You are on page 1of 36

BỘ TƯ PHÁP BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

Tên:...
Mã Sinh Viên:...

BÁO CÁO THỰC TẬP CHUYÊN MÔN

THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG LẬP DI CHÚC TẠI PHÒNG


CÔNG CHỨNG
(CHUYÊN ĐỀ THUỘC BỘ MÔN: LUẬT DÂN SỰ)

CƠ SỞ THỰC TẬP: PHÒNG CÔNG CHỨNG SỐ 1 TỈNH HƯNG YÊN

HÀ NỘI – 2023

i
i
BỘ TƯ PHÁP BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HOÀNG HỒ DIỆP
441316

BÁO CÁO THỰC TẬP CHUYÊN MÔN

THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG LẬP DI CHÚC TẠI PHÒNG


CÔNG CHỨNG
(CHUYÊN ĐỀ THUỘC BỘ MÔN: LUẬT DÂN SỰ)

CƠ SỞ THỰC TẬP: PHÒNG CÔNG CHỨNG SỐ 1 TỈNH HƯNG YÊN

HÀ NỘI – 2023

i
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS: Bộ luật Dân sự

iii
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ i
Lời cam đoan ii
Danh mục các chữ viết tắt iii
Mục lục iv

v
MỞ ĐẦU................................................................................................................
1. Lý do lựa chọn đề tài………………………………..……………2
2. Sơ lược về Phòng Công chứng số 1 tỉnh Hưng Yên…………..…3
3. Các kế hoạch triển khai thực tập cụ thể để thực hiện báo cáo thực
tập………………………………………………………..…………..4
CHƯƠNG 1. PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ THEO DI CHÚC….5
1.1. Cơ sở lý luận của pháp luật về thừa kế theo di chúc……….…..7
1.1.1. Khái niệm di chúc…………………………………………….9
1.1.2. Đặc điểm…………………………………………………….10
1.2.Quy định của pháp luật về thức kế theo di chúc ……………...13
1.2.1. Người lập di chúc……………………………………………15
1.2.2. Nội dung của di chúc………………………………………..18
1.2.3. Hình thức của di chúc…………………………………….....19
CHƯƠNG 2. THỰC TIẾN HOẠT ĐỘNG LẬP DI CHÚC TẠI
PHÒNG CÔNG CHỨNG………………………………………...20
2.1. Những thành tựu đạt được của pháp luật về thừa kế theo di
chúc………………………………………………………………...22
2.2. Một số hạn chế trong hoạt động lập di chúc tại phòng công
chứng……………………………………………………………….23
2.2.1. Về người lập di chúc……………………………………..….24
2.2.2. Về trình tự, thủ tục công chứng, chứng thực di chúc……….25
2.2.3. Thời hạn chứng thực di chúc miệng………………………...27
2.2.4. Hình thức của di chúc……………………………………….27
2.3. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong hoạt động lập di
chúc tại phòng công chứng………………………………………...27
2.4. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thừa kế theo di chúc……...28
CHƯƠNG 3. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM RÚT RA TỪ
CÔNG TÁC THỰC TẬP…………………………………………28
3.1.Thuận lợi và khó khăn khi thực tập tại Phòng công chứng số 1
tỉnh Hưng Yên…………………………………………………...…29
3.1.1.Thuận lợi…………………………………………………..…29
3.1.2. Khó khăn ……………………………………………...…….30
3.2.Bài học kinh nghiệm từ Phòng công chứng số 1 tỉnh Hưng
Yên………………………………………………………………....30
3.2.1. Cần cẩn trọng, tỉ mỉ khi công chứng di chúc cũng như các hợp
đồng, giao dịch khác…………………………………………….…31
3.2.2. Các yêu cầu và hoàn cảnh khác nhau của khách hàng……...31
3.2.3. Sự chuyên nghiệp khi làm việc của công chứng viên………31
3.2.4. Kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm tích lũy qua mỗi lần
thực hiện yêu cầu của khách hàng vô cùng quan trọng……………32
3.2.5. Cần thận trọng đối với các trường hợp trái quy tắc đạo đức xã
hội hay trường hợp có dấu hiệu lừa đảo…………………………...32
3.2.6.Bài học kinh nghiệm về thái độ ………………………….….32
KẾT LUẬN………………………………………………………..33

v
v
MỞ ĐẦU

1. Lý do lựa chọn đề tài


Thừa kế là một quan hệ pháp luật phổ biến trong đời sống xã hội. Trong
giai đoạn hiện nay, khi số lượng và giá trị tài sản của cá nhân ngày càng đa
dạng, phong phú thì vấn đề thừa kế di sản cũng nảy sinh nhiều dạng tranh chấp.
Bộ luật dân sự của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1995 quy định các
điều kiện có hiệu lực của di chúc, nhưng việc hiểu và áp dụng những quy định
đó trong việc giải quyết phân chia di sản thừa kế theo di chúc trên thực tế còn
nhiều bất cập. Những khó khăn thường được thể hiện trong việc xác định phải
có những điều kiện gì thì di chúc mới được coi là hợp pháp, điều kiện của người
lập di chúc, ý chí của người lập di chúc, nội dung của di chúc và hình thức của
di chúc. Trong thực tiễn thì các quy định của pháp luật về các điều kiện có hiệu
lực của di chúc còn có những cách hiểu khác nhau, dẫn tới việc nhận định và
quyết định không giống nhau của một số bản án giải quyết cùng một vụ án tranh
chấp về các điều kiện có hiệu lực của di chúc. Do vậy, việc nghiên cứu nhằm
làm rõ những quy định của pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của di chúc
theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 và Bộ luật dân sự năm 2015 là đáp
ứng kịp thời những đòi hỏi của lý luận và thực tiễn. Qua nghiên cứu đề tài, tác
giả cũng muốn xác định ý nghĩa của chế định về quyền thừa kế nói chung và
thừa kế theo di chúc nói riêng. Với việc nghiên cứu đề tài, tác giả muốn hoàn
thiện hơn nữa những quy định pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của di
chúc, nhằm mục đích nâng cao hơn nữa hiệu quả điều chỉnh của những quy định
này trong Bộ luật dân sự.
Như vậy, để giải đáp kịp thời những thắc mắc, khó khăn tồn tại trong hoạt
động lập di chúc, cũng như đưa ra được giải pháp khắc phục hạn chế thực hiện
lập di chúc tại phòng công chứng, em lựa chọn nghiên cứu đề tài “Thực tiễn
hoạt động lập di chúc tại phòng công chứng”. Từ đó, hoàn thiện hơn nữa
những quy định pháp luật về thừa kế theo di chúc, nhằm nâng cao hiệu quả điều
chỉnh của những quy định này trong Bộ luật Dân sự.

1
2. Sơ lược về Phòng Công chứng số 1 tỉnh Hưng Yên
Để hoàn thành báo cáo này một cách tốt nhất, em đã nhận được sự giúp đỡ
nhiệt tình, tận tâm đến từ các cô chú, anh chị đang công tác tại Phòng Công
chứng số 1 tỉnh Hưng Yên. Dưới đây là một số sơ lược về Phòng Công chứng số
1 – nơi em đã thực tập trong 10 tuần vừa qua.
- Đặc điểm, tình hình
Ngày 27/5/2015, UBND tỉnh Hưng Yên ban hành Quyết định số 1003/QĐ-
UBND quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Phòng
Công chứng số 1.
Đến ngày, 29/12/2017, UBND tỉnh Hưng Yên ban hành Quyết định số
3378/QĐ-UBND quy định về việc phân loại và giao quyền tự chủ đối với Phòng
Công chứng số 1. Hiện tại, tổng số viên chức của phòng là 5; trong đó có 4 đảng
viên; 100% là đoàn viên Công đoàn.
- Chức năng, nhiệm vụ
Phòng Công chứng số 1 là đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở Tư
pháp tỉnh Hưng Yên, có con dấu, trụ sở và tài khoản riêng để hoạt động theo quy
định của pháp luật; chịu sự chỉ đạo, quản lý trực tiếp tổ chức, số lượng người
làm việc và hoạt động của Sở Tư pháp.
Phòng công chứng số 1 tỉnh Hưng Yên chuyên thực hiện công chứng các
loại hợp đồng, giao dịch như công chứng hợp đồng mua bán tài sản, hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, hợp
đồng cầm cố thế chấp, hợp đồng ủy quyền, văn bản phân chia di sản thừa kế, di
chúc v.v. cũng như việc chứng thực bản sao từ bản chính, chứng nhận chữ ký
của các văn bản, hợp đồng, giao dịch khác theo nhu cầu của người dân.
- Thành tích đạt được
Trong năm qua, dưới sự chỉ đạo sâu sát, kịp thời của Lãnh đạo Sở Tư pháp,
trên cơ sở bám sát các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, của ngành
Tư pháp nói chung và lĩnh vực công chứng nói riêng trong điều kiện rất đặc thù
của địa phương, của ngành, của hoạt động công chứng, Phòng Công chứng số 1

2
đã triển khai đồng bộ, toàn diện và có trọng tâm, trọng điểm nhiệm vụ chính của
mình để đưa hoạt động công chứng ngày càng ổn định, đi vào nề nếp.
Năm 2019, với sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ viên chức trong đơn vị, số
lượng công việc yêu cầu công chứng, chứng thực tại Phòng Công chứng số 1
tỉnh Hưng Yên tăng vượt bậc so với những năm trước, tiền phí công chứng,
chứng thực năm 2019 cũng tăng lên so với năm 2018.
- Kết quả thực hiện nhiệm vụ chuyên môn:
Từ ngày 01/01/2019 đến ngày 31/10/2019, Phòng Công chứng số 1 tỉnh
Hưng Yên đã thực hiện được các việc cụ thể sau:
- Chứng nhận hợp đồng giao dịch: 1118 việc
- Chứng nhận chữ ký: 54 việc
- Chứng nhận bản dịch: 48 việc
- Chứng thực (bản sao): 4703 việc
Tổng số phí thu được là: 674.752.000 đồng, nộp ngân sách nhà nước 25%:
168.688.000 đồng.
Như vậy, với kết quả thực hiện công chứng các hợp đồng, giao dịch, chứng
thực bản sao, bản dịch năm 2019 so với năm 2018, số việc tăng lên 43% số
việc.1

3. Các kế hoạch triển khai thực tập cụ thể để thực hiện báo cáo thực tập
- Nắm bắt nội quy, quy chế của tổ chức
Nội quy, quy chế của tổ chức xoay quanh quy trình thực hiện đúng, đủ các
công việc tại phòng công chứng; tác phong của người đến phòng công chứng;
thái độ tư vấn cho khách hàng của công chứng viên cũng như bảng thu phí được
niêm yết ở nơi dễ quan sát khi thực hiện giao kết hợp đồng, giao dịch.
- Quan sát quá trình công chứng, chứng thực hợp đồng giao dịch
Quá trình thực hiện công chứng, chứng thực hợp đồng, giao dịch của công
chứng viên cần phải tuân theo một quy trình luật định. Quan sát quy trình này,
em nhận thấy hoạt động công chứng mang trong mình một nét đặc trưng riêng

1
Số liệu trích dẫn trong báo cáo tại Phòng công chứng số 1 tỉnh Hưng Yên

3
mà không một công việc nào có được. Công chứng viên sẽ kí và đóng dấu vào
văn bản cần công chứng, chứng thực, từ đó mà văn bản này sẽ đáp ứng được
điều kiện để có hiệu lực hoặc đủ điều kiện để hoàn thành một quy trình, thủ tục
khác.
- Giúp việc cho công chứng viên trong quá trình thực tập
Trong khi thực tập, em cũng được giao thực hiện các công việc không quá
phức tạp như in bản sao chứng thực giấy tờ cho khách hàng, lưu trữ hồ sơ cũng
như dữ liệu số của cơ quan trên hệ thống, nghiên cứu hồ sơ khách hàng hay là
tiếp xúc khách hàng v.v. Các công việc này không đòi hỏi nhiều sự khéo léo, tuy
nhiên vẫn cần phải có kiến thức và chuyên môn nhất định, cùng với sự hướng
dẫn của công chứng viên và sự cẩn trọng thì em mới có thể thực hiện được để
tránh sự sai sót, nhầm lẫn không đáng có.
- Thực hiện soạn bản nháp văn bản pháp lý theo nhu cầu khách hàng dưới
sự hướng dẫn của công chứng viên
Đây có lẽ là công việc đòi hỏi sự tập trung cao độ nhất và là công việc yêu
cầu tính chuyên môn cao nhất trong suốt quá trình em thực tập. Việc soạn thảo
một văn bản theo nhu cầu của khách hàng và để công chứng là hoạt động em
chưa từng thực hiện trước đây. Nếu không nhờ sự hướng dẫn của các cô chú cán
bộ tại Phòng công chứng thì em khó có thể bắt kịp những công việc mọi người
giao hằng ngày. Mặc dù em đã được tiếp cận với những kiến thức nhất định liên
quan đến hợp đồng giao dịch, về hình thức cũng như nội dung của một văn bản
thế nào cho hợp pháp. Tuy nhiên, thực tế để soạn thảo các văn bản này cần có
những chú ý nhất định đối với các loại văn bản khác nhau mà điều này nhà
trường chưa thể hiện được hết cho sinh viên. Qua đó, quá trình thực tập 10 tuần
tại Phòng công chứng số 1 tỉnh Hưng Yên đã giúp cho em mở rộng được những
kiến thức mới mà bản thân có lẽ sẽ khó có được khi tự mình thực hiện. Sau khi
kết thúc kỳ thực tập này, em nhận thấy bản thân mình có thêm những kiến thức
nhất định về soạn thảo văn bản cũng như các kỹ năng cần thiết để hành nghề tại
phòng công chứng.

4
Do còn thiếu sót về kiến thức pháp luật và kinh nghiệm thực tế nên báo cáo
này chưa thực sự hoàn chỉnh. Em mong rằng sẽ nhận được sự góp ý và nhận xét
từ thầy cô cũng như các cô chú, anh chị tại Phòng công chứng số 1, để báo cáo
hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của quý thầy cô và các cô
chú, anh chị trong quá trình thực tập và thực hiện báo cáo này!

CHƯƠNG 1. PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ THEO DI CHÚC

1.1. Cơ sở lý luận của pháp luật về thừa kế theo di chúc


1.1.1. Khái niệm di chúc

            Khi một người còn sống có quyền định đoạt toàn bộ hoặc một phần tài
sản của mình cho người khác sau khi chết, theo ý chí tự nguyện và thể hiện dưới
một hình thức pháp lý xác định gọi là di chúc.

          Di chúc được hiểu là: “sự dặn lại của một người trước lúc chết với những
người khác về những việc cần làm, nên làm[1]” hay “là văn bản chính thức ghi
những ý muốn của một người, đặc biệt là xử lý những tài sản của mình sau khi
chết[2]”. Như vậy, có thể hiểu “di chúc là ý nguyện của cá nhân muốn người
khác thực hiện sau khi chết[3]”.

          Dưới góc độ khoa học pháp lý, khái niệm di chúc cũng đã được hình
thành từ rất sớm. Theo Uipian – một luật gia La Mã nổi tiếng thì: “Di chúc là sự
thể hiện ý chí của chúng ta và ý chí đó được thực hiện sau khi chúng ta chết”. 
Như vậy, “dưới thời La Mã, di chúc đã được hiểu là phương tiện để thể hiện ý
chí của người lập ra nó và di chúc có hiệu lực khi người lập ra nó chết đi”.

          Theo pháp luật Anh – Mỹ, thì di chúc được hiểu “là một phương tiện mà
một người sử dụng để định đoạt tài sản của mình và chỉ có hiệu lực sau khi
người đó chết, với bản chất là có thể được thay đổi hoặc hủy bỏ trong suốt thời
gian mà người lập di chúc còn sống [4]. Theo Bộ luật dân sự của Cộng hòa Pháp

5
thì: “Di chúc là một chứng thư, theo đó người để lại di chúc định đoạt sau khi
chết một phần hoặc toàn bộ tài sản của mình, người đó có thể hủy bỏ di chúc [5].
Tương tự như vậy, mặc dù trong Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan không
trực tiếp nêu ra khái niệm di chúc nhưng đã gián tiếp định nghĩa di chúc thông
qua quy định về quyền của người để lại thừa kế trong việc “giải quyết” tài sản
của mình sau khi chết, cụ thể Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan quy định:
“Bất kỳ người nào có thể, trước khi chết, làm một tuyên bố ý định bằng di chúc
về giải quyết tài sản của mình, hoặc những vấn đề khác mà sẽ có hiệu lực theo
quy định của pháp luật sau khi người đó chết[6]”.

          Theo Bộ luật dân sự năm 2015: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân
nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết[7]”. Như vậy theo
quy định của pháp luật Việt Nam di chúc là một giao dịch dân sự dưới dạng
hành vi pháp lý đơn phương, thể hiện ý chí của cá nhân chứ không phải pháp
nhân , tổ chức (tức là pháp nhân, tổ chức không có quyền để lại di chúc) với
mục đích là để chuyển tài sản thuộc sỡ hữu của mình cho cá nhân, tổ chức sau
khi qua đời.

1.1.2. Đặc điểm

Một là,“di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân, không phải là bất cứ chủ thể
nào khác[8]”. Sự thể hiện “ý chí đơn phương của người lập di chúc” được thể
hiện ở chỗ, “việc lập di chúc, nội dung của di chúc phải do chính người lập di
chúc quyết định và định đoạt đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho
người khác sau khi chết. Người lập di chúc có toàn quyền định đoạt tài sản thuộc
sở hữu của mình cho bất kỳ ai và có quyền cho ai bao nhiêu phần trăm số tài sản
thuộc quyền sở hữu của mình mà không phụ thuộc vào việc người được hưởng
thừa kế theo di chúc có quan hệ huyết thống, nuôi dưỡng hay thân thích với
người lập di chúc[9]”.

6
  Hai là, “mục đích của di chúc phải nhằm dịch chuyển tài sản của người lập di
chúc cho người khác sau khi chết[10]”. Di chúc phải có nội dung là “định đoạt
tài sản của người để lại di chúc cho người khác nhưng việc định đoạt tài sản ở
đây phải là định đoạt tài sản sau khi chết, bởi lẽ, di chúc chỉ có hiệu lực và được
thực thi khi người để lại di chúc chết đi. Đây là đặc trưng quan trọng thể hiện
bản chất của di chúc và phân biệt giữa di chúc và hợp đồng tặng cho tài
sản[11]”.

Ba là, “di chúc có hiệu lực khi người để lại di sản thừa kế chết[12]”. Bộ luật dân
sự năm 2015 quy định: “Di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế[13]” cũng
tại Bộ luật này quy định: “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản
chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế
là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật dân sự năm 2015[14]”.
Đây là một đặc điểm thể hiện “rõ nét sự khác biệt giữa di chúc với các loại giao
dịch dân sự khác, việc xác định đúng thời điểm mở thừa kế – thời điểm người
lập di chúc chết có ý nghĩa trong việc xác định thời điểm có hiệu lực của di
chúc. Người lập di chúc có thể tự mình thay đổi nội dung đã định đoạt trong di
chúc hoặc có quyền hủy bỏ di chúc[15]”.

1.2.Quy định của pháp luật về thức kế theo di chúc

1.2.1. Người lập di chúc

Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Người thành niên có đủ điều kiện theo quy
định tại điểm a khoản 1 điều 630 Bộ luật dân sự năm 2015 có quyền lập di chúc
để định đoạt tài sản của mình. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười
tám tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc
lập di chúc[16]”.

Để trở thành chủ thể lập di chúc cá nhân phải đáp ứng những yêu cầu nhất định
đó là:

7
  Người “lập di chúc” phải có “năng lực hành vi dân sự”. Bộ luật dân sự năm
2015 quy định “Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá
nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự[17]” và “năng lực pháp luật dân sự
của cá nhân không bị hạn chế, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên
quan quy định khác[18]”. Một người được coi là “có đủ năng lực hành vi dân
sự” phải đáp ứng những điều kiện sau:

Về yêu cầu độ tuổi: “Người thành niên được xác định là người từ đủ mười tám
tuổi trở lên”[19]. Về nguyên tắc, người thành niên là người có đầy đủ năng lực
hành vi dân sự nên được tham gia xác lập mọi giao dịch dân sự, trong đó có việc
lập di chúc.

Về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi: “Độ tuổi và nhận thức là hai tiêu
chí để xác định năng lực hành vi của cá nhân. Một người đã thành niên nhưng
không thể nhận thức và làm chủ hành vi thì không đủ điểu kiện lập di chúc. Do
vậy, bên cạnh yếu tố về tuổi, yếu tố nhận thức là một điều kiện không thể thiếu
trong xác định năng lực hành vi dân sự của người lập di chúc[20]”. Tại Bộ luật
dân sự năm 2015 đã quy định: “Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong
khi lập di chúc[21]” nên di chúc sẽ được coi là không hợp pháp trong các trường
hợp: “Di chúc được lập ra trong hoặc sau khi người đó khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi; người lập di chúc nhưng bị Tòa án ra quyết định tuyên bố
mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định y khoa có
thẩm quyền mà thời điểm bị coi là mất năng lực hành vi dân sự trước thời điểm
di chúc được lập; lập di chúc sau khi bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành
vi dân sự mà di chúc đó không có sự đồng ý của người đại diện[22]”.

Người lập di chúc phải “tự nguyện”. “Di chúc sẽ bị coi là không có sự tự nguyện
khi người lập di chúc bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép[23]”.

1.2.2. Nội dung của di chúc

Một là, “điều kiện để nội dung của di chúc được coi là hợp pháp” phải đáp ứng:

8
Thứ nhất, “có nội dung không vi phạm điều cấm của pháp luật”. Bộ luật dân sự
2015 quy định: “nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của pháp luật,
trái đạo đức xã hội[24]”. Theo quy định này, “khi người để lại di sản thực hiện
quyền lập di chúc của mình chỉ cần đảm bảo không vi phạm những quy định của
luật không cho phép người lập di chúc thực hiện. Hiện nay, hầu hết các văn bản
quy phạm pháp luật đều liệt kê hành vi bị cấm tương ứng với phạm vi điều
chỉnh của văn bản[25]”.

Thứ hai, “có nội dung không trái đạo đức xã hội”. Bộ luật dân sự năm 2015 quy
định: “đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội,
được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng[26]”. Vì vậy, “các giao dịch nói chung
và việc lập di chúc nói riêng ngoài tuân thủ quy định của pháp luật, nội dung của
di chúc còn không được trái đạo đức xã hội. Tức nội dung của di chúc thể hiện
được quyền định đoạt thuộc về sự tự do của cá nhân nhưng phải đảm bảo những
chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và
tôn trọng[27]”.

Hai là, “nội dung cụ thể của di chúc”

Bộ luật dân sự quy định: “Di chúc gồm các nội dung chủ yếu sau: a) Ngày,
tháng, năm lập di chúc; b) Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc; c) Họ, tên
người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản; d) Di sản để lại và nơi có di
sản[28]”. Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về nội dung của di chúc theo hướng
tùy nghi và linh hoạt hơn, theo đó, thay vì quy định nội dung của di chúc “phải
ghi rõ” như Điều 653 Bộ luật dâ sự năm 2005. So với Bộ luật dân sự năm 2005,
Bộ luật dân sự năm 2015 đã bỏ nội dung “xác định rõ các điều kiện để cá nhân,
cơ quan, tổ chức được hưởng di sản” và “ việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ
và nội dung của nghĩa vụ” tại khoản 1 Điều 653 BLDS năm 2005 vì thực tế
không phải di chúc nào cũng có những nội dung này.

9
1.2.3. Hình thức của di chúc

Bộ luật dân sự quy định: “Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể
lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng[29]”. Như vậy, theo quy
định của pháp luật di chúc có thể được lập bằng hai hình thức là “di chúc bằng
văn bản” hoặc “ di chúc bằng miệng”.

* Di chúc bằng văn bản: “Tất cả di chúc được lập thành văn bản đều phải đáp
ứng yêu cầu chung về nội dung, trình tự theo quy định của pháp luật”[30].

Di chúc “bằng văn bản bao gồm”: “Di chúc bằng văn bản không có người làm
chứng. Di chúc bằng văn bản có người làm chứng. Di chúc bằng văn bản có
công chứng. Di chúc bằng văn bản có chứng thực[31]”.

Về “di chúc bằng văn bản không có người làm chứng”: “Nếu người lập di chúc
muốn lập di chúc bằng văn bản nhưng không có người làm chứng thì người lập
di chúc phải tự viết, ký vào bản di chúc và phải có những nội dung theo quy
định của pháp luật. Do vậy, nếu di chúc bằng văn bản không có người làm
chứng mà lại là văn bản đánh máy, không phải người lập di chúc tự viết tay thì
cũng không được thừa nhận dù có chữ ký. Ngược lại, nếu người lập di chúc tự
viết tay nhưng lại không tự ký mà người khác ký hộ thì di chúc đó không hợp
pháp[32]”.

Về “di chúc bằng văn bản có người làm chứng” phải đáp ứng nội dung tại điều
631 và người làm chứng đáp ứng quy định tại điều 632: “Mọi người đều có thể
làm chứng cho việc lập di chúc; Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới
nôi dung di chúc; Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự,
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ, hành vi”[33].

Về “di chúc bằng văn bản có công chứng, chứng thực”. “Người lâp di chúc có
thể yêu cầu công chứng, chứng thực bản di chúc. Trường hợp người lập di chúc
tự viết bản di chúc và yêu cầu công chứng Nhà nước chứng nhận hoặc ủy ban

10
nhân dân xã, phường, thi trấn chứng thực thì người lập di chúc phải kí vào bản
di chúc trước mặt người có thẩm quyền chứng nhận hoặc chứng thức. Việc di
chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân cấp xã phải tuân
theo quy định của pháp luật[34]”

* Di chúc bằng miệng: “là sự thể hiện ý chí thông qua lời nói của cá nhân nhằm
chuyển dịch tài sản của mình cho người khác sau khi chết[35]”. Để bảo đảm
quyền tự định đoạt Bộ luật dân sự quy định: “Trường hợp tính mạng một người
bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc
miệng. Sau 03 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập di chúc còn
sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ[36]”.

CHƯƠNG 2. THỰC TIẾN HOẠT ĐỘNG LẬP DI CHÚC TẠI PHÒNG


CÔNG CHỨNG

2.1. Những thành tựu đạt được của pháp luật về thừa kế theo di chúc
Đối với vấn đề lập di chúc, các yếu tố về độ tuổi, khả năng nhận thức và
điều khiển hành vi của người lập di chúc đã được ghi nhận khá chi tiết trong Bộ
luật Dân sự năm 2015. Việc ghi nhận này giúp điều tiết các quan hệ thừa kế một
cách có trật tự, ảnh hưởng tới nhóm đối tượng cụ thể đó là:
- Về phía Nhà nước: giúp đảm bảo tính khách quan của di chúc khi các vấn
đề về người lập di chúc cũng như thừa kế có tác động nhất định đến trật tự xã
hội. Khi có những quy định rõ ràng về độ tuổi, khả năng nhận thức, điều khiển
hành vi của người lập di chúc, điều này có vai trò: (i) đảm bảo quyền, lợi ích đặc
biệt là lợi ích tinh thần cho chính họ trong việc thể hiện sự định đoạt tài sản của
mình; (ii) sự định đoạt là trung thực với ý chí của họ; (iii) đảm bảo tính đặc thù
của loại giao dịch là di chúc chỉ có hiệu lực khi người lập chết đi và sự phân
chia di sản thừa kế theo di chúc ít gặp trở ngại nhất… Nhà nước luôn mong
muốn loại bỏ nhiều tranh chấp hết mức có thể. Và điều này cũng tạo ra sự công
bằng, hợp lý đối với các chủ thể của quan hệ thừa kế.

11
- Về phía người lập di chúc, người thừa kế: Pháp luật khẳng định người lập
di chúc phải là cá nhân có tài sản để lại và ý chí trong di chúc phải là ý chí của
chính cá nhân đó. Do đó, độ tuổi trưởng thành, khả năng nhận thức và thực hiện
hành vi theo mong muốn của bản thân khẳng định sự chín chắn, thấu đáo trong
suy nghĩ của người lập di chúc. Qua đó, người lập di chúc cũng đạt được những
lợi ích chính đáng về mặt tinh thần khi thực hiện quyền lập di chúc để lại sự kế
thừa tài sản của mình cho ai đó. Đồng thời, khi thực hiện quyền lập di chúc theo
quy định của pháp luật, người lập di chúc được đảm bảo về niềm tin rằng, nội
dung di chúc sẽ được thực hiện khi họ qua đời. Bên cạnh đó, nội dung của di
chúc còn xác định quyền hưởng hoặc nghĩa vụ phải thực hiện đối với người thừa
kế. Đây cũng là cơ sở để ràng buộc quyền và nghĩa vụ của chính những người
thừa kế với nhau hoặc với các chủ thể khác. Cho nên, quy định về năng lực của
người lập di chúc càng khẳng định được vai trò khi thuyết phục các chủ thể liên
quan tới chính bản di chúc đó.
- Về phía xã hội: Quy định của pháp luật về người lập di chúc thực sự đảm
bảo các yếu tố tình và lý cho loại quan hệ di chúc mà một người trước khi chết
mong muốn xác lập. Quy định này còn mang tới sự ổn định, trật tự xã hội rõ
ràng khi cá nhân chết đi. Điều này khẳng định rõ hơn vai trò của Nhà nước khi
điều chỉnh quan hệ thừa kế theo di chúc bằng pháp luật.2

2.2. Một số hạn chế trong hoạt động lập di chúc tại phòng công chứng

2.2.1. Về người lập di chúc


Các quy định về đối tượng người lập di chúc là người từ đủ mười lăm tuổi
đến chưa đủ mười tám tuổi phải nhận được sự đồng ý của cha mẹ hoặc người
giám hộ về việc lập di chúc. Về nội dung này, BLDS năm 2015 đã có những quy
định thay đổi để đảm bảo tính phù hợp hơn so với các BLDS trước đó. Tuy
nhiên, việc xác định phạm vi chủ thể đồng ý cho lập di chúc vẫn chưa bao quát
được các trường hợp khác trong đời sống dân sự. Thực tế cho thấy, có trường

2
Nguyễn Trí Cường (2022), “Một số bất cập trong quy định pháp luật về thừa kế theo di chúc”, Tạp chí Công
thương, truy cập lần cuối ngày 16/8/2022

12
hợp tại thời điểm người từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi lập di chúc chỉ có cha hoặc
mẹ đơn thân hay cha hoặc mẹ biết việc lập di chúc của con và chỉ có một người
đồng ý. Người còn lại có thể biết hoặc không biết về việc lập di chúc và chưa
thể hiện sự đồng ý. Trong các trường hợp như vậy, người từ đủ mười lăm đến
chưa đủ mười tám tuổi sẽ gặp khó khăn khi muốn thực hiện lập di chúc. Họ chỉ
có thể lập di chúc khi: (i) phải có cả cha, mẹ và cả cha, mẹ phải đồng ý cho lập
di chúc; (ii) có người giám hộ. Quy định này phần nào đã gây ra sự mâu thuẫn
và khó khăn khi áp dụng vào thực tế cuộc sống.

2.2.2. Về trình tự, thủ tục công chứng, chứng thực di chúc
Trên thực tiễn, nhiều trường hợp xảy ra việc không tuân thủ đúng cách
thức, thủ tục do pháp luật quy định khi công chứng, chứng thực di chúc, cụ thể:
Khi thực hiện công chứng, chứng thực di chúc, nhiều trường hợp người ghi
chép, chứng kiến người lập di chúc; kí hoặc điểm chỉ vào di chúc lại không phải
là người có thẩm quyền chứng thực, chứng nhận; chỉ là nhân viên hỗ trợ cho
công chứng viên mà không phải là bản thân công chứng viên đó thực hiện các
thủ tục. Trường hợp này xảy ra khi số lượng nhu cầu công chứng, chứng thực
hợp đồng giao dịch quá nhiều trong khi số lượng, đội ngũ cán bộ công chứng
viên lại không đáp ứng đủ để thực hiện hết các công việc, thủ tục theo đúng quy
trình. Chính vì vậy phải cần đến sự hỗ trợ của chuyên viên pháp lý cùng làm
việc tại phòng công chứng. Vậy các trường hợp thay mặt làm việc như trên sẽ dễ
có thể xảy ra.
Tìm hiểu một vụ việc cụ thể theo quyết định số 355/2012/DS-GĐT của tòa
dân sự tòa án nhân dân tối cao. Vụ việc trước khi chết khoảng ba năm, cụ Dọn
có mang một di chúc được đánh máy sẵn ở nhà đến ủy ban nhân dân xã chứng
thực và ủy ban nhân dân xã đã chứng thực vào di chúc, khi có tranh chấp, Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao cho rằng nếu qua thu thập chứng cứ có cơ sở xác
định rõ là người trực tiếp đem di chúc đến yêu cầu chính quyền địa phương xác
nhận vào di chúc, thì mặc dù hình thức di chúc của cụ Dọn không đúng theo quy
định của pháp luật nhưng đã thể hiện đúng ý chí của cụ thì phải công nhận di

13
chúc của cụ. Tòa giám đốc thẩm cũng theo hướng tôn trọng ý chí đích thực của
người để lại di sản. Thực tiễn xét xử đề cao giá trị đích thực của người để lại di
sản. Do đó trường hợp di chúc có hình thức, thủ tục lập không hợp lệ nhưng vẫn
có cơ sở xác định di chúc thể hiện ý chí đích thực của người để lại di sản thì
chúng ta nên ghi nhận di chúc, tôn trọng ý chí cuối cùng của người để lại di
chúc.

2.2.3. Thời hạn chứng thực di chúc miệng


Theo quy định tại khoản 5 Điều 630 BLDS 2015, di chúc miệng chỉ được xem
là hợp pháp nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện về số lượng người làm chứng và
phải được chứng thực trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ thời điểm lập di
chúc. Tác giả hiểu mục đích của việc giới hạn thời hạn ngắn ngủi 5 ngày làm
việc để chứng thực di chúc là xuất phát từ bản chất cấp bách của việc lập di
chúc, đồng thời cũng đảm bảo hạn chế tối đa việc ý chí của người lập di chúc
bị thay đổi vì bất cứ lý do khách quan hay chủ quan nào của những người làm
chứng và người liên quan khác. Tuy vậy, thời hạn năm ngày làm việc là một
thời hạn tương đối ngắn, trong nhiều trường hợp những người làm chứng dù
cố gắng hết sức vẫn không thể chứng thực được di chúc trong thời hạn luật
định. Chẳng hạn như thời điểm lập di chúc miệng là thời điểm đang có thiên
tai, dịch bệnh hoặc chiến tranh, việc chứng thực di chúc không thể thực hiện
đúng thời hạn luật định. Pháp luật hiện hành vẫn còn bỏ ngỏ những trường
hợp ngoại lệ như thế.

2.2.4. Hình thức của di chúc


Pháp luật nước ta hiện nay chỉ mới thừa nhận 2 hình thức của di chúc là di
chúc bằng văn bản và di chúc miệng. Đây là 2 hình thức lâu đời không chỉ
được áp dụng riêng trong di chúc mà còn được áp dụng đối với hầu hết các
hợp đồng, giao dịch dân sự hiện nay. Các hình thức này, mỗi hình thức đều có

14
những ưu và nhược điểm riêng, nhưng đều có điểm chung là tất cả đều được
thể hiện dưới dạng một văn bản hiện hữu.

Trong thời đại kỹ thuật số 4.0 như hiện nay, việc sử dụng các thiết bị công
nghệ ngày càng phổ biến và dễ dàng. Các hình ảnh, bản ghi âm, ghi hình do
các thiết bi này sao chụp, ghi âm, ghi hình cũng là những tư liệu đáng tin cậy.
Pháp luật Dân sự quy định những điều kiện chặt chẽ về hình thức và nội dung
của mỗi loại di chúc cũng chỉ nhằm đảm bảo tính tin cậy, đúng ý chí của
người để lại di chúc. Như vậy, tại sao pháp luật lại không thừa nhận những
hình thức thể hiện khác của di chúc trong khi những hình thức thể hiện như
hình ảnh, bản ghi âm, ghi hình cũng có độ chính xác và tin cậy cao?

Tìm hiểu pháp luật Dân sự của Trung Quốc, tác giả được biết, bên cạnh 2 hình
thức lập di chúc truyền thống như pháp luật nước ta, Trung Quốc đã cho phép
lập di chúc dưới hình thức ghi âm, ghi hình. Cụ thể, theo quy định tại Điều
1137 BLDS năm 2020 của nước này có quy định “Nếu lập di chúc bằng hình
thức ghi âm, ghi hình, phải có 2 người trở lên có mặt chứng kiến. Người lập di
chúc và người chứng kiến phải ghi lại danh tính hoặc hình ảnh của mình cùng
ngày, tháng, năm trong bản ghi âm, ghi hình”.

Đồng thời, di chúc được lập bằng hình thức ghi âm, ghi hình được đánh giá
cao về mặt pháp lý hơn so với hình thức di chúc miệng. Điều này đã thể hiện
trong quy định tại Điều 1138 BLDS năm 2020 của Trung Quốc: “Trong tình
huống khẩn cấp, người lập di chúc có thể lập di chúc miệng. Di chúc miệng
phải có 2 người trở lên có mặt làm chứng. Khi tình huống nguy hiểm đã không
còn và nếu người lập di chúc có khả năng dùng hình thức văn bản hoặc ghi
âm, ghi hình để lập di chúc thì di chúc miệng đã lập vô hiệu”.

15
Theo quan điểm chủ quan của tác giả, đây là những quy định pháp luật rất tiến
bộ và bắt kịp sự phát triển của kinh tế, đời sống, khoa học công nghệ của xã
hội đương thời.

2.3. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong hoạt động lập di chúc tại
phòng công chứng
Thứ nhất, do sự bất cập, thiếu rõ ràng của các quy định pháp luật về di
chúc, trong đó có quy định liên quan đến việc công chứng, chứng thực di chúc,
hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về thừa kế theo di chúc còn chưa hoàn
thiện, nhiều quy định khó vận dụng trong thực tế.
Thứ hai, do trình độ, năng lực và sự hiểu biết pháp luật thừa kế nói chung
và các quy định pháp luật về hình thức di chúc nói riêng của một số bộ phận
công chứng viên, người có thẩm quyền chứng thực còn hạn chế. Mặc dù đại đa
số những người này đều có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, có hiểu biết nhất
định về pháp luật, được đào tạo, tập huấn về nghiệp vụ, nhưng vẫn còn một số ít
bộ phận những người hạn chế về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng hành
nghề, dẫn đến những sai sót trong hoạt động, ảnh hưởng đến chất lượng của văn
bản công chứng, chứng thực.
Thứ ba, do sự chênh lệch số lượng giữa nhu cầu về hoạt động công chứng,
chứng thực với số lượng cán bộ, công chứng viên thực hiện hoạt động công
chứng. Nhiều trường hợp khi bị quá tải, nhất là những địa phương ở trung tâm,
có mật độ dân cư đông đúc, số lượng công việc nhiều nên các công chứng viên
thực hiện hoạt động công chứng, chứng thực có thể xảy ra sai sót.
Thứ tư, do sự thiếu hiểu biết và chưa nắm bắt được các quy định của pháp
luật về việc lập di chúc cũng như lập di chúc tại phòng công chứng của người
dân. Điều này có ảnh hưởng ban đầu đến quá trình lập di chúc tại phòng công
chứng, khi mà người dân không năm được thủ tục luật định về hoạt động lập do
chúc.

16
2.4. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thừa kế theo di chúc
Để hạn chế những bất cập trong quy định pháp luật hiện hành về thừa kế theo
di chúc, cần thực hiện các giải pháp sau đây:
Thứ nhất, đối với việc lập di chúc của người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18
tuổi, cần quy định rõ hình thức thể hiện sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người
giám hộ về việc những người này lập di chúc cùng với thời điểm thể hiện sự
đồng ý để thống nhất cách hiểu và áp dụng trên thực tiễn. Đồng thời, quy định
những trường hợp ngoại lệ mà di chúc của người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18
tuổi không có sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ vẫn có hiệu lực,
chẳng hạn như trong trường hợp lập di chúc miệng như phân tích ở trên.

Thứ hai, đối với thời hạn chứng thực di chúc miệng, tác giả vẫn đồng
tình với thời hạn 5 ngày làm việc như luật thực định. Tuy nhiên, nên quy định
những trường hợp ngoại lệ của thời hạn này, chẳng hạn như trong các trường
hợp đang có thiên tai, dịch bệnh hoặc chiến tranh,… Trên quan điểm đó, tác
giả đề xuất bổ sung quy định tại Khoản 5 Điều 630 BLDS 2015 như sau:
“Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí
cuối cùng của mình trước mặt ít nhất 2 người làm chứng và ngay sau khi
người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại,
cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày người
di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên
hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của
người làm chứng, trừ trường hợp bất khả kháng. Thời gian xảy ra sự kiện bất
khả kháng không tính vào thời hạn chứng thực di chúc miệng.”
Thứ ba, quy định thêm các hình thức lập di chúc mới ngoài di chúc bằng
văn bản và di chúc miệng. Việc công nhận hình thức ghi âm, ghi hình đối với
di chúc cũng là một giải pháp cần được cân nhắc áp dụng trong pháp luật nước
ta để vừa đa dạng hình thức lập di chúc, tạo sự thuận tiện cho người lập di
chúc, đặc biệt trong những tình huống cấp thiết; vừa giúp cho các quy định

17
của pháp luật “xích lại gần hơn” với thực trạng phát triển của đời sống xã hội.
Có như vậy thì pháp luật mới thật sự đi vào đời sống con người và đảm bảo
được hiệu quả thực thi trên thực tiễn.
Thứ tư, tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật, các văn bản hướng
dẫn thi hành luật cho người dân để nâng cao nhận thức của công dân cũng như
các quy định của pháp luật về di chúc và di chúc được công chứng.
Thứ năm , tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn,
nghiệp vụ, ý thức pháp luật nhằm nâng cao chất lượng đồng đều cho đội ngũ
công chứng viên, người có thẩm quyền chứng thực. Đó có thể là đổi mới các
chương trình, nội dung đào tạo nghề công chứng; hay là tăng cường công tác bồi
dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, v.v.

CHƯƠNG 3. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM RÚT RA TỪ CÔNG


TÁC THỰC TẬP
3.1.Thuận lợi và khó khăn khi thực tập tại Phòng công chứng số 1 tỉnh
Hưng Yên
3.1.1.Thuận lợi
Trong suốt khoảng thời gian thực tập tạị phòng công chứng số 1 tỉnh Hưng Yên
theo dõi phụ giúp các anh chị giúp bản thân học hỏi được nhiều kỹ năng trong
công việc. Tuy nhiên, nhờ kiến thức cơ bản học tại nhà trường có thể áp dụng
ngay vào công việc thực hành cách nhuần nhuyễn và không bỡ ngỡ. Được học
tại trường dạy song ngữ giúp sinh viên phần nào có thể tự tin hơn về khả năng
giao tiếp. Mở mang tầm nhìn hơn về kiến thức lẫn công việc. Tuy chỉ mới là
sinh viên thực tập nhưng các anh chị luôn nhiệt tình giúp đỡ, giải quyết và giải
thích rõ ràng về các khó khăn khuất mắt trong suốt thời gian thực tập. Làm
việc ở môi trường năng động giúp sinh viên có khả năng thể hiện được bản
thân mình. Hướng dẫn những kỹ năn như giao tiếp, ứng xử khi gặp KH, mở
rộng mối quan hệ ở đời thường, duy trì nắm bắt tốt nhu cầu của KH. Mặc dù,
lượng công việc dày đặc nhưng các anh chị luôn hỗ trợ hết mình, theo dõi và
sửa chữa cho sinh viên khi làm sai hoặc chưa biết cách làm. Phòng công chứng

18
số 1 tỉnh Hưng Yên luôn tạo sự thuận lợi, là môi trường hòa đồng, thân thiện
giúp bản thân tôi rèn luyện được tính kiên trì, tháo vác, ngăn nắp trong công
việc. Cơ sở vật chất hiện đại, tiện nghi luôn là một trong những điều kiện tốt
trong quá trình làm việc của nhân viên.
3.1.2. Khó khăn
Lần đầu tiên được bước vào Phòng công chứng số 1 tỉnh Hưng Yên nên ban
đầu vẫn còn bỡ ngỡ e dè, vì thiếu thực hành trong quá trình học tập nên rất lạ
lẫm với các công việc ở Phòng công chứng số 1 tỉnh Hưng Yên làm việc đầu
tiên không hiểu rõ được tính chất của công việc nên khá phiền cho các anh chị
trong Phòng công chứng số 1 tỉnh Hưng Yên, có những kiến thức đã được học
từ những năm đầu đại học nhưng vì chưa áp dụng thực hành nên gây ra nhiều
khó khăn trong công việc tuy nhiên các anh chị luôn sẵn sàng giúp đỡ sinh
viên khi thực tập Phòng công chứng số 1 tỉnh Hưng Yên. Với những văn bản,
hồ sơ của công ty luôn cần sự tỉ mỉ vì nếu có sai sót sẽ gây ra rất nhiều hệ lụy
nghiêm trọng. Vì chưa quen với các thao tác làm việc tại Phòng công chứng số
1 tỉnh Hưng Yên nên luôn bị chậm lại làm giảm hiệu suất làm việc, có những
công việc không được chính tay mình thực hành vì còn non trẻ nhưng tôi vẫn
luôn quan sát để ý để có thể giúp ích cho mình vào công việc sau này. Mặc dù,
còn nhiều điều thiếu xót nhưng tôi không ngừng cố gắng học hỏi trau dồi kiến
thức, thực tập nhuần nhuyễn công việc mỗi ngày để giảm bớt công việc thay
các anh chị và đem đến sự hài lòng cho KH khi đến với Phòng công chứng số
1 tỉnh Hưng Yên

3.2.Bài học kinh nghiệm từ Phòng công chứng số 1 tỉnh Hưng Yên

3.2.1. Cần cẩn trọng, tỉ mỉ khi công chứng di chúc cũng như các hợp đồng,
giao dịch khác
Khi thực hiện công chứng các di chúc liên quan đến tài sản có giá trị như
quyền sử dụng đất thì công chứng viên cần chú ý các chi tiết liên quan, thông tin

19
của khách hàng, thông tin của tài sản trao đổi cũng như một số thông tin liên
quan khác, để tránh được những sai lầm không đáng có.
Bên cạnh đó, mặc dù xã hội đã có sự phát triển nhất định, tuy nhiên vẫn
còn nhiều người chưa hiểu hết ý nghĩa của việc lập di chúc, nên vẫn còn sự dè
chừng khi thực hiện hoạt động này. Ngoài ra trên thực tế cũng tồn tại các trường
hợp người có di sản lập di chúc bị lừa gạt, dụ dỗ hoặc cưỡng ép, dẫn đến làm sai
lệch đi ý nghĩa ban đầu của di chúc. Lý do một phần là vì họ không hiểu rõ các
quy định của pháp luật về việc lập di chúc cũng như các điều kiện có hiệu lực
của di chúc, cho nên, họ dễ bị thao túng, xoay chuyển và làm lung lay. Từ đó khi
thực hiện công chứng di chúc, hay thực hiện soạn thảo di chúc thay cho người
để lại di sản, công chứng viên cần quan sát, tìm hiểu, kiểm tra thật kỹ thông tin
và các nguồn ý kiến đưa ra từ phía gia đình cũng như người để lại di sản để đối
chứng, nắm bắt được thông tin chính xác nhất.

3.2.2. Các yêu cầu và hoàn cảnh khác nhau của khách hàng
Trên thực tế, chúng ta có thể thấy các bản di chúc có nội dung khá tương
đồng với nhau. Tuy nhiên hoàn cảnh mỗi người lại đi kèm với di sản để lại của
mỗi trường hợp có sự khác nhau nhất định. Do đó, công chứng viên khi tiếp
nhận hồ sơ của khách hàng cần tìm hiểu kĩ, tránh làm việc một cách cứng nhắc,
dập khuôn, dễ gây ra sai lầm, mắc lỗi, khi thực hiện soạn thảo văn bản công
chứng di chúc.
Trường hợp điển hình có thể xảy ra đó là hành động tạo bản sao văn bản
công chứng của khách hàng cũ để áp dụng cho khách hàng mới khi thực hiện
soạn thảo cùng loại văn bản đó. Khi này, người thực hiện công chứng hay soạn
thảo văn bản công chứng cần xác định kĩ đó có thật sự là loại văn bản phù hợp
với nhu cầu khách hàng hay không, hay phải sử dụng loại văn bản khác. Bên
cạnh đó, khi thực hiện thao tác sao từ văn bản cũ ra văn bản mới, người soạn
thảo văn bản công chứng cần rà soát cẩn thận các điều khoản của văn bản để
tránh nhầm lẫn thông tin cũng như quyền và nghĩa vụ của các khách hàng với
nhau. Mỗi chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật đều có quyền và nghĩa vụ

20
khác nhau. Chính vì vậy, văn bản công chứng khi đã phát hành ra sẽ ảnh hưởng
trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan. Cho nên cần phải rà soát,
kiểm tra thật kĩ các điều khoản của di chúc trước khi các bên kí và có chứng
nhận của cơ quan công chứng, để tránh được những sai sót không đáng có.

3.2.3. Sự chuyên nghiệp khi làm việc của công chứng viên
Khi trải qua 10 tuần thực tập tại Phòng công chứng số 1 tỉnh Hưng Yên và
dưới sự hướng dẫn tận tâm của các cô chú, anh chị, em đã nghiệm ra được khi
đã bắt tay vào làm một công việc nào đó, chúng ta phải thật sự tập trung vào nó.
Đối với công việc công chứng viên nói riêng và các công việc khác nói chung,
tất cả đều cần phải rèn luyện, trau dồi cho mình sự chuyên nghiệp nhất định khi
làm việc. Các công chứng viên để củng cố những kinh nghiệm, trải nghiệm của
riêng mình đều cần cả một quá trình. Điều này đỏi hỏi sự lặp lại cũng như sự
tiếp thu kiến thức mới một cách nhanh nhạy, để có thể từ đó tạo được uy tín,
thương hiệu cá nhân và xây dựng được lòng tin của khách hàng, của người dân
đến chứng thực, công chứng hợp đồng, giao dịch.
Bên cạnh đó, sự chuyên nghiệp của công chứng viên cũng được xây dựng
nên từ những kiến thức xã hội mà người đó tích lũy được. Một công chứng viên
có kiến thức sâu rộng giúp nhanh chóng đáp ứng nhu cầu của người dân; có kiến
thức xã hội đáng kể giúp thấu hiểu người dân và cuối cùng là có phẩm chất đạo
đức tốt giúp hạn chế các trường hợp làm trái quy định của pháp luật. Tất cả các
yếu tố trên đều thúc đẩy hoạt động lập di chúc tại phòng công chứng nói riêng
và hoạt động công chứng trong xã hội nói chung ngày càng phát triển và hiệu
quả hơn.

3.2.4. Kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm tích lũy qua mỗi lần thực hiện
yêu cầu của khách hàng vô cùng quan trọng.
Mỗi khách hàng đến Phòng công chứng thì đều có nhu cầu, mong muốn
cũng như tài sản riêng khác nhau. Chính vì vậy mà việc đã có nhiều chuyên môn
và kinh nghiệm tích lũy qua các trường hợp khác nhau của khách hàng giúp cho

21
công chứng viên có thể nhanh chóng tìm ra hướng giải quyết khi tiếp xúc khách
hàng cũng như tiếp nhận hồ sơ của khách hàng cung cấp. Khi tiếp nhận yêu cầu
của khách hàng, một công chứng viên hay một chuyên viên “lành nghề” có thể
nhanh chóng liên kết các thông tin khách hàng đưa ra và có được kết quả cho
những yêu cầu của khách hàng. Họ sẽ biết và xác định được mình cần làm gì
tiếp theo, đâu là loại văn bản phù hợp sẽ được sử dụng, khách hàng cần cung cấp
những giấy tờ, thông tin gì để thực hiện công chứng hợp đồng giao dịch yêu cầu.
Và từ đó tiết kiệm được thời gian cũng như công sức của cả hai bên, giúp đẩy
cao được tiến độ làm việc cũng như hiệu quả của công việc lên dần dần.
Cụ thể hơn trong trường hợp người dân đến phòng công chứng yêu cầu
công chứng viên chứng nhận di chúc hoặc yêu cầu được lập di chúc cho bản
thân mình hoặc cá nhân khác, một công chứng viên dày dặn kinh nghiệm có thể
đánh giá được phần nào được trường hợp này liệu có dấu hiệu lừa đảo hay là
không. Dựa trên kinh nghiệm sẵn có của bản thân và những quan sát có được
trong quá trình hành nghề giúp cho công chứng viên có phần dễ dàng hơn trong
việc đánh giá từng trườn hợp cụ thể đối với mỗi khách hàng.

3.2.5. Cần thận trọng đối với các trường hợp trái quy tắc đạo đức xã hội
hay trường hợp có dấu hiệu lừa đảo
Áp dụng vào trường hợp lập di chúc trong thực tiễn, công chứng viên khi
lập di chúc trái pháp luật hay không phù hợp với quy tắc đạo đức xã hội thì cũng
cần xem xét lại quá trình làm việc của mình. Một công chứng viên “đúng
nghĩa” cần rèn luyện cho mình phẩm chất đạo đức tốt, vững vàng để trong quá
trình hành nghề có thể kiểm soát được bản thân. Ngoài ra thực tế cũng tồn tại
các trường hợp công chứng viên bị chính khách hàng của mình đưa vào vòng
phạm pháp. Khách hàng đưa ra những thông tin sai lệch và giấu giếm đi một số
thông tin quan trọng. Từ đó dẫn đến phán đoán sai của công chứng viên và hình
thành việc lập di chúc một cách trái pháp luật. Di chúc này khi bị phát giác có
thể trở nên vô hiệu nhưng nếu không phát giác được thì người có quyền và lợi
ích liên quan sẽ chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi di chúc được chứng nhận kia.

22
Chính vì vậy mà công chứng viên, theo quan sát của em, khi thực hiện chứng
nhận di chúc của khách hàng hoặc thực hiện lập di chúc theo yêu cầu của khách
hàng thì thường sẽ phải cẩn trọng tìm hiểu thông tin khách đưa ra, các thông tin
về nhân thân cũng như thông tin về di sản muốn để lại của người đó, và đưa ra
được quyết định đúng đắn hơn.
3.2.6.Bài học kinh nghiệm về thái độ
            Khi đã chính thức được nhận vào thực tập thì lúc đó nhà tuyển dụng sẵn
sàng chấp nhận một sinh viên thực tập chưa có kinh nghiệm, còn vụng về, va
vấp, thậm chí phải cầm tay chỉ việc mới làm được. Khi đã có cơ hội đó các bạn
sinh viên cần phải trung thực, chịu khó, khiêm tốn, hăng hái, nhiệt tình và nỗ lực
tối đa để làm tốt những phần việc được giao. Nhà tuyển dụng sẽ rất ngán ngẩm
nếu gặp thực tập sinh vào công ty chỉ làm qua loa cho xong việc. Hãy tỏ ra mình
là người có hiểu biết bằng việc tôn trọng nội quy của công ty, bạn sẽ nhận lại
được sự tôn trọng của mọi người trong công ty.
             Đi thực tập các bạn không chỉ có hội được tiếp xúc với công việc thực tế
mà còn học hỏi được cách quan hệ xã giao trong văn hóa công sở. Nên em rất
vui lòng khi ai đó nhờ em các việc lặt vặt như pha trà, café, photo, đánh văn
bản…Tất cả những thứ đó rèn luyện cho em một đức tính kiên trì và cách thích
nghi với công việc.
            Để có thể học được những kiến thức, kỹ năng cũng như kinh nghệm của
những người đi trước thì trước hết em phải gây được cảm tình với họ đã, sau đó
mới đến thái độ cầu thị.
            Nhân viên tư vấn luật bây giờ rất là đông, sự cạnh tranh là vô cùng khốc
liệt. Vì vậy các bạn sinh viên mới ra trường nói chung và bản thân em nói riêng
hãy lắm lấy từng cô hội, dù là nhỏ nhoi nhất. Biết đâu nhà tuyển dụng sẽ nhận
sinh viên thực tập vào làm việc chính thức nếu họ thấy sinh viên thực tập thể
hiện được những tố chất cần thiết cho công việc.

23
KẾT LUẬN
Sau khi nghiên cứu và tìm hiểu đề tài em nhận ra rằng :Các quy định về
thừa kế nói chung và thừa kế theo di chúc nói riêng trong thời gian qua đã
phần nào phát huy được hiệu quả điều chỉnh trên thực tế. Tuy nhiên, qua phân
tích cho thấy vẫn còn có một số hạn chế nhất định, chưa phù hợp về mặt lý
luận, cũng như xu thế chung của pháp luật hiện đại. Chính vì vậy, cần có
những quy định hướng dẫn, bổ sung các quy định của pháp luật thực định về
thừa kế để đảm bảo sự hoàn thiện, phù hợp với nhu cầu xã hội của pháp luật
và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trên thực tiễn Pháp luật về thừa kế theo
di chúc được thể hiện bởi các quy định cụ thể, được xây dựng thành hệ thống
các quy phạm pháp luật thống nhất. Tuy nhiên như đã phân tích ở trên thì pháp
luật về di chúc cũng như hoạt động lập di chúc tại phòng công chứng vẫn còn
tồn tại một số hạn chế nhất định. Do đó, để ngày càng nâng cao và cải thiện hơn
đời sống pháp lý của nhân dân thì việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật
về thừa kế theo di chúc là hoàn toàn cần thiết và nên nhanh chóng được triển
khai.
Bên cạnh đó nhờ sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của các cán bộ Phòng công
chứng số 1 tỉnh Hưng Yên, em đã có thể tự mình giải đáp được những thắc mắc
của bản thân trước khi bước vào quá trình làm việc, thực tập tại nơi đây. Đó có
thể là các thắc mắc như công chứng viên sẽ thực hiện những công việc gì; môi
trường làm việc của một cơ quan nhà nước ra sao; cần đối mặt, tiếp xúc, tiếp
nhận yêu cầu của khách hàng như thế nào v.v. và rất nhiều thắc mắc khác. Từ
các công việc phải thực hiện của một công chứng viên, những khó khăn khi làm
việc với nhân dân dưới danh nghĩa công chứng viên, những niềm vui khi thực
hiện một công việc nào đó đến các kĩ năng, kiến thức chuyên môn cần phải xây
dựng, trau dồi và phát triển. Những điều đó, em đều cảm thấy biết ơn và may
mắn khi đã đồng hành cùng Phòng công chứng số 1 tỉnh Hưng Yên, cùng các cô
chú, anh chị nơi đây để tạo nên một bản thân chuyên nghiệp hơn, kinh nghiệm
hơn, để chuẩn bị bước sang trang mới của cuộc đời.

24
Em xin chân thành cảm ơn các cô chú, anh chị làm việc trong Phòng công
chứng số 1 đã giúp đỡ em thời gian qua. Và em cũng gửi lời cảm ơn đặc biệt đến
cô Trần Thị Hiếu đã giúp đỡ hướng dẫn em nhiều điều để có thể hoàn thành báo
cáo thực tập này vói chuyên đề “Thực tiễn hoạt dộng lập di chúc tại phòng
công chứng”.
Bên cạnh đó, để hoàn thành báo cáo nghiên cứu về “Thực tiễn hoạt động
lập di chúc tại phòng công chứng”, em cũng cần gửi lời cảm ơn sâu sắc tới
Trường Đại học Luật Hà Nội đã tạo cho em có cơ hội thực tập ở môi trường mới
đầy tính thực tế và chuyên nghiệp tại Phòng công chứng số 1. Đồng thời em
cũng cần gửi lời cảm ơn nhiệt tình đến các thầy cô giảng dạy bộ môn Luật Dân
sự nói riêng và các bộ môn khác nói chung tại Trường Đại học Luật. Các kiến
thức em tiếp thu được khi còn ngồi trên ghế nhà trường, lắng nghe các bài giảng
của thầy cô đã giúp em xây dựng nền tảng lý luận vững chắc để vận dụng vào
thực tế.

25
TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình pháp luật về
tài sản, quyền sở hữu tài sản và quyền thừa kế, NXB Hồng Đức – Hội luật gia
Việt Nam, Hà Nội tr.254.

[2]Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình pháp luật về
tài sản, quyền sở hữu tài sản và quyền thừa kế, NXB Hồng Đức – Hội luật gia
Việt Nam, Hà Nội tr.182

[3] Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình pháp luật
về tài sản, quyền sở hữu tài sản và quyền thừa kế, NXB Hồng Đức – Hội luật
gia Việt Nam, Hà Nội tr.182

[4] Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình pháp luật
về tài sản, quyền sở hữu tài sản và quyền thừa kế, NXB Hồng Đức – Hội luật
gia Việt Nam, Hà Nội tr.182.

[5] Bộ luật Dân sự Pháp (1998), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[6] Điều 1646 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan.

[7] Điều 624 Bộ luật dân sự năm 2015.

[8] Vũ Thị Lan Hương (2007, Xác định di sản thừa kế theo di chúc quy định
trong Bộ luật dân sự 2005, Luận văn thạc sĩ khoa Luật , Đại học quốc gia Hà
Nội, tr.7.

[9] Vũ Thị Lan Hương (2007, Xác định di sản thừa kế theo di chúc quy định
trong Bộ luật dân sự 2005, Luận văn thạc sĩ khoa Luật , Đại học quốc gia Hà
Nội, tr.7.

26
[10] Vũ Thị Lan Hương (2007, Xác định di sản thừa kế theo di chúc quy định
trong Bộ luật dân sự 2005, Luận văn thạc sĩ khoa Luật , Đại học quốc gia Hà
Nội, tr.8.

[11] Vũ Thị Lan Hương (2007, Xác định di sản thừa kế theo di chúc quy định
trong Bộ luật dân sự 2005, Luận văn thạc sĩ khoa Luật , Đại học quốc gia Hà
Nội, tr.8.

[12] Vũ Thị Lan Hương (2007, Xác định di sản thừa kế theo di chúc quy định
trong Bộ luật dân sự 2005, Luận văn thạc sĩ khoa Luật , Đại học quốc gia Hà
Nội, tr.9.

[13] Khoản 1 điều 643 Bộ luật dân sự năm 2015.

[14] Khoản 1 điều 611 Bộ luật dân sự năm 2015.

[15] Vũ Thị Lan Hương (2007, Xác định di sản thừa kế theo di chúc quy định
trong Bộ luật dân sự 2005, Luận văn thạc sĩ khoa Luật , Đại học quốc gia Hà
Nội, tr.10.

[16] Điều 625 Bộ luật dân sự năm 2015.

[17] Khoản 1 điều 15 Bộ luật dân sự năm 2015.

[18] Điều 18 Bộ luật dân sự năm 2015.

[19] Điều 20 Bộ luật dân sự năm 2015.

[20] Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình pháp luật
về tài sản, quyền sở hữu tài sản và quyền thừa kế, NXB Hồng Đức – Hội luật
gia Việt Nam, Hà Nội tr.254.

[21] Điểm a khoản 1 điều 630 Bộ luật dân sự năm 2015.

27
[22] Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình pháp luật
về tài sản, quyền sở hữu tài sản và quyền thừa kế, NXB Hồng Đức – Hội luật
gia Việt Nam, Hà Nội tr.254.

[23] Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình pháp luật
về tài sản, quyền sở hữu tài sản và quyền thừa kế, NXB Hồng Đức – Hội luật
gia Việt Nam, Hà Nội tr.254.

[24] Điểm b khoản 1 điều 630 Bộ luật dân sự năm 2015.

[25] Hoàng Thị Loan (2021), “Nội dung của di chúc theo quy định của Bộ luật
dân sự năm 2015”, truy cập tại trang cập 12/02/2023.

[26] Điều 123 Bộ luật dân sự năm 2015.

[27] Hoàng Thị Loan (2021), “Nội dung của di chúc theo quy định của Bộ luật
dân sự năm 2015”, truy cập tại trang cập 13/01/2021.

[28] Khoản 1 điều 631 Bộ luật dân sự năm 2015.

[29] Điều 627 Bộ luật dân sự năm 2015.

[30] Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình pháp luật
về tài sản, quyền sở hữu tài sản và quyền thừa kế, NXB Hồng Đức – Hội luật
gia Việt Nam, Hà Nội, tr.254.

[31] Điều 628 Bộ luật dân sự năm 2015.

[32] Lưu Thị Phấn (2021), “Hình thức của di chúc trong pháp luật dân sự Việt
Nam qua các thời kì”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (số 20).

[33] Điều 632 Bộ luật dân sự năm 2015.

28
[34] Lưu Thị Phấn (2021), “Hình thức của di chúc trong pháp luật dân sự Việt
Nam qua các thời kì”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (số 20).

[35] Lưu Thị Phấn (2021), “Hình thức của di chúc trong pháp luật dân sự Việt
Nam qua các thời kì”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (số 20).

29

You might also like