You are on page 1of 36

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

KHOA LUẬT
------------***-----------

BÀI TẬP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC


HỌC PHẦN PHÁP LUẬT TRONG TMĐT
ĐỀ TÀI 6: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
THƯƠNG MẠI QUA HOÀ GIẢI VÀ HOÀ GIẢI TRỰC TUYẾN

Sinh viên thực hiện: Nhóm 7


1. Phạm Thị Thanh Thương 63C.NNA 11215612
2. Nguyễn Hạnh Phương KHMT63 11218417
3. Nguyễn Mai Quỳnh ESOM 63 11215090
4. Vũ Đức Anh TMĐT64 11220672
5. Tô Ngọc Hà Logistics & QLCCƯ 63A 11218522
6. Hoàng Trung Hiếu TMĐT64 11222304
7. Trương Đình Huy TMĐT64 11222830
8. Lưu Trịnh Hoàng Linh TMĐT64 11223506
Giảng viên giảng dạy: Phạm Đức Chung
Lớp học phần: LUKD1175(223)_01

Hà Nội, tháng 3 năm 2024


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA LUẬT
------------***-----------

BÀI TẬP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC


HỌC PHẦN PHÁP LUẬT TRONG TMĐT
ĐỀ TÀI 6: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
THƯƠNG MẠI QUA HOÀ GIẢI VÀ HOÀ GIẢI TRỰC TUYẾN

Sinh viên thực hiện: Nhóm 7


9. Phạm Thị Thanh Thương 63C.NNA 11215612
10. Nguyễn Hạnh Phương KHMT63 11218417
11. Nguyễn Mai Quỳnh ESOM 63 11215090
12. Vũ Đức Anh TMĐT64 11220672
13. Tô Ngọc Hà Logistics & QLCCƯ 63A 11218522
14. Hoàng Trung Hiếu TMĐT64 11222304
15. Trương Đình Huy TMĐT64 11222830
16. Lưu Trịnh Hoàng Linh TMĐT64 11223506
Giảng viên giảng dạy: Phạm Đức Chung
Lớp học phần: LUKD1175(223)_01

Hà Nội, tháng 3 năm 2024


LỜI MỞ ĐẦU
Giải quyết tranh chấp trực tuyến đã có nhiều bước phát triển trong khoảng
thời gian hơn 20 năm trở lại đây. Dưới tác động của đại dịch Covid và nhu cầu
giải quyết các tranh chấp quốc tế trong thời gian giãn cách xã hội, hòa giải trực
tuyến đang nổi lên như một trong những chủ đề được quan tâm gần đây. Trong
năm 2020, chỉ tính riêng tại Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) đã
ghi nhận hai phiên hòa giải thương mại đã được thực hiện hoàn toàn trên nền
tảng trực tuyến được thực hiện thông qua các phương thức được hỗ trợ bởi
VIAC. Tháng 6 năm 2020, Trung tâm trọng tài quốc tế Hà Nội (HIAC) đã phát
triển nền tảng hòa giải thương mại trực tuyến đầu tiên ở Việt Nam. Theo đó hòa
giải viên thương mại có thể xét xử trực tuyến trên nền tảng này chỉ khi các bên
đồng ý. Tuy nhiên, trên thực tế, chưa có báo cáo về vụ việc nào đã được giải
quyết bằng nền tảng này.

Vậy hòa giải trực tuyến khác biệt như thế nào so với hòa giải truyền
thống, đâu là những khó khăn khiến cho việc giải quyết tranh chấp bằng hòa giải
trực tuyến vẫn chưa được sử dụng và phát triển tại Việt Nam? Cho đến thời điểm
này, nước ta vẫn chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào được ban hành để
trực tiếp điều chỉnh về hòa giải trực tuyến trong giải quyết tranh chấp thương
mại. Từ những phân tích trên, có thể thấy, vì chưa có quy định pháp luật cụ thể
nào điều chỉnh trực tiếp vấn đề này nên việc áp dụng phương thức hòa giải trực
tuyến trọng giải quyết tranh chấp thương mại tại Việt Nam là tương đối khó khăn
dù phương thức này thực sự có triển vọng phát triển tại nước ta nhờ những ưu
điểm của nó. Chính vì vậy, việc xây dựng phương thức hòa giải trực tuyến trọng
giải quyết tranh chấp thương mại để triển khai tại Việt Nam trên cơ sở nghiên
cứu kinh nghiệm quốc tế là yêu cầu cấp thiết được đặt ra. Do đó, từ những lý do
trên, chúng em lựa chọn đề tài “quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp
thương mại qua hoà giải và hoà giải trực tuyến”.
MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................iii

MỤC LỤC............................................................................................................iv

CHƯƠNG 1. MỘT SỐ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH


CHẤP THƯƠNG MẠI QUA HOÀ GIẢI VÀ HOÀ GIẢI TRỰC TUYẾN....1

1.1. KHÁI QUÁT VỀ TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI VÀ GIẢI QUYẾT


TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI.........................................................................1

1.2. KHÁI QUÁT VỀ HÒA GIẢI VÀ HÒA GIẢI TRỰC TUYẾN..............4

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN


PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI QUA
HOÀ GIẢI VÀ HOÀ GIẢI TRỰC TUYẾN....................................................10

2.1. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI
THƯƠNG MẠI TẠI TỔ CHỨC HÒA GIẢI THƯƠNG MẠI.........................10

2.2. THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI THƯƠNG
MẠI TẠI TỔ CHỨC HÒA GIẢI THƯƠNG MẠI...........................................15

2.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT..........................................18

CHƯƠNG 3: VÍ DỤ THỰC TIỄN....................................................................22

CHƯƠNG 4: ĐỊNH HƯỚNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI
QUA HOÀ GIẢI VÀ HOÀ GIẢI TRỰC TUYẾN...........................................26

4.1. ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN NGHỊ ĐỊNH SỐ 22/2017/NĐ-CP VỀ


HÒA GIẢI THƯƠNG MẠI..............................................................................26

4.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
HÒA GIẢI TRỰC TUYẾN..............................................................................27

KẾT LUẬN............................................................................................................v
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................vi
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI QUA HOÀ GIẢI VÀ
HOÀ GIẢI TRỰC TUYẾN
1.1. KHÁI QUÁT VỀ TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI VÀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI
1.1.1. Tranh chấp thương mại
1.1.1.1. Khái niệm

Đầu tiên, Luật thương mại năm 2005 không trực tiếp đưa ra định nghĩa về
tranh chấp thương mại, song với sự hiện diện của khái niệm “hoạt động thương
mại” theo nghĩa rộng đã tạo ra sự tương đồng trong quan niệm về thương mại và
tranh chấp thương mại của pháp luật Việt Nam với chuẩn mực chung của pháp
luật và thông lệ quốc tế.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật thương mại năm 2005 quy định:
“Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm
mục đích sinh lợi khác.”

Dựa vào khái niệm trên có thể suy ra khái niệm về tranh chấp thương mại
như sau: Tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn (bất đồng) giữa hai bên hợp
tác với nhau về quyền, nghĩa vụ trong quá trình hoạt động kinh doanh thương
mại.

Thứ hai, Điều 51 Luật giao dịch điện tử 2005 quy định: “Tranh chấp trong
giao dịch điện tử là tranh chấp phát sinh trong quá trình giao dịch bằng phương
tiện điện tử”.

Trên cơ sở hai khái niệm được nêu trong hai bộ luật trên, ta rút ra được
khái niệm tranh chấp trong TMĐT như sau: Tranh chấp trong TMĐT là tranh
chấp xảy ra khi có sự bất đồng, mâu thuẫn, xung đột về quyền và nghĩa vụ của
các bên khi tham gia hoạt động TMĐT.

1.1.1.2. Phân loại tranh chấp thương mại


Dựa trên những căn cứ pháp lý khác nhau, tranh chấp thương mại được
chia thành các loại tranh chấp sau:

Căn cứ theo phạm vi lãnh thổ: bao gồm tranh chấp thương mại trong nước
và tranh chấp thương mại quốc tế.

Căn cứ vào số lượng các bên tranh chấp: bao gồm tranh chấp thương mại
hai bên và tranh chấp thương mại nhiều bên.

Căn cứ vào lĩnh vực tranh chấp: bao gồm tranh chấp liên quan đến hợp
đồng, tranh chấp về sở hữu trí tuệ, đầu tư, tài chính...

Căn cứ vào quá trình thực hiện: bao gồm các tranh chấp trong quá trình
đàm phán, soạn thảo, ký kết hợp đồng và tranh chấp trong quá trình thực hiện
hợp đồng.

Căn cứ vào thời điểm phát sinh tranh chấp: bao gồm tranh chấp thương mại
hiện tại và tranh chấp thuơng mại trong tương lai.

1.1.2. Giải quyết tranh chấp thương mại


1.1.2.1. Các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại

Các văn bản pháp luật hiện nay đã chỉ ra rằng, để giải quyết tranh chấp
trong giao dịch nói chung và trong giao dịch TMĐT nói riêng, ta có 4 phương
thức. Cụ thể tại Điều 317 Luật thương mại 2005 quy định như sau:

Hình thức giải quyết tranh chấp:

1. Thương lượng giữa các bên.

2. Hoà giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên
thỏa thuận chọn làm trung gian hoà giải.

3. Giải quyết tại Trọng tài hoặc Toà án: Thủ tục giải quyết tranh chấp trong
thương mại tại Trọng tài, Toà án được tiến hành theo các thủ tục tố tụng
của Trọng tài, Toà án do pháp luật quy định.

Theo đó, ta có thể làm rõ và hiểu đơn giản về 4 hình thức giải quyết tranh
chấp thương mại trên như sau:
Thương lượng: là phương thức giải quyết tranh chấp do hai bên thỏa thuận
với nhau. Theo phương thức này, các bên tranh chấp cùng nhau bàn bạc và thống
nhất giải quyết tranh chấp giữa các bên mà không có sự xuất hiện của bên thứ ba.

Hòa giải: là phương thức giải quyết tranh chấp thỏa thuận với nhau. Theo
phương thức này, một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên thỏa thuận lựa
chọn làm trung gian hòa giải. Bên trung gian hòa giải sẽ hỗ trợ các bên giải quyết
các tranh chấp.

Trọng tài thương mại: là phương thức giải quyết các tranh chấp phát sinh
trong hoạt động thương mại do các bên tranh chấp thỏa thuận với nhau và được
thực hiện theo quy định của Luật Trọng tài thương mại năm 2010. Theo phương
thức này, hội đồng trọng tài do các bên thành lập sẽ đứng ra giải quyết tranh chấp
của các bên.

Tòa án: Tòa án là phương thức giải quyết các tranh chấp trọng hoạt động
kinh doanh, thương mại theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Theo phương thức này, hội đồng xét xử sẽ đứng ra giải quyết tranh chấp của các
bên.

1.1.2.2. Giải quyết tranh chấp trực tuyến (ODR)

Khái niệm về Giải quyết tranh chấp trực tuyến:

Theo các chuyên gia pháp lí "giải quyết tranh chấp trực tuyến (Online
Dispute Resolution - ODR)" là một thuật ngữ ghép giữa trực tuyến (Online) và
giải quyết tranh chấp thay tthế (ADR).

Do đó ODR được hiểu một cách rộng rãi trên thế giới như là việc sử dụng
các biện pháp giải quyết tranh chấp thay thế với sự hỗ trợ của mạng Internet.

Với đặc điểm này ODR bao gồm một loạt các quy trình giải quyết tranh chấp
thay thế được thực hiện qua cơ chế trực tuyến như internet hoặc một số hình thức
công nghệ cho phép thực hiện các kết nối thông tin ảo trên mạng mà không đòi
hỏi các bên phải liên hệ trực tiếp trong một không gian vật chất nhất định. Hiện
tại, ODR là phương thức giải quyết tranh chấp hiện đại gắn liền với TMĐT vì
tính linh hoạt và hiệu quả, phù hợp với lợi ích của các bên.
Vào tháng 6/2020, Trung tâm Trọng tài Quốc tế Hà Nội (HIAC) là tổ chức
Trọng tài đầu tiên tại Việt Nam cung cấp nền tảng cho phép thực hiện việc giải
quyết tranh chấp thông qua hòa giải và/hoặc tố tụng trọng tài trực tuyến đầu tiên
tại Việt Nam (ODR) trên website: www.hiac.vn.

Cơ chế hoạt động của hệ thống ODR:

Tùy theo chức năng và phạm vi hoạt động của từng tổ chức ODR, hệ
thống ODR sẽ cho phép các bên thực hiện thủ tục giải quyết vụ việc tranh chấp
của mình bằng một, hai hay cả ba phương thức sau:

(i) Thương lượng trực tuyến giữa các bên tranh chấp;

(ii) Hòa giải vụ việc tranh chấp trực tuyến giữa các bên với sự tham gia
của hòa giải viên thuộc tổ chức ODR;

(iii) Xét xử vụ việc theo thủ tục trọng tài trực tuyến nếu tổ chức ODR có
chức năng hoạt động trọng tài.

Một vài đặc điểm của Giải quyết tranh chấp trực tuyến:

ODR cho phép các bên có thể thực hiện được toàn bộ quá trình xử lý vụ
việc trên nền tảng ODR online mà các bên được cấp quyền truy cập. Việc này
giúp cho việc giải quyết vụ việc tranh chấp trở nên rất thuận tiện, thúc đẩy tiến
trình giải quyết vụ việc nhanh và hiệu quả hơn nhiều so với phương thức giải
quyết tranh chấp truyền thống tại tòa án.

Việc kiểm tra, xem xét tài liệu, chứng cứ của các bên nộp cho tổ chức
ODR sẽ được công nghệ hỗ trợ rất nhiều. Đối với những tài liệu cần xác minh,
xác thực thì tổ chức ODR có thể yêu cầu các bên tranh chấp cung cấp bản gốc,
bản sao chứng thực hoặc thực hiện ký chữ ký số vào tài liệu đó để xác nhận, chịu
trách nhiệm pháp lý.

Hệ thống ODR cũng cho phép các bên tranh chấp có thể gặp nhau trực
tuyến để trao đổi thương lượng, hòa giải, xét xử trọng tài theo hình thức text
communication (trao đổi tin nhắn, chat) hoặc video conference (họp trực tuyến)
rất tiện lợi, giúp đẩy nhanh được tốc độ giải quyết vụ việc tranh chấp cho các
bên.
Do có thể thực hiện toàn bộ thủ tục giải quyết tranh chấp qua mạng
internet nên mức phí dịch vụ hòa giải hay trọng tài trực tuyến của các tổ chức
ODR khá thấp so với các phương thức giải quyết tranh chấp truyền thống.

1.2. KHÁI QUÁT VỀ HÒA GIẢI VÀ HÒA GIẢI TRỰC TUYẾN


1.2.1. Khái quát về Hòa giải
1.2.1.1. Khái niệm

Theo Từ điển tiếng Việt, hòa giải là “hành vi thuyết phục các bên đồng ý
chấm dứt xung đột hoặc xích mích một cách ổn thỏa”

Từ định nghĩa này, có thể thấy hòa giải có một số đặc trưng sau:

Một là, hòa giải là một biện pháp giải quyết tranh chấp.

Hai là, hòa giải có bên thứ ba làm bên trung gian giúp cho các bên thỏa
thuận với nhau về giải quyết mâu thuẫn, xích mích, tranh chấp. ðiều này làm cho
hòa giải có sự khác biệt với thương lượng. Người trung gian phải có vị trí ñộc lập
với các bên và hoàn toàn không có lợi ích liên quan ñến tranh chấp. Bên thứ ba
làm trung gian không đại diện cho quyền lợi của bất cứ bên nào và không có
quyền ñưa ra phán quyết.

Ba là, hoà giải trước hết là sự thoả thuận, thể hiện ý chí và quyền ñịnh
ñoạt của chính các bên tranh chấp. Nói cách khác, chủ thể của quan hệ hoà giải
phải chính là các bên tranh chấp. Các thỏa thuận, cam kết từ kết quả của quá trình
hòa giải không có giá trị bắt buộc cưỡng chế thi hành mà phụ thuộc vào thiện chí,
sự tự nguyện của các bên.

Với các đặc trưng trên, có thể hiểu hòa giải là một phương thức giải quyết
tranh chấp với sự giúp đỡ của một bên thứ ba trung lập, làm trung gian, giúp các
bên tranh chấp tự nguyện thỏa thuận giải quyết ñược những bất đồng và đạt được
thỏa thuận phù hợp với pháp luật, đạo đức xã hội và tự nguyện thực hiện những
thỏa thuận đó.

1.2.1.2. Các hình thức hòa giải

Ở nước ta hiện nay có những hình thức hòa giải khác nhau: Hòa giải trong
tố tụng dân sự của Tòa án, Hòa giải trong tố tụng trọng tài, Hòa giải tranh chấp
lao động, Hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và
Hòa giải ở cơ sở.

Hòa giải trong tố tụng dân sự của Tòa án: Hòa giải trong tố tụng dân sự
của Tòa án là thủ tục bắt buộc trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, hôn nhân
và gia ñình, thương mại, lao ñộng, trừ những trường hợp pháp luật quy định
không ñược hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được hoặc vụ án được giải
quyết theo thủ tục rút gọn. Trường hợp các đương sự thống nhất thỏa thuận với
nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì Tòa án lập biên bản hòa giải thành.
Hết thời hạn bảy ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có
ñương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó, thì Thẩm phán chủ trì phiên
hòa giải hoặc một Thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công phải ra quyết
định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Quyết định này có hiệu lực pháp
luật ngay sau khi ñược ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm.

Hòa giải trong tố tụng trọng tài: Trong quá trình giải quyết tranh chấp tại
trọng tài, các bên tranh chấp có thể thương lượng, tự hòa giải hoặc ñề nghị trọng
tài giúp các bên hòa giải. Trọng tài cũng có thể chủ ñộng tự mình tiến hành hòa
giải các bên. Nếu các bên thông qua hòa giải giải quyết được tranh chấp thì có
thể yêu cầu trọng tài viên xác nhận sự thỏa thuận ñó bằng văn bản, lập biên bản
hòa giải thành và công nhận sự thỏa thuận của các bên. Văn bản này có giá trị
như quyết định trọng tài - có hiệu lực thi hành, không bị kháng cáo.

Hòa giải tranh chấp lao động: Hòa giải tranh chấp lao động được Hội
đồng trọng tài lao động hoặc hòa giải viên lao ñộng của cơ quan lao động quận,
huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (hòa giải viên lao động) tiến hành khi có tranh
chấp về quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các điều
kiện lao động khác, về thực hiện hợp đồng lao động, thỏa ước tập thể và trong
quá trình học nghề giữa người lao động với người sử dụng lao động. Thẩm quyền
và trình tự hòa giải tranh chấp lao động được quy định tại Bộ luật Lao động.

Hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn:
Đây là việc hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh
chấp đối với các tranh chấp về ñất đai theo quy định của Luật đất đai năm 2013.
Tại điều 202 Luật đất đai năm 2013 quy ñịnh việc hòa giải tranh chấp đất đai như
sau:

1. Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải
quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở.
2. Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn
đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải.
3. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải
tranh chấp đất đai tại địa phương mình; trong quá trình tổ chức thực hiện
phải phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã và các tổ
chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác. Thủ tục hòa giải
tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã được thực hiện trong thời
hạn không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết
tranh chấp đất đai.
4. Việc hòa giải phải được lập thành biên bản có chữ ký của các bên và có
xác nhận hòa giải thành hoặc hòa giải không thành của Ủy ban nhân dân
cấp xã. Biên bản hòa giải được gửi ñến các bên tranh chấp, lưu tại Ủy ban
nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp.
5. Đối với trường hợp hòa giải thành mà có thay đổi hiện trạng về ranh giới,
người sử dụng ñất thì Ủy ban nhân dân cấp xã gửi biên bản hòa giải ñến
Phòng Tài nguyên và Môi trường ñối với trường hợp tranh chấp đất đai
giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau; gửi đến Sở Tài
nguyên và Môi trường đối với các trường hợp khác.

Hòa giải ở cơ sở: Khác với các loại hình hòa giải nêu trên, hòa giải ở cơ
sở trước hết xuất phát từ đặc điểm lịch sử, truyền thống, tâm lý dân tộc. Ở Việt
Nam, nền kinh tế nông nghiệp lúa nước với nhu cầu làm thủy lợi, đắp đê, chống
lụt, thêm vào ñó là nguy cơ giặc ngoại xâm luôn đe dọa đã khiến cho người Việt
cổ sớm hình thành lối sống cộng ñồng, truyền thống đoàn kết, tương thân, thương
ái. Trong các làng xã cổ truyền, người nông dân quen sống với các mối quan hệ
xóm làng, huyết thống ràng buộc nhau một cách chặt chẽ, do ñó họ rất coi trọng
tình làng, nghĩa xóm, “tối lửa tắt ñèn có nhau”. Nếu có xích mích, mâu thuẫn,
tranh chấp về quyền lợi, nghĩa vụ giữa các thành viên trong gia đình, dòng họ,
hàng xóm láng giềng thì họ chủ trương “đóng cửa bảo nhau”, “chín bỏ làm
mười”, xóa bỏ bất đồng, mâu thuẫn, xây dựng cộng đồng hòa thuận, yên vui,
hạnh phúc. Vì vậy, hòa giải ñược xem là phương án tối ưu ñể giải quyết xích
mích, mâu thuẫn, tranh chấp trong nội bộ nhân dân… Điều 2 Luật Hòa giải ở cơ
sở năm 2013 quy định: “Hòa giải ở cơ sở là việc hòa giải viên hướng dẫn, giúp
đỡ các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các mâu thuẫn,
tranh chấp, vi phạm pháp luật theo quy định của Luật này”. Như vậy, có thể hiểu
rằng, hòa giải ở cơ sở là việc hòa giải viên hướng dẫn, giúp đỡ các bên tranh
chấp đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau những vi phạm pháp
luật nhằm giữ gìn đoàn kết và tranh chấp nhỏ trong nội bộ nhân dân, củng cố
phát huy những tình cảm và đạo lý truyền thống tốt đẹp trong gia ñình và cộng
đồng dân cư, phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật, bảo ñảm trật tự an toàn xã
hội trong cộng đồng dân cư. Hoạt ñộng hòa giải được thông qua các hòa giải viên
ở các tổ hòa giải.

1.2.2. Khái quát về Hòa giải trực tuyến


1.2.2.1. Khái niệm

Theo Ethan Katsh và Janet Rifkin, hòa giải trực tuyến được định nghĩa là
“một phương thức giải quyết tranh chấp mà ở đó tranh chấp giữa các bên được
giải quyết một phần hoặc toàn bộ trực tuyến bởi một bên thứ ba là hòa giải viên
nhằm đạt được một thỏa thuận chung.” Như vậy, hòa giải trực tuyến vẫn mang
đặc điểm cơ bản của phương thức hòa giải, chính là việc giải quyết tranh chấp
giữa các bên thông qua một bên thứ ba. Tuy nhiên, khác với hòa giải truyền
thống, một phần hoặc toàn bộ quy trình hòa giải sẽ được tiến hành thông qua
cách thức trực tuyến. Do đó, sự phát triển của hòa giải trực tuyến gắn liền với sự
phát triển và hiện đại hóa của các giải pháp công nghệ. Từ những nền tảng cho
phép trao đổi email trong quá trình hòa giải, cho tới những nền tảng cho phép
tiến hành hòa giải hoàn toàn trực tuyến, yếu tố công nghệ giúp hòa giải được thực
hiện ngày càng dễ dàng hơn mà không làm mất đi bản chất của phương thức giải
quyết tranh chấp này.
1.2.2.2. Loại tranh chấp được giải quyết bằng hòa giải trực tuyến

Việc sử dụng các yếu tố công nghệ khiến hòa giải trực tuyến phù hợp với
các tranh chấp giữa các bên không có khả năng, bị hạn chế khả năng hoặc không
thích gặp gỡ trực tiếp. Bên cạnh đó, hòa giải trực tuyến phù hợp với các tranh
chấp mà ở đó quyền lực của các bên tranh chấp không có sự chênh lệch quá lớn.
Hiện nay, hòa giải trực tuyến được sử dụng trong nhiều loại tranh chấp, như tranh
chấp về mua bán hàng hóa, bảo hiểm, xây dựng, cho thuê mặt bằng, … Đặc biệt,
hòa giải trực tuyến phổ biến trong thương mại điện tử (bao gồm TMĐT ở các
hình thức B2C, C2C, B2B …) do thương nhân hoạt động TMĐT thường là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
THƯƠNG MẠI QUA HOÀ GIẢI VÀ HOÀ GIẢI TRỰC TUYẾN
2.1. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI
THƯƠNG MẠI TẠI TỔ CHỨC HÒA GIẢI THƯƠNG MẠI

Phương thức giải quyết tranh chấp bằng hoà giải thương mại có tính
chuyên nghiệp đã được quy định tại một số văn bản pháp luật, như Bộ luật Hàng
hải, Luật Thương mại, Bộ luật Lao động, Luật Đất đai, Luật Bảo vệ người tiêu
dùng…Hiện nay, khuôn khổ pháp lý về hoà giải thương mại tại tổ chức hoà giải
thương mại ở Việt Nam được xây dựng tương đối đầy đủ. Qua đó, một cơ chế
giải quyết tranh chấp hoà bình, thân thiện và nhanh chóng được hình thành.

2.1.1. Quy định pháp luật về hòa giải trực tuyến

2.1.1.1. Quy định pháp luật về dân sự, thương mại

Tại Việt Nam, các luật liên quan đến doanh nghiệp, thương mại, người
tiêu dùng đã có những quy định khuyến khích các bên liên quan lựa chọn các
phương thức ADR, trong đó có hòa giải, khi giải quyết tranh chấp. Quy định của
pháp luật dân sự không hạn chế phương thức xác lập giao dịch và giải quyết
tranh chấp (bao gồm cả các phương thức trực tuyến).

Các văn bản Luật Giao dịch điện tử 2005, Luật Công nghệ thông tin 2006
và nhiều văn bản dưới luật đã góp phần tạo nền tảng pháp lý cho việc ứng dụng
công nghệ trong giải quyết tranh chấp, trong đó có hòa giải trực tuyến. Luật Giao
dịch điện tử 2005 đã đưa ra các quy định cụ thể về thông điệp điện tử, chữ ký
điện tử, tạo ra cơ sở pháp lý cho việc sử dụng phương tiện điện tử trong giao dịch
dân sự và kinh doanh thương mại. Các Nghị định 52/2013/NĐ-CP về TMĐT,
Nghị định 130/2018/NĐ-CP về chữ ký số về dịch chứng thực chữ ký số, Nghị
định 72/2013/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và cung cấp
thông tin điện tử trên Internet cũng góp phần tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động giải
quyết tranh chấp thương mại trực tuyến.

2.1.1.2. Quy định pháp luật về hòa giải thương mại


Hiện nay, Nghị định 22/2017/NĐ-CP về hòa giải thương mại là văn bản
quy định cụ thể về hoạt động hòa giải thương mại. Theo Nghị định này, 03
nguyên tắc cần tuân thủ khi giải quyết tranh chấp bằng hòa giải bao gồm:

(i) Tự nguyện và bình đẳng;

(ii) Giữ bí mật về vụ việc hòa giải và

(iii) Nội dung thỏa thuận hòa giải không vi phạm điều cấm của pháp luật,
không trái đạo đức, xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ, không xâm phạm
quyền của bên thứ ba.

Các nguyên tắc này phù hợp với các điều kiện công nhận kết quả hòa giải
thành ngoài tòa án theo Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 và các nguyên tắc thực hiện
hòa giải để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo Luật Bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng 2010.

Về phương thức tiến hành hòa giải, Nghị định 22/2017/NĐ-CP không
quy định cụ thể về hoạt động hòa giải trực tuyến và không hạn chế phương thức
giao tiếp, liên lạc giữa các bên. Đồng thời, theo Nghị định này, các bên và hòa
giải viên được quyền lựa chọn trình tự, thủ tục hòa giải, địa điểm, thời gian tiến
hành hòa giải. Vì vậy, các bên và hòa giải viên được phép lựa chọn phương thức
trực tuyến để tiến hành hòa giải, với điều kiện phải đảm bảo quy trình này tuân
thủ 03 nguyên tắc được quy định tại Điều 4.

Sau khi tiến hành hòa giải trực tuyến, các bên cũng cần quan tâm tới các
quy định liên quan đến văn bản về kết quả hòa giải thành. Theo Điều 15, khoản
3, văn bản về kết quả hòa giải thành phải có chữ ký của các bên và hòa giải viên
thương mại. Đồng thời, các nguyên tắc quy định tại Điều 4 cũng có thể được Tòa
án xem xét khi các bên yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành.

2.1.2. Quy định về tổ chức hòa giải thương mại.

Thứ nhất, thành lập Trung tâm hoà giải thương mại: Theo pháp luật hiện
hành, việc thành lập trung tâm hoà giải được quy định “Công dân Việt Nam có
đủ tiêu chuẩn hòa giải viên thương mại quy định tại Khoản 1 Điều 7 Nghị định
này muốn thành lập Trung tâm hòa giải thương mại gửi 01 bộ hồ sơ đến Bộ Tư
pháp Trung tâm hoà giải thương mại được thành lập nên bởi cá nhân là công dân
Việt Nam có đủ tiêu chuẩn hoà giải viên thương mại theo quy định pháp luật”
(Khoản 1 Điều 21 Nghị định 22/2017/NĐ-CP).

Thứ hai, đăng ký hoạt động hoà giải thương mại của Trung tâm trọng tài:
Về việc đăng ký bổ sung hoạt động hoà giải thương mại, Trung tâm trọng tài cần
chuẩn bị hồ sơ bao gồm: Giấy đề nghị bổ sung hoạt động hoà giải thương mại
theo mẫu số 03/TP-HGTM ban hành kèm theo Thông tư số 02/2018/TT-BTP, dự
thảo Quy tắc hoà giải của Trung tâm. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hồ
sơ hợp lệ, Bộ Tư pháp ra quyết định bổ sung hoạt động hoà giải cho Trung tâm
trọng tài, nếu từ chối thì phải thông báo lý do bằng văn bản.

Thứ ba, quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ chức hoà giải thương mại:
Tổ chức hòa giải thương mại có một số những quyền cơ bản như sau:

Một là, quyền cung cấp dịch vụ hoà giải. Hoạt động cung cấp dịch vụ hoà
giải bao gồm việc tiếp nhận vụ việc đến việc sắp xếp để tiến hành giải quyết
tranh chấp như hỗ trợ chỉ định hoà giải viên theo yêu cầu của các bên.

Hai là, quyền thực hiện các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ liên quan
đến hoà giải thương mại.

Ba là, quyền đối với hoà giải viên thương mại thuộc tổ chức mình.

Về nghĩa vụ, tổ chức hoà giải thương mại có các nghĩa vụ cơ bản sau:

Một là, nghĩa vụ đối với các bên tranh chấp. Nghị định 22/2017/NĐ-CP
không tập trung quy định nghĩa vụ của tổ chức hoà giải đối với các bên tranh
chấp, mà chủ yếu sẽ được căn cứ vào Quy tắc hoà giải và thoả thuận hợp đồng
với các bên.

Hai là, nghĩa vụ đối với hoà giải viên thương mại. Tổ chức hoà giải có
trách nhiệm trả thù lao và các chi phí khác cho hòa giải viên thương mại.

Ba là, một số nghĩa vụ khác về mặt chuyên môn trong hoạt động cung cấp
dịch vụ hoà giải thương mại. Tổ chức hoà giải thương mại cần ban hành quy tắc
đạo đức và ứng xử của hòa giải viên thương mại; xây dựng, ban hành và công bố
công khai Quy tắc hòa giải, mức thù lao hòa giải.
Bốn là, một số nghĩa vụ nhằm phục vụ hoạt động quản lý hành chính Nhà
nước.

2.1.3. Quy định về hoà giải viên:

Hoà giải viên thương mại là cá nhân trực tiếp thực hiện việc giải quyết
tranh chấp hợp đồng KDTM bằng phương pháp hoà giải.

Tiêu chuẩn hành nghề hoà giải viên thương mại: Pháp luật Việt Nam hiện
nay áp dụng cả hai loại tiêu chuẩn định lượng và định tính cho việc hành nghề
của hoà giải viên. Về tiêu chuẩn định lượng, hoà giải viên phải là người có đầy
đủ năng lực hành vi dân sự, có trình độ đại học trở lên và đã qua thời gian công
tác trong lĩnh vực được đào tạo từ 02 năm trở lên.

2.1.4. Quy định pháp luật về trình tự, thủ tục hoà giải trực tuyến:

Hiện nay, Nghị định 22/2017/NĐ-CP về hòa giải thương mại là văn bản
quy định cụ thể về hoạt động hòa giải thương mại.

Thứ nhất, các bên tranh chấp lựa chọn/chỉ định hoà giải viên và xác định
quy tắc hoà giải. Nghị định 22/2017 về hoà giải thương mại đã xác định hoà giải
viên thương mại (chủ thể giải quyết tranh chấp) bao gồm hoà giải viên thương
mại vụ việc và hoà giải viên thương mại của tổ chức hoà giải thương mại.

Thứ hai, trình tự, và thủ tục tiến hành hoà giải trực tuyến. Như đã phân
tích ở trên, pháp luật hiện hành của Việt Nam không có các quy định cụ thể điều
chỉnh trình tự thủ tục tiến hành hoà giải trực tuyến.

Thứ ba, kết thúc hoà giải. Quá trình hoà giải thương mại có thể được kết
thúc trong những trường hợp sau:

(i) Khi các bên đạt được kết quả hoà giải thành;

(ii) Khi hoà giải viên, sau khi tham khảo ý kiến các bên, tuyên bố rằng
theo ý kiến của hoà giải viên thì việc tiếp tục thủ tục hoà giải trực tuyến không có
khả năng đạt được kết quả;

(iii) Khi một hoặc các bên thông báo tới hoà giải viên rằng bên đó muốn
chấm dứt hoà giải;
(iv) Khi bên được yêu cầu hoà giải từ chối tiến hành hoà giải hoặc không
gửi Bản trả lời tới Tổ chức HGTM trong thời hạn mà Tổ chức HGTM ấn định .

Như vậy, chủ thể đề xuất là việc chấm dứt hoà giải có thể là một trong
các bên, tất cả các bên trong quan hệ hoà giải thương mại. Kết quả các bên đạt
được có thể là giải quyết thành công hoặc không thành công vụ tranh chấp.

2.1.5. Quy định pháp luật về thực hiện kết quả hoà giải trực tuyến

Sau khi tiến hành hòa giải trực tuyến, các bên cũng cần quan tâm tới các
quy định liên quan đến văn bản về kết quả hòa giải thành. Theo Điều 15, khoản
3, văn bản về kết quả hòa giải thành phải có chữ ký của các bên và hòa giải viên
thương mại. Đồng thời, các nguyên tắc quy định tại Điều 4 cũng có thể được Tòa
án xem xét khi các bên yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành.

2.1.6. Quy định pháp luật về phạm vi giải quyết tranh chấp bằng hòa giải
thương mại tại tổ chức hòa giải thương mại

Tranh chấp thương mại giữa các bên muốn lựa chọn hoà giải tại tổ chức
hoà giải thương mại trước hết phải thuộc một trong các trường hợp quy định tại
Điều 2 Nghị định số 22/2017/NĐ-CP. như sau: Tranh chấp giữa các bên phát
sinh từ hoạt động thương mại; Tranh chấp giữa các bên trong đó ít nhất một bên
có hoạt động thương mại; Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định
được giải quyết bằng hòa giải thương mại.

Điều kiện tiên quyết thứ hai để một tranh chấp thương mại được giải quyết
thông qua tổ chức hòa giải thương mại được quy định tại Điều 6, Điều 11 Nghị
định 22/2017/NĐ-CP, đó là các bên phải có thoả thuận hoà giải.

2.1.7. Quy định pháp luật về trình tự, thủ tục hòa giải thương mại tại tổ
chức hòa giải thương mại

Được quy định tại các điều từ Điều 11 đến Điều 19 Nghị định
22/2017/NĐCP về hòa giải thương mại. Nhìn chung, pháp luật Việt Nam không
cứng nhắc trong trình tự, các bước tiến hành phương thức giải quyết tranh chấp
này.
2.1.8. Quy định pháp luật về chế độ bảo mật trong hòa giải thương mại tại
tổ chức hòa giải thương mại

Được luật hoá rõ ràng theo Khoản 2 Điều 4, Điểm c Khoản 2 Điều 9 Nghị
định 22/2017/NĐ-CP, thể hiện ở hai khía cạnh chủ đạo: (i) cơ chế hoà giải phải
đảm bảo bí mật thông tin vụ việc với bên thứ ba; (ii) tổ chức hoà giải thương mại
phải đảm bảo bí mật về quan điểm xử lý tranh chấp của mỗi bên và không được
tiết lộ cho bên kia.

2.1.9. Quy định pháp luật về thực hiện kết quả hòa giải thương mại tại tổ
chức hòa giải thương mại

Pháp luật hiện hành chỉ quy định trường hợp các bên hoà giải thành tại tổ
chức hoà giải thương mại thì phải tiến hành lập văn bản để ghi nhận kết quả
(Điều 15 Nghị định 22/2017/NĐ-CP). Để bảo đảm rằng mỗi bên sẽ thực hiện
nghĩa vụ của mình theo kết quả hòa giải thành, các bên cũng có thể yêu cầu Tòa
10 án công nhận theo quy định tại Chương XXXIII Bộ Luật tố tụng dân sự năm
2015, từ Điều 416 đến Điều 419.

2.2. THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI THƯƠNG
MẠI TẠI TỔ CHỨC HÒA GIẢI THƯƠNG MẠI

Theo số liệu thống kê mới nhất, Việt Nam hiện đã có 22 tổ chức hòa giải
thương mại, trong đó 15 trung tâm hòa giải thương mại và 7 trung tâm trọng tài
thực hiện chức năng hòa giải. Số lượng hòa giải viên tại Việt Nam là hơn 100
người. Tuy nhiên, nhìn chung số lượng vụ việc tranh chấp được giải quyết thông
qua hoà giải thương mại tại tổ chức hoà giải thương mại còn rất thấp, chỉ chiếm
gần 1% số vụ việc tranh chấp được giải quyết tại Toà án. Sự phát triển của tổ
chức hòa giải thương mại hiện nay mới chỉ dừng lại ở mức độ tiềm năng, chưa
tương xứng với số lượng các tranh chấp có thể phát sinh.

2.2.1. Những kết quả đạt được trong quá trình thực hiện pháp luật về hòa
giải thương mại tại tổ chức hòa giải thương mại
Thứ nhất, các vấn đề pháp lý về hoà giải thương mại; tư cách và địa vị
pháp lý của tổ chức hoà giải thương mại được ghi nhận rõ ràng, thống nhất; là
bàn đạp để các tổ chức hoà giải thương mại hình thành và phát triển.

Thứ hai, mở ra một kênh mới trong việc dung hoà quan hệ lợi ích giữa các
bên tranh chấp.

Thứ ba, đa dạng hoá phương thức giải quyết tranh chấp ngoài toà án và
trọng tài.

Thứ tư, quá trình thực thi pháp luật về hoà giải thương mại tại tổ chức
hoà giải thương mại thúc đẩy các tổ chức này phải vận động và hoàn thiện
hơn nữa để nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng.

Thứ năm, quản lý nhà nước về hoà giải thương mại nói chung và tổ
chức hoà giải thương mại nói riêng được tăng cường, chặt chẽ và có hiệu lực,
hiệu quả

2.2.2. Những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện pháp luật về
hòa giải thương mại tại tổ chức hòa giải thương mại

Thứ nhất, hòa giải viên tại các tổ chức hoà giải thương mại chưa đáp
ứng đủ về tiêu chí chuyên môn và nghiệp vụ hòa giải khiến việc kiểm soát
chất lượng còn chưa đồng đều, chưa được đào tạo bài bản.

Thứ hai, quy định hiện tại về thủ tục hoà giải vẫn được coi là “mở”,
điều này có thể là ưu điểm khi tạo nên cơ chế linh hoạt, chủ động, tiết kiệm
thời gian nhưng cũng cho thấy sự thiếu chuyên nghiệp và đôi khi gây ra lúng
túng khi áp dụng.

Thứ ba, pháp luật hiện hành giao cho Nhà nước chủ yếu giữ vai trò kiểm
soát và công nhận tư cách pháp lý cho các tổ chức hoà giải thương mại mà
chưa rõ vai trò thúc đẩy bằng cách ban hành các chính sách khuyến khích.
Việc thừa nhận hai loại hình tổ chức hoà giải thương mại làm hạn chế hoạt
động hoà giải của các tổ chức khác trong xã hội.

Thứ tư, một trong những ưu điểm vượt trội của hoà giải so với các phương
pháp giải quyết tranh chấp thay thế khác là nhanh chóng, tiết kiệm thời gian.
Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện tại, do không có cơ chế ràng buộc của
pháp luật nên chỉ có duy nhất VICMC là trung tâm công khai áp dụng cơ chế hoà
giải ấn định thời gian giải quyết ngắn, mức phí thấp phù hợp với thời gian hoà
giải. Còn những tổ chức hoà giải thương mại khác mới chỉ dừng lại ở mức
phương châm, khẩu hiệu. Pháp luật nước ta đã có những chế định riêng để đảm
bảo khả năng thực thi kết quả hoà giải tại tổ chức hoà giải thương mại nhưng lại
không có quy định cụ thể về thời gian công nhận cho thi hành thoả thuận cũng
như công tác thi hành án.

Thứ năm, quyền và nghĩa vụ của tổ chức hoà giải thương mại chưa được
nghiên cứu và luật hoá một cách toàn diện, phổ quát. Việc pháp luật không quy
định rõ ràng ảnh hưởng tới quyền của tổ chức hoà giải thương mại, đặc biệt là
vấn đề thu thù lao và các khoản thu hợp pháp khác. Nghị định 22/2017/NĐ-CP
không tập trung quy định nghĩa vụ của tổ chức hoà giải đối với các bên tranh
chấp, mà chủ yếu sẽ được căn cứ vào Quy tắc hoà giải và thoả thuận hợp đồng
với các bên. Pháp luật chỉ quy định quyền và nghĩa vụ của tổ chức hòa giải
thương mại, chưa có những quy định về chế tài khi tổ chức hoà giải thương mại
vi phạm quy định của hòa giải.

Thứ sáu, theo pháp luật hiện hành, để thành lập được trung tâm hoà giải thì
người nộp hồ sơ phải là công dân Việt Nam, đáp ứng các tiêu chuẩn để trở thành
hoà giải viên thương mại. Quy định này của pháp luật đã triệt tiêu, giới hạn tư
cách chủ thể thành lập các tổ chức hoà giải thương mại.

Thứ bảy, về thủ tục xin cấp phép thành lập trung tâm hoà giải thương mại,
quy định hiện hành của Nhà nước không chỉ rõ cơ sở cho việc xem xét hồ sơ để
ra quyết định đồng ý hay không đồng ý thành lập Trung tâm hoà giải thương
mại, đây sẽ là một điểm gây rủi ro cho quá trình thành lập Trung tâm hoà giải
trong thực tế.

Thứ tám, nguyên tắc bảo đảm bí mật trong quá trình hoà giải được coi là
nguyên tắc cốt lõi. Tuy nhiên, chỉ có một vài trung tâm hoà giải và trung tâm
trọng tài có đề cao nguyên tắc này như quy tắc hoà giải của VICMC hay VMC.
Để củng cố được chế định bảo đảm bí mật này, pháp luật về xử phạt hành chính
cũng cần phải bổ sung nội dung bảo mật trong hoạt động hoà giải.

2.2.3. Nguyên nhân của những vướng mắc trong quá trình thực hiện pháp
luật về hòa giải thương mại tại tổ chức hòa giải thương mại

Nhận thức về vai trò của tổ chức hòa giải thương mại còn hạn chế: Các
bên tranh chấp chưa biết nhiều về hoạt động của các tổ chức hòa giải thương
mại, chưa hiểu hết về ý nghĩa của phương thức giải quyết tranh chấp này. Phần
lớn cá nhân, tổ chức chưa coi hòa giải thương mại là một hoạt động dịch vụ giải
quyết tranh chấp chuyên nghiệp nên chưa sử dụng rộng rãi.

Chính sách tuyên truyền hạn chế: Công tác phổ biến pháp luật không nhận
được nhiều sự quan tâm của chính quyền, do vậy mà thực tế là sự hiểu biết của
người dân về pháp luật rất hạn chế, chỉ trừ những vấn đề phải tiếp xúc hàng
ngày, đặc biệt là pháp luật trong các lĩnh vực đặc thù.

Pháp luật về hoà giải thương mại tại tổ chức hòa giải thương mại khá mới
và còn nhiều điểm bất cập: Tại Việt Nam, mặc dù hòa giải là phương thức giải
quyết tranh chấp có truyền thống lâu đời dựa trên tâm lý “Một bồ cái lý không
bằng một tý cái tình” từ xa xưa nhưng khung pháp lý về hòa giải thương mại nói
chung và tổ chức hòa giải thương mại nói riêng lại ra đời khá muộn. Phải đến khi
Nghị định số 22/2017/NĐ-CP được ban hành, cơ sở pháp lý cho việc đa dạng
hóa cơ chế giải quyết tranh chấp mới hình thành. Mặt khác, khung pháp lý của
hòa giải còn tồn tại một số bất cập, đã ảnh hưởng đến chất lượng hòa giải và gây
ra khó khăn cho các chủ thể tham gia quy trình hòa giải. Chính vì vậy cần đặt ra
giải pháp hoàn thiện khung pháp lý nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ
chức hòa giải thương mại để phương thức này thực sự phát triển đúng với tiềm
năng của nó.

2.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT


2.3.1. Một số hạn chế của giải quyết tranh chấp trực tuyến tại Việt Nam

Xét về bản chất pháp lý, có thể sử dụng các phương thức giải quyết tranh
chấp được quy định trong Luật Thương mại 2005 để giải quyết các tranh chấp
phát sinh trong hoạt động thương mại điện tử. Tuy nhiên, do có các đặc trưng
của thương mại điện tử khác với thương mại truyền thống mà quá trình giải
quyết tranh chấp phát sinh trong thương mại điện tử hiện nay gặp phải một số
hạn chế nhất định.

Thứ nhất, việc giải quyết tranh chấp trực tuyến trong thương mại điện tử
đã dần trở nên phổ biến ở các nước. Ở Việt Nam, mới chỉ có phương thức tòa án
là có các hướng dẫn để mở phiên tòa trực tuyến còn các phương thức khác như
trọng tài thương mại, hòa giải thương mại thì hoàn toàn chưa có các quy định cụ
thể về việc giải quyết tranh chấp trực tuyến. Điều này đã gây khó khăn cho các
bên chủ thể muốn tiến hành giải quyết tranh chấp trong thương mại điện tử của
mình theo hình thức trực tuyến.

Thứ hai, hạn chế về giải quyết tranh chấp tên miền. Đối với các doanh
nghiệp thương mại điện tử, tên miền đã trở thành công cụ để nhận diện đặc biệt
quan trọng nó không chỉ đơn thuần là công cụ để nhận diện doanh nghiệp mà
còn là tài sản có giá trị đến hàng triệu USD. Chính vì vậy, pháp luật cần có các
quy định cụ thể để tránh có sự nhầm lẫn hoặc trùng lặp tên miền của các doanh
nghiệp. Ngoài ra, pháp luật cần có các quy định để xử lý các tranh chấp liên
quan đến hiện tượng “chiếm dụng tên miền” (cybersquatting) đang có xu hướng
xảy ra ngày càng nhiều, đặc biệt là đối với các thương hiệu nổi tiếng, có giá trị
lớn.

Thứ ba, hạn chế của pháp luật liên quan đến chứng cứ. Mặc dù pháp luật
Việt Nam có quy định thông điệp dữ liệu có giá trị làm chứng cứ nhưng giá trị
chứng cứ của thông điệp dữ liệu lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như:
độ tin cậy của cách thức khởi tạo, lưu trữ hoặc truyền gửi thông điệp dữ liệu;
cách thức bảo đảm và duy trì tính toàn vẹn của thông điệp dữ liệu; cách thức xác
định người khởi tạo. Trong khi đó, pháp luật của Việt Nam chưa có quy định cụ
thể để xác định giá trị pháp lý của các thông điệp dữ liệu (được sử dụng làm
chứng cứ) khác nhau cũng như giữa thông điệp dữ liệu và các chứng cứ truyền
thống khác. Ngoài ra, pháp luật của Việt Nam cũng chưa có quy định cụ thể liên
quan đến việc thu thập chứng cứ trong thương mại điện tử mặc dù chứng cứ
trong thương mại điện tử có sự khác biệt với chứng cứ trong thương mại truyền
thống.

2.3.2. Đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về hòa giải trực tuyến
trong giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại

Thứ nhất, quy định về hòa giải viên: Hiện nay, quy định của Nghị định
22/2017 về tiêu chuẩn hoà giải viên đã có sự kết hợp giữa yếu tố định tính (phẩm
chất đạo đức, uy tín, độc lập, vô tư, khách quan, có kỹ năng, hiểu biết…) và định
lượng (trình độ đại học trở lên, qua thời gian công tác trong lĩnh vực được đào
tạo từ 02 năm trở lên).

Thứ hai, quy về tổ chức hòa giải thương mại:

Một là, vấn đề xóa tên hòa giải viên: Hiện nay, quy định về việc “xoá
tên” hoà giải viên được quy định khá tản mát tại các điều luật khác nhau và chưa
có sự thống nhất giữa hoà giải viên của Trung tâm hoà giải và hòa giải viên trực
tuyến.

Hai là, quy định về việc thu hồi Giấy phép thành lập, Giấy đăng ký hoạt
động của Trung tâm hoặc chi nhánh của Trung tâm nếu như vi phạm hành chính
mà tái phạm.

Thứ ba, quy định trình tự, thủ tục hòa giải trực tuyến:

Một là, thỏa thuận hòa giải trực tuyến: Khi giải quyết tranh chấp bằng hòa
giải trực tuyến, thỏa thuận hòa giải giữa các bên cũng có thể được giao kết trực
tuyến. Tuy nhiên, Nghị định 22/2017 của Việt Nam hiện nay quy định cứng”
rằng Thỏa thuận hòa giải được xác lập bằng văn bản.

Hai là, liên quan đến việc gửi tài liệu, thông báo hòa giải viên chỉ dựa trên
nền tảng trực tuyến

Thứ tư, quy định về kết quả hoà giải thành:

Một là, hình thức xác lập kết quả hòa giải thành: Theo quy định của Nghị
định 22 thì hình thức của kết quả hoà giải thành phải lập thành văn bản có chữ
ký của các bên và hoà giải viên thương mại.
Hai là, công nhận thỏa thuận hòa giải thành Hiện nay, Nghị định 22
không trực tiếp quy định về thủ tục công nhận thoả thuận hoà giải thành, mà dẫn
chiếu tới BLTTDS. Tuy nhiên, những điều kiện để một thoả thuận hoà giải được
công nhận bởi Toà án theo Điều 417 BLTTDS năm 2015 không có nhiều sự liên
hệ tới những quy định của Nghị định 22.
CHƯƠNG 3: VÍ DỤ THỰC TIỄN
● Tranh chấp trong hợp đồng thuê nhà

- Người thuê: công ty A - thuê nhà nguyên căn để sử dụng làm địa điểm kinh
doanh là trường học

- Người cho thuê: hai vợ chồng anh B và chị C

Trong thời điểm COVID - 19 diễn ra, công ty A đã chưa trả tiền thuê nhà
trong 2 tháng là tháng 4 và tháng 5, dẫn đến việc tranh chấp diễn ra trong hợp
đồng. Công ty A đề nghị lựa chọn phương án hòa giải tại Trung tâm hòa giải
tranh chấp thương mại Quốc tế Việt Nam VICMC để giải quyết tranh chấp.

● Tham gia phiên hòa giải

- Người thuê: chị D, phó giám đốc công ty A và luật sư

- Người cho thuê: anh B

- Hòa giải viên: hòa giải viên của VICMC, do bên A lựa chọn

Phiên hòa giải bao gồm các phiên họp chung với các bên và phiên họp
riêng giữa hòa giải viên với từng bên

● Phiên họp chung 1

- Hòa giải viên trình bày về quy trình hòa giải:


 Bao gồm phiên họp chung và các phiên họp riêng với từng bên trong thời
gian như nhau.
 Nguyên tắc bảo mật: mọi thông tin trong các phiên họp đều sẽ được bảo
mật và không bị chia sẻ ra ngoài nếu chưa có sự cho phép của các bên, kể
cả thông tin trong phiên họp riêng.

Hai bên nhất trí với quy trình này.

- Hai bên đưa ra quan điểm ban đầu của mình.


 Anh B trình bày công ty A đã vi phạm hợp đồng khi đã chậm thanh toán 2
tháng tiền thuê nhà
 Công ty A trình bày:
○ Ảnh hưởng của dịch COVID - 19, tình hình kinh doanh khó khăn, học
sinh không thể đi học

○ Giá thuê nhà không thay đổi, trong khi có nhiều nơi thực hiện giảm giá
tiền thuê nhà

○ Chị C thường xuyên có hành động phàn nàn về công ty A trong quá trình
sử dụng căn nhà, ảnh hưởng đến việc kinh doanh và uy tín của bên A

● Phiên họp riêng 1 giữa hòa giải viên và công ty A:

- Bên A trình bày về việc chị C thường xuyên phàn nàn, nói xấu về công ty
A trong khu dân cư, làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh và uy tín
của công ty A.
- Bên A thể hiện mong muốn hòa giải và mong muốn tiếp tục thuê nhà của
anh B chị C, vì vấn đề COVID - 19 là vượt ngoài khả năng kiểm soát.
- Bên A không mong muốn 2 bên phải ra tòa và chịu thiệt hại.
- Bên A mong muốn chị C xem xét giảm giá thuê, vì nhiều nơi khác đã giảm
40-50% tiền thuê nhà

● Phiên họp riêng 2 giữa hòa giải viên và anh B:

- Hòa giải viên nói về mong muốn hòa giải và tiếp tục hợp tác của bên A
- Anh B sẵn sàng chấp nhận nhưng phải thanh toán đầy đủ tiền thuê và chị
D phải xem xét lại thái độ và cần có sự tôn trọng trong giao tiếp với anh B
và chị C để hạn chế việc 2 bên lời qua tiếng lại
- Anh B đưa ra 2 phương án
 Tiếp tục cho thuê nhà nếu đại diện chị D điều chỉnh lại thái độ, hoàn thiện
số tiền thuê chậm nộp, đồng thời xem xét giảm 5 - 10% tiền nhà và có thể
cho phép chậm tiền thuê
 Anh B không cho thuê nhà nữa, lấy tiền cọc, đơn phương chấm dứt hợp
đồng

● Phiên họp riêng 3 giữa hòa giải viên và công ty A:


- Hòa giải viên bày tỏ mong muốn anh B, chị C sẵn sàng tiếp tục cho thuê
nhà, giảm tiền thuê nhà nếu chị D có thái độ làm việc tôn trọng hơn, ôn
hòa hơn
- Chị D khẳng định mình bị chị C làm phiền liên tục, ảnh hưởng đến hoạt
động của trường học, dù chị D thuê nhà nguyên căn
- Chị D đưa ra 3 phương án:

+ Giảm 40-50% tiền thuê trong thời điểm dịch, giảm 25% sau thời điểm
dịch

+ Nếu không giảm tiền thuê, hợp đồng sẽ chấm dứt, yêu cầu anh B chị C
trả lại cọc và 70% số tiền đầu tư ban đầu vào ngôi nhà để đền bù

+ Chị C sẽ khởi kiện ra tòa, yêu cầu hợp đồng thuê nhà vô hiệu

● Phiên họp riêng 4 giữa hòa giải viên và anh B:

- Hòa giải viên thể hiện mong muốn của công ty A sẽ tiếp tục thuê nhà, sẵn
sàng thay đổi thái độ, tuy nhiên mong muốn chị C cho họ toàn quyền sử
dụng nhà
- Anh B đồng ý, cho phép chậm trả tiền thuê trong tháng 6 hoặc lâu hơn,
tùy vào tình hình dịch

● Phiên họp chung 2

- Hòa giải viên thông báo 2 bên đều có thiện chí tiếp tục thuê nhà,
- Hòa giải viên thông báo anh B sẵn sàng giảm 30% tiền nhà trong dịch,
giảm 10 - 15% sau dịch, và khẳng định chị C sẽ không đến làm phiền hoạt
động kinh doanh của công ty A
- Công ty A đang trong giai đoạn đầu tư ở khu vực này, cùng với ảnh hưởng
dịch COVID nên chưa có lợi nhuận, mong muốn anh B giảm thêm
- Anh B và chị C không đồng ý chỉ có nguồn thu nhập duy nhất từ việc cho
thuê nhà, trong khi công ty A có nhiều nguồn thu từ các cơ sở khác nhau
- Hòa giải viên mong muốn 2 bên xem xét yêu cầu, đề nghị của đối phương
- Anh B sau khi thảo luận lại với chị C đưa ra phương án cuối cùng là giảm
30% tiền nhà trong dịch, giảm 15 - 20% sau dịch,
- Công ty A đồng ý và mong muốn được toàn quyền sử dụng căn nhà mà
không có sự can thiệp của chị C. Anh B đồng ý với yêu cầu này
- Luật sư bên A soạn thảo biên bản hòa giải thành, VICMC hỗ trợ nhằm
đảm bảo sự công bằng trong việc các bên lập biên bản hòa giải thành. Sau
đó biên bản sẽ được gửi tới Tòa án để được công nhận có hiệu lực thi
hành.
CHƯƠNG 4: ĐỊNH HƯỚNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP THƯƠNG MẠI QUA HOÀ GIẢI VÀ HOÀ GIẢI TRỰC
TUYẾN.
4.1. ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN NGHỊ ĐỊNH SỐ 22/2017/NĐ-CP VỀ
HÒA GIẢI THƯƠNG MẠI.

Với Nghị định 22, HGTM đã chính thức được thể chế hóa tại Việt Nam.
Nghị định này gồm 6 Chương, 44 Điều, quy định khá toàn diện về HGTM. Về cơ
bản, Nghị định 22 đáp ứng các nhu cầu cần thiết về khung pháp lý mà phương
thức GQTC này đặt ra, bao gồm các quy định về nguyên tắc hòa giải, trình tự,
thủ tục hòa giải, tiêu chuẩn hòa giải viên, tổ chức HGTM,...

Tuy vậy, Nghị định 22 vẫn chưa bao quát vấn đề thi hành thỏa thuận hòa
giải (TTHG) thành. Khi các bên đã tham gia vào quá trình hòa giải và đạt được
TTHG thành thì việc thỏa thuận này có được thực hiện hay không còn tùy thuộc
vào sự tự nguyện của bên phải thi hành. Trong tình huống đó, nếu bên phải thi
hành không tự nguyện thi hành thì bên còn lại cần phải có một quyết định công
nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án để đảm bảo cho TTHG thành đó được
thực thi như một bản án[16]. Tuy nhiên, vấn đề này không được Nghị định 22
nhắc đến, mà được đề cập tại BLTTDS. Đây là cơ sở cho phép hoạt động hòa
giải được diễn ra một cách hiệu quả và đúng với tinh thần của một phương thức
GQTC độc lập. Mặt khác, đối với các tranh chấp thương mại quốc tế được giải
quyết bằng con đường hòa giải, cả BLTTDS và Nghị định 22 vẫn chưa có một
điều khoản nào quy định về việc công nhận và cho thi hành TTHG thành mang
tính quốc tế.

Bên cạnh đó, cũng cần phải bàn thêm rằng, với sự phát triển ngày càng
mạnh mẽ của HGTM, việc xây dựng khung pháp lý riêng biệt với duy nhất một
văn bản dưới luật cho phương thức GQTC này là giải pháp mang tính tạm thời và
chưa thực sự tương xứng với tiềm năng phát triển của nó. Trong tương lai, cùng
với quá trình hòa nhập vào cộng đồng HGTM quốc tế, khuôn khổ pháp lý dành
riêng cho phương thức GQTC này phải càng được hoàn thiện hơn, nâng cao uy
tín và sự hiệu quả của HGTM cũng như nhận thức và niềm tin của xã hội về
HGTM khi lựa chọn phương thức GQTC.

4.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
HÒA GIẢI TRỰC TUYẾN
4.2.1. Đầu tư, và nâng cấp hạ tầng công nghệ cho việc giải quyết tranh chấp
thương mại bằng phương thức hòa giải trực tuyến

Ở bất kỳ một quốc gia nào, sự thành công của hòa giải trực tuyến ở một
mức độ nào đó phụ thuộc vào các vấn đề kỹ thuật và công nghệ.

Hiện tại, Bộ Công thương cũng có một cổng thông tin để người tiêu dùng
phản ánh khiếu nại nhưng còn giới hạn trong phạm vi bảo vệ người tiêu dùng
chưa kể sự thiếu thuận tiện, khó sử dụng, mất quá nhiều thời gian để xử lý thông
tin.

Mặc dù Chính phủ đã xây dựng cổng thông tin phục vụ cho hoạt động TMĐT
cũng như giải quyết tranh chấp liên quan nhưng có một thực tế ở Việt Nam là,
khách hàng mua bán trực tuyến tuy có tăng lên nhiều nhưng không phải ai trong
số đó cũng biết nhiều về ICT. Đó là một rào cản rất lớn trong trường hợp họ
muốn sử dụng hòa giải trực tuyến. Bên cạnh đó, các hạ tầng cơ bản khác như chất
lượng đường truyền internet, sự ổn định của nguồn điện cũng là một trong những
yếu tố ảnh hưởng nhiều đến khả năng sử dụng hòa giải trực tuyến ở Việt Nam.

4.2.2. Năng lực của đội ngũ hòa giải viên tại các tổ chức hòa giải thương mại
tại Việt Nam đối với việc triển khai dịch vụ hòa giải trực tuyến

Mặc dù còn một số tổ chức hòa giải thương mại chưa chú trọng tới việc
phát triển hoạt động giải quyết tranh chấp trực tuyến, hay chưa áp dụng mạnh mẽ
công nghệ thông tin hỗ trợ cho hoạt động giải quyết tranh chấp theo phương thức
truyền thống, nhưng Việt Nam đã có những tổ chức hòa giải thương mại đã tiên
phong áp dụng phương thức giải quyết tranh chấp trực tuyến như đã nêu ở trên.
Như vậy, đội ngũ hòa giải trực tuyến Việt Nam có khả năng tiếp cận vào xu
hướng giải quyết tranh chấp bằng phương thức điện tử, trực tuyến. Việc phát
triển công nghệ thông tin ứng dụng trong hoạt động hòa giải trực tuyến ở Việt
Nam là một “điều kiện đủ” để có thể phát triển hoạt động giải quyết tranh chấp
trực tuyến thông qua hoà giải trực tuyến. Điều kiện này không phải là một vấn đề
thách thức quá lớn khi mà Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao và nhiều công ty
phần mềm Việt Nam và quốc tế đang phát triển cơ sở hạ tầng thông tin, cơ sở dữ
liệu pháp luật hỗ trợ. Cần tổ chức các hội thảo trao đổi thông tin học hỏi kinh
nghiệm của các quốc gia về hoà giải trực tuyến. Bên cạnh đó, nâng cao trình độ
ngoại ngữ và công nghệ thông tin, kiến thức pháp luật nước ngoài cho các hòa
giải viên để giải quyết tốt các tranh chấp thương mại có yếu tố trực tuyến.
KẾT LUẬN

Trên thế giới, hòa giải là một trong những phương thức giải quyết tranh
chấp ngày càng trở nên phổ biến và được lựa chọn thay thế cho phương thức giải
quyết tranh chấp thay thế, để đa dạng hoá phương thức giải quyết tranh chấp và
giảm gánh nặng cho tòa án. Đối mặt với đại dịch COVID 19, mọi hoạt động của
con người đã bị thay đổi thay vì gặp mặt trực tiếp, các giao dịch để có thể tiếp tục
thì hầu hết phải được thực hiện thông qua phương thức trực tuyến. Do đó, việc
giải quyết tranh chấp trực tuyến (ODR) đã trở thành công cụ hữu dụng giúp các
bên giải quyết những mâu thuẫn, bất đồng phát sinh trong quan hệ thương mại.
Trong số các phương thức ODR, hòa giải trực tuyến là phương thức được nghiên
cứu và sử dụng rộng rãi trong giải quyết tranh chấp thương mại. Hòa giải trực
tuyến đã được minh chứng thực tế ở các nước phát triển trên thế giới cùng với
những lợi ích mà phương pháp này mang lại như tiết kiệm thời gian, chi phí, tiện
lợi. Tại Việt Nam hiện nay vẫn chưa có khung pháp lý hoàn thiện để điều chỉnh
và thúc đẩy giải quyết tranh chấp bằng hòa giải trực tuyến; tuy nhiên trong thời
gian qua do tác động tiêu cực và kéo dài của đại dịch COVID 19 thì một số trung
tâm hòa giải thương mại đã ban hành quy tắc hòa giải trực tuyến và triển khai
thực hiện trên các nền tảng số. Chính vì vậy, chúng em cho rằng về lâu dài, cần
có quy tắc và hướng dẫn riêng dành cho hòa giải trực tuyến, và pháp luật cũng
cần hoàn thiện theo hướng ủng hộ và tạo điều kiện cho việc giải quyết tranh chấp
bằng phương pháp này. Bên cạnh đó, việc nâng cao nhận thức của doanh nghiệp,
của người tiêu dùng…vvv; về giải quyết tranh chấp bằng hòa giải trực tuyến
cũng hết sức cần thiết.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Tư pháp (2021), Thực trạng giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, hòa giải
trực tuyến của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, Tài liệu tọa đàm.
2. Bryan A. Garner (2019), Black’s Law Dictionary, Publisher by Thomson
Reuters; 11th edition (June 10, 2019).
3. Đào Thị Thu Hằng (2015), Pháp luật về thương mại hàng hóa và dịch vụ,
Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Dương Quỳnh Hoa (2011), Hòa giải - một phương thức giải quyết tranh chấp
thay thế, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 23 (208).
5. Dương Quỳnh Hoa (2015), Cơ chế giải quyết tranh chấp thay thế đối với các
quan hệ thương mại ở Việt Nam lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị Quốc Gia
- Sự thật.
6. Dương Quỳnh Hoa (2019), Giải quyết tranh chấp trực tuyến ở Việt Nam, Tạp
chí Nghiên cứu Lập pháp, Số 19 (419).
7. Hà Công Anh Bảo & Lê Hằng Mỹ Hạnh (2017), Giải quyết tranh chấp trực
tuyến – Khả năng áp dụng ở Việt Nam, Tạp chí kinh tế đối ngoại, số 93.
8. Hà Công Anh Bảo (2021), ODR – Giải quyết tranh chấp trực tuyến Hiện tại
và xu hướng tương lai, Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
9. Lê Nguyễn Gia Thiện, Nguyễn Thị Thùy Linh (2018), Hòa giải thương mại
và thi hành thỏa thuận gòa giải thành ở Cộng hòa liên bang Đức, Tạp chí Dân
chủ và pháp luật, Số 5 (314).
10. Lê Thị Hằng (2022), Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải trực
tuyến - xu hướng tất yếu trong thời kỳ hội nhập, Tạp chí Tòa án nhân dân, Số
4/2022.
11. Lê Văn Thiệp (2016), Pháp luật thương mại điện tử ở Việt Nam hiện nay,
Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội
12. Nguyễn Thành Minh Chán (2021), Phương thức giải quyết tranh chấp trực
tuyến trong thương mại điện tử Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Số
21 (445),
13. Nguyễn Thành Minh Chánh (2021), Thúc đẩy giải quyết tranh chấp trực
tuyến ngoài Tòa án trong thương mại điện tử tại Việt Nam, Tạp chí TAND
điện tử 22/6/2021.
14. Nguyễn Thị Vân Anh, Nguyễn Thị An Na (2017), Một số vấn đề luật sư cần
lưu ý khi tư vấn giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương mại, Tạp chí
Nghề luật, Số 6/2017.
15. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2018),Giải quyết tranh chấp thương
mại điện tử bằng phương pháp trực tuyến (Online dispute resolution - ODR),
Đặc san Thông tin khoa học pháp lý, số 7/2018.

You might also like