You are on page 1of 47

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

KHOA LUẬT

BÀI TẬP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC


Đề tài: “Thực trạng và giải pháp hoàn thiện hợp đồng kinh doanh,
thương mại trong pháp luật Việt Nam”

Sinh viên thực hiện- Mã số Nguyễn Thị Thanh Mai - 11202470


sinh viên: Ngô Lan Hương - 11201716
Hoàng Phương Thảo - 11206919
Vũ Phương Linh - 11205928
Nguyễn Thị Phương Thảo - 11203688
Nguyễn Văn Quyết - 11203337
Nhữ Thu Hạnh - 11201377
Lớp: Quản trị doanh nghiệp CLC-K62

Giảng viên giảng dạy: ThS. Phạm Đức Chung


ThS. NCS. Nguyễn Thu Trang

Hà Nội, 12 tháng 01 năm 2022


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế, quá trình hoạt động kinh doanh nào cũng đều được thể hiện
thông qua hợp đồng. Do vậy, hợp đồng là một trong những phương tiện pháp lý giúp
các cá nhân, tổ chức trao đổi lợi ích nhằm thỏa mãn nhu cầu. Hợp đồng đóng vai trò
quan trọng trong việc vận hành nền kinh tế, là phương tiện giúp nhà nước quản lý các
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Thông qua việc ràng buộc pháp lý, các
chủ thể trong nền kinh tế phải có nghĩa vụ đối với nhau, là cơ sở thiết lập mối quan hệ
kinh doanh giữa các đối tác, khách hàng. Hiện nay, có nhiều trường hợp các bên giao
kết, ràng buộc hợp đồng với nhau xảy ra các tranh chấp kinh doanh đều xuất phát từ
những bất cập của hợp đồng thương mại. Trong quá trình thực hiện hợp đồng thương
mại theo luật thương mại 2005 tới nay, tồn tại rất nhiều bất cập như chậm thanh toán,vi
phạm hợp đồng hay bị đình chỉ hợp đồng.
Do đó, việc nắm vững kiến thức về pháp lý, hiểu rõ các quy định của pháp luật
thương mại sẽ giúp các chủ thể kinh doanh thuận lợi giao kết và thực hiện hợp đồng
một các hiệu quả. Hiện nay, ở Việt Nam vẫn còn khá nhiều thương nhân chưa nắm rõ
quy định trước khi ký kết các hợp đồng, dẫn đến tranh chấp, vi phạm đáng tiếc. Vì vậy,
trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang có nhiều động lực tăng trưởng và để lại
nhiều dấu ấn tích cực về thương mại quốc tế, việc nghiên cứu pháp luật về hợp đồng
thương mại, kinh doanh là cấp thiết. Hơn thế nữa, việc tích lũy các kiến thức pháp luật
đối với sinh viên Kinh tế Quốc dân là một hành trang cho tương lai. Do vậy, nhóm 6
chọn đề tài: “Thực trạng và giải pháp hoàn thiện hợp đồng kinh doanh, thương mại
trong pháp luật Việt Nam.”
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm mục đích làm rõ những vấn đề lý luận về hợp đồng
thương mại, thực trạng pháp luật ở Việt Nam hiện nay, đưa ra các vấn đề còn tồn đọng
và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thực hiện hợp đồng thương mại.
Để đạt được mục đích trên, nghiên cứu đề tài cần phải giải quyết những nhiệm vụ chủ
yếu sau:
Thứ nhất, xây dựng khái niệm, bản chất và các đặc điểm của hợp đồng, hợp đồng
thương mại
Thứ hai, phân tích các quy định của pháp luật về hợp đồng thương mại
Thứ ba, phân tích, đánh giá thực trạng tại Việt Nam: những kết quả đạt được và những
hạn chế của pháp luật
Thứ tư, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật, đề xuất ý kiến xây dựng để nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật về thực hiện hợp đồng thương mại.
3. Bố cục của luận văn
Chương 1: Cơ sở lý luận và tổng quan về HĐTM
Chương 2: HĐTM theo pháp luật ở Việt Nam
Chương 3: Giải pháp và định hướng nâng cao hiệu quả khi thực hiện HĐTM
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................................
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT..................................................................................
PHẦN NỘI DUNG........................................................................................................1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ HĐTM......................................1
1.1. CÁC LÝ THUYẾT VỀ HĐTM...............................................................................1
1.1.1. Hợp đồng..............................................................................................................1
1.1.1.1. Khái niệm hợp đồng..........................................................................................1
1.1.1.2. Phân loại hợp đồng............................................................................................1
1.1.1.3. Quy định của BLDS về hợp đồng......................................................................2
1.1.2. Khái quát về HĐTM.............................................................................................3
1.1.2.1. Khái niệm, đặc điểm HĐTM.............................................................................3
1.1.3. Các nguyên tắc thực hiện HĐTM.........................................................................5
1.2. NỘI DUNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ THỰC HIỆN HĐTM......................5
1.2.1. Quy định của pháp luật về đối tượng của hoạt động thương mại..........................6
1.2.2. Giá cả, phương thức thanh toán............................................................................7
1.2.3. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại...............................7
1.2.3.1 Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa....................8
1.2.3.2. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng dịch vụ..................................11
1.2.4. Chế tài xử phạt....................................................................................................13
Chương 2. HĐTM THEO PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM..............................................16
2.1. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THỰC HIỆN HĐTM..................................16
2.1.1. Yếu tố môi trường pháp lý..................................................................................16
2.1.2. Yếu tố cơ chế quản lý hành chính nhà nước về thương mại...............................17
2.1.3. Yếu tố cơ chế giải quyết tranh chấp về thương mại............................................18
2.1.4. Yếu tố văn hóa kinh doanh trong thực hiện HĐTM............................................19
2.2. TÌNH HÌNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THỰC HIỆN HĐTM.......................19
2.2.1. Quy định về đối tượng, quyền và nghĩa vụ các bên............................................19
2.2.1.1. Quy định về đối tượng.....................................................................................19
2.2.1.2. Quyền và nghĩa vụ các bên..............................................................................20
2.2.2. Đánh giá về thực trạng của hoạt động thương mại..............................................22
2.2.3. Vi phạm hợp đồng kinh doanh, mua bán............................................................25
2.2.3.1. Chế tài vi phạm hợp đồng kinh doanh, thương mại.........................................25
2.2.3.2. Mua bán hàng giả, hàng kém chất lượng khác so với bản hợp đồng đã ký, gây
tổn thất và phải bồi thường. (Điều 320 LTM 2005)......................................................29
2.2.4. Quy định lãi chậm thanh toán (Điều 306 LTM 2005).........................................31
Chương 3. GIẢI PHÁP VÀ ĐỊNH HƯỚNG NÂNG CAO HIỆU QUẢ KHI THỰC
HIỆN HĐTM................................................................................................................32
3.1.MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ HĐTM.................................................................................................................... 32
3.1.1. Phù hợp với chủ trường, đường lối chính sách phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam..................................................................32
3.1.2. Đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế trong xu thế hội nhập.......................................33
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN HĐTM.....................................................33
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật...........................................................................33
3.2.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật...................................................38
KẾT LUẬN.................................................................................................................. 40
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


1. LTM 2005: Luật Thương Mại 2005
2. BLDS 2015: Bộ Luật Dân Sự 2015
3. HĐTM: Hợp đồng thương mại
4. NĐ: Nghị định
5. Cty: Công ty
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ HĐTM

1.1. CÁC LÝ THUYẾT VỀ HĐTM

1.1.1. Hợp đồng

1.1.1.1. Khái niệm hợp đồng

Trong nền kinh tế thị trường có các chủ thể như: cá nhân, tổ chức, nhà nước…
tương ứng với mỗi chủ thể đó là một hình thức lợi ích như lợi ích cá nhân, lợi ích tập
thể, lợi ích quốc gia, dân tộc. Vì vậy mỗi cá nhân, tổ chức tham gia vào nhiều quan hệ
xã hội phong phú và đa dạng nhằm đạt được lợi ích và thỏa mãn nhu cầu vật chất cũng
như nhu cầu tinh thần. Trong các mối quan hệ pháp luật dân sự đó, hợp đồng là căn cứ
chủ yếu phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự. Hiện nay ở nước ta, hợp đồng được hiểu
là một cam kết giữa các bên để thỏa thuận về việc buôn bán, trao đổi... trong khuôn khổ
pháp luật.
Theo BLDS 2015, khái niệm về hợp đồng được khái quát: “Hợp đồng là sự thỏa
thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.
(Điều 385 BLDS 2015)
Trong hợp đồng, quyền và nghĩa vụ giữa các bên là đặc trưng cơ bản của nghĩa
vụ dân sự và có tính chất tương ứng. Quyền lợi của bên này chỉ đạt được khi bên kia
thực hiện nghĩa vụ đã được các bên xác nhận trong hợp đồng. Do vậy, mục đích của
hợp đồng là để dung hòa và thỏa mãn lợi ích giữa các bên. Hợp đồng là những giao
dịch dân sự phổ biến, là căn cứ để phát sinh nghĩa vụ dân sự. Vì vậy, những quy định
của pháp luật dân sự về giao dịch dân sự và nghĩa vụ dân sự thì cũng được áp dụng đối
với quan hệ hợp đồng.

1.1.1.2. Phân loại hợp đồng


Hợp đồng có thể chia thành nhiều loại theo những tiêu chí khác nhau

1
Thứ nhất, theo lĩnh vực xã hội. Hợp đồng không có tính chất kinh doanh hoặc hợp
đồng dân sự theo nghĩa hẹp giữa các hộ gia đình để thực hiện các giao dịch dân sự
nhằm thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt. Có thể kể đến như hợp đồng điện nước, hợp đồng
cho thuê nhà… Hợp đồng kinh doanh, thương mại là hợp đồng giữa các chủ thể đăng
ký kinh doanh mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh, thương mại. Hợp đồng
lao động là hợp đồng giữa người lao động và người sử dụng lao động.
Thứ hai, phân loại theo nội dung. Hợp đồng theo nghĩa vụ các bên. Theo cách phân
loại này, có thể chia theo sự tương xứng về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp
đồng. Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà các bên chủ thể đều có quyền và nghĩa vụ
tương ứng với nhau, trong khi hợp đồng đơn vụ là hợp đồng mà chỉ có một bên có
nghĩa vụ. Hợp đồng theo hình thức được chia thành nhiều dạng như hợp đồng bằng văn
bản, hợp đồng bằng lời nói, hợp đồng bằng hành vi cụ thể, hợp đồng có công chứng và
hợp đồng phải đăng ký. Hợp đồng theo hiệu lực là hợp đồng mà các bên xã định thời
hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng.

1.1.1.3. Quy định của BLDS về hợp đồng


Chế độ pháp lý về hợp đồng được chia theo các phần: Giao kết hợp đồng, thực
hiện, thay đổi, chấm dứt, hủy bỏ hợp đồng, trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ
hợp đồng và giải quyết các tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Giao kết hợp đồng là quá trình thương lượng giữa các bên về các điều khoản
trong hợp đồng theo những nguyên tắc và trình tự nhất định để đạt được thỏa thuận
giữa các bên.
Xác lập giao kết hợp đồng qua 2 trình tự: Đề nghị giao kết hợp đồng và chấp
nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Trong đó, đề nghị giao kết hợp đồng được quy định tại
Điều 386 BLDS 2015, “là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng
buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công
chúng”. Sau đó, sự trả lời của bên được đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung
của đề nghị được gọi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, được quy định tại Điều
393 BLDS 2015, trong trường hợp bên được đề nghị chỉ đồng ý một phần của nội dung

2
thì coi như bên được đề nghị muốn thay đổi, sửa đổi hoặc bổ sung nội dung đã được
đưa ra. Từ đó, quá trình đưa ra đề nghị và chấp nhận đề nghị được lặp đi lặp lại cho
đến khi cả hai bên chấp nhận toàn bộ điều khoản nội dung trong hợp đồng thì sẽ tiến
đến việc chính thức giao kết hợp đồng.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng có thể dẫn đến việc hoàn cảnh thay đổi, thì
các bên có thể thỏa thuận sửa đổi hợp đồng hoặc một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng
theo Điều 423, BLDS 2015. Khi chủ thể vi phạm các quy định của pháp luật về việc
giao kết hợp đồng thì phải nhận trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng như bồi
thường thiệt hại, chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền. Ngoài ra Điều 292
BLDS 2015 cũng quy định rõ các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ như ký cược,
đặt cọc, bảo lãnh, thế chấp tài sản.
1.1.2. Khái quát về HĐTM
1.1.2.1 . Khái niệm, đặc điểm HĐTM
Khái niệm HĐTM: HĐTM là một hành vi pháp lý, thể hiện ý chí của các bên
chủ thể làm phát sinh quyền và nghĩa vụ được ghi nhận bằng các điều khoản hoặc cam
kết trong HĐTM. Việc đàm phán, ký kết HĐTM là một quá trình, trong đó mục đích
cơ bản là mang lại lợi ích tối ưu cho các bên thực hiện hợp đồng. Do đó có thể tóm
lược khái niệm HĐTM như sau: HĐTM là sự thỏa thuận giữa các chủ thể nhằm xác
lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên dưới hình thức pháp lý của hành
vi thương mại
Hành vi thương mại là hành vi của thương nhân trong đầu tư, sản xuất, trao đổi hàng
hóa, cung ứng hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích kiếm lợi nhuận, từ đó làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ giữa thương nhân và các bên có liên quan
Đặc điểm của HĐTM: HĐTM có bản chất chung của một hợp đồng, đồng thời
cũng có những điểm khác biệt đặc trưng so với các hợp đồng khác, thể hiện qua các
đặc điểm sau:
Thứ nhất, về chủ thể của HĐTM. Chủ thể của HĐTM chủ yếu là thương nhân, HĐTM
nhằm mục đích sinh lợi nên chủ thể tham gia chủ yếu là các thương nhân. Điều 6 LTM
2005, “Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân

3
HĐTMmột cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh”. HĐTM có thể có
tất cả các bên đều có tư cách pháp nhân, ví dụ như hợp đồng cung cấp dịch vụ giữa
ngân hàng TMCP đầu đầu tư và phát triển BIDV và cty cổ phần thanh toán quốc gia
NAPAS hoặc một bên chủ thể là cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và một bên có tư
cách thương nhân, ví dụ như hợp đồng BOT.
Thứ hai, về đối tượng của HĐTM. Đối tượng của HĐTM là hàng hóa, dịch vụ hoặc các
công việc hợp pháp luật công nhận và bảo hộ.
Thứ ba, về nội dung của HĐTM. HĐTM thể hiện sự thỏa thuận thương mại đi đến
thống nhất hoặc cam kết về quyền, nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Các điều
khoản trong HĐTM gồm các điều khoản như đối tượng hợp đồng, số lượng, chất lượng
hàng hóa hoặc dịch vụ, giá cả, phương thức thanh toán, thời hạn hiệu lực hợp đồng,
quyền của các bên, trách nhiệm khi vi phạm hợp đồng hay những điều khoản khác như
giải quyết tranh chấp qua cơ quan nào, các biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng...
Thứ tư, về hình thức của HĐTM. Phụ thuộc vào nội dung của hợp đồng, về nguyên tắc
chung thì hình thức của HĐTM có thể bằng văn bản, lời nói hoặc hành vi cụ thể. LTM
2005 cũng cho phép thay thế hình thức văn bản bằng các hình thức tương đương như
fax, điện báo và các hình thức khác theo quy định của pháp luật.
Thứ năm, về mục đích của HĐTM. Các chủ thể tham gia HĐTM hướng tới mục đích
sinh lợi, lợi nhuận các bên đạt được như vật chất, tài sản hay những lợi ích phi vật chất
như thương hiệu, uy tín doanh nghiệp hay niềm tin từ khách hàng. Về nguyên tắc, mục
đích của HĐTM là lợi nhuận cả hai bên hướng tới hoặc ít nhất một bên hướng tới.
Đặc điểm thực hiện HĐTM:
Thứ nhất, thực hiện HĐTM chủ yếu là thực hiện hợp đồng song vụ, theo Điều 410
BLDS 2015. Khi các bên thỏa thuận thời hạn thực hiện nghĩa vụ thì mỗi bên phải thực
hiện cho đến khi hết hạn hợp đồng. Khi thực hiện HĐTM mỗi bên giao kết hợp đồng
đều bị ràng buộc bởi nghĩa vụ đối với bên còn lại, đồng thời cũng là bên có quyền đòi
hỏi lợi ích mà bên kia phải thực hiện. Việc thực hiện HĐTM vừa là quyền, vừa là lợi
ích của các bên trong hợp đồng hướng đến, theo Điều 415 BLDS 2015.

4
Thứ hai, quá trình thực hiện HĐTM với mục đích các bên chính là lợi nhuận. Đây là
mục đích xuyên suốt từ khi các bên đề nghị giao kết hợp đồng cho đến khi thực hiện
xong các điều khoản đã thỏa thuận.
Thứ ba, một trong những đặc trưng của việc thực hiện HĐTM đó là phương thức thanh
toán. Khi thực hiện hợp đồng, bên có nghĩa vụ thanh toán phải chuyển giao cho bên kia
theo đúng thời hạn, phương thức đã thỏa thuận. Việc lựa chọn phương thức thanh toán
phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các bên trên cơ sở sự hiểu biết về khả năng tài chính
và tín nhiệm thương mại của các bên. Các bên có thể thỏa thuận áp dụng phương thức
thanh toán mà theo mình là tiện lợi, dễ dàng và phù hợp với tính chất của hợp đồng.
Thứ tư, việc thực hiện HĐTM dựa trên nguyên tắc nhất định. Thực hiện đúng loại hợp
đồng, đúng đối tượng, số lượng, chủng loại, chất lượng, đúng thời hạn, phương thức
thanh toán và nghĩa vụ thực hiện thỏa thuận khác. Việc thực hiện đúng hợp đồng nhằm
mang lại lợi ích kinh tế cho các bên. Tuy nhiên, việc thực hiện hợp đồng không được
xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cá nhân hay lợi ích của cộng đồng.
Thứ năm, trong quá trình thực hiện hợp đồng nếu một trong các bên vi phạm các điều
khoản đã thỏa thuận thì phải chịu trách nhiệm với những điều khoản đã thỏa thuận, sẽ
phải chịu các chế tài do pháp luật quy định, bao gồm những biện pháp như phạt vi
phạm, bồi thường thiệt hại, đình chỉ hợp đồng hoặc hủy hợp đồng.

1.1.3. Các nguyên tắc thực hiện HĐTM


Nguyên tắc thực hiện HĐTM dựa trên sự tự nguyện của các bên chủ thể giao kết
hợp đồng, không lừa dối, cưỡng ép hoặc đe dọa
Nguyên tắc thực hiện đúng loại hợp đồng, đối tượng, chất lượng và số lượng
hàng hóa dịch vụ, chủng loại, thời hạn hay phương thức thanh toán
Nguyên tắc thực hiện HĐTM không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, lợi
ích xã hội hoặc lợi ích hợp pháp của các cá nhân

1.2. NỘI DUNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ THỰC HIỆN HĐTM

5
1.2.1. Quy định của pháp luật về đối tượng của hoạt động thương mại
Đối tượng của HĐTM chính là hàng hóa mà các bên sẽ mua bán với nhau hoặc
công việc, dịch vụ mà một bên sẽ thực hiện, cung cấp cho bên còn lại. Các bên sẽ nêu
cụ thể thông tin có liên quan của hàng hóa gồm chủng loại hàng hóa, nguồn gốc xuất
xứ, số lượng, khối lượng, chất lượng, đặc điểm kỹ thuật, tình trạng hàng hóa (mới hay
đã qua sử dụng), v.v.
Đối với hàng hóa trong hợp đồng mua bán hàng hóa, pháp luật đã quy định:
Thứ nhất, về tính hợp pháp của hàng hóa: Hàng hóa trong mua bán phải thuộc quyền
sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của các bên trong quan hệ hợp đồng, quy định theo
pháp luật dân sự; phải tuân theo những quy định của LTM về điều kiện đối với hàng
hóa trong quan hệ mua bán. Bên cạnh, chính phủ cũng quy định cụ thể danh mục hàng
hóa cấm kinh doanh và các vấn đề bên cạnh trong NĐ số 59/2006/NĐ-CP ngày
12/6/2006 của chính phủ quy định chi tiết thi hành LTM về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh
doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện. Ngoài ra, hàng hóa đang được
lưu thông hợp pháp trong nước bị áp dụng một hoặc các biện pháp buộc phải thu hồi,
cấm lưu thông, tạm ngừng lưu thông, lưu thông có điều kiện hoặc phải có giấy phép
đối khi hàng hóa đó là nguồn gốc hoặc phương tiện lây truyền các loại dịch bệnh hoặc
khi xảy ra tình trạng khẩn cấp như để bảo vệ an ninh quốc gia và các lợi ích quốc gia
khác phù hợp với pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Thứ hai, về nhãn hàng hóa lưu thông trong nước và hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
Nhãn hàng được quy định là bản viết, bản in, bản vẽ, bản chụp của chữ, hình vẽ, hình
ảnh được dán, in, đính, đúc, chạm, khắc trực tiếp trên hàng hóa, bao bì thương phẩm
của hàng hóa hoặc trên các chất liệu khác được gắn lên hàng hóa, bao bì thương phẩm
của hàng hóa. Hàng hóa lưu thông trong nước, hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu phải có
nhãn hàng hóa, trừ một số trường hợp theo quy định của pháp luật. Nội dung cần ghi
trên nhãn hàng hóa và trách nhiệm của thương nhân trong việc ghi nhãn hàng hóa quy
định trong NĐ số 89/2006/NĐ-CP ngày 30/9/2006 của Chính phủ về nhãn hàng hóa.
Đồng thời hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu phải có giấy chứng nhận xuất xứ trong các

6
trường hợp hàng hóa được hưởng ưu đãi về thuế hoặc ưu đãi khác hoặc theo quy định
của pháp luật Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

1.2.2. Giá cả, phương thức thanh toán


Giá cả thường được xác định dựa trên những căn cứ như đơn giá, điều kiện cơ
sở tính giá, điều khoản bảo lưu về giá hàng hóa; theo nguyên tắc giá cả cần phải được
quy định rõ, đúng và chính xác. Giá do các bên thỏa thuận hoặc do bên thứ ba xác định
theo yêu cầu của các bên và được ghi vào hợp đồng.
Phương thức thanh toán sẽ được các bên lựa chọn dựa vào mức độ tin cậy giữa
các bên, khả năng thanh toán, hoặc phụ thuộc đối tượng hàng hóa. Đối với các doanh
nghiệp nội địa, thường áp dụng phương thức chuyển khoản hoặc tiền mặt. Những
phương thức này có thể áp dụng đối với những đơn hàng số lượng ít và giá trị hợp
đồng không cao. Tuy nhiên trong lĩnh vực ngoại thương, do sự khác biệt văn hóa, sự
chênh lệch về khả năng tài chính, quy mô cũng như về đồng tiền thanh toán, các bên có
thể áp dụng phương thức mang tính chất chuyên nghiệp hơn và có sự hỗ trợ từ bên thứ
ba - thường là các tổ chức tín dụng, ngân hàng như: chuyển tiền bằng điện hay chuyển
tiền bằng thư… Các bên cần thỏa thuận rõ ràng phương thức thanh toán điều mà
thường có sự liên hệ với thời điểm giao hàng, nhận các chứng từ.
Có bốn khoảng thời gian thường được lựa chọn thanh toán, người mua có thể
lựa chọn thanh toán trước/sau hoặc ngay khi người bán giao hàng hoặc thực hiện đơn
hàng; người mua cũng có thể chia trị giá hợp đồng ra thành các mốc thời gian thanh
toán khác nhau, tùy theo thỏa thuận với bên bán.

1.2.3. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại
Quyền của các bên được quy định trong HĐTMvà nó chỉ được thực hiện bởi
bên còn lại thông qua việc thực hiện nghĩa vụ của bên kia. Do đó, trong HĐTM quyền
lợi và nghĩa vụ luôn đi song song với nhau, quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia
và ngược lại, việc ghi rõ quyền và nghĩa vụ của các bên cho phép các bên thực hiện
đúng ý chí mà mình muốn khi giao kết HĐTM, tránh việc các bên hiểu sai hay lợi dụng
việc không rõ ràng trong các điều khoản về quyền và nghĩa vụ để làm sai lệch đi ý chí

7
mà các bên muốn hướng tới khi giao kết hợp đồng, tránh các rắc rối về sau khi có tranh
chấp về hợp đồng xảy ra.

1.2.3.1 Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa
Về giao nhận hàng và chứng từ liên quan đến hàng hóa: Bên bán phải giao hàng,
chứng từ theo thỏa thuận trong hợp đồng về số lượng, chất lượng, cách thức đóng gói,
bảo quản và các quy định khác trong hợp đồng. Bên mua có nghĩa vụ nhận hàng theo
thỏa thuận và thực hiện những công việc hợp lý để giúp bên bán giao hàng. Có bốn
điều cần lưu ý như sau:
Thứ nhất, về địa điểm giao hàng: Bên bán có nghĩa vụ giao hàng đúng địa điểm đã
thỏa thuận, trong trường hợp không có thỏa thuận về địa điểm giao hàng thì địa điểm
giao hàng được xác định theo trong 4 trường hợp quy định rõ tại Điều 35, LTM.
Thứ hai, vấn đề giao hàng liên quan đến người vận chuyển: Việc này được viết thành
ba trường hợp trong Điều 36, LTM, với trường hợp đầu tiên nói rằng hàng hóa được
giao cho người vận chuyển nhưng không được xác định rõ bằng ký mã hiệu trên hàng
hóa, chứng từ vận chuyển hoặc cách thức khác thì bên bán phải thông báo cho bên mua
về việc đã giao hàng cho người vận chuyển và phải xác định rõ tên và cách thức nhận
biết hàng hóa được vận chuyển.
Thứ ba, về thời hạn giao hàng: Bên bán phải giao hàng vào đúng thời điểm giao hàng
đã thỏa thuận trong hợp đồng. Theo Điều 37, LTM, trong trường hợp chỉ có thỏa thuận
về thời hạn giao hàng mà không xác định thời điểm giao hàng cụ thể thì bên bán có
quyền giao hàng vào bất kỳ thời điểm nào trong thời hạn đó và phải thông báo trước
cho bên mua và trường hợp không có thỏa thuận về thời hạn giao hàng thì bên bán phải
giao hàng trong một thời hạn hợp lý sau khi giao kết hợp đồng. Còn lại, trường hợp bên
bán giao hàng trước thời hạn đã thỏa thuận thì bên mua có quyền nhận hoặc không
nhận hàng nếu các bên không có thỏa thuận khác.
Thứ tư, khi hợp đồng không có quy định cụ thể: Trường hợp này, hàng hóa không phù
hợp với hợp đồng, không phù hợp với mục đích sử dụng thông thường của các hàng
hóa cùng chủng loại hay không phù hợp với bất kỳ mục đích cụ thể nào mà bên mua đã

8
cho bên bán biết hoặc bên bán phải biết vào thời điểm giao kết hợp đồng. Trừ trường
hợp các bên có thỏa thuận khác, trách nhiệm đối với hàng hóa không phù hợp với hợp
đồng được quy định rõ tại Điều 40 LTM 2005.
Thứ năm, về giao chứng từ liên quan đến hàng hóa: Pháp luật quy định rõ ràng tại
Điều 42 LTM 2005 gồm 4 trường hợp về thỏa thuận liên quan tới việc giao chứng từ
như thời gian, địa điểm, những thiếu sót của các chứng từ và các phương thức đã thỏa
thuận.
Về kiểm tra hàng hóa trước khi giao hàng: 5 trường hợp đã được quy định rõ
ràng tại Điều 44 LTM về thỏa thuận của bên mua và bên bán về tiến hành kiểm tra
hàng hóa trước khi giao hàng và các trách nhiệm của đôi bên.
Về quyền sở hữu hàng hóa và thời điểm chuyển quyền sở hữu hàng hóa:
Thứ nhất, pháp luật quy định bên bán có nghĩa vụ bảo đảm ba điều. Đầu tiên, quyền sở
hữu của bên mua đối với hàng hóa đã bán không bị tranh chấp bởi bên thứ ba, tiếp
theo, hàng hóa mua bán là hợp pháp và cuối cùng, việc chuyển giao hàng hóa là hợp
pháp.
Thứ hai, trường hợp bên mua yêu cầu bên bán phải tuân theo bản vẽ kỹ thuật, thiết kế,
công thức hoặc những số liệu chi tiết do bên mua cung cấp thì bên mua phải chịu trách
nhiệm về các khiếu nại liên quan đến những vi phạm quyền sở hữu trí tuệ phát sinh từ
việc bên bán đã tuân thủ những yêu cầu của bên mua. Tuy nhiên, bên bán phải thông
báo ngay cho bên mua về khiếu nại của bên thứ ba đối với hàng hóa được giao sau khi
bên bán đã biết hoặc phải biết về khiếu nại đó, trừ trường hợp bên mua đã biết hoặc
phải biết về khiếu nại của bên thứ ba.
Thứ ba, hàng hóa được bán là đối tượng của biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân
sự thì bên bán phải thông báo cho bên mua về biện pháp bảo đảm và phải được sự đồng
ý của bên nhận bảo đảm về việc bán hàng hóa đó.
Thứ tư, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc các bên có thỏa thuận khác,
quyền sở hữu được chuyển từ bên bán sang bên mua kể từ thời điểm hàng hóa được
chuyển giao.
Về xác định giá và thanh toán:

9
Xác định giá: nếu trong hợp đồng không có thỏa thuận về giá hàng hóa, không có thỏa
thuận về phương pháp xác định giá và cũng không có bất kỳ chỉ dẫn nào khác về giá
thì giá của hàng hóa được xác định theo giá của loại hàng hóa đó trong các điều kiện
tương tự về phương thức giao hàng, thời điểm mua bán hàng hóa, thị trường địa lý,
phương thức thanh toán và các điều kiện khác có ảnh hưởng đến giá. Trừ trường hợp
có thỏa thuận khác, nếu giá được xác định theo trọng lượng của hàng hóa thì trọng
lượng đó là trọng lượng tịnh.
Nghĩa vụ thanh toán và quyền ngừng thanh toán: bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền
mua hàng và nhận hàng theo thỏa thuận, tuân thủ các phương thức thanh toán, thực
hiện việc thanh toán theo trình tự, thủ tục đã thỏa thuận và theo quy định của pháp luật
kể cả trường hợp hàng hóa mất mát, hư hỏng sau thời điểm rủi ro được chuyển từ bên
bán sang bên mua, trừ trường hợp mất mát, hư hỏng do lỗi của bên bán gây ra. Bên
mua có quyền ngừng thanh toán tiền mua hàng nhưng phải thực hiện theo quy định và
trừ trường hợp có thỏa thuận khác, việc ngừng thanh toán tiền mua hàng được quy định
tại 4 trường hợp tại Điều 51 LTM 2005.
Địa điểm thanh toán: Trường hợp không có thỏa thuận về địa điểm thanh toán cụ thể
thì bên mua phải thanh toán cho bên bán tại địa điểm kinh doanh của bên bán hoặc địa
điểm giao hàng hoặc giao chứng từ, đã quy định rõ tại Điều 54, LTM
Thời hạn thanh toán: Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, bên mua phải thanh toán cho
bên bán vào thời điểm bên bán giao hàng hoặc giao chứng từ liên quan đến hàng hóa.
Nếu các bên có thỏa thuận kiểm tra hàng hóa trước khi giao hàng thì bên mua không có
nghĩa vụ thanh toán cho đến khi có thể kiểm tra xong hàng hóa.
Thời điểm chuyển rủi ro: Thời điểm này được xác định tùy theo từng trường hợp mua
bán khác nhau.
Chuyển rủi ro trong trường hợp có địa điểm giao hàng: được xác định theo Điều 57,
LTM đã quy định rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hóa được chuyển cho bên mua
khi hàng hóa đã được giao cho bên mua hoặc người được bên mua ủy quyền đã nhận
hàng tại địa điểm đó, kể cả trong trường hợp bên bán được ủy quyền giữ lại các chứng
từ xác lập quyền sở hữu đối với hàng hóa.

10
Chuyển rủi ro trong trường hợp không có địa điểm giao hàng xác định: Theo Điều 58,
LTM thì rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hóa được chuyển cho bên mua khi hàng
hóa đã được giao cho người vận chuyển đầu tiên, trừ các trường hợp đã có thỏa thuận
trước.
Chuyển rủi ro trong trường hợp giao hàng cho người nhận hàng để giao mà không
phải là người vận chuyển: rủi ro chuyển cho bên mua khi bên mua nhận được chứng từ
sở hữu hàng hóa; hoặc khi người nhận hàng để giao xác nhận quyền chiếm hữu hàng
hóa của bên mua, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. (Điều 59 LTM 2005).
Chuyển rủi ro trong trường hợp mua bán hàng hóa đang trên đường vận chuyển: điều
này được chuyển cho bên mua trừ trường hợp có thỏa thuận khác theo Điều 60, LTM.
Chuyển rủi ro trong các trường hợp khác: trừ trường hợp có thỏa thuận khác, việc
chuyển rủi ro trong các trường hợp khác được quy định rằng nếu không được quy định
tại các Điều 57, 58, 59 và 60 của Luật này thì rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hóa
được chuyển cho bên mua, kể từ thời điểm hàng hóa thuộc quyền định đoạt của bên
mua và bên mua vi phạm hợp đồng do không nhận hàng. Ngoài ra, rủi ro về mất mát
hoặc hư hỏng hàng hóa không được chuyển cho bên mua như đã quy định rõ tại Điều
61 LTM 2005.

1.2.3.2. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng dịch vụ
Trong hợp đồng, các bên cần có những thỏa thuận rất cụ thể về dịch vụ cung
ứng làm cơ sở cho việc thực hiện của các bên. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu
các bên không có thỏa thuận khác, quyền và nghĩa vụ của các bên được xác định trong
BLDS và LTM.
Về nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ:
Thứ nhất, phải cung ứng các dịch vụ phù hợp với thỏa thuận và LTM. Trong trường
hợp hợp đồng không có quy định cụ thể về tiêu chuẩn kết quả cần đạt được, bên cung
ứng dịch vụ phải thực hiện việc cung ứng dịch vụ với kết quả phù hợp với tiêu chuẩn
thông thường của loại dịch vụ đó.

11
Thứ hai, về hợp tác giữa các bên cung ứng dịch vụ. Trong trường hợp theo thỏa thuận
hoặc dựa vào tình hình cụ thể, một dịch vụ do nhiều bên cung ứng dịch vụ cùng tiến
hành hoặc phối hợp với bên cung ứng dịch vụ khác thì mỗi bên cung ứng dịch vụ có
các nghĩa vụ trao đổi, thông tin cho nhau và cần tiến hành bất kỳ hoạt động hợp tác cần
thiết nào với các bên cung ứng dịch vụ khác.
Thứ ba, về nghĩa vụ ở thời hạn hoàn thành dịch vụ. Bên cung ứng dịch vụ phải hoàn
thành dịch vụ đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng, trường hợp không có thỏa
thuận về thời hạn hoàn thành dịch vụ thì bên cung ứng dịch vụ phải hoàn thành dịch vụ
trong một thời hạn hợp lý trên cơ sở tính đến tất cả các điều kiện và hoàn cảnh mà bên
cung ứng dịch vụ biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng, bao gồm bất kỳ nhu cầu
cụ thể nào của khách hàng có liên quan đến thời gian hoàn thành dịch vụ.Trường hợp
một dịch vụ chỉ có thể được hoàn thành khi khách hàng hoặc bên cung ứng dịch vụ
khác đáp ứng các điều kiện nhất định thì bên cung ứng dịch vụ đó không có nghĩa vụ
hoàn thành dịch vụ của mình cho đến khi các điều kiện đó được đáp ứng. Sau khi hết
thời hạn hoàn thành việc cung ứng dịch vụ mà dịch vụ vận chưa hoàn thành, nếu khách
hàng không phản đối thì bên cung ứng dịch vụ phải tiếp tục cung ứng theo nội dung đã
thỏa thuận và phải bồi thường thiệt hại, nếu có.
Thứ tư, nghĩa vụ tuân thủ những yêu cầu hợp lý của khách hàng liên quan đến những
thay đổi trong quá trình cung ứng dịch vụ. Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, khách
hàng phải chịu những chi phí hợp lý cho việc thực hiện những yêu cầu thay đổi của
mình.
Thứ năm, bảo quản và giao lại cho khách hàng tài liệu và phương tiện được giao để
thực hiện dịch vụ sau khi hoàn thành công việc.
Thứ sáu, phải thông báo ngay cho khách hàng trong trường hợp thông tin, tài liệu
không đầy đủ, phương tiện không bảo đảm để hoàn thành việc cung ứng dịch vụ.
Cuối cùng, cần giữ bí mật về thông tin mà mình biết được trong quá trình cung ứng
dịch vụ nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.
Về nghĩa vụ của khách hàng:

12
Thứ nhất, bên mua phải thanh toán tiền cung ứng dịch vụ như đã thỏa thuận trong hợp
đồng. Trường hợp không có thỏa thuận và giữa các bên không có bất kỳ thói quen nào
về việc thanh toán, thời hạn thanh toán là thời điểm việc cung ứng dịch vụ được hoàn
thành. Trường hợp không có thỏa thuận về giá dịch vụ, không có thỏa thuận về phương
pháp xác định giá dịch vụ và cũng không có bất kỳ chi dẫn nào khác về giá dịch vụ thì
giá dịch vụ được xác định theo giá của loại dịch vụ đó trong các điều kiện tương tự về
phương thức cung ứng, thời điểm cung ứng, thị trường địa lý, phương thức thanh toán
và các điều kiện khác có ảnh hưởng đến giá dịch vụ.
Thứ hai, bên mua phải cung cấp kịp thời các kế hoạch, chỉ dẫn và những chi tiết khác
để việc cung ứng dịch vụ được thực hiện không bị trì hoãn hay gián đoạn.
Thứ ba, bên mua phải hợp tác trong tất cả những vấn đề cần thiết khác để bên cung ứng
có thể cung ứng dịch vụ một cách thích hợp.
Thứ tư, bên mua có nghĩa vụ điều phối hoạt động của các bên cung ứng dịch vụ.
Trường hợp một dịch vụ do nhiều bên cung ứng cùng tiến hành hoặc phối hợp với bên
cung ứng dịch vụ khác, khách hàng phải thực hiện nghĩa vụ này để không gây cản trở
đến công việc của bất kỳ bên cung ứng dịch vụ nào. Hợp đồng dịch vụ cụ thể liên quan
đến mua bán hàng hóa thông thường được quy định trong các Điều từ 88 đến 291,
LTM.

1.2.4. Chế tài xử phạt


Quá trình thực hiện hợp đồng, các bên có nghĩa vụ phải thực hiện đúng các
nghĩa vụ đã thỏa thuận. Việc không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy
đủ nghĩa vụ sẽ dẫn đến vi phạm hợp đồng và phải chịu những chế tài do pháp luật quy
định. Trách nhiệm pháp lý do vi phạm HĐTM là hậu quả pháp lý bất lợi mà bên có
hành vi vi phạm phải gánh chịu từ việc áp dụng các chế tài trong thương mại.
Theo Điều 292 LTM 2005 quy định có các loại chế tài sau:
Thứ nhất, buộc thực hiện đúng hợp đồng. Căn cứ theo Khoản 1 Điều 297 LTM 2005
quy định buộc thực hiện đúng hợp đồng. Theo đó, bên vi phạm sẽ phải thực hiện đúng
theo các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng; dùng các biện khác để khắc phục và

13
thực hiện hợp đồng. Chi phí thực hiện các biện pháp khắc phục này sẽ do bên vi phạm
chịu trong trường hợp giao thiếu hàng hóa; cung ứng dịch vụ không đúng theo như sự
thỏa thuận trong hợp đồng. Cụ thể tại khoản 2 của Điều 297 LTM 2015 quy định như
sau: trường hợp bên vi phạm giao thiếu hàng hoặc cung ứng dịch vụ không đúng hợp
đồng thì phải giao đủ hàng hoặc cung ứng dịch vụ theo đúng thỏa thuận trong hợp
đồng.
Thứ hai, phạt vi phạm. Tại Điều 300 LTM 2005 quy định bên bị vi phạm yêu cầu bên
vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thoả
thuận, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này. Hình
phạt được áp dụng khi trong hợp đồng có thỏa thuận và áp dụng không căn cứ vào việc
bên bị vi phạm có hay không có thiệt hại xảy ra. Điều kiện để có thể thực hiện việc
phạt vi phạm là một trong các bên không thực hiện hợp đồng (không giao hàng, không
thanh toán, không nhận hàng) hoặc thực hiện không đúng hợp đồng (giao hàng kém
chất lượng, cung cấp dịch vụ kém). Theo quy định tại Điều 301 LTM 2005 quy định
mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi
phạm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa
vụ hợp đồng bị vi phạm; nhằm tránh việc các bên quá lạm dụng vào chế tài này, gây
ảnh hưởng cho các bên; trừ trường hợp quy định tại Điều 266 của Luật này.
Thứ ba, buộc bồi thường thiệt hại. Theo Khoản 1 Điều 302 LTM 2005 quy định về
điều này rằng bên vi phạm phải bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp
đồng gây ra cho bên bị vi phạm. Điều 303 LTM 2005 quy định: trừ các trường hợp
miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này; trách nhiệm bồi thường thiệt hại
phát sinh khi phải có đủ ba yếu tố: có hành vi vi phạm hợp đồng; có thiệt hại thực tế và
hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại.
Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm
phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được
hưởng nếu không có hành vi vi phạm. Trường hợp các bên không có thỏa thuận phạt vi
phạm thì bên bị vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại; trừ trường hợp Luật
này có quy định khác. Và trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi

14
phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại; trừ
trường hợp Luật này có quy định khác.
Thứ tư, tạm ngừng thực hiện hợp đồng. Đây là việc một bên tạm thời không thực hiện
nghĩa vụ trong hợp đồng, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294
của Luật này thì khi đã xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện
để tạm ngừng thực hiện hợp đồng hoặc một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng thì
tạm ngừng thực hiện hợp đồng. Khi đó hợp đồng vẫn còn hiệu lực và bên bị vi phạm có
quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật này.
Thứ năm, đình chỉ thực hiện hợp đồng. Hành động này do một bên chấm dứt thực hiện
nghĩa vụ hợp đồng khi xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để
đình chỉ hợp đồng hoặc một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Khi hợp đồng bị
đình chỉ thực hiện thì hợp đồng chấm dứt từ thời điểm một bên nhận được thông báo
đình chỉ và các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hợp đồng.
Thứ sáu, huỷ bỏ hợp đồng. Hành động này bao gồm hủy bỏ toàn bộ hợp đồng, là việc
bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất cả các nghĩa vụ hợp đồng đối với toàn bộ hợp đồng;
và hủy bỏ một phần hợp đồng, là việc bãi bỏ thực hiện một phần nghĩa vụ hợp đồng;
các phần còn lại trong hợp đồng vẫn còn hiệu lực. Trừ các trường hợp miễn trách
nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này; chế tài hủy bỏ hợp đồng được áp dụng
trong các trường hợp như xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện
để hủy bỏ hợp đồng hoặc một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Trừ trường hợp
quy định tại Điều 313 của Luật này, sau khi huỷ bỏ hợp đồng; hợp đồng không có hiệu
lực từ thời điểm giao kết; các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thoả
thuận trong hợp đồng; trừ thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ sau khi huỷ bỏ hợp
đồng và về giải quyết tranh chấp.
Cuối cùng, các biện pháp khác mà các bên thỏa thuận không trái với nguyên tắc cơ bản
của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên và tập quán thương mại quốc tế.

15
Chương 2. HĐTM THEO PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM
2.1. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THỰC HIỆN HĐTM
2.1.1. Yếu tố môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý là nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp và quan trọng tới vấn đề
thực hiện HĐTM. Qua đổi mới, do đòi hỏi của thực tiễn khách quan và sức ép khi gia
nhập, môi trường pháp lý của nước ta đã có những tiến bộ đáng kể. Đó là điều không
thể phủ nhận. Tuy nhiên, bàn về tác động của môi trường pháp lý tới vấn đề quản trị
doanh nghiệp, có thể khẳng định rằng, hiện nay môi trường pháp lý của nước ta chưa
tạo ra động lực để các doanh nghiệp phải quan tâm tới việc thực hiện HĐTM, hướng
tới những chuẩn mực về thực hiện HĐTM theo thông lệ quốc tế.
Theo đó phải kể đến vấn đề BLDS với các LTM – chuyên ngành có rất nhiều
điểm không tiệm cận với nhau và vẫn còn nhiều khác biệt. Điều này làm cho các chủ
thể trong mối quan hệ kinh doanh thương mại lúng túng khi áp dụng và khiến các cơ
quan có thẩm quyền khó khăn khi giải quyết các tranh chấp phát sinh liên quan, hơn
nữa sự mâu thuẫn trong quy định của pháp luật sẽ tạo kẽ hở để nhiều người lợi dụng
lách luật.
Lấy ví dụ về một trong nhưng bất cập, theo quy định tại Điều 307 LTM 2005 về
quan hệ giữa chế tài vi phạm và chế tài bồi thường thiệt hại thì “Trường hợp các bên
không có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi thường
thiệt hại và trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền
áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại”. Và trách nhiệm bồi thường
thiệt hại trong quan hệ thương mại sẽ phát sinh khi có đầy đủ các căn cứ, gồm: (i) Có
hành vi vi phạm hợp đồng (ii) Có thiệt hại thực tế (iii) Hành vi vi phạm hợp đồng là
nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại. <fn: Nguyễn Minh Tuấn (2016), Bình luận khoa
học BLDS của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB. Tư pháp, Hà Nội.
LTM cũng khẳng định: “Một bên không bị mất quyền yêu cầu bồi thường thiệt
hại đối với tổn thất do vi phạm hợp đồng của bên kia khi đã áp dụng các chế tài khác”.
Trong khi đó, BLDS chỉ chấp nhận việc bên vi phạm phải chịu phạt vi phạm mà không

16
phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt
hại nếu giữa các bên có sự thỏa thuận.
Có thể hiểu rằng, LTM đã tự do trao quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại cho bên
bị vi phạm nếu có đầy đủ các căn cứ mà không phụ thuộc, ràng buộc hay đòi hỏi các
bên phải có thỏa thuận tại HĐTM về trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh. Khác
biệt so với LTM 2005 thì BLDS 2015 tôn trọng sự thỏa thuận của các bên nếu các bên
có thỏa thuận về việc không phải bồi thường thiệt hại khi đã có phạt vi phạm và yêu
cầu bồi thường thiệt hại cùng phạt vi phạm chỉ được chấp thuận khi có các bên có sự
thỏa thuận.
Điển hình ở vụ việc sau: Ngày 14/8/2020, Giữa Cty Cổ phần Thương mại Dịch
vụ V và Cty TNHH X có ký hợp đồng mua bán và vận chuyển 1000 cuộn vải lụa. Hai
bên có thỏa thuận nếu bên nào vi phạm thì chỉ phải chịu phạt 8% giá trị hợp đồng. Vì
Cty X vận chuyển hàng hóa trễ 03 (ngày) nên trong thời gian chờ Cty X vận chuyển
nguyên liệu sản xuất thì Cty V đã bị thiệt hại về năng suất, nhân công lao động, do đó,
Cty V khởi kiện yêu cầu Cty X phải thanh toán tiền phạt vi phạm và bồi thường thiệt
hại. Cty X căn cứ Khoản 3 Điều 418 BLDS 2015 cho rằng các bên thỏa thuận chỉ chịu
phạt vi phạm mà không thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi
thường thiệt hại nên Cty X chỉ phải chịu phạt vi phạm. Còn Cty V căn cứ Khoản 2
Điều 307 LTM 2005 để buộc Cty X phải có nghĩa vụ vừa chịu phạt vi phạm và bồi
thường thiệt hại. Hiện tại, vụ án vẫn chưa có phán quyết chính thức của Tòa án nhưng
sự mâu thuẫn nêu trên được thể hiện tại ý kiến mà hai bên cung cấp cho Tòa án nhân
dân có thẩm quyền.
Ngoài ra, hiện nay vẫn chưa có những quy định cụ thể để điều chỉnh, đặc biệt là
HĐTM có yếu tố nước ngoài. Dẫn tới việc khi có những tranh chấp xảy ra thì gặp
nhiều khó khăn trong việc giải quyết, và có thể gây ra những thiệt hại đáng kể.

2.1.2. Yếu tố cơ chế quản lý hành chính nhà nước về thương mại
Mặc dù, Việt Nam đã thực hiện đổi mới cơ chế kinh tế, tuy nhiên, yếu tố hành
chính, tập trung quan liêu, bao cấp trước đây vẫn còn rất nặng nề trong mối quan hệ

17
giữa cơ quan công quyền thuộc bộ máy Nhà nước. Cho đến nay, Nhà nước ta vẫn chưa
thực sự là nhà nước dịch vụ với nhiệm vụ cung cấp cho nhân dân và cộng đồng doanh
nghiệp những dịch vụ công thuận tiện nhất. Ngược lại, các cơ quan công quyền vẫn
chủ yếu thực hiện việc kiểm tra, giám sát. Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt phải sửa các
luật, pháp lệnh, NĐ, quyết định của Thủ tướng và các quyết định cấp bộ về liên quan
đến thực hiện HĐTM. Điều đó có nghĩa là, việc đơn giản hóa thủ tục hành chính liên
quan đến thực hiện HĐTM còn chậm. Do đó, doanh nghiệp còn gặp nhiêu khê, phiền
hà và thiếu tính khả thi đã bắt buộc nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp phải “đối
phó” bằng nhiều cách để được việc. Điển hình như phong trào một cửa một dấu rộ lên
một thời gian ngắn hiện đã xẹp xuống và doanh nghiệp đang trở lại tình trạng phải chạy
nhiều nơi cho một việc. Tại tất cả các cửa này, nếu không có quan hệ sẽ không thể nào
đẩy nhanh công việc. Và, tất nhiên, những “bài đối phó” đó không bao giờ trở thành
chuẩn mực của quản trị doanh nghiệp tiên tiến.
Theo đó, nhiều luật sư được phó thác lập HĐTM cho biết họ khó cập nhật kịp
thời các chính sách, quy định của Chính phủ và chính quyền các cấp. Có luật sư khi tư
vấn cho doanh nghiệp còn phải nêu thêm rằng điều này được giải quyết nhanh hay
chậm còn tùy vào quan hệ của doanh nghiệp với chính quyền.

2.1.3. Yếu tố cơ chế giải quyết tranh chấp về thương mại


Những năm gần đây, do những diễn biến phức tạp của đời sống xã hội nên các
tranh chấp thực hiện HĐTM cũng ngày càng nhiều và phức tạp hơn. Theo quy định tại
Bộ luật Tố tụng dân sự thì tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án rất đa dạng, phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế, trong
đó có tranh chấp vừa được điều chỉnh bởi quy định của BLDS, vừa được điều chỉnh
bởi Luật chuyên ngành. Chính vì lý do này mà việc xét xử các tranh chấp thực hiện
HĐTM tại một số Tòa án còn lúng túng, vướng mắc hoặc sai lầm khi áp dụng quy định
của BLDS và quy định của Luật chuyên ngành.
Điều 429 BLDS 2015 quy định thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết
tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết

18
quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Đối với với các tranh chấp thương
mại thì theo Điều 319 LTM 2005 thời hiệu khởi kiện là 02 năm, kể từ thời điểm quyền
và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Đồng nghĩa với việc, tranh chấp liên quan đến
HĐTM cũng chỉ có thời hiệu là 02 năm.
Cùng giải quyết tranh chấp hợp đồng nhưng giữa LTM và BLDS hiện hành có
sự mâu thuẫn rõ rệt, hơn nữa BLDS cũng không quy định loại trừ trường hợp luật
chuyên ngành có quy định khác về thời hiệu khởi kiện. Việc không thống nhất thời
hiệu khởi kiện có thể khiến các chủ thể lầm tưởng và áp dụng không đúng quy định của
pháp luật về thời hiệu liên quan đến tranh chấp hợp đồng, dẫn đến hệ quả là thời hiệu
khởi kiện không còn và vụ án sẽ bị đình chỉ nếu bên bị kiện yêu cầu tòa án áp dụng
thời hiệu khởi kiện theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

2.1.4. Yếu tố văn hóa kinh doanh trong thực hiện HĐTM
Nhìn chung, trình độ văn hoá kinh doanh trong quá trình thực hiện HĐTM ở
nước ta còn thấp và không đồng bộ, còn thiếu những yếu tố và điều kiện cần thiết cho
một nền văn hoá kinh doanh tiên tiến, như một thể chế kinh tế thị trường hiện đại, một
bộ máy hành chính hiệu quả và minh bạch, một hệ thống pháp luật kịp thời, đầy đủ và
nghiêm minh…

2.2. TÌNH HÌNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THỰC HIỆN HĐTM

2.2.1. Quy định về đối tượng, quyền và nghĩa vụ các bên

2.2.1.1. Quy định về đối tượng


Quá trình thực hiện hoạt động thương mại, trước hết các bên cần thực hiện đúng
đối tượng đã được xác định trong hợp đồng. Đối tượng của HĐTMlà hàng hoá hoặc
công việc hợp pháp được thực hiện trên thị trường.
Hàng hoá là những sản phẩm lao động của con người, được tạo ra nhằm mục
đích trao đổi để thoả mãn nhu cầu của con người. Hàng hoá có thể là vật, là sức lao
động của con người, là các quyền tài sản. Tại Khoản 2 Điều 3 LTM 2005: “Hàng hóa
bao gồm tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai, những vật

19
gắn liền với đất đai”. Bên cạnh đó, đối tượng của HĐTM còn là công việc hợp pháp
được phép thực hiện trên thị trường, là công việc mà các bên thỏa thuận, thống nhất
thực hiện trong hợp đồng như hợp đồng cung ứng dịch vụ, hợp đồng đại lý thương
mại...

2.2.1.2. Quyền và nghĩa vụ các bên


Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa
Quyền và nghĩa vụ của bên bán: Bên bán có quyền nhận tiền bán hàng theo thỏa thuận
trong HĐTM. Nếu bên bán chậm nhận được hoặc không nhận được tiền bán hàng do
lỗi của bên mua thì bên bán có quyền áp dụng các biện pháp do LTM quy định để bảo
vệ lợi ích chính đáng của mình. Điều 306 LTM 2005 quy định bên bán có quyền yêu
cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị
trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Ngoài ra, bên bán có thể áp dụng các
biện pháp chế tài theo LTM. Bên bán có nghĩa vụ cơ bản là: nghĩa vụ giao tài sản và
nghĩa vụ đảm bảo quyền sở hữu của bên mua đối với tài sản mua bán. Bên bán có
nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua đúng thời hạn đã thỏa thuận; bên bán chỉ được giao
tài sản trước hoặc sau thời hạn nếu được bên mua đồng ý (Khoản 1 Điều 434 BLDS
2015). Ngoài nghĩa vụ cơ bản của bên bán nêu trên, thì bên bán còn có các nghĩa vụ
như nghĩa vụ cung cấp thông tin và hướng dẫn cách sử dụng, nếu bên bán không thực
hiện nghĩa vụ này thì bên mua có quyền yêu cầu bên bán phải thực hiện trong một thời
hạn hợp lý; nếu bên bán vẫn không thực hiện làm cho bên mua không đạt được mục
đích giao kết hợp đồng thì bên mua có quyền hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường
thiệt hại (Điều 443 BLDS 2015).
Quyền và nghĩa vụ của bên mua: Quyền của bên bán sẽ là nghĩa vụ của bên mua và
nghĩa vụ của bên bán sẽ là quyền của bên mua. Quyền ngừng thực hiện nghĩa vụ của
các bên: Các bên trong hợp đồng mua bán hàng hoá có quyền ngừng việc thực hiện
nghĩa vụ của mình trong hợp đồng đó nếu có bằng chứng xác thực về việc một bên có
hành vi lừa dối hoặc không có khả năng thực tế để thực hiện hợp đồng đã ký. Chuyển

20
quyền sở hữu và chuyển giao trách nhiệm gánh chịu rủi ro đối với hàng hoá. Thông
thường, thời điểm chuyển quyền sở hữu và chuyển giao trách nhiệm gánh chịu rủi ro
đối với hàng hoá từ người bán sang người mua có thể được xác định là một trong ba
thời điểm sau: Thời điểm hợp đồng mua bán hàng hoá được ký kết và có hiệu lực pháp
lý; Thời điểm giấy tờ chứng minh quyền sở hữu hợp pháp đối với hàng hoá được
chuyển giao từ người bán sang người mua; Thời điểm hàng hoá được chuyển giao cho
bên mua và thuộc quyền định đoạt của bên mua. Riêng đối với trường hợp giao hàng
cho người nhận hàng để giao mà không phải là người vận chuyển, thì rủi ro đối với
hàng hoá có thể được chuyển cho bên mua: (1) hoặc khi bên mua nhận được chứng từ
sở hữu hàng hoá đó; (2) hoặc khi người nhận hàng để giao xác nhận quyền chiếm hữu
hàng hoá của bên mua (Điều 59 LTM 2005).
Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng dịch vụ
LTM 2005 giành Mục 2 Chương (từ Điều 78 đến Điều 87) để quy định về quyền, nghĩa
vụ của các bên trong hợp đồng dịch vụ. Theo đó, quyền, nghĩa vụ của các bên cụ thể
như sau:
Bên cung ứng dịch vụ có nghĩa vụ cung ứng các dịch vụ và thực hiện những công việc
có liên quan một cách đầy đủ, phù hợp với thoả thuận và theo quy định của LTM 2005.
BLDS 2015 quy định thêm nghĩa vụ cho bên cung ứng dịch vụ: “Không được giao cho
người khác thực hiện thay công việc nếu không có sự đồng ý của bên sử dụng dịch vụ”.
Khách hàng có nghĩa vụ thanh toán tiền cung ứng dịch vụ như đã thỏa thuận. Khách
hàng phải có nghĩa vụ cung cấp kịp thời các kế hoạch, chỉ dẫn và những chi tiết khác
để việc cung ứng dịch vụ được thực hiện không bị trì hoãn hay gián đoạn; hợp tác
trong tất cả những vấn đề cần thiết khác để bên cung ứng có thể cung ứng dịch vụ một
cách thích hợp; trường hợp một dịch vụ do nhiều bên cung ứng dịch vụ cùng tiến hành
hoặc phối hợp với bên cung ứng dịch vụ khác, khách hàng có nghĩa vụ điều phối hoạt
động của các bên cung ứng dịch vụ để không gây cản trở đến công việc của bất kỳ bên
cung ứng dịch vụ nào.

21
2.2.2. Đánh giá về thực trạng của hoạt động thương mại
Những kết quả đạt được:
Thứ nhất, pháp luật hiện hành khẳng định và đảm bảo quyền tự do HĐTMcủa thương
nhân, tôn trọng quyền tự do thỏa thuận của các bên. Trong khuôn khổ pháp luật, các
bên tham gia giao kết HĐTM được tự do thỏa thuận về quyền, nghĩa vụ của các bên, về
giá, phương thức thực hiện hợp đồng, về xử lý khi phát sinh vi phạm hợp đồng... Qua
đó, đảm bảo quyền lợi của các bên, giúp các bên đạt được mục đích khi tham gia hợp
đồng, qua đó góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Thứ hai, đối với các chế định cụ thể liên quan đến việc thực hiện hợp đồng, pháp luật
hiện hành đã quy định tương đối hợp lý, cơ bản điều chỉnh được việc thực hiện HĐTM.
Song còn tồn tại một số bất cập:
Thứ nhất, quy định về chuyển rủi ro từ người bán sang người mua đối với hàng hóa
trong hợp đồng mua bán hàng hóa theo quy định tại Điều 59 LTM: trừ trường hợp có
thỏa thuận khác, nếu hàng hóa do người nhận hàng để giao nắm giữ mà không phải là
người vận chuyển thì rủi ro đối với hàng hóa được chuyển từ người bán sang người
mua khi bên mua nhận được chứng từ sở hữu hàng hóa hoặc khi người nhận hàng để
giao xác nhận quyền chiếm hữu hàng hóa của bên mua. Vấn đề đặt ra là người nhận
hàng là ai? Nếu người nhận hàng để giao có quan hệ với người bán thì việc người bán
giao hàng cho họ không được coi là giao cho người mua, và bên mua chịu rủi ro khi họ
được giao chứng từ sở hữu hàng hóa khó chấp nhận được vì hàng hóa vẫn do bên bán
nắm giữ. Nếu người nhận hàng để giao có quan hệ với bên mua thì người bán giao
hàng hóa cho họ nghĩa là hàng hóa đã được giao cho người mua, việc bên mua đã nhận
được chứng từ sở hữu hàng hóa hay chưa không có ý nghĩa. Mặt khác, việc xác nhận
chứng từ sở hữu hàng hóa là gì và bằng cách nào để người nhận hàng xác nhận quyền
chiếm hữu hàng hóa của bên mua cũng không đơn giản.
Thứ hai, trong thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa, người bán hàng có quyền yêu
cầu người mua hàng phải trả tiền lãi đối với số tiền chậm thanh toán trong trường hợp
người mua chậm thanh toán tiền hàng. So với lãi suất nợ quá hạn trong dân sự, lãi suất
nợ quá hạn trong các quan hệ mua bán hàng hóa thường được pháp luật các nước quy

22
định cao hơn rất nhiều vì cho rằng “tiền được thương nhân dùng để kinh doanh với tư
cách là vốn chứ không thuần tuý là giá trị trao đổi như trong các giao dịch dân sự”.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, tiền lãi trên số tiền chậm trả đó được
tính theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương
ứng với thời gian chậm trả (Điều 306 LTM 2005). Tức là cách tính lãi trên được dựa
trên cách tính lãi suất đối với nợ quá hạn trong quan hệ dân sự. Điều này rõ ràng là một
sự bất hợp lý, và không phù hợp với pháp luật và tập quán thương mại quốc tế.
Thứ ba, những bất cập trong chế tài phạt vi phạm hợp đồng:
Về giới hạn mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng, nhưng không quá
8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm. BLDS 2015 với tư cách là luật chung đã
hợp lý khi quy định mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp luật liên
quan có quy định khác. Với tư cách là Luật chuyên ngành điều chỉnh các quan hệ kinh
doanh thương mại, LTM 2005 tiếp tục kế thừa LTM 1997, đặt mức giới hạn tối đa cho
việc quy định phạt vi phạm. Tuy nhiên tác giả nhận thấy mức giới hạn nhưng không
quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm đã được quy định hơn 20 năm, ngày
nay trong sự tăng trưởng và hội nhập của nền kinh tế, hoạt động kinh doanh thương
mại nói chung và mua bán hàng hóa nói riêng ngày càng phức tạp, phát triển vì vậy
mức giới hạn này cũng cần được nới rộng ra để cho các bên có thể tự do thỏa thuận
phù hợp với tình hình thực tế hiện nay.
Mối quan hệ giữa phạt vi phạm với các chế tài tạm đình chỉ, đình chỉ, hủy bỏ hợp
đồng: Các Điều 309, 311, 314 LTM 2005 đều quy định được phép áp dụng chế tài bồi
thường thiệt hại cùng với chế tài tạm đình chỉ hoặc đình chỉ hoặc hủy bỏ hợp đồng.
Tuy nhiên lại không quy định rằng bên bị vi phạm có quyền áp dụng biện pháp phạt vi
phạm khi hợp đồng bị tạm đình chỉ hoặc đình chỉ hoặc hủy bỏ hay không.
Thứ tư, bất cập trong chế tài buộc bồi thường thiệt hại:
Vẫn còn sự khác biệt, chưa thống nhất giữa BLDS 2015 và LTM 2005: Nếu BLDS
2015 ghi nhận yếu tố lỗi là một trong các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại, thì trong LTM 2005 không ghi nhận yếu tố lỗi; LTM 2005 quy định có bốn trường
hợp miễn trách nhiệm cho bên vi phạm hợp đồng, bao gồm: (i) xảy ra trường hợp miễn

23
trách nhiệm mà các bên đã thỏa thuận; (ii) xảy ra sự kiện bất khả kháng; (iii) hành vi vi
phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia; (iv) hành vi vi phạm của một bên do
thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không
thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng thì BLDS 2015 không đưa “hành vi vi
phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm
quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng” làm căn cứ
miễn trách nhiệm bồi thường; BLDS 2015 yêu cầu bên vi phạm phải bồi thường toàn
bộ thiệt hại về vật chất và tinh thần cho bên bị thiệt hại thì LTM 2005 lại xác định
phạm vi bồi thường thiệt hại là giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải
chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên vi phạm đáng lẽ được hưởng
nếu không có hành vi vi phạm.
Về xác định giá trị bồi thường thiệt hại: Khoản 2 Điều 302 LTM 2005 xác định giá trị
bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải
chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được
hưởng nếu không có hành vi vi phạm trong khi BLDS 2015, Công ước Viên 1980 và
Bộ nguyên tắc Unidroit lại cho phép thỏa thuận
Về phạm vi thiệt hại được bồi thường cho HĐTM, pháp luật hiện hành chưa quy định
rõ phạm vi bồi thường có bao gồm những thiệt hại phi tiền tệ hay không (như thiệt hại
do mất uy tín, thiệt hại do người chết, bị thương…). Và thiệt hại có tính đến mọi khoản
lợi cho bên có quyền từ một khoản chi phí hay tổn thất tránh được hay không.
Thứ năm, bất cập trong quy định về đình chỉ thực hiện hợp đồng: quy định tại Điều 310
của LTM 2005 đã hoàn toàn loại trừ trường hợp các bên được thỏa thuận chấm dứt
thực hiện nghĩa vụ hợp đồng trong các trường hợp khác mà chỉ được chấm dứt hợp
đồng khi xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để đình chỉ hợp
đồng hoặc một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Điều khoản này không phản
ánh thực tế là các bên thường thỏa thuận về các sự kiện chấm dứt mà không phụ thuộc
vào việc có xảy ra hành vi vi phạm hay không. Ví dụ nếu giá cả thị trường biến động
lớn thì một bên có quyền chấm dứt hợp đồng và trong trường hợp này thì không có
hành vi vi phạm nào cả. Điều khoản này cũng hoàn toàn đi ngược với ý chí của các

24
bên: khi vi phạm xảy ra thì các bên đều mong muốn thỏa thuận giải pháp khắc phục
chứ không thể nào cho bên kia quyền đương nhiên chấm dứt theo pháp luật.
Thứ sáu, bất cập trong quy định về miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng:
LTM chỉ quy định mang tính chung chung trường hợp “xảy ra sự kiện bất khả kháng”
(trích Điều 294 LTM 2005) là một căn cứ để miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm
mà không có quy định làm rõ sự kiện này; cũng như quy định sẽ được thừa nhận là căn
cứ miễn trách nhiệm nếu nó xảy ra đối với các bên tham gia quan hệ hợp đồng hay đối
với cả bên thứ ba trong quan hệ hợp đồng. Điều 294, LTM 2005 mới dữ liệu miễn
trách nhiệm đối với bên vi phạm hợp đồng khi “hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn
do lỗi của bên kia” mà chưa tính đến khả năng hành vi vi phạm của một bên có nguyên
nhân xuất phát từ bên thứ ba, mà bên này rơi vào các trường hợp mà pháp luật quy
định được miễn trách nhiệm cũng chưa dự liệu trường hợp miễn trách nhiệm do một
bên uỷ quyền cho bên thứ ba thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng mà bên thứ ba
này vi phạm nghĩa vụ trong một số trường hợp cụ thể
Quy định miễn trách nhiệm khi “Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định
của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời
điểm giao kết hợp đồng” (trích Điều 294 LTM 2005) chưa thực sự rõ ràng: Cơ quan
quản lý nhà nước trong trường hợp này ra quyết định nhằm mục đích gì, những điều
kiện cụ thể để một quyết định có thể trở thành căn cứ miễn trách nhiệm cho bên vi
phạm hợp đồng? Việc thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước mang lại lợi
ích cho bên vi phạm và gây thiệt hại cho bên bị vi phạm hợp đồng thì sao?

2.2.3. Vi phạm hợp đồng kinh doanh, mua bán

2.2.3.1. Chế tài vi phạm hợp đồng kinh doanh, thương mại
Chế tài thương mại được hiểu là các biện pháp tác động bất lợi về tài sản của
bên có quyền lợi bị vi phạm với chủ thể có hành vi vi phạm cam kết hợp đồng trong
thương mại
Theo Điều 292 LTM 2005, chế tài thương mại có các loại và được áp dụng
trong thực tiễn như sau:

25
Khoản 1: Buộc thực hiện đúng hợp đồng
Theo Khoản 1 Điều 297 LTM 2005: “Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi
phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để
hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng trong thương mại phải
tiếp tục thực hiện nghĩa vụ theo yêu cầu của bên vi phạm”. Đây là biện pháp chế tài
được áp dụng rộng rãi đối với mọi vi phạm vì nó mang tính chất mềm dẻo, linh hoạt,
hiệu quả, thiện chí hơn so với các chế tài khác,
VD: Bên A ký hợp đồng mua bê tông tươi từ Cty B với tỷ lệ cát, sỏi, xi măng là x, y, z.
Nếu bên B trộn bê tông sai tỷ lệ so với hợp đồng, bên A có quyền yêu cầu bên B thực
hiện theo đúng hợp đồng và trộn bê tông với đúng tỷ lệ.
Khoản 2: Phạt vi phạm
Phạt vi phạm là hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng, theo đó bên vi phạm hợp đồng
phải trả cho bên bị vi phạm hợp đồng một khoản tiền nhất định do pháp luật quy định
hoặc do các bên thỏa thuận. Phạt vi phạm hợp đồng được áp dụng ngay cả khi thiệt hại
chưa xảy ra. Theo Điều 301 LTM 2005: “Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng
hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng,
nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy
định tại Điều 266 của Luật này.” Nhưng 8% ở đây được tính trên phần nghĩa vụ bị vi
phạm. Vì vậy, cần phải xác định được phần nghĩa vụ bị vi phạm là bao nhiêu để có thể
tính toán ra số tiền phạt vi phạm thực tế. Tuy nhiên, việc tính toán giá trị phần nghĩa vụ
hợp đồng bị vi phạm hoàn toàn không đơn giản. Bên cạnh đó, kết luận trong trường
hợp phải đưa ra tòa thì còn phụ thuộc vào nhận thức chủ quan của Thẩm phán hoặc Hội
đồng xét xử.
VD: Cty X ký hợp đồng bán 20.000 thùng khẩu trang cho Cty Y trong 2 đợt mỗi đợt
10.000 thùng. Cty X đã thực hiện đợt 1 đúng theo hợp đồng nhưng đến đợt 2 Cty X đã
không thực hiện hợp đồng. Theo Điều 301 thì Cty Y chỉ có thể phạt Cty X trên phần
hợp đồng là 10.000 thùng chứ không phải là 20.000 thùng (cả hợp đồng).
Ngoài ra, trên thực tế về quan hệ hợp đồng hợp tác thì không phải hợp đồng nào cũng
có thể tính toán rõ ràng phần hợp đồng bị vi phạm. Nếu như đó là một hợp đồng dịch

26
vụ hay một công việc phải thực hiện như vụ việc sau đây thì việc xác định sẽ khó khăn
hơn nhiều.
VD: Cty cổ phần Hoàng Gia ký hợp đồng với Cty TNHH Quảng cáo VT để thực hiện
một chương trình quảng cáo chung cư thu nhập thấp với giá trị khoảng 100 triệu đồng
trong vòng 1 quý. Tuy nhiên, sau 2 tháng Cty VT đã tự ý không tiếp tục thực hiện.
Trong hợp đồng giữa 2 cty điều khoản phạt vi phạm là 8% giá trị phần nghĩa vụ vi
phạm nhưng trong trường hợp này rất khó để xác định giá trị nghĩa vụ bị vi phạm chính
xác là bao nhiêu.
Không ít các trường hợp các bên ký kết hợp đồng với điều khoản vi phạm như sau:
“Nếu bên nào vi phạm hợp đồng thì ngoài việc phải bồi thường thiệt hại theo quy định
còn phải trả cho bên kia một số tiền gọi là tiền phạt vi phạm tương đương 8% giá trị
hợp đồng.” Nếu có tranh chấp xảy ra, rất khó để biết Tòa có chấp nhận điều này hay
không vì chung quy đây vẫn là việc làm trái quy định của pháp luật.
Mặc dù mang tính chất tiền tệ nhưng chế tài phạt vi phạm không chỉ mang mục đích
trừng phạt bên vi phạm mà còn góp phần nâng cao ý thức thực hiện hợp đồng của các
bên, phòng ngừa vi phạm hợp đồng.
Khoản 3: Bồi thường thiệt hại
Là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra
cho bên bị vi phạm; giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực
tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên
bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm. Bên yêu cầu bồi thường
thiệt hại phải chứng minh tổn thất, mức độ tổn thất do hành vi vi phạm gây ra và khoản
lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm.
Trên thực tế, một số quy định “vênh”, không rõ ràng giữa Luật TM 2005 và BLDS dẫn
đến khó khăn trong thực tiễn áp dụng pháp luật.
Quy định khác nhau về chế tài bồi thường thiệt hại giữa BLDS 2015 và LTM 2005
Hiện nay BLDS quy định về nguyên tắc bồi thường thiệt hại và các quy định cụ thể về
bồi thường thiệt hại khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ là cho phép các bên thỏa thuận về
mức bồi thường, nếu không có thỏa thuận về mức bồi thường thì thiệt hại được bồi

27
thường là thiệt hại thực tế phát sinh từ hành vi vi phạm. Trong khi đó, LTM 2005 quy
định thiệt hại được bồi thường là thiệt hại thực tế, trực tiếp phát sinh từ hành vi vi
phạm.Sự không thống nhất giữa hai văn bản luật nêu trên sẽ dẫn đến trường hợp tranh
chấp không thể giải quyết được trên thực tiễn.
Ví dụ: trong HĐTM giữa cty A và cty B về việc mua bán hàng hóa có thỏa thuận: “Bên
nào vi phạm hợp đồng mà gây ra thiệt hại thực tế cho bên bị vi phạm thì sẽ phải bồi
thường cho bên bị vi phạm 1 tỷ đồng.” Vậy thỏa thuận này có hợp pháp không và nếu
có hành vi vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại thực tế cho bên bị vi phạm
khoảng 200 triệu đồng thì bên bị vi phạm có quyền yêu cầu đòi bồi thường 1 tỷ đồng
theo thỏa thuận không?
Căn cứ quy định của pháp luật hiện hành, có phương án giải quyết vấn đề này như sau:
Phương án thứ nhất, trong quan hệ hợp đồng này, Luật TM 2005 là luật chuyên ngành
nên áp dụng Luật TM 2005. Thiệt hại được bồi thường phải là thiệt hại thực tế phát
sinh từ hành vi vi phạm nên chỉ được bồi thường 200 triệu đồng.
Phương án thứ hai, BLDS là luật chung điều chỉnh quan hệ hợp đồng dân sự được hiểu
theo nghĩa rộng, bao gồm cả HĐTM. Một trong những nguyên tắc của BLDS là tự do,
tự nguyện, cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của
luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực đối với các bên và phải được chủ thể khác
tôn trọng. Và trong trường hợp này, việc áp dụng Luật TM 2005 trái với nguyên tắc cơ
bản của BLDS về tự do thỏa thuận nên không được áp dụng theo quy định của BLDS.
Vì vậy, trường hợp này áp dụng BLDS và bên bị vi phạm được bồi thường 1 tỷ đồng
theo thỏa thuận của các bên.
Khoản 4: Tạm ngừng, đình chỉ và hủy bỏ hợp đồng
Tạm ngừng, đình chỉ và hủy bỏ hợp đồng là những chế tài theo đó có thể tạm dừng,
chấm dứt hay hủy bỏ thực hiện nghĩa vụ hợp đồng mua bán. Trên thực tế, chúng ta rất
dễ thấy những trường hợp HĐTM bị tạm ngừng, đình chỉ và thậm chí là hủy bỏ do
những sai phạm, bất đồng của các bên đại diện trong hợp đồng.
Ví dụ: Bên A ký hợp đồng dịch vụ trang trí nội thất (3 phòng) cho bên B. Bên B có
nghĩa vụ thanh toán cho bên A (gồm tiền mua đồ nội thất và thù lao) khi hết thời hạn

28
thực hiện hợp đồng. Hai bên thỏa thuận hành vi không hoàn thành công việc đúng thời
hạn là điều kiện để tạm ngừng thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền thù lao cho bên A
(vẫn thanh toán tiền nội thất đã mua).
Như vậy, nếu không có thỏa thuận về phạm vi tạm ngừng thực hiện nghĩa vụ thanh
toán, bên B có thể tạm ngừng thanh toán cho bên A cả tiền mua nội thất lẫn thù lao,
gây bất lợi cho bên A. Nhưng nếu hai bên thỏa thuận “Nếu bên A (hoặc bên B) vi
phạm hợp đồng thì bên còn lại có quyền hủy bỏ hợp đồng” (không ghi nhận là hủy bỏ
một phần hay toàn bộ hợp đồng). Khi phát sinh vi phạm sẽ xảy ra 2 trường hợp:

1. A, B thống nhất được hình thức hủy bỏ hợp đồng thì hình thức đó được áp dụng
2. A, B không thống nhất được hình thức hủy bỏ hợp đồng, việc xác định hình
thức nào sẽ dựa vào sự phù hợp nhất với mục đích, tính chất của hợp đồng.
Theo đó, hợp đồng dịch vụ nêu trên là loại hợp đồng song vụ, có mục đích là
bên A trang trí nội thất cho bên B, nếu bên A đã trang trí xong nội thất của hai
phòng, còn một phòng chưa làm xong, thì có thể căn cứ vào điều này xác định
hình thức hủy bỏ là hủy bỏ một phần hợp đồng trang trí căn phòng thứ ba mà
không phải là hủy bỏ toàn bộ hợp đồng.

2.2.3.2. Mua bán hàng giả, hàng kém chất lượng khác so với bản hợp đồng đã ký, gây
tổn thất và phải bồi thường. (Điều 320 LTM 2005)
Mua bán hàng hóa là các giao dịch được pháp luật công nhận và bảo vệ theo quy
định. Theo đó pháp luật tôn trọng các thỏa thuận không trái với các quy định của pháp
luật của các bên tham gia giao dịch. Bởi vậy, trong trường hợp của bạn cần phải xem
xét hợp đồng (hoặc thỏa thuận) của bạn với bên bán quy định như thế nào về chất
lượng, số lượng...đối với sản phẩm giao dịch. Trong trường hợp có thỏa thuận về các
vấn đề của sản phẩm, bảo hành sản phẩm thì các bên phải tuân thủ toàn bộ các nội
dung đã thỏa thuận. Theo đó, bên bán hàng hóa phải có trách nhiệm về mọi khiếm
khuyết về sản phẩm (theo quy định Khoản 2 Điều 40 LTM 2005) và có nghĩa vụ khắc
phục các vấn đề về hàng hóa (theo quy định tại Điều 41 LTM 2005).

29
Nhưng nếu không có thỏa thuận thì các bên có thể áp dụng quy định của pháp luật quy
định về trường hợp này. Cụ thể, theo Điều 432 BLDS 2015 quy định về Chất lượng của
tài sản mua bán được xác định như sau:
1. Chất lượng của tài sản mua bán do các bên thỏa thuận.
2. Trường hợp tiêu chuẩn về chất lượng của tài sản đã được công bố hoặc được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền quy định thì thỏa thuận của các bên về chất lượng
của tài sản không được thấp hơn chất lượng của tài sản được xác định theo tiêu
chuẩn đã công bố hoặc theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
3. Khi các bên không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng về chất lượng
tài sản mua bán thì chất lượng của tài sản mua bán được xác định theo tiêu
chuẩn về chất lượng của tài sản đã được công bố, quy định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền hoặc theo tiêu chuẩn ngành nghề.
Trường hợp không có tiêu chuẩn về chất lượng của tài sản đã được công bố, quy
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và tiêu chuẩn ngành nghề thì chất lượng của
tài sản mua bán được xác định theo tiêu chuẩn thông thường hoặc theo tiêu chuẩn riêng
phù hợp với mục đích giao kết hợp đồng và theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng.
Theo quy định của BLDS 2015, trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ phát sinh khi
có đủ 4 yếu tố sau: có hành vi vi phạm hợp đồng, có thiệt hại thực tế xảy ra, bao gồm
cả thiệt hại vật chất và tổn thất về tinh thần, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi
phạm hợp đồng và thiệt hại thực tế và có lỗi dẫn đến vi phạm hợp đồng.
VD: Cty A ký hợp đồng mua bán gas với Cty B, có quy định rõ ràng cụ thể về chất
lượng bình gas và khí gas. Hợp đồng đã có hiệu lực pháp luật. Cty B tiến hành giao
hàng cho Cty A theo đúng hợp đồng nhưng Cty A không tiến hành kiểm tra chất lượng
bình gas vì số lượng bình quá nhiều và rất nặng để nhấc lên kiểm tra. Cty A tiến hành
phân phối số hàng đó cho người tiêu dùng. Nay Công an tiến hành kiểm tra và xử phạt
Cty A do chất lượng vỏ bình không đạt tiêu chuẩn, đã quá hạn lưu thông trên thị
trường. Trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác, trách nhiệm đối với hàng hóa
không phù hợp với hợp đồng được quy định như sau:

30
Bên bán không chịu trách nhiệm về bất kỳ khiếm khuyết nào của hàng hoá nếu vào
thời điểm giao kết hợp đồng bên mua đã biết hoặc phải biết về những khiếm khuyết đó;
Trừ trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều này, trong thời hạn khiếu nại theo quy định
của Luật này, bên bán phải chịu trách nhiệm về bất kỳ khiếm khuyết nào của hàng hoá
đã có trước thời điểm chuyển rủi ro cho bên mua, kể cả trường hợp khiếm khuyết đó
được phát hiện sau thời điểm chuyển rủi ro. Bên bán phải chịu trách nhiệm về khiếm
khuyết của hàng hóa phát sinh sau thời điểm chuyển rủi ro nếu khiếm khuyết đó do bên
bán vi phạm hợp đồng. Như vậy, cty B đã vi phạm hợp đồng mua bán gas với cty A, có
thể thấy, việc cty B giao hàng không đúng chất lượng, không đủ tiêu chuẩn và đã quá
hạn sử dụng là hành vi cố ý của cty B. Trách nhiệm bồi thường hợp đồng: theo quy
định tại Điều 351 BLDS 2015 cty B có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho cty A, cụ
thể như sau:
Bên có nghĩa vụ mà vi phạm nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có
quyền. Vi phạm nghĩa vụ là việc bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ đúng thời
hạn, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nội dung của nghĩa
vụ. Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả
kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc
pháp luật có quy định khác. Bên có nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm dân sự nếu
chứng minh được nghĩa vụ không thực hiện được là hoàn toàn do lỗi của bên có quyền.

2.2.4. Quy định lãi chậm thanh toán (Điều 306 LTM 2005)
Điều 306 LTM 2005 quy định như sau:
"Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán
thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu
cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường
tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác hoặc pháp luật có quy định khác". Việc áp dụng quy định tại Điều 306 LTM 2005
chưa thực sự thống nhất. Án lệ số 09/2016/AL (được xây dựng trên cơ sở Quyết định
giám đốc thẩm số 07/2013/KDTM- ĐT ngày 15/03/2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa

31
án nhân dân tối cao) đã có câu trả lời về vấn đề này. Nội dung án lệ đã khẳng định rõ:
“Tuy nhiên, khi tính tiền lãi do chậm thanh toán số tiền nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm
mặc dù áp dụng Điều 306 LTM 2005 nhưng không lấy mức lãi suất quá hạn trung bình
trên thị trường tại thời điểm thanh toán (xét xử sơ thẩm) để tính, mà lại áp dụng mức
lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm xét xử sơ thẩm theo yêu
cầu của nguyên đơn để áp dụng mức lãi quá hạn (là 10,5%/năm) là không đúng. Trong
trường hợp này, Tòa án cần lấy mức lãi suất quá hạn trung bình của ít nhất 03 ngân
hàng tại địa phương (Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân
hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần
Công thương Việt Nam...) để tính lại tiền lãi do chậm thanh toán cho đúng quy định
của pháp luật1”. Nội dung án lệ trên theo hướng cần lấy mức lãi trung bình của ít nhất
ba ngân hàng” nên chúng ta có thể lấy mức lãi trung bình của 03 hay nhiều hơn 03
ngân hàng. Điều này nhiều khi còn phụ thuộc vào ý chí của các bên tranh chấp, khi
nguyên đơn đề nghị áp dụng mức lãi suất của 03 ngân hàng này nhưng bị đơn lại đề
nghị 03 ngân hàng khác, trong trường hợp này Tòa án có thể lấy mức lãi trung bình của
cả 06 ngân hàng để làm cơ sở giải quyết vụ án.
Chương 3. GIẢI PHÁP VÀ ĐỊNH HƯỚNG NÂNG CAO HIỆU QUẢ KHI THỰC
HIỆN HĐTM

3.1.MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ HĐTM

3.1.1. Phù hợp với chủ trường, đường lối chính sách phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam
Từ hoàn cảnh thực tế của Việt Nam có thể thấy rằng, chúng ta chưa đầy đủ các
tiền đề cần thiết để xây dựng khung pháp luật về hợp đồng kinh tế trong đó có chế định
về HĐTM, xử lý HĐTM một cách đồng bộ và hoàn chỉnh. Các quy định về HĐTM
hiện hành còn mang tính chất quá độ. Chính vì vậy, trong bước chuyển sang nền kinh
tế thị trường ngày càng hội nhập sâu rộng đòi hỏi pháp luật về hợp đồng nói chung,

1
Án lệ số 09/2016/AL về xác định lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường và việc trả lãi trên số tiền phạt vi
phạm, bồi thường thiệt hại - 19/10/2016

32
HĐTM nói riêng phải linh hoạt và có tính thích nghi cao đáp ứng được nhu cầu phát
triển thị trường và nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý của Nhà nước.
Đảm bảo sự thống nhất với hệ thống văn bản pháp luật:
Thứ nhất, các quy định về HĐTM cần được đặt trong mối quan hệ với các quy định về
hợp đồng. HĐTM là một dạng đặc thù của hợp đồng dân sự. Mọi hợp đồng dù nhằm
phục vụ cho nhu cầu kinh doanh hay tiêu dùng sinh hoạt đều chịu sự điều chỉnh chung
của BLDS.
Hiện tại để điều chỉnh quan hệ hợp đồng, pháp luật Việt Nam có hai văn bản cùng tồn
tại đó là BLDS 2015 và LTM 2005. Hoàn thiện các quy định của LTM theo hướng tạo
điều kiện cho các HĐTMnói chung và thực hiện HĐTM nói riêng phát triển thuận lợi
trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa tại Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, sửa đổi bổ sung các quy định của pháp luật hiện hành theo hướng xây dựng
hoàn thiện các quy định về hợp đồng trong BLDS và các luật chuyên ngành trong lĩnh
vực thương mại. Do đó, để tuyên bố và giải quyết hợp đồng vô hiệu một cách chính
xác, có sức thuyết phục, cần hướng tới các vấn đề sau:
1. Tôn trọng tự do hợp đồng
2. Xác định sự can thiệp vào tự do hợp đồng
3. Trật tự công thay cho điều cấm của pháp luật
4. Sử dụng án lệ về hợp đồng dân sự vô hiệu.

3.1.2. Đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế trong xu thế hội nhập
Trong xu hướng đó, việc hoàn thiện pháp luật hợp đồng nói chung và hợp đồng
vô hiệu nói riêng cần phải có sự nghiên cứu, tham khảo pháp luật về hợp đồng các
nước, để tạo sự tương thích của pháp luật hợp đồng ở nước ta với pháp luật về hợp
đồng ở các nước trên thế giới, đáp ứng nhu cầu hội nhập hiện nay.

3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN HĐTM

33
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật
Trong giai đoạn hiện nay, tình hình trong nước và quốc tế có nhiều biến động,
diễn biến phức tạp, Việt Nam tiếp tục phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức.
Bối cảnh ấy đặt ra yêu cầu Đảng và Nhà nước ta phải tiếp tục đổi mới cả trong nhận
thức và thực tiễn xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị, nhà nước pháp quyền, phát
huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và đổi mới cơ chế hoạch định và thực thi chính sách,
pháp luật. Vì vậy, chúng ta cần tìm ra những giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế
mà hệ thống pháp luật mắc phải. Đối với quy định của pháp luật về HĐTM ở Việt Nam
còn tồn tại một số bất cập đặc biệt là tại LTM 2005 và cần khắc phục như sau:
Thứ nhất, xuất phát từ bất cập trong quy định về chuyển rủi ro từ người bán sang người
mua đối với hàng hóa trong hợp đồng mua bán theo quy định tại Điều 59 LTM 2005:
kiến nghị bỏ quy định cơ sở để xác định thời điểm chuyển giao rủi ro trong mua bán
hàng hóa là chứng từ sở hữu hàng hóa
Thứ hai, cần điều chỉnh quy định về trả tiền lãi đối với số tiền chậm thanh toán (Điều
306 LTM 2005) trong trường hợp người mua chậm thanh toán tiền hàng theo hướng
tăng lên vì trong hoạt động thương mại, tiền được thương nhân dùng để kinh doanh với
tư cách là vốn chứ không thuần túy là giá trị trao đổi như trong các giao dịch dân sự.
Vấn đề đặt ra là các tổ chức tín dụng có chức năng cho vay, có thể có nhiều loại hình
hoạt động khác nhau trong đó có các ngân hàng thương mại, cty tài chính hoạt động vì
mục đích sinh lời và kể cả tổ chức cho vay vì mục tiêu hỗ trợ tiếp cận vốn thực hiện
các chính sách xã hội (hợp tác xã tín dụng, tổ chức tài chính vi mô, quỹ tín dụng nhân
dân). Việc xác định lãi suất dựa theo một ngân hàng cụ thể chắc chắn không phù hợp,
kể cả đó là lãi suất do các ngân hàng thương mại do nhà nước thành lập. Nghị quyết số
01/2019/NQ- HĐTP ban hành ngày 11/1/2019 hướng dẫn quy định về lãi, lãi suất, phạt
vi phạm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (Nghị quyết số 01/2019/NQ-
HĐTP) hướng dẫn điểm này khá cụ thể.
Thứ ba, cần quy định cụ thể về thời hạn hợp lý để gia hạn thực hiện hợp đồng (Điều
298 LTM 2005) mà nên theo hướng linh hoạt hơn, cho phép các bên chủ thể tự do thỏa

34
thuận về thời hạn này thay vì trao quyền cho bên bị vi phạm. Từ đó sẽ đảm bảo được
mục đích của quy định này: vẫn thực hiện hợp đồng.
Thứ tư, hoàn thiện quy định về chế tài phạt vi phạm: Kiến nghị quy định lại việc thỏa
thuận phạt vi phạm (Điều 300 LTM 2005) theo hướng: Phạt vi phạm là việc bên bị vi
phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu các bên
có sự thoả thuận trước khi xảy ra vi phạm, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy
định tại Luật này. Kiến nghị điều chỉnh lại mức giới hạn mức phạt vi phạm (Điều 301
LTM 2005) theo hướng tăng lên hơn 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm để
phù hợp hơn với thực tế quan hệ kinh doanh thương mại, xu hướng hội nhập và để chế
tài phạt vi phạm phát huy hết vai trò, mục đích của nó là phòng ngừa và răn đe.
Thứ năm, hoàn thiện quy định về chế tài buộc bồi thường thiệt hại: Kiến nghị bổ sung
thêm một số loại thiệt hại có thể được bồi thường như: Các loại thiệt hại vô hình như
mất uy tín kinh doanh, giá trị thương hiệu, ảnh hưởng thị phần… Trên thực tế, trong
nhiều tranh chấp liên quan khi chủ thể đưa ra yêu cầu bồi thường loại thiệt hại này
nhưng không được cơ quan tài phán chấp nhận vì không có văn bản pháp luật quy định.
Và khi thừa nhận những chi phí này là thiệt hại thực tế, cần có quy định rõ ràng những
thiệt hại gián tiếp phải thỏa mãn được một số điều kiện nhất định mới được bồi thường;
quy định thêm nguyên tắc: thiệt hại gián tiếp phải đáp ứng được những điều kiện sau
mới được bồi thường: những thiệt hại này có thể tính toán được, không phải do suy
diễn mà có; những thiệt hại này là hậu quả tất yếu của hành vi vi phạm hợp đồng;
những thiệt hại này có thể dự đoán trước được khi các bên ký kết hợp đồng.
Thứ sáu, hoàn thiện quy định về miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng (Điều 294
LTM 2005). Kiến nghị quy định cụ thể hơn về trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng
theo hướng làm rõ sự kiện này cũng như quy định sẽ được thừa nhận là căn cứ miễn
trách nhiệm nếu nó xảy ra đối với các bên tham gia quan hệ hợp đồng hay đối với cả
bên thứ ba trong quan hệ hợp đồng. Quy định về trường hợp hành vi vi phạm của một
bên có nguyên nhân xuất phát từ bên thứ ba, mà bên này rơi vào các trường hợp mà
pháp luật quy định được miễn trách nhiệm và trường hợp miễn trách nhiệm do một bên
uỷ quyền cho bên thứ ba thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng mà bên thứ ba này

35
vi phạm nghĩa vụ trong một số trường hợp cụ thể. Quy định cụ thể hơn về miễn trách
nhiệm khi: Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý
nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp
đồng. Cụ thể là về: Mục đích ra quyết định của cơ quan quản lý nhà nước, những điều
kiện cụ thể để một quyết định có thể trở thành căn cứ miễn trách nhiệm cho bên vi
phạm hợp đồng. Miễn trách nhiệm trong trường hợp việc thực hiện quyết định của cơ
quan quản lý nhà nước mang lại lợi ích cho bên vi phạm và gây thiệt hại cho bên bị vi
phạm hợp đồng.
Thứ bảy, hoàn thiện quy định về chuyển giao rủi ro đối với hàng hóa trong hợp đồng
mua bán hàng hóa. Cụ thể như là: chuyển rủi ro đối với hàng hóa mua bán trên đường
vận chuyển theo hướng tham khảo Công ước Viên: người mua sẽ chịu rủi ro từ thời
điểm hàng hóa được giao cho người chuyên chở là người đã phát hành chứng từ xác
nhận hợp đồng vận chuyển. Trừ trường hợp lúc ký kết hợp đồng mua bán, người bán
đã biết hoặc không thể không biết rằng hàng hóa đã bị mất mát hoặc hư hỏng mà
không thông báo cho người mua. Kiến nghị nghiên cứu thay đổi ranh giới chuyển rủi
ro từ Điều 57 đến Điều 61 LTM 2005 theo hướng phù hợp với thực tiễn thương mại
quốc tế (Incoterms 2010).
Ngoài ra, một số giải pháp cụ thể để hoàn thiện hệ thống pháp luật sau đây:
Thứ nhất, tiếp tục đơn giản hoá hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật hiện hành của Nhà nước ta đã được đơn giản hoá một bước
nhưng vẫn còn gần 20 loại văn bản khác nhau, trong đó có tình trạng một số cơ quan
được ban hành nhiều loại văn bản khác nhau; mỗi loại văn bản lại có thể do nhiều cơ
quan có thẩm quyền ban hành. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật càng được quy
định đơn giản thì càng tạo thuận lợi trong việc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống
pháp luật.
Thứ hai, hạn chế tình trạng ban hành “luật khung”. Điều 11 Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật năm 2015 quy định: “Văn bản quy phạm pháp luật phải được quy định
cụ thể để khi có hiệu lực thì thi hành được ngay... Dự thảo văn bản quy định chi tiết
phải được chuẩn bị và trình đồng thời với dự án luật, pháp lệnh và phải được ban hành

36
để có hiệu lực cùng thời điểm có hiệu lực của văn bản hoặc điều, khoản, điểm được
quy định chi tiết...". Tuy nhiên, thực tế vẫn xảy ra không ít các trường hợp vẫn quy
định theo hướng “luật khung2” còn để lại giao cho các cơ quan khác quy định cụ thể.
Vì vậy, để tránh tình trạng các văn bản do cơ quan cấp dưới ban hành trái hoặc mâu
thuẫn với văn bản do cơ quan cấp trên thì khi ban hành văn bản quy phạm pháp luật
các cơ quan cấp trên cần đảm bảo nguyên tắc khi văn bản có hiệu lực có thể thi hành
được ngay mà không cần phải văn bản quy định chi tiết hoặc hướng dẫn.
Thứ ba, áp dụng kỹ thuật một văn bản sửa nhiều văn bản. Việc áp dụng kỹ thuật một
văn bản sửa nhiều văn bản cho phép một cơ quan khi sửa đổi một quy định của pháp
luật sẽ đồng thời sửa ngay những quy định có liên quan trong các văn bản quy phạm
pháp luật khác do mình ban hành để bảo đảm sự thống nhất giữa các quy định mới với
với hệ thống pháp luật, tránh xảy ra các trường hợp mâu thuẫn, chồng chéo, trùng lắp
với các quy định cũ trong hệ thống pháp luật.
Thứ tư, tăng cường chất lượng của công tác thẩm định, thẩm tra dự thảo văn bản quy
phạm pháp luật. Hoạt động thẩm định, thẩm tra phải được thực hiện nghiêm túc, hiệu
quả. Trong thẩm định, thẩm tra phải đặc biệt chú ý đến thứ bậc hiệu lực của văn bản
quy phạm pháp luật sao cho phù hợp với văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, cơ
quan ngang cấp và không mâu thuẫn trong nội tại văn bản; các chủ thể ban hành văn
bản quy phạm pháp luật cần kiên quyết không xem xét, thông qua hoặc ký ban hành
văn bản quy phạm pháp luật khi trong hồ sơ dự án, dự thảo văn bản chưa có báo cáo
thẩm định, thẩm tra.
Thứ năm, tăng cường và nâng cao hiệu quả của công tác giám sát, kiểm tra văn bản quy
phạm pháp luật. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước ta với một số
lượng lớn đồ sộ các văn bản dưới luật, pháp lệnh, các văn bản này lại do rất nhiều các
chủ thể khác nhau ban hành dưới nhiều hình thức văn bản khác nhau. Hoạt động, giám
sát kiểm tra nhằm phát hiện những văn bản quy phạm pháp luật không bảo đảm tính
hợp hiến, hợp pháp, mâu thuẫn, chồng chéo để kịp thời xử lý xử lý, loại bỏ ra khỏi hệ

2
Một số định hướng, giải pháp cụ thể hoàn thiện hệ thống pháp luật-20/05/2021, Tác giả: Việt Anh- Trang thông
tin phổ biến giáo dục pháp luật tỉnh Phú Thọ

37
thống pháp luật. Cần tăng cường thẩm quyền, điều kiện đảm bảo phát huy vai trò của
cơ quan tư pháp trong việc kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật.
Thứ sáu, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của văn bản quy phạm
pháp luật và trách nhiệm của lãnh đạo các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong việc
bảo đảm tính tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Một văn bản quy phạm pháp luật
sai trái dẫn đến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng không đi vào cuộc sống,
mục tiêu quản lý nhà nước, quản lý xã hội không đạt được, xâm phạm tới quyền và lợi
ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, làm cho hệ thống pháp luật thiếu tính
thống nhất gây nên những rủi ro pháp lý cho cả đối tượng chịu sự điều chỉnh của văn
bản cũng như bản thân cán bộ, công chức là người áp dụng các văn bản đó.
Thứ bảy, đổi mới tổ chức, đầu tư nguồn nhân lực và kinh phí hoạt động cho các thiết
chế trực tiếp tham gia vào việc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Về tổ
chức và nguồn nhân lực: Cơ quan soạn thảo, cơ quan trình, cơ quan thẩm tra, cơ quan
cho ý kiến, cơ quan xem xét thông qua hoặc ký ban hành văn bản. Để các thiết chế này
hoạt động có hiệu quả, cần thiết phải đầu tư nguồn nhân lực và kinh phí hoạt động. Về
đầu tư kinh phí: cần đổi mới cơ chế cấp phát kinh phí cho hoạt động xây dựng pháp
luật, giám sát, kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật theo hướng coi chi cho
hoạt động này là chi cho đầu tư phát triển phải được dự toán hàng năm vào mục chi
thường xuyên của các thiết chế này và phải được Quốc hội cũng như các cơ quan có
thẩm quyền quyết định theo đúng quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước.

3.2.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
Không chỉ đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật, chúng ta
còn phải đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật cụ thể như sau:
Thứ nhất, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật nói chung và pháp luật
về thực hiện HĐTM cho các thương nhân nói riêng. Doanh nghiệp cần nhận thức rõ
tầm quan trọng của việc hiểu và nắm rõ pháp luật; chú trọng đến việc tuyên truyền, phổ
biến pháp luật cho người lao động tại doanh nghiệp. Thông qua nhiều hình thức tuyên
truyền, kết hợp với công tác hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, nhằm khẳng định tầm

38
quan trọng của việc tuân thủ pháp luật, tuân thủ hợp đồng, nhấn mạnh các nội dung về
thỏa thuận, thực hiện, xử lý vi phạm hợp đồng.
Thứ hai, tăng cường công tác bồi dưỡng nghiệp vụ, cũng như tăng cường sự trao đổi
kinh nghiệm trong lực lượng tài phán đảm bảo xử lý đúng quy định pháp luật, hạn chế
việc cơ quan xét xử cấp trên sửa, hủy, đình chỉ bản án của cơ quan cấp dưới, trong việc
giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại nói chung và tranh chấp liên quan đến
thực hiện HĐTM nói riêng. Để có đội ngũ cán bộ, công chức đủ năng lực, phẩm chất,
thời gian tới “Đảng tập trung lãnh đạo về đường lối chủ trương, xây dựng tiêu chí, tiêu
chuẩn, cơ chế, chính sách về cán bộ, công chức. Đẩy mạnh dân chủ hóa công tác cán
bộ, quy định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của mỗi tổ chức, mỗi cấp trong xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng,
có trình độ, năng lực chuyên môn phù hợp, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới 3.” Quy
định rõ và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu; có cơ chế khuyến khích, khơi dậy
tinh thần cống hiến vì đất nước, tạo động lực và áp lực để mọi cán bộ, công chức, viên
chức hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được giao, tận tụy phục vụ nhân dân; có cơ chế bảo
vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì
lợi ích chung.
Thứ ba, tăng cường hợp tác và học hỏi kinh nghiệm quốc tế trong việc xây dựng, thực
thi pháp luật về kinh doanh thương mại nói chung và pháp luật về thực hiện HĐTM nói
riêng.

KẾT LUẬN
Để đánh giá sự phát triển của một quốc gia thì không chỉ nền kinh tế trong nước
mà còn được thể hiện qua các yếu tố như kim ngạch xuất khẩu, trao đổi hàng hóa giữa
Việt Nam với các nước trong khu vực, sự phát triển của HĐTMtrong bối cảnh kinh tế
thế giới. Do vậy, HĐTMđóng vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển
kinh tế. Và HĐTM chính là hình thức pháp lý để cá nhân, tổ chức thực hiện các
HĐTMnhư mua bán hàn hàng hóa và cung ứng dịch vụ với đối tác. Ngoài ra, HĐTM
3
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, tập 1, Sđd, trang 180

39
còn là công cụ quan trọng để doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh của mình trong
hoạt động kinh doanh. Thông qua hợp đồng thương mại, các cá nhân và tổ chức bước
vào một thỏa thuận với những đối tác của mình thông qua niềm tin mà chúng ta gọi là
luật chơi để đảm bảo rằng những thỏa thuận đó sẽ được thực hiện.
HĐTM đóng vai trò hết sức quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Pháp luật về
thực hiện HĐTM theo quy đinh của pháp luật Việt Nam được quy định trong LTM
2005, BLDS 2015 và các văn bản pháp luật có liên quan về cơ bản đã tạo thanh một
hành lang pháp lý điều chỉnh hoạt động thực hiện HĐTM. Tuy nhiên, các văn bản trên
vẫn còn tồn tại những thiếu xót, bất cập và không thống nhất. Qua bài làm chúng em
mong muốn tìm hiểu rõ hơn về HĐTM để có cái nhìn toàn diện, đa chiều. Biết cách áp
dụng HĐTM một cách hợp lý khi giao kết hợp đồng và không để xảy ra những tình
huống xấu khi thực hiện HĐTM. Biết kết hợp linh hoạt, đồng bộ các giải pháp đặt ra sẽ
tạo ra động lực lớn trong đáp ứng yêu cầu hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật Việt Nam
nói chung, pháp luật về hợp đồng nói riêng. Từ đó, tạo ra những đảm bảo vững chắc
cho hoạt động kinh doanh thương mại tại Việt Nam với những hỗ trợ tối đa cho quyền
lợi của các chủ thể kinh doanh mà pháp luật đang hướng đến hoàn thiện.

40
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng việt:


1. Luật Thương mại 2005
2. Bộ luật Dân sự 2015
3. Nguyễn Hợp Toàn (2013) chủ biên Giáo trình Pháp luật Kinh tế, NXB
ĐHKTQD
4. Nguyễn Ngọc Khánh (2007) chủ biên Chế định hợp đồng trong pháp luật Việt
Nam, Nhà xuất bản Tư pháp
Tài liệu Internet:
5. Ths Nguyễn Đức Anh (2021). “Phạt vi phạm hợp đồng theo pháp luật thương
mại Việt Nam”, tapchitoaan.vn, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/phat-
vi-pham-hop-dong-theo-phap-luat-thuong-mai-viet-nam ,10/01/2022
6. TS. Nguyễn Đức Kiên (2018). “Hoàn thiện quy định của pháp luật về hợp đồng
thương mại ở Việt Nam”, lapphap.vn
http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?
tintucid=208313&fbclid=IwAR2t5CjM5SVuq4a_Tkp8-
BGjZAr1lYTYhTt1odYej-w-O-lNAUnBlHZ6PBA%20, 10/01/2022
7. GS.TS. Nguyễn Minh Đoan, “Nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật theo tinh
thần văn kiện Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam”, moj.gov.vn
https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2613,
10/01/2022
8. Cao Thanh Huyền- Trường Đại học Luật Hà Nội, “Một số giải pháp hoàn thiện
LTM 2005 trong gia đoạn Việt Nam hiện nay”, tapchicongthuong.vn,
https://www.tapchicongthuong.vn/bai-viet/mot-so-giai-phap-hoan-thien-luat-
thuong-mai-nam-2005trong-giai-doan-hien-nay-o-viet-nam-69593.htm,
11/01/2022
9. Bùi Bích Phương (2021), “Tổng quan về vi phạm hợp đồng phần 2”,
apolatlegal.com, https://apolatlegal.com/vi/bai-viet/tong-quan-ve-phat-vi-pham-
hop-dong-phan-2.html, 10/01/2022
10. Như Ý (2021) “Mức lãi suất chậm trả trong vụ án kinh tế”, thuvienphapluat.vn,
https://thuvienphapluat.vn/banan/tin-tuc/muc-lai-suat-cham-tra-trong-vu-an-
kinh-te-3814, 10/01/2022
11. Nguyễn Văn Hợi (2020) “Sự không thống nhất trong quy định về hợp đồng
giữa Luật Thương mại và Bộ luật Dân sự”, lapphap.vn,
http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=210500, 10/1/2022
12. Nguyễn Thị Sương – Công ty Luật FDVN (2021) “Những điểm mâu
thuẫn giữa Luật Thương mại 2005 và Bộ Luật Dân sự 2015”, fdvn.vn,
http://fdvn.vn/nhung-diem-mau-thuan-giua-luat-thuong-mai-2005-va-bo-luat-
dan-su-2015/, 10/01/2022
13. Nguyễn Hồng Trinh- Trường Đại học Luật, Đại học Huế, “Nguyên tắc tự
do chọn luật cho hợp đồng từ công ước Rome 1980 đến quy tắc Rome I và nhìn
về Việt Nam”,lapphap.vn, http://www.lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?
tintucid=207007, 09/01/2022
14. Đoàn Thị Ngọc Hải, “Chế định hợp đồng trong pháp luật dân sự”,
tapchitoaan.vn, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/che-dinh-hop-dong-
trong-phap-luat-dan-su, 07/01/2022
15. Lê Thủy Tiên, “Quy định về nội dung cơ bản của hợp đồng thương mại”,
luatminhkhue.vn, https://luatminhkhue.vn/quy-dinh-ve-noi-dung-co-ban-cua-
hop-dong-thuong-mai.aspx#23-ve-doi-tuong-hop-dong, 07/01/2022
16. Ths Nguyễn Văn Dương, “Hợp đồng thương mại là gì? Đặc điểm của
hợp đồng thương mại”, luatduonggia.vn, https://luatduonggia.vn/dac-diem-cua-
hop-dong-thuong-mai/, 07/01/2022

You might also like