You are on page 1of 39

BỘ CÔNG THƯƠNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG THƯƠNG TP. HỒ CHÍ MINH


KHOA CHÍNH TRỊ - LUẬT
-----o0o-----

TIỂU LUẬN HỌC PHẦN:


LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

TÊN ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH VỤ DS 404: MỘT KHỞI ĐẦU THUẬN LỢI
CHO VIỆT NAM KHI GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THEO CƠ CHẾ
CỦA WTO.

NHÓM: 06

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 11 tháng 04 năm 2024


BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG THƯƠNG TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA CHÍNH TRỊ - LUẬT
-----o0o-----

TÊN ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH VỤ DS 404: MỘT KHỞI ĐẦU THUẬN LỢI
CHO VIỆT NAM KHI GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THEO CƠ CHẾ
CỦA WTO.

Nhóm: 06 GVHD: Nguyễn Nam Hà


Trưởng nhóm: Mai Thị Phương Thảo 2036224793
Thành viên:
1. Nguyễn Khánh Hiền 2036221345
2. Nguyễn Thị Kiều 2036221931
3. Trà Nguyễn Yến Nhi 2036223388
4. Lương Tiểu Quyên 2036224026
5. Phan Thị Thảo 2036224798
6. Nguyễn Thị Anh Thư 2040225189
7. Trần Thị Mộng Thường 2036225309
8. Phạm Thụy Thanh Trúc 2036225651
9. Phạm Thị Mỹ Vân 2036225787

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 11 tháng 04 năm 2024

ii
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin được gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến giảng viên bộ môn Thầy
Nguyễn Nam Hà. Trong quá trình học tập và tìm hiểu môn Luật Thương mại quốc tế,
nhóm em đã nhận được sự giúp đỡ, hướng dẫn tâm huyết của thầy. Thầy đã giúp nhóm
em tích lũy thêm nhiều kiến thức về môn học này để có thể hoàn thành được bài tiểu
luận về đề tài: Phân tích vụ DS 404: Một khởi đầu thuận lợi cho Việt Nam khi giải quyết
tranh chấp theo cơ chế của WTO
Mặc dù đã dành nhiều thời gian và nỗ lực để hoàn thành bài tiểu luận này, nhưng do sự
hạn chế về mặt kiến thức nên bài làm khó tránh khỏi những thiếu sót. Do đó, nhóm em
kính mong nhận được những lời góp ý của thầy để bài tiểu luận của nhóm em ngày càng
hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

iii
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN...................................................................................................................iii
MỤC LỤC.........................................................................................................................iv
PHẦN MỞ ĐẦU.................................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG.............................................................................................................3
CHƯƠNG 1. CÁC KHÁI NIỆM LIÊN QUAN..............................................................3
1.1. Bán phá giá..............................................................................................................3
1.2. Thuế chống bán phá giá..........................................................................................3
1.3. Điều kiện áp dụng biện pháp chống bán phá giá là gì?.......................................3
1.4. Phương pháp “ Quy về 0” (zeroing)......................................................................4
CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN VỤ TRANH CHẤP DS404 - WTO GIỮA HOA KỲ VÀ
VIỆT NAM.........................................................................................................................7
2.1. Bối cảnh vụ DS404...................................................................................................7
2.2. Tóm tắt vụ kiện......................................................................................................10
CHƯƠNG 3. PHÂN TÍCH NỘI DUNG VỤ TRANH CHẤP DS404 – WTO GIỮA
HOA KỲ VÀ VIỆT NAM...............................................................................................14
3.1. Yêu cầu xem xét và khuyến nghị của các bên.....................................................14
3.2. Vấn đề 1: Khiếu nại của phía Mỹ liên quan đến các nội dung thuộc điều khoản
tham chiếu của Ban hội thẩm......................................................................................15
3.3. Vấn đề 2: Khiếu nại của Việt Nam liên quan đến phương pháp quy về 0 của
Mỹ..................................................................................................................................16
3.4. Vấn đề 3: Khiếu nại của Việt Nam liên quan đến việc mỹ giới hạn số lượng bị
đơn được chọn để tiến hành điều tra..........................................................................17
3.5. Vấn đề 4: Khiếu nại của Việt Nam liên quan đến mức thuế suất chung áp dụng
cho những bị đơn tự nguyện nhưng không được Mỹ chọn để tiến hành điều tra..19
3.6. Vấn đề 5: Khiếu nại của Việt Nam liên quan đến biên độ phá giá áp dụng cho
toàn quốc.......................................................................................................................20
CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM............23
4.1. Kết quả từ chiến thắng của Việt Nam trong vụ tranh chấp DS404-WTO.......23
4.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ vụ tranh chấp DS404-WTO................23
KẾT LUẬN.......................................................................................................................28
CÂU HỎI ÔN TẬP TRẮC NGHIỆM............................................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................................31
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sau Đổi Mới, nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển mạnh mẽ thông qua cơ chế
mở cửa thị trường, tạo điều kiện cho hàng loạt các doanh nghiệp xuất khẩu được thành
lập và thu được nhiều lợi nhuận. Tuy nhiên, một số lượng lớn các doanh nghiệp xuất
khẩu trong nước đã phải chịu những thiệt hại không đáng có do bị áp mức thuế chống
bán phá giá không phù hợp, mà điển hình trong số đó là những doanh nghiệp xuất khẩu
tôm nước ấm đông lạnh sang thị trường Hoa Kỳ. Trước tình hình đó, từ năm 2009, Hiệp
hội các nhà chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam đã đề xuất với chính phủ về việc
sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO để buộc Hoa Kỳ chấm dứt các biện
pháp chống bán phá giá gây bất lợi cho nhà xuất khẩu Việt Nam nhằm bảo vệ lợi ích
chính đáng của các doanh nghiệp trong nước. Vụ kiện Tôm của Việt Nam tại Mỹ
(WT/DS404/1) là vụ kiện đầu tiên mà Việt Nam khởi xướng (với tư cách người đi kiện
– nguyên đơn) trong khuôn khổ WTO. Vụ kiện này đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm
cho các doanh nghiệp xuất khẩu cũng như các cơ quan trong nước có liên quan trong
việc giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế. Chính vì vậy, nhóm chúng tôi chọn chủ
đề “Phân tích vụ DS 404: Một khởi đầu thuận lợi cho Việt Nam khi giải quyết tranh
chấp theo cơ chế của WTO” làm đề tài nghiên cứu cho môn học Luật thương mại quốc
tế.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích là để phân tích rõ hơn về vụ kiện DS 404 và tìm hiểu về các vấn đề chống
bán phá giá để Việt Nam có thể thích ứng và tuân thủ, từ đó đảm bảo rằng Hoa Kỳ sẽ
không áp dụng các biện pháp bất lợi liên quan đối với hàng hóa Việt Nam mức độ thiệt
hại từ các vụ kiện được hy vọng sẽ giảm đáng kể.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Phân tích vụ DS 404: Một khởi đầu thuận lợi cho Việt Nam
khi giải quyết tranh chấp theo cơ chế của WTO
4. Phương pháp nghiên cứu

1
Dựa vào đối tượng nghiên cứu, có thể kết hợp các phương pháp:
- Thu thập tài liệu trong báo chí, các văn bản pháp luật, thông tin đại chúng…
- Chọn lọc, phân tích, tổng hợp các tài liệu có sức thuyết phục cho việc nghiên cứu.
5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu
Hiểu rõ hơn về vụ kiện DS404 và các vấn đề liên quan đến việc chống bán phá giá.
Thông qua vụ việc này là một kinh nghiệm thực tế khích lệ cho Việt Nam trong việc tự
tin, chủ động sử dụng công cụ giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO để bảo vệ
các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam trong thương mại quốc tế theo các quy định
của WTO mà không làm ảnh hưởng đến quan hệ ngoại giao giữa các bên tranh chấp.
6. Kết cấu của tiểu luận
Chương 1: Cơ sở lý thuyết liên quan đến vụ tranh chấp DS404
Chương 2: Tổng quan vụ tranh chấp DS404
Chương 3: Phân tích nội dung tranh chấp DS404
Chương 4: Kết quả và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

2
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CÁC KHÁI NIỆM LIÊN QUAN
1.1. Bán phá giá
Bán phá giá trong thương mại quốc tế có thể hiểu là hiện tượng xảy ra khi một loại
hàng hoá được xuất khẩu từ nước này sang nước khác với mức giá thấp hơn giá bán của
hàng hoá đó tại thị trường nội địa nước xuất khẩu.
Trong WTO, đây được xem là “hành vi cạnh tranh không lành mạnh” của các nhà sản
xuất, xuất khẩu nước ngoài đối với ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu. Và các “vụ
kiện chống bán phá giá” và tiếp đó là các biện pháp chống bán phá giá (kết quả của các
vụ kiện) là một hình thức để hạn chế hành vi này.
1.2. Thuế chống bán phá giá
Thuế chống bán phá giá là biện pháp chống bán phá giá được sử dụng phổ biến nhất,
được áp dụng đối với sản phẩm bị điều tra và bị kết luận là bán phá giá vào nước nhập
khẩu gây thiệt hại cho ngành sản xuất nước đó.
Về bản chất, đây là khoản thuế bổ sung (ngoài thuế nhập khẩu thông thường) đánh
vào sản phẩm nước ngoài nhập khẩu là đối tượng của quyết định áp dụng biện pháp
chống bán phá giá.
Thuế này đánh vào các nhà sản xuất riêng lẻ chứ không phải là thuế áp đặt chung cho
hàng hóa của một quốc gia. Nguyên tắc chung nêu ra trong Hiệp định của WTO là
không được phân biệt đối xử khi áp dụng thuế chống phá giá, tức là nếu hàng hóa bị bán
phá giá được xuất khẩu từ những quốc gia khác nhau với cùng biên độ phá giá như nhau
thì sẽ áp đặt mức thuế chống phá giá ngang nhau. Mức thuế chống phá giá sẽ phụ thuộc
vào biên độ phá giá của từng nhà xuất khẩu chứ không phải áp dụng bình quân (ngay cả
khi các nhà xuất khẩu từ cùng một quốc gia) và không được phép vượt quá biên độ phá
giá đã được xác định.
1.3. Điều kiện áp dụng biện pháp chống bán phá giá là gì?
Không phải cứ có hiện tượng hàng hoá nước ngoài bán phá giá là nước nhập khẩu có
thể áp dụng các biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hoá đó. Theo quy định của

3
WTO thì việc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá chỉ có thể thực hiện nếu cơ quan
có thẩm quyền của nước nhập khẩu, sau khi đã tiến hành điều tra chống bán phá giá, ra
kết luận khẳng định sự tồn tại đồng thời của cả 03 điều kiện sau:
+ Hàng hoá nhập khẩu bị bán phá giá (với biên độ phá giá không thấp hơn 2%).
+ Ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu bị thiệt hại đáng kể hoặc bị
đe doạ thiệt hại đáng kể hoặc ngăn cản đáng kể sự hình thành của ngành sản xuất
trong nước (gọi chung là yếu tố “thiệt hại”).
+ Có mối quan hệ nhân quả giữa việc hàng nhập khẩu bán phá giá và thiệt hại nói
trên.
1.4. Phương pháp “ Quy về 0” (zeroing)
Zeroing chuyển theo nghĩa tiếng Việt có nghĩa là "Quy về không", trong quá trình
tính biên độ phá giá, phương pháp tính toán Zeroing cho phép quy về 0 tất các các giao
dịch có biên độ phá giá âm. Mỹ là nước duy nhất trong 153 nước thành viên của WTO
đang sử dụng biện pháp Zeroing để tính thuế chống bán phá giá đối với những mặt hàng
xuất khẩu sang nước này.
Ví dụ: Nếu một nhà xuất khẩu bị điều tra thực hiện 5 giao dịch xuất khẩu, trong đó có
2 giao dịch xuất khẩu có biên độ phá giá là 20%, 1 giao dịch có biên độ phá giá bằng 0
và 2 giao dịch có biên độ phá giá -25% thì nếu không sử dụng phương pháp Zeroing,
bình quân biên độ phá giá của nhà xuất khẩu này sẽ là:
(20% + 20% + 0% - 25% - 25%): 5 = -7% (với biên độ phá giá âm, tức là không phá giá,
nhà xuất khẩu này sẽ không bị áp thuế).
Tuy nhiên, nếu sử dụng Zeroing thì biên độ phá giá trung bình sẽ là:
(20% + 20% +0% + 0% + 0%) / 5 = 8% (và kết quả là nhà xuất khẩu sẽ bị áp thuế 8%).
Phương thức này khiến cho mức thuế trở nên rất cao, và đã nhiều lần bị các thẩm
phán của WTO lên án.
Điều 2.4.2 Hiệp định ADA quy định: "Việc xác định có tồn tại biên độ phá giá hay
không trong suốt giai đoạn điều tra, thông thường sẽ dựa trên cơ sở so sánh giữa giá trị

4
bình quân gia quyền thông thường với giá bình quân gia quyền của tất cả các giao dịch
xuất khẩu có thể so sánh được hoặc thông qua so sánh giữa giá trị thông thường với giá
xuất khẩu trên cơ sở từng giao dịch". Ở đây, việc so sánh phải được thực hiện trên tất cả
các giao dịch xuất khẩu mới bảo đảm sự công bằng, vì trong các giao dịch đó có giao
dịch có biên độ phá giá dương nhưng cũng có các giao dịch có biên độ phá giá âm và
giữa chúng khi bù trừ cho nhau sẽ phản ánh một cách chính xác nhất về việc có bán phá
giá hay không và mức độ bán phá giá tác động lên thị trường nước nhập khẩu như thế
nào. Khi sử dụng phương pháp Zeroing với việc quy về 0 tất cả các giao dịch có biên độ
phá giá âm là vi phạm vào nguyên tắc "so sánh công bằng" mà Điều 2.4 Hiệp định ADA
đã quy định.
Việc áp dụng phương pháp Zeroing gây ra rất nhiều thiệt hại cho các doanh nghiệp
xuất khẩu của nước xuất khẩu bởi một số lí do:
- Thứ nhất, khi áp dụng phương pháp Zeroing, hầu hết các kết quả điều tra đều đưa đến
kết luận là có bán phá giá và bị áp thuế chống bán phá giá cao. Điều đó gây bất công
và tạo ra nhiều khó khăn cho các nước xuất khấu, từ đó hạn chế sự tự do hóa thương
mại.
- Thứ hai, biên độ phá giá bị đẩy lên cao không phản ánh đúng thực tế, khiến số tiền
mà doanh nghiệp phải nộp cho thuế chống bán phá giá là một gánh nặng tài chính
cho các doanh nghiệp xuất khẩu.
- Thứ ba, ngoài thiệt hại về việc phải đóng thuế chống bán phá giá, các doanh nghiệp
xuất khẩu còn phải chịu những hệ lụy khác từ việc áp thuế như phải ký quỹ một
khoản tiền rất lớn. Điều này một lần nữa gây khó khăn cho các doanh nghiệp xuất
khẩu khi vốn – luôn là một vấn đề của doanh nghiệp – phải dùng để ký quỹ. Điều này
lại làm tăng lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp không bị áp thuế chống bán phá
giá. Như vậy, có thể hiểu là tại sao các nước xuất khẩu, thường là các nước đang phát
triển, hết sức lên án phương pháp “Quy về 0” và coi đó là một trong những biện pháp
điển hình của chống bán phá giá bất công. Việc Hoa Kỳ sử dụng Zeroing khi tính các
biên độ phá giá đã gặp phải sự phản đối từ các đối tác thương mại của nước này. Họ

5
cho rằng điều này không phù hợp với các quy tắc của Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO) về hệ thống luật chống bán phá giá. Hoa Kỳ đã nhiều lần bị kiện tại Tổ chức
Thương mại thế giới với lý do nước này sử dụng Zeroing trong các cuộc điều tra
chống bán phá giá.

6
CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN VỤ TRANH CHẤP DS404 - WTO GIỮA HOA KỲ VÀ
VIỆT NAM
2.1. Bối cảnh vụ DS404
Năm 2004: Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) khởi xướng điều tra chống bán phá giá
đối với tôm nước ấm đông lạnh nhập khẩu từ Việt Nam với 54 doanh nghiệp Việt Nam
bị áp mức thuế phá giá từ 4,3% đến 25,76% đây thời điểm quan trọng dẫn đến vụ kiện
DS404, đánh dấu bước ngoặt trong việc bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp Việt Nam
trên thị trường quốc tế. Dưới đây là những sự kiện nổi bật trong bối cảnh năm 2004:
- Thị trường tôm Việt Nam:
 Ngành tôm Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ, xuất khẩu sang
nhiều thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản.
 Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu tôm lớn nhất của Việt Nam, chiếm hơn 40% tổng
kim ngạch xuất khẩu tôm.
- Biện pháp chống bán phá giá của Hoa Kỳ:
 Tháng 12/2003: Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) khởi xướng điều tra chống bán phá
giá đối với tôm nước ấm đông lạnh nhập khẩu từ Việt Nam.
 Tháng 11/2004: DOC ra quyết định sơ bộ áp dụng mức thuế chống bán phá giá từ
0,68% đến 35,49% cho các doanh nghiệp Việt Nam.
- Phản ứng của Việt Nam:
 Chính phủ Việt Nam đã tích cực tham gia vào quá trình điều tra của DOC, cung cấp
đầy đủ thông tin và dữ liệu liên quan.
 Việt Nam bày tỏ quan ngại về việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá, cho rằng
đây là hành động không phù hợp với quy định của WTO.
- Hậu quả:
 Quyết định của DOC gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngành tôm Việt Nam, khiến
kim ngạch xuất khẩu tôm sang Hoa Kỳ giảm sút đáng kể.
 Nhiều doanh nghiệp Việt Nam gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh.

7
Năm 2007: DOC ra quyết định cuối cùng áp dụng thuế suất "chung" cho các doanh
nghiệp Việt Nam trong các cuộc rà soát hành chính sau đó. Thuế suất "chung" được tính
toán dựa trên quy về 0, bất lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam.
- Hậu quả:
 Doanh nghiệp Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong việc xuất khẩu tôm sang Hoa
Kỳ.
 Giá tôm xuất khẩu sang Hoa Kỳ giảm mạnh.
 Ngành nuôi trồng thủy sản Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề.
- Phản ứng của Việt Nam:
 Chính phủ Việt Nam đã có nhiều biện pháp để hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu
tôm sang Hoa Kỳ.
 Việt Nam cũng đã nhiều lần đề nghị Hoa Kỳ xem xét lại biện pháp áp dụng thuế
suất "chung".
- Kết quả:
 Năm 2010: Chính phủ Việt Nam quyết định khởi kiện Hoa Kỳ tại WTO về vụ
DS404.
 Năm 2012: Ban Hội thẩm WTO ra phán quyết ủng hộ Việt Nam.
 Năm 2014: Hoa Kỳ hoàn tất việc sửa đổi biện pháp chống bán phá giá.
- Lý do áp dụng thuế suất "chung":
 DOC cho rằng các doanh nghiệp Việt Nam có liên quan đến nhau và có hành vi bán
phá giá.
 Tuy nhiên, Việt Nam đã bác bỏ cáo buộc này.
- Quy về 0:
 Quy về 0 là một phương pháp tính toán thuế suất chống bán phá giá.
 Phương pháp này thường được áp dụng khi DOC không có đủ thông tin để xác định
mức thuế suất cho từng doanh nghiệp.
 Quy về 0 thường dẫn đến mức thuế suất cao hơn cho các doanh nghiệp xuất khẩu.

8
Đầu năm 2009, sau 4 năm gồng mình chịu thuế chống bán phá giá mà Hoa Kỳ áp đặt
với tôm nước ấm đông lạnh Việt Nam, các nhà xuất khẩu tôm Việt Nam xôn xao trước
nguy cơ Hoa Kỳ có thể sẽ chặn con đường thoát mà nhiều doanh nghiệp đang mong mỏi
bằng việc sử dụng một số biện pháp kỹ thuật bất hợp lý trong đợt điều tra rà soát hành
chính lần 4, đặc biệt là phương pháp quy về 0.
VASEP (Hiệp hội các nhà chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam) như ngồi trên
đống lửa. Cùng thời điểm đó, tại Hội đồng Tư vấn về Phòng vệ Thương mại của VCCI,
các chuyên gia hàng đầu về lĩnh vực này tỏ ra rất quan ngại. Nhận thấy các phương pháp
mà Hoa Kỳ đang sử dụng có dấu hiệu vi phạm WTO, các chuyên gia tính đến phương
án sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO để buộc Hoa Kỳ chấm dứt việc sử
dụng các phương pháp này nhằm bảo vệ lợi ích hiện tại và trong tương lai của cộng
đồng doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam.
VASEP là người đầu tiên “phất ngọn cờ hồng” với Công văn gửi Bộ Công thương đề
xuất việc kiện Hoa Kỳ ra WTO từ tháng 3/2009. Tháng 10/2009, khi đã có kết quả
nghiên cứu tương đối kỹ lưỡng, Hội đồng tư vấn về phòng vệ thương mại của VCCI có
Công văn đề xuất Chính phủ khởi kiện (kèm theo Bản phân tích về các biện pháp vi
phạm WTO của Hoa Kỳ, những tác động của chúng tới kết quả vụ điều tra chống bán
phá giá tôm, những lập luận có thể sử dụng để chứng minh vi phạm, những án lệ trong
WTO liên quan đến vấn đề này và những hiệu quả tích cực đối với các doanh nghiệp
thủy sản nói riêng và cộng đồng doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam nói chung nếu Việt
Nam thắng kiện trong vụ việc này).
Năm 2010: Chính phủ Việt Nam khởi kiện Hoa Kỳ tại Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) về vụ DS404. Việt Nam cho rằng việc áp dụng thuế suất "chung" và quy về 0 vi
phạm Hiệp định Chống bán phá giá (CBPG) của WTO.
Năm 2012: Ban Hội thẩm WTO ra phán quyết ủng hộ Việt Nam trên tất cả các yêu
cầu kiện. Hoa Kỳ được yêu cầu sửa đổi biện pháp chống bán phá giá để phù hợp với quy
định của WTO.

9
Năm 2014: Hoa Kỳ hoàn tất việc sửa đổi biện pháp chống bán phá giá. Vụ DS404
chính thức kết thúc.
=> Vụ DS404 diễn ra trong bối cảnh Việt Nam đang nỗ lực hội nhập sâu rộng vào
kinh tế quốc tế.
Vụ kiện là một phần trong chiến lược của Việt Nam nhằm bảo vệ quyền lợi của các
doanh nghiệp Việt Nam trong thương mại quốc tế.
2.2. Tóm tắt vụ kiện.
 Tham vấn: Do Việt Nam khởi kiện
Ngày 1/2/2010, Việt Nam gửi yêu cầu tham vấn tới Hoa Kỳ liên quan đến một số
biện pháp chống bán phá giá đối với sản phẩm tôm nước ấm đông lạnh của Việt Nam.
Ngoài những rà soát hành chính và rà soát đối với các nhà nhập khẩu mới, tham vấn còn
đề cập đến một số điều luật, quy định, thực tiễn và thủ tục hành chính của Hoa Kỳ bao
gồm cả phương pháp “quy về 0”.
Việt Nam cho rằng các biện pháp này không phù hợp với nghĩa vụ của Hoa Kỳ theo:
- Điều I, II, VI:1 và VI:2 của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT
1994);
- Một số điều khoản của Hiệp định về Chống bán phá giá;
- Điều XVI: 4 của Hiệp định WTO;
- Nghị định thư gia nhập của Việt Nam.
Ngày 12/02/2010, Liên minh Châu Âu và Nhật Bản đã yêu cầu được tham gia tham
vấn. Ngày 15/02/2010, Thái Lan cũng yêu cầu được tham gia tham vấn.
Ngày 7/4/2010, phía Việt Nam yêu cầu thành lập Ban Hội thẩm. Tại cuộc họp ngày
20/4/2010, DSB đã trì hoãn việc thành lập Ban Hội thẩm.
 Quá trình Hội thẩm và Phúc thẩm
Tại cuộc họp ngày 18/05/2010, Cơ quan Giải quyết Tranh chấp trong WTO (DSB) đã
quyết định thành lập Ban Hội thẩm. Liên minh Châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mexico
và Thái Lan tham gia với vai trò các bên thứ ba. Tiếp theo là Trung Quốc và Ấn Độ
tham gia là các bên thứ ba.

10
Ngày 14/7/2010, Việt Nam đề nghị Tổng Giám Đốc xác định thành phần Ban Hội
thẩm. Ngày 26/7/2010, thành phần Ban Hội thẩm được xác định. Ngày 10/1/2011, Chủ
tịch Ban hội thẩm thông báo thời gian làm việc tới DSB sau khi tham vấn các bên liên
quan và thống nhất thời hạn ban hành báo cáo cuối cùng là ngày 22/04/2011. Do một số
mâu thuẫn không lường trước, Ban Hội thẩm dự kiến sẽ đưa ra báo cáo cuối cùng tới các
bên vào ngày 06/5/2011.
Ngày 19/6/2011, Chủ tịch Ban Hội thẩm thông báo với DSB rằng báo cáo cuối cùng
sẽ được ban hành tới các bên vào cuối tháng 5/2011
Ngày 19/05/2011, Ban Hội thẩm ban hành báo cáo tới các bên l.iên quan.
Ngày 11/07/2011, báo cáo được công bố tới các thành viên
 Tóm tắt các phán quyết chính
Trong tranh chấp này, Việt Nam khởi kiện một số khía cạnh trong Quyết định cuối
cùng của Bộ Thương mại Hoa Kỳ trong vụ kiện chống bán phá giá đối với sản phẩm
tôm nước ấm đông lạnh (tôm) của Việt Nam. Cụ thể, Việt Nam khởi kiện việc DOC
“tiếp tục sử dụng”, trong một số thủ tục, cũng như việc áp dụng trong rà soát lần hai và
lần ba.
- Các yêu cầu của Hoa Kỳ trong phán quyết giữa kỳ: Ban Hội thẩm kết luận rằng yêu
cầu tham vấn Ban Hội thẩm của Việt Nam không chỉ rõ tiêu chuẩn “Tiếp tục sử dụng
các thủ tục khiếu kiện” như là tiêu chuẩn cần xem xét trong tranh chấp này, theo
Điều 6.2 của DSU.
- Các khiếu kiện của Việt Nam liên quan tới quy về 0: Ban Hội thẩm sau đó, dựa vào
phán quyết trước đó của Cơ quan Phúc thẩm, đã kết luận “quy về 0” trong rà soát
hành chính, vì thế không phù hợp với Điều 9.3 của Hiệp định CBPG và Điều VI:2
của GATT 1994.
- Các khiếu kiện của Việt Nam liên quan tới quyết định giới hạn số lượng các nhà xuất
khẩu được chọn điều tra của Bộ Thương mại Hoa Kỳ: Ban Hội thẩm bác bỏ những
khiếu kiện này. Nguyên nhân là do Việt Nam đã không khẳng định việc giới hạn điều
tra của Bộ Thương mại Hoa Kỳ trong rà soát lần 2 và lần 3 là không phù hợp với câu

11
thứ hai của Điều 6.10, và cho rằng không có điều khoản nào do Việt Nam trích dẫn
áp đặt bất kỳ giới hạn nào trong việc các cơ quan có thẩm quyền tự hạn chế cuộc điều
tra của họ, trừ những điều được quy định trong điều khoản đó. Thêm vào đó, Việt
Nam đã đưa ra hai khiếu kiện khác nhau theo Điều 6.10.2 của Hiệp định CBPG
- Các khiếu kiện của Việt Nam liên quan tới thuế suất “chung” áp dụng cho các nhà
xuất khẩu không được lựa chọn: Việt Nam khẳng định việc áp dụng thuế suất chung
được tính toán dựa trên cơ sở biên độ phá giá tính với quy về 0 là không phù hợp với
điều khoản này. Ban Hội thẩm ủng hộ khiếu kiện của Việt Nam về vấn đề này, nhằm
bổ sung cho khiếu kiện liên quan tới Điều 9.4 của Việt Nam, ấy là việc áp dụng thuế
suất chung không được coi là kết quả từ các cuộc điều tra độc lập với từng nhà xuất
khẩu được lựa chọn thông qua một quá trình liên tục và đưa ra mức thuế chống bán
phá giá bất lợi cho các công ty không đươc lựa chọn trong cuộc điều tra riêng cũng là
không phù hợp với điều khoản đó. Ban Hội thẩm cũng thực thi điều khoản nền kinh
tế tư pháp liên quan tới các khiếu kiện vi phạm bổ sung theo Điều 9.3, 2.4.2 và 2.4
của Hiệp định CBPG.
- Các khiếu kiện của Việt Nam liên quan tới biên độ phá giá phân bổ theo quy tắc thuế
suất toàn quốc: Ban Hội thẩm cho rằng việc Bộ Thương mại Hoa Kỳ áp dụng thuế
suất từ dữ liệu sẵn có trên toàn quốc trong rà soát hành chính lần hai và mức thuế
suất thực chất dựa trên dữ liệu sẵn có trong rà soát hành chính lần thứ ba, là không
phù hợp với Điều 6.8 của Hiệp định CBPG.
- Các vấn đề khác liên quan tới các điều khoản tham chiếu của Ban Hội thẩm: Việt
Nam khiếu kiện việc vi phạm Điều 17.6(i) của Hiệp định CBPG liên quan tới thuế
suất chung và thuế suất phân bổ theo quy tắc thuế suất toàn quốc. Trong mỗi trường
hợp, Ban Hội thẩm cho rằng khiếu kiện của Việt Nam đã vượt ra ngoài phạm vi điều
khoản tham chiếu bởi vì Việt Nam đã không đưa các khiếu kiện liên quan tới điều
khoản này trong yêu cầu thành lập Ban Hội thẩm của mình. Thêm vào đó, Ban Hội
thẩm tìm ra một vài khiếu kiện của Việt Nam, trong đó Việt Nam cho là “khiếu kiện
kết quả” đã nằm ngoài phạm vi các điều khoản tham chiếu bởi vì chúng liên quan tới

12
một biện pháp không thuộc phạm vi các điều khoản tham chiếu của Ban Hội thẩm.
- Khuyến nghị : Theo Điều 19.1 của DSU, Hoa Kỳ đã hành động không phù hợp với
các điều khoản của Hiệp định CBPG và GATT, Ban Hội thẩm khuyến nghị Hoa Kỳ
áp dụng các biện pháp phù hợp với các nghĩa vụ trong các Hiệp định đó. Ngày
02/09/2011, báo cáo của Ban Hội thẩm được thông qua.
- Khoảng thời gian hợp lý: Tại cuộc họp của Cơ quan Giải quyết tranh chấp trong
WTO ngày 27/09/2011, Hoa Kỳ ra thông báo về kế hoạch thực thi khuyến nghị, phán
quyết của DSB để tuân thủ các nghĩa vụ của minh trong WTO. Hoa Kỳ cho rằng cần
một khoảng thời gian hợp lý để thực hiện thay đổi. Ngày 31/10/2011, Việt Nam và
Hoa Kỳ đã thông báo lên DSB về việc hai bên nhất trí khoảng thời gian hợp lý để
Hoa Kỳ thực hiện các khuyến nghị và phán quyết là 10 tháng. Theo đó, khoảng thời
gian này sẽ hết hiệu lực vào 02/07/2012.
- Giải pháp thống nhất: Ngày 18/07/2016, Việt Nam và Hoa Kỳ đã ra thông báo tới Cơ
quan Giải quyết tranh chấp trong WTO về việc hai quốc gia đã đạt được giải pháp
thống nhất về vấn đề này.

13
CHƯƠNG 3. PHÂN TÍCH NỘI DUNG VỤ TRANH CHẤP DS404 – WTO GIỮA
HOA KỲ VÀ VIỆT NAM
3.1. Yêu cầu xem xét và khuyến nghị của các bên
- Việt Nam đề nghị Ban Hội thẩm xem xét các vấn đề:
(a) Việc sử dụng phương pháp Zeroing để xác định biên độ phá giá đối với các bị đơn
bắt buộc trong rà soát POR2 và POR3 và việc tiếp tục sử dụng phương pháp này
trong các rà soát tiếp theo của DOC là không phù hợp với Điều 9.3, 2.1, 2.4.2, và
2.4 Hiệp định CBPG và Điều VI:2 GATT 1994;
(b) DOC sử dụng phương pháp Zeroing là vi phạm Điều 9.3 Hiệp định CBPG và Điều
VI:2 GATT 1994;
(c) Lấy biên độ phá giá được xác định theo phương pháp Zeroing làm mức thuế suất
áp dụng cho các bị đơn tự nguyện không được lựa chọn trong hai rà soát POR2 và
POR3 là không tuân thủ Điều 9.3, 2.1, 2.4.2, và 2.4 Hiệp định CBPG;
(d) Áp dụng mức thuế suất chung cho các bị đơn tự nguyện không được lựa chọn mà
không căn cứ vào kết quả điều tra các bị đơn bắt buộc và áp dụng mức thuế bất lợi
cho các bị đơn không được lựa chọn trong rà soát POR2 và POR3 là không phù
hợp với Điều 9.4, 17.6(i) và 2.4 Hiệp định CBPG;
(e) Áp dụng mức thuế suất toàn quốc sau rà soát POR2 và POR3 trên cơ sở tính toán
từ những thông tin sẵn có bất lợi và việc tiếp tục áp dụng mức thuế này trong các
rà soát tiếp theo là vi phạm Điều 6.8, 9.4, 17.6(i) và Phụ lục II của Hiệp định
CBPG;
(f) Quyết định của DOC trong rà soát POR2 và POR3 nhằm hạn chế số lượng bị đơn
bắt buộc, do đó không đảm bảo nghĩa vụ thực thi đầy đủ theo Hiệp định CBPG, cụ
thể là các điều khoản 6.10, 6.10.2, 9.3, 11.1 và 11.3.
Hoa Kỳ đề nghị Ban Hội thẩm chấp nhận yêu cầu phán quyết sơ bộ đã đề đạt với Ban
Hội thẩm từ trước đó, và bác bỏ khiếu nại của Việt Nam rằng Hoa Kỳ đã vi phạm các
hiệp định trên.

14
3.2. Vấn đề 1: Khiếu nại của phía Mỹ liên quan đến các nội dung thuộc điều
khoản tham chiếu của Ban Hội thẩm
Nhìn chung, Việt Nam yêu cầu Ban Hội thẩm xem xét các vấn đề liên quan đến 4 vấn
đề: Quyết định của DOC trong lần rà soát thứ hai, quyết định của DOC trong lần rà soát
thứ ba, “Việc tiếp tục sử dụng các biện pháp bị khiếu kiện” và phương pháp tính biên độ
bán phá giá “quy về 0”.
- Mỹ yêu cầu Ban Hội thẩm đưa ra phán quyết sơ bộ đối với kết luận của
Phòng Thương mại Mỹ trong lần điều tra đầu tiên và lần rà soát hành chính
thứ nhất.
Lập luận của Mỹ: Mỹ cho rằng quyết định cuối cùng của Mỹ trong lần điều tra và rà
soát hành chính lần thứ nhất không nằm trong điều khoản tham chiếu của Ban Hội thẩm,
bởi vì
vào thời điểm diễn ra 2 sự kiện trên, Việt Nam vẫn chưa gia nhập WTO, và do đó
chưa thể áp dụng Hiệp định Chống bán phá giá vào trường hợp này. Hơn nữa, Hoa Kỳ
còn lập luận rằng, lần điều tra thứ nhất cũng không nằm trong nội dung yêu cầu tham
vấn của Việt Nam và vì vậy cũng không nằm trong nội dung tham vấn của Ban Hội
thẩm.
Lập luận của Việt Nam: Việt Nam không đưa ra ý kiến đối với yêu cầu này của phía
Hoa Kỳ.
Kết luận của Ban Hội thẩm: Vì phía Việt Nam cho thấy nước này không coi kết
luận của Phòng Thương mại Mỹ trong lần điều tra đầu tiên và lần rà soát hành chính thứ
nhất là vấn đề cần được tham vấn, cho nên Ban Hội thẩm không cần thiết phải xử lý yêu
cầu này của phía Mỹ.

- Mỹ yêu cầu Ban Hội thẩm đưa ra phán quyết sơ bộ liên quan đến “việc tiếp tục
sử dụng các biện pháp bị khiếu kiện” (continued use of challenged practices).
- Lập luận của Mỹ: Phía Mỹ lập luận rằng, vấn đề “Việc tiếp tục sử dụng các

15
biện pháp bị khiếu kiện” mà phía Việt Nam đưa ra là không thể được chấp nhận
vì vi phạm tính rõ ràng của vấn đề được đưa ra, được ghi nhận trong Điều 6.2
của Nghị định thư về Giải quyết tranh chấp trong WTO. Điều 6.2 quy định “...
xác định rõ các biện pháp cụ thể đang được bàn cãi và cung cấp tóm tắt ngắn
gọn về cơ sở pháp lý của đơn kiện đủ để trình bày các vấn đề một cách rõ ràng”.
Bên cạnh đó, Mỹ cũng lập luận rằng, Việt Nam không thể hiện rõ nội dung này
là “các biện pháp đang gây tranh cãi” trong yêu cầu tham chiếu.

Lập luận của VN : yêu cầu tham vấn từ phía Việt Nam cho rằng phía Mỹ đã và đang
tiến hành các hoạt động nằm trong diện bị phản đối (phương pháp tính biên độ “quy về
0”, thuế suất toàn quốc và giới hạn số lượng bị đơn rà soát đơn lẻ). Những hành động
này không chỉ đã diễn ra, mà vẫn đang diễn ra và sẽ diễn ra trong tương lai, và vì vậy
hàm chứa các tác động sau này. Phía Việt Nam cho rằng Việt Nam đã định nghĩa rõ vấn
đề “Việc tiếp tục sử dụng các biện pháp bị khiếu kiện” trong yêu cầu tham vấn. Điều mà
Việt Nam muốn Ban Hội thẩm thẩm định ở đây là bản chất liên tục và đang tiếp diễn
của các hoạt động của Phòng Thương mại Mỹ.
Kết luận của Ban hội thẩm: Ban Hội thẩm cho rằng Việt Nam chưa định nghĩa rõ
ràng khái niệm “Việc tiếp tục sử dụng các biện pháp bị khiếu kiện” như là một vấn đề
đang gây tranh cãi. Trong yêu cầu tham vấn của Việt Nam không hàm chứa từ ngữ cho
thấy Việt Nam cho rằng các hoạt động tương lai của DOC có là vấn đề đang gây tranh
cãi hay không, mà chỉ có các biện pháp đã tồn tại và đang diễn ra tính từ ngày ghi trên
yêu cầu tham vấn. Vì vậy Ban Hội thẩm kết luận rằng “Việc tiếp tục sử dụng các biện
pháp bị khiếu kiện” không nằm trong Điều khoản tham chiếu của Ban Hội thẩm. Như
vậy, các biện pháp hiện đang gây tranh cãi là Quyết định của DOC trong lần rà soát
hành chính và điều tra lần thứ 2 và 3 và phương pháp tính biên độ phá giá “quy về 0”
của Mỹ.

16
3.3. Vấn đề 2: Khiếu nại của Việt Nam liên quan đến phương pháp quy về 0 của
Mỹ
Ban Hội thẩm ủng hộ khiếu kiện của Việt Nam rằng việc Bộ Thương mại Hoa Kỳ sử
dụng “quy về 0” khi tính biên độ phá giá cho các nhà xuất khẩu được lựa chọn trong
cuộc kiểm tra riêng lẻ khi tiến hành rà soát lần hai và lần ba là không phù hợp với Điều
2.4 của Hiệp định chống bán phá giá (CBPG). Ban Hội thẩm thực thi Điều khoản nền
kinh tế tư pháp liên quan tới các khiếu kiện vi phạm bổ sung theo Điều 9.3, 2.1 và 2.4.2
của Hiệp định CBPG.

Ban Hội thẩm ủng hộ khiếu kiện của Việt Nam rằng phương pháp “quy về 0” của
Hoa Kỳ, liên quan tới việc sử dụng “quy về 0” trong rà soát hành chính, là không phù
hợp với Điều 9.3 của Hiệp định CBPG và Điều VI:2 của GATT 1994. Ban Hội thẩm
ban đầu kết luận rằng Việt Nam đã chứng minh được sự tồn tại của “phương pháp quy
về 0” như một điều luật hay quy tắc chung và cả áp dụng trong tương lai.
Ban Hội thẩm sau đó, dựa vào phán quyết trước đó của Cơ quan Phúc thẩm, đã kết
luận “quy về 0” trong rà soát hành chính, vì thế, không phù hợp với hai điều khoản nêu
trên.

3.4. Vấn đề 3: Khiếu nại của Việt Nam liên quan đến việc mỹ giới hạn số lượng bị
đơn được chọn để tiến hành điều tra
Luận điểm của VN: Việt Nam cho rằng việc USDOC( bộ thương mại hoa kì )
quyết định giới hạn số lượng các bị đơn thuộc diện kiểm tra là trái với các Điều 6.10,
6.10.2, 9.3, 11.1, và 11.3 của ADA(hiệp định chống bán phá giá ). Câu đầu tiên của
Điều 6.10 quy định rằng “Các cơ quan có thẩm quyền sẽ quyết định một biên độ phá giá
cho mỗi nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất được biết đến là người cung cấp sản phẩm
đang bị điều tra.”, nhưng việc Mỹ giới hạn số lượng các bị đơn thuộc diện kiểm tra ĐÃ
KO thực hiện đúng theo điều này. Hơn nữa, điều này cũng làm cho các điều khoản 9.3,

17
11.1 và 11.3, vốn dựa trên sự tồn tại của biên độ bán phá giá riêng lẻ, trở nên vô nghĩa.
Cụ thể là, điều 9.3 quy định “Mức thuế chống bán phá giá không được phép vượt quá
biên độ bán phá giá...”, vì vậy việc Mỹ không kiểm tra đầy đủ các doanh nghiệp đơn lẻ
mà áp thuế là trái với điều khoản này.
Đối với Điều 9.3, Mỹ lập luận rằng trong trường hợp này không nhất thiết phải có
mối liên hệ giữa thuế chống bán phá giá áp dụng cho các bị đơn không được chọn với
biên độ phá giá, vì những bị đơn này không được Mỹ xác định biên độ phá giá.

Hơn nữa, hành vi này của Mỹ còn khiến cho các DN không được kiểm tra không thể
thực thi nghĩa vụ phù hợp với Điều 11.1: “Thuế chống phá giá chỉ áp dụng trong khoảng
thời gian và mức độ cần thiết để chống lại các trường hợp bán phá giá gây thiệt hại trong
nước.”
Và Điều 11.3: “Các cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét lại yêu cầu tiếp tục duy trì
thuế chống phá giá trong trường hợp các cơ quan thấy cần thiết hoặc trên cơ sở đề nghị
của các bên có liên quan đã cung cấp các thông tin tích cực đủ để đề nghị xem xét lại”,
vì vậy các doanh nghiệp không được kiểm tra sẽ không thể chứng minh được việc họ đã
dừng hành động phá giá hay chưa.
Đối với Điều 11.1 Mỹ cho rằng điều này không có liên quan gì đến trường hợp tranh
chấp, bởi điều này quy định nghĩa vụ chung đối với việc chống bán phá giá mà không
xét đến mức thuế cụ thể áp dụng cho những doanh nghiệp đơn lẻ. Đối với Điều 11.3, Mỹ
lập luận rằng rà soát cuối kỳ không nằm trong phạm vi tham vấn của Ban Hội thẩm, vậy
nên cáo buộc của Việt Nam là không hợp lệ

Luận điểm của Mỹ: Mỹ lập luận rằng, Điều 6.10 ADA cho phép cơ quan điều tra
được giới hạn số lượng bị đơn khi hội đủ một số điều kiện, cụ thể là số lượng doanh

18
nghiệp vượt qua mức mà khiến cho việc xác định biên độ phá giá cho mỗi doanh nghiệp
“không thể thực hiện được”. Mỹ cũng lưu ý rằng, Việt Nam đã cáo buộc Mỹ vi phạm
Điều 6.10 mà không xét đến việc liệu Mỹ có làm trái với việc lựa chọn số lượng bị đơn
lớn nhất một cách hợp lý hay không và Mỹ có thể làm như vậy hay không. Vì vậy mà
cáo buộc của Việt Nam về việc Mỹ vi phạm Điều 6.10 là không có cơ sở.
Đối với Điều 9.3, Mỹ lập luận rằng trong trường hợp này không nhất thiết phải có
mối liên hệ giữa thuế chống bán phá giá áp dụng cho các bị đơn không được chọn với
biên độ phá giá, vì những bị đơn này không được Mỹ xác định biên độ phá giá.
Đối với Điều 11.1 Mỹ cho rằng điều này không có liên quan gì đến trường hợp tranh
chấp, bởi điều này quy định nghĩa vụ chung đối với việc chống bán phá giá mà không
xét đến mức thuế cụ thể áp dụng cho những doanh nghiệp đơn lẻ. Đối với Điều 11.3, Mỹ
lập luận rằng rà soát cuối kỳ không nằm trong phạm vi tham vấn của Ban Hội thẩm, vậy
nên cáo buộc của Việt Nam là không hợp lệ.
Kết luận của Ban Hội thẩm:
Về cơ bản, Ban Hội thẩm đồng ý với lập luận của phía Mỹ. Bởi vì cáo buộc của Việt
Nam không đề cập đến liệu việc điều tra tất cả các doanh nghiệp có thực hiện được hay
không và số lượng doanh nghiệp nên được chọn là bao nhiêu, nên Ban Hội thẩm cho
rằng hành động giới hạn số lượng doanh nghiệp bị kiểm tra là phù hợp với điều khoản
6.10. Hay nói cách khác, lập luận của Việt Nam không đánh trúng vào vấn đề. Đối với
các khiếu nại liên quan đến các điều khoản 9.3, 11.1 và 11.3, các khiếu nại này dựa trên
giả định rằng việc tiến hành kiểm tra và xác định biên độ phá giá riêng rẽ cho mỗi bị
đơn cần phải được thực hiện (thể hiện ở câu đầu tiên của điều 6.10), tuy nhiên câu thứ 2
của Điều 6.10 lại mở ra một trường hợp mà ở đó giả định trên của Việt Nam có thể
không được thực hiện. Vì vậy lập luận trong cáo buộc liên quan đến các điều khoản 9.3,
11.1 và 11.3 của Việt Nam không được chấp nhận. Kết luận của Ban Hội thẩm: Ban Hội
thẩm bác bỏ khiếu nại của Việt Nam liên quan đến các Điều 6.10, 9.3, 11.1, và 11.3 của
Hiệp định Chống bán phá giá.

19
3.5. Vấn đề 4: Khiếu nại của Việt Nam liên quan đến mức thuế suất chung áp
dụng cho những bị đơn tự nguyện nhưng không được Mỹ chọn để tiến hành
điều tra.
Lập luận của Việt Nam: Việt Nam lập luận rằng vì lãi suất “all other” được xây
dựng trên biên độ phá giá theo Điều 9.4 ADA, mà biên độ phá giá cần phải được tính
dựa trên nền tảng phù hợp với Điều 2 ADA, trong khi phương pháp tính “quy về 0” của
Mỹ trái với điều này cho nên việc tính lãi suất “all other” của Mỹ áp cho các bị đơn tự
nguyện nhưng không được điều tra đã vi phạm Điều 9.4 ADA.
Lập luận của Mỹ: phía Mỹ lập luận rằng họ không vi phạm Điều 9.4 ADA bởi thứ
nhất, Điều 9.4 không quy định phương pháp tính thuế cho các bị đơn không được chọn,
và thứ hai, không quy định cách tính biên độ phá giá cho doanh nghiệp tự nguyện trong
trường hợp khiếm khuyết (lacuna) trong đó biên độ phá giá của các doanh nghiệp được
chọn là bằng 0 hoặc không đáng kể (de minimis). Mỹ còn lập luận thêm vào rằng Điều
9.4 ADA không cấm phương pháp zeroing, và thậm chí nếu phương pháp này có bị cấm
bởi điều khoản khác trong ADA thì cũng không có nghĩa là nó vi phạm Điều 9.4.
Ngoài ra, phía Mỹ còn cho rằng, bởi vì Việt Nam chưa gia nhập WTO vào thời điểm
cuộc điều tra đầu tiên diễn ra, nên lãi suất “all other” được tính toán ở thời điểm đó
không vi phạm hiệp định ADA. Trong các lần điều tra và rà soát thứ 2 và thứ 3, DOC
chỉ đơn giản áp dụng mức thuế đã có sẵn từ lần thứ nhất, do vậy Việt Nam không có lý
khi cáo buộc Mỹ sử dụng Zeroing vi phạm ADA trong các lần rà soát thứ 2 và thứ 3.
Lập luận của Mỹ dựa trên Điều 18.3 ADA, quy định rằng “Theo quy định trong các
đoạn 3.1 và 3.2, các quy định của Hiệp định này sẽ được áp dụng trong quá trình điều
tra và rà soát các biện pháp đang áp dụng trong thời điểm hiện tại được bắt đầu theo
đúng các đơn đề nghị đã được gửi kể từ ngày Hiệp định WTO có hiệu lực đối với Thành
viên đó”.
Kết luận của Ban Hội thẩm:
Ban Hội thẩm đồng ý với luận điểm của Việt Nam cho rằng việc sử dụng Zeroing, bất
chấp biên độ phá giá của các bị đơn được chọn là 0, de minimis hay dựa trên những

20
chứng cứ có sẵn là trái với Điều 9.4 ADA. Đối với lập luận của Mỹ về tồn tại Lacuna
trong Điều 9.4, Ban Hội thẩm viện dẫn tuyên bố của Ban Phúc thẩm trong vụ US-
Zeroing (EC) cho rằng “... sự thiếu vắng chỉ dẫn cụ thể (trong trường hợp lacuna) đối
với phương pháp tính toán không hàm ý sự thiếu vắng nghĩa vụ đối với lãi suất “all
other” áp dụng cho các bị đơn không được chọn khi mà biên độ phá giá của bị đơn được
chọn là 0, de minimis hoặc dựa vào chứng cứ có sẵn”.
Đối với lập luận của Mỹ về việc lãi suất “all other” được thiết lập trong lần điều tra
thứ nhất, Ban Hội thẩm có các bằng chứng chứng minh rằng việc lựa chọn lãi suất đó
trong các lần rà soát thứ 2 và 3 đều đã được DOC cân nhắc lựa chọn trước khi đưa ra
quyết định cuối cùng, và vì vậy hành động này được coi như tính toán mức lãi suất cho
lần 2 và 3. Vì vậy, Ban Hội thẩm cho rằng, việc Mỹ sử dụng Điều 18.3 để biện minh cho
lãi suất “all other” áp dụng trong lần rà soát thứ 2 và 3 là không thích đáng, và Mỹ đã vi
phạm điều khoản WTO.
3.6. Vấn đề 5: Khiếu nại của Việt Nam liên quan đến biên độ phá giá áp dụng cho
toàn quốc
Lập luận của Việt Nam: Việt Nam cho rằng việc Mỹ không áp dụng thuế “all others
rate” cho toàn quốc đã vi phạm Điều 9.4 Hiệp định chống bán phá giá bởi vì Điều 9.4
quy định thì cơ quan điều tra phải tiến hành điều tra xác định thuế suất riêng cho từng bị
đơn trong vụ việc chống bán phá giá; trong trường hợp không thể điều tra hết được (do
số lượng bị đơn quá nhiều và nguồn lực của cơ quan điều tra hạn chế), cơ quan này có
thể chỉ điều tra một số lượng bị đơn nhất định, số bị đơn còn lại (không được điều tra) sẽ
được hưởng thuế suất bằng bình quân gia quyền của các bị đơn được điều tra. Luận
điểm của Việt Nam chủ yếu dựa vào chữ “any” (bất kỳ) trong Điều 9.4: “When the
authorities have limited their examination in accordance with the second sentence of
paragraph 10 of Article 6, any anti-dumping duty applied to imports from exporters or
producers not included in the examination shall not exceed:...”. Như vậy, với quy định
này, sẽ chỉ có 2 loại thuế suất là “thuế suất riêng cho bị đơn bắt buộc” (individual rates),
“thuế suất cho các bị đơn còn lại” (“all other” rate) trong vụ điều tra chống bán phá giá.

21
Tuy nhiên DOC còn áp dụng thêm loại “thuế suất toàn quốc” (country-wide rate) cho
các trường hợp bị đơn không được lựa chọn điều tra và không thỏa mãn điều kiện “hoạt
động độc lập, không chịu sự kiểm soát của Nhà nước” để được hưởng mức “all others
rate”. Việt Nam lập luận rằng theo Điều 9.4 nói trên thì thuế suất loại “all others” được
áp dụng không kèm theo điều kiện gì, việc DOC đặt thêm điều kiện “doanh nghiệp phải
chứng minh được mình độc lập khỏi sự kiểm soát của Nhà nước” là vi phạm điều khoản
hiệp định WTO.
Để đáp lại, phía Mỹ lập luận rằng mức thuế toàn quốc của họ được tính toán dựa trên
các chứng cứ có sẵn (available fact) phù hợp với Điều 6.8 chứ không dựa trên cách tính
bình quân gia quyền của các đơn vị bị điều tra. Điều 6.8 quy định rằng: “Trong trường
hợp bất kỳ bên nào đó từ chối không cho tiếp cận thông tin hoặc từ chối không cung cấp
các thông tin trong một khoảng thời gian hợp lý hoặc ngăn cản đáng kể công tác điều
tra, quyết định sơ bộ và quyết định cuối cùng, dù khẳng định hay từ chối, đều có thể
được đưa ra dựa trên cơ sở các chứng cứ sẵn có. Các qui định tại Phụ lục II sẽ được tuân
thủ khi áp dụng khoản này”. Tuy nhiên, phía Việt Nam lập luận rằng trong lần rà soát
thứ 2, cho rằng Phòng Thương mại Mỹ đã vi phạm Điều 6.8 ADA bởi các công ty bị
đơn bên phía Việt Nam đã không hề vi phạm việc không cung cấp thông tin “cần thiết”
cho phía Mỹ. Cụ thể hơn, phía Việt Nam cho rằng việc trả lời các câu hỏi điều tra Q&V
của Mỹ là không cần thiết theo Điều 6.8 ADA để có thể đưa ra mức thuế, bởi trong lần
rà soát thứ 3 Mỹ đã không yêu cầu phía các doanh nghiệp Việt Nam cung cấp thông tin
này mà thay vào đó lấy dữ liệu từ một cơ quan khác trong chính phủ Mỹ.
Lập luận của Mỹ: Mỹ biện luận rằng Điều 9.4 ADA không đề cập đến mức thuế tối
đa áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp còn lại, và Điều 9.4 có khiếm khuyết như đã
trình bày ở trên, vì vậy nên USDOC không vi phạm Điều 9.4 trong các cuộc rà soát
hành chính lần 2 và lần 3.
Lý do Mỹ áp dụng thuế suất toàn quốc bởi Mỹ cho biết có 35 công ty xuất khẩu tôm
của Việt Nam đã không trả lời câu hỏi điều tra của Mỹ về “trị giá và số lượng”, mà theo
Mỹ thì dữ liệu này là cần thiết để phía Mỹ có thể xác định bị đơn nào sẽ được lựa chọn

22
kiểm tra riêng lẻ. Vì vậy mà phía Mỹ khẳng định rằng họ được quyền áp thuế “dựa trên
những chứng cứ sẵn có” cho toàn quốc thay vì thuế áp dụng cho “các bị đơn khác”.

Kết luận của Ban Hội thẩm:


Ban Hội thẩm đồng ý với luận điểm cho rằng Điều 9.4 không thừa nhận việc chính
quyền có thể áp một mức thuế “cho tất cả doanh nghiệp còn lại” đi kèm với bất kỳ điều
kiện thêm vào. Như vậy có nghĩa là Ban Hội thẩm xác định việc Mỹ quyết định áp dụng
mức thuế riêng cho các doanh nghiệp trên toàn quốc là vi phạm Điều 9.4 ADA.
Ban Hội thẩm cho rằng Phòng Thương mại Mỹ không có lý khi tuyên bố dữ liệu
Q&V là “cần thiết” theo ý hiểu của điều 6.8 ADA bởi nguyên tắc các bị đơn không
chứng minh được sự độc lập với nhà nước sẽ không được chọn đã được xác định từ
trước khi tuyên bố đưa ra câu hỏi Q&V. Điều này được thể hiện trong chương 10 của
“Cẩm nang Chống bán phá giá” của Phòng Thương mại Mỹ, và trong tuyên bố của
Phòng Thương mại Mỹ trước khi lần rà soát thứ 2 diễn ra rằng: “Việc áp thuế toàn quốc
cho các bị đơn không độc lập với nhà nước là chính sách của Phòng Thương mại Mỹ”.

23
CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
4.1. Kết quả từ chiến thắng của Việt Nam trong vụ tranh chấp DS404-WTO
Từ năm 2004 đến nay, trải qua 7 đợt rà soát cùng với nỗ lực bền bỉ của các doanh
nghiệp tham gia theo đuôi vụ kiện, ngày 10.9.2013, Bộ thương mại Hoa Kỳ (DOC) cuối
cùng cũng đã phải thừa nhận thực tế là các doanh nghiệp xuất khẩu tôm Việt Nam
không bán phá giá và lần đầu tiên DOC đã ra quyết định mức thuế 0% cho tất cả các
doanh nghiệp xuất khẩu tôm Việt Nam tham gia xem xét hành chính thuế chống bán phá
giá. Cụ thể DOC đã công nhận toàn bộ 33 doanh nghiệp Việt Nam tham gia đợt xem xét
hành chính lần thứ 7(POR7) giai đoạn 1/2/2011-31/1/2012 đều không bán phá giá tôm
trên thị trường Hoa Kỳ và nhận được mức thuế 0%. Với mức thuế giảm về 0%, hàng
thủy sản Việt Nam sẽ xâm nhập nhiều vào thị trường này và giá trị mặt hàng tăng lên, có
sức cạnh tranh cao. Đây là cơ hội lớn cho cả doanh nghiệp và người nuôi tôm được bán
với giá thỏa đáng hơn, mang lợi nhuận nhiều hơn.
4.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ vụ tranh chấp DS404-WTO
 Cần xác định phạm vi và thời điểm khởi kiện hợp lý
Trên thực tế, các nội dung mà Việt Nam khiếu kiện liên quan đến các biện pháp của
Hoa Kỳ trong đợt điều tra lần đầu, trong các đợt rà soát hành chính và rà soát cuối kỳ
của vụ kiện chống bán phá giá tôm của Việt Nam tại Hoa Kỳ. Trong khi đó, đợt điều tra
lần đầu và đợt ra soát hành chính thứ nhất đã hoàn toàn diễn ra trước khi Việt Nam gia
nhập WTO. Vậy nên các biện pháp do Hoa Kỳ thực hiện vào thời điểm đó không thể bị
khiếu kiện và xem xét bởi Panel. Đồng thời đối với đợt rà soát hành chính lần 4 và 5
cũng như đợt rà soát cuối kì vẫn chưa có kết quả cuối cùng khi Việt Nam khởi kiện ra
WTO. Về nguyên tắc, cũng không thuộc thẩm quyền của Panel. Với những lí do này,
phạm vi khiếu kiện cũng như các kết luận của Panel chỉ liên quan đến các đợt rà soát
hành chính lần 2 và 3 của Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, việc có được phán quyết của WTO đối với đợt rà soát thứ 4, 5 và đợt rà
soát cuối kỳ mới thực sự có nghĩa đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Một mặt, vì các
quyết định giải quyết tranh chấp của WTO chỉ có giá trị hiệu lực cho tương lai, việc các

24
doanh nghiệp Việt Nam được giảm hoặc gỡ bỏ thuế chống bán phá giá trên cơ sở thực
thi quyết định giải quyết tranh chấp chỉ có thể được thực hiện từ đợt rà soát lần 4. Mặt
khác theo quy định của pháp luật Hoa Kỳ, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ được gỡ bỏ
lệnh áp dụng thuế bán phá giá và thoát khỏi vụ kiện nếu trong ba lần rà soát hành chính
liên tiếp biên độ bán phá giá của họ được xác định bằng không. Điều này chỉ có thể đạt
được khi tính cả đợt rà soát hành chính lần thứ 4.
Xuất phát từ bối cảnh bất lợi trên Việt Nam đã xác đinh "Việc tiếp tục sử dụng các
biện pháp bị khiếu kiện" của Hoa Kỳ là một trong những nội dung khiếu kiện, yêu cầu
Panel giải quyết. Tuy nhiên, phía Hoa Kỳ cho rằng Panel không có thẩm quyền giải
quyết vì Việt Nam đã không nêu trong văn bản yêu cầu thành lập Panel "việc tiếp tục sử
dụng biện pháp bị khiếu kiện" là biện pháp mà Việt Nam khiếu kiện và không phù hợp
với cơ chế giải quyết tranh chấp.
Như vậy, liên quan tới nội dung khiếu kiện thứ 7, bài học kinh nghiệm rút ra từ vụ
kiện Tôm là việc xác định phạm vi vụ kiện và thời điểm vụ kiện. Vụ kiện rất có thể đã
có kết quả trọn vẹn hơn đối với Việt Nam nếu thời điểm khởi kiện được thực hiện sau
đợt rà soát hành chính lần 4 của Hoa Kỳ, hoặc đơn yêu cầu thành lập Panel đã nêu rõ
"việc tiếp tục sử dụng các biện pháp bị khiếu khiện" là một trong những nội dung khiếu
kiện.
 Tăng cường tính chủ động của các doanh nghiệp
Vụ kiện tôm đã cung cấp một bài học đắt giá cho doanh nghiệp Việt Nam: sự cần
thiết tăng cường nhận thức và tính chủ động của các doanh nghiệp trong việc giải quyết
các tranh chấp thương mại quốc tế. Trong vụ kiện này, tại nội dung khiếu kiện thứ 6 của
mình, Việt Nam yêu cầu Panel tuyên bố Hoa Kỳ đã vi phạm Điều 6.10.2 của Hiệp định
chống bán phá giá của WTO khi Hoa Kỳ đã giới hạn các doanh nghiệp Việt Nam được
lựa chọn điều tra riêng rẽ.
Tuy nhiên, trong quá trình tiến hành rà soát hành chính, đã không có doanh nghiệp
Việt Nam nào không được lựa chọn nhưng vẫn tự nguyện cung cấp thông tin như theo
quy định tại Điều 6.10.2.

25
Sự thụ động của các doanh nghiệp, vai trò, hạn chế của các hiệp hội doanh ngiệp, các
ngành hàng Việt Nam, nguyên nhân chính là do các doanh nghiệp trong nước chủ yếu là
vừa và nhỏ đồng thời chưa có nhiều kinh nghiệm, hiểu biết về giao thương quốc tế, đặc
biệt là kinh nghiệm ứng phó với các tranh chấp quốc tế.
 Cần xây dựng cơ chế quốc gia trong việc phòng, xử lí các tranh chấp thương
mại quốc tế
Xét về phương diện quản lí nhà nước, sự liên kết giữa các doanh nghiệp, ngành hàng
vẫn chưa có một khung pháp luật phù hợp khiến cho các doanh nghiệp lúng túng khi có
tranh chấp thương mại xảy ra. Trong quá trình diễn ra vụ kiện, mối quan hệ giữa các chủ
thể trên với các cơ quan nhà nước trong giải quyết thương mại quốc tế mới chỉ được đề
cập trong một chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ năm 2005. Do ban hành trước khi gia
nhập WTO nên chỉ thị đã có những nội dung trở nên lạc hậu. Chỉ thị mới chỉ nhấn mạnh
đến các tranh chấp thương mại tại nước ngoài, chưa đề cập hợp lí đến các việc giải
quyết tranh chấp tại các tổ chức quốc tế như WTO. Mặt khác chỉ thị cũng chưa thiết lập
được một cơ chế phối hợp chung giữa các cơ quan nhà nước với các doanh nghiệp, các
hiệp hội doanh nghiệp. Đặc biệt nội dung của văn bản chỉ mang tính chất điều hành, giá
trị quy phạm thấp.
Vì vậy, Việt Nam cần sớm xây dựng một cơ chế quốc gia trong phòng và xử lí tranh
chấp thương mại quốc tế có thể giải quyết đồng thời các vấn đề cơ bản như: các biện
pháp, cơ chế phòng và cảnh báo sớm các tranh chấp; quy trình phát hiện, xử lí tranh
chấp từ giai đoạn chuẩn bị hồ sơ và theo đuổi thủ tục giải quyết; xác định cơ quan chủ
trì, phối hợp và tham gia giải quyết tranh chấp; các biện pháp, quy trình cho phép sự
tham gia của cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức xã hội nghề nghiệp khác trong quá
trình giải quyết tranh chấp; vấn đê huy động và sử dụng nguồn kinh phí giải quyết tranh
chấp; giải quyết thích đáng cơ chế phối hợp giữa các doanh nghiệp, hiệp hội doanh
nghiệp, ngành hàng với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc đối phó với các
tranh chấp thương mại quốc tế nói chung và các tranh chấp tại WTO nói riêng.

26
 Nâng cao hơn nữa vai trò của các Hiệp hội doanh nghiệp
Khi hàng loạt các doanh nghiệp Việt Nam đang bị Hoa Kỳ áp mức thuế chống bán
phá giá ảnh hưởng tới doanh thu, các Hiệp hội doanh nghiệp bao gồm Hiệp hội Chế biến
và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam (VCCI) đã chủ động, tích cực trong việc phát hiện vấn đề, đề xuất lên Chính phủ
về việc khởi kiện Hoa Kỳ ra WTO cũng như tham gia vào quá trình chuẩn bị cho vụ
việc, tham gia tích cực hiệu quả vào việc lựa chọn luật sư tư vấn cho vụ việc. Tuy nhiên,
sau khi vụ việc được bắt đầu các Hiệp hội đã không có cơ hội phối hợp, sát cánh cùng
cơ quan Nhà nước liên quan trong quá trình giải quyết vụ việc, không được tiếp cận với
các báo cáo về vụ việc của phía Việt Nam và không rút ra được kinh nghiệm từ vụ việc
tranh chấp đầu tiên này. Việc VCCI và VASEP bị đặt ra ngoài quá trình giải quyết tranh
chấp WTO vừa rồi là một sự đáng tiếc nho nhỏ trong niềm vui chiến thắng của vụ kiện.
Nếu được tham gia, họ đã có thể có những tư vấn để các luật sư và các cơ quan liên
quan có thêm những thông tin pháp lý và thực tiễn từ góc độ của họ. Bên cạnh đó, việc
cho phép các Hiệp hội tham gia và tiếp cận thông tin vụ kiện sẽ mang đến cho họ những
kinh nghiệm quý báu, từ đó có thể làm tốt hơn nữa trong những vụ kiện WTO khác
trong tương lai.
Vì vậy, cần nâng cao hơn nữa vai trò của các Hiệp hội doanh nghiệp trong việc tham
gia phối hợp cùng cơ quan nhà nước để giải quyết các các tranh chấp thương mại quốc
tế, đặc biệt các tranh chấp trong WTO.
 Tích cực tham gia tranh chấp với tư cách là bên thứ ba
Ngoài ý nghĩa làm quen với quy trình tố tụng tại WTO, sử dụng các cơ hội để thể
hiện quan điểm của mình trong các vụ tranh chấp, việc Việt Nam tích cực tham gia với
tư cách là bên thứ ba vào các vụ tranh chấp đã có những tác dụng đáng kể trong quá
trình thực hiện vụ kiện Tôm, đặc biệt liên quan đến nội dung khiếu kiện phương pháp
“Quy về không” của Hoa Kỳ. Việc nắm bắt và sử dụng những án lệ phong phú của
WTO về biện pháp “quy về không” của Hoa Kỳ đã đóng góp một phần rất quan trọng

27
vào chiến thắng của Việt Nam trong vụ kiện Tôm này.
Vì vậy, Việt Nam cần tham gia nhiều hơn nữa với tư cách là bên thứ ba vào các vụ
tranh chấp nhằm học hỏi cũng như tích lũy kinh nghiệm để có thể tránh khỏi hoặc dễ
dàng giải quyết các tranh chấp có thể xảy ra trong tương lai.

28
KẾT LUẬN
“Tôm nước ấm DS404” là vụ kiện đầu tiên của Việt Nam tại WTO với tư cách là
nguyên đơn. Dù gặp nhiều khó khăn trong quá trình tham gia vụ kiện nhưng nhờ vào
những lập luận chặt chẽ, những nỗ lực của các cơ quan chính phủ và các hiệp hội doanh
nghiệp trong nước, chúng ta đã giành được thắng lợi ở hầu hết các điều khoản khiếu
kiện. Vụ kiện này đã để lại rất nhiều bài học kinh nghiệm cho các cơ quan trong nước có
liên quan trong việc giái quyết tranh chấp thương mại quốc tế đặc biệt là các tranh chấp
tại WTO trong tương lai. Chính phủ cần tích cực và chủ động hơn nữa trong việc phát
hiện vấn đề và nâng cao hơn nữa vai trò của các Hiệp hội doanh nghiệp để các vụ kiện
trong tương lai thu được kết quả cao hơn. Không chỉ vậy, vụ kiện như một lời cảnh tỉnh
cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước cần chủ động, tích cực nắm nõ hơn nữa luật
thương mại tại các nước nhập khẩu cũng như luật thương mại quốc tế khi tham gia vào
nền thương mại toàn cầu để đảm bảo lợi ích kinh tế cho chính doanh nghiệp của mình.

29
CÂU HỎI ÔN TẬP TRẮC NGHIỆM
Câu 1. Vụ DS404 là vụ kiện tranh chấp giữa:
A. Việt Nam và Hoa Kỳ.
B. Việt Nam và Trung Quốc.
C. Việt Nam và Liên minh Châu Âu.
D. Việt Nam và Nhật Bản.
Câu 2. Việt Nam đã kiện Hoa Kỳ tại WTO về vụ DS404 vào năm nào?
A. 2009.
B. 2010.
C. 2011.
D. 2012.
Câu 3. Vụ DS404 liên quan đến vấn đề gì?
A. Biện pháp chống bán phá giá đối với tôm Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ.
B. Biện pháp chống trợ cấp đối với cá tra Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ.
C. Rào cản thương mại đối với hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ.
D. Vi phạm quyền sở hữu trí tuệ của Việt Nam tại Hoa Kỳ.
Câu 4. Vụ tranh chấp DS404 liên quan đến sản phẩm nào của Việt Nam?
A. Gạo
B. Thủy sản
C. Trái cây
D. Đường
Câu 5. Đâu là nội dung chính của vụ tranh chấp DS404 về chống bán phá giá đối với sản
phẩm tôm của Việt Nam?
A. Việt Nam tăng giá xuất khẩu tôm đột ngột.
B. Việt Nam áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với tôm nhập khẩu.
C. Các nước thành viên WTO cáo buộc Việt Nam bán tôm dưới giá thành.
D. Việt Nam tăng cường xuất khẩu tôm sang thị trường châu Âu.

30
Câu 6. Phương pháp "quy về 0" (zeroing) được áp dụng trong ngữ cảnh nào?
A. Rà soát hành chính của Hoa Kỳ
B. Rà soát đối với các nhà nhập khẩu mới
C. Điều luật và quy định của Hoa Kỳ
D. Thủ tục hành chính của Hoa Kỳ
Câu 7. Trong khiếu kiện của Việt Nam về vấn đề "quy về 0" (zeroing), Ban Hội thẩm
của WTO kết luận rằng phương pháp này vi phạm các điều khoản nào trong
Hiệp định về chống bán phá giá của WTO?
A. Điều 2.4 và 9.3
B. Điều 9.4
C. Điều 19.1
D. Điều khoản GATT 1994
Câu 8. Đối với Việt Nam, việc xác định phạm vi và thời điểm khởi kiện trong vụ tranh
chấp DS404-WTO là quan trọng vì:
A. Nếu không xác định rõ phạm vi, Việt Nam sẽ không thể khiếu kiện.
B. Việc khởi kiện quá sớm sẽ làm mất quyền khiếu kiện của Việt Nam.
C. Việc khởi kiện quá trễ sẽ khiến Việt Nam không nhận được bất kỳ lợi ích nào từ vụ
tranh chấp.
D. Tất cả các phương án trên.
Câu 9. Các quyết định giải quyết tranh chấp của WTO có hiệu lực như thế nào đối với
các biện pháp chống bán phá giá đã áp dụng trong quá khứ?
A. Có hiệu lực ngay lập tức đối với tất cả các biện pháp chống bán phá giá đã áp dụng
trong quá khứ.
B. Chỉ có hiệu lực cho các biện pháp chống bán phá giá áp dụng từ thời điểm
quyết định được đưa ra.
C. Không có tác động đến các biện pháp chống bán phá giá đã áp dụng trong quá khứ.
D. Chỉ có hiệu lực sau khi được chấp thuận bởi quốc gia khiếu kiện.

31
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] “Vụ kiện đầu tiên của Việt Nam tại WTO và Câu chuyện về những người phất ngọn
cờ hồng”, Trung tâm WTO và Hội nhập Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam.
https://chongbanphagia.vn/vu-kien-dau-tien-cua-viet-nam-tai-wto-va-cau-chuyen-ve-
nhung-nguoi-phat-ngon-co-hong-n3764.html
[2] "Kiện chống bán phá giá", VCCI - Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.
https://trungtamwto.vn/upload/files/wto/4-cac-hiep-dinh-co-ban/1-5_banphagia.pdf
[3] Nguyễn Tiến Vinh - Th.S.- Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, “Chống bán phá
giá trong thương mại quốc tế,”.
https://chongbanphagia.vn/chong-ban-pha-gia-trong-thuong-mai-quoc-te-n474.html
[4] Trường Đại học Cần Thơ, “Zeroing - Luật Thương mại,”
https://www.studocu.com/vn/document/truong-dai-hoc-can-tho/kinh-te-vi-mo/
zeroing-luat-thuong-mai/51112784

32
Phụ lục 2: Biên bản họp nhóm

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

BIÊN BẢN HỌP NHÓM


(V/v Phân công công việc làm bài tiểu luận )
1. Thời gian, địa điểm, thành phần tham dự.
1.1. Thời gian: 07/04/2024
1.2. Địa điểm: qua phòng họp Zoom
1.3. Thành phần tham dự:
+ Chủ trì: Mai Thị Phương Thảo
+ Tham dự: 10 thành viên
+ Vắng: 0
2. Nội dung cuộc họp
2.1. Nhóm trưởng phân công công việc cho các thành viên như sau:
STT Họ Tên MSSV Nhiệm vụ Mức độ hoàn Ghi
thành công việc chú
1 Nguyễn Khánh Hiền 2036221345 Word chương 2 100%
2 Nguyễn Thị Kiều 2036221931 Word chương 4 + 100%
phần Kết luận
3 Trà Nguyễn Yến Nhi Word phần Mở 100%
2036223388
đầu + chương 1
4 Lương Tiểu Quyên 2036224026 Tổng hợp Word 100%
5 Mai Thị Phương Thảo 2036224793 Thuyết trình 100%
6 Phan Thị Thảo 2036224798 Word chương 3 100%
7 Nguyễn Thị Anh Thư 2040225189 Word chương 2 100%
8 Trần Thị Mộng Thường 2036225309 Power Point 100%
9 Phạm Thụy Thanh Trúc 2036225651 Thuyết trình 100%
10 Phạm Thị Mỹ Vân 2036225787 Thuyết trình 100%

33
2.2. Ý kiến của các thành viên: Các thành viên đều đồng ý với ý kiến của nhóm
trưởng
2.3. Kết luận cuộc họp
Thống nhất lại nội dung cuộc họp sau khi có ý kiến của từng thành viên.
Cuộc họp đi đến thống nhất và kết thúc lúc ..20..giờ..00.. phút cùng ngày.
Chủ trì
( Ký và ghi rõ họ tên)

Mai Thị Phương Thảo

34

You might also like