You are on page 1of 28

1

LỜI CẢM ƠN

Em xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu các thầy cô Khoa Luật Trưởng Đại học
Kinh tế quốc dân đã tạo điều kiện cho em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại
Trưởng.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo hướng dẫn Thạc sỹ Trần Thị Nguyệt
đã tận tình hướng dẫn và chỉ bảo em hoàn thiện Đề án môn Luật Thương mại.

Hà Nội, ngày 21 tháng 12 năm 2020


Bùi Thị Mai Hiên
2

LỜI CAM ĐOAN

Em xin cam đoan bài viết này là sự nghiên cứu của riêng em với sự hướng dẫn
khoa học của giảng viên Trần Thị Nguyệt. Các nội dung nghiên cứu trong đề án này là
trung thực. Kết quả nghiên cứu được nêu trong luận văn chưa từng được công bố dưới bất
kỳ hình thức nào trước đây. Trong bài viết có sử dụng một số nhận xét, đánh má cũng như
số liệu của các tác giả, cơ quan, tổ chức khác đều có trích dẫn rõ ràng. Nếu phát hiện có
bất kỳ sự gian lận nảo em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung đề án của mình

Hà Nội, ngày 21 tháng 12 năm 2020


Bùi Thị Mai Hiên
3

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

HĐTM HĐTM
TTTM Trọng tài thương mại
HĐTT Hội đồng trọng tài
BLTTDS Bộ luật Tố tụng dân sự
1

MỞ ĐẦU
Hiện nay, ở các quốc gia đang phát triển như Việt Nam, để hội nhập và mở rộng cơ
chế thị trường, việc làm ăn với đối tác trong và ngoài nước ngày càng nhiều nên việc phát
sinh tranh chấp trong hoạt động thương mại nói chung và tranh chấp HĐTM nói riêng
cũng ngày một đa dạng và phức tạp. Cùng với sự đa dạng và phát triển của xã hội, những
tranh chấp thương mại phát sinh ngày càng mang tính chất phức tạp.
Tại Việt Nam, bên cạnh phương thức giải quyết tranh chấp truyền thống bằng Tòa
án pháp luật đã chính thức ghi nhận và quy định về phương thức giải quyết tranh chấp
bằng TTTM từ năm 2003, thông qua Pháp lệnh TTTM năm 2003 - văn bản đánh dấu một
bước phát triển của pháp luật về TTTM ở nước ta. Tuy nhiên tính tới nay, TTTM tại Việt
Nam vẫn chưa phát huy được thế mạnh của mình. Phần lớn các tranh chấp phát sinh trong
lĩnh vực thương mại, cụ thể là từ HĐTM ở Việt Nam vẫn được giải quyết bởi Tòa án.
Nguyên nhân cơ bản nhất xuất phát từ hệ thống quy định hiện hành về TTTM vẫn còn
nhiều bất cập khiến cho việc giải quyết tranh chấp tại TTTM vẫn chưa thực sự có sức hấp
dẫn và chưa thực sự hiệu quả để các thương nhân lựa chọn áp dụng. Vì vậy, việc đảm bảo
thủ tục giải quyết tranh chấp HĐTM tại TTTM tại Việt Nam được tiến hành nhanh chóng
hiệu quả và đảm bảo tiết kiệm chi phí cũng như đảm bảo bí mật cho các bên là hết sức cần
thiết.
Chính vì lẽ đó, nhận thức nghiên cứu và làm rõ về về pháp luật giải quyết tranh
chấp HĐTM tại TTTM tại Việt Nam là một nhiệm vụ cần thiết, em đã lựa chọn đề tài
“Quy định pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại tại trọng
tài thương mại và kỹ năng giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại tại trọng tài
thương mại” cho Đề án môn Luật thương mại.
2

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT


TRANH CHẤP HĐTM TẠI TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về tranh chấp hợp đồng thương mại
1.1.1. Khái niệm tranh chấp hợp đồng thương mại
Về hợp đồng, theo nghĩa thông thường hợp đồng được hiểu là sự thỏa thuận hay sự
đồng thuận của các bên về một vấn đề gì đó. Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định về
hợp đồng như sau: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc
chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự".
Về thương mại, ở Việt Nam, hoạt động thương mại được hiểu như sau: “Hoạt động
thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa cung ứng
dịch vụ đầu tư xác thêm thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Các
hoạt động thương mại được điều chỉnh theo Luật thương mại năm 2005 bao gồm: Hoạt
động thương mại thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; hoạt
động thương mại bên ngoài lãnh thổ nước Việt Nam trong trường hợp các bên thỏa thuận
chọn áp dụng Luật Thương mại 2005 hoặc luật nước ngoài, điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên có quy định áp dụng Luật Thương mại 2005; hoạt động không nhằm
mục đích sinh lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân thực hiện trên lãnh thổ
nước Việt Nam, trong trường hợp bên thực hiện hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi
đó chọn áp dụng Luật Thương mại 2005.
Về tranh chấp HĐTM, khái niệm “tranh chấp thương mại” lần đầu tiên được quy
định tại Điều 238, Luật Thương mại 1997: “Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát
sinh do không thực hiện hoặc thực hiện không đang hợp đồng trong hoạt động thương
mại”.
Tranh chấp HĐTM có thể được hiểu là sự mâu thuẫn, bất đồng về quan điểm, ý
kiến của các bên khi tham gia quan hệ hợp đồng với nhau liên quan đến việc thực hiện
hay không thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng, thậm chí việc bất đồng ý kiến
về việc đánh giá hành vi vi phạm hoặc cách thức giải quyết hậu quả phát sinh từ việc vi
phạm quyền, nghĩa vụ trong hợp đồng cũng được xem là tranh chấp hợp đồng.
Luật Thương mại 2005 đã nêu khái niệm hoạt động thương mại: “là hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa cung ứng dịch vụ đầu: tư xúc tiến
thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Khái niệm này đã hàm chứa
được nội hàm của hoạt động thương mại là các hoạt động hưởng đến lợi nhuận. Mặc dù
không đưa ra một định nghĩa cho khái niệm “tranh chấp thương mại”, nhưng Luật
Thương mại 2005 vẫn sử dụng khái niệm này khi quy định về thời hiệu khởi kiện.
Luật Trọng tài thương mại 2010 sử dụng khái niệm “hợp đồng thương mại” và
“tranh chấp thương mại” để quy định về phạm vi thẩm quyền của Trọng tài thương mại,
cụ thể là xác định phạm vi thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài thương mại,
trao quyền cho các trung tâm trọng tài và chi nhánh của tổ chức trọng tải tại Việt Nam
được cung cấp các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại theo quy định của pháp
luật.
3

BLTTDS 2015 lại sử dụng khái niệm “tranh chấp về kinh doanh, thương mại”, và
liệt kê các loại hình tranh chấp kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án. Tuy nhiên, nội hàm của các tranh chấp về kinh doanh, thương mại theo BLTTDS
lại giống với cách tiếp cận của Luật Thương mại 2005.
Từ các phân tích ở trên có thể định nghĩa: Tranh chấp hợp đồng thương mại là
những mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vị giữa các bên trong quá
trình xác lập, thực hiện và chấm dứt các hợp đồng thương mại.
1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp hợp đồng thương mại
Thứ nhất, tranh chấp HĐTM là những mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột) về
quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong mối quan hệ cụ thể. Các quan hệ thương mại có bản
chất là các quan hệ tài sản nên nội dung tranh chấp thường liên quan trực tiếp tới lợi ích
kinh tế của các bên. Thông thường, những mâu thuẫn bất đồng về quyền và nghĩa vụ giữa
các bên phát sinh trong các mối quan hệ cụ thể bao gồm:
 Mua bán hàng hóa; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý; ký gửi; thuê, cho
thuê, thuê mua; xây dựng; tư vấn kỹ thuật; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng
đường sắt, đường bộ, đường thủy nội địa; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng
đường hàng không, đường biển; mua bán cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá
khác; đầu tư tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác.
 Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức
với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
 Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của
công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp
nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
 Tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.
Thứ hai, những tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phải phát sinh từ
hoạt động thương mại. Căn cứ phát sinh tranh chấp HĐTM là hành vi vi phạm hợp đồng
hoặc vi phạm pháp luật. Trong nhiều trường hợp, tranh chấp HĐTM phát sinh do các bên
có vi phạm hợp đồng và xâm hại lợi ích của nhau, tuy nhiên cũng có thể có những vi
phạm xâm hại lợi ích của các bên nhưng không làm phát sinh tranh chấp. Đối với tranh
chấp HĐTM phải là những mâu thuẫn, bất đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát
sinh từ những hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.
Thứ ba, tranh chấp HĐTM chủ yếu là tranh chấp giữa các thương nhân. Các tranh
chấp HĐTM chủ yếu là những tranh chấp phát sinh giữa các thương nhân (cá nhân kinh
doanh, pháp nhân) với nhau. Ngoài thương nhân là chủ thể chủ yếu của tranh chấp
HĐTM, trong những trường hợp nhất định, các cá nhân, tổ chức khác (không phải là
thương nhân) cũng có thể là chủ thể của tranh chấp HĐTM khi trong các giao dịch bên
không có mục đích sinh lợi chọn áp dụng luật thương mại (Khoản 3 Điều 1 Luật Thương
mại năm 2005). Nếu bị đơn là thương nhân thì nguyên đơn (bên có hành vi dân sự) có thể
chọn Tòa thương mại hoặc Tòa dân sự để giải quyết vụ tranh chấp. Trường hợp nguyên
đơn chọn Toà thương mại thì các quy định khắt khe hơn của Luật Thương mại được áp
4

dụng để giải quyết vụ tranh chấp. Ngược lại, bị đơn không phải là thương nhân thì nguyên
đơn (bên có hành vi thương mại) chỉ có quyền kiện ra Toà dân sự và Luật dân sự được áp
dụng để giải quyết vụ tranh chấp mà các quy định của Luật Thương mại không thể áp
dụng cho đối phương không phải là thương nhân.
1.2. Khái quát về giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại tại trọng tài thương
mại
1.2.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại tại trọng tài thương
mại
Giải quyết tranh chấp HĐTM là việc áp dụng các phương thức, biện pháp phù hợp
để khắc phục, loại trừ những mâu thuẫn, bất đồng hay xung đột phát sinh nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong tranh chấp. Tới nay, với sự phát triển của nền
kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, đa số các quốc gia trên thế giới đều ghi nhận bốn
phương thức giải quyết tranh chấp: thương lượng, hòa giải, trọng tài và tòa án. Trong số
các phương thức này, trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp bằng tài phán phi
chính phủ nhưng lại góp phần giải quyết triệt để tranh chấp thông qua phán quyết có giá
trị chung thẩm và ràng buộc các bên. Hoạt động giải quyết tranh chấp HĐTM tại Trọng
tài thương mại được thực hiện trên cơ sở các quy định của Luật Trọng tài thương mại năm
2010.
Từ đó, có thể rút ra định nghĩa: Giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại tại
trọng tài thương mại là việc áp dụng phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa
thuận thông qua hoạt động của cơ quan tài phán phi chính phủ với tư cách là bên thứ ba
độc lập nhằm khắc phục, chấm dứt mâu thuẫn, xung đột bằng việc đưa ra phán quyết
vàng bị tộc các bên phải tôn trọng và thực hiện.
1.2.2. Đặc điểm của giải quyết tranh chấp HĐTM tại trọng tài thương mại
Giải quyết tranh chấp HĐTM tại TTTM có những đặc thù cơ bản như sau:
Thứ nhất, hoạt động giải quyết tranh chấp HĐTM của TTTM chỉ được thể hành
khi có thỏa thuận yêu cầu của các bên. Với bản chất là một quan hệ hợp đồng dân sự đặc
biệt, quan hệ HĐTM được xác lập, thực hiện trên cơ sở quyền tự do ý chí, tự do thỏa
thuận của các bên.
Thứ hai, chủ thể có thẩm quyền giải quyết tranh chấp HĐTM tại TTTM là trọng tài
viên, có thể là một hoặc nhiều trọng tài viên do các bên thỏa thuận lựa chọn hoặc được
trung tâm trọng tài hoặc tòa án chỉ định để giải quyết tranh chấp. Khác với chủ thể giải
quyết tranh chấp HĐTM tại tòa án là các cán bộ, công chức nhà nước, trọng tài viên là
những chuyên gia pháp lý đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật về năng
lực hành vi dân sự, trình độ chuyên môn và kỹ năng giải quyết tranh chấp. Đặc biệt, trong
pháp luật của hầu hết các quốc gia, trong đó có Việt Nam, đều quy định trọng tài nên
không được là những cán bộ, công chức nhà nước. Quy định này nhằm đảm bảo tính
khách quan và tính chất phi chính phủ của hoạt động giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
nói chung. Đồng thời, trọng tài viên còn phải đảm bảo tính độc lập, vô tư khách quan và
chỉ tuân theo quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết tranh chấp.
5

Thứ ba, giải quyết tranh chấp HĐTM tại TTTM là phương thức giải quyết kết hợp
giữa thỏa thuận và tài phán. Tính thỏa thuận thể hiện ở chỗ, các bên trong HĐTM có
quyền tự do định đoạt việc giải quyết tranh chấp của mình tại bất kỳ thời đêm nào, dù là
trước hay sau khi tranh chấp phát sinh. Đồng thời, các bên tranh chấp có quyền tự thỏa
thuận, quyết định về trung tâm trọng tải, địa điểm, ngôn ngữ số lượng trọng tài và cả luật
áp dụng để giải quyết tranh chấp (đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài) về tính tài
phán được thể hiện thông qua việc phán quyết của trọng tài có giá trị chứng thẩm ràng
buộc các bên trong tranh chấp, phán quyết của trọng tài không bị kháng cáo, kháng nghị
để xét xử lại như bản án của tòa án. Khi phán quyết trọng tài có hiệu lực, các bên có nghĩa
vụ tuân thủ và thực hiện theo nội dung phán quyết.
Thứ tư, giải quyết tranh chấp HĐTM tại TTTM đảm bảo tính bí mật. Đây được coi
là một trong số những ưu điểm của việc giải quyết tranh chấp HĐTM tại trọng tài so với
tại tòa án khi mà nguyên tắc xét xử của tòa án là công khai. Cụ thể, trừ trường hợp các
bên có thỏa thuận khác, việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài được tiến hành không
công khai Nhờ đó sẽ đảm bảo được các bí mật kinh doanh cũng như bảo vệ uy tín danh
tiếng của các bên trong tranh chấp HĐTM. Bởi vậy, TTTM từ lâu đã trở thành một
phương thức được các bên ưu tiên lựa chọn để giải quyết các tranh chấp HĐTM, đặc biệt
là đối với các tranh chấp HĐTM quốc tế.
1.3. Pháp luật về giải quyết tranh chấp HĐTM tại TTTM
1.3.1. Khái niệm pháp luật về giải quyết tranh chấp HĐTM tại trọng tài thương mại
Khi mới hình thành, các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh liên
quan đến việc giải quyết tranh chấp hợp đồng thương bằng trọng tài mang đơn lẻ, có thể
được quy định thành một số chế định, như chế định về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự,
chế định về hoạt động thương mại và các loại HĐTM cụ thể trong Luật Thương mại, chế
định trọng tải thương mại hoặc các quy định về giải quyết tranh chấp về thương mại bằng
trọng tài. Cùng với sự phát triển của thương mại trong nước và quốc tế, cùng với một thực
tế là các TTTM ngày càng phát huy vai trò của mình, với ý nghĩa là một phương thức giải
quyết tranh chấp mang tính tài phán được các thương nhân ưa chuộng lựa chọn để giải
quyết tranh chấp về HĐTM, đặc biệt là HĐTM quốc tế. Pháp luật về trọng tài cũng được
xây dựng theo hướng ngày càng hoàn thiện nhằm tạo khung pháp luật phù hợp cho việc
giải quyết tranh chấp về thương mại nói chung và về hợp tư thương mại nói riêng và trò
thành một lĩnh vực pháp luật độc lập có đối tượng điều chỉnh và phạm vi áp dụng riêng,
bên cạnh các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp tại Tòa án.
Có thể định nghĩa, pháp luật về giải quyết tranh chấp HĐTM tại TTTM là tập hợp
các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh liên quan đến việc giải quyết
tranh chấp HĐTM bằng TTTM.
1.3.2. Đặc điểm của pháp luật về giải quyết tranh chấp HĐTM tại trọng tài thương mại
Thứ nhất, pháp luật về giải quyết tranh chấp HĐTM bằng trọng tài bao gồm hai
phận là luật hình thức và luật nội dung.
Luật nội dung là những quy định liên quan đến HĐTM Luật nội dung bao gồm một
hệ thống các nguyên tắc, các chế định, các quy định về HĐTM nói chung và các loại
6

HĐTM cụ thể. Đặc điểm của luật nội dung trong pháp luật về giải quyết tranh chấp
HĐTM bằng trọng tài là luật nội dung sẽ đưa ra các quy định cụ thể hướng dẫn các bên
giao kết và thực hiện các HĐTM, trong đó nêu rõ quyền và nghĩa vụ của các bên cũng
như trách nhiệm khi có sự vi phạm HĐTM. Luật nội dung cũng đưa ra một số quy định về
giải quyết tranh chấp hoặc các phương thức giải quyết tranh chấp mà các bên có thể lựa
chọn để áp dụng, trong đó có phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
Luật hình thức là những quy định liên quan đến tố tụng trọng tài và có những đặc
điểm của các quy phạm pháp luật hướng dẫn cách thức và thủ tục giải quyết tranh chấp về
HĐTM bằng trọng tài. Luật hình thức là cơ sở pháp lý để trọng tài tồn tại và thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của mình. Sự tiến bộ hay lạc hậu của pháp luật về TTTM, tức là luật
hình thức, quyết định hiệu quả hoạt động của TTTM, trong đó chức năng quan trọng của
TTTM là giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh thương mại nói
chung và tranh chấp về HĐTM nói riêng. Nó thể hiện trình độ phát triển của một hệ thống
pháp luật quốc gia và sự đáp ứng của pháp luật trước các đòi hỏi khách quan của nến
thương mại trong từng giai đoạn khác nhau.
Thứ hai, pháp luật về giải quyết tranh chấp HĐTM bằng trọng tài là lĩnh vực luật
tư.
Đây là đặc điểm thứ hai của pháp luật về giải quyết tranh chấp HĐTM bằng trọng
tài. Pháp luật về giải quyết tranh chấp HĐTM bằng trọng tài là lĩnh vực luật tư bởi vị
pháp luật về hợp đồng nói chung và pháp luật về HĐTM nói riêng là lĩnh vực luật tư.
HĐTM do các thương nhân giao kết dựa trên hai nguyên tắc nền tảng và quan trọng nhất
là nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận và nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật. Nhà
nước không can thiệp vào quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng của các thương nhân,
trừ trường hợp có hành vi vi phạm pháp luật. Bên cạnh đó, với ý nghĩa là một bộ phận của
pháp luật về giải quyết tranh chấp HĐTM bằng trọng tài, luật hình thức cũng là lĩnh vực
luật tư, bởi vị luật trọng tải là một bộ phận cấu thành của pháp luật về tài phản kinh tế.
Thứ ba, pháp luật về giải quyết tranh chấp HĐTM bằng trọng tài đóng vai trò quan
trọng trong hệ thống pháp luật quốc gia.
Chế định pháp luật về HĐTM với những quy định cụ thể về mục đích của HĐTM,
hình thức của HĐTM, phân loại HĐTM, nghĩa vụ cụ thể của các bên và chế tài do vi
phạm HĐTM là những quy định không thể thiếu, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật
quốc gia về hợp đồng. Pháp luật về HĐTM là công cụ pháp lý quan trọng để nhà nước
quản lý nền kinh tế nói chung và hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nói riêng,
thông qua các chế tài, các biện pháp xử lý vi phạm hợp đồng và các hành vi vi phạm pháp
luật về hợp đồng của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, pháp luật trọng tài cũng là công cụ pháp
lý quan trọng để nhà nước quản lý hoạt động của các tổ chức trọng tài phi chính phủ, đưa
các tổ chức này hoạt động theo đúng quy định của pháp luật.

1.3.3. Nội dung pháp luật về giải quyết tranh chấp HĐTM tại TTTM

       Luật TTTM năm 2010 là văn bản pháp lý quan trọng và đóng vai trò trọng tâm
trong hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động giải quyết tranh chấp HĐTM
7

tại TTTM Bên cạnh đó, Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa
án Nhân dân tối cao ban hành ngày 20 tháng 3 năm 2014 hướng dẫn thi hành một số quy
định Luật TTTM cũng là một văn bản pháp lý góp phần củng cố các nội dung mà Luật
TTTM còn chưa quy định rõ, đồng thời góp phần giải quyết các vấn đề trong thực tiễn
triển khai Luật TTTM năm 2010, đặc biệt là về thủ tục trọng tài. Theo đó, các quy định về
thủ tục giải quyết tranh chấp HĐTM tại TTTM bao gồm những nhóm nội dung cơ bản
như sau:

Một là các nguyên tắc giải quyết tranh chấp HĐTM tại TTTM. Đây là những tư
tưởng có giá trị chỉ đạo và chi phối toàn bộ quá trình giải quyết tranh chấp nhằm đảm bảo
yêu cầu của quá trình giải quyết tranh chấp.

Hai là các quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của TTTM. Để xác định
một tranh chấp có thể được đưa ra giải quyết tại TTTM hay không, pháp luật đã ghi nhận
phạm vi thẩm quyền giải quyết tranh chấp của TTTM tại Khoản 2 Luật TTTM năm 2010
và quy định cụ thể tại một số những văn bản chuyên ngành khác như Luật Xây dựng năm
2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), Luật Đầu tư năm 2020. Cùng với đó, trong quá trình
giải quyết tranh chấp, TTTM còn có quyền xem xét lại thẩm quyền của mình theo quy
định tại Điều 43 Luật TTTM năm 2010 để đảm bảo việc TTTM giải quyết tranh chấp là
chính xác và đúng thẩm quyền. 

Ba là các quy định về thỏa thuận trọng tài. Đối với phương thức giải quyết tranh
chấp HĐTM tại TTTM, thỏa thuận trọng tài là một trong những căn cứ quan trọng để xác
định thẩm quyền của trọng tài cũng như là cơ sở cho các vấn đề khác trong hoạt động giải
quyết tranh chấp như: địa điểm trọng tài, luật áp dụng giải quyết tranh chấp, ngôn ngữ
giải quyết tranh chấp.

Bốn là các quy định về thủ tục tố tụng trọng tài. Đây là những quy định mang tính
trọng tâm của thủ tục giải quyết tranh chấp HĐTM tại TTTM, có giá trị áp dụng chung
cho cả hình thức trọng tài quy chế và trọng tài vụ việc. Dựa trên các quy định của pháp
luật, các trung tâm trọng tài sẽ ban hành quy tắc tố tụng trọng tải áp dụng cho quá trình
giải quyết tranh chấp HĐTM tại trung tâm trọng tài đó. Đối với hình thức trọng tài quy
chế, các bên có thể thỏa thuận thủ tục tố tụng trọng tải trên cơ sở các quy định của Luật
TTTM năm 2010.

Năm là các quy định về sự hỗ trợ của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với
hoạt động giải quyết tranh chấp HĐTM tại TTTM. Như đã phân tích ở trên, TTTM là một
phương thức giải quyết tranh chấp có tính chất tài phán phi chính phủ do đó, sự hỗ trợ của
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền là cần thiết và hết sức quan trọng để đảm bảo quá
trình giải quyết tranh chấp được tiến hành một cách thuận lợi và nhanh chóng. Các quy
định về sự hỗ trợ của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cụ thể là tòa án và cơ quan thi
hành án dân sự được ghi nhận tại nhiều quy định khác nhau của Luật TTTM năm 2010
như quy định về thẩm quyền chỉ định trọng tài viên của tòa án trong trường hợp các bên
không thỏa thuận lựa chọn được trọng tài viên đối với trọng tài vụ việc theo Điều 42, quy
định về thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khi có yêu cầu của một hoặc các
8

bên theo Điều 48, quy định về thẩm quyền thu thập chứng cứ, triệu tập người làm
chứng,.. 
9

CHƯƠNG 2. KỸ NĂNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HĐTM TẠI TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI
2.1. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp
2.1.1. Nguyên tắc tôn trọng thỏa thuận và quyền tự do định đoạt của các bên

Đây là nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại tại TTTM cơ bản và quan
trọng nhất. Trong quá trình giải quyết tranh chấp HĐTM tại TTTM, các bên được thỏa
thuận toàn bộ các vấn đề liên quan đến việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài bao gồm
hình thức trọng tài, lựa chọn trọng tài viên, thủ tục tố tụng trọng tài, địa điểm trọng tài,
đặc biệt, các thỏa thuận này được pháp luật tôn trọng bảo vệ và được các trọng tài viên ưu
tiên áp dụng trong quá trình giải quyết tranh chấp. Theo đó, thỏa thuận lựa chọn phương
thức giải quyết tranh chấp tại trọng tài của các bên phải được ghi nhận thành văn bản gọi
chung là thỏa thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tải có hiệu lực sẽ là cơ sở xác định thẩm
quyền của trọng tài đối với tranh chấp HĐTM phát sinh. Khoản 1 Điều 4 Luật TTTM
năm 2010 đã ghi nhận nguyên tắc này: “Trọng tài viên phải tôn trọng thỏa thuận của các
bên nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội”. Tức là mọi thỏa
thuận của các bên tranh chấp sẽ được chủ thể có thẩm quyền giải quyết tranh chấp tôn
trọng và ưu tiên áp dụng nếu những thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm và trái đạo
đức xã hội.

2.1.2. Nguyên tắc trọng tài viên độc lạ, khách quan, vô tư và tuân theo quy định của
pháp luật

Để đảm bảo tranh chấp HĐTM được giải quyết một cách công bằng và khách quan
trọng tài viên tham gia giải quyết tranh chấp phải độc lập, khách quan vô tư và chỉ tuân
theo các quy định của pháp luật. Nếu không đảm bảo được các yếu tố này có thể gây ảnh
hưởng tới tính đúng đắn chính xác của các quyết định trọng tải cũng như khả nẵng thi
hành trên thực tế của phán quyết trọng tài. Trong quá trình giải quyết tranh chấp, không ai
có quyền can thiệp vào hoạt động của trọng tài viên mà họ sẽ chỉ căn cứ vào các quy định
của pháp luật. Luật TTTM năm 2010 ghi nhận nguyên tắc này tại Khoản 2, Điều 4 và cụ
thể hóa nội dung quyền và nghĩa vụ của trọng tài viên tại Khoản 2 Điều 21: Trọng tài viên
có nghĩa vụ phải độc lập trong việc giải quyết tranh chấp cũng như đảm bảo giải quyết
tranh chấp vô tư, nhanh chóng và kịp thời. Trong trường hợp trọng tài viên được lựa chọn
hoặc chỉ định là người thân thích, người đại diện của một bên hoặc có lợi ích liên quan
trong vụ tranh chấp hoặc đã là hòa giải viên, người đại diện, luật sư của bất cứ bên nào
trước khi vụ tranh chấp được đưa ra giải quyết tại trọng tài hoặc có căn cứ rõ ràng cho
thấy trọng tài viên không vô tư khách quan thì trọng tài viên phải từ chối giải quyết tranh
chấp theo quy định tại Khoản 1 Điều 42 Luật TTTM năm 2010.

2.1.3. Nguyên tắc các bên tranh chấp bình đẳng về quyền và nghĩa vụ

Nguyên tắc các bên tranh chấp bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ là một
nguyên tắc được ghi nhận trên cơ sở nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
Trong hoạt động tố tụng nói chung các bên tranh chấp đều có quyền và nghĩa vụ ngang
10

nhau trong việc đưa ra các ý kiến lập luận chung cư để bảo vệ quyền và lợi ích của mình
không bên nào bị đặt vào vị trí bất lợi hơn. Nguyên tắc này được ghi nhận tại Khoản 3
Điều 4 Luật TTTM năm 2010 cũng như tại Điều 12 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm
2014 và Điều 8 BLTTDS năm 2015. Nội dung cụ thể của nguyên tắc các bên tranh chấp
bình đẳng về quyền và nghĩa vụ thể hiện qua nhiều giai đoạn của quá trình giải quyết
tranh chấp như việc các bên tranh chấp bình đẳng với nhau trong việc lựa chọn hay yêu
cầu thay đổi trọng tài viên bình đẳng trong việc lựa chọn địa điểm tiến hành tố tụng trọng
tài cũng như bình đẳng trong việc khởi kiện đưa ra các chứng cứ chứng minh quyền lợi
ích hợp pháp của mình đã bị xâm hại. Theo đó, HĐTT với tư cách là bên thứ ba trung
gian được các bên lựa chọn hoặc được chỉ định để ra quyết tranh chấp có trách nhiệm phải
đảm bảo các điều kiện để các bên tranh chấp thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình
nhằm đảm bảo việc giải quyết tranh chấp được tiến hành một cách công bằng chính xác
và nâng cao tính hiệu quả của quá trình giải quyết tranh chấp.

2.1.4.  Nguyên tắc xét xử không công khai

Nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài được tiến hành không công khai
xuất phát từ đặc thù của hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại là nhanh chóng bí
mật và đảm bảo uy tín của các bên tranh chấp. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tải được
tiến hành không công khi được hiểu là quá trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài sẽ
được tiến hành chỉ với sự tham gia của các đương sự, những người có quyền và nghĩa vụ
liên quan đến tranh chấp nếu được các đương sự đồng ý mới có thể tham gia vào phiên
họp giải quyết tranh chấp. Hơn nữa, mọi thông tin tình tiết và kết quả của hoạt động giải
quyết tranh chấp HĐTM bằng TTTM sẽ được giữ kín không được công bố, công khai nếu
không được sự chấp thuận của các bên. Nội dung của nguyên tắc giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài không công khai được thể hiện qua nhiều quy định khác nhau như tính
không công khai trong toàn bộ quá trình giải quyết tranh chấp, nghĩa vụ của những người
tham gia trong việc bảo mật thông tin. Có thể kể đến một số quy định trong Luật TTTM
năm 2010 bao gồm: Khoản 5, Điều 21 về nghĩa vụ giữ bí mật nội dung vụ tranh chấp của
trọng tài viên, Khoản 1, Điều 55 về việc phiên họp giải quyết tranh chấp được tiến hành
không công khai, Khoản 3, Điều 55 về sự tham gia của những người khác trong phiên họp
giải quyết tranh chấp chỉ có thể được thực hiện khi có sự đồng ý của các bên.

2.1.5. Nguyên tắc xét xử một lần

Nguyên tắc này xuất phát từ đặc thù của TTTM là sự kết hợp giữa tính thỏa thuận
và tài phản. Khi các bên tranh chấp đã lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp là
trọng tài, đã bỏ công sức, thời gian và tài chính để giải quyết tranh chấp thì họ luôn mong
muốn quá trình giải quyết tranh chấp được kết thúc bằng một phán quyết có tính bắt buộc
các bên phải thực thi. Cùng với đó, TTTM là một hình thức tài phán phi chính phủ tức là
không tồn tại cơ quan cấp trên để xem xét lại phán quyết, do vậy, tố tang trọng tài được
tiến hành thông qua một cấp là hoàn toàn phù hợp. Khoản 5, Điều 4 Luật TTTM năm
2010 ghi nhận đây là một nguyên tắc cơ bản của TTTM Theo đó, nguyên tắc này được cụ
thể hóa tại Khoản 5 Điều 61 Luật TTTM năm 2010: “Phán quyết trọng tài là chung thẩm
và có hiệu lực kể từ ngày ban hành. Trên thực tế, nguyên tắc này góp phần giúp cho quá
11

trình giải quyết tranh chấp được thực hiện một cách nhanh chóng dứt điểm, tránh việc kéo
dài gây ảnh hưởng tới quyền lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp”.

2.1.2. Thỏa thuận trọng tài

Luật TTTM năm 2010 đã ghi nhận các nội dung cơ bản về thỏa thuận trọng tài như sau: 

Thứ nhất, về hình thức của thỏa thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài có thể được
thể hiện là một điều khoản trong hợp đồng hoặc được lập thành một thỏa thuận riêng
nhưng phải được thể hiện dưới dạng văn bản. Ngay cả khi HĐTM giữa các bên không
được thể hiện bằng văn bản thì thỏa thuận trọng tài vẫn phải được lập thành văn bản. Bên
cạnh đó, một thỏa thuận trọng tài vẫn có thể được coi là xác lập bằng văn bản trong một
số trường hợp như được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram, fax, telex, thư
điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật, xác lập thông qua trao đổi
thông tin bằng văn bản giữa các bên,... theo Khoản 2 Điều 16 Luật TTTM năm 2010.

Thứ hai, về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài. Trên cơ sở tính độc lập của thỏa
thuận trọng tài, việc thay đổi, gia hạn hủy bỏ HĐTM hoặc thậm chí là trường hợp HĐTM
không thể thực hiện được hoặc bị tuyên bố vô hiệu cũng không làm ảnh hưởng tới hiệu
lực pháp lý của thỏa thuận trọng tài. Nói cách khác, thỏa thuận trọng tài đã được xem như
là một thỏa thuận hợp đồng riêng biệt so với hợp đồng mà các bên đã xác lập và thực
hiện. Nhưng không phải mọi trường hợp thỏa thuận trọng tài được các bên xác lập đều có
hiệu lực trên thực tiễn. Nếu thỏa thuận trọng tài thuộc một trong các trường hợp quy định
tại Điều 18 Luật TTTM năm 2010 thì sẽ không có hiệu lực để thực hiện.

Thứ ba, về thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được. Một thỏa thuận trọng tài
không chỉ đáp ứng đủ các điều kiện có hiệu lực còn cần phải đảm bảo yếu tố có thể thực
hiện được trên thực tế. Thực chất, việc không thể thực hiện được thỏa thuận trọng tài
thường liên quan đến những vấn đề như: trung tâm trọng tài do các bên lựa chọn đã chấm
dứt hoạt động mà không có tổ chức kế thừa, trọng tài viên trọng tài vụ việc mà các bên
lựa chọn tại thời điểm xảy ra tranh chấp vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách
quan mà không thể tham gia giải quyết tranh chấp,... Tuy nhiên, Luật TTTM năm 2010 đã
loại bỏ các trường hợp này khỏi quy định thỏa thuận trọng tài vô hiệu mà thay vào đó là
quy định những giải pháp tháo gỡ có ý nghĩa mở rộng phạm vi thẩm quyền của TTTM
thông qua việc cho phép các bên thỏa thuận để tiếp tục giải quyết tranh chấp tại TTTM.

Tuy vậy, trong số các quy định về thỏa thuận trọng tài vẫn còn tồn tại một số hạn
chế như sau: 

Một là trong các quy định pháp luật về TTTM hiện nay không có quy định về nội
dung của thỏa thuận trọng tài. Việc không quy định về nội dung thỏa thuận trọng tài đã
khiến cho chính các bên tranh chấp, trọng tài viên và tòa án gặp không ít khó khăn trong
việc xác định thỏa thuận của các bên có phải thỏa thuận trọng tài hay không. Đặc biệt là
đối với những trường hợp các bên tranh chấp không có đủ nhận thức pháp luật về TTTM
thì việc không có quy định về nội dung chủ yếu cơ bản của thỏa thuận trọng tài sẽ khiến
cho các bên có những thỏa thuận không rõ ràng không phù hợp hoặc không thể thực hiện
12

được trên thực tế. Đồng thời, việc các bên không có thỏa thuận trọng tài cụ thể, rõ ràng sẽ
gây mất thời gian cho việc thỏa thuận của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp tại
TTTM. 

Hai là về cách thức xử lý trường hợp thỏa thuận trọng tài không thực hiện được.
Khoản 5 Điều 43 Luật TTTM năm 2010 quy định: “Trường hợp các bên đã có thỏa thuận
trọng tài nhưng không ghi rõ hình thức trọng tài hoặc không thể xác định được tổ chức
trọng tài cụ thể thì khi có tranh chấp, các bên phải thỏa thuận lại về hình thức trong tài
hoặc tổ chức trọng tài cụ thể để giải quyết tranh chấp. Nếu không thỏa thuận được thì việc
lựa chọn hình thức tổ chức trong tài để gia quyết tranh chấp được thực hiện theo yêu cầu
của nguyên đơn”. Theo quy định này có thể hiểu thỏa thuận trọng tài giữa các bên đã đáp
ứng đủ các điều kiện có hiệu lực nhưng không thể thành lập HĐTT do không xác định
được hình thức trọng tài hoặc tổ chức trọng tài cụ thể nếu các bên không có thỏa thuận bổ
sung. Điềm này có thể hợp lý theo hướng tôn trọng thỏa thuận ban đầu của các bên nhưng
lại không đảm bảo đúng tính chất thỏa thuận của các bên về TTTM. Bởi lẽ, thẩm quyền
giải quyết tranh chấp HĐTM của trọng tài chỉ có thể được xác lập trên cơ sở thỏa thuận
trọng tải của các bên. Nếu thẩm quyền của trọng tài chỉ được xác lập theo quyết định của
nguyên đơn thì rõ ràng đã đi ngược lại với nguyên tắc xác định thẩm quyền của trọng tài
nêu trên. 

2.3. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp 

Điều 2 Luật TTTM năm 2010 đã mở rộng phạm và thẩm quyền của TTTM. Theo
đó, TTTM có thẩm quyền giải quyết các loại việc sau: (1) tranh chấp giữa các bên phát
sinh từ hoạt động thương mại, (2) tranh chấp giữa các bên trong đó ít nhất một bên có
hoạt động thương mại, (3) tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải
quyết bằng trọng tài. Như vậy, tranh chấp HĐTM khi phát sinh đương nhiên thuộc các
trường hợp được liệt kê tại Điều 2 của Luật TTTM năm 2010.

Tuy nhiên, cũng chính quy định về mở rộng thẩm quyền của TTTM tại Điều 2
Luật TTTM năm 2010 đã tạo ra sự trùng lặp trong các quy định của pháp luật. Cụ thể,
theo Khoản 2 Điều 2 Luật TTTM năm 2010, TTTM có thẩm quyền giải quyết tranh chấp
phát sinh giữa các bên mà có ít nhất một bên hoạt động thương mại. Theo đó, có thể thấy,
phạm vi của Khoản 2 đã bao gồm cả trường hợp tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt
động thương mại thuộc Khoản 1 Điều 2 Luật TTTM năm 2010. Do vậy, việc quy định
tách biệt Khoản 1 và Khoản 2 Điều 2 Luật TTTM năm 2010 có lẽ là không cần thiết. 

2.4. Thủ tục tố tụng trọng tài 


2.4.1. Khởi kiện 

 Thời điểm bắt đầu tố tụng trong tài:

Thời điểm bắt đầu tố tụng trọng tài đóng vai trò quan trọng trong quá trình giải
quyết tranh chấp HĐTM tại TTTM. Đây là thời điểm ghi nhận, xác định sự tham gia giải
quyết tranh chấp của TTTM cũng như là thời điểm để xem xét thời hiệu khởi kiện có
13

đúng theo quy định của pháp luật hay không. Trên cơ sở tôn trọng quyền tự do thỏa thuận
định đoạt của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp HĐTM, các bên tranh chấp có
quyền thỏa thuận về thời điểm bắt đầu tố tụng trọng tài. Trường hợp các bên không có
thỏa thuận thì thời điểm bắt đầu tố tụng trọng tài được tính từ khi trung tâm trọng tài nhận
được đơn khởi kiện của nguyên đơn hoặc khi bị đơn nhận được đơn khởi kiện của nguyên
đơn theo quy định tại Điều 31 Luật TTTM năm 2010. Tuy nhiên đối với trọng tài quy chế,
sẽ có một “khoảng trống” thời gian từ thời điểm bắt đầu tố tụng trọng tài đến khi bị đơn
nhận được đơn khởi kiện do trung tâm trọng tài gửi tới. Bên cạnh đó, Luật TTTM năm
2010 cũng chưa có quy định cụ thể về cách thức xác định thời điểm bị đơn được coi là đã
nhận đơn khởi kiện trong trường hợp áp dụng trọng tài vụ việc. Điều này trên thực tế sẽ
gây ảnh hưởng tới việc tính thời hiệu khởi kiện trong trường hợp bị đơn cố tình trì hoãn
gian dối trong quá trình gửi nhận tài liệu.

 Đơn khởi kiện và bản tự bảo vệ 

Đơn khởi kiện của nguyên đơn phải đảm bảo có các nội dung như quy định tại
Khoản 2 Điều 30 Luật TTTM năm 2010 và được gửi kèm thỏa thuận trọng tài để chứng
minh và xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài cùng với các tài liệu
khác có liên quan minh chứng cho tranh chấp tới trung tâm trọng tải hoặc bị đơn. Bên
cạnh đơn khởi kiện trong trường hợp áp dụng hình thức trọng tải quy chế, theo quy định
tại Điều 32 Luật TTTM năm 2010, nguyên đơn còn phải nộp tạm ứng chỉ trong tài, gồm:
Thù lao Trọng tài viên, chi phí đi lại và các chi phí khác cho Trọng tài viên, phí tham vấn
chuyên gia và các trợ giúp khác theo yêu cầu của HĐTT, phí hành chính,... như được nêu
tại Khoản 1, Điều 34 Luật TTTM năm 2010.

Nếu các bên không có thỏa thuận khác hoặc quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài
không có quy định khác, trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện các
tài liệu kèm theo và chứng từ nộp tạm ứng phí trọng tài, trung tâm trọng tài phải gửi cho
bị đơn bản sao đơn khởi kiện của nguyên đơn và những tài liệu theo quy định tại Điều 30
Luật TTTM năm 2010. Sau khi nhận được đơn khởi kiện gửi bởi trung tâm trọng tài hoặc
từ nguyên đơn bị đơn sẽ có khoảng thời gian 30 ngày kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện
và các tài liệu kèm theo để chuẩn bị gửi bản tự bảo vệ tới trung tâm trọng tài hoặc gửi tới
nguyên đơn và trọng tài viên. Đồng thời, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên tranh chấp, bị đơn còn có quyền kiện lại nguyên đơn về những vấn đề có liên quan
đến tranh chấp. Cũng tương tự như thời hạn để bị đơn chuẩn bị bản tự bảo vệ, trong thời
hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được đơn kiện lại, nguyên đơn phải của bản tự bảo vệ cho
Trung tâm trọng tài viên hoặc HĐTT và bị đơn.

Mặc dù Luật TTTM năm 2010 đã có những quy định về nội dung của đơn khởi
kiện và bản tự bảo vệ những những quy định này vẫn chưa hoàn toàn rõ ràng và đầy đủ.
Bởi lẽ:

Thứ nhất, về cơ sở và chứng cứ khởi kiện. Đây là những nội dung cần thiết, mang
tính quyết định trong việc giải quyết tranh chấp HĐTM nên cần được các bên cung cấp
một cách trung thực, chính xác và kịp thời. Tuy nhiên Luật TTTM năm 2010 lại xác định
14

cơ sở và chứng cứ khởi kiện có thể có hoặc không trong đơn khởi kiện và đơn kiện lại với
việc sử dụng cụm từ “nếu có” tại Điểm d Khoản 2 Điều 30 và Điểm c Khoản 1 Điều 35
Luật TTTM năm 2010. Rõ ràng quy định như vậy là không hợp lý vì trọng tài có thể sẽ
không có đủ cơ sở hoặc chứng cứ khách quan cho việc xem xét và giải quyết tranh chấp
một cách nhanh chóng và chính xác. 

Thứ hai, về thời điểm được coi là nhận được đơn khởi kiện của bị đơn trong trường
hợp áp dụng trọng tài vụ việc. Luật TTTM năm 2010 hiện nay không có quy ảnh về gửi
và nhận đơn khởi kiện hay quy định về thời điểm được coi là đã nhận được đơn khởi kiện
đối với trọng tài vụ việc. Mặc dù đã có quy định về gửi thông báo và trình tự gửi thông
báo theo Điều 12 Luật TTTM năm 2010 nhưng quy định này mới chỉ áp dụng đối với
trọng tài quy chế và áp dụng khi HĐTT đã được thành lập. Do vậy, thời điểm bị đơn được
coi là nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn là không thể xác định theo Điều 12 Luật
TTTM năm 2010 và có thể dẫn đến tình trạng bị đơn cố tình trì hoãn việc giải quyết tranh
chấp với lý do chưa nhận hoặc không nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn.  

2.4.2. Thành lập hội đồng trọng tài 

Đối với việc giải quyết tranh chấp HĐTM tại TTTM, các bên có quyền lựa chọn,
thành lập HĐTT hoặc thỏa thuận lựa chọn một trọng tài viên duy nhất để giải quyết tranh
chấp. Pháp luật cho phép các bên thỏa thuận về số lượng trong tài viên tham gia giải
quyết tranh chấp, có thể bao gồm một hoặc nhiều trọng tài viên. Trường hợp các bên tranh
chấp không thỏa thuận về số lượng trọng tài thì HĐTT sẽ được thành lập với ba trọng tài
viên.

Việc thành lập HĐTT đối với trọng tài quy chế được thực hiện như sau: Trường
hợp HĐTT gồm ba thành viên thì nguyên đơn sẽ được quyền chỉ định một trọng tài viên
và bị đơn cũng được quyền chỉ định tương ứng một trọng tài viên. Trong thời hạn 15 ngày
kể từ ngày được các bên lựa chọn hoặc chỉ định các trọng tài viên này bầu một trọng tài
viên thứ ba làm chủ tịch HĐTT. Trường hợp các bên thỏa thuận chỉ có một trọng tài viên
tham gia giải quyết tranh chấp, các bên tranh chấp sẽ thỏa thuận chỉ định một trọng tài
viên trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày bị đơn nhận được đơn khởi kiện. Nếu quá các thời
hạn nêu trên mà bị đơn không chọn được trong tài viên hoặc hai trọng tài viên không chọn
được trọng tài viên thứ ba hoặc các bên không thống nhất chỉ định được trọng tài viên duy
nhất, chủ tịch trung tâm trọng tài sẽ hỗ trợ các bên chỉ định trong tài viên.

Đối với trọng tài vụ việc, sự hỗ trợ của trung tâm trọng tài hoàn toàn không có nên
việc thành lập HĐTT phụ thuộc hoàn toàn vào tinh thần hợp tác, thiện chí của các bên. Về
cơ bản, cách thức lựa chọn trọng tài viên đối với trường hợp này là tương tự như đối với
trọng tài quy chế. Điểm khác biệt là ở chỗ, nếu qua các thời hạn lựa chọn trọng tài viên
mà bị đơn không chọn được trọng tài viên hoặc hai trọng tài viên không chọn được trọng
tài viên thứ ba hoặc các bên không thống nhất chỉ định được trọng tài viên duy nhất thì
tòa án sẽ hỗ trợ các bên trong việc chỉ định trọng tài viên hoặc các bên có thể yêu cầu
trung tâm trọng tài chỉ định trọng tài viên thông qua dịch vụ chỉ định trọng tài viên.
15

2.4.3. Chuẩn bị xét xử 

 Xem xét thỏa thuận trọng tài vô hiệu thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện
được, thẩm quyền của hội đồng trọng tài 

Trước khi tiến hành xem xét nội dung vụ việc tranh chấp, theo quy định tại Điều
43 Luật TTTM năm 2010, HĐTT có nghĩa vụ phải xem xét lại hiệu lực của thỏa thuận
trọng tài, thỏa thuận trọng tài có thực hiện được hay không và xem xét lại thẩm quyền của
mình. Trong trường hợp thỏa thuận trọng tài của các bên có hiệu lực và có thể thực hiện
được trên thực tế, cũng như vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì HĐTT tiến
hành thực hiện giải quyết tranh chấp theo quy định. Trường hợp vụ việc không thuộc
thẩm quyền giải quyết của HĐTT hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc xác định rõ thỏa
thuận trọng tài không thể thực hiện được thì HĐTT ra quyết định đình chỉ việc giải quyết
tranh chấp và thông báo cho các bên tranh chấp.

 Xác minh sự việc, thu thập chứng cứ và triệu tập người làm chứng

Trong quá trình giải quyết tranh chấp, để xác định được những tình tiết khách quan
cũng như nhận thức đúng đắn được những vấn đề mà các bên đang có mâu thuẫn, bất
đồng quan điểm, HĐTT có quyền xác minh sự việc, thu thập chứng cứ và triệu tập người
làm chứng theo quy định của Luật TTTM năm 2010. Cụ thể: 

Về thẩm quyền xác minh sự việc, theo quy định tại Điều 45 Luật TTTM năm 2010,
HĐTT có quyền gặp hoặc trao đổi với các bên với sự có mặt của bên còn lại bằng những
phương thức thích hợp để có thể làm rõ những vấn đề liên quan đến tranh chấp. Theo đó,
sự có mặt của cả hai bên tranh chấp là điều kiện bắt buộc để đảm bảo tính khách quan và
minh bạch của những thông tin mà HĐTT tiến hành xác minh.

Về thẩm quyền thu thập chứng cứ, Khoản 1 Điều 46 Luật TTTM năm 2010 quy
định việc cung cấp chứng cử cho HĐTT vừa là quyền cũng vừa là nghĩa vụ của các bên
tranh chấp để chứng minh các sự việc có liên quan đến nội dung tranh chấp. Bên cạnh
việc thu thập chứng cứ từ các bên tranh chấp, HĐTT có thể theo yêu cầu của một bên
hoặc các bên yêu cầu người làm chứng cung cấp thông tin hoặc các tài liệu liên quan đến
việc giải quyết tranh chấp. Trong trường hợp HĐTT, một hoặc các bên đã áp dụng các
biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà không thể tự thực hiện được thì có quyền đề
nghị tòa án có thẩm quyền hỗ trợ theo quy định tại Khoản 5 Điều 46 Luật TTTM 2010.

Về thẩm quyền hiệu tập người làm chứng, theo quy định tại Điều 47 Luật TTTM
năm 2010, HĐTT tự mình hoặc theo yêu cầu của một hoặc các bên tranh chấp có quyền
yêu cầu người làm chứng có mặt tại phiên họp giải quyết tranh chấp. Trường hợp người
làm chúng đã được triệu tập hợp lệ mà không đến phiên họp mà không có lý do chính
đáng cũng như việc vắng mặt của họ gây ra cản trở cho việc giải quyết tranh chấp, HĐTT
có thể yêu cầu tòa án có thẩm quyền ra quyết định triệu tập người làm chứng đến phiên
họp giải quyết tranh chấp. 

 Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời


16

Biện pháp khẩn cấp tạm thời là các biện pháp được áp dụng trong quá trình giải
quyết tranh chấp nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự bảo toàn tỉnh trạng tài
sản bảo vệ chứng cứ hoặc ngăn ngừa các hành vi ảnh hưởng bất lợi đến quá trình tố tụng
trọng tài. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 48 Luật TTTM năm 2010, các bên tranh chấp
có quyền yêu cầu HĐTT, tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định tại
Khoản 2 Điều 49 Luật TTTM năm 2010 và các biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy
định tại các luật khác có liên quan như các biện pháp được quy định tại Điều 114
BLTTDS năm 2015. Tuy nhiên để tránh sự trùng lặp, mâu thuẫn trong việc áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời, đối với các biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định tại Khoản
2 Điều 49 Luật TTTM năm 2010, các bên chỉ được lựa chọn yêu cầu HĐTT hoặc tòa án
để áp dụng.

Tóm lại, ở giai đoạn chuẩn bị xét xử pháp luật đã và đang ngày càng mở rộng thẩm
quyền của TTTM trong việc thực hiện các hoạt động biện pháp tương tự như tòa án để
giải quyết tranh chấp và góp phần đẩy nhanh quá trình giải quyết tranh chấp cũng như
nâng cao vị thế của TTTM trong giải quyết tranh chấp. 

2.4.4. Phiên họp giải quyết tranh chấp 

 Tiến hành phiên họp giải quyết tranh chấp 

Khoản 1 Điều 54 Luật TTTM năm 2010 quy định các bên có quyền lựa chọn thời
gian và địa điểm tiến hành phiên họp giải quyết tranh chấp, HĐTT sẽ chỉ quyết định địa
điểm, thời gian tổ chức phiên họp giải quyết tranh chấp khi các bên tranh chấp không có
thỏa thuận. Theo đó, phiên họp giải quyết tranh chấp tại TTTM có thể được tiến hành một
cách trực tiếp với sự tham gia đầy đủ của các bên tranh chấp để củng làm rõ các vấn đề
còn vướng mắc, mâu thuẫn, mặt khác, phiên họp giải quyết tranh chấp cũng có thể được
tiến hành mà không cần có sự có mặt của các bên HĐTT sẽ căn cứ vào các tài liệu hồ sơ,
chứng cứ do các bên tranh chấp cung cấp để giải quyết tranh chấp. Có thể thấy, quy định
này đã thể hiện đúng nội dung nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận. Hơn nữa, quy định tại
Khoản 3 Điều 56 Luật TTTM năm 2010 ghi nhận trường hợp phiên họp giải quyết tranh
chấp không cần sự có mặt của các bên tranh chấp đã đảm bảo tương thích với quy định
của pháp luật quốc tế.

Về nguyên tắc tiến hành phiên họp, phiên họp giải quyết tranh chấp sẽ được tiến
hành không công khai theo nguyên tắc được quy định tại Khoản 4 Điều 4 và Khoản 1
Điều 55 Luật TTTM năm 2010, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.

 Sự tham gia của các đương sự trong phiên họp giải quyết tranh chấp 

Các bên tranh chấp có quyền và nghĩa vụ tham gia phiên họp giải quyết tranh chấp.
Trường hợp một trong số các bên đương sự vắng mặt, Luật TTTM năm 2010  có quy định
hệ quả pháp lý khác nhau giữa sự vắng mặt của nguyên đơn và bị đơn, giữa việc vắng mặt
có lý do chính đáng và không có lý do chính đáng. Nếu có lý do chính đáng bên vắng mặt
hoặc các bên có thể yêu cầu HĐTT xem xét hoãn phiên họp giải quyết tranh chấp theo
quy định tại Điều 57 Luật TTTM năm 2010. Nếu không có lý do chính đáng theo quy
17

định tại Khoản 1 Điều 56 Luật TTTM năm 2010, đối với nguyên đơn đã được triệu tập
hợp lệ tham dự phiên họp giải quyết tranh chấp hoặc nguyên đơn tự ý rời phiên họp giải
quyết tranh chấp mà không được HĐTT chấp thuận nguyên đơn sẽ bị coi là đã rút đơn
khởi kiện; trong trường hợp này, HĐTT sẽ tiếp tục giải quyết tranh chấp nếu bị đơn có
yêu cầu hoặc có đơn kiện lại. Còn đối với bị đơn đã được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt
không có lý do chính đáng hoặc rời phiên họp mà không được HĐTT chấp thuận, HĐTT
vẫn tiếp tục giải quyết tranh chấp căn cứ vào tài liệu và chứng cứ hiện có theo quy định
tại Khoản 2 Điều 56 Luật TTTM năm 2010.

 Hòa giải trong giải quyết tranh chấp HĐTM tại TTTM 

Nếu như hòa giải trong tố tụng tòa án là một bước bắt buộc áp dụng thì đối với tố
tụng trọng tài hòa giải không phải là một bước hay yêu cầu bắt buộc, bởi lẽ, trên cơ sở tôn
trọng quyền tự do định đoạt, tự do thỏa thuận của các bên trong bất kỳ thời điểm nào của
quá trình tố tụng trọng tài, các bên tranh chấp đều có quyền thương lượng hòa giải, thỏa
thuận cũng như yêu cầu HĐTT tiến hành hòa giải. Khi các bên đã thỏa thuận được với
nhau về việc giải quyết tranh chấp thì có quyền yêu cầu HĐTT lập biên bản hòa giải
thành có chữ ký xác nhận của các bên và các trọng tài viên HĐTT sẽ ra quyết định công
nhận sự thỏa thuận của các bên và quyết định này cũng có giá trị chung thẩm như phán
quyết trọng tải. Quy định này hoàn toàn phù hợp với tính chất của TTTM là giải quyết
tranh chấp trên cơ sở tôn trọng sự thỏa thuận và tự do định đoạt của các bên tranh chấp. 

2.4.5. Phán quyết trọng tài

Trong quá trình giải quyết tranh chấp HĐTM tại TTTM, HĐTT có thể ban hành
nhiều những quyết định khác nhau như quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời,
quyết định giải quyết khiếu nại... Tuy nhiên phán quyết trọng tài là quyết định mang tính
chung thẩm, giải quyết tận gốc vấn đề đang có tranh chấp giữa các bên. So với các quyết
định khác của HĐTT, phán quyết trọng tài là quyết định cuối cùng là kết quả của một quá
trình tranh luận thấu đáo giữa các bên. Việc ban hành phán quyết trọng tài sẽ chấm dứt
quá trình giải quyết tranh chấp của TTTM. 

Thứ nhất, về nguyên tắc ban hành phán quyết trọng tài

Điều 60 Luật TTTM năm 2010 quy định: "HĐTT ra phán quyết trọng tài bằng
cách biểu quyết theo nguyên tắc đa số. Trường hợp biểu quyết không đạt được đa số thì
phải quyết trọng tải được lập theo ý kiến của Chủ tịch HĐTT”. Nguyên tắc này có thể
hiểu là nếu HĐTT có nhiều hơn một thành viên thì phán quyết sẽ được ban hành khi có sự
đồng ý của đa số thành viên HĐTT, trường hợp biểu quyết không đạt được đa số thì phán
quyết sẽ được đưa ra theo ý kiến của chủ tịch HĐTT. Quy định về cách thức đưa ra phán
quyết trong trường hợp biểu quyết không đạt được đa số theo pháp luật Việt Nam nêu trên
một mặt đáp ứng được sự nhanh chóng của quá trình giải quyết tranh chấp nhưng mặt
khác, có thể gây ảnh hưởng tới sự chính xác của phán quyết trọng tài cũng như uy tín của
phương thức giải quyết tranh chấp tại TTTM khi mà phán quyết trọng tài trong trường
hợp này lại được đưa ra theo ý kiến của chủ tịch HĐTT. 
18

Thứ hai, về nội dung hình thức và hiệu lực của phán quyết trọng tài 

Phán quyết trọng tài phải được lập bằng văn bản và phải đảm bảo các yêu cầu về
nội dung theo quy định tại Khoản 1 Điều 61 Luật TTTM năm 2010 bao gồm: thời gian,
địa điểm ra phán quyết, thông tin về các bên tranh chấp và các trọng tài viên, tóm tắt đơn
khởi kiện và các vấn đề tranh chấp, căn cứ để ra phán quyết, kết quả giải quyết tranh
chấp, thời hạn thi hành phán quyết, phân bổ chi phí trọng tài và các chi phí khác có liên
quan. Theo đó, phán quyết trọng tài sẽ được ban hành với chữ ký của các trọng tài viên
ngay tại phiên họp hoặc được ban hành chậm nhất là 30 ngày kể từ ngày kết thúc phiên
họp cuối cùng. Khi có trọng tài viên không kỷ vào phán quyết trọng tài thì phán quyết
trọng tài vẫn có hiệu lực với điều kiện chủ tịch HĐTT phải ghi nhận việc này và nêu rõ lý
do trong phán quyết trọng tài. 

Theo đó, phán quyết trọng tài là chung thẩm và có hiệu lực kể từ ngày ban hành
theo quy định tại Khoản 1 Điều 61 Luật TTTM năm 2010. Thực chất, quy ảnh này là sự
cụ thể hóa nội dung nguyên tắc xét xử một lần của TTTM đối với tranh chấp HĐTM phát
sinh. Bởi lẽ, như đã trình bày ở trên TTTM là phương thức giải quyết tranh chấp mang
tính tài phán phi chính phủ do đó không có cơ quan “cấp trên” của TTTM để xem xét lại
nội dung của tranh chấp. Đồng thời, so sánh với phương thức giải quyết tranh chấp
HĐTM bằng thương lượng hóa giải khi kết quả giải quyết tranh chấp sẽ hoàn toàn phụ
thuộc vào thiện chí, sự tự giác, tự nguyện thực hiện của các bên thì quy định phán quyết
trọng tài có giá trị chung thẩm sẽ góp phần giải quyết triệt để tranh chấp phát sinh giữa
các bên. Bên cạnh đó, quy định này cũng hoàn toàn phù hợp với đặc thù của việc giải
quyết tranh chấp HĐTM tại TTTM cũng như pháp luật quốc tế về TTTM.

Thứ ba, về sửa chữa giải thích phán quyết trọng tài và ban hành phán quyết trọng
tài bổ sung 

Sau khi ban hành phán quyết trọng tài, theo quy định tại Điều 63 Luật TTTM năm
2010, HĐTT có thể tự mình hoặc trên cơ sở yêu cầu của một bên tranh chấp, tiến hành
giải thích một số điểm cụ thể của phán quyết trọng tài, sửa chữa những lỗi rõ ràng về
chính tả, số liệu do nhầm lẫn hoặc tính toán sai trong quá trình giải quyết tranh chấp, và
ban hành phán quyết bổ sung đối với những yêu cầu được trình bày trong quá trình tố
tụng trong tài nhưng không được ghi nhận trong phán quyết trong tài. Quy định này nhằm
đảm bảo HĐTT có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình trong quá trình giải quyết tranh
chấp khi trên thực tế họ chỉ có một khoảng thời gian ngắn để xem xét và giải quyết tranh
chấp nên việc có những thiếu sót hoặc lỗi nhỏ là không thể tránh khỏi. 

2.4.6. Thi hành phán quyết trọng tài thương mại 

Phán quyết trọng tài sẽ có hiệu lực kể từ ngày ban hành. Các bên tranh chấp có
nghĩa vụ thi hành phán quyết trong thời hạn được nêu tại phán quyết trọng tài. Hết thời
hạn thi hành mà bên phải thi hành không tự nguyện thi hành cũng như không yêu cầu hủy
phán quyết trọng tài, bên được thi hành phán quyết có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi
hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài theo Khoản 1 Điều 66 Luật
19

TTTM năm 2010. Trường hợp áp dụng trong tài vụ việc, phán quyết trọng tải phải được
đăng ký tại tòa án nơi HĐTT đã ra phán quyết trước khi yêu cầu cơ quan thi hành án dân
sự có thẩm quyền tổ chức thi hành phán quyết trọng tài đó. Việc thi hành phán quyết
trọng tài sẽ được tiến hành theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự. Nguyên nhân
của quy định này xuất phát từ bản chất TTTM là cơ quan tài phán phi chính phủ hoạt
động và tồn tại độc lập nên sẽ không có cơ quan riêng biệt để thi hành phán quyết trọng
tài. Chính vì vậy, để đảm bảo kết quả giải quyết tranh chấp HĐTM tại TTTM được đảm
bảo thực thi trên thực tế trong trường hợp các bên tranh chấp không tự nguyện thi hành thì
quy ảnh về sự hỗ trợ của tòa án và cơ quan thi hành án dân sự trong thi hành phán quyết
trọng tài là cần thiết và phù hợp. 

Mặc dù phán quyết của trọng tài là chung thẩm, có giá trị ràng buộc các bên nhưng
vẫn không thể tránh khỏi những nhầm lẫn sai sót trong quá trình giải quyết tranh chấp như
việc xác định sai thẩm quyền của trọng tài, thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Trong những
trường hợp này, pháp luật ghi nhận quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài của các bên
đương sự. Cụ thể các trường hợp phán quyết trọng tải có thể bị hủy được quy định tại
Khoản 2 Điều 68 Luật TTTM năm 2010. Về thời hạn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài,
trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được phán quyết trọng tài, một bên tranh chấp nếu có
đủ căn cứ có quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài gì đến tòa án để xem xét và giải
quyết.

Theo đó, khi nhận được yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, tòa án sẽ không xem xét
lại nội dung vụ việc vì tòa án không phải “cấp trên” của trọng tài cũng như nguyên tắc của
TTTM là “xét xử một lần” nên tòa án sẽ chi tiến hành phiên họp để xác định phán quyết
trọng tài có thuộc vào các trường hợp theo Khoản 2 Điều 68 Luật TTTM hay không. Nếu
không có đủ căn cứ chứng minh phán quyết trọng tài thuộc vào một trong số các trường
hợp đó, tòa án sẽ tuyên bố không hủy phán quyết trọng tài và các bên vẫn có nghĩa vụ
thực hiện phán quyết trọng tài đó. Quyết định của tòa án trong trường hợp này là quyết
định cuối cùng đối với kết quả của quá trình giải quyết tranh chấp HĐTM tại TTTM.
20

CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI TẠI
TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI .
3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật 

Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp HĐTM tại TTTM
phải đảm bảo thể chế hóa kịp thời và đầy đủ quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng
và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế tư
nhân nói chung và các chủ trương, chính sách pháp luật của Nhà nước về giải quyết tranh
chấp thương mại nói riêng.

Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp HĐTM tại TTTM
phải đảm bảo các yêu cầu cũng như mục tiêu đặt ra tại Đề án hoàn thiện pháp luật về hợp
đồng và giải quyết tranh chấp hợp đồng bằng phương thức TTTM, hòa giải thương mại đã
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 02 tháng 10 năm 2019. Từ đó, góp phần nâng
cao hiệu quả của quá trình giải quyết tranh chấp HĐTM tại TTTM, nâng cao chỉ số cạnh
tranh của TTTM tại Việt Nam cũng như xây dựng được môi trường đầu tư kinh doanh với
hành lang pháp lý ổn định thuận lợi hơn.

Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp HĐTM tại TTTM
phải đáp ứng các yêu cầu của pháp luật quốc tế và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Theo đó, đòi hỏi phải có sự tham khảo có chọn lọc kinh nghiệp quốc tế về pháp luật về
TTTM để đảm bảo sự tương thích giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật của các quốc gia
khác trên thế giới cũng như những cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia đàm phán
ký kết và là thành viên 

3.2. Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật 


3.2.1. Bổ sung quy định về nội dung thỏa thuận trọng tài

Trong các quy định của pháp luật về TTTM hiện nay không có ghi nhận hay hướng
dẫn cụ thể về các nội dung cần phải có của một thỏa thuận trọng tài. Theo đó, mặc dù các
trung tâm TTTM có đưa ra những đề xuất về Điều khoản trọng tài mẫu để các bên tham
khảo nhưng để đảm bảo thỏa thuận trọng tài của các bên được xác lập với đầy đủ các nội
dung cần thiết như hình thức trọng tài được áp dụng trung tâm trọng tài được lựa chọn địa
điểm, ngôn ngữ trong tài, số lượng trọng tài viên... thì việc bổ sung hướng dẫn về mẫu
thỏa thuận trọng tải là một điều cần thiết. Đặc biệt, với thực tiễn nhiều doanh nghiệp nội
địa chưa có đầy đủ hiểu biết về TTTM thì việc có những hướng dẫn cụ thể sẽ góp phần
giảm thiểu các trường hợp thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được cũng như rút
ngắn tiến trình giải quyết tranh chấp tại TTTM khi không phải dành thời gian chờ các bên
thỏa thuận về các vấn đề có liên quan đến giải quyết tranh chấp. 
21

3.2.2. Hoàn thiện quy định về xử lý trường hợp thỏa thuận trọng tài không thực
hiện được 

Theo quy định tại Khoản 5 Điều 43 Luật TTTM năm 2010, trong trường hợp thỏa
thuận trọng tải giữa các bên đã đáp ứng đủ các điều kiện có hiệu lực nhưng lại không thể
thành lập HĐTT do không xác định được hình thức trọng tài hoặc tổ chức trọng tài cụ thể
và các bên sau đó vẫn không có thỏa thuận bổ sung thì việc lựa chọn hình thức, tổ chức
trọng tài được thực hiện theo yêu cầu của nguyên đơn. Như đã phân tích ở Chương 2, quy
định này có thể hợp lý theo hướng tôn trọng thỏa thuận ban đầu của các bên là lựa chọn
giải quyết tranh chấp tại TTTM nhưng lại không đảm bảo đúng tính chất thỏa thuận của
các bên khi cho phép xác định hình thức, tổ chức trọng tài theo yêu cầu của nguyên đơn.
Vậy nên đối với trường hợp này, nếu các bên không đạt được thỏa thuận bổ sung thì có
thể xử lý tương tự như Khoản 4 Điều 43 Luật TTTM, tức là xác định thỏa thuận trọng tài
không có hiệu lực và thẩm quyền giải quyết tranh chấp sẽ thuộc tòa án. Với việc quy định
hệ quả như vậy, các bên sẽ chủ động và đảm bảo thỏa thuận đầy đủ các nội dung có liên
quan đến việc giải quyết tranh chấp của mình

3.2.3. Hoàn thiện quy định về xác định thời điểm bắt đầu tổ tụng

 Xác định thời điểm bắt đầu tố tụng trọng tài có ý nghĩa quan trọng đối với quá
trình giải quyết tranh chấp HĐTM tại TTTM. Tuy nhiên với quy định tại Điều 31 Luật
TTTM năm 2010 thì giữa trọng tài quy chế và trọng tài vụ việc có cách xác định thời
điểm bắt đầu tố tụng trong tài khác nhau. Điều này hiện nay không phù hợp với pháp luật
quốc tế về trọng tải trong việc đảm bảo sự nhận biết của bị đơn về việc bắt đầu tổ tụng
trọng tài. Do vậy, có thể điều chỉnh thời điểm bắt đầu tố tụng trọng tài được tính từ khi bị
đơn nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn, áp dụng chung cho cả trọng tài quy chế và
trọng tài vụ việc như quy định tại Luật Mẫu của UNCITRAL và pháp luật trọng tài của
hầu hết các nước trên thế giới. 

3.2.4. Bổ sung quy định về thẩm quyền lý đơn khởi kiện và bản tự bảo vệ 

Thẩm quyền ký đơn khởi kiện và bản tự bảo vệ là một trong những vấn đề còn
đang có sự thiếu sót trong các quy định của Luật TTTM năm 2010 và có thể gây ảnh
hưởng tới tính xác thực và hiệu lực của đơn khởi kiện và bản tự bảo vệ của các bên Theo
đó, mặc dù quy tắc tố tụng trọng tải của một số trung tâm TTTM đã có quy định và ghi
nhận vấn đề này nhưng để đảm bảo áp dụng một cách thống nhất và đầy đủ nhất thì việc
bổ sung quy định về thẩm quyền ký đơn khởi kiện và bản tự bảo vệ của các bên là cần
thiết. Cụ thể, việc bổ sung quy định về thẩm quyền ký có thể được xây dựng trên cơ sở
tham khảo quy định tại BLTTDS năm 2015, Điều 189, Khoản 3 đã quy định rất rõ ràng và
chi tiết về vấn đề này. Bổ sung quy định về gia đơn khởi kiện và trình tự gửi đơn khởi
kiện đối với trọng tài vụ việc

 Pháp luật về TTTM hiện nay không có quy định về gửi và nhận đơn khởi kiện hay
quy định về thời điểm được coi là đã nhận được đơn khởi kiện đối với trọng tài vụ việc.
Từ đó, đặt ra yêu cầu bổ sung quy định về xác định thời điểm của và nhận đơn khởi kiện
22

của bị đơn đối với trọng tài vụ việc để góp phần giảm tình trạng trì hoãn giải quyết tranh
chấp của bị đơn với lý do chưa nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn Để hoàn thiện
quy ảnh này có thể tham khảo Khoản 1 Điều 3 Luật Mẫu của UNCITRAL có quy định
chung về gửi, nhận và xác định thời điểm báo nhận các thông báo bằng văn bản bao gồm
cả đơn khởi kiện đối với cả trọng tài quy chế và trọng tài vụ việc. Có nghĩa là có thể dựa
trên quy định tại Điều 12 Luật TTTM năm 2010 về thông báo và trình tự gửi thông báo để
điều chỉnh áp dụng cho cả trường hợp củ và nhận đơn khởi kiện đối với trọng tài vụ việc
thay vì chỉ áp dụng đối với trọng tài quy chế hoặc khi HĐTT đã được thành lập như hiện
nay. 

3.2.5. Hoàn thiện quy định về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

Theo quy định tại Khoản 4 Điều 49 Luật TTTM năm 2010, trường hợp một bên
tranh chấp có yêu cầu HĐTT áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì phải thực hiện biện
pháp bảo đảm, không phân biệt là áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nào. Tuy nhiên
không phải mọi biện pháp khẩn cấp tạm thời thì việc áp dụng biện pháp bảo đảm đều là
cần thiết. Vậy nên có thể sửa đổi quy định về biện pháp bảo đảm trong trường hợp yêu
cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo hướng quy định tại BLTTDS năm 2015.
Qua đó, góp phần giảm gánh nặng tài chính đối với các bên tranh chấp trong quá trình
giải quyết tranh chấp HĐTM tại TTTM. Ngoài ra, xem xét tới số lượng các biện pháp
khẩn cấp tạm thời mà Tòa án có thẩm quyền áp dụng so với các biện pháp khẩn cấp tạm
thời mà HĐTT có thẩm quyền áp dụng có thể thấy tòa án có thẩm quyền áp dụng nhiều
biện pháp khẩn cấp tạm thời hơn. Vì vậy, có thể bổ sung thêm các biện pháp khẩn cấp
tạm thời mà HĐTT được quyền áp dụng để góp phần giảm tải áp lực cho hoạt động của
tòa án khi các bên tranh chấp lựa chọn áp cang các biện pháp khẩn cấp tạm thời mà chỉ có
tòa án có thẩm quyền áp dụng 

3.2.6. Hoàn thiện quy định về hủy phán quyết trọng tài

Khoản 2 Điều 68 Luật TTTM năm 2010 xác định các căn cứ để tòa án xem xét và
ra quyết định hủy hoặc không hủy phán quyết trọng tài. Mặc dù vậy, một số các căn cứ
được xác định tại Khoản 2 Điều 68 Luật TTTM năm 2010 vẫn chưa thực sự cụ thể, rõ
ràng dẫn đến việc hiểu và áp dụng không thống nhất. Nhất là căn cứ “phán quyết trọng tài
trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” là một trong số những căn cứ mà
các tòa án thường xuyên sử dụng để hủy phán quyết trọng tài. Nhưng để xác định chính
xác thế nào là “trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” là rất khó. Do vậy,
cần phải có quy định bổ sung để giải thích hướng dẫn rõ ràng hơn về cách áp dụng các
căn cứ hủy phán quyết trọng tài của tòa án, tránh trường hợp các tòa án hầu hết đều xem
xét lại nội dung vụ việc đề đưa ra quyết định cuối cùng của mình. Hơn nữa, với thực trạng
một số quyết định hủy phán quyết trọng tài được ban hình mà không có căn cứ cụ thể.
Cũng như xem xét tới hệ quả của quyết định hủy phán quyết trọng tải của tòa án sẽ là
quyết định cuối cùng và các bên không có quyền khiếu nại, kháng cáo cũng như Viện
kiểm sát không có quyền kháng nghị. Có thể thấy, cần xem xét bổ sung quy định về việc
xem xét lại quyết định hủy phán quyết trọng tài của tòa án để tránh tình trạng áp dụng
23

không đúng các quy định của pháp luật cũng như giảm thiểu những rủi ro trong hoạt động
này của tòa án.
24

KẾT LUẬN

Thủ tục giải quyết tranh chấp là một vấn đề tiên quyết được các bên tranh chấp
HĐTM quan tâm và chú trọng lựa chọn phương thức gia quyết tranh chấp tại TTTM. Vì
vậy, Luật TTTM năm 2010 đã có những quy định chặt chẽ và cụ thể về thủ tục giải quyết
tranh chấp HĐTM tại TTTM. Tuy nhiên các quy định về thủ tục giải quyết tranh chấp
HĐTM tại TTTM cần được nghiên cứu một cách chuyên sâu và nghiêm túc hơn.

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, xuất phát từ bản chất của TTTM và HĐTM, bài
viết đã tập trung nghiên cứu và phân tích để làm rõ những vấn đề lí luận về pháp luật giải
quyết tranh chấp HĐTM tại TTTM, sự hình thành phát triển của các quy định của pháp
luật.

Cùng với đó, bài viết đã đã tập trung phân tích chi tiết từng công việc phải thực
hiện trong tố tụng trọng tài để chỉ ra những điểm hợp lý, phù hợp và những điểm còn hạn
chế, bất cập, từ đó đã đưa ra một số biện pháp để hoàn thiện các quy định của pháp luật
giải quyết tranh chấp HĐTM tại TTTM ở Việt Nam.

Thông qua việc đề xuất nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật, hy vọng có thể đáp
ứng được nhu cầu giải quyết tranh chấp HĐTM nói chung và các tranh chấp HĐTM quốc
tế nói riêng trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
25

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Văn bản pháp luật

1. Bộ luật Dân sự năm 2015


2. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
3. Luật Thương mại năm 1997
4. Luật Thương mại năm 2005
5. Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003
6. Luật Trọng tài thương mại năm 2010
7. Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân tối
cao ban hành ngảy 20 tháng 3 năm 2014 hướng dẫn thi hành một số quy ảnh Luật
Trọng tài thương mại
8. Nghị định số 22/2017/NĐ-CP ngày 24 tháng 02 năm 2017 của Chính phủ về Hòa
giải thương mại
9. Luật mẫu về trọng tài thương mại Quốc tế của Ủy ban Liên Hiệp Quốc về Luật
Thương mại Quốc tế.

B. Các tài liệu tham khảo khác

1. Hà Thị Thanh Bình, Phạm Hoài Huấn (2015), Bàn về khắc phục sai sót trong tố
tụng trong tài nhằm tránh việc hủy phán quyết trọng tài, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật Số 4/2015.
2. Nguyễn Ngọc Anh, Nguyễn Thị Huyền Trang (2019), Thẩm quyền của trọng tài
thương mại quy định tại Điều 2 Luật Trọng tài thương mại năm 2010, Tạp chi luật
học Số 1/2019
3. Nguyễn Thị Dung, Lê Hương Giang (2011), Bình luận một số nội dung mới trong
Luật Trọng tài thương mại năm 2010, Tạp chí Luật học Số 6/2011
4. Dương Quỳnh Hoa (2019), Bất cập của Luật Trọng tài thương mại năm 2010 và
hướng hoàn thiện, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 1/2019
5. Nguyễn Mạnh Linh (2015), Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài -
Thực tiễn hoạt động của các trung tâm trong tài thương mại trên địa bàn thành
phố Hà Nội, Trường Đại học Luật Hà Nội
6. Nguyễn Viết Tý (2019), Đặc trưng cơ bản của trọng tài thương mại ở Việt Nam”
Tạp chí Luật học số 4/2019
7. Phạm Thị Thu Trang (2019), Giải quyết tranh chấp HĐTM bằng trọng tài thương
mại - Thực hiện tại Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC), Trường Đại
học Luật Hà Nội
8. Đào Hải Yến (2018), Giải quyết tranh chấp HĐTM tại Tòa án nhân dân thành phố
Hà Nội thực trạng và kiến nghị, Trường Đại học Luật Hà Nội.

You might also like