You are on page 1of 36

HỌC VIỆN TƯ PHÁP

KHOA ĐÀO TẠO CÔNG CHỨNG VIÊN VÀ CÁC CHỨC DANH KHÁC

-----------&-----------

HỒ SƠ BÁO CÁO THỰC TẬP


Lĩnh vực: Tìm hiểu về cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ và
hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng

Họ và tên: MAI THÀNH TRUNG

Số báo danh: 185

Lớp: CC23D-HCM

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 27 tháng 09 năm 2020


1
MỤC LỤC

DANH MỤC VIẾT TẮT ............................................................................................ 4

CHƯƠNG I. MỞ ĐẦU ............................................................................................... 5

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu ......................................................................... 5

2. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng nghiên cứu: ........................................................... 6

3. Cơ cấu của bài báo cáo ........................................................................................... 6

CHƯƠNG II. NỘI DUNG BÁO CÁO ....................................................................... 7

1. Quy định của pháp luật về quy tắc đạo đức hành nghề công chứng ....................... 7

1.1 Khái niệm đạo đức và đạo đức hành nghề: ........................................................... 7

1.2 Cơ sở pháp lý của Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng: ................................ 7

1.3 Quy định của pháp luật về quy tắc đạo đức hành nghề công chứng: .................... 8

a. Đối với việc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước: ............................ 8

b. Đối với bản thân công chứng viên và uy tín, thanh danh nghề nghiệp:.............. 9

c. Đối với người yêu cầu công chứng: .................................................................... 9

d. Đối với đồng nghiệp, tổ chức hành nghề công chứng nơi mình làm việc và các
tổ chức xã hội nghề nghiệp khác: ......................................................................... 12

2. Thực tiễn áp dụng Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng ................................. 14

a. Mặt tích cực....................................................................................................... 14

b. Mặt tiêu cực ...................................................................................................... 16

c. Thực tiễn các vụ việc công chứng viên vi phạm Quy tắc đạo đức hành nghề công
chứng..................................................................................................................... 17

2
3. Nguyên nhân, giải pháp, kiến nghị đối với việc xây dựng và hoàn thiện Quy tắc đạo
đức hành nghề công chứng ....................................................................................... 21

a. Nguyên nhân ..................................................................................................... 21

b. Giải pháp, kiến nghị .......................................................................................... 23

CHƯƠNG III. KẾT LUẬN ...................................................................................... 25

PHỤ LỤC.................................................................................................................. 28

TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………….............34

3
DANH MỤC VIẾT TẮT

PCC : Phòng công chứng


VPCC : Văn phòng công chứng
XLVP : Xử lý vi phạm
VPHC : Vi phạm hành chính
TAND : Tòa án nhân dân

4
CHƯƠNG I. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
Từ khi xã hội hoá đến nay, số lượng công chứng viên cũng tăng lên rất nhanh
và được tự do cạnh tranh theo xu hướng thị trường nên các văn phòng công chứng đã
không ngừng đẩy mạnh cạnh tranh, thu hút lợi nhuận, dẫn tới sự cạnh tranh không
lành mạnh giữa một số tổ chức hành nghề công chứng, gây ảnh hưởng đến uy tín hoạt
động hành nghề trong xã hội1. Từ đó xuất hiện nhiều vụ việc công chứng viên công
chứng hợp đồng, giao dịch (nhất là liên quan đến bất động sản, những tài sản có giá
trị lớn) có dấu hiệu vi phạm pháp luật một cách cố ý, nghiêm trọng như: công chứng
“treo”, công chứng “khống”, ủy quyền bán một tài sản cho nhiều người, công chứng
hợp đồng giao dịch khi chưa có đầy đủ điều kiện theo quy định của pháp luật, coi nhẹ
các quy định của pháp luật, coi nhẹ việc tuân theo đạo đức xã hội, thiếu cẩn trọng
trong thẩm định hồ sơ, thu thù lao công chứng chưa thống nhất, thu không theo quy
định hoặc có sự khuất tất trong thu thù lao, phí công chứng…

Tất cả những hành vi trên của công chứng viên và của các tổ chức hành nghề
công chứng xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Có thể do trình độ, năng lực của công
chứng viên yếu kém hoặc do kiến thức pháp luật và kỹ năng nghiệp vụ chưa đủ để
đáp ứng. Tuy nhiên trên thực tế, rất nhiều những sai phạm trong số đó sau khi được
các cơ quan điều tra hay các đoàn thanh tra, kiểm tra vào cuộc tìm hiểu, xem xét, kết
luận đã rút ra được nguyên nhân sâu xa chính là xuất phát từ chính sự sai phạm về
đạo đức hành nghề của công chứng viên. Đó là một sự vi phạm hoàn toàn mang tính
chủ quan, nhằm mục đích trục lợi có chủ ý của công chứng viên khi thực hiện việc
công chứng.

Do đó, hoàn thiện pháp luật về các quy định trong bộ quy tắc đạo đức hành
nghề công chứng sao cho rõ ràng, mạch lạc, phù hợp với chuẩn mực đạo đức chung
theo quy định của pháp luật Việt Nam, phù hợp với truyền thống đạo đức dân tộc, đạo

1
Bộ Tư pháp (2020), Báo cáo số 01/BC-BTP ngày 01 tháng 01 năm 2020 về Tổng kết công tác tư pháp năm
2019 và phương hướng nhiệm vụ, giải pháp công tác năm 2020.
5
đức xã hội và đạo đức con người là vô cùng cần thiết và quan trọng đặc biệt là trong
bối cảnh nhiều hành vi vi phạm đạo đức của công chứng viên ngày càng đa dạng,
phức tạp.

2. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng nghiên cứu:


Bài báo cáo lấy đối tượng là các hành vi vi phạm đạo đức hành nghề công
chứng trong thực tiễn nhằm phân tích, đánh giá, đối chiếu với Quy tắc đạo đức hành
nghề công chứng hiện hành từ đó đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật về quy tắc đạo
đức hành nghề công chứng.

3. Cơ cấu của bài báo cáo


Ngoài phần Mục lục và Tài liệu tham khảo, kết cấu Bài báo cáo này gồm 3
chương, với các nội dung chính như sau:

- Chương mở đầu: Trình bày tính cấp thiết của việc nghiên cứu về quy
tắc đạo đức hành nghề công chứng, đối tượng, mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên
cứu về quy tắc đạo đức hành nghề công chứng.
- Chương nội dung: Khái quát các quy định pháp luật về quy tắc đạo đức
hành nghề công chứng, tình hình thực tiễn vi phạm đạo đức hành nghề công chứng
và phân tích nguyên nhân cũng như đề ra những kiến nghị hoàn thiện quy tắc đạo đức
hành nghề công chứng.
- Chương kết luận: Tổng kết các vấn đề nghiên cứu nổi bật về thực tiễn
vi phạm quy tắc đạo đức hành nghề công chứng và các đề xuất, kiến nghị trong bài
báo cáo.

6
CHƯƠNG II. NỘI DUNG BÁO CÁO
1. Quy định của pháp luật về quy tắc đạo đức hành nghề công chứng
1.1 Khái niệm đạo đức và đạo đức hành nghề:
Theo Từ Điển Bách Khoa Việt Nam thì “đạo đức, hiểu theo nghĩa chung nhất,
là một hình thái của ý thức, bao gồm những nguyên tắc, chuẩn mực và thang bậc giá
trị được xã hội thừa nhận”2. Có thể nói rằng, đạo đức có tác dụng chi phối, điều chỉnh
hành vi của mỗi người, phù hợp với lợi ích của xã hội. Đạo đức của mỗi cá nhân chịu
sự tác động của dư luận xã hội, sự kiểm tra của những người khác trong xã hội, cũng
như sự tự kiểm tra bởi chính mình.

Khi nói về đạo đức hành nghề thì bất cứ ngành nghề nào cũng đòi hỏi yếu tố
đạo đức nghề nghiệp để đảm bảo thanh danh, uy tín của nghề nghiệp đó. Còn đối với
nghề công chứng là một nghề cao quý, yếu tố đạo đức được đặt lên hàng đầu, cấu
thành nên một trong bốn nguyên tắc hành nghề của công chứng viên. Bởi lẽ, hoạt
động công chứng bảo đảm tính an toàn pháp lý, ngăn ngừa tranh chấp, giảm thiểu rủi
ro cho các hợp đồng, giao dịch, qua đó bảo vệ quyền, lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Đó không chỉ là một nghề nghiệp thông thường
mà còn là một nghề mang tính công quyền. Trong đó, công chứng viên là người được
Nhà nước giao quyền, thay mặt Nhà nước chứng nhận tính xác thực và tính hợp pháp
của các hợp đồng, giao dịch bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công
chứng hoặc tổ chức, cá nhân tự nguyện yêu cầu công chứng. Thông qua hoạt động
nghề công chứng, công chứng viên là người góp phần bảo vệ pháp luật, bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của người yêu cầu công chứng khi tham gia giao kết các
hợp đồng, giao dịch tại tổ chức hành nghề công chứng. Do vậy, việc tuân thủ đạo đức
hành nghề công chứng là nguyên tắc không thể thiếu đối với hoạt động hành nghề
công chứng của công chứng viên.

1.2 Cơ sở pháp lý của Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng:

2
Nhiều Tác Giả, Từ Điển Bách Khoa Việt Nam (Tập 1), Nhà xuất bản Hà Nội, 1995, tr.289.
7
Việc xây dựng Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng là một trong bốn vấn
đề quan trọng của Nguyên tắc hành nghề công chứng. Tại Khoản 4, Điều 3 Luật Công
chứng 2006 quy định công chứng viên phải “Tuân theo quy tắc đạo đức hành nghề
công chứng”. Căn cứ quy định này, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số
11/2012/TT-BTP ngày 30/10/2012 ban hành Quy tắc Đạo đức hành nghề công chứng
(gồm 4 chương, 15 điều) quy định các chuẩn mực đạo đức, hành vi ứng xử của công
chứng viên trong hành nghề công chứng, là cơ sở để công chứng viên tự giác rèn
luyện, tu dưỡng đạo đức trong hành nghề và trong đời sống nhằm nâng cao trách
nhiệm nghề nghiệp, nâng cao uy tín của công chứng viên, góp phần tôn vinh nghề
công chứng trong xã hội. Giá trị của Bộ quy tắc Đạo đức hành nghề công chứng theo
Thông tư 11/2012/TT-BTP vẫn còn nguyên cho đến nay, bằng chứng là do Luật Công
chứng 2014 vẫn đề cao việc “Tuân theo quy tắc đạo đức hành nghề công chứng” là
một trong bốn nguyên tắc hành nghề (Khoản 3, Điều 4) và hiệu lực pháp lý của Thông
tư số 11/2012/TT-BTP vẫn còn được duy trì .

Tóm lại, quy tắc đạo đức hành nghề công chứng đã được luật hoá và do đó
Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng không chỉ mang tính chất tự nguyện mà còn
mang tính chất bắt buộc phải thực hiện đối với mỗi người công chứng viên.

1.3 Quy định của pháp luật về quy tắc đạo đức hành nghề công chứng:
Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng đòi hỏi ý thức, thái độ, hành vi của
công chứng viên khi ứng xử và hành nghề phải đi vào khuôn phép pháp luật, bao gồm:
a. Đối với việc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước:
Với tư cách là người được Nhà nước giao phó, cho phép sử dụng quyền lực
công để đứng ra “làm chứng” trong các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại… công
chứng viên phải chứng nhận các hợp đồng, giao dịch không chỉ dựa trên những tài
liệu xác thực, tuân thủ chặt chẽ quy định của pháp luật mà còn không được làm ảnh
hưởng xấu tới lợi ích công cộng, quyền lợi của Nhà nước. Công chứng viên tuyệt đối
không được tư vấn, hỗ trợ, giúp sức để cho người yêu cầu công chứng trốn tránh nghĩa
vụ đối với Nhà nước hay làm ảnh hưởng đến công tác quản lý, áp dụng pháp luật của

8
cơ quan nhà nước có thẩm quyền. “Công chứng viên có nghĩa vụ trung thành với Tổ
quốc, vì lợi ích của nhân dân, bằng hoạt động nghề nghiệp của mình góp phần bảo
vệ quyền, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong
xã hội (Điều 1, Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng) và phải “Tuân thủ Hiến pháp,
pháp luật, không trái đạo đức xã hội” (Khoản 1, Điều 2 Quy tắc đạo đức hành nghề
công chứng). Nói theo một cách khác, khi có sự mâu thuẫn giữa lợi ích của người yêu
cầu công chứng với lợi ích của Nhà nước, của cộng đồng thì công chứng viên có nghĩa
vụ ưu tiên bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của cộng đồng.

b. Đối với bản thân công chứng viên và uy tín, thanh danh nghề nghiệp:
Để thực hiện tốt Quy tắc Đạo đức hành nghề công chứng, đòi hỏi mỗi công
chứng viên phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện, không ngừng nâng cao kiến thức
bản thân để nâng cao trình độ nghiệp vụ, mỗi người “công chứng viên phải không
ngừng trau dồi đạo đức, nâng cao trình độ chuyên môn, tích cực tham gia các lớp
đào tạo, bồi dưỡng kiến thức và nỗ lực tìm tòi để nâng cao chất lượng công việc và
phục vụ người yêu cầu công chứng” (Điều 4, Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng).
Để giữ gìn uy tín, thanh danh ghề nghiệp, xứng đáng với sự ủy thác của Nhà nước, sự
tôn trọng và tin cậy của nhân dân, “công chứng viên có trách nhiệm coi trọng, giữ gìn
uy tín nghề nghiệp, không được có hành vi làm tổn hại đến danh dự, uy tín cá nhân,
thanh danh nghề nghiệp” (Khoản 2, Điều 3, Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng).

c. Đối với người yêu cầu công chứng:


Đối với người yêu cầu công chứng, đạo đức hành nghề công chứng là thể hiện
sự văn minh, lịch sự khi tiếp xúc với người dân, khi thực hiện việc công chứng, công
chứng viên cần có thiện chí và phải trình bày cho người yêu cầu công chứng hiểu rõ
về hệ quả pháp lý phát sinh sau khi hợp đồng, giao dịch được công chứng. Công chứng
viên phải có trách nhiệm hướng dẫn cho người yêu cầu công chứng lựa chọn hình
thức văn bản công chứng phù hợp để bảo đảm tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch.
Công chứng viên cần tận tình, hòa nhã giải đáp thắc mắc của người yêu cầu công
chứng để họ hiểu đúng pháp luật, ý chí của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch phải

9
phù hợp với các quy định của pháp luật. Đồng thời, giải thích cho người yêu cầu công
chứng về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm đối với Nhà nước, về quyền được khiếu nại,
tố cáo của người yêu cầu công chứng khi tham gia ký kết hợp đồng, giao dịch. Tại
Điều 5, Điều 6, Điều 7, Điều 8 của Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng nhấn mạnh
về việc công chứng viên phải đối xử bình đẳng giữa những người yêu cầu công chứng;
không phân biệt giới tính, dân tộc, chủng tộc, quốc tịch, tôn giáo, địa vị xã hội, khả
năng tài chính; tuân thủ quy định về bảo mật thông tin và thu đúng, thu đủ, thu công
khai phí và thù lao công chứng đã quy định và niêm yết, khi thu phải có chứng từ đầy
đủ. Cụ thể là:

- Công chứng viên phải tận tâm với công việc, phát huy năng lực, sử dụng kiến
thức chuyên môn, các kỹ năng nghề nghiệp để bảo đảm tốt nhất tính an toàn
pháp lý cho hợp đồng, giao dịch; có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết yêu
cầu công chứng của cá nhân, tổ chức một cách nhanh chóng, kịp thời khi yêu
cầu công chứng đó không vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội.
- Công chứng viên sẵn sàng tiếp nhận và giải quyết kịp thời yêu cầu công chứng
của người yêu cầu công chứng bằng cách luôn có mặt tại trụ sở tổ chức hành
nghề công chứng trong giờ làm việc theo quy định của pháp luật.
- Công chứng viên có nghĩa vụ giải thích cho người yêu cầu công chứng hiểu rõ
về quyền, nghĩa vụ, hậu quả pháp lý phát sinh của hợp đồng, giao dịch được
yêu cầu công chứng; giải đáp một cách rõ ràng những thắc mắc của người yêu
cầu công chứng nhằm đảm bảo cho hợp đồng, giao dịch đúng với ý chí của các
bên giao kết hợp đồng, giao dịch; đảm bảo các bên có nhận thức đúng về pháp
luật có liên quan và giá trị pháp lý của văn bản công chứng trước khi công
chứng viên công chứng.
- Công chứng viên có trách nhiệm cung cấp cho người yêu cầu công chứng các
thông tin có liên quan về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm nghề nghiệp của công
chứng viên trong hành nghề công chứng theo yêu cầu của người yêu cầu công
chứng.

10
- Công chứng viên có trách nhiệm giữ bí mật các thông tin trong hồ sơ yêu cầu
công chứng, hồ sơ công chứng và tất cả thông tin biết được về nội dung công
chứng trong quá trình hành nghề cũng như khi không còn là công chứng viên;
trừ trường hợp được sự đồng ý bằng văn bản của người yêu cầu công chứng
hoặc pháp luật có quy định khác.
- Công chứng viên có trách nhiệm bảo quản hồ sơ công chứng trong quá trình
giải quyết yêu cầu công chứng và bàn giao đầy đủ hồ sơ công chứng để lưu trữ
theo quy định của pháp luật.
- Công chứng viên có trách nhiệm hướng dẫn nhân viên thuộc tổ chức hành nghề
công chứng, của mình không được tiết lộ bí mật thông tin về việc công chứng
mà họ biết theo nội quy, quy chế của tổ chức hành nghề công chứng, quy định
của pháp luật; đồng thời, giải thích rõ trách nhiệm pháp lý của họ trong trường
hợp tiết lộ những thông tin đó.

Đồng thời, Quy tắc đạo đức cũng đặt ra lằn ranh đỏ trong việc buộc các công
chứng viên phải tuyệt đối không được có các hành vi không được làm trong quan hệ
với người yêu cầu công chứng tại Điều 9 như sau:
- Sách nhiễu, gây khó khăn cho người yêu cầu công chứng.
- Nhận, đòi hỏi bất kỳ một khoản tiền, lợi ích nào khác từ người yêu cầu công
chứng ngoài phí công chứng, thù lao công chứng và chi phí khác đã được quy
định, xác định, thoả thuận.
- Nhận tiền hoặc bất kỳ lợi ích vật chất nào khác từ người thứ ba để thực hiện
hoặc không thực hiện việc công chứng dẫn tới hậu quả gây thiệt hại đến lợi ích
chính đáng của người yêu cầu công chứng và các bên liên quan.
- Sử dụng thông tin biết được từ việc công chứng để mưu cầu lợi ích cá nhân.
- Thực hiện công chứng trong trường hợp mục đích và nội dung của hợp đồng,
giao dịch vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội.

11
- Đưa ra những lời hứa hẹn nhằm lôi kéo người yêu cầu công chứng hoặc tự ý
thu tăng hoặc giảm phí công chứng, thù lao công chứng so với quy định và sự
thỏa thuận.
- Công chứng các hợp đồng, giao dịch có liên quan về mặt lợi ích giữa công
chứng viên và người yêu cầu công chứng.
- Thông đồng, tạo điều kiện cho người yêu cầu công chứng xâm phạm quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác.
- Trả tiền hoa hồng, chiết khấu cho người yêu cầu công chứng hoặc người môi
giới.
- Câu kết với người yêu cầu công chứng, những người có liên quan làm sai lệch
nội dung của văn bản công chứng và hồ sơ đã công chứng.
d. Đối với đồng nghiệp, tổ chức hành nghề công chứng nơi mình làm việc và
các tổ chức xã hội nghề nghiệp khác:
Đạo đức hành nghề công chứng trong trường hợp này là thể hiện sự tôn trọng,
thân thiện, đoàn kết giúp đỡ nhau hoàn thành nhiệm vụ; giám sát lẫn nhau, kiên quyết
đấu tranh loại bỏ những hành vi sai trái. Khi phát hiện đồng nghiệp có sai sót thì công
chứng viên phải góp ý thẳng thắn nhưng không hạ thấp danh dự, uy tín của đồng
nghiệp, hướng dẫn giúp đỡ đồng nghiệp mới vào nghề, người tập sự. Trong trường
hợp công chứng viên phải báo cáo với người có trách nhiệm nếu đồng nghiệp có
những là hành vi vi phạm pháp luật hoặc gây tổn hại đến nghề nghiệp khi hành nghề.
Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng tiếp tục đặt ra các lằn ranh đỏ về các hành vi
cấm mà không chứng viên không được làm trong quan hệ với đồng nghiệp, tổ chức
hành nghề công chứng. Cụ thể như sau:

- Xúc phạm hoặc có hành vi làm tổn hại uy tín của đồng nghiệp, tổ chức hành
nghề công chứng.
- Gây áp lực, đe dọa hoặc thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật, trái đạo
đức xã hội với đồng nghiệp để giành lợi thế cho mình trong hành nghề.

12
- Hợp tác với cá nhân, tổ chức có khả năng gây áp lực buộc người yêu cầu
công chứng phải đến tổ chức hành nghề công chứng của mình để công
chứng vì mục đích lợi nhuận.
- Tiến hành bất kỳ hành vi quảng cáo bản thân và tổ chức hành nghề công
chứng của mình dưới mọi hình thức không đúng quy định của pháp luật.
- Hoạt động môi giới, nhận hoặc đòi tiền hoa hồng khi giới thiệu cho đồng
nghiệp về yêu cầu công chứng mà mình không đảm nhận.
- Mở chi nhánh, văn phòng đại diện, cơ sở, địa điểm giao dịch khác ngoài
trụ sở tổ chức hành nghề công chứng.
- Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác.

Các quy định trên nhằm tạo ra một môi trường hành nghề lành mạnh, công
bằng, hiệu quả và văn minh giữa các công chứng viên với nhau và đảm bảo việc cạnh
tranh lành mạnh, cùng nhau phát triển giữa các tổ chức hành nghề công chứng. Bên
cạnh đó, khi làm việc với các cơ quan nhà nước, cá nhân tổ chức khác công chứng
viên phải phải tuân thủ quy định của pháp luật, có thái độ lịch sự, tôn trọng công chức
nhà nước, cá nhân, tổ chức khác khi hợp tác với công chứng viên trong quá trình thi
hành công vụ, liên hệ công tác theo Điều 13, Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng

Tóm lại, các quy định pháp luật về quy tắc đạo đức nghề hành nghề công chứng
nhằm đề ra những khuôn vàng thước ngọc, định hướng phát triển, đòi hỏi mỗi công
chứng viên phải không ngừng phấn đấu, trau dồi phẩm chất, chú trọng nâng cao trình
độ, thường xuyên học tập, nghiên cứu kiến thức về các lĩnh vực liên quan đến hoạt
động nghiệp vụ chuyên môn, tôn trọng, bảo vệ danh dự, uy tín cho đồng nghiệp, có
thái độ thân thiện, giúp đỡ nhau hoàn thành nhiệm vụ; phải tận tình, hòa nhã giải đáp
thắc mắc của người yêu cầu công chứng để họ hiểu đúng pháp luật, đảm bảo ý chí của
các bên tham gia hợp đồng, giao dịch phải phù hợp với các quy định của pháp luật,
thể hiện trách nhiệm đối với nhà nước về vai trò của một “người gác cổng” pháp luật,
một “thẩm phán phòng ngừa”.

13
2. Thực tiễn áp dụng Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng
a. Mặt tích cực
Kể từ khi Luật Công chứng 2006 và Quy tắc Đạo đức hành nghề công chứng
được ban hành bởi Thông tư số 11/2012/TT-BTP ngày 30/10/2012, từng bước xã hội
hóa hoạt động công chứng, thừa nhận công chứng là một nghề với những quy tắc đạo
đức, chuẩn mực riêng đã tạo ra một bước phát triển mới trong hoạt động công chứng,
vạch ra đường hướng phát triển toàn diện cho các công chứng viên, từng bước giúp
họ hoàn thiện đạo đức, cải hiện hành vi ứng xử của, là cơ sở để rất nhiều công chứng
viên tự giác rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
Các quy định của Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng đã tạo ra những thay đổi
to lớn về trong cách ứng xử của công chứng viên với người yêu cầu công chứng, loại
bỏ lối làm việc bàn giấy quan liêu, cửa quyền của công chứng viên, đổi mới căn bản
tư duy, ý thức về “dịch vụ công” - hệ thống công chứng không còn mang tính chất là
một cơ quan công quyền mà là tổ chức dịch vụ công nhằm phục vụ tốt nhất cho các
nhu cầu công chứng của người dân. Ngày càng nhiều công chứng viên chủ động, tích
cực hơn với nghề, năng động trong quá trình tác nghiệp nhằm cung cấp dịch vụ có
tính chất cạnh tranh, minh bạch hóa, đơn giản hóa, tạo thuận lợi cho các tầng lớp nhân
dân tiếp xúc, sử dụng dịch vụ công chứng một cách thuận lợi trong việc đảm bảo an
toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, hạn chế rủi ro, giảm thiểu các vụ việc tranh
chấp, tố tụng tốn kém tiền bạc, công sức, thời gian qua đó bảo vệ quyền, lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.

Đối với các công chứng viên đồng nghiệp, nhiều báo cáo cho thấy3 đội ngũ
công chứng viên dày dạn kinh nghiệm đã được phát triển từ năm vừa hành nghề công
chứng, vừa truyền bá kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng hành nghề cho lớp công chứng
viên sau này góp phần hiện thực hóa quy định “Tôn trọng, bảo vệ danh dự của đồng

3
Ban Văn Kiện - Đại hội đại biểu Hiệp hội công chứng viên Việt Nam, Báo cáo chính trị Đại hội thành lập
Hiêp hội công chứng viên Việt Nam, tr.8.
14
nghiệp; giữ gìn và phát huy tinh thần đoàn kết, thân thiện, hợp tác giúp đỡ nhau hoàn
thành nhiệm vụ”.

Theo Khoản 6, Điều 10, Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng thì công chứng
viên phải “tham gia vào các hoạt động nghề nghiệp và hoạt động xã hội khác do Nhà
nước, tổ chức hành nghề công chứng, tổ chức xã hội nghề nghiệp tổ chức hoặc phát
động nhằm đóng góp vào sự phát triển chung của nghề công chứng”. Trên thực tế,
các công chứng viên không chỉ vun vén cho nghiệp vụ, đơn vị hay bản thân mình mà
họ cũng tự cùng nhau chung sức thực hiện các hoạt động xã hội khác nhằm đem lại
những lợi ích thiết thực cho cộng đồng và đóng góp vào sự phát triển chung của nghề,
nâng cao uy tín, thanh danh nghề công chứng, Chẳng hạn, tại Thành phố Hồ Chí
Minh4, các công chứng viên đã thực hiện việc thăm hỏi khi các công chứng viên đồng
nghiệp ốm đau (03 trường hợp), gia đình công chứng viên đồng nghiệp có việc hiếu
(9 trường hơp); ủng hộ xây 03 căn nhà tình nghĩa (trị giá mỗi căn 60 triệu) ở Củ Chi;
đóng góp ủng hộ đồng bào bị lũ lụt thông qua Mặt trận Tổ quốc thành phố 50 triệu.
Hàng năm bảy Phòng công chứng đều có Kế hoạch xây dựng nhà tình nghĩa, tình
thương, xây dựng cầu; mỗi tháng mỗi Phòng luân phiên tới thăm hỏi, phụng dưỡng
suốt đời 01 Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng ở Hóc Môn … Bên cạnh đó, một số VPCC
đều có tham gia hoạt động xã hội từ thiện ở địa phương nơi đặt trụ sở, như: đóng góp
Quỹ đền ơn đáp nghĩa, Quỹ vì biển đảo quê hương, Qũy học bổng hiếu học; chăm lo
Têt cho người nghèo, diện chính sách…

Hàng năm, công tác tổ chức tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, kỹ
năng hành nghề và đạo đức nghề nghiệp công chứng luôn được các công chứng viên
đón nhận nhằm hiện thực hóa quy định của Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng
về rèn luyện, tu dưỡng bản thân “Công chứng viên phải không ngừng trau dồi đạo
đức, nâng cao trình độ chuyên môn, tích cực tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng
kiến thức và nỗ lực tìm tòi để nâng cao chất lượng công việc và phục vụ người yêu

4
Hội công chứng viên Thành phố Hồ Chí Minh, Báo cáo Tổng kết hoạt động của Hội Công chứng viên TP.Hồ
Chí Minh Nhiệm kỳ 2015-2018 và Phương hướng hoạt động nhiệm kỳ 2018-2021, tr.7.
15
cầu công chứng” (Điều 4). Các nội dung mà công chứng viên tham gia bồi dưỡng tập
trung vào những vấn đề thiết thực, sát sườn với thực tiễn hành nghề công chứng tại
địa phương như: quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất theo Luật Đất đai năm
2013, những điểm mới của Luật Doanh nghiệp năm 2014, Luật Hôn nhân và Gia đình
năm 2014, Bộ luật Dân sự năm 2015, kỹ năng tiếp xúc khách hàng, kỹ năng nhận diện
giấy tờ giả,...

b. Mặt tiêu cực


Theo thống kê của Bộ Tư pháp, số đơn khiếu nại, tố cáo phản ánh về hoạt động
công chứng, công chứng viên ở các địa phương gửi về Bộ có dấu hiệu gia tăng5. Do
đó, Bộ Tư pháp và các địa phương đã chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra, tiếp công
dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. Qua đó, đã kịp thời
phát hiện, chấn chỉnh và xử lý những vi phạm. Cụ thể Bộ Tư pháp đã tiến hành 59
cuộc thanh tra, kiểm tra theo kế hoạch và đột xuất để giải quyết khiếu nại, tố cáo,
kiểm tra sau thanh tra, đã ban hành 66 Quyết định xử phạt VPHC với tổng số tiền là
458 triệu đồng và tước quyền s dụng thẻ công chứng viên có thời hạn đối với 02 công
chứng viên6; 04 Quyết định thu hồi tiền với tổng số tiền là 345.426.000 đồng.

Các hành vi của trên của công chứng viên và của các tổ chức hành nghề công
chứng xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Một mặt có thể do công chứng viên còn yếu
kém về nghiệp vụ, kiến thức pháp luật và kỹ năng nghề nghiệp chưa đủ để đáp ứng
Chẳng hạn các lỗi về nghiệp vụ như sửa lỗi kỹ thuật trong văn bản công chứng không
đúng quy định; thiếu chữ ký của công chứng viên hoặc người yêu cầu công chứng
vào từng trang của hợp đồng giao dịch khi công chứng vẫn xảy ra. Một mặt là do có
một số bộ phận công chứng viên có những biểu hiện tha hóa về đạo đức, chạy theo
lợi nhuận, lợi ích của bản thân và do đó rất nhiều hành vi vi phạm hoàn toàn mang

5
Hà Phong, Để công chứng viên xứng đáng là “người gác cổng”, Báo Hà Nội Mới ngày 16/02/2019
https://hanoimoi.com.vn/tin-tuc/Xa-hoi/926961/de-cong-chung-vien-xung-dang-la-nguoi-gac-cong
6
Bộ Tư pháp, Báo cáo số 01/BC-BTP ngày 01 tháng 01 năm 2020 về Tổng kết công tác tư pháp năm 2019 và
phương hướng nhiệm vụ, giải pháp công tác năm 2020.
16
tính chủ quan, nhằm mục đích trục lợi có chủ ý của công chứng viên khi thực hiện
việc công chứng.

c. Thực tiễn các vụ việc công chứng viên vi phạm Quy tắc đạo đức hành nghề
công chứng
Một là, tồn tại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh: Theo Điều 12, Quy
tắc đạo đức hành nghề công chứng, các hành vi công chứng viên không đưọc làm
trong quan hệ với đồng nghiệp, tổ chức hành nghề công chứng bao gồm:
• Tiến hành bất kỳ hành vi quảng cáo bản thân và tổ chức hành nghề công
chứng của mình dưới mọi hình thức không đúng quy định của pháp luật.
• Mở chi nhánh, văn phòng đại diện, cơ sở, địa điểm giao dịch khác ngoài
trụ sở tổ chức hành nghề công chứng.
• Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác.

Tuy nhiên, trên thực tế, trước áp lực doanh thu và lợi nhuận, nhiều tổ chức
hành nghề công chứng đang có dấu hiệu cạnh tranh không lành mạnh nhằm thu hút
khách hàng. Chẳng hạn, tại Thành phố Hồ Chí Minh, Báo cáo Tổng kết hoạt động của
Hội Công chứng viên TP.Hồ Chí Minh nhiệm kỳ 2015-2018 và Phương hướng hoạt
động nhiệm kỳ 2018-2021 của Hội công chứng viên Thành phố Hồ Chí Minh phản
ánh nhiều bức xúc của các tổ chức hành nghề công chứng về tình trạng cạnh tranh
thiếu lành mạnh giữa các tổ chức hành nghề công chứng và công chứng viên với nhau.
Cụ thể, tổ chức làm việc ngoài giờ hành chính, “thuê” công chứng viên ngoài tỉnh để
có điểm cao khi thành lập văn phòng công chứng nhưng công chứng viên đó thực tế
hầu như không hành nghề, thực hiện các hoạt động quảng cáo trên phương tiện thông
tin đại chúng, phát tờ rơi quảng cáo về tổ chứng hành nghề công chứng …

Hai là, hành vi công chứng ngoài trụ sở không có lý do chính đáng: Hiện nay,
rất phổ biến tình trạng công chứng viên thực hiện việc công chứng ngoài trụ sở của
tổ chức hành nghề công chứng đối với tất cả những trường hợp khách hàng có nhu
cầu (nhiều trường hợp người yêu cầu công chứng cho rằng họ là khách hàng, họ có

17
khả năng, điều kiện kinh tế và có nhu cầu thuê “dịch vụ về nhà công chứng” thì có
quyền thỏa thuận với tổ chức hành nghề công chứng về việc này, đó là nhu cầu hết
sức chính đáng nếu coi công chứng là một loại hình dịch vụ); trường hợp giao kết hợp
đồng thế chấp tại các tổ chức tín dụng (các tổ chức hành nghề công chứng ký kết hợp
đồng dịch vụ với tổ chức tín dụng và bố trí công chứng viên thường xuyên túc trực
tại trụ sở của tổ chức tín dụng để thực hiện việc công chứng hợp đồng thế chấp, cầm
cố…); trường hợp các bên trong hợp đồng, giao dịch muốn công chứng tại trụ sở của
tổ chức tín dụng để thuận tiện cho việc ký kết, giao, nhận tiền… là bất cập tái diễn
nhiều năm qua nhưng chưa có giải pháp ngăn chặn hiệu quả.
Ba là, trả tiền hoa hồng, chiết khấu cho người yêu cầu công chứng hoặc người
môi giới: Khoản 9 Điều 9 Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng quy định một trong
những công việc công chứng viên không được làm đó là: “Trả tiền hoa hồng, chiết
khấu cho người yêu cầu công chứng hoặc người môi giới”. Tuy nhiên, từ khi Nhà
nước có chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng, cùng với sự ra đời của hàng
loạt Văn phòng công chứng trên cả nước, đặc biệt là tại các thành phố lớn thì sự cạnh
tranh giữa các tổ chức hành nghề công chứng cũng diễn ra ngày càng mạnh mẽ để lôi
kéo khách hàng (người yêu cầu công chứng). Do đó, trên thực tế xuất hiện một số
hành vi vi phạm như: Trích lại phần hoa hồng tiền phí, thù lao công chứng, chi phí
khác thu được cho các tổ chức tín dụng, nhân viên của tổ chức tín dụng trực tiếp đưa
khách hàng đến ký kết hợp đồng, giao dịch (thế chấp, cầm cố…) tại tổ chức hành
nghề công chứng; cho những người môi giới bất động sản khi những người này đưa
khách hàng đến ký kết hợp đồng, giao dịch (mua bán, chuyển nhượng bất động sản…).
Mức hoa hồng trích lại khoảng từ 10 - 30% tiền phí7, thù lao công chứng, chi phí khác
tùy theo thỏa thuận giữa công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng với tổ chức
tín dụng, nhân viên tổ chức tín dụng hoặc người môi giới… Điều này đã gây ảnh
hưởng không nhỏ đến uy tín và sự phát triển lành mạnh của hoạt động công chứng.

7
Nguyễn Hoàng Việt (2014), Quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng, Luận văn Thạc sỹ Luật học.
18
Bốn là, công chứng viên thiếu tinh thần trách nhiệm, không hết sức, hết lòng
trong nghiệp vụ, không “tận tâm với công việc” theo Khoản 1, Điều 5, Quy tắc đạo
đức hành nghề công chứng: Qua thực tiễn xử lý các vụ việc vi phạm hành chính hoặc
thông qua hoạt động xét xử của tòa án, có thể thấy, một số công chứng viên hiện nay
không tận tâm với nghề, cẩu thả trong công việc. Chẳng hạn theo:
• Bản án 183/2017/DS-PT ngày 01/12/2017 về tranh chấp yêu cầu tuyên bố văn
bản công chứng vô hiệu của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long về việc “xác
định bà X đã 91 tuổi, tại thời điểm năm 2011 bà X bị lãng tai, mắt đã mờ, tay
run không thể ký tên. Do cụ X không đọc được nhưng khi công chứng viên
chứng nhận bản di chúc nói trên không yêu cầu người làm chứng chứng kiến
là không tuân thủ đúng theo quy định”
• Bản án 209/2017/DS-PT ngày 30/08/2017 về yêu cầu tuyên bố văn bản công
chứng vô hiệu Tòa án nhân dân cấp cao tại tại Thành phố Hồ Chí Minh về
việc“Văn phòng công chứng T tiến hành các thủ tục công chứng đối với hợp
đồng tặng cho tài sản nêu trên đã có một phần sơ xuất trong khâu kiểm tra nên
để xảy ra việc bà Th cho người khác thay bà T ký và lăn tay vào văn bản công
chứng”.
• Theo Bản án 124/2019/DS-PT ngày 26/09/2019 về yêu cầu tuyên bố văn bản
công chứng vô hiệu của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk “bà P là người yêu cầu
công chứng thời điểm đó đã 90 tuổi, mắt kém, tai điếc, lại không biết chữ
nhưng Công chứng viên không xác minh làm rõ về năng lực hành vi dân sự
của bà p, người làm chứng cũng không phải do bà P mời và không ghi âm,
quay hình hoặc có người trong hàng thừa kế chứng kiến nên văn bản được
công chứng không bảo đảm sự khách quan”.

Các ví dụ trên cho thấy, một bộ phận không nhỏ công chứng viên không tuân thủ quy
trình công chứng, cẩu thả, chủ quan, thiếu sót trong nghiệp vụ dẫn đến việc các văn
bản công chứng vô hiệu làm ảnh hưởng quyền lợi rất lớn của người yêu cầu công
chứng.

19
Năm là, công chứng viên vi phạm pháp luật, xâm phạm nghiêm trọng nhiều
quy định về đạo đức hành nghề: Về vấn đề này, có các trường hợp điển hình như sau:

• Trường hợp công chứng viên Nguyễn Thanh Tùng, công chứng viên kiêm
Trưởng Văn phòng Công chứng Cờ Đỏ tổ chức bán hồ sơ đã có chữ ký của
công chứng viên và đóng dấu sẵn. Người mua chỉ cần điền đầy đủ các thông
tin rồi đem đến các ngành chứng năng để làm những thủ tục hành chính cần
thiết. Mỗi hồ sơ được bán với giá từ 300.000 đồng-3 triệu đồng, tùy lĩnh vực.
• Vụ việc trong một văn bản công chứng mà công chứng viên Nguyễn Văn Cảnh,
VPCC Hậu Lộc (Thanh Hóa) để lọt đến 02 “người giả”, đặt nghi vấn về việc
tiếp tay, hưởng lợi. Theo Kết luận số 221/KL-STP của Sở Tư Pháp tỉnh Thanh
Hóa ngày 05 tháng 08 năm 2016 Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế
ghi rõ bà: “Lưu Thị Mai, CMND số 172686557, cấp ngày 30/6/2015, tại Công
an tỉnh Thanh Hóa; Nguyễn Thái Anh, CMND số 173174906, cấp ngày
10/3/2010, tại Công an Thanh Hóa”. Thực tế trong CMND của bà Mai là số
171737506, cấp ngày 29/7/2011; Nguyễn Thái Anh, số CMND 173174906, cấp
ngày 14/7/2009; chữ ký của bà Mai và con trai tại văn bản trên cũng bị giả
mạo.”
• Trường hợp Công chứng viên Trần Đình Chiến, Trưởng Văn phòng Công
chứng An Phát vào cuối tháng 4 năm 2019 bị TAND Thành phố Đà Nẵng đã
tuyên phạt 07 năm tù về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Công chứng viên này
đã 06 lần bị xử phạt vi phạm hành chính, thậm chí có thời gian bị tước thẻ về
các hành vi vi phạm, gian dối trong hoạt động công chứng nhưng vẫn ký không
và cấu kết với siêu lừa Hồ Thị Nga (45 tuổi, ngụ Q.Cẩm Lệ) để thực hiện các
hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Khi người bị hại đến Phòng Công
chứng An Phát, công chứng viên này nói dối người yêu cầu công chứng bên
mua về việc bên bán đã ký sẵn và về trước do chờ lâu. Người bán tin tưởng
công chứng viên nên đã ký và giao 770 triệu đồng. Bên cạnh các thủ đoạn lừa
đảo, hiện nay trong giao dịch BĐS còn hình thành những quy ước ngầm nhằm

20
trục lợi bất chính, điển hình như nạn ký chờ, ký gửi với sự thông đồng giữa
dân lướt sóng bất động sản và công chứng viên.

Có thể thấy, các hành vi ở dạng này của công chứng viên thường là hành vi vi phạm
pháp luật, có sự tha hóa về đạo đức nhằm trục lợi bất chính. Do đó, vi phạm đặc biệt
nghiêm trọng Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng, đặc biệt là các hành vi không
được làm được quy định tại Điều 9“thông đồng, tạo điều kiện cho người yêu cầu công
chứng xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác” và hành vi
“nhận tiền hoặc bất kỳ lợi ích vật chất nào khác từ người thứ ba để thực hiện hoặc
không thực hiện việc công chứng dẫn tới hậu quả gây thiệt hại đến lợi ích chính đáng
của người yêu cầu công chứng và các bên liên quan”.

3. Nguyên nhân, giải pháp, kiến nghị đối với việc xây dựng và hoàn thiện Quy
tắc đạo đức hành nghề công chứng
a. Nguyên nhân
Một là, yếu tố môi trường giao dịch với lợi nhuận lớn, một bộ phận công chứng
viên bị ảnh hưởng, tha hóa về đạo đức, trọng chủ nghĩa vật chất: Công chứng viên
thường xuyên tiếp xúc với các giao dịch về bất động sản trong bối cảnh đối tượng
giao dịch này lên cơn sốt, có ngày một sản phẩm bất động sản, nhất là đất nền, qua
tay vài giao dịch với lợi nhuận cực khủng, các hành vi hám lợi từ môi trường này
được thực hiện khá dễ dàng, khó bị phát hiện hoặc chế tài xử lý chưa đủ nặng. Do đó,
những người kinh doanh, môi giới bất động sản cấu kết với công chứng viên, thực
hiện các thủ mục mua bán, chuyển nhượng bất động sản nhiều lần nhưng chỉ đóng
dấu công chứng một lần. Công chứng viên chứng kiến quá trình giao dịch này nhưng
không ký, không đóng dấu, không vào sổ lưu mà cho người mua gửi lại hồ sơ có chữ
ký của người bán. Để người mua tìm được khách hàng tiếp theo để chuyển nhượng
thì mới để công chứng viên hoàn tất hồ sơ, hoặc khách hàng mới tiếp tục thông đồng
để ký gửi, ký chờ. Ngoài ra còn có vấn nạn “ký gửi”, “ký chờ” nhằm trốn tránh nghĩa
vu nộp thuế thu nhập cá nhân, lệ phí trước bạ và các loại phí khác, tiếp tay cho những

21
người giao dịch bất động sản để được nhận phí bồi dưỡng, công chứng viên góp phần
khiến Nhà nước thất thu thuế.

Hai là, nguyên dân do một số quy định pháp luật về công chứng vẫn còn chung
chung hoặc chưa dự liệu được hết vấn đề thực tiễn: Chẳng hạn, mặc dù Điều 44 của
Luật công chứng 2014 nêu rõ những trường hợp được thực hiện công chứng ngoài trụ
sở của tổ chức hành nghề công chứng; tuy nhiên trên thực tế, quy định này vẫn còn
vướng mắc do chưa có văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn cụ thể những trường
hợp nào được coi là “có lý do chính đáng khác không thể đến trụ sở của tổ chức hành
nghề công chứng”. Chính điều này đã tạo “kẽ hở” để một số công chứng viên lợi
dụng, thực hiện việc công chứng ngoài trụ sở trái quy định pháp luật, dẫn đến việc
“công chứng dạo”, làm méo mó hình ảnh của công chứng viên như phản ánh trên một
số phương tiện thông tin đại chúng thời gian qua. Bên cạnh đó, Khoản 7, Điều 12 Quy
tắc đạo đức hành nghề công chứng quy định về “Các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh khác” là khá chung chung, không có hướng dẫn cụ thể. Có thể nói, “cạnh tranh
không lành mạnh” là một chế định lớn của Luật Cạnh tranh và do đó, một điều khoản
trong Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng khó mà dự liệu hết các tình huống vi
phạm trên thực tế. Rõ ràng, các quy định pháp luật không chặt chẽ thì “dễ làm cho số
ít công chứng viên dễ làm trái hoặc vô tình làm trái do thiếu các mẫu chuẩn - cụ thể;
lâu dần, tích tụ, rất dễ dẫn đến vi phạm pháp luật”8.
Ba là, nhiều quy định về chế tài, mức xử lý các hành vi vi phạm Quy tắ đạo đức
hành nghề công chứng chưa có hoặc chưa đủ sức răn đe: Đối với một số hành vi vi
phạm Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng thì pháp luật chưa có hoặc có mức phạt
quá nhẹ, chưa tương xứng với tính chất, mức độ vi phạm, mức độ xâm hại trật tự quản
lý hành chính nhà nước, chưa bảo đảm tính răn đe, phòng ngừa. Chẳng hạn hành vi
“công chứng ngoài trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng không đúng quy định tại

8
Diệp Thanh Phong, Chủ tịch Hội Công chứng viên TP Đà Nẵng, Nhiều bất cập cần kiểm tra, làm rõ chung
quanh lĩnh vực công chứng ở Đà Nẵng tại https://nhandan.com.vn/thoi-su-phap-luat/nhieu-bat-cap-can-kiem-
tra-lam-ro-chung-quanh-linh-vuc-cong-chung-o-da-nang-270884/
22
Điều 44 của Luật công chứng” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 14 Nghị định số
110/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 67/2015/NĐ-CP) chỉ bị
phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng mà không bị áp dụng hình thức xử
phạt bổ sung hay biện pháp khắc phục hậu quả nào.
b. Giải pháp, kiến nghị kiến nghị đối với việc xây dựng và hoàn thiện Quy tắc
đạo đức hành nghề công chứng
Một là, bổ sung các quy định về bồi dưỡng hằng năm không chỉ về nghiệp vụ
mà còn về việc trau dồi đạo đức, rèn luyện nâng cao năng lực: Trong tất cả các lĩnh
vực nói chung và lĩnh vực công chứng nói riêng, con người luôn là yếu tố quyết định.
Là một người công chứng viên, tiêu chuẩn đầu tiên là cần phải có đủ trình độ năng
lực và đạo đức nghề nghiệp. Mỗi công chứng viên phái tự tu dưỡng bản thân, trau đồi
đạo đức để luôn khách quan, trung thực, không thiên vị, không vì lợi ích cá nhân, sự
quen thân làm ảnh hưởng đến lợi ích người khác, không công chứng hợp đồng, giao
dịch có nội dung trái đạo đức xã hội. Muốn được vậy, công chứng viên phải đặt uy
tín của mình, thanh danh nghề nghiệp lên hàng đầu, lấy đó làm mục đích cuối cùng
của hoạt động nghề nghiệp, vững vàng tinh thần trước những cám dỗ, lợi ích vật chất
mà có những hành vi trục lợi, gây thiệt hại cho người yêu cầu công chứng. Trong bối
cảnh hiện nay, khi nền kinh tế đang phát triển theo định hướng kinh tế thị trường, lĩnh
vực công chứng đã chính thức được xã hội hóa, các buổi tập huấn về đạo đức nghề
cần được quy định rõ trong Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng và phải được thực
hiện nhân rộng hơn nữa trong thực tế như một vấn đề then chốt, bắt buộc bên cạnh
các buổi bồi dưỡng về nghiệp vụ, chuyên môn.
Hai là, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện pháp luật về công chứng: Như đã trình
bày ở mục 1.2, Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng đã được luật hoá, có mối quan
hệ chặt chẽ với pháp luật về công chứng và do đó muốn hoàn thiện Quy tắc đạo đức
hành nghề công chứng thì phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật về công
chứng. Việc kiểm tra, giám sát hoạt động tuân thủ Quy tắc đạo đức hành nghề công
chứng hiện nay phụ thuộc rất lớn vào việc thiết lập, xây dựng và hoàn thiện pháp luật

23
về công chứng. Việc nghiên cứu, chỉ ra những vướng mắc, bất cập và đề xuất, kiến
nghị phục vụ cho xây dựng pháp luật nhằm khắc phục những vướng mắc, bất cập về
mặt thể chế cũng như tổ chức thực hiện pháp luật về công chứng là hết sức cần thiết
trong bối cảnh hiện nay, khẳng định hơn nữa vai trò của thiết chế công chứng trong
việc bảo đảm an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch dân sự - kinh tế, góp phần
quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Bà là, Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng cần sửa đổi, bổ sung những quy
định còn thiếu hoặc yếu về Cạnh tranh và Lao động:
Chẳng hạn, Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng cần làm rõ hơn các hành
vi cạnh tranh không lành mạnh, quy định cụ thể các hành vi vi phạm đạo đức đang
diễn ra phổ biến trên thực tế như:
- Hành vi cố ý ký hợp đồng công chứng đối với tài sản bị phong tỏa khi biết
rõ có sự thay đổi thông tin liên quan đến tài sản bị phong tỏa;
- Hành vi không tra cứu hoặc cố tình không tra cứu, tra cứu nhưng không ghi
nhận thông tin về tài sản bị phong tỏa;
- Hành vi cạnh tranh không lành mạnh với các tổ chức hành nghề công chứng
như tuyên truyền, nói xấu, hạ uy tín, thương hiệu của tổ chức công chứng
khác.

Bên cạnh đó, trên thực tế, công chứng viên phải làm việc với cường độ lớn, áp
lực về thời hạn giải quyết hồ sơ, áp lực về doanh số, cho nên cần có các quy định
giống như trong Luật Lao động về việc giới hạn thời giờ làm việc, quy định rõ thời
giờ nghỉ ngơi, mức trần các hồ sơ xử lý trong khoảng thời gian nhất định. Một mặt,
để giảm cường độ làm việc, tăng thời gian giải quyết hồ sơ cho công chứng viên, để
họ ra soát kỹ hơn các văn bản, hợp đồng, giao dịch hạn chế các sai sót như đã đề cập
ở mục 2c thực tiễn vi phạm khi mà một số công viên buộc phải làm tắt quy trình,
VPCC hoặc PCC quá đông khách hàng nên dưới áp lực doanh số, công chứng viên
không đạt được thể trạng sức khỏe tốt khi hành nghề. Cuối cùng, vì hoạt động công
chứng được nhìn nhận dưới góc độ nghề, “dịch vụ” thì nên để các công chứng viên

24
được nhận thêm các khoản hỗ trợ, khoản thưởng từ người yêu cầu công chứng, Các
công chứng viên sẽ tự phân định được đâu là khoản thưởng và đâu là việc vòi vĩnh,
hạch sách khách hàng để tránh việc các công chứng viên tìm mọi cách bất chấp để
“tăng doanh số” khi mà phí công chứng quá thấp, thu không đủ chi gây áp lực tài
chính không chỉ cho tổ chức hành nghề công chứng mà còn cho công viên.

25
CHƯƠNG III. KẾT LUẬN
Chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng đang được xã hội hoan nghênh,
ủng hộ và mang đến nhiều hiệu quả tích cực cho xã hội, hoạt động công chứng được
ghi nhận như một “nghề cao quý”. Mỗi người công chứng viên tuy hoạt động với tư
cách cá nhân nhưng được Nhà nước tin tưởng, bổ nhiệm để trao cho một phần quyền
lực công của Nhà nước nhằm thực hiện chức năng chứng nhận tính xác thực, tính hợp
pháp của các hợp đồng, giao dịch. Qua đó, chính công chứng viên sẽ làm cho các văn
bản, giấy tờ này trở thành có hiệu lực pháp luật, giá trị thi hành, giá trị chứng cứ được
các bên giao dịch và Nhà nước thừa nhận. Trong quá trình làm việc, dưới góc nhìn
của xã hội, công chứng viên được nhìn nhận như một chuẩn mực về sự đúng đắn, đặt
vào đó một sự tin cậy rất cao. Chính vì những lý do nêu trên mà vấn đạo đức hành
nghề của công chứng viên luôn luôn phải được đặt lên hàng đầu để đáp ứng được uy
tín, thanh danh nghề nghiệp, xứng đáng với sự ủy thác của Nhà nước, sự tôn trọng và
tin cậy của nhân dân. Quy tắc dạo đức hành nghề công chứng là phải đặt ra những
chuẩn mực về phẩm chất, chuẩn mực về xử sự trong khi hành nghề. Sự chuẩn mực đó
được thể hiện trong nhiều mối quan hệ như với đồng nghiệp, với cá nhân, tổ chức có
yêu cầu công chứng và không chỉ dừng lại ở việc tổ chức hành nghề công chứng tự
đánh giá, mà chính những người dân sẽ đánh giá trực tiếp bằng nhận xét khách quan
của mình.

Sau gần 8 năm thực hiện được luật hóa và đưa vào thực tiễn, Quy tắc đạo đức
hành nghề công chứng được ban hành bởi Thông tư số 11/2012/TT-BTP đã mang lại
nhiều kết quả đáng ghi nhận trong việc góp phần định hướng tư duy, ý thức của công
chứng viên trong giao tiếp, ứng xử với đồng nghiệp, với người yêu cầu công chứng,
trong việc rèn luyện bản thân, vận dụng, áp dụng các quy định của pháp luật vào việc
chứng nhận các hợp đồng, giao dịch. Bằng việc việc tuân thủ tốt Quy tắc đạo đức
hành nghề công chứng, công chứng viên đã góp phần công sức to lớn trong việc bảo
vệ pháp luật, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người yêu cầu công chứng,
qua đó bảo đảm tính an toàn pháp lý, ngăn ngừa tranh chấp, giảm thiểu rủi ro cho các

26
hợp đồng, giao dịch, qua đó bảo vệ quyền, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức.

Bên cạnh những điểm sáng tích cực đó, vẫn còn những mảng tối trong ngành
với nhiều vụ việc vi phạm của công chứng viên. Tồn tại những hành vi do hạn chế về
trình độ, năng lực, kỹ năng nghiệp vụ nhưng cũng có rất nhiều hành vi xuất phát từ
chính sự sai phạm về đạo đức hành nghề của một bộ phận không nhỏ công chứng viên
tha hóa về mặt đạo đức, chủ quan trong hành nghề, nhằm mục đích trục lợi cho bản
thân mình, chạy đua lợi nhuận, cạnh tranh thành tích cho tổ chức hành nghề công
chứng. Do đó, việc không ngừng xây dựng và hoàn thiện Quy tắc đạo đức hành nghề
công chứng là rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay để nâng cao hơn nữa để nâng cao
tính hiệu quả trong hoạt động công chứng, tính tự quản của công chứng viên. Đạo đức
nghề hành nghề công chứng cần có thêm và chặt chẽ hơn nữa quy định về việc phấn
đấu trau dồi phẩm chất, thường xuyên học tập nâng cao trình độ, tìm tòi nghiên cứu
kiến thức về các lĩnh vực liên quan đến hoạt động nghiệp vụ chuyên môn; tích cực
tham gia các hoạt động trao đổi kiến thức, trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp, tôn
trọng, bảo vệ danh dự, uy tín cho đồng nghiệp, có thái độ thân thiện, giúp đỡ nhau
hoàn thành nhiệm vụ, cụ thể hóa các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, góp phần
nâng cao hình ảnh, thanh danh nghề công chứng ./.

27
PHỤ LỤC

1. Quyết định 38/QĐ-XLVP ngày 27 tháng 8 năm 2019 của Bộ Tư pháp về xử phạt vi
phạm hành chính đối với Công chứng viên Trần Thị Thảo (VPCC Hồ Nhật Tú Trinh):

28
29
2.Văn bản công chứng và Kết luận số 221/KL-STP của Sở Tư pháp tỉnh Thanh Hóa
ngày 05 tháng 08 năm 2016 về Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế của
công chứng viên Nguyễn Văn Cảnh (VPCC Hậu Lộc – Thanh Hóa)

30
31
32
33
34
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật công chứng năm 2014.
2. Thông tư số 11/2012/TT-BTP ngày 30/10/2012 ban hành Quy tắc Đạo đức
hành nghề công chứng.
3. Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
4. Nghị định 82/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân
sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã ngày 15/7/2020 của Chính phủ.
5. Nghị định số 110/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án
dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã ngày 24/9/2013 của Chính phủ.
6. Nguyễn Hoàng Việt (2014, Quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng,
Luận văn Thạc sỹ Luật học.
7. Bộ Tư pháp (2020), Báo cáo số 01/BC-BTP ngày 01 tháng 01 năm 2020 về
Tổng kết công tác tư pháp năm 2019 và phương hướng nhiệm vụ, giải pháp
công tác năm 2020.
8. Ban Văn Kiện - Đại hội đại biểu Hiệp hội công chứng viên Việt Nam (2019),
Báo cáo chính trị Đại hội thành lập Hiêp hội công chứng viên Việt Nam.
9. Hội Công chứng viên TP.Hồ Chí Minh (2018), Báo cáo Tổng kết hoạt động
của nhiệm kỳ 2015-2018 và Phương hướng hoạt động nhiệm kỳ 2018-2021.
10. Học viện tư pháp (2016), Tài liệu bồi dưỡng nghề công chứng.
11. Học viện tư pháp (2019), Giáo trình kỹ năng hành nghề công chứng (Tập 1).

35

You might also like