sát viên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 7a, Điều 100 Luật
Thi hành án dân sự, khoản 6 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP để
kiểm sát về điều kiện, thủ tục và thời hạn giao tài sản để thi hành án.
Khi kiểm sát việc giao tài sản để thi hành án, Kiểm sát viên cần
lưu ý: Việc giao tài sản theo Điều 100 Luật Thi hành án dân sự là giao
tài sản mà cơ quan thi hành án đã tiến hành kê biên để trừ vào số tiền
được thi hành án nên Kiểm sát viên cần xem xét tại thời điểm thỏa
thuận giao tài sản có một hay nhiều người được thi hành án, nếu có
nhiều người được thi hành án thì việc nhận tài sản phải có sự đồng
ý của những người được thi hành án khác và phải thanh toán lại cho

739
những người được thi hành án khác số tiền tương ứng với tỷ lệ giá trị
mà họ được hưởng.
Còn việc giao tài sản thi hành án theo Điều 7a Luật Thi hành
án dân sự là việc giao tài sản trước khi có quyết định cưỡng chế thi
hành án. Với trường hợp giao tài sản này, Chấp hành viên không cần
phải ra quyết định cưỡng chế thi hành án mà chỉ phải lập biên bản về
việc tự nguyện giao tài sản. Khi kiểm sát nội dung này, Kiểm sát viên
cũng cần lưu ý xem xét về việc tại thời điểm người phải thi hành án tự
nguyện giao tài sản có bao nhiêu người được thi hành án để kiểm sát
việc thanh toán sau khi thu được tiền bán tài sản.
- Việc giao tài sản bán đấu giá:
Kiểm sát viên căn cứ Điều 103 Luật Thi hành án dân sự để kiểm
sát việc giao tài sản bán đấu giá. Theo quy định này, thì kể cả trường
hợp bản án, quyết định bị kháng nghị, sửa đổi hoặc bị hủy và cơ quan
thi hành án đã ra quyết định tạm đình chỉ thi hành án, đình chỉ thi hành
án thì cơ quan thi hành án vẫn phải giao tài sản cho người trúng đấu
giá. Tuy nhiên, đối với khoản tiền thu được do bán đấu giá tài sản,
Chấp hành viên vẫn phải gửi ngân hàng theo hình thức gửi tiết kiệm
không kỳ hạn cho đến khi có bản án, quyết định mới.
- Việc giải tỏa kê biên tài sản:
Kiểm sát viên căn cứ Điều 105 Luật Thi hành án dân sự để kiểm
sát việc giải tỏa kê biên tài sản. Kiểm sát viên lưu ý, chỉ khi có các
căn cứ thỏa mãn Điều 105 Luật Thi hành án dân sự thì cơ quan thi
hành án mới được quyền ra quyết định giải tỏa kê biên. Thực tế có
trường hợp Chấp hành viên ra quyết định giải tỏa kê biên khi người
phải thi hành án có duy nhất một tài sản là quyền sử dụng đất đang
thế chấp tại ngân hàng nhưng sau nhiều lần giảm giá, tài sản này có
giá trị bằng hoặc thấp hơn chi phí và nghĩa vụ bảo đảm. Đây không
phải là căn cứ để Chấp hành viên giải tỏa kê biên mà là căn cứ để
hoãn thi hành án.
- Việc xử lý tài sản bán đấu giá không thành:

740
Kiểm sát viên căn cứ Điều 104 Luật Thi hành án dân sự để kiểm
sát việc xử lý tài sản bán đấu giá không thành. Khi kiểm sát nội dung
này, Kiểm sát viên cần đặc biệt lưu ý về thủ tục thông báo cho đương
sự trong việc thỏa thuận mức giảm giá tài sản.
- Việc tiêu huỷ và xử lý vật chứng, tài sản; giao trả lại tiền, tài sản
tạm giữ cho đương sự:
Kiểm sát viên căn cứ Điều 124, 125, 126, 127, 129 Luật Thi hành
án dân sự và các quy định tại Điều 27, 32, 33 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP
để kiểm sát việc tiêu hủy và xử lý vật chứng, tài sản; giao trả lại tiền,
tài sản tạm giữ cho đương sự.
Khi kiểm sát việc xử lý tài sản mà bản án, quyết định tuyên kê
biên để đảm bảo thi hành án, Kiểm sát viên cần lưu ý, Chấp hành viên
sẽ không ra quyết định kê biên mà chỉ căn cứ Điều 98, 99, 100, 101
Luật Thi hành án dân sự để định giá và bán tài sản. Tuy nhiên, trên
thực tế, có trường hợp bản án, quyết định của Tòa án không tuyên kê
biên mà chỉ tuyên tạm giữ để đảm bảo thi hành án thì Chấp hành viên
không được sử dụng Điều 127 Luật Thi hành án dân sự để xử lý tài
sản mà phải ra quyết định kê biên rồi sau đó mới xử lý tài sản. Ngoài
ra, khi Chấp hành viên thực hiện việc định giá tài sản thì nhiều trường
hợp Chấp hành viên không cho đương sự thỏa thuận về giá hoặc tổ
chức thẩm định giá mà tiến hành ký luôn hợp đồng thẩm định giá với
tổ chức thẩm định giá có thẩm quyền. Nếu căn cứ vào Điều 98 Luật
Thi hành án dân sự thì Chấp hành viên phải cho đương sự thỏa thuận
về giá hoặc tổ chức thẩm định giá trước khi ký hợp đồng.
2.2.3.13. Kiểm sát việc thi hành án dân sự khi có thay đổi về giá
trị tài sản
Kiểm sát viên kiểm sát việc thi hành án dân sự khi có thay đổi về
giá trị tài sản tại thời điểm thi hành án theo quy định tại Điều 59 Luật
Thi hành án dân sự, Điều 17 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP.
2.2.3.14. Kiểm sát việc xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án dân
sự đối với các khoản thu nộp ngân sách nhà nước
- Kiểm sát viên căn cứ Điều 61, 62, 63, 64 Luật Thi hành án dân

741
sự, Điều 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10 Thông tư liên tịch số 12/2015/TTLT-
BTP-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày 15/9/2015 của Bộ Tư pháp,
Bộ Tài chính, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao
hướng dẫn việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp
ngân sách nhà nước (Thông tư liên tịch số 12/2015/TTLT- BTP-BTC-
TANDTC-VKSNDTC) để kiểm sát các nội dung sau:
- Nguyên tắc và điều kiện xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án
đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước của cơ quan thi hành án;
- Việc xác minh, lập hồ sơ xét miễn giảm nghĩa vụ thi hành án
của cơ quan thi hành án dân sự;
- Thẩm quyền, thủ tục xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án của
Tòa án;
- Việc xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án của Tòa án;
- Việc thi hành quyết định của Tòa án về việc miễn, giảm
nghĩa vụ.
Trong trường hợp xác định rõ người phải thi hành án có đủ điều
kiện để được xét miễn, giảm khoản tiền phạt nhưng cơ quan thi hành
án dân sự không lập hồ sơ thì Viện kiểm sát có văn bản yêu cầu lập
hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm (theo quy định tại khoản 1 Điều 62 Luật
Thi hành án dân sự, Điều 6 Thông tư liên tịch số 12/2015/TTLT- BTP-
BTC-TANDTC-VKSNDTC);
Khi kiểm sát hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án,
Viện kiểm sát có ý kiến bằng văn bản theo quy định tại Điều 7 Thông
tư liên tịch số 12/2015/TTLT- BTP-BTC-TANDTC-VKSNDTC.
2.2.3.15. Kiểm sát các biện pháp bảo đảm thi hành án
Kiểm sát viên căn cứ Điều 66, 67, 68, 69 Luật Thi hành án dân
sự, Điều 18, 19, 20 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP để kiểm sát việc
Chấp hành viên áp dụng các biện pháp bảo đảm như: Phong tỏa tiền
trong tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ; tạm giữ tài sản, giấy tờ; tạm dừng
việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản.

742
Khi kiểm sát việc áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án,
Viện kiểm sát cần kiểm sát các nội dung sau:
- Thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo đảm;
- Căn cứ áp dụng biện pháp bảo đảm;
- Thời hạn áp dụng biện pháp bảo đảm;
- Thủ tục áp dụng các biện pháp bảo đảm.
Khi kiểm sát việc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, Kiểm
sát viên cần lưu ý:
- Chấp hành viên có thể áp dụng biện pháp bảo đảm trong thời
gian đương sự tự nguyện thi hành án;
- Khi áp dụng biện pháp bảo đảm, Chấp hành viên không phải
thông báo trước cho đương sự;
- Đối với các biện pháp bảo đảm như phong tỏa tiền trong tài
khoản, tài sản ở nơi gửi giữ; tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự,
Chấp hành viên có thể lập biên bản trước khi ra quyết định áp dụng
biện pháp bảo đảm, nhưng trong thời hạn 24 giờ kể từ khi lập biên bản,
Chấp hành viên phải ra quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm;
- Chấp hành viên chỉ được áp dụng biện pháp bảo đảm trong thời
hạn luật định, hết thời hạn đó, Chấp hành viên buộc phải áp dụng biện
pháp cưỡng chế hoặc chấm dứt việc áp dụng biện pháp bảo đảm thi
hành án.
2.2.3.16. Kiểm sát việc bảo đảm tài chính từ ngân sách nhà nước
để thi hành án
Kiểm sát viên căn cứ quy định tại Điều 65 Luật thi hành án dân
sự, Điều 40, 41, 42 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP để kiểm sát việc bảo
đảm tài chính từ Ngân sách nhà nước để thi hành án.
Khi tiến hành kiểm sát việc bảo đảm tài chính từ Ngân sách nhà
nước để thi hành án, Kiểm sát viên kiểm sát các nội dung sau:

743
- Đối tượng;
- Điều kiện;
- Thủ tục;
- Nội dung được bảo đảm tài chính để thi hành án.
2.2.3.17. Kiểm sát việc áp dụng quy định chung về cưỡng chế thi
hành án
Kiểm sát viên căn cứ quy định tại Điều 70, 71, 72, 73, 74, 75
Luật Thi hành án dân sự và Điều 13 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP để
kiểm sát các nội dung sau:
- Căn cứ cưỡng chế thi hành án;
- Biện pháp cưỡng chế;
- Kế hoạch cưỡng chế;
- Chi phí cưỡng chế;
- Cưỡng chế đối với tài sản thuộc sở hữu chung;
- Xử lý tài sản khi cưỡng chế có tranh chấp, yêu cầu hủy giấy tờ,
giao dịch liên quan đến tài sản thi hành án.
Khi kiểm sát việc áp dụng các quy định chung về cưỡng chế thi
hành án, Kiểm sát viên cần lưu ý:
- Các trường hợp Chấp hành viên không cần ra quyết định cưỡng
chế thi hành án;
- Thời hạn và thời điểm thông báo cho đương sự, người có tranh
chấp quyền khởi kiện khi có tranh chấp;
- Phân biệt trường hợp cưỡng chế đối với tài sản thuộc sở hữu
chung và tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng, tài sản thuộc sở
hữu chung của hộ gia đình;
- Nghĩa vụ thông báo quyền ưu tiên mua tài sản chung của người
có tài sản chung trước khi bán tài sản và khi giảm giá tài sản.

744
2.2.3.18. Kiểm sát việc cưỡng chế đối với tài sản là tiền
Kiểm sát viên căn cứ Điều 76, 77, 78, 79, 80, 81 Luật Thi hành
án dân sự, Điều 21, 22, 23 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP để kiểm sát
các nội dung sau:
- Điều kiện áp dụng biện pháp cưỡng chế;
- Thủ tục áp dụng biện pháp cưỡng chế;
- Trách nhiệm thực hiện quyết định cưỡng chế của các cơ quan,
đơn vị có liên quan đến thi hành án dân sự.
Khi kiểm sát việc cưỡng chế đối với tài sản là tiền, Kiểm sát viên
cần lưu ý các vấn đề sau:
- Việc khấu trừ tiền trong tài khoản của người phải thi hành án
phải đảm bảo không vượt quá nghĩa vụ và chi phí cưỡng chế;
- Khi kiểm sát việc thực hiện hoặc không thực hiện việc thu tiền
của người phải thi hành án khi họ có hoạt động kinh doanh, khi họ
đang giữ tiền, khi tiền của người phải thi hành án do người thứ ba hoặc
tổ chức xã hội quản lý giữ, Kiểm sát viên cần chú ý về căn cứ và thủ
tục để xác định mức thu tiền, mức tiền để lại và việc áp dụng các biện
pháp bảo đảm, hoặc cưỡng chế cần thiết trong trường hợp họ không
thực hiện quyết định của Chấp hành viên;
- Vấn đề quyền của Chấp hành viên trong việc cưỡng chế đối
với tài sản của người thứ ba nếu người thứ ba phải trả tiền, tài sản cho
người phải thi hành án được xác định bằng bản án, quyết định của Tòa
án đang có hiệu lực pháp luật;
- Một số loại tiền trong tài khoản không được khấu trừ quy định
tại khoản 2 Điều 10 Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT-BTP-BTC-
NHNNVN-BLĐTBXH ngày 14/01/2014 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài
Chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội hướng dẫn việc cung cấp thông tin về tài khoản, thu nhập
của người phải thi hành án và thực hiện phong tỏa, khấu trừ để thi hành
án dân sự.

745
2.2.3.19. Kiểm sát việc cưỡng chế đối với tài sản là giấy tờ có giá
Kiểm sát viên căn cứ Điều 82, 83 Luật Thi hành án dân sự để
kiểm sát việc cưỡng chế đối với tài sản là giấy tờ có giá.
2.2.3.20. Kiểm sát việc cưỡng chế đối với tài sản là quyền sở hữu
trí tuệ
Kiểm sát viên căn cứ quy định tại Điều 84, 85, 86 Luật Thi hành
án dân sự, Điều 29, 30, 31 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP để kiểm sát
việc cưỡng chế đối với tài sản là quyền sở hữu trí tuệ.
2.2.3.21. Kiểm sát việc cưỡng chế đối với tài sản là vật
Kiểm sát viên căn cứ Điều 87, 88, 89, 90, 91, 92, 93, 94, 95, 96,
97 Luật Thi hành án dân sự, Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP,
Điều 4 Thông tư liên tịch 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC
để kiểm sát các nội dung sau:
- Những tài sản không được kê biên;
- Thủ tục, nội dung thông báo trước khi kê biên bất động sản;
- Trình tự, thủ tục kê biên khi đương sự có mặt, khi đương sự
vắng mặt, khi phải mở gói, mở khoá, phá khoá;
- Trình tự, thủ tục trước, sau khi kê biên tài sản là quyền sử
dụng đất, tài sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc đăng ký giao dịch
có bảo đảm;
- Khi kê biên tài sản đang cầm cố, thế chấp nhằm đảm bảo cho
người đang cầm cố, thế chấp quyền được thông báo; được ưu tiên
thanh toán, giá trị tài sản bị kê biên phải lớn hơn nghĩa vụ được bảo
đảm và chi phí cưỡng chế thi hành án;
- Căn cứ khi kê biên tài sản của người phải thi hành án do người
thứ ba đang giữ, đang thuê;
- Việc áp dụng biện pháp kê biên vốn góp;
- Trường hợp kê biên tài sản gắn liền với đất;

746
- Biện pháp kê biên nhà ở trong những trường hợp: Là nơi ở duy
nhất, khi nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất hoặc quyền sử dụng đất
là của người khác, nhà ở đang cho thuê, nhà ở bị khoá;
- Các biện pháp mà Chấp hành viên áp dụng trong trường hợp kê
biên phương tiện giao thông như giao giấy tờ, giao phương tiện, yêu cầu
cơ quan có thẩm quyền cấm chuyển nhượng phương tiện bị kê biên...
2.2.3.23. Kiểm sát việc định giá, định giá lại tài sản kê biên, bán
tài sản đã kê biên
Kiểm sát viên căn cứ Điều 98, 99, 101, 102 Luật Thi hành án
dân sự, Điều 25, 26, 27 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, Điều 5 Thông
tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC và các quy
định về bán đấu giá được quy định tại Nghị định số 62/2017/NĐ-CP
ngày 16/5/2017 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
Luật Đấu giá tài sản, Nghị định số 89/2013/NĐ-CP ngày 06/8/2013
của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Giá để
kiểm sát các nội dung sau:
- Quyền thoả thuận của đương sự về giá tài sản, về tổ chức thẩm
định giá;
- Việc ký hợp đồng dịch vụ của Chấp hành viên với tổ chức thẩm
định giá trong các trường hợp đương sự thoả thuận (hoặc không thoả
thuận) về tổ chức thẩm định giá;
- Về trường hợp do Chấp hành viên xác định giá;
- Về việc định giá lại do vi phạm nghiêm trọng, do đương sự có
yêu cầu định giá lại trước khi có thông báo công khai về việc bán đấu
giá tài sản;
- Việc bán tài sản đã kê biên nhằm đảm bảo đúng về hình thức
bán (đấu giá hoặc không thông qua đấu giá); về thời hạn ký hợp đồng
dịch vụ bán đấu giá; về thời hạn bán đấu giá đối với bất động sản, động
sản; về thủ tục bán đấu giá, về quyền nhận lại tài sản trước khi mở cuộc
bán đấu giá một ngày; về việc hủy kết quả bán đấu giá tài sản.

747
Khi kiểm sát về việc định giá, định giá lại và bán đấu giá tài sản
thi hành án, Kiểm sát viên cần lưu ý những vấn đề sau:
- Trong trường hợp đương sự không thỏa thuận được về giá tài
sản kê biên, Chấp hành viên phải ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức
thẩm định giá trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi
có tài sản kê biên trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày kê biên.
Thực tế, nếu người phải thi hành án không có mặt tại buổi kê biên,
Chấp hành viên thường thông báo cho người phải thi hành án thời gian
05 ngày làm việc, kể từ ngày thông báo để thỏa thuận về giá tài sản
kê biên hoặc tổ chức thẩm định giá. Trong trường hợp này, nếu Chấp
hành viên cho phép người phải thi hành án và người được thi hành án
thỏa thuận về giá hoặc tổ chức thẩm định giá theo thông báo trên thì
sẽ vi phạm thời hạn ký hợp đồng dịch vụ thẩm định giá theo quy định
của pháp luật.
- Trường hợp đương sự đề nghị định giá lại tài sản kê biên thì
Điều 99 Luật Thi hành án dân sự cho phép đương sự được quyền yêu
cầu định giá lại tài sản trước khi có thông báo công khai về việc bán
đấu giá tài sản và trong trường hợp đương sự có đơn yêu cầu trong thời
hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo về kết quả thẩm
định giá. Như vậy, trường hợp Chấp hành viên đã ra quyết định giảm
giá tài sản hoặc trong trường hợp các đương sự đã có thỏa thuận về giá
tài sản kê biên thì không phải là căn cứ để chấp nhận yêu cầu định giá
lại của đương sự.
2.2.3.24. Kiểm sát việc cưỡng chế khai thác đối với tài sản
Kiểm sát viên căn cứ Điều 107, 108, 109 Luật Thi hành án dân
sự để kiểm sát các nội dung sau:
- Căn cứ để cưỡng chế khai thác đối với tài sản (khoản 1 Điều 107
Luật Thi hành án dân sự);
- Trình tự, thủ tục, hình thức, nội dung cưỡng chế khai thác đối
với tài sản;

748
- Chấm dứt việc cưỡng chế khai thác đối với tài sản.
2.2.3.25. Kiểm sát việc cưỡng chế đối với tài sản là quyền sử
dụng đất
Kiểm sát viên căn cứ Điều 110, 111, 112, 113 Luật Thi hành án
dân sự để kiểm sát các nội dung sau:
- Căn cứ để Chấp hành viên kê biên, bán đấu giá quyền sử dụng
đất (Điều 110 Luật Thi hành án dân sự);
- Việc xử lý đối với giấy tờ liên quan đến quyền sử dụng đất, đến
tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất (có trước, sau khi nhận được
quyết định thi hành án);
- Việc tạm giao quản lý, khai thác, sử dụng diện tích đất đã kê biên.
2.2.3.26. Kiểm sát việc cưỡng chế trả vật, giấy tờ, chuyển quyền
sử dụng đất
Kiểm sát viên căn cứ Điều 114, 115, 116, 117 Luật Thi hành án
dân sự để kiểm sát các nội dung sau:
- Thủ tục cưỡng chế trả vật;
- Thủ tục cưỡng chế giao nhà, trả nhà;
- Thủ tục cưỡng chế thu hồi giấy tờ cho người được thi hành án;
- Thủ tục cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất.
Khi kiểm sát việc cưỡng chế trả vật, giấy tờ, chuyển quyền sử
dụng đất, Kiểm sát viên cần lưu ý những vấn đề sau:
- Khi cưỡng chế trả vật, cần phân biệt rõ thế nào là vật đặc định,
thế nào là vật cùng loại theo quy định tại Điều 113 BLDS;
- Khi cưỡng chế trả nhà, giao nhà thì Kiểm sát viên lưu ý vấn đề
trích lại tiền thuê nhà nếu cưỡng chế giao nhà là nhà ở duy nhất của
người phải thi hành án cho người mua được tài sản bán đấu giá; đồng
thời lưu ý vấn đề xử lý tài sản thuộc sở hữu của người phải thi hành

749
án nếu người phải thi hành án cố tình vắng mặt hoặc không tự nguyện
chuyển tài sản ra khỏi nhà;
- Khi cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất cần lưu ý về sự
tham gia của đại diện cơ quan quản lý nhà nước về đất đai cùng cấp và
Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất được chuyển giao, đồng thời lưu ý
về vấn đề xác định thời điểm hình thành tài sản trên đất được chuyển
giao và thủ tục xử lý đối với tài sản đó.
2.2.3.27. Kiểm sát việc cưỡng chế thi hành nghĩa vụ buộc phải
thực hiện hoặc không được thực hiện công việc nhất định
Kiểm sát viên căn cứ Điều 118, 119, 120, 121 Luật Thi hành án
dân sự để kiểm sát việc cưỡng chế thi hành nghĩa vụ buộc phải thực
hiện hoặc không được thực hiện công việc nhất định. Khi kiểm sát nội
dung này, Kiểm sát viên lưu ý các vấn đề sau:
- Về thẩm quyền và thủ tục ra quyết định phạt tiền của cơ quan
thi hành án;
- Về thủ tục thuyết phục tự nguyện trước khi phạt tiền trong
biện pháp cưỡng chế giao người chưa thành niên cho người được giao
nuôi dưỡng;
- Về cách thức thanh toán tiền trong trường hợp người lao động
không chấp nhận công việc được bố trí và yêu cầu người sử dụng lao
động thanh toán các khoản tiền;
- Về đối tượng xử phạt trong trường hợp người sử dụng lao động
là cơ quan, tổ chức không nhận người lao động trở lại làm việc.
2.2.3.28. Kiểm sát việc thi hành quyết định áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời
Kiểm sát viên căn cứ Điều 130, 131, 132, 133 Luật Thi hành
án dân sự, Điều 35 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP để kiểm sát các nội
dung sau:
- Thủ tục, trình tự thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời;

750
- Thi hành quyết định thay đổi, áp dụng bổ sung biện pháp khẩn
cấp tạm thời theo quy định;
- Đình chỉ thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
2.2.3.29. Kiểm sát việc thi hành quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm
Kiểm sát căn cứ Điều 134, 135, 136 Luật Thi hành án dân sự,
Điều 36 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, Điều 12 Thông tư liên tịch
số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC để kiểm sát các nội
dung sau:
- Trình tự, thủ tục thi hành quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm;
- Thoả thuận hoặc cưỡng chế trả lại tài sản cho chủ sở hữu;
- Thủ tục thông báo cho Toà án đã ra bản án, quyết định trong
trường hợp bản án, quyết định đó đã thi hành xong một phần hoặc
xong toàn bộ;
- Yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Khi kiểm sát việc thi hành quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm,
Kiểm sát viên cần phân biệt các trường hợp quyết định giám đốc thẩm,
tái thẩm tuyên giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật;
quyết định giám đốc thẩm tuyên giữ nguyên bản án, quyết định đúng
pháp luật của Toà án cấp dưới đã bị huỷ hoặc bị sửa; quyết định giám
đốc thẩm, tái thẩm tuyên huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật. Đồng thời, xác định rõ tính “nguyên trạng” của tài sản thi hành án
để cưỡng chế trả lại tài sản cho chủ sở hữu.
2.2.3.30. Kiểm sát việc thi hành quyết định về phá sản
Kiểm sát viên căn cứ Điều 137 Luật Thi hành án dân sự, các điều
7, 41, 54, 56, 57, 58, 70, 71, 100, 101, 102, 110, 115, 119, 120, 121,
123, 124, 125, 126, 127 Luật Phá sản năm 2014 để kiểm sát các nội
dung sau:
- Kiểm sát việc cơ quan thi hành án dân sự ra các quyết định tạm
đình chỉ thi hành án (khi Tòa án thụ lý vụ việc phá sản - Điều 41 Luật

751
Phá sản), thông báo cho Tòa án giải quyết việc phá sản về kết quả đã
thi hành án;
- Kiểm sát việc ra quyết định đình chỉ thi hành án (sau khi
Tòa án có quyết định về việc mở thủ tục phá sản - Điều 72 Luật
Phá sản);
- Kiểm sát việc thi hành nghĩa vụ về tài sản theo Luật Phá sản;
- Kiểm sát việc khôi phục thi hành án trong trường hợp Tòa án
có quyết định đình chỉ tiến hành thủ tục phá sản hoặc đình chỉ thủ tục
phục hồi kinh doanh.
Khi kiểm sát việc thi hành các nghĩa vụ về tài sản theo Luật
Phá sản, chú ý kiểm sát các hoạt động sau đây của cơ quan thi hành
án dân sự:
- Thứ tự phân chia tài sản trong trường hợp Thẩm phán ra quyết
định tuyên bố phá sản theo quy định tại Điều 54 Luật Phá sản; trong
đó chú ý hoạt động hoàn trả lại khoản vay đặc biệt và thứ tự phân chia
tài sản đối với doanh nghiệp bị phá sản là các tổ chức tín dụng theo
quy định tại các Điều 100, 101 Luật Phá sản; việc trả lại các tài sản
nhận ủy thác, nhận giữ hộ khi tổ chức tín dụng bị tuyên bố phá sản theo
Điều 102 Luật Phá sản;
- Việc trả lại tài sản do thuê, mượn khi doanh nghiệp, hợp tác xã
bị tuyên bố phá sản theo Điều 56 Luật Phá sản;
- Việc trả lại tài sản mà doanh nghiệp đã nhận bảo đảm theo quy
định tại Điều 57 Luật Phá sản;
- Việc Chấp hành viên xử lý trường hợp có tranh chấp trong quá
trình thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản
theo Điều 115; việc Chấp hành viên định giá lại tài sản theo Điều 123;
việc Chấp hành viên thi hành quyết định của Tòa án về việc thu hồi lại
tài sản trong trường hợp có vi phạm do thực hiện giao dịch dân sự vô
hiệu theo quy định tại Điều 125; việc cơ quan thi hành án dân sự thi
hành quyết định của Tòa án phân chia tài sản của doanh nghiệp, hợp

752
tác xã bị tuyên bố phá sản nhưng sau đó phát hiện có tài sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã đó chưa được chia theo Điều 127 Luật Phá sản;
Kiểm sát viên kiểm sát việc cơ quan thi hành án dân sự áp dụng
các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế để thi hành quyết định
của Tòa án về áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá
trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản theo quy định tại Điều 17,
70 Luật Phá sản và quy định tại Điều 130, 131, 132, 133 Luật Thi
hành án dân sự.
2.2.3.31. Kiểm sát việc xử lý hành chính về thi hành án dân sự
Kiểm sát viên căn cứ Điều 162, 163, 164, 165 Luật Thi hành án
dân sự, Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ
quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp,
hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá
sản doanh nghiệp, hợp tác xã và Nghị định số 67/2015/NĐ-CP ngày
14/8/2015 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định
số 110/2013/NĐ-CP để kiểm sát các nội dung sau:
- Căn cứ xác định vi phạm;
- Thẩm quyền và mức xử phạt;
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo về xử lý vi phạm hành chính trong
thi hành án dân sự, hành chính.
2.2.3.32. Kiểm sát việc kết thúc thi hành án
Khi kiểm sát việc kết thúc thi hành án, Kiểm sát viên cần kiểm
sát việc xác nhận kết quả thi hành án theo quy định tại Điều 53 Luật
Thi hành án dân sự; kiểm sát việc kết thúc thi hành án theo quy định
tại Điều 52 Luật Thi hành án dân sự. Khi tiến hành kiểm sát cần chú
ý các nội dung về thẩm quyền xác nhận, nội dung xác nhận, thời hạn
xác nhận.
2.2.3.33. Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành
án dân sự
Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự

753
theo quy định tại các điều 29, 30 Luật Tổ chức VKSND năm 2014;
các điều từ Điều 140 đến Điều 159 Luật Thi hành án dân sự; Quy
chế tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp (ban hành kèm theo
Quyết định số 51/QĐ-VKSTC-V12 ngày 02/02/2016 của Viện trưởng
VKSNDTC - sau đây gọi là Quy chế 51/2016) và Quyết định số 410/
QĐ-VKSTC-V15 ngày 26/6/2015 về việc quy định nhiệm vụ, quyền
hạn của các đơn vị thuộc bộ máy làm việc của VKSNDTC (sau đây gọi
tắt là Quyết định 410/2015) để kiểm sát các nội dung sau:
- Thời hạn, thủ tục, trình tự giải quyết khiếu nại, tố cáo.
- Quyền khiếu nại, tố cáo và thẩm quyền giải quyết khiếu nại,
tố cáo.
- Nội dung giải quyết khiếu nại, tố cáo. Hiệu lực của các quyết
định giải quyết khiếu nại, tố cáo.
- Khi tiến hành kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự, VKSND có quyền yêu
cầu, kiến nghị đối với cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp, cấp dưới,
cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm để đảm bảo việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo có căn cứ, đúng pháp luật theo quy định của Điều 159
Luật Thi hành án dân sự.
- Nội dung yêu cầu hoặc kiến nghị của VKSND đối với các cơ
quan hữu quan tập trung vào các vấn đề:
+ Trình tự, thủ tục và thời hạn tiếp nhận khiếu nại, tố cáo;
+ Kiểm tra việc thực hiện giải quyết khiếu nại, tố cáo;
+ Cung cấp hồ sơ, tài liệu liên quan về giải quyết khiếu nại,
tố cáo.
2.2.4. Thực hiện việc kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân trong
công tác kiểm sát thi hành án dân sự
a) Lập hồ sơ kiểm sát thi hành án dân sự
Khi tiến hành công tác kiểm sát thi hành án dân sự, Viện kiểm sát

754
phải vào sổ thụ lý kiểm sát thi hành án đầy đủ và lập hồ sơ kiểm sát thi
hành án dân sự. Hồ sơ kiểm sát thi hành án dân sự được sắp xếp theo
trình tự thời gian, gồm có:
- Các loại hồ sơ về miễn, hồ sơ xét giảm thi hành án, hoãn, tạm
đình chỉ, đình chỉ, xác định việc chưa có điều kiện thi hành án, áp dụng
thời hiệu, các biện pháp cưỡng chế thi hành án, hồ sơ giải quyết khiếu
nại, hồ sơ các cuộc trực tiếp kiểm sát, hồ sơ uỷ thác.
- Trong mỗi loại hồ sơ có: Bản phô-tô bản án, quyết định của
Toà án (hoặc trích lục hoặc phần thủ tục và phần quyết định của bản
án, quyết định của Toà án); các loại quyết định của cơ quan thi hành
án do cơ quan này gửi hoặc do Viện kiểm sát thu thập được; các hoạt
động tác nghiệp của Viện kiểm sát thể hiện bằng văn bản; các ý kiến
đề xuất của Kiểm sát viên hoặc cán bộ nghiên cứu, ý kiến của Lãnh
đạo đơn vị.
b) Phương thức thực hiện các quyền của Viện kiểm sát nhân dân
khi tiến hành kiểm sát thi hành án dân sự
Khi tiến hành kiểm sát, Viện kiểm sát thực hiện quyền hạn thông
qua các phương thức sau:
- Quyền yêu cầu;
- Trực tiếp kiểm sát;
- Kháng nghị;
- Kiến nghị;
- Kiểm tra kết quả thực hiện các yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị
của VKSND;
- Khởi tố về hình sự.
(i) Quyền yêu cầu
Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 12 Luật Thi hành án dân
sự, khoản 6 Điều 28 Luật Tổ chức VKSND, khi kiểm sát thi hành án,
VKSND có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp và cấp

755
dưới, Chấp hành viên, các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có liên
quan đến việc thi hành án thực hiện các công việc sau:
- Ra quyết định thi hành án đúng quy định của pháp luật;
- Thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và những
bản án, quyết định được thi hành ngay theo quy định của pháp luật;
- Tự kiểm tra việc thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật và những bản án, quyết định được thi hành ngay và thông báo kết
quả kiểm tra cho VKSND;
- Cung cấp hồ sơ tài liệu, vật chứng có liên quan đến việc thi
hành án cho VKSND để thực hiện chức năng kiểm sát;
- Trực tiếp xác minh làm rõ điều kiện thi hành án của đương sự.
(ii) Trực tiếp kiểm sát
* Theo quy định tại Điều 28 Luật Tổ chức VKSND, Điều 12 Luật
Thi hành án dân sự, thì Viện kiểm sát có quyền trực tiếp kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong việc thi hành án dân sự tại cơ quan thi hành
án dân sự cùng cấp và cấp dưới, Chấp hành viên, các cơ quan, tổ chức,
đơn vị, cá nhân có liên quan đến việc thi hành án dân sự. Viện kiểm
sát thực hiện quyền trực tiếp kiểm sát theo Chỉ thị của Viện trưởng
VKSNDTC, kế hoạch của Viện kiểm sát cấp trên, của cấp uỷ, Hội
đồng nhân dân địa phương nhằm phòng ngừa vi phạm. Khi tiến hành
trực tiếp kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại cơ quan thi hành án dân
sự, Viện kiểm sát có thể yêu cầu tự kiểm tra, báo cáo, yêu cầu xuất
trình tài liệu để kiểm tra. Trường hợp cần thiết sẽ trực tiếp xác minh
nhằm xác định rõ vi phạm trong việc thi hành án, nhưng không làm
ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cơ quan thi hành án được
kiểm sát.
* Trước khi tiến hành trực tiếp kiểm sát, Viện kiểm sát phải chọn
việc để kiểm sát, tìm căn cứ pháp luật và ra quyết định trực tiếp kiểm
sát, đồng thời lập kế hoạch trực tiếp kiểm sát. Kế hoạch trực tiếp kiểm
sát bao gồm những nội dung cơ bản sau:

756
- Mục đích, yêu cầu của việc trực tiếp kiểm sát;
- Nội dung trực tiếp kiểm sát;
- Cách thức tiến hành trực tiếp kiểm sát;
- Thời gian tiến hành kiểm sát, thời điểm kiểm sát.
Kế hoạch trực tiếp kiểm sát phải được Lãnh đạo Viện kiểm sát
duyệt chỉ đạo thực hiện.
* Trình tự trực tiếp kiểm sát:
- Viện kiểm sát công bố quyết định trực tiếp kiểm sát việc thi
hành án dân sự.
- Nội dung trong kế hoạch kiểm sát cần tập trung vào các vấn
đề sau:
+ Nghe cơ quan bị kiểm sát báo cáo việc thi hành án dân sự;
+ Yêu cầu báo cáo quỹ tiền mặt của cơ quan bị kiểm sát (chú ý
xem xét việc chấp hành pháp luật trong việc thu, chi, sử dụng quỹ tiền
mặt). Viện kiểm sát cần xác minh số tiền của cơ quan thi hành án nộp
kho bạc, tiền gửi tiết kiệm; tiền tạm gửi ở ngân hàng để cân đối việc
thu, chi;
+ Yêu cầu cung cấp các tài liệu liên quan đến nội dung kiểm sát
để kiểm tra, xác minh, đối chiếu xem có phù hợp với thực tế không;
+ Có thể kiểm tra sổ sách thụ lý thi hành án, các hồ sơ thi hành
án, các chứng từ thu chi, các phiếu thu chi, các biên lai thu chi liên
quan đến việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại về thi hành án;
+ Những vấn đề chưa rõ, Viện kiểm sát yêu cầu giải trình và có
thể tiến hành xác minh thực tế nhằm xác định sự thật. Những vấn đề
kiểm tra xong phải được kết luận bằng văn bản có ký xác nhận của đại
diện bên được kiểm sát và người trực tiếp kiểm sát;
+ Tập hợp những nội dung đã kiểm sát để xây dựng kết luận khi
kết thúc việc kiểm sát. Kết luận do Trưởng đoàn kiểm sát ký, sau khi
đã báo cáo Lãnh đạo Viện và gửi cho cơ quan bị kiểm sát biết;

757
+ Tập hợp những vi phạm được phát hiện qua trực tiếp kiểm sát
để làm văn bản kiến nghị hoặc kháng nghị với cơ quan bị kiểm sát,
Chấp hành viên, cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan để khắc phục,
sửa chữa;
+ Yêu cầu xử lý vi phạm với các hình thức phù hợp và các biện
pháp khác (nếu có) thông qua trực tiếp kiểm sát phát hiện;
+ Tổ chức cuộc họp công bố kết luận kiểm sát.
(iii) Kháng nghị
* Khi tiến hành kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi
hành án dân sự, nếu phát hiện vi phạm pháp luật và trong thời hạn
kháng nghị quy định tại khoản 2 Điều 160 Luật Thi hành án dân sự,
Viện kiểm sát có quyền kháng nghị với cơ quan thi hành án cùng cấp
và cấp dưới, Chấp hành viên, cơ quan, tổ chức, đơn vị... có trách nhiệm
trong việc thi hành án theo quy định tại Điều 28, Điều 30 Luật Tổ chức
VKSND, Điều 12, 160 Luật Thi hành án dân sự.
- Kháng nghị phải chỉ rõ những vi phạm pháp luật, nguyên nhân
và trách nhiệm của cơ quan thi hành án, Chấp hành viên, cơ quan, tổ
chức… vi phạm điều luật nào và viện dẫn điều luật cụ thể để làm rõ vi
phạm trong việc thi hành án.
- Kháng nghị phải nêu rõ yêu cầu như: Yêu cầu đình chỉ việc thi
hành án, sửa đổi hoặc bãi bỏ quyết định có vi phạm pháp luật, chấm
dứt việc làm vi phạm pháp luật trong việc thi hành án.
- Kháng nghị được gửi đến cho đối tượng bị kháng nghị, cơ quan
chủ quản cấp trên của đơn vị bị kháng nghị và gửi cho Viện kiểm sát
cấp trên trực tiếp.
* Viện kiểm sát phải theo dõi việc trả lời kháng nghị của đối
tượng bị kháng nghị. Trường hợp chấp nhận kháng nghị, Viện kiểm sát
giám sát việc tổ chức, thực hiện kháng nghị.
* Trường hợp đối tượng bị kháng nghị không nhất trí với kháng
nghị, thì Viện kiểm sát ban hành kháng nghị phải báo cáo lên Viện

758
kiểm sát cấp trên trực tiếp kèm hồ sơ kiểm sát thi hành án, báo cáo phải
nêu rõ quan điểm của mình về kháng nghị.
Viện kiểm sát cấp trên có trách nhiệm xem xét để có quyết định:
Ban hành văn bản gửi cơ quan thi hành án cấp trên nhằm bảo vệ kháng
nghị; trực tiếp hoặc yêu cầu Viện kiểm sát đã kháng nghị huỷ bỏ, rút,
sửa đổi, bổ sung kháng nghị. Trường hợp văn bản của Viện kiểm sát
cấp trên vẫn không được cơ quan thi hành án cấp trên chấp nhận, thì
Viện kiểm sát cấp trên có văn bản kiến nghị đến Bộ trưởng Bộ Tư pháp
và báo cáo Viện trưởng VKSNDTC; nếu kháng nghị đúng pháp luật,
Viện trưởng VKSNDTC có văn bản yêu cầu Bộ trưởng Bộ Tư pháp
xem xét lại văn bản trả lời đã có hiệu lực pháp luật của Thủ trưởng cơ
quan thi hành án cấp dưới.
(iv) Kiến nghị
* Căn cứ vào Điều 28, 30 Luật Tổ chức VKSND, Điều 159 Luật
Thi hành án dân sự khi tiến hành kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong thi hành án dân sự, nếu xác định nguyên nhân, điều kiện, hoặc
sơ hở dẫn tới vi phạm; khi phát hiện một tình trạng vi phạm đã xảy
ra nhưng do đã hết thời hạn kháng nghị; khi phát hiện vi phạm cụ thể
nhưng tính chất, mức độ của vi phạm chưa đến mức phải kháng nghị
thì Viện kiểm sát kiến nghị với cơ quan thi hành án có thẩm quyền, cơ
quan, tổ chức liên quan đến việc thi hành án khắc phục những vi phạm,
nguyên nhân, điều kiện, hoặc sơ hở đó.
- Kiến nghị phải chỉ rõ những vi phạm pháp luật hoặc tình trạng
vi phạm pháp luật đã xảy ra, xác định vi phạm điều luật nào, viện dẫn
điều luật cụ thể để làm rõ vi phạm trong việc thi hành án.
- Kiến nghị phải chỉ rõ nguyên nhân, điều kiện, hoặc sơ hở dẫn
tới vi phạm trong việc thi hành án.
- Kiến nghị phải nêu rõ yêu cầu như: chấm dứt vi phạm pháp luật
trong việc thi hành án, thu hồi, sửa đổi, huỷ bỏ hoặc bổ sung quyết
định về thi hành án, yêu cầu khắc phục vi phạm...

759
- Kiến nghị gửi cho đối tượng được kiến nghị, cơ quan chủ quản
cấp trên của đơn vị được kiến nghị và gửi cho Viện kiểm sát cấp trên
trực tiếp.
* Viện kiểm sát phải theo dõi việc trả lời kiến nghị của đối tượng
được kiến nghị.
* Trường hợp đối tượng được kiến nghị không nhất trí với kiến
nghị, thì Viện kiểm sát đã ban hành kiến nghị phải báo cáo lên Viện
kiểm sát cấp trên trực tiếp kèm theo tài liệu có liên quan, báo cáo phải
nêu rõ quan điểm của mình về kiến nghị.
Viện kiểm sát cấp trên có trách nhiệm xem xét để có một trong
những quyết định sau: Ban hành văn bản gửi cơ quan thi hành án cấp
trên tiếp tục kiến nghị khắc phục sửa chữa vi phạm mà Viện kiểm sát
cấp dưới đã kiến nghị nhưng không được chấp nhận, sửa chữa; yêu
cầu Viện kiểm sát đã kiến nghị huỷ bỏ, rút, sửa đổi, bổ sung kiến nghị.
Trường hợp văn bản của Viện kiểm sát cấp trên vẫn không được cơ
quan thi hành án cấp trên chấp nhận, thì Viện kiểm sát cấp trên có văn
bản báo cáo lên Vụ Kiểm sát thi hành án dân sự VKSNDTC; Vụ Kiểm
sát thi hành án dân sự có trách nhiệm tổng hợp, báo cáo Viện trưởng
VKSNDTC để có văn bản kiến nghị với Bộ trưởng Bộ Tư pháp chỉ đạo
khắc phục vi phạm.
Đối với những văn bản hướng dẫn nghiệp vụ của Tổng cục Thi
hành án dân sự - Bộ Tư pháp nếu phát hiện có vi phạm pháp luật,
Viện kiểm sát cấp dưới báo cáo lên VKSNDTC để xem xét giải quyết.
Đối với các quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo của Tổng cục
Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp, Vụ Kiểm sát thi hành án dân sự -
VKSNDTC thực hiện việc kiểm sát theo thẩm quyền.
(v) Kiểm tra kết quả thực hiện các yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị
của Viện kiểm sát nhân dân
Định kỳ 6 tháng hoặc một năm Viện kiểm sát tiến hành kiểm
tra kết quả thực hiện các yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị của VKSND
trong việc khắc phục vi phạm của đối tượng kiểm sát.

760
Kết quả kiểm tra việc thực hiện các yêu cầu, kiến nghị, kháng
nghị của VKSND phải được báo cáo Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp.
Trường hợp cơ quan, tổ chức không thực hiện (hoặc thực hiện không
nghiêm túc) yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị thì Viện kiểm sát cấp dưới
phải báo cáo Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp để xem xét, giải quyết;
Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có văn bản với cơ quan thi hành án cấp
trên yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự nhận được yêu cầu, kiến nghị,
kháng nghị sửa chữa khắc phục vi phạm.
(vi) Khởi tố về hình sự
Theo khoản 12 Điều 12 Luật Thi hành án dân sự, trong quá trình
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong thi hành án dân sự nếu phát
hiện có dấu hiệu phạm tội thì phải báo cáo với Lãnh đạo Viện để xem
xét, quyết định việc chuyển các tài liệu có liên quan đến cơ quan điều
tra có thẩm quyền để khởi tố về hình sự.
2.3. Kỹ năng của Thẩm phán trong thực hiện các công việc liên
quan đến thi hành án dân sự
Cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên có trách nhiệm thi
hành bản án, quyết định của Tòa án có thẩm quyền. Tuy nhiên, trong
quá trình tổ chức thi hành án, có rất nhiều vấn đề có liên quan đến thi
hành án cần có sự tham gia của TAND. Trong phần viết này chỉ đề cập
đến trách nhiệm của TAND trong việc phối hợp với cơ quan thi hành
án dân sự, Chấp hành viên trong quá trình thi hành án.
2.3.1. Chuyển giao bản án, quyết định, tài liệu, vật chứng có liên quan
TAND căn cứ vào Điều 187, 194, 241, 281, 303, 380, 382
BLTTDS 2015, Điều 166, 167, 208, 216, 231 Luật Tố tụng hành chính,
Điều 254 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 28, Điều 122 Luật Thi hành án
dân sự để thực hiện việc chuyển giao bản án, quyết định, tài liệu, vật
chứng cho cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền. Theo đó, trách
nhiệm của Tòa án đã ra bản án, quyết định phải chuyển giao bản án,
quyết định cho cơ quan thi hành án có thẩm quyền đúng thời hạn và
đầy đủ các tài liệu kèm theo như quyết định kê biên, biên bản kê biên
trong quá trình điều tra…

761
2.3.2. Trả lời kiến nghị của cơ quan thi hành án dân sự
TAND căn cứ Điều 487 BLTTDS 2015, Điều 366 Bộ luật Tố
tụng hình sự, Điều 170 Luật Thi hành án dân sự, Điều 10 Thông tư
liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC để thực hiện
việc trả lời kiến nghị của cơ quan thi hành án dân sự về việc xem xét
lại bản án, quyết định của Tòa án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
Như vậy, khi tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án mà cơ
quan thi hành án dân sự phát hiện có vi phạm các thủ tục tố tụng hoặc
phát hiện có tình tiết mới thì có quyền kiến nghị với Tòa án có thẩm
quyền xem xét lại bản án, quyết định đã đưa ra thi hành theo thủ tục
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm để bản án, quyết định được xét xử đúng
người, đúng tội và đúng pháp luật. Vì vậy, khi nhận được kiến nghị của
cơ quan thi hành án, Tòa án có thẩm quyền cần xem xét và trong thời
hạn luật định cần trả lời cho cơ quan thi hành án dân sự biết để tổ chức
thi hành án được hiệu quả hơn.
2.3.3. Giải thích bản án, quyết định
TAND căn cứ vào Điều 486 BLTTDS 2015, Điều 365 Bộ luật
Tố tụng hình sự, Điều 310 Luật Tố tụng hành chính, Điều 179 Luật
Thi hành án dân sự, Điều 9 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-
TANDTC-VKSNDTC để giải thích, sửa chữa bản án, quyết định.
Trong quá trình thi hành các bản án, quyết định cơ quan thi hành án
dân sự phát hiện có những nội dung tuyên chưa rõ ràng, cụ thể và
không phù hợp với thực tế thì cơ quan thi hành án dân sự có văn bản
yêu cầu Tòa án đã ra bản án, quyết định đó giải thích. Trong thời
hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu của đương sự hoặc của
cơ quan thi hành án, Tòa án phải có văn bản trả lời cơ quan thi hành
án để cơ quan thi hành án có căn cứ để thi hành án. Trường hợp vụ
việc phức tạp thì thời hạn trả lời không quá 30 ngày, kể từ ngày nhận
được yêu cầu.
2.3.4. Thụ lý, giải quyết yêu cầu của đương sự, cơ quan thi hành
án dân sự về việc xác định quyền sở hữu, phân chia tài sản hoặc giải

762
quyết tranh chấp về quyền sở hữu, sử dụng tài sản, hủy giấy tờ, giao
dịch phát sinh trong quá trình thi hành án
TAND căn cứ vào Điều 26 BLTTDS 2015, Điều 74, 75, 102, 170
Luật Thi hành án dân sự để thụ lý, giải quyết yêu cầu của đương sự, cơ
quan thi hành án dân sự về việc xác định quyền sở hữu, phân chia tài
sản hoặc giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu, sử dụng tài sản, hủy
giấy tờ, giao dịch phát sinh trong quá trình thi hành án. Đây là trách
nhiệm của Tòa án, vì vậy mọi yêu cầu về việc xác định quyền sở hữu,
sử dụng, phân chia tài sản hoặc giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu,
sử dụng tài sản, hủy giấy tờ, giao dịch phát sinh trong quá trình thi
hành án thì Tòa án phải thụ lý và giải quyết theo đúng luật định để cơ
quan thi hành án có căn cứ tiếp tục thi hành án. Nếu Tòa án không thụ
lý giải quyết kịp thời sẽ ảnh hưởng rất lớn việc thi hành các bản án,
quyết định của chính Tòa án, làm giảm lòng tin của người dân đối với
Đảng và Nhà nước và giảm lòng tin đối với các cơ quan tư pháp - đó
là Tòa án và cơ quan thi hành án dân sự.
2.3.5. Vấn đề giải quyết tài sản, nghĩa vụ đã được thi hành theo
bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nhưng bị hủy
Khi Tòa án xem xét lại bản án, quyết định theo trình tự giám
đốc thẩm, tái thẩm thì Tòa án cần xem xét đến nội dung báo cáo kết
quả thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự để biết và giải quyết
theo quy định của pháp luật. Khi xét xử lại các vụ án mà bản án,
quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm đã tuyên hủy một phần hoặc
toàn bộ để xét xử lại sơ thẩm hoặc phúc thẩm thì TAND căn cứ vào
Điều 170 Luật Thi hành án dân sự, Điều 12 Thông tư liên tịch
số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC để thực hiện việc giải
quyết vấn đề tài sản, nghĩa vụ đã được thi hành theo bản án, quyết định
có hiệu lực pháp luật nhưng bị hủy. Tòa án lưu ý phải phán quyết rõ về
quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự trên cơ sở tính toán, đối trừ
phù hợp với kết quả thi hành án.
2.3.6. Xem xét, quyết định việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án
TAND căn cứ vào Điều 488 BLTTDS 2015, Điều 61, 62, 63, 64

763
Luật Thi hành án dân sự, Thông tư liên tịch số 12/2015/TTLT-BTP-
BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày 15/9/2015 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài
chính, TANDTC, VKSNDTC hướng dẫn việc miễn, giảm nghĩa vụ
thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước để xem xét,
quyết định việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu
nộp ngân sách nhà nước; giải quyết kháng nghị về quyết định miễn,
giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước.
Thẩm quyền xem xét quyết định việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án
của người phải thi hành án là TAND cấp huyện nơi cơ quan thi hành
án đang tổ chức việc thi hành án có trụ sở. Khi cơ quan thi hành án có
căn cứ miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án của người phải thi hành án thì
tiến hành lập hồ sơ xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án cho người phải
thi hành án để gửi Tòa án có thẩm quyền xem xét ra quyết định miễn,
giảm nghĩa vụ thi hành án của người phải thi hành án. Đây là công việc
được tiến hành thường xuyên của cơ quan thi hành án để giảm lượng
án tồn. Vì vậy, khi Tòa án nhận được hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm của
cơ quan thi hành án thì có trách nhiệm tổ chức phiên họp xét miễn,
giảm kịp thời đúng pháp luật.
3. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
1. Khách hàng là ông Nguyễn Văn A đến trình bày với Luật sư
về vụ việc thi hành án mà ông đang là người được thi hành án với các
tình tiết như sau: Theo bản án số 22/2015/DSPT, ông Trần M phải trả
cho ông A số tiền là 3.000.000.000 đồng. Cơ quan thi hành án đã kê
biên, định giá và bán đấu giá tài sản là nhà đất thuộc sở hữu, sử dụng
của ông M. Người trúng đấu giá là bà G đã nộp số tiền mua tài sản
bán đấu giá cho cơ quan thi hành án vào ngày 24/7/2016 nhưng đã 03
tháng nay, cơ quan thi hành án vẫn không thanh toán tiền thi hành án
cho ông. Ông đề nghị Luật sư tư vấn về trình tự, thủ tục để khiếu nại
việc thanh toán tiền của cơ quan thi hành án.
Là Luật sư được ông A yêu cầu, anh (chị) hãy nêu hướng giải
quyết đối với đề nghị của ông A.
2. Bản án tuyên A phải trả cho B số tiền là 500.000.000 đồng. Cơ

764
quan thi hành án đã ra quyết định thi hành án theo đúng quy định của
pháp luật. Sau khi hết thời gian tự nguyện, cơ quan thi hành án đã tiến
hành xác minh thì có kết quả: A có tài sản là quyền sử dụng đất tại địa
chỉ X là tài sản chung giữa A với vợ của A là C. Cơ quan thi hành án
đã ra quyết định kê biên, xử lý đối với quyền sử dụng đất tại địa chỉ X.
Ngay sau khi ra quyết định kê biên, A chết do tai nạn giao thông. Cơ
quan thi hành án vẫn tiếp tục xử lý tài sản của A và C mà không tiến
hành thu hồi quyết định thi hành án và quyết định kê biên tài sản để ra
các quyết định về thi hành án mới.
Là Kiểm sát viên kiểm sát hồ sơ thi hành án trên, anh (chị) có
đồng ý với việc làm của cơ quan thi hành án không? Nêu hướng giải
quyết của Kiểm sát viên.
3. Bản án số 225/2015/DSST tuyên: A phải trả cho Ngân hàng
M số tiền là 4.530.857.586 đồng, trong đó nợ gốc là 3.182.750.000
đồng, nợ lãi là 1.348.107.586 đồng theo hợp đồng tín dụng hạn mức
số LD1108400207 ngày 25/3/2011 được ký giữa Ngân hàng M và
ông A.
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án,
nếu người phải thi hành án không trả số tiền nêu trên thì hàng tháng
còn phải trả tiền lãi đối với số nợ gốc chưa thi hành theo lãi suất
thỏa thuận quy định tại Hợp đồng tín dụng số LD1108400207 ngày
25/3/2011 tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
Trường hợp bản án có hiệu lực pháp luật mà ông A không thực
hiện nghĩa vụ thanh toán số tiền nêu trên và lãi phát sinh thì Ngân hàng
M có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án tiến hành kê biên, phát mại tài
sản của khoản vay nói trên là thửa đất số 46, tờ bản đồ số 35, địa chỉ tổ
12, phường P, quận T, thành phố N.
Cơ quan thi hành án đã ra quyết định thi hành án theo đúng
nội dung của bản án. Sau khi hết thời gian tự nguyện thi hành án,
cơ quan thi hành án đã tiến hành xác minh thì có kết quả: Ngôi nhà
cấp 4 có diện tích 50 m2 được xây trên diện tích đất 110m2 của ông

765
A theo hợp đồng thế chấp hiện không còn nữa, thay vào đó là ngôi
nhà 04 tầng được xây trên diện tích 100m2. Tuy nhiên, cũng theo kết
quả xác minh thì ngôi nhà 04 tầng này được xây trước khi ông A thế
chấp cho Ngân hàng, việc xây dựng không được cấp giấy phép, đồng
thời, ngôi nhà này cũng xây chồng lên diện tích đất của nhà bà B (là
hàng xóm của ông A) 10m2. Trước tình hình trên, cơ quan thi hành
án đã làm văn bản kiến nghị Tòa án xem xét lại bản án đã có hiệu lực
pháp luật nói trên.
Anh (chị) hãy nêu cách giải quyết của Tòa án khi nhận được văn
bản kiến nghị của cơ quan thi hành án?

766
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. VĂN BẢN PHÁP LUẬT


I. HIẾN PHÁP
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb.
Chính trị quốc gia, 2013;
II. PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
1. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004;
2. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2011;
3. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
4. Luật Phí và lệ phí năm 2015;
5. Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP ngày 27/4/2005 của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số
quy định tại Chương VIII “Các biện pháp khẩn cấp tạm thời” của Bộ
luật Tố tụng dân sự;
6. Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số
quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật Tố
tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự;
7. Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số
quy định về “Chứng cứ và chứng minh” của Bộ luật Tố tụng dân sự đã
được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ
luật Tố tụng dân sự;

767
8. Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành
một số quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại
Tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi,
bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố
tụng dân sự;
9. Nghị quyết số 06/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số
quy định trong Phần thứ ba “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp
phúc thẩm” của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự;
10. Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13/01/2017 của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao “Ban hành một số biểu mẫu
trong tố tụng dân sự”;
11. Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao “Hướng dẫn một số quy định
tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 BLTTDS năm 2015 về trả lại đơn
khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án”;
12. Thông tư liên tịch số 03/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC
ngày 15/10/2013 hướng dẫn thi hành quy định về thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm và thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
13. Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-
BTP-BTC ngày 28/3/2014 hướng dẫn thi hành Điều 92 Bộ luật Tố
tụng dân sự đã được sửa đổi theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Bộ luật Tố tụng dân sự về định giá tài sản, thẩm định giá tài sản;
14. Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC
ngày 31/8/2016 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Tòa án nhân
dân tối cao quy định việc phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân và
Tòa án nhân dân trong việc thi hành một số quy định của Bộ luật Tố
tụng dân sự;

768
15. Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 của Tòa
án nhân dân tối cao về việc “Giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ”;
16. Công văn số 146/2017/GĐ-TANDTC ngày 11/7/2017 của
Tòa án nhân dân tối cao về việc “viện dẫn, áp dụng án lệ trong xét xử”.
III. PHÁP LUẬT DÂN SỰ
1. Bộ luật Dân sự năm 1995;
2. Bộ luật Dân sự năm 2005;
3. Bộ luật Dân sự năm 2015;
4. Luật Đất đai năm 2003 (sửa đổi, bổ sung năm 2009);
5. Luật Đất đai năm 2013;
6. Luật Nhà ở năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009);
7. Luật Nhà ở năm 2015;
8. Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20/8/1998 của
Ủy ban thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập
trước ngày 01/7/1991;
9. Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp
luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và
gia đình;
10. Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật
trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình;
11. Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng
một số quy định của Bộ luật Dân sự 2005 về bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng;
12. Thông tư liên tịch số 01/2014/TTLT-NHNN-BXD-BTP-
BTNMT ngày 25/4/2014 hướng dẫn thủ tục thế chấp nhà ở hình thành

769
trong tương lai theo quy định tại Nghị định số 71/2010/NĐ-CP ngày
23/6/2010 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật
Nhà ở.
IV. PHÁP LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
1. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959;
2. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986;
3. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000;
4. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
5. Luật Hộ tịch năm 2014;
6. Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội về
việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình;
7. Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao ngày 23/12/2000 hướng dẫn áp dụng một số
quy định của Luật Hôn nhân và gia đình;
8. Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình;
9. Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 của Chính phủ
quy định chi tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH10
của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình;
10. Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình
về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài;
11. Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính
phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch;
12. Thông tư số 07/2001/TT-BTP ngày 10/12/2001 của Bộ Tư pháp
hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị định số 77/2001/NĐ-CP
ngày 22/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết về đăng ký kết hôn
theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội;

770
13. Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-
BTP ngày 03/01/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/
QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân
và gia đình;
14. Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-
BTP ngày 06/01/2016 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014;
15. Chỉ thị số 02/2003/CT-BTP ngày 14/7/2003 của Bộ trưởng
Bộ Tư pháp về việc tiếp tục đăng ký kết hôn cho các trường hợp nam
và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến ngày
01/01/2001.
V. PHÁP LUẬT KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
1. Luật Thương mại năm 2005;
2. Luật Đầu tư năm 2014;
3. Luật Doanh nghiệp năm 2014;
4. Nghị định số 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 của Chính phủ
về đăng ký doanh nghiệp;
5. Nghị định số 96/2015/NĐ-CP ngày 19/10/2015 của Chính phủ
quy định chi tiết một số điều của Luật Doanh nghiệp;
6. Văn bản hợp nhất số 19/BTC ngày 09/5/2014 quy định chi tiết
Luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh
doanh và kinh doanh có điều kiện.
7. Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17/10/2016 của Bộ Công an
về việc công bố án lệ.
VI. PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG
1. Bộ luật Lao động năm 2012;
2. Luật Việc làm năm 2013;

771
3. Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014;
4. Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015;
5. Nghị định số 44/2013/NĐ-CP ngày 10/5/2013 của Chính phủ quy
định chi tiết một số điều của Bộ luật Lao động về hợp đồng lao động;
6. Nghị định số 45/2013/NĐ-CP ngày 10/5/2013 của Chính phủ
quy định chi tiết một số điều của Bộ luật Lao động về thời giờ làm
việc, thời giờ nghỉ ngơi và an toàn lao động, vệ sinh lao động;
7. Nghị định số 55/2013/NĐ-CP ngày 22/5/2013 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành khoản 3 Điều 54 của Bộ luật Lao động về
việc cấp giấy phép hoạt động cho thuê lại lao động, việc ký quỹ và
danh mục công việc được thực hiện cho thuê lại lao động;
8. Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22/8/2013 của Chính phủ
quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo
hiểm xã hội vừa đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài theo hợp đồng;
9. Nghị định số 102/2013/NĐ-CP ngày 05/9/2013 của Chính phủ
quy định chi tiết một số điều của Bộ luật Lao động về lao động nước
ngoài làm việc tại Việt Nam;
10. Nghị định số 119/2014/NĐ-CP ngày 17/12/2014 của Chính
phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật
Lao động, Luật Dạy nghề, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc
ở nước ngoài theo hợp đồng lao động về khiếu nại, tố cáo;
11. Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015 của Chính
phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật
Lao động;
12. Nghị định số 28/2015/NĐ-CP ngày 12/3/2015 của Chính
phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Việc làm về bảo hiểm
thất nghiệp;
13. Nghị định số 63/2015/NĐ-CP ngày 22/7/2015 của Chính phủ

772
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao
động quy định chính sách đối với người lao động dôi dư khi sắp xếp lại
Công ty TNHH Một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu;
14. Nghị định số 85/2015/NĐ-CP ngày 01/10/2015 của Chính
phủ quy định chi tiết một số điều của Bộ luật Lao động về chính sách
đối với lao động nữ;
15. Nghị định số 88/2015/NĐ-CP ngày 07/10/2015 của Chính
phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 95/2013/NĐ-CP
ngày 22/8/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài theo hợp đồng;
16. Thông tư số 10/2013/TT-BLĐTBXH ngày 10/6/2013 của Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành danh mục các công việc
và nơi làm việc cấm sử dụng lao động là người chưa thành niên;
17. Thông tư số 11/2013/TT-BLĐTBXH ngày 11/6/2013 của Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành danh mục các công việc
nhẹ được sử dụng người dưới 15 tuổi làm việc;
18. Thông tư số 26/2013/TT-BLĐTBXH ngày 18/10/2013 của
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành danh mục công việc
không được sử dụng lao động nữ;
19. Thông tư số 30/2013/TT-BLĐTBXH ngày 25/10/2013 của
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn thi hành một số điều
của Nghị định số 44/2013/NĐ-CP ngày 10/5/2013 quy định chi tiết
một số điều của Bộ luật Lao động về hợp đồng lao động;
20. Thông tư số 03/2014/TT-BLĐTBXH ngày 20/01/2014 của
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn thi hành một số điều
của Nghị định số 102/2013/NĐ-CP ngày 05/9/2013 quy định chi tiết
một số điều của Bộ luật Lao động về lao động nước ngoài làm việc tại
Việt Nam;
21. Thông tư số 05/2014/TT-BLĐTBXH ngày 06/3/2014 của Bộ

773
Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành danh mục máy, thiết bị,
vật tư có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động;
22. Thông tư số 23/2015/TT-BLĐTBXH ngày 23/6/2015 của Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện một số điều về
tiền lương của Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015;
23. Thông tư số 44/2015/TT-BLĐTBXH ngày 22/10/2015 của
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện một số
điều của Nghị định số 63/2015/NĐ-CP ngày 22/7/2015;
24. Thông tư số 47/2015/TT-BLĐTBXH ngày 16/11/2015 của
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện một số
điều về hợp đồng, kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất của Nghị định
số 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015.
VII. PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1. Luật Thi hành dân sự năm 2008;
2. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân
sự năm 2014;
3. Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành
án dân sự;
4. Thông tư số 91/2010/TT-BTC ngày 17/6/2010 của Bộ Tài
chính hướng dẫn về kế toán nghiệp vụ thi hành án dân sự;
5. Thông tư số 01/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của Bộ Tư
pháp hướng dẫn thực hiện thủ tục về quản lý hành chính và biểu mẫu
nghiệp vụ trong thi hành án dân sự;
6. Thông tư liên tịch số 144/2010/TTLT-BTC-BTP ngày
22/9/2010 của Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp hướng dẫn chế độ thu, nộp,
quản lý và sử dụng phí thi hành án dân sự;
7. Thông tư liên tịch số 184/2011/TTLT-BTC-BTP ngày

774
09/12/2011 của Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp hướng dẫn cơ chế quản lý
tài chính về kinh phí tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự;
8. Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT-BTP-BTC-BLĐTBXH-
NHNNVN ngày 11/4/2014 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng
dẫn việc cung cấp thông tin về tài khoản, thu nhập của người phải thi
hành án và thực hiện phong tỏa, khấu trừ tiền để thi hành án dân sự;
9. Thông tư liên tịch số 12/2015/TTLT-BTP-BTC-TANDTC-
VKSNDTC ngày 15/9/2015 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Tòa án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn việc miễn,
giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước;
10. Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-
VKSNDTC ngày 01/8/2016 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định một số vấn đề về thủ tục thi
hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự;
11. Quyết định số 410/QĐ-VKSTC-V15 ngày 26/6/2015 của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc quy định nhiệm
vụ, quyền hạn của các đơn vị thuộc bộ máy làm việc của Viện kiểm sát
nhân dân tối cao;
12. Quyết định số 51/QĐ-VKSTC-V12 ngày 02/02/2016 của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành quy chế tiếp công
dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo trong hoạt động tư pháp.
VIII. MỘT SỐ VĂN BẢN PHÁP LUẬT CHUYÊN NGÀNH KHÁC
1. Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010);
2. Luật Các công cụ chuyển nhượng năm 2005;
3. Luật Công chứng năm 2006;
4. Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010;
5. Luật Công chứng năm 2014;

775
6. Luật Phá sản năm 2014;
7. Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014;
8. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014;
9. Luật Tố tụng hành chính năm 2015;
10. Pháp lệnh Ngoại hối năm 2005 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung
một số điều của Pháp lệnh Ngoại hối năm 2013;
11. Nghị định số 101/2005/NĐ-CP ngày 03/8/2005 của Chính
phủ về thẩm định giá;
12. Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ
về bán đấu giá tài sản;
13. Nghị định số 160/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Ngoại hối và Nghị định số
70/2014/NĐ-CP ngày 17/7/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành một số điều của Pháp lệnh Ngoại hối và Pháp lệnh sửa đổi, bổ
sung một số điều của Pháp lệnh Ngoại hối;
14. Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch
bảo đảm và Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính
phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP;
15 Nghị định số 09/2009/NĐ-CP ngày 05/02/2009 của Chính
phủ ban hành Quy chế quản lý tài chính của công ty nhà nước và quản
lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác;
16. Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23/7/2010 của Chính phủ
về đăng ký giao dịch bảo đảm và Nghị định số 05/2012/NĐ-CP ngày
02/02/2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị
định về đăng ký, giao dịch bảo đảm, trợ giúp pháp lý, Luật sư, tư vấn
pháp luật;
17. Nghị định số 53/2013/NĐ-CP ngày 18/5/2013 của Chính phủ
về thành lập, tổ chức và hoạt động của Công ty quản lý tài sản của các
tổ chức tín dụng Việt Nam;

776
18. Nghị định số 71/2013/NĐ-CP ngày 11/7/2013 của Chính phủ
về đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100%
vốn điều lệ;
19. Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính
phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành
chính tư pháp, hôn nhân gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh
nghiệp, hợp tác xã;
20. Nghị định số 34/2015/NĐ-CP ngày 05/4/2015 của Chính phủ
sửa đổi, bổ sung Nghị định số 53/2013/NĐ-CP của Chính phủ về thành
lập, tổ chức và hoạt động của Công ty quản lý tài sản của các tổ chức
tín dụng Việt Nam;
21. Nghị định số 67/2015/NĐ-CP ngày 14/8/2015 của Chính phủ
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày
24/9/2013 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân gia đình, thi hành án
dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã;
22. Nghị định số 71/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính
phủ quy định thời hạn, trình tự, thủ tục thi hành án hành chính và xử
lý trách nhiệm đối với người không thi hành bản án, quyết định của
Tòa án;
23. Thông tư số 242/2009/TT-BTC ngày 30/12/2009 của Bộ Tài
chính hướng dẫn thi hành một số điều của Quy chế quản lý tài chính
của công ty nhà nước và quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh
nghiệp khác ban hành kèm theo Nghị định số 09/2009/NĐ-CP;
24. Thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14/4/2010 của Chính
phủ hướng dẫn tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng Việt Nam đối với
khách hàng theo lãi suất thỏa thuận;
25. Thông tư số 29/2013/TT-NHNN ngày 06/12/2013 của Chính
phủ quy định cho vay bằng ngoại tệ của tổ chức tín dụng, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng vay là người cư trú;

777
26. Các thông tư về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp
trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro số
02/2013/TT-NHNN, số 09/2014/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung Thông tư
số 02/2013/TT-NHNN và số 01/2014/VBHN-NHNN hợp nhất văn bản;
27. Thông tư liên tịch số 20/2011/TTLT-BTP-BTNMT ngày
18/11/2011 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn
việc đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất;
28. Thông tư liên tịch số 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN
ngày 06/6/2014 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ngân
hàng Nhà nước hướng dẫn một số vấn đề về xử lý tài sản bảo đảm;
29. Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành Quy chế cho vay của tổ
chức tín dụng đối với khách hàng; và các Quyết định sửa đổi, bổ sung
số 28/2002/QĐ-NHNN ngày 11/01/2002, số 127/2005/QĐ-NHNN
ngày 03/02/2005, số 783/2005/QĐ-NHNN ngày 31/5/2005;
B. SÁCH
1. Học viện Tư pháp, Sổ tay Luật sư, Nxb. Công an nhân dân, 2004;
2. Học viện Tư pháp, Giáo trình Luật Dân sự, Nxb. Công an
nhân dân, 2007;
3. Học viện Tư pháp, Giáo trình Kỹ năng tư vấn pháp luật và hợp
đồng, Nxb. Công an nhân dân, 2012;
4. Học viện Tư pháp, Giáo trình Kỹ năng giải quyết vụ việc dân
sự (Giáo trình tái bản có chỉnh lý, bổ sung dùng cho đào tạo Thẩm
phán, Kiểm sát viên, Luật sư, được hoàn thành với sự tài trợ viết bài
của cơ quan hợp tác quốc tế nhật bản JICA), Nxb. Tư pháp, 2013;
5. Học viện Tư pháp, Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam
(tái bản có chỉnh lý, bổ sung), Nxb. Tư pháp, 2014;
6. Học viện Tư pháp, Giáo trình kỹ năng tư vấn pháp luật cho
doanh nghiệp (phần chuyên sâu), Nxb. Tư pháp, 2016;

778
7. Luật gia Tưởng Duy Lượng, Pháp luật hôn nhân - gia đình,
thừa kế và thực tiễn xét xử, Nxb. Chính trị quốc gia, 2013;
8. Nguyễn Văn Cừ và Ngô Thị H­ường, Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2002;
9. Nhà pháp luật Việt Pháp, Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về
Hợp đồng thương mại quốc tế, Nxb. Tư pháp, 2004;
10. Nguyễn Minh Hằng, Hoạt động chứng minh trong pháp luật
tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. Chính trị - Hành chính, 2009;
11. Pháp luật về hợp đồng trong thương mại và đầu tư - Những
vấn đề pháp lý cơ bản, Nxb. Chính trị quốc gia, 2009;
12. PGS.TS. Phạm Duy Nghĩa, Cẩm nang hợp đồng thương mại,
Nxb. Lao động, 2010;
13. PGS.TS. Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam - Bản án và
bình luận bản án; Luật Thừa kế Việt Nam - Bản án và bình luận bản
án; Luật hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án (tái bản lần
thứ ba), Nxb. Chính trị quốc gia, 2011;
14. PGS.TS. Nguyễn Thị Hoài Phương (Chủ biên), Bình luận
những điểm mới trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Nxb. Hồng
Đức, Hà Nội, 2015;
15. PGS.TS. Đỗ Văn Đại (Chủ biên), Bình luận khoa học những
điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, 2015;
16. Trường Đại học Luật Hà Nội, Từ điển giải thích thuật ngữ
Luật học (Luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Tố tụng
dân sự), Nxb. Công an nhân dân, 1999;
17. TS. Phan Hữu Thư, Xây dựng Bộ luật Tố tụng dân sự - Những
vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, 2001;
18. TS. Nguyễn Đình Lộc, Phân tích những quy định chung của
Bộ luật Dân sự từ Điều 1 đến Điều 171, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2001;

779
19. TS. Nguyễn Ngọc Điện, Bình luận khoa học Luật Hôn nhân
và gia đình Việt Nam, Tập 1, Nxb. Trẻ, TP. HCM, 2002;
20. TS. Lê Mai Anh, Bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền
của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra, Nxb. Lao động - Xã hội, 2004;
21. Tòa án nhân dân tối cao (2005), Quyết định giám đốc thẩm
của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao năm 2003 - 2004.
22. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng dân sự
Việt Nam, Nxb. Tư pháp, 2005;
23. TS. Đinh Trung Tụng (Chủ biên), Bình luận những nội dung
mới của Bộ luật Dân sự năm 2005, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2005;
24. ThS. Trần Minh Tiến, Tra cứu Bộ luật Tố tụng dân sự, Nxb.
Tư pháp, 2006;
25. TS. Nguyễn Ngọc Khánh, Chế định hợp đồng trong Bộ luật
Dân sự Việt Nam, Nxb. Tư pháp, 2007;
26. TS. Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp
luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2008;
27. TS. Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam - Bản án và bình luận
bản án, Nxb. Chính trị quốc gia, 2009;
28. TS. Hoàng Thế Liên - Nguyễn Đức Giao (Chủ biên), Bình
luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2005, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2009;
29. Tư­ởng Duy Lư­ợng, Bình luận một số vụ án dân sự và hôn
nhân và gia đình, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009;
30. TS. Đỗ Văn Đại, Luật Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng -
Bản án và bình luận bản án, Nxb. Chính trị quốc gia, 2010;
31. TS. Nguyễn Văn Tiến, TS. Đỗ Văn Đại, Tuyển tập các bản
án, quyết định của Tòa án Việt Nam về tố tụng dân sự, Nxb. Lao
động, 2010;

780
32. TS. Nguyễn Văn Tiến, Thẩm quyền xét xử của Tòa án
nhân dân đối với các vụ việc kinh doanh, thương mại theo pháp
luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia thành phố Hồ
Chí Minh, 2010;
33. TS. Phùng Trung Tập, Luận bàn về các hình thức sở hữu
và sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng, Nxb. Chính trị - hành chính,
2011;
34. TS. Nguyễn Minh Hằng, TS. Nguyễn Văn Cường, Giao dịch
về quyền sử dụng đất vô hiệu pháp luật và thực tiễn xét xử, Nxb. Thông
tin và Truyền thông, 2011;
35. Trường Cán bộ Tòa án - Tòa án nhân dân tối cao, Tài liệu tập
huấn Bộ luật Tố tụng dân sự, 2012;
36 Trư­ờng Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hôn nhân và
gia đình Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, 2012;
37. Trư­ờng Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Dân sự, Tập I
và II, Nxb. Công an nhân dân, 2012;
38. Trư­ờng Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Giáo trình
những quy định chung về Luật Dân sự, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia
Việt Nam, 2012;
39. TS. Nguyễn Minh Hằng, Cẩm nang pháp luật hôn nhân và
gia đình, Nxb. Thông tin và Truyền thông, 2012;
40. TS. Nguyễn Minh Hằng (Chủ biên), Pháp luật đất đai trong
hoạt động Nghề Luật sư, Nxb. Thông tin và Truyền thông, 2013;
41. ThS. Nguyễn Thị Hạnh, Tra cứu pháp luật tố tụng dân sự,
Nxb. Tư pháp, 2013;
42. TS. Nguyễn Minh Hằng (Chủ biên), Xử lý tình huống
trong thi hành Luật Đất đai năm 2013, Nxb. Thông tin và Truyền
thông, 2013;
43. Tòa án nhân dân tối cao, Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm

781
của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về dân sự năm 2010 -
2012, Hà Nội, 2014;
44. Tòa án nhân dân tối cao, Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm
của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về kinh doanh -
thương mại và hành chính năm 2010 - 2012, Hà Nội, 2014;
45. TS. Lê Mai Anh, TS. Nguyễn Minh Hằng (Chủ biên), Sổ tay
tư vấn pháp luật - Phần Dân sự, Nxb. Lao động, 2014;
46. TS. Ngô Hoàng Oanh (Chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật
dân sự năm 2015, Nxb. Lao Động, Hà Nội, 2015;
47. TS. Bùi Thị Huyền (Chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015, Nxb. Lao Động, Hà Nội, 2015;
48. Sổ tay thẩm phán, Tòa án nhân dân tối cao http://www.
sotaythamphan.gov.vn;
49. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, 2003;
50. Viện Khoa học xét xử, So sánh Bộ luật Dân sự năm 1995 và
Bộ luật Dân sự năm 2005, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2005.
C. TẠP CHÍ
1. Đinh Văn Thanh, Về thời hạn, thời hiệu trong BLDS, Tạp chí
Tòa án nhân dân 2/2000;
2. Đỗ Văn Đại, Tòa án nhân dân tối cao với vấn đề giải thích
pháp luật dân sự ở Việt Nam, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 6/2008.
3. Học viện Tư pháp, Đặc san Nghề luật, số chuyên đề về Bộ luật
Tố tụng dân sự;
4. Lê Đình Nghị, Các quy định về cá nhân trong Bộ luật Dân sự,
Tạp chí Luật học, số đặc san 11/2013;
5. Lê Minh Hùng, Địa vị pháp lý của hộ gia đình trong pháp luật
dân sự, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp 4/2005;

782
6. Lưu Tiến Dũng, Mối quan hệ giữa thời hạn khiếu nại và thời
hiệu khởi kiện đối với tranh chấp thương mại, Tạp chí Tòa án nhân
dân, số 22/2007;
7. Nguyễn Ngọc Khánh, Thời hiệu khởi kiện trong Bộ luật Dân
sự, Tạp chí Kiểm sát số 6 (3)-2005;
8. Nguyễn Ngọc Điện, Quyền chủ thể, đặc quyền và quyền ưu
tiên, Tạp chí Luật học, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp 4/2005;
9. Phạm Hữu Nghị, Về nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương
sự trong tố tụng dân sự, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 12(152)/2000;
10. Phạm Kim Anh, Luật Dân sự và Luật Hôn nhân và gia đình,
Tạp chí Khoa học pháp lý, số 2/2000;
11. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Quan hệ giữa
Bộ luật Dân sự sửa đổi và luật chuyên ngành: Riêng đến tận cùng,
chung như có thể, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp 5/2005;
12. Phan Huy Hồng, Lê Nết, Trách nhiệm tài sản của pháp nhân,
hữu hạn hay vô hạn, Tạp chí Khoa học pháp lý - 6/2005;
13. Tưởng Duy Lượng, Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp
huyện trong việc giải quyết các vụ việc về dân sự, Tạp chí Toà án nhân
dân tháng 8/2007 (15);
14. Võ Chí Hảo, Giải thích pháp luật và vai trò của Tòa án, Tạp
chí Tòa án nhân dân số 13/2005.

783
MỤC LỤC

Lời giới thiệu 9


CHƯƠNG 1. KHỞI KIỆN VÀ THỤ LÝ VỤ ÁN 11
1. Một số vấn đề chung về điều kiện khởi kiện, điều kiện
thụ lý vụ án dân sự 11
2. Kỹ năng của Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên trong
khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự 37
3. Câu hỏi ôn tập, thảo luận 93
CHƯƠNG 2. THU THẬP CHỨNG CỨ 94
1. Một số vấn đề chung về chứng cứ và chứng minh trong
tố tụng dân sự 95
2. Kỹ năng của Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên trong
hoạt động thu thập chứng cứ 115
3. Câu hỏi ôn tập, thảo luận 160
CHƯƠNG 3. NGHIÊN CỨU HỒ SƠ 161
1. Một số vấn đề chung trong hoạt động nghiên cứu hồ sơ 161
2. Kỹ năng của Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư trong
hoạt động nghiên cứu hồ sơ 170
3. Câu hỏi ôn tập, thảo luận 215
CHƯƠNG 4. HÒA GIẢI VỤ ÁN DÂN SỰ 216
1. Một số vấn đề chung về thủ tục hòa giải 216
2. Kỹ năng của Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên trong
hoạt động hòa giải 230

784
3. Câu hỏi ôn tập, thảo luận 274
CHƯƠNG 5. CHUẨN BỊ THAM GIA PHIÊN TÒA
SƠ THẨM 276
1. Kỹ năng chung trong việc chuẩn bị cho phiên tòa
sơ thẩm 277
2. Kỹ năng của Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên chuẩn
bị cho phiên tòa sơ thẩm 289
3. Câu hỏi ôn tập, thảo luận 326
CHƯƠNG 6. PHIÊN TÒA SƠ THẨM 328
1. Một số vấn đề chung về phiên tòa sơ thẩm 328
2. Kỹ năng của Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên tại
phiên tòa sơ thẩm 346
3. Câu hỏi ôn tập, thảo luận 414
CHƯƠNG 7. THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN TẠI
TÒA ÁN CẤP PHÚC THẨM 415
1. Một số vấn đề chung về thủ tục phúc thẩm 416
2. Kỹ năng của Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên trong
thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm 423
3. Câu hỏi ôn tập, thảo luận 474
CHƯƠNG 8. KỸ NĂNG THAM GIA GIẢI QUYẾT
VỤ ÁN THEO THỦ TỤC RÚT GỌN 475
1. Một số vấn đề chung về thủ tục rút gọn 475
2. Kỹ năng của Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên trong
khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự 487
3. Câu hỏi ôn tập, thảo luận 525

785
CHƯƠNG 9. THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VIỆC DÂN SỰ 526
1. Một số vấn đề chung về thủ tục giải quyết việc dân sự 526
2. Kỹ năng của Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên trong
thủ tục giải quyết việc dân sự 542
3. Câu hỏi ôn tập, thảo luận 586
CHƯƠNG 10. THỦ TỤC XÉT LẠI BẢN ÁN, QUYẾT
ĐỊNH CỦA TÒA ÁN ĐÃ CÓ HIỆU LỰC PHÁP LUẬT 588
1. Một số vấn đề chung về thủ tục xét lại bản án, quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật 590
2. Kỹ năng của Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên trong
thủ tục xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật 625
3. Câu hỏi ôn tập, thảo luận 660
CHƯƠNG 11. KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ, KIỂM SÁT
VIÊN, THẨM PHÁN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 662
1. Một số quy định chung về thi hành án dân sự 662
2. Kỹ năng của Luật sư, Kiểm sát viên, Thẩm phán trong
thi hành án dân sự 692
3. Câu hỏi ôn tập, thảo luận 764
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 767

786
NHÀ XUẤT BẢN TƯ PHÁP
Trụ sở đăng ký: 58 - 60 Trần Phú, Ba Đình, Hà Nội
Trụ sở chính: 35 Trần Quốc Toản, P. Trần Hưng Đạo, Q. Hoàn Kiếm, Hà Nội
Phát hành tại Hà Nội: Điện thoại 024.62632078 - 024.62632079 - Fax: 024.62632080
Phát hành tại TP. HCM: 200C Võ Văn Tần, P. 5, Q. 3, TP. HCM
Điện thoại: 0906056818 - Email: gianght@moj.gov.vn
Email: nxbtp@moj.gov.vn - Website: https://nxbtuphap.moj.gov.vn

Chịu trách nhiệm xuất bản


Giám đốc: TS. HỒ QUANG HUY
Chịu trách nhiệm nội dung
Tổng Biên tập: TS. TRẦN MẠNH ĐẠT
Biên tập
THS. TRƯƠNG THỊ THU HÀ
THS. NGUYỄN THỊ HẢI YẾN - THS. VƯƠNG THỊ LIỄU
Biên tập mỹ thuật
ĐẶNG VINH QUANG
Trình bày
PHẠM VIỆT HÀ
Sửa bản in
TRƯƠNG THỊ THU HÀ - NGUYỄN THỊ HẢI YẾN - VƯƠNG THỊ LIỄU
Đọc sách mẫu
BÙI CẨM THƠ
Đối tác liên kết xuất bản: Công ty TNHH in Thanh Bình
Số 432 đường K2 - Cầu Diễn - Nam Từ Liêm - Hà Nội

In 300 bản, khổ 16 x 24 cm, tại Công ty TNHH in Thanh Bình (Số 432
đường K2 - Cầu Diễn - Nam Từ Liêm - Hà Nội). Số xác nhận đăng ký xuất bản:
1277-2020/CXBIPH/12-150/TP được Cục Xuất bản, In và Phát hành xác nhận
đăng ký ngày 15/4/2020. Quyết định xuất bản số 36/QĐ-NXBTP ngày 23/4/2020
của Giám đốc Nhà xuất bản Tư pháp. In xong, nộp lưu chiểu năm 2020.
ISBN: 978-604-81-1869-3

You might also like