You are on page 1of 48

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẾ TÀI ĐỐI VỚI VI
PHẠM HỢP ĐỒNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI ĐỐI VỚI VI PHẠM HỢP
ĐỒNG THƯƠNG MẠI................................................................................................. 2
1.1 Khái quát chung về hợp đồng thương mại và các chế tài đối với vi phạm hợp đồng
...................................................................................................................................... 2
1.1.1. Hợp đồng thương mại và vi phạm hợp đồng thương mại .............................. 2
1.1.2. Khái niệm của các chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại ................. 5
1.1.3. Đặc điểm của các chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại ................ 13
1.1.4. Ý nghĩa của các chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại ................... 15
1.2. Khái quát pháp luật về chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại ...................... 16
1.2.1. Nguồn pháp luật về chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại .................... 16
1.2.2. Áp dụng chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại ............................... 17
1.2.3. Phân loại chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại .............................. 28
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CHẾ TÀI ĐỐI VỚI
VI PHẠM HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI .................................................................. 30
2.1. Thực tiễn thi hành pháp luật Việt Nam về chế tài áp dụng đối với vi phạm hợp
đồng thương mại ........................................................................................................ 30
2.1.1. Những bất cập trong việc áp dụng pháp luật về chế tài do vi phạm hợp đồng
thương mại .............................................................................................................. 30
2.1.2. Nguyên nhân của những bất cập .................................................................. 33
2.2. Thực trạng vi phạm hợp đồng thương mại ở Việt Nam ...................................... 33
CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT
NAM VỀ CHẾ TÀI ĐỐI VỚI VI PHẠM HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI .............. 37
3.1. Những yêu cầu đặt ra đối với với việc hoàn thiện pháp luật về chế tài đối với vi
phạm hợp đồng thương mại ....................................................................................... 37
3.1.1. Phù hợp với đường lối xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam ........................................................................................................................ 37
3.1.2. Đảm bảo sự thống nhất của các văn bản pháp luật ...................................... 38
3.1.3. Đảm bảo sự bình đẳng của các bên trong quan hệ hợp đồng ....................... 39
3.1.4. Đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam ............................ 39
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về chế tài đối với vi phạm hợp đồng
thương mại ................................................................................................................. 40
3.2.1. Bổ sung quy định thống nhất cách hiểu về thời điểm tồn tại của điều khoản
phạt vi phạm ........................................................................................................... 40
3.2.2. Thống nhất quy định của Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại trong mối quan
hệ giữa hai chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại........................................ 41
3.2.3. Hoàn thiện quy định về quan hệ giữa chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng
và các hình thức chế tài khác .................................................................................. 42
3.2.4. Hoàn thiện pháp luật về chế tài phạt vi phạm .............................................. 43
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 44
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 45
LỜI MỞ ĐẦU

Nền kinh tế ngày càng phát triển theo sự phát triển của hoạt động thương mại và
cùng với sự gia tăng của các loại hợp đồng thương mại. Khi hợp đồng thương mại được
giao kết và có hiệu lực pháp luật đòi hỏi các bên chủ thể phải tuân thủ đúng các quy định
mà mình đã thỏa thuận. Việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng
tạo ra tính chất tuân thủ của các chủ thể trên cơ sở các quy định pháp luật hiện hành. Hợp
đồng thương mại được thực hiện dưới nhiều mục đích khác nhau nhưng kết quả cuối
cùng là tạo ra mục đích sinh lợi cho các bên. Do vậy việc thực hiện nghiêm chỉnh những
nội dung đã được các bên thỏa thuận trước đó là một điều hết sức cần thiết. Tuy nhiên
trên thực tế, trong quá trình thực hiện hợp đồng thường xảy ra các vi phạm hợp đồng mà
sự vi phạm đó có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau. Để đảm bảo lợi ích cho bên bị vi
phạm, pháp luật bao giờ cũng dữ liệu những chế tài do vi phạm hợp đồng.

Ở Việt Nam, các quy định về các chế tài rất được coi trọng bởi chúng là một
phần không thể tách rời của pháp luật cộng đồng. Tuy nhiên qua nhiều lần sửa đổi, bổ
sung một cách toàn diện và cơ bản, nhưng các quy định của các văn bản này và nhiều
văn bản khác về chế tài đối với vi phạm hợp đồng nói chung và vi phạm hợp đồng
thương mại nói riêng tại còn có nhiều bất cập.

Xuất phát từ những vấn đề quan trọng này, nhóm chúng em xin phép lựa chọn đề
tài: “Pháp luật về chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại” để phân tích. Do thời
gian và nguồn lực có hạn nên bài luận này không tránh khỏi sai sót. Chúng em rất mong
được nhận xét và góp ý của cô để bài luận có thể được hoàn thiện hơn.

1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẾ TÀI ĐỐI VỚI
VI PHẠM HỢP ĐỒNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI ĐỐI VỚI VI PHẠM HỢP
ĐỒNG THƯƠNG MẠI

1.1 Khái quát chung về hợp đồng thương mại và các chế tài đối với vi phạm
hợp đồng

1.1.1. Hợp đồng thương mại và vi phạm hợp đồng thương mại

a. Hợp đồng thương mại

Pháp luật hiện hành Việt Nam hiện không đưa ra khái niệm hợp đồng thương mại
cũng như khái niệm “thương mại” nói chung mà thông qua khái niệm hoạt động thương
mại trong Luật Thương mại 2005 để làm rõ đặc điểm của khái niệm thương mại. Theo
đó, khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại 2005 giải thích về hoạt động thương mại như sau:

“1. Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua
bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm
mục đích sinh lợi khác.”

Theo quy định trên, có thể hiểu hợp đồng thương mại là sự thỏa thuận giữa các
bên để thực hiện hoạt động thương mại nhằm mục đích sinh lợi.

Cũng theo Luật Thương mại 2005, hoạt động thương mại gồm: Mua bán hàng
hóa; cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi khác.

Khái niệm về hợp đồng: Điều 385 BLDS 2015

“Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự.”

Điều 116. Giao dịch dân sự

2
“Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.”

Tóm lại, có thể hiểu hợp đồng thương mại là sự thỏa thuận giữa các bên (trong đó
có ít nhất một bên tham gia là thương nhân) về việc xác lập thay đổi hoặc chấm dứt
quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc thực hiện các hoạt động thương mại"

Một số loại hợp đồng thương mại phổ biến hiện nay gồm:

Hợp đồng mua bán hàng hóa, gồm: Hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước; hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế; hợp đồng mua bán qua Sở giao dịch hàng hóa.

Hợp đồng dịch vụ, gồm: Hợp đồng cung ứng dịch vụ liên quan đến mua bán hàng
hóa; hợp đồng cung ứng dịch vụ chuyên ngành (hợp đồng dịch vụ tài chính, bảo hiểm,...).
Hợp đồng trong các hoạt động đầu tư thương mại khác…

b.Vi phạm hợp đồng thương mại

Vi phạm hợp đồng

Vi phạm hợp đồng là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng những
nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng. Nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng là những nghĩa vụ đã
được ghi nhận trong các điều khoản của hợp đồng hoặc được pháp luật điều chỉnh hợp
đồng đó quy định.

Hành vi vi phạm hợp đồng là căn cứ pháp lý để áp dụng đối với tất cả các hình
thức chế tài do vi phạm hợp đồng. Hành vi vi phạm hợp đồng là xử sự của các chủ thể
hợp đồng không phù hợp với các nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng. Biểu hiện cụ thể
của hành vi vi phạm hợp đồng là không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy
đủ các nghĩa vụ theo hợp đồng. Cần lưu ý, các bên không chỉ thực hiện các nghĩa vụ đã
thỏa thuận trong hợp đồng mà còn phải thực hiện cả những nghĩa vụ theo quy định của
pháp luật (nội dung thường lệ của hợp đồng). Vậy nên, khi xem xét một hành vi có là

3
hành vi vi phạm hợp đồng hay không phải căn cứ vào các điều khoản đã thỏa thuận trong
hợp đồng và cả quy định pháp luật có liên quan.

Hành vi vi phạm hợp đồng thương mại

Căn cứ theo khoản 12 Điều 3 LTM 2005, "Vi phạm hợp đồng là việc một bên
không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thoả
thuận giữa các bên hoặc theo quy định của Luật này."

Trong thực tiễn để xác định việc có hay không một hành vi vi phạm hợp đồng
thương mại phải chứng minh được hai vấn đề. Đó là, quan hệ hợp đồng hợp pháp giữa
các bên và có hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các
nghĩa vụ theo hợp đồng. Hợp đồng hợp pháp là cơ sở phát sinh nghĩa vụ giữa các bên và
là căn cứ quan trọng để xác định hành vi vi phạm. Cần đối chiếu giữa thực tế thực hiện
hợp đồng với các cam kết trong hợp đồng hoặc các quy định pháp luật có liên quan để
xác định chính xác hành vi vi phạm hợp đồng.

Mặt khác, khi xem xét hành vi vi phạm hợp đồng thương mại với tư cách là căn
cứ để áp dụng chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại cần phải có sự đánh giá về vi
phạm cơ bản và không cơ bản. Vấn đề này mới được đưa vào Luật thương mại năm 2005
“Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, bên bị vi phạm không được áp dụng chế tài tạm
ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc hủy bỏ hợp đồng đối với
vi phạm không cơ bản” (Điều 293).

Luật thương mại năm 2005 còn đưa ra khái niệm “Vi phạm cơ bản là sự vi phạm
hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được
mục đích của việc giao kết hợp đồng” (Khoản 13 Điều 3).

4
1.1.2. Khái niệm của các chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương
mại

Chế tài là các biện pháp cưỡng chế nhà nước dự kiến áp dụng đối với các chủ thể
vi phạm pháp luật để đảm bảo việc thực hiện pháp luật. Các chế tài do nhà nước đặt ra,
được quy định trong các quy phạm pháp luật và mang tính cưỡng chế thi hành.

Trong quá trình ký kết, thực hiện các hợp đồng trong thương mại, việc một bên vi
phạm nghĩa vụ đã giao kết, thỏa thuận trong hợp đồng có thể dẫn đến ảnh hưởng, gây
thiệt hại tới bên còn lại. Khi đó, bên bị ảnh hưởng, thiệt hại có thể yêu cầu bên vi phạm
một số trách nhiệm ràng buộc, như buộc thực hiện đúng hợp đồng, phạt hợp đồng, bồi
thường thiệt hại,…

Theo quy định tại Điều 292 Luật Thương mại năm 2005 gồm các chế tài sau:

• Buộc thực hiện đúng hợp đồng.

• Phạt vi phạm.

• Buộc bồi thường thiệt hại.

• Tạm ngừng thực hiện hợp đồng.

• Đình chỉ thực hiện hợp đồng.

• Huỷ bỏ hợp đồng.

Các biện pháp khác do các bên thỏa thuận không trái với nguyên tắc cơ bản của
pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên và tập quán thương mại quốc tế.

a. Buộc thực hiện đúng hợp đồng.

5
Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực
hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên
vi phạm phải chịu chi phí phát sinh.

Căn cứ để áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng là: có hành vi vi phạm
hợp đồng và có lỗi của bên vi phạm. Biểu hiện cụ thể của việc áp dụng chế tài buộc thực
hiện đúng hợp đồng là việc bên vi phạm phải ngừng ngay việc vi phạm và thực hiện đúng
các nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện
(tự sửa chữa khuyết tật của hàng hoá, thiếu sót của dịch vụ, mua hàng hóa, nhận cung
ứng dịch vụ của người khác theo đúng loại hàng hoá, dịch vụ ghi trong hợp đồng…) và
bên vi phạm phải chịu phí tổn phát sinh.

Những trường hợp bên bị vi phạm và bên vi phạm thỏa thuận gia hạn thực hiện
nghĩa vụ hoặc thỏa thuận thay thế nghĩa vụ này bằng nghĩa vụ khác, không được coi là
áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng.

Theo Luật Thương mại (Điều 297), khi áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp
đồng, bên bị vi phạm có thể lựa chọn hoặc yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng
hoặc lựa chọn các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu
chi phí phát sinh. Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng theo Luật Thương mại được đặt
ra khi có vi phạm các điều khoản về số lượng, chất lượng hàng hóa, yêu cầu kỹ thuật của
công việc. Khi bên vi phạm giao hàng thiếu, cung ứng dịch vụ không đúng theo thỏa
thuận trong hợp đồng, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm phải giao đủ hàng,
cung ứng dịch vụ theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng. Nếu bên vi phạm giao hàng kém
chất lượng, cung ứng dịch vụ không đúng hợp đồng, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu
bên vi phạm loại trừ khuyết tật của hàng hoá, thiếu sót của dịch vụ hoặc giao hàng khác
thay thế, cung ứng dịch vụ theo đúng hợp đồng. Trường hợp bên vi phạm không thực
hiện yêu cầu của bên bị vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền mua hàng, nhận cung ứng
dịch vụ của người khác theo đúng loại hàng hoá, dịch vụ ghi trong hợp đồng và bên vi
phạm phải bù đắp phần chênh lệch về giá. Bên bị vi phạm cũng có thể tự sửa chữa khuyết

6
tật của hàng hóa, thiếu sót của dịch vụ và yêu cầu bên vi phạm phải trả các chi phí thực
tế hợp lý.

b.Phạt vi phạm.

Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt
do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thoả thuận, trừ các trường hợp miễn trách
nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này.

Chế tài phạt hợp đồng có mục đích chủ yếu là trừng phạt, tác động vào ý thức của
các chủ thể hợp đồng nhằm giáo dục ý thức tôn trọng nội dung đã thỏa thuận trong hợp
đồng, phòng ngừa hành vi vi phạm hợp đồng. Với mục đích như vậy, phạt hợp đồng là
hình thức được áp dụng một cách phổ biến đối với các vi phạm hợp đồng.
Theo Luật Thương mại, chế tài phạt vi phạm hợp đồng chỉ được áp dụng nếu
(trong hợp đồng có thoả thuận về việc áp dụng chế tài này). Mặt khác, để áp dụng hình
thức chế tài phạt hợp đồng, cần có hai căn cứ là:

+ Có hành vi vi phạm hợp đồng;

+ Có lỗi của bên vi phạm hợp đồng.

Mức tiền phạt vi phạm hợp đồng bị giới hạn bởi pháp luật (các bên có quyền thỏa
thuận về mức phạt nhưng không được vượt quá mức phạt do pháp luật quy định). Theo
Luật Thương mại năm 2005, mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng
mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng không quá 8% giá
trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm.

c.Buộc bồi thường thiệt hại.

Khác với phạt vi phạm hợp đồng, bồi thường thiệt hại là hình thức chế tài được
áp dụng nhằm khôi phục, bù đắp những lợi ích vật chất bị mất của bên bị vi phạm hợp
đồng.

7
Với mục đích này, bồi thường thiệt hại chỉ được áp dụng khi có thiệt hại xảy ra. Theo
Luật

Thương mại năm 2005, để áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải có các căn cứ
sau:

• Có hành vi vi phạm hợp đồng


• Có thiệt hại thực tế
• Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại
• Có lỗi của bên vi phạm (không thuộc các trường hợp được miễn trách nhiệm theo
quy định của pháp luật)

Về nguyên tắc, bên vi phạm phải bồi thường toàn bộ những thiệt hại vật chất cho
bên bị vi phạm. Tuy nhiên, như đã phân tích, các khoản thiệt hại đòi bồi thường phải nằm
trong phạm vi được pháp luật ghi nhận.

Bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải chứng minh được mức độ tổn thất do hành
vi vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được nhưng nếu
không có hành vi vi phạm hợp đồng của bên vi phạm. Khi xảy ra vi phạm hợp đồng, bên
yêu cầu bồi thường thiệt hại phải áp dụng các biện pháp hợp lý để hạn chế tổn thất kể cả
tổn thất đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng do hành vi vi phạm hợp đồng gây
ra; nếu bên yêu cầu bồi thường thiệt hại không áp dụng các biện pháp đó, bên vi phạm
hợp đồng có quyền yêu cầu giảm bớt giá tiền bồi thường thiệt hại bằng mức tổn thất đáng
lẽ có thể hạn chế được.

Khi áp dụng trách nhiệm bồi thường, cần lưu ý mối quan hệ giữa phạt hợp đồng
và bồi thường thiệt hại. Với bản chất của hợp đồng, các bên trong hợp đồng có quyền
thỏa thuận về các hình thức; chế tài phù hợp với quy định của pháp luật. Các bên có
quyền thỏa thuận về việc bên vi phạm chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm hợp đồng mà không
phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải nộp tiền phạt vi phạm hợp đồng vừa phải bồi
thường thiệt hại. Theo Luật Thương mại, trong trường hợp các bên của hợp đồng không
thỏa thuận về phạt vi phạm hợp đồng thì bên bị vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi thường
8
thiệt hại; trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng thì bên bị vi phạm có
quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại.

d.Tạm ngừng thực hiện hợp đồng.

Tạm ngừng thực hiện hợp đồng là việc một bên tạm thời không thực hiện nghĩa
vụ trong hợp đồng

Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này; tạm
ngừng thực hiện hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau đây:

1. Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để tạm ngừng
thực hiện hợp đồng;

2. Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.

Điều 309. Hậu quả pháp lý của việc tạm ngừng thực hiện hợp đồng

1. Khi hợp đồng bị tạm ngừng thực hiện thì hợp đồng vẫn còn hiệu lực.

2. Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật
này.

e .Đình chỉ thực hiện hợp đồng.

Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này, đình
chỉ thực hiện hợp đồng là việc một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp đồng thuộc một
trong các trường hợp sau đây:

1) Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để đình chỉ
hợp đồng;

2) Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.

9
Khi một trong các bên vi phạm nghĩa vụ của hợp đồng; trong hợp đồng có thỏa
thuận rằng sự vi phạm đó là điều kiện để đình chỉ thực hiện hợp đồng; thì các bên sẽ đình
chỉ thực hiện hợp đồng theo như thỏa thuận trong hợp đồng.

Vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng nghĩa là “sự vi phạm hợp đồng của một bên
gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc
giao kết hợp đồng”. Lúc này việc thực hiện hợp đồng sẽ bị đình chỉ.

Điều 311. Hậu quả pháp lý của việc đình chỉ thực hiện hợp đồng

1.Khi hợp đồng bị đình chỉ thực hiện thì hợp đồng chấm dứt từ thời điểm một bên nhận
được thông báo đình chỉ. Các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hợp đồng.
Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán hoặc thực hiện nghĩa
vụ đối ứng.

2.Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật này.
f.Huỷ bỏ hợp đồng.
Huỷ bỏ hợp đồng bao gồm:

• Hủy bỏ toàn bộ hợp đồng: Hủy bỏ toàn bộ hợp đồng là việc bãi bỏ hoàn toàn việc
thực hiện tất cả các nghĩa vụ hợp đồng đối với toàn bộ hợp đồng.
• Hủy bỏ một phần hợp đồng: Hủy bỏ một phần hợp đồng là việc bãi bỏ thực hiện
một phần nghĩa vụ hợp đồng, các phần còn lại trong hợp đồng vẫn còn hiệu lực.

Điều 314. Hậu quả pháp lý của việc huỷ bỏ hợp đồng

1.Trừ trường hợp quy định tại Điều 313 của Luật này, sau khi huỷ bỏ hợp đồng,
hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải tiếp tục thực
hiện các nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng, trừ thỏa thuận về các quyền và nghĩa
vụ sau khi huỷ bỏ hợp đồng và về giải quyết tranh chấp.

2.Các bên có quyền đòi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình
theo hợp đồng; nếu các bên đều có nghĩa vụ hoàn trả thì nghĩa vụ của họ phải được

10
thực hiện đồng thời; trường hợp không thể hoàn trả bằng chính lợi ích đã nhận thì bên
có nghĩa vụ phải hoàn trả bằng tiền.

3.Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật
này.

Tiêu chí Tạm ngừng Đình chỉ thực Hủy bỏ hợp đồng
thực hiện hợp hiện hợp đồng
đồng

Căn cứ Luật thương mại 2005


pháp lý

Khái niệm Là việc một bên Là việc một bên Bao gồm hủy bỏ toàn bộ hợp đồng
tạm thời không chấm dứt thực và hủy bỏ một phần hợp đồng, cụ
thực hiện nghĩa hiện nghĩa vụ thể:
vụ trong hợp hợp đồng. - Hủy bỏ toàn bộ hợp đồng là việc
đồng. (Điều 310) bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất
(Điều 308) cả các nghĩa vụ hợp đồng đối với
toàn bộ hợp đồng;
- Hủy bỏ một phần hợp đồng là
việc bãi bỏ thực hiện một phần
nghĩa vụ hợp đồng, các phần còn
lại trong hợp đồng vẫn còn hiệu
lực.
(khoản 1, 2 và 3 Điều 312)

11
Trường - Xảy ra hành vi - Xảy ra hành vi - Xảy ra hành vi vi phạm mà các
hợp áp vi phạm mà các vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để
dụng bên đã thoả bên đã thoả hủy bỏ hợp đồng;
thuận là điều thuận là điều - Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ
kiện để tạm kiện để đình chỉ hợp đồng.
ngừng thực hiện hợp đồng; (khoản 4 Điều 312)
hợp đồng; - Một bên vi
- Một bên vi phạm cơ bản
phạm cơ bản nghĩa vụ hợp
nghĩa vụ hợp đồng.
đồng. (Điều 310)
(Điều 308)

Giá trị hiệu Hợp đồng vẫn Hợp đồng chấm Phần hợp đồng bị hủy bỏ không có
lực của hợp còn hiệu lực. dứt hiệu lực từ hiệu lực từ thời điểm giao kết (trừ
đồng thời điểm một trường hợp hủy bỏ hợp đồng giao
bên nhận được hàng, cung ứng dịch vụ từng
thông báo đình phần).
chỉ.

12
Hậu quả - Các bên - Các bên - Các bên không phải tiếp tục thực
pháp lý về không phải thực không phải tiếp hiện các nghĩa vụ đã thỏa thuận
quyền và hiện hợp đồng tục thực hiện trong hợp đồng, trừ thỏa thuận về
nghĩa vụ trong thời gian nghĩa vụ hợp các quyền và nghĩa vụ sau khi hủy
của các bên tạm ngừng hợp đồng; bỏ hợp đồng và về giải quyết tranh
đồng; - Bên đã thực chấp;
- Bên bị vi hiện nghĩa vụ - Các bên có quyền đòi lại lợi ích
phạm có quyền có quyền yêu do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ
yêu cầu bồi cầu bên kia của mình theo hợp đồng; nếu các
thường thiệt thanh toán hoặc bên đều có nghĩa vụ hoàn trả thì
hại. thực hiện nghĩa nghĩa vụ của họ phải được thực
(Điều 309) vụ đối ứng; hiện đồng thời; trường hợp không
- Bên bị vi thể hoàn trả bằng chính lợi ích đã
phạm có quyền nhận thì bên có nghĩa vụ phải hoàn
yêu cầu bồi trả bằng tiền;
thường thiệt - Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu
hại. bồi thường thiệt hại theo quy định
(Điều 311) của Luật này.
(Điều 314)

1.1.3. Đặc điểm của các chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại

Với cách hiểu là chế tài do vi phạm hợp đồng trong thương mại, chế tài trong
thương mại có đặc điểm pháp lý sau đây:

Thứ nhất, chế tài trong thương mại luôn mang tính cưỡng chế nhà nước đối với
người vi phạm pháp luật thương mại. Các chế tài thể hiện thái độ, phản ứng của Nhà
nước đối với các hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, các biện pháp cưỡng chế này chỉ

13
áp dụng đối với các nhà kinh doanh và những người có quan hệ hợp đồng với họ khi vi
phạm các nghĩa vụ theo hợp đồng và theo pháp luật.

Thứ hai, chế tài trong thương mại được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp
luật thương mại. Những chế tài trong thương mại được luật hoá và quy định tại Luật
Thương mại năm 2005 (Mục 1 Chương VII). Việc quy định trong văn bản quy phạm
pháp luật đảm bảo tính cưỡng chế nhà nước của các chế tài này thông qua các thiết chế
nhất định trong trường hợp không được bên vi phạm hợp đồng tự nguyện thi hành. Các
chế tài trong thương mại chỉ được áp dụng khi có đủ các căn cứ do pháp luật quy định.
Do được quy định trong các văn bản pháp luật nên các chế tài trong thương mại được áp
dụng theo mức bằng nhau đối với những vi phạm cùng loại, không phân biệt chủ thể
hành vi vi phạm là ai, nhằm đảm bảo nguyên tắc bình đẳng của các chủ thể quan hệ pháp
luật thương mại.

Ví dụ, nếu đáp ứng đủ căn cứ thì có thể áp dụng chế tài phạt vi phạm với mức tối
đa là 8% giá trị phần nghĩa vụ bị vi phạm, không phân biệt bên vi phạm là cá nhân hay
pháp nhân, doanh nghiệp vốn trong nước hay vốn nước ngoài (Điều 301 Luật Thương
mại năm 2005)...

Thứ ba, chế tài trong thương mại là hình thức trách nhiệm của một bên trong quan
hệ hợp đồng trong thương mại đối với bên kia của hợp đồng, trách nhiệm của bên vi
phạm đối với bên bị vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Quan hệ hợp đồng trong thương mại
được xây dựng trên nguyên tắc là quan hệ bình đẳng giữa các bên với nhau, việc vi phạm
nghĩa vụ của bên này chính là vi phạm quyền của bên kia và ngược lại. Vì thế, trách
nhiệm trước hết là của một bên đối với bên kia trong quan hệ hợp đồng trong thương
mại, của bên vi phạm đối với bên bị vi phạm. Chế tài trong thương mại chỉ có thể được
áp dụng khi có yêu cầu của một bên trong hợp đồng, đó là bên có quyền và lợi ích bị vi
phạm. Các chế tài hình sự hay hành chính có thể được áp dụng dựa trên yêu cầu của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, không xuất phát từ các bên nhưng đối với chế tài do vi
phạm hợp đồng trong thương mại (chế tài trong thương mại), điều kiện đầu tiên để xem
xét áp dụng phải là có yêu cầu của một bên trong hợp đồng.
14
Thứ tư, chế tài trong thương mại chủ yếu mang tính tài sản. Vì các quan hệ được
điều chỉnh bởi pháp luật thương mại là quan hệ tài sản nên chế tài trong thương mại trước
hết thực hiện chức năng tác động về tài sản đối với bên vi phạm. Các chế tài tài sản áp
dụng đối với bên vi phạm dưới hình thức khác nhau, đều dẫn đến việc bên vi phạm phải
gánh chịu những hậu quả bất lợi về tài sản. Đó có thể là những nghĩa vụ tài sản tương
đương với nghĩa vụ theo hợp đồng như bồi thường thiệt hại thực tế. Đó cũng có thể là
những nghĩa vụ tài sản bổ sung so với nghĩa vụ theo hợp đồng như tiền phạt, lãi suất tiền
chậm thanh toán, khoản lợi nhuận bị bỏ lỡ... Tuy nhiên, theo pháp luật thực định Việt
Nam, có những chế tài không mang tính tài sản như tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình
chỉ thực hiện hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng.

1.1.4. Ý nghĩa của các chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại

Khi hợp đồng trong hoạt động thương mại được giao kết hợp pháp sẽ phát sinh
nghĩa vụ ràng buộc các bên giao kết. Các bên phải nghiêm túc thực hiện nghĩa vụ hợp
đồng. Bên nào vi phạm, bên đó phải chịu trách nhiệm đối với bên bị vi phạm dưới những
hình thức chế tài khác nhau. Như vậy, các chế tài trong thương mại trước hết thúc đẩy
các nhà kinh doanh tuân thủ khung pháp lý gồm các quy định, thủ tục, tiêu chuẩn, yêu
cầu đã được xác định trước và thực hiện hoạt động thương mại trong khuôn khổ đó.

Bên cạnh đó, chế tài trong thương mại có khả năng trừng phạt đối với nhà kinh
doanh không thực hiện các nghĩa vụ của mình. Nếu như quy định pháp luật tạo khuôn
khổ pháp lý gồm các quy tắc xử sự cho mọi tổ chức, cá nhân và được nhà nước đảm bảo
thực hiện, thì trong trường hợp tổ chức, cá nhân nào vượt ra khỏi khuôn khổ pháp lý đó,
tức là vi phạm các quy tắc xử sự chung, sẽ phải chịu sự trừng phạt, chịu những hậu quả
bất lợi vì hành vi của mình. Nếu vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng thì bên vi phạm cũng
phải chịu sự trừng phạt theo quy định của pháp luật và của hợp đồng. Sự trừng phạt do
vi phạm hợp đồng này chủ yếu mang tính tài sản, tính bằng tiền, được áp dụng nhằm
buộc bên vi phạm phải trả giá cho hành vi vi phạm hợp đồng của mình.

15
Chế tài trong thương mại có mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên trong quan hệ hợp đồng thương mại. Nếu bên nào bị vi phạm hợp đồng, bên đó có
quyền yêu cầu bên vi phạm khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp hoặc bù đắp những thiệt
hại mà bên vi phạm đã gây ra do hành vi vi phạm hợp đồng của mình. Đây là mục đích
chủ yếu của chế tài trong thương mại vì quan hệ hợp đồng thương mại được thiết lập trên
cơ sở bình đẳng, cùng có lợi của các bên; do hợp đồng bị vi phạm dẫn đến quyền và lợi
ích của bên bị vi phạm không được đảm bảo nên chế tài được đặt ra chủ yếu nhằm hướng
tới khôi phục các quyền và lợi ích bị vi phạm, bù đắp những thiệt hại chứ không phải
nhằm mục đích chính là trừng phạt. Pháp luật sẽ can thiệp để đảm bảo những quyền và
lợi ích hợp pháp này của họ. Nếu bên vi phạm không tự nguyện thi hành thì sẽ có cơ chế
cưỡng chế thi hành từ phía các cơ quan nhà nước trên cơ sở các quy định pháp luật.

Ngoài ra, chế tài trong thương mại còn nhằm ngăn ngừa và hạn chế vi phạm hợp
đồng từ phía các nhà kinh doanh cũng như những người có quan hệ hợp đồng với họ.
Các chủ thể hợp đồng lường trước được sự trừng phạt hay hậu quả bất lợi dự kiến sẽ
được áp dụng nếu mình có hành vi vi phạm pháp luật, từ đó nâng cao ý thức tuân thủ
pháp luật, tuân thủ hợp đồng và chủ động phòng tránh vi phạm.

1.2. Khái quát pháp luật về chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại

1.2.1. Nguồn pháp luật về chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại

Nguồn của pháp luật chính là hình thức biểu hiện của pháp luật, nguồn của pháp
luật về chế tài thương mại đối với vi phạm hợp đồng thương mại là các văn bản chứa
đựng các quy phạm pháp luật về chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại. Trong
pháp luật hiện hành của Việt Nam chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại chủ yếu
được quy định trong các văn bản sau:

Bộ luật dân sự

Bộ luật dân sự với tư cách là một nguồn chung điều chỉnh tất cả các quan hệ dân
sự theo nghĩa rộng, hợp đồng nói chung và hợp đồng thương mại nói riêng là một quan
16
hệ được Bộ luật dân sự điều chỉnh. Trong mối quan hệ giữa luật chung và luật riêng
người ta tìm tới những quy định của Bộ luật dân sự khi các văn bản pháp luật chuyên
ngành không có giải pháp điều chỉnh. Bộ luật dân sự được coi là nguồn chung khi mà
Luật thương mại không có quy định. Nếu luật thương mại quy định không đầy đủ về các
chế tài, điều kiện áp dụng, trường hợp miễn trách nhiệm, bất khả kháng,... thì ta tìm tới
các quy định trong Bộ luật dân sự để giải quyết vấn đề.

Luật thương mại 2005

Luật thương mại 2005 là văn bản tập chung điều chỉnh chính về chế tài cho vi phạm
hợp đồng thương mại. Luật Thương mại 2005 tại Chương VII mục 1 quy định về chế tài
gồm 15 điều từ điều 292 đến điều 316. Các điều luật này nói về 6 loại chế tài thương mại
cụ thể và những quy định về trường hợp miễn trách nhiệm…

Các văn bản pháp luật chuyên ngành khác

Trong các văn bản pháp luật chuyên ngành khác nhau có quy định về chế tài đối
với vi phạm hợp đồng thương mại: Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật kinh doanh bất động
sản,... Các văn bản này quy định những chế tài trong lĩnh vực chuyên biệt như kinh doanh
bảo hiểm, hàng hóa,... Ngoài ra, chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại còn có
thể được quy định trong các hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

1.2.2. Áp dụng chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại

a. Cơ sở áp dụng chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại

Các chế tài áp dụng cho việc vi phạm hợp đồng thương mại là những hình thức
của trách nhiệm hợp đồng bởi vậy khi muốn áp dụng ta cần phải có đủ điều kiện là căn
cứ, cơ sở cho việc áp dụng. Đối với trách nhiệm do vi phạm hợp đồng thì cơ sở của nó
chính là có hành vi vi phạm hợp đồng, lỗi, mỗi quan hệ nhân quả giữa các hành vi vi
phạm hợp đồng và hậu quả xảy ra

Vi phạm nghĩa vụ hợp đồng


17
Trách nhiệm hợp đồng chỉ có thể đặt ra khi có hành vi vi phạm hợp đồng, như
không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, thực hiện không đúng hoặc chậm trễ trong việc thực
hiện nghĩa vụ… Tuy nhiên không phải người vi phạm nghĩa vụ luôn phải chịu trách
nhiệm cho việc vi phạm nghĩa vụ hợp đồng mà hành vi đó phải trái pháp luật hay thỏa
thuận của các bên và không thuộc các trường hợp miễn trách nhiệm do bất khả kháng,
do lỗi hoàn toàn của người có quyền… Hợp đồng trên nguyên tắc cơ bản khi mà được
tại ra một cách hợp pháp thì nó được coi là có hiệu lực như luật đối với các bên giao kết.
Những ràng buộc các nghĩa vụ trong hợp đồng được pháp luật bảo vệ, người có nghĩa vụ
phải thi hành nghiêm chỉnh nghĩa vụ đã cam kết. Những xử sự không phù hợp với thỏa
thuận của các bên, trái với pháp luật, tập quán sẽ là bất hợp pháp và là cơ sở của trách
nhiệm hợp đồng. Bộ luật dân sự 2015 và Luật thương mại 2005 điều quy định vi phạm
hợp đồng là không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ hợp đồng.
Điều 351 Bộ luật dân sự 2015 và khoản 12 điều 3 Luật thương mại 2005 quy định: “Vi
phạm hợp đồng là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ theo thoả thuận giữa các bên hoặc theo quy định của Luật này”.
Như vậy theo pháp luật Việt Nam, khi một bên không thực hiện, thực hiện không đúng
nghĩa vụ bị coi là vi phạm và là cơ sở của trách nhiệm hợp đồng.

(2) Có thiệt hại

Có thiệt hại vật chất đối với bên bị vi phạm mà thiệt hại có thể là những tổn thất
về tài sản, giảm sút uy tín, những chi phí hợp lý mà bên bị vi phạm phải bỏ ra để ngăn
chặn thiệt hại, khoản lợi nhuận bị mất. Đối với biện pháp bồi thường thiệt hại thì mục
đích là nhằm đặt nguyên đơn vào vị trí mà họ có thể được hưởng nếu khi không có sự vi
phạm hợp đồng hoặc ít ra cũng là khôi phục lại tình trạng ban đầu nếu mà nguyên đơn
không giao kết hợp đồng do tin vào lời hứa của bị đơn. Luật thương mại 2005 không
nhắc tới những thiệt hại về tinh thần do vi phạm hợp đồng gây ra có được bồi thường.
Trong một vụ việc thực tế mà trọng tài đã giải quyết, tổn thất về uy tín cũng được bồi
thường. Trong vụ tranh chấp hợp đồng mua bán giày nữ, trọng tài cho rằng: “Uy tín
thương mại của một thương nhân sẽ bị ảnh hưởng khi họ không thể thỏa mãn được phần
18
lớn các đơn hàng đã ký với khách hàng và xem xét những suy giảm về lợi nhuận và
những số liệu kinh doanh với các khách hàng đã có đơn hàng với nguyên đơn trong thời
gian bị vi phạm so với trước đó”

(3) Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại

Không phải tất cả vi phạm nào cũng đều là cơ sở của trách nhiệm hợp đồng và
không phải bất kỳ thiệt hại nào xảy ra trong quan hệ nghĩa vụ cũng đều do bên vi phạm
gánh chịu.

Quan hệ nhân quả là mối quan hệ tất yếu tự nhiên của một số sự vật hiện tượng
trong tự nhiên và xã hội, trong đó có những sự vật hiện tượng này là nguyên nhân và
những sự vật hiện tượng kia là kết quả. Trong khoa học luật, quan hệ nhân quả là quan
hệ giữa hành vi vi phạm nghĩa vụ và hậu quả xảy ra, trong đó hành vi vi phạm nghĩa vụ
là nguyên nhân còn thiệt hại là kết quả tất yếu. Hành vi phải xuất hiện trước khi thiệt hại
xảy ra, quan hệ giữa hành vi và hậu quả xảy ra đặt trong mối quan hệ nội tại tất yếu của
sự vật hiện tượng. Bên có hành vi vi phạm nghĩa vụ chỉ phải bồi thường những thiệt hại
có nguyên nhân trực tiếp từ hành vi vi phạm. Tuy nhiên một mối quan hệ không thể đi
quá xa vời một các không hợp lý để bắt người vi phạm phải bồi thường hay nói cách
khác những hành vi vi phạm nghĩa vụ và hậu quả (thiệt hại) chỉ có thể dự đoán được
trước bởi một người bình thường, minh mẫn, cẩn trọng thì người bị vi phạm mới phải
bồi thường. Trong nhiều trường hợp thiệt hại xảy ra bắt nguồn từ nhiều hành vi khác
nhau bởi vậy, để có thể xác định chính xác trách nhiệm của bên có nghĩa vụ thì nhất thiết
phải xem xét một cách thận trọng những gì là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hậu quả của
thiệt hại xảy ra.

(4) Có lỗi

Điều 364 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định lỗi trong trách nhiệm dân sự như sau:

“Điều 364. Lỗi trong trách nhiệm dân sự

19
Lỗi trong trách nhiệm dân sự bao gồm lỗi cố ý, lỗi vô ý.

Lỗi cố ý là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại
cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy không mong muốn nhưng để
mặc cho thiệt hại xảy ra.

Lỗi vô ý là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng
gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước
hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra
hoặc có thể ngăn chặn được”.

Mặc dù pháp luật không định nghĩa về lỗi nhưng trong khoa học pháp lý lỗi
được hiểu là thái độ tâm lý chủ quan của người vi phạm nghĩa vụ dân sự, phản ánh nhận
thức của người đó đối với hành vi và hậu quả của hành vi mà họ đã thực hiện. Theo luật
La Mã, lỗi là sự không tuân thủ hành vi mà pháp luật yêu cầu. Pháp luật Việt Nam là sự
kế thừa pháp luật La Mã, coi lỗi trong dân sự là lỗi suy đoán tức là người vi phạm có
nghĩa vụ chứng minh không có lỗi, còn người có quyền thì chứng minh người có nghĩa
vụ không thực hiện, hãy thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ.

Lỗi là hành vi của chủ thể gây thiệt hại cho người khác, dựa theo ý chí của chủ
thể phạm lỗi pháp luật phân lỗi thành 02 loại là lỗi vô ý và lỗi cố ý.

-Lỗi cố ý: Cố ý được hiểu là ý chí chủ quan của một người, bằng hành vi của
mình mong muốn sự việc xảy ra. Căn cứ quy định trên, lỗi cố ý là trường hợp một người
nhận thức rõ ràng hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và
mong muốn hoặc tuy không mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.

-Lỗi vô ý: Vô ý được hiểu là ý chí của một người không biết trước được, cũng
không mong muốn hành vi của mình sẽ gây thiệt hại. Theo quy định trên, lỗi vô ý là
trường hợp một người không thấy trước hành vi của minh có khả năng gây thiệt hại, mặc
dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình
có thể gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.

20
Bất kỳ cũng biết nếu bị hành vì đó tác động thì thiệt hại sẽ xảy ra, nhưng bên vi phạm lại
không thấy trước điều đó mặc dù phải thấy. Vì vậy, bên vi phạm vẫn phải chịu trách
nhiệm về hành vi của mình tùy theo mức độ vi phạm mà pháp luật quy định.

Trong trách nhiệm hợp đồng nói chung thì yếu tố lỗi được suy đoán. Những
cam kết, nghĩa vụ đặt ra trong hợp đồng là cái mà pháp luật buộc các bên phải thực hiện
đúng do vậy không thực hiện đương nhiên bị coi là có lỗi, không cần biết là hình thức
lỗi gì, trừ trường hợp chứng minh rằng không thể thực hiện được do bất khả kháng hoặc
hoàn toàn do lỗi của bên có quyền

Luật thương mại 2005 không có lỗi là cơ sở duy nhất phát sinh trách nhiệm hợp
đồng tại Điều 294 và Điều 303. Một bên không thực hiện được nghĩa vụ của mình đã
cam kết trong hợp đồng và không thuộc trường hợp miễn trách nhiệm thì đương nhiên
phải chịu trách nhiệm hợp đồng. Đây là trường hợp trách nhiệm khách quan, dựa trên lỗi
mặc nhiên.

b. Nguyên tắc áp dụng chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại

Chế tài do các bên lựa chọn và áp dụng

Xuất phát từ nguyên tắc tự do khế ước, các bên có quyền thỏa thuận về mọi thứ
mà không trái pháp luật, trái đạo đức xã hội nên các bên trong quan hệ hợp đồng có
quyền thỏa thuận về mọi biện pháp trách nhiệm, chế tài áp dụng khi mà hợp đồng bị vi
phạm. Những thỏa thuận hợp pháp của các bên có hiệu lực, được pháp luật bảo vệ, và
người thứ ba cũng như các cơ quan tài phán tòa án, trọng tài tôn trọng. Trên nguyên tắc
tự định đoạt của đương sự tòa án hay trọng tài chỉ xem xét, giải quyết khi có bên yêu cầu
cho nên tòa án, trọng tài không thể tự mình áp dụng chế tài đối với bên vi phạm hợp đồng
khi mà các bên không có yêu cầu. Tòa án hay trọng tài chỉ có thể xem về tính hợp pháp
của biện pháp chế tài được yêu cầu áp dụng, phạm vi thiệt hại phải bồi thường hay số
tiền phạt vi phạm hợp lý… Bên bị vi phạm áp dụng biện pháp chế tài nào là do tự họ
quyết định để bảo vệ lấy quyền lợi của mình

21
Nhiều chế tài có thể cùng lúc áp dụng cho một vi phạm cụ thể

Hợp đồng bị vi phạm, để bảo vệ những quyền lợi chính đáng của mình người bị
vi phạm có yêu cầu áp dụng cùng lúc nhiều biện pháp chế tài khác nhau khi mà các biện
pháp chế tài được áp dụng không mâu thuẫn với nhau về bản chất, không logic. Như biện
pháp buộc thực hiện hợp đồng và huỷ hợp đồng, đình chỉ hợp đồng hoàn toàn trái ngược
nhau về bản chất, hậu quả nên không thể cùng áp dụng. Khi những biện pháp đã áp dụng
không bảo vệ được quyền lợi chính đáng của mình bên bị vi phạm có thể áp dụng các
chế tài khác mạnh hơn. Việc áp dụng các biện pháp chế tài khác không làm mất đi quyền
yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại của bên bị thiệt hại.

Không áp dụng các biện pháp chế tài khi những vi phạm thuộc trường hợp miễn
trách nhiệm

Điều 294, Luật Thương mại 2005 quy định các trường hợp khi mà bên vi phạm
nghĩa vụ hợp đồng không phải chịu trách nhiệm đối với việc vi phạm nghĩa vụ. Bên vi
phạm nghĩa vụ chứng minh rằng mình thuộc một trong những trường hợp miễn trách
nhiệm thì không thể áp dụng chế tài.

c. Điều kiện áp dụng đối với các chế tài cụ thể

Không phải tất cả các biện pháp chế tài khi áp dụng đều cần đầy đủ cả bốn cơ sở
đó là có hành vi vi phạm, có thiệt hại xảy ra, có lỗi và có mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi vi phạm và thiệt hại xảy ra. Bởi vậy đối với mỗi chế tài có những điều kiện để
áp dụng riêng

Điều kiện áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng

Như đã phân tích tại phần chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng ở trên, buộc thực
hiện đúng hợp đồng là sự cưỡng chế của nhà nước bắt buộc bên vi phạm phải thực hiện
đúng những gì mà mình đã cam kết trong hợp đồng. Như vậy chỉ cần có việc không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ hợp đồng thì bên bị vi phạm luôn có quyền

22
yêu buộc bên bị vi phạm thực hiện đúng hợp đồng. Ví dụ như bên cung ứng hàng hoá
không đúng chủng loại, chất lượng không đúng như thỏa thuận, giao thiếu hàng, hàng
hóa có khuyết tật, không thanh toán đủ... Thi bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi
phạm thực hiện đúng hợp đồng, sửa chữa khuyết tật, bổ sung hàng hóa còn thiếu, thanh
toán số tiền còn thiếu...

Luật Thương mại 2005 không có những quy định về trường hợp buộc thực hiện
hợp đồng bị loại trừ khi áp dụng biện pháp phạt vi phạm hay bồi thường thiệt hại ( quyền
giải thoát khỏi hợp đồng khi bên vi phạm đã trả một khoản phạt, bồi thường cho việc
không thực hiện hợp đồng) và những loại nghĩa vụ hợp đồng mà ở đó biện pháp buộc
thực hiện hợp đồng là không có ý nghĩa hoặc hậu quả, chi phí phải bỏ ra để thực hiện là
quả bất hợp lý, phương thức để thực hiện đúng nghĩa vụ là không hợp lý, chi phí quá cao
so với giá trị của phần hợp đồng phải thực hiện.

Điều kiện áp dụng đối với chế tài bồi thường thiệt hại

Chế tài bồi thường thiệt hại được áp dụng khi mà không thuộc các trường hợp
được miễn trách nhiệm và có thiệt hại xảy ra có nguyên nhân trực tiếp từ hành vi vi phạm
nghĩa vụ được cam kết trong hợp đồng. Yếu tố lỗi được bỏ qua vì bên vi phạm muốn
không phải bồi thường thì phải chứng minh được rằng mình thuộc trường hợp miễn trách
nhiệm do pháp luật quy định hoặc do thoả thuận.

Nghĩa vụ chứng minh tổn thất thuộc về bên bị vi phạm. Trên nguyên tắc thiện chí,
trung thực thì bên bị vi phạm có nghĩa vụ hành động để hạn chế tổn thất, thiệt hại xảy ra
như bán hàng hoá cho người khác, mua hàng hoá thay thế, thực hiện các biện pháp khác
thích hợp để hạn chế tổn thất có thể xảy ra. Nếu không, toà có thể xem xét giảm số tiền
bồi thường thiệt hại cho người vi phạm hợp đồng, bên bị vi phạm không có nghĩa vụ bồi
thường đối với những thiệt hại mà đáng lẽ ra có thể hạn chế hoặc không có nếu người bị
vi phạm hành động một cách tích cực để hạn chế nó. Nghĩa vụ hạn chế tổn thất của người
bị vi phạm được đặt ra để tránh cho họ lạm dụng quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại của

23
mình gây ra thiệt hại, lãng phí kinh tế không cần thiết cho xã hội và nghĩa vụ thiện chí,
trung thực là nguyên tắc cơ bản được đặt ra.

Thiệt hại trên nguyên tắc phải được bồi thường toàn bộ những việc áp dụng bồi
thường thiệt hại không được làm lợi cho người bị thiệt hại, người vi phạm chỉ bồi thường
cho những thiệt hại đã gây ra.

Điều kiện áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng và tạm
ngừng thực hiện hợp đồng

Ba chế tài này có cùng chung điều kiện áp dụng nhưng mà hậu quả của nó khác
nhau dẫn đến phải có sự quy định rõ ràng điều kiện áp dụng từng loại trong pháp luật.

Luật Thương mại 2005 quy định không thể áp dụng ba chế tài trên cho những vi
phạm hợp đồng không cơ bản, nên có thể coi đây là điều kiện chung cho việc áp dụng ba
chế tài trên. Điều 293 của đạo luật này quy định: "Trừ trường hợp có thoả thuận khác,
bên bị vi phạm không thể áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ hợp
đồng, hủy bỏ hợp đồng đối với những vi phạm không cơ bản”. Như vậy, trên nguyên tắc
tôn trọng tự do ý chí các các chế tài được áp dụng khi mà xảy ra các trường hợp mà các
bên thỏa thuận là điều kiện áp dụng các chế tài. Chỉ áp dụng các chế tài này khi vi phạm
hợp đồng được coi là cơ bản.

Vi phạm cơ bản theo giải thích tại khoản 13, Điều 3, Luật Thương mại 2005 như
sau: vi phạm cơ bản là sự vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến
mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng hợp đồng.
Định nghĩa về vi phạm cơ bản trên của luật thương mại không được chính xác, nếu phân
tích ngôn ngữ của điều luật thì chỉ khi có thiệt hại xảy ra do việc vi phạm nghĩa vụ mới
làm cho bên kia không đạt được mục đích của hợp đồng thì mới coi là vi phạm cơ bản,
Đặt ngược lại, nếu không có thiệt hại xảy ra những việc vi phạm nghĩa vụ được coi là
chủ yếu, cơ bản làm cho mục đích của hợp đồng không đạt được thì có được coi là vi
phạm cơ bản hay không? Thiết nghĩ là hoàn toàn hợp lý khi chỉ cần một bên vi phạm

24
nghĩa vụ chủ yếu và nghiêm trọng hợp đồng thi được xem là vi phạm cơ bản mà không
cần phải có thiệt hại xảy ra.

Các chế tài trên chỉ áp dụng khi không thuộc trường hợp được miễn trách nhiệm.

Điều kiện áp dụng chế tài phạt vi phạm

Pháp luật hiện hành của Việt Nam coi phạt vi phạm là một điều khoản của hợp
đồng, do các các bên thỏa thuận. Do vậy chế tài này chỉ áp dụng khi các bên có thỏa
thuận rõ ràng trong hợp đồng về nó. Không giống như trước kia phạt vi phạm còn do
pháp luật quy định, hiện nay chỉ còn duy nhất phạt vi phạm do thoả thuận. Khi nghĩa vụ
bị vi phạm và có thoả thuận về việc trả một khoản tiền phạt khi vi phạm đã là đủ căn cứ
để áp dụng mà không cần phải tính toán thiệt hại.

Cũng như áp dụng các chế tài khác, không áp dụng chế tài nếu thuộc trường hợp
được miễn trách nhiệm.

d.Các trường hợp miễn trách nhiệm

Miễn trách nhiệm hợp đồng là việc một bên khi vi phạm hợp đồng không phải
chịu trách nhiệm đối với việc vi phạm hợp đồng của mình theo thoả thuận trong hợp
đồng hoặc các trường hợp do pháp luật quy định.

Luật Thương mại 2005, Điều 294 quy định các trường hợp miễn trách nhiệm:

“1. Bên vi phạm hợp đồng được miễn trách trong các trường hợp sau đây:

a) Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thoả thuận;

b) Xảy ra sự kiện bất khả kháng;

c) Hành vi vi phạm của một bên hoàn sản do lỗi của bên kia;

25
d) Hành vi vi phạm của bên kia do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà

nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng.

2. Bên vi phạm hợp đồng có nghĩa vụ chứng minh các trường hợp miễn trách
nhiệm."

(1) Trường hợp có thoả thuận về miễn trách nhiệm

Trên nguyên tắc tôn trọng tự do ý chí của các bên trong quan hệ hợp đồng và hợp
đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực như luật đối với các bên giao kết. Bởi vậy, khi
xảy ra trường hợp vi phạm nghĩa vụ mà các bên đã thoả thuận là miễn trách nhiệm thì
bên vi phạm được miễn trách nhiệm. Tuy nhiên pháp luật một số nước coi những trường
hợp điều khoản về miễn trách nhiệm bị coi là vô hiệu để bảo vệ người tiêu dùng khi nó
được sử dụng để hạn chế trách nhiệm của thương nhân. Ngoài ra, đối với những vi phạm
do một bên cố tình thực hiện nhằm gây thiệt hại cho bên kia mặc dù là có thoả thuận về
miễn trách nhiệm nhưng tòa có thể vẫn bắt bên vi phạm phải chịu trách nhiệm khi bên bị
vi phạm có yêu cầu để bảo vệ bên bị yếu thế trong các quan hệ kinh tế. Nó được coi là
sự thiếu đạo đức nghiêm trọng của thương nhân và phải chịu trách nhiệm cho những tỷ
phạm này (miễn trách nhiệm bị loại trừ). Pháp luật thương mại Việt Nam không thấy có
những quy định tương tự như vậy dẫn đến nhiều hạn chế trong việc giải quyết các tranh
chấp hợp đồng.

(2) Trường hợp bất khả kháng

Sự kiện bất khả kháng là những sự kiện khách quan, bất ngờ các bên không thể
lường trước được, không thể ngăn cản hay kiểm soát, hạn chế được khi đã áp dụng mọi
khả năng, biện pháp cần thiết. Các dầu hiệu của bất khả kháng bao gồm:

-Là một sự kiện khách quan không phụ thuộc vào ý chí của các bên.

-Sự kiện đó không thể lường trước được, các bên không thể nào biết được về sự
xảy ra của nó cũng như không thể dự đoán về sự kiện đó sẽ xảy ra.
26
-Bên vi phạm không thể nào kiểm soát được sự xảy ra của nó, người vi phạm
không thể tránh né được sự xảy ra của nó cũng như những thiệt hại do sự kiện đó gây ra.

(3) Trường hợp hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia

Hành vi vi phạm nghĩa vụ của một bên do lỗi hoàn toàn của bên có quyền nên bên
vi phạm không phải chịu trách nhiệm bởi anh ta hoàn toàn không có lỗi trong việc không
thực hiện đúng nghĩa vụ. Vì sự cố tỉnh chỉ dẫn sai, che giấu những thông tin quan trọng
cho việc thực hiện đúng nghĩa vụ, hay sự thiếu quan tâm, mẫn cán tới việc thông tin cho
bên có nghĩa vụ không đúng từ đó mà bên có nghĩa vụ hành động một cách sai trái, vi
phạm nghĩa vụ thì người có quyền phải tự chịu trách nhiệm bởi lỗi của mình. Người có
quyền cũng có thể ngăn cản, chậm tiếp nhận nghĩa vụ… mà người có nghĩa vụ thực hiện
dẫn tới những thiệt hại thì họ cũng phải tự chịu trách nhiệm, người vi phạm nghĩa vụ
được miễn trách nhiệm trong trường hợp như vậy

(4) Trường hợp thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà
không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng

Thực tiễn xảy ra không ít trường hợp tranh chấp liên quan tới việc hợp đồng không
được thực hiện hay thực hiện không đúng do một trong các bên phải thi hành quyết định
của cơ quan nhà nước dẫn tới vi phạm nghĩa vụ. Ví dụ: Ngày 22/02/2006 doanh nghiệp
của Việt Nam ký hợp đồng mua bán gạo với một doanh nghiệp Nhật Bản. Hàng được
giao từ ngày 01/01/2007 chậm nhất vào ngày 22/02/2007. Nhưng bên doanh nghiệp Việt
Nam đã không thể xuất được hàng do lệnh tạm dừng xuất khẩu gạo của Chính phủ để
đảm bảo an ninh lương thực trong nước. Hợp đồng không được thực hiện nên dẫn đến
tranh chấp doanh nghiệp Việt Nam bị khởi kiện. Trong vụ việc này doanh nghiệp Việt
Nam có thể viện dẫn việc không xuất khẩu được gạo theo hợp đồng là do phải thực hiện
lệnh ngừng xuất khẩu gạo của Chính phủ mà họ không thể dự đoán trước được vào thời
điểm khị hợp đồng được ký kết vi Việt Nam vẫn là nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.
Hợp đồng không thể thực hiện do yếu tố khách quan ngoài ý chí và sự dự đoán trước của
các bên lên bên doanh nghiệp Việt Nam có thể được miễn trách nhiệm

27
Tuy nhiên Luật Thương mại 2005 không có quy định chi tiết về cơ quan quản lý
nhà nước cấp nào có quyền chính phủ, uỷ ban nhân dân các cấp hay quyết định của các
cơ quan khác như toà án (biện pháp khẩn cấp tạm thời) cơ quan thi hành án, hội đồng
cạnh tranh...

1.2.3. Phân loại chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại

Luật Thương mại 2005 liệt kê sáu chế tài cụ thể có thể được áp dụng đối với các
vi phạm hợp đồng thương mại tại Điều 292. Ngoài các chế tài đó, đạo luật này còn cho
phép các bên có thể sáng tạo ra các thể loại chế tài khác. Người áp dụng pháp luật không
thể từ chối yêu cầu áp dụng các chế tài do các bên sáng tạo bởi sự thỏa thuận. Đây là
điểm tiến bộ của Luật Thương mại 2005 so với Luật Thương mại 1997. Luật Thương
mại 1997 chỉ ghi nhận bốn thể loại chế tài cụ thể là buộc thực hiện đúng hợp đồng, bồi
thường thiệt hại, phạt vi phạm, và hủy bỏ hợp đồng. Căn cứ vào chế tài có được quy định
bởi luật hay không, có thể phân loại chế tài thành chế tài do luật định và chế tài do thỏa
thuận. Việc phân loại này có ý nghĩa trong việc áp dụng chế tài. Các điều kiện áp dụng
từng loại chế tài do luật định phải căn cứ vào luật. Còn đối với các chế tài do các bên tự
thỏa thuận: nếu trong thỏa thuận đó có cả các điều kiện áp dụng thì phải căn cứ vào các
điều kiện đó; nếu không có các điều kiện áp dụng trong thỏa thuận đó thì có thể áp dụng
các điều kiện tương tự hoặc áp dụng theo lẽ công bằng. Chế tài do luật định thông thường
rõ ràng và dễ áp dụng hơn so với chế tài có được do sự thỏa thuận. Chế tài do luật định
thường có các điều kiện áp dụng đi kèm và bản thân nó đã được dùng quen dùng bởi các
cơ quan tài phán. Còn chế tải do thỏa thuận ít khi có bộ các điều kiện áp dụng đi kèm và
các cơ quan tài phán ít khi sử dụng. Do đó trong chừng mực nào đó, chế tài loài này gây
ra những khó khăn nhất định cho người áp dụng.

Điều 292 của Luật Thương mại 2005 có quy định sáu thể loại chế tài cụ thể, bao
gồm: (1) buộc thực hiện đúng hợp đồng; (2) phạt vi phạm; (3) buộc bồi thường thiệt hại;
(4) tạm ngừng thực hiện hợp đồng; (5) đình chỉ thực hiện hợp đồng; và (6) hủy bỏ hợp
đồng. Có thể nhận xét: ba thể loại chế tải được liệt kê đầu tiên tại điều luật này là các chế

28
tài chung đối với bất kể vi phạm hợp đồng nào; còn ba thể loại chế tài liệt kê tiếp theo là
các chế tài chỉ áp dụng đối với các vi phạm hợp đồng thương mại (loại hợp đồng song
vụ có đền bù). Vì vậy căn cứ vào đó, có thể chia các thể loại chế tài thành chế tài áp dụng
chung đối với vi phạm bất kể loại hợp đồng nào và chế tài chỉ áp dụng đối với các vi
phạm hợp đồng song vụ có đền bù.

Tuy nhiên pháp luật Việt Nam có quy định chế tài phạt vi phạm khác với các nước
theo truyền thống Common Law. Các nước theo truyền thống Common Law không chấp
nhận chế tài phạt vi phạm hợp đồng vị cho đó là một sự trừng phạt. Họ cho rằng các chế
tài chỉ mang tính chất đền bù, do đó mọi thỏa thuận về một khoản phạt vi phạm hợp đồng
bị bác bỏ. Đây là một điểm tranh luận khá nhiều về mặt học thuật, nhất là về chức năng
của chế tài phạt vi phạm hợp đồng.

Cần lưu ý rằng chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại không trùng khít với
chế tài thương mại, có nghĩa là nội hàm của chế tài thương mại rộng hơn nội hàm của
chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại. Chế tài thương ngại còn bao hàm cả các
chế tài liên quan tới vô hiệu hóa hợp đồng thương mại, vô hiệu hóa công ty thương mại,
liên quan tới tài sản kinh doanh...

29
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CHẾ TÀI ĐỐI
VỚI VI PHẠM HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI

2.1. Thực tiễn thi hành pháp luật Việt Nam về chế tài áp dụng đối với vi phạm
hợp đồng thương mại

2.1.1. Những bất cập trong việc áp dụng pháp luật về chế tài do vi phạm hợp
đồng thương mại

Hiện nay thì quy định của Luật thương mại 2005 vẫn còn nhiều bất cập cần khắc
phục như sau:

• Như đã biết buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc buộc một bên
phải thực hiện đúng những nghĩa vụ mà mình đã cam kết trong hợp đồng. Khoản
2 Điều 299 LTM quy định: “Trường hợp bên vi phạm không thực hiện chế tài
buộc thực hiện đúng hợp đồng trong thời hạn mà bên vi phạm ấn định, bên bị vi
phạm được áp dụng các chế tài khác để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình”.
Như vậy, khi bên vi phạm không thực hiện được chế tài buộc thực hiện đúng hợp
đồng thì chỉ phải chịu hình thức chế tài khác mà không phải chịu bất kỳ trách
nhiệm bổ sung nào. Đây là một điểm không chặt chẽ trong quy định của pháp luật
dẫn đến trên thực tế có nhiều chủ thể lợi dụng kẽ hở này trì hoãn việc thực hiện
nghĩa vụ hợp đồng. Mặt khác, cũng tại quy định của Luật thương mại 2005 có sự
mâu thuẫn như sau: Tại khoản 1 Điều 199 có quy định: “Trừ trường hợp có thỏa
thuận khác, trong thời gian áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, bên
bị vi phạm có quyền được yêu cầu bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm nhưng
không được áp dụng chế tài khác”. Các hình thức chế tài khác trong Luật thương
mại 2005 chính là tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng và
hủy bỏ hợp đồng. Tuy nhiên, tại khoản 3 Điều 51 của Luật này lại quy định như
sau: “bên mua có bằng chứng về việc bên bán đã giao hàng không phù hợp với
hợp đồng thì có quyền tạm ngừng thanh toán cho đến khi bên bán đã khắc phục
sự không phù hợp đó”. Theo điều luật này thì việc ngừng thanh toán chính là tạm
ngừng thực hiện hợp đồng. Như vậy trong trường hợp này bên mua có thể cùng
30
lúc áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng và chế tài tạm ngừng thực hiện
hợp đồng. Đây chính là điểm mâu thuẫn giữa quy định tại khoản 1 Điều 299 và
khoản 3 Điều 51 Luật thương mại 2005.

• Đối với chế tài phạt vi phạm: Theo quy định tại Điều 301 Luật
Thương mại năm 2005: “Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng
mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng, nhưng
không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm”. Theo quy định hiện
hành của pháp luật Việt Nam, có hai văn bản pháp luật có giá trị điều chỉnh quan
hệ về chế tài phạt vi phạm là Bộ luật Dân sự 2015 và Luật Thương mại 2005.
Theo Khoản 2 Điều 418 của Bộ luật Dân sự năm 2015 về mức phạt vi phạm được
áp dụng cho các quan hệ dân sự thì mức phạt vi phạm do các bên tự thỏa thuận.
Điều này có thể được hiểu là các bên có quyền tự ý lựa chọn mức phạt vi phạm
mà không hề bị khống chế bởi quy định của pháp luật. Quy định này xuất phát từ
nguyên tắc tự do thỏa thuận theo quy định của Luật Dân sự. Tuy nhiên Luật
Thương mại năm 2005 điều chỉnh thì mức phạt vi phạm bị hạn chế ở mức 8%. Ở
đây có sự khác biệt giữa hai văn bản khi cùng điều chỉnh một vấn đề. Vì thế,
chúng ta phải phân biệt được những quan hệ nào được Luật Dân sự điều chỉnh,
những quan hệ nào được Luật Thương mại điều chỉnh để có thể áp dụng một cách
chính xác. Theo Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại 2005 thì hoạt động thương mại
là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch
vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi. Những
quan hệ này khi có tranh chấp xảy ra và có điều khoản về phạt vi phạm thì sẽ áp
dụng mức phạt vi phạm tối đa là 8%. Vậy quy định này của pháp luật có hợp lý
hay không và có làm hạn chế quyền tự do thỏa thuận của các bên hay không?
• Đối với chế tài bồi thường thiệt hại: Các bồi thường thiệt hại do vi
phạm hợp đồng thương mại còn có sự khác biệt, chưa thống nhất giữa Bộ luật
Dân sự năm 2015 và Luật Thương mại năm 2005. Nếu Bộ luật Dân sự năm 2015
ghi nhận yếu tố lỗi là một trong căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại

31
thì Luật Thương mại 2005 không ghi nhận yếu tố lỗi. Bộ luật Dân sự 2015 yêu
cầu bên vi phạm phải bồi thường toàn bộ thiệt hại về vật chất và tinh thần cho bên
bị thiệt hại, trong khi đó Luật Thương mại 2005 lại xác định phạm vi bồi thường
thiệt hại là giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi
phạm gây ra và khoản lơi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu
không có hành vi vi phạm. Thứ hai, về giá trị bồi thường thiệt hại: Khoản 2, Điều
302, Luật Thương mại năm 2005 xác định giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá
trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra
và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành
vi vi phạm gây ra. Trong khi đó Bộ luật Dân sự năm 2015 lại cho phép các bên
có quyền thỏa thuận về bồi thường thiệt hại. Cụ thể các bên được thỏa thuận trước
mức bồi thường thiệt hại bằng cách xác định trước một khoản tiền bồi thường
thiệt hại cụ thể trong hợp đồng. Thứ ba, pháp luật Việt Nam về bồi thường thiệt
hại do vi phạm hợp đồng thương mại còn nhiều điểm chưa phù hợp, không tương
thích với pháp luật quốc tế. Cụ thể: về phạm vi thiệt hại được bồi thường thiệt hại
do vi phạm hợp đồng thương mại, pháp luật Việt Nam chưa quy định rõ vi phạm
bao gồm những thiệt hại phi tiền tệ (như thiệt hại do mất uy tín, thiệt hại do người
bị chết, bị thương…) và thiệt hại có tính đến mọi khoản lợi cho bên có quyền từ
một khoản chi phí hay tổn thất tránh được.

• Đối với chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng

Có hai căn cứ để áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng:

+ Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để tạm ngừng
thực hiện hợp đồng

+ Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng

Khi chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng được áp dụng, hậu quả pháp lý đối với
hợp đồng này là “hợp đồng vẫn còn hiệu lực” và “bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi
32
thường thiệt hại” nếu hành vi vi phạm đó gây thiệt hại cho bên bị vi phạm. Như vậy, về
mặt bản chất, việc tạm ngừng thực hiện hợp đồng không ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp
đồng và hợp đồng đó sẽ tiếp tục được thực hiện trong tương lai khi điều kiện áp dụng
chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng chấm dứt. Vấn đề đặt ra ở đây là sau khi áp dụng
biện pháp này, thời điểm nào sẽ được coi là chấm dứt việc tạm ngừng thực hiện hợp đồng?
Căn cứ nào để một bên yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng đã bị tạm ngừng thực hiện?
Việc tiếp tục thực hiện hợp đồng bị tạm ngừng thực hiện do bên tạm ngừng tự động thực
hiện hay theo yêu cầu của bên có hành vi vi phạm hợp đồng? Tất cả những yếu tố này
hiện nay đều chưa được tính đến trong Luật Thương mại, gây khó khăn cho các bên trong
quá trình thực hiện hợp đồng.

2.1.2. Nguyên nhân của những bất cập

Các bất cập lớn nếu trên của pháp luật Việt Nam về các thể loại chế tài đối với vi
phạm hợp đồng thương mại do các nguyên nhân chủ yếu sau đây:

• Chậm tiếp nhận những vấn đề tiến bộ trong các quy định tiên tiến của pháp luật nước
ngoài
• Do cách tiếp cận vấn đề không thống nhất giữa những người soạn thảo Bộ luật dân
sự 2015 và Luật thương mại 2005 dẫn đến những sự không phù hợp giữa các đạo luật
này (về giới hạn mức vi phạm; các thiệt hại xác định để bồi thường…)

2.2. Thực trạng vi phạm hợp đồng thương mại ở Việt Nam

TÌNH HUỐNG

Ngày 10/9/2016, bà H và công ty TV do bà T - giám đốc công ty TV, đã ký Hợp


đồng mua bán. Cụ thể, Bà H mua của công ty TV:

• 54.000kg cánh gà được sản xuất tại Brazil

• Đơn giá: 30.000đ/kg; thành tiền giá trị hợp đồng là 1.620.000.000đ

33
• Địa điểm giao hàng: tại Cảng Hải Phòng;

• Phương thức thanh toán: Bên mua thanh toán trước 30% tiền hàng
tương đương với 486.000.000 đ, số tiền còn lại sẽ được thanh toán khi hàng
hóa được giao nhận toàn bộ theo đúng thỏa thuận.

Mục đích mua hàng của bà H để kinh doanh. Các bên có thỏa thuận: “Hai bên
cam kết thực hiện nghiêm túc các điều khoản đã thỏa thuận trên, không được đơn phương
thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng, bên nào không thực hiện hoặc đơn phương đình chỉ thực
hiện hợp đồng mà không có lý do chính đáng sẽ bị phạt tới 3% giá trị của hợp đồng bị vi
phạm. Ngày 12/9/2016, bà H đã chuyển khoản cho bà T số tiền 486.000.000 đ qua số tài
khoản của bà T tại Ngân hàng BIDV theo Giấy nộp tiền mặt ngày 12/9/2016, người thụ
hưởng là T, người chuyển tiền là bà H.

Thời hạn thực hiện Hợp đồng là đến khi giao hàng xong, nhưng qua nhiều lần yêu
cầu thực hiện Hợp đồng nhưng phía công ty TV không thực hiện được, vì vậy bà H có
Công văn ngày 02/10/2017 gửi công ty TV yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng hoặc
hoàn trả số tiền đã thanh toán trước. Công ty TV có Công văn phúc đáp đề nghị được trả
dần số tiền bà H đã tạm ứng trước tuy nhiên bà H không đồng ý với yêu cầu trả dần tiền.
Ngày 25/10/2017, công ty TV đã bắt đầu thực hiện việc hoàn trả nợ cho bà H số tiền
2.000.000 đồng, đến ngày 21/12/2017, công ty TV trả thêm 1.000.000 đồng.

Tuy nhiên, bà H không đồng ý và buộc công ty TV hoàn trả tất cả số tiền cọc.

Trong tình huống trên, công ty TV phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán hoàn
trả tiền cho bà H như thế nào?

GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG

Căn cứ pháp luật hiện hành, nhóm xin giải quyết tình huống, đòi lại quyền lợi cho
bà H như sau:

34
• Ngày 12/9/2016: bà H đã chuyển khoản cho công ty TV
486.000.000 đồng theo đúng thỏa thuận, nhưng công ty TV đã không thực hiện
được và đúng cam kết về giao hàng cho bà H như thỏa thuận của hợp đồng. Vậy
công ty TV đã vi phạm Điều 34 Luật Thương mại 2005.

• Do không thực hiện được việc giao hàng cho bà H, ngày 25/10/2017,
công ty TV đã bắt đầu thực hiện việc hoàn trả nợ cho bà H số tiền 2.000.000 đồng,
đến ngày 21/12/2017, công ty TV trả thêm 1.000.000 đồng. Tức là, kể từ thời
điểm ngày 25/10/2017, công ty TV đã tự chấm dứt việc thực hiện nghĩa vụ của
Hợp đồng về việc giao hàng (cánh gà) cho bà H và bắt đầu tự thực hiện việc hoàn
trả lại tiền nợ cho bà H.

=> Công ty TV đã vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.

=> Áp dụng chế tài đình chỉ hợp đồng theo quy định tại khoản 2 Điều 310
Luật Thương mại 2005

“Điều 310. Đình chỉ thực hiện hợp đồng

Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này, đình
chỉ thực hiện hợp đồng là việc một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp đồng thuộc một
trong các trường hợp sau đây:

1. Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để đình chỉ
hợp đồng;

2. Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.”

Theo đó, căn cứ quy định tại khoản 1 điều 311 luật Thương mại 2005, bà H
được quyền yêu cầu công ty TV phải hoàn trả số tiền đã tạm ứng.

=> Công ty TV đã trả nợ cho bà H tổng số tiền 3.000.000 đồng, phải hoàn trả
cho bà H là 483.000.000 đồng.

35
• Áp dụng chế tài phạt vi phạm đối với công ty TV

• Điều 300 Luật Thương mại 2005 quy định “Phạt vi phạm là việc
bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng
nếu trong hợp đồng có thỏa thuận, trừ các trường hợp được miễn trách nhiệm
được quy định tại Điều 294 của Luật này.

• Điều 301 Luật Thương mại quy định “Mức phạt đối với vi phạm
nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thỏa
thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi
phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều 266 của Luật này”.

• Trong hợp đồng, các bên có thỏa thuận như sau: “Hai bên cam kết
thực hiện nghiêm túc các điều khoản đã thỏa thuận trên, không được đơn phương
thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng, bên nào không thực hiện hoặc đơn phương đình
chỉ thực hiện hợp đồng mà không có lý do chính đáng sẽ bị phạt tới 3% giá trị của
hợp đồng bị vi phạm”.

=> Việc thỏa thuận phạt vi phạm của các bên là hoàn toàn đúng với quy định
của pháp luật.

=> Mức phạt vi phạm cao nhất có thể là: 486.000.000 đồng (phần thanh toán
trước) x 03% = 14.580.000 đồng

Bà H có quyền yêu cầu công ty TV trả tiền lãi do chậm thanh toán

Căn cứ quy định tại Điều 306 Luật Thương mại “Trường hợp bên vi phạm hợp
đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp
lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả
đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng
với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật cổ quy định
khác”

36
=> Ngày 25/10/2017, công ty TV đã tự chấm dứt việc thực hiện nghĩa vụ hợp
đồng, nhưng công ty TV đã không hoàn trả đầy đủ số tiền bà H đã tạm ứng trước
cho Công ty TV, vì vậy thời điểm công ty TV phải chịu lãi quá hạn phải bắt đầu từ
ngày 25/10/2017. Lãi suất sẽ bằng với lãi suất quá hạn trung bình của các ngân hàng
thương mại trên thị trường tại thời điểm thanh toán.

CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT


VIỆT NAM VỀ CHẾ TÀI ĐỐI VỚI VI PHẠM HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI

3.1. Những yêu cầu đặt ra đối với với việc hoàn thiện pháp luật về chế tài đối
với vi phạm hợp đồng thương mại

Từ những bất cập trong thực tế và nguyên nhân đã phân tích, việc hoàn thiện
pháp luật về chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại cần đảm bảo những yêu cầu
sau đây để giảm thiểu tối đa và giải quyết những bất cập xảy ra trong quá trình thực
hiện cũng như áp dụng pháp luật về chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại.

3.1.1. Phù hợp với đường lối xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam

Cơ chế kế hoạch hóa tập trung tồn tại ở nước ta trong thời gian dài đã từng đóng
vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách kinh tế thời chiến nhưng khi đất nước
hoàn toàn độc lập và thống nhất hai miền Nam – Bắc thì cơ chế tập trung, bao cấp đã bộc
lộ nhiều bất cập, kìm hãm sự phát triển nền kinh tế. Chủ trương đổi mới và phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã thừa nhận và mở rộng quyền tự do kinh
doanh của các chủ thể tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển.

Do đó, việc hoàn thiện pháp luật về chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại nói
riêng và hoàn thiện pháp luật về hợp đồng nói chung cần đảm bảo phù hợp với đường
lối xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, chính là phát triển nền kinh

37
tế hàng hóa nhiều thành phần có sự định hướng của Nhà nước theo con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội. Pháp luật về chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại cần đảm bảo quyền
tự do kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế, trong đó có quyền tự do hợp đồng đã
được ghi nhận trong Hiến pháp và nhiều văn bản pháp luật hiện hành. Theo đó, các bên
có quyền tự do lựa chọn đối tác trong hợp đồng và tự do thỏa thuận những nội dung trong
hợp đồng không trái các quy định của pháp luật. Pháp luật cần mở rộng quyền thỏa thuận
của các bên, cho phép các bên ghi nhận trong hợp đồng các hình thức trách nhiệm sẽ
được áp dụng đối với bên vi phạm, pháp luật chỉ quy định những nguyên tắc chung và
đảm bảo khả năng áp dụng các hình thức chế tài để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các bên trong quan hệ hợp đồng ngay cả khi các bên không có thỏa thuận cụ thể. Bên
cạnh đó, cũng cần lược bỏ những quy định cứng nhắc nhằm hạn chế sự can thiệp không
cần thiết của Nhà nước vào những vấn đề mà các bên có thể tự do thỏa thuận.

3.1.2. Đảm bảo sự thống nhất của các văn bản pháp luật

Việc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng nói chung và pháp luật về chế tài do vi
phạm hợp đồng thương mại nói riêng hiện nay không thể tiến hành một cách độc lập mà
phải xét đến tính thống nhất, tính đồng bộ trong toàn hệ thống pháp luật, tránh những
quy định chồng chéo, mâu thuẫn đặc biệt phải xét đến mối quan hệ giữa Bộ luật Dân sự
với Luật Thương mại và các văn bản pháp luật chuyên ngành khác. Luật Thương mại đã
được sửa đổi theo hướng bỏ các quy định chung về hợp đồng thương mại như đề nghị
giao kết hợp đồng, chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, sửa đổi, bổ sung hợp đồng...
Những quy định mang tính chất nguyên tắc sẽ được tham chiếu trong Bộ luật Dân sự,
Luật Thương mại chỉ quy định các nội dung đặc thù về quyền và nghĩa vụ của các bên
trong một số hợp đồng được thương nhân xác lập phục vụ cho hoạt động thương mại của
mình như hợp đồng mua bán hàng hỏa, hợp đồng cung ứng dịch vụ, hợp đồng đại lý
thương mại…

Do đó, việc hoàn thiện pháp luật về chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại cũng
cần tiếp tục nghiên cứu theo hướng trên. Hoàn thiện các quy định về chế tài do vi phạm

38
hợp đồng thương mại cần có sự đối chiếu, so sánh và rà soát giữa các quy định trong
Luật Thương mại với nhau và với các quy định của Bộ luật Dân sự và các văn bản pháp
luật chuyên ngành khác để đảm bảo sự thống nhất và phù hợp.

3.1.3. Đảm bảo sự bình đẳng của các bên trong quan hệ hợp đồng

Trong quan hệ hợp đồng, pháp luật cần đảm bảo cho các bên được tự do, tự nguyện
giao kết trên cơ sở bình đẳng, không phân biệt hình thức sở hữu hay thành phần kinh tế.
Khi hợp đồng bị vi phạm, pháp luật cho phép bên bị vi phạm được áp dụng các hình thức
chế tài đối với bên vi phạm để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, bên cạnh đó,
pháp luật cũng phải đảm bảo cho bên vi phạm chỉ phải thực hiện những nghĩa vụ mà họ
phải gánh chịu theo hợp đồng và theo quy định của pháp luật. Hoàn thiện pháp luật về
chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại cần đảm bảo sự bình đẳng giữa bên bị vi phạm
và bên vi phạm, bên cạnh những quy định cho phép bên vi phạm được lựa chọn và áp
dụng các hình thức chế tài cũng cần có những quy định gắn với trách nhiệm của bên bị
vi phạm như nghĩa vụ chứng minh thiệt hại, nghĩa vụ hạn chế tổn thất, nghĩa vụ thông
báo. Đảm bảo sự bình đẳng của các bên trong quan hệ hợp đồng là cần thiết, góp phần
đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của các bên cũng như đảm bảo trật tự của nền kinh
tế.

3.1.4. Đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

Xu thế hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới đặt ra yêu cầu phải dần xóa
bỏ sự khác biệt không cần thiết trong pháp luật quốc gia so với luật pháp và tập quán
thương mại quốc tế, nhất là trong lĩnh vực pháp luật về hợp đồng. Đây là một đòi hỏi tất
yếu vì sự không phù hợp giữa pháp luật trong nước và pháp luật quốc tế sẽ là một rào
cản đối với quá trình phát triển kinh tế.

Các chuẩn mực chung của thương mại quốc tế đang được Việt Nam từng bước áp
dụng thông qua quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực thi các điều ước quốc tế.
Tuy nhiên, để học hỏi kinh nghiệm của pháp luật các nước và pháp luật quốc tế một cách

39
có chọn lọc và hiệu quả, đòi hỏi chúng ta phải có những nghiên cứu sâu sắc và toàn diện
về từng hệ thống pháp luật, về bản chất, cấu trúc cũng như phương thức vận hành của
nó, bên cạnh đó là những điều kiện kinh tế xã hội mà nó sinh ra và tồn tại. Đây là một
quá trình nghiên cứu đòi hỏi sự đầu tư lớn và lâu dài. Trước tiên cần có sự nghiên cứu
và quy định cụ thể về các quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài, việc hoàn thiện pháp
luật phải có sự tham khảo thông lệ quốc tế và phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt
Nam tham gia và ký kết nhằm đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.

3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về chế tài đối với vi phạm
hợp đồng thương mại

Pháp luật nói chung và pháp luật về thương mại nói riêng là một trong những công
cụ của Nhà nước trong việc quản lý nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để bảo vệ quyền tự do kinh doanh, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh doanh thì pháp luật phải phù hợp với thực tiễn
của cuộc sống; các quy định của pháp luật phải rõ ràng, minh bạch, không được chồng
chéo, không được mâu thuẫn với nhau. Một số ý kiến đề xuất có thể góp phần hoàn thiện
chế tài phạt vi phạm hợp đồng thương mại như sau:

3.2.1. Bổ sung quy định thống nhất cách hiểu về thời điểm tồn tại của điều
khoản phạt vi phạm

Phạt vi phạm hợp đồng là một biện pháp chế tài thương mại được đặt ra khi các
bên chủ thể có sự thỏa thuận về chế tài này. Vì thế chế tài phạt vi phạm hợp đồng sẽ
không được đặt ra kể cả trong trường hợp hợp đồng có sự vi phạm mà các bên không
thỏa thuận. Theo tinh thần của Luật Thương mại năm 2005, điều khoản này phải được
ghi nhận là một điều khoản trong hợp đồng, trong khi đó nếu sau khi hợp đồng đã có
hiệu lực pháp luật, đã được các bên chủ thể thực hiện nhưng sau đó muốn có thỏa thuận
về điều khoản phạt vi phạm hợp đồng thì các bên có thể thiết lập phụ lục hợp đồng độc
lập với hợp đồng về điều khoản này hay không? Khi hợp đồng đã được thực hiện và chưa
phát sinh ra hành vi vi phạm hợp đồng thì việc các bên đã có một thỏa thuận nào đó về

40
phạt vi phạm hợp đồng mà độc lập với hợp đồng thì pháp luật nên quy định mở rộng
thêm về trường hợp này nhằm đảm bảo tối đa được quyền và lợi ích cho các bên tham
gia hợp đồng.

Thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng phải tồn tại vào thời điểm bên bị vi phạm
đưa ra yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng và không nhất thiết phải tồn tại trước khi hành
vi vi phạm hợp đồng xảy ra. Chế tài phạt vi phạm là một chế tài thỏa thuận. Do đó, cần
tôn trọng thỏa thuận và ý chí của các bên. Khi xảy ra hành vi vi phạm nhưng các bên
vẫn thỏa thuận được về việc phạt vi phạm đồng nghĩa với việc hai bên đã thống nhất
được một ý kiến chung và ý kiến đó cần được tôn trọng.

3.2.2. Thống nhất quy định của Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại trong
mối quan hệ giữa hai chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại.

Hiện nay, quy định của Luật Thương mại năm 2005 có phần chính xác về mặt bản
chất hơn so với các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015. Vì chế tài bồi thường thiệt
hại được áp dụng dựa trên thiệt hại thực tế xảy ra. Do đó, nếu chỉ áp dụng chế tài phạt vi
phạm thì trong nhiều trường hợp, mức phạt vi phạm sẽ không đủ khắc phục thiệt hại xảy
ra cho người bị vi phạm. Chỉ trong trường hợp các bên không có thỏa thuận về phạt vi
phạm mà có thiệt hại do vi phạm hợp đồng xảy ra, bên bị vi phạm mới đương nhiên được
quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. Điều này làm cho quy định của Bộ luật Dân sự năm
2015 về bồi thường thiệt hại trong các trường hợp không có sự thống nhất. Tức là, có
trường hợp chế tài bồi thường thiệt hại chỉ được áp dụng nếu có thỏa thuận, nhưng lại có
trường hợp đương nhiên được áp dụng khi có thiệt hại xảy ra. Vì thế, cần thống nhất quy
định này giữa hai văn bản để tránh sự mâu thuẫn nhau.

Từ những phân tích nêu trên có thể thấy rằng, hiện nay, các quy định về phạt vi
phạm trong hoạt động thương mại còn nhiều vấn đề chưa rõ ràng, thống nhất và phù hợp
với tình hình mới. Điều này đã, đang và sẽ gây ra những hạn chế nhất định trong việc
hiểu và áp dụng các quy định pháp luật về vấn đề này trên thực tế. Chính vì vậy, việc
nghiên cứu, đánh giá, xem xét và tiếp tục hoàn thiện các chế định pháp luật về phạt vi

41
phạm trong hoạt động thương mại hiện nay là điều rất quan trọng và cấp thiết. Đặc biệt
là việc hoàn thiện các quy định về vấn đề liên quan đến thời điểm tồn tại của điều khoản
phạt vi phạm, mức phạt vi phạm, mối quan hệ giữa chế tài phạt vi phạm và chế tài bồi
thường thiệt hại giữa Luật Thương mại năm 2005 và Bộ luật Dân sự năm 2015. Khi các
vấn đề này được hoàn thiện theo hướng đề xuất sẽ là điều kiện cần thiết để giúp hoạt
động thương mại được diễn ra hiệu quả, đáp ứng với các yêu cầu hội nhập quốc tế trong
bối cảnh mới.

3.2.3. Hoàn thiện quy định về quan hệ giữa chế tài buộc thực hiện đúng hợp
đồng và các hình thức chế tài khác
Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực
hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên
vi phạm phải chịu chi phí phát sinh. Bản chất của hình thức này là bên vi phạm nghĩa vụ
hợp đồng phải tiếp tục thực hiện hợp đồng theo yêu cầu của bên bị vi phạm.

Khoản 1 Điều 299 Luật Thương mại năm 2005 quy định về mối quan hệ giữa chế
tài buộc thực hiện đúng hợp đồng và các hình thức chế tài khác, theo đó: “Trừ trường
hợp có thỏa thuận khác, trong thời gian áp dụng chế tài buộc thực hiện hợp đồng, bên
bị vi phạm có quyền được yêu cầu bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm nhưng không
được áp dụng chế tài khác". Tuy nhiên, quy định trên còn có sự mâu thuẫn với quy định
tại Khoản 3 Điều 51 Luật Thương mại năm 2005 (khi bên bán giao hàng không phù hợp
với hợp đồng, thì bên mua có quyền tạm ngừng thanh toán cho đến khi bên bán đã khắc
phục sự không phù hợp đó). Việc tạm ngừng thanh toán của bên mua chính là việc tạm
ngừng thực hiện hợp đồng. Như vậy, trong thời gian bên mua áp dụng chế tài buộc bên
bán thực hiện đúng hợp đồng, bên mua vẫn có quyền tạm ngừng thực hiện hợp đồng chứ
không chỉ có quyền đòi bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm. Bởi vậy, Luật Thương mại
năm 2005 cần được sửa đổi theo hướng trong thời gian áp dụng chế tài buộc thực hiện
hợp đồng, bên bị vi phạm có quyền được yêu cầu bồi thường thiệt hại, phạt vi phạm và
tạm ngừng thực hiện hợp đồng nhưng không được áp dụng chế tài dành chỉ thực hiện
hợp đồng và huỷ bỏ hợp đồng.

42
3.2.4. Hoàn thiện pháp luật về chế tài phạt vi phạm

Mức phạt tối đa 8% trong LTM năm 2005 là quá thấp, không còn phù hợp với cơ
chế thị trường ngày nay. Do đó, khi sửa đổi LTM, các nhà làm luật nên bỏ mức trần 8%
này và thay bằng mức trần cao hơn để tăng tính răn đe cho chế tài. Ngoài ra, cần quy
định cách thức giải quyết trong trường hợp các bên chủ thể trong hợp đồng thương mại
thỏa thuận mức phạt lớn hơn 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm. Nếu các bên
thỏa thuận vượt quá mức phạt trần theo quy định của luật mà khi xảy ra tranh chấp, mức
phạt vẫn được xác định là 8% thì điều này sẽ thúc đẩy các bên thỏa thuận vượt trần. Điều
này có nghĩa kể cả khi đã thỏa thuận không tuân theo mức giới hạn do luật định thì các
bên vẫn được tính theo mức phạt cao nhất. Kéo theo đó, sự nghiêm minh của pháp luật
sẽ không được bảo đảm. Do vậy, đối với các trường hợp các bên thỏa thuận mức phạt
lớn hơn 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm thì trong trường hợp này điều
khoản phạt không nên được công nhận.

Kết luận: Từ những phân tích nêu trên có thể thấy rằng, hiện nay, các quy định về
chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại còn nhiều vấn đề chưa rõ ràng, thống nhất
và phù hợp với tình hình mới. Điều này đã, đang và sẽ gây ra những hạn chế nhất định
trong việc hiểu và áp dụng các quy định pháp luật về vấn đề này trên thực tế. Chính vì
vậy, việc nghiên cứu, đánh giá, xem xét và tiếp tục hoàn thiện các chế tài đối với vi phạm
hợp đồng thương mại hiện nay là điều rất quan trọng và cấp thiết. Đặc biệt là việc hoàn
thiện các quy định về vấn đề liên quan đến thời điểm tồn tại của điều khoản phạt vi phạm,
mức phạt vi phạm, mối quan hệ giữa chế tài phạt vi phạm và chế tài bồi thường thiệt hại
giữa Luật Thương mại năm 2005 và Bộ luật Dân sự năm 2015. Khi các vấn đề này được
hoàn thiện theo hướng đề xuất sẽ là điều kiện cần thiết để giúp hoạt động thương mại
được diễn ra hiệu quả, đáp ứng với các yêu cầu hội nhập quốc tế trong bối cảnh mới

43
KẾT LUẬN

Trong hoạt động thương mại thì hợp đồng thương mại đóng vai trò chủ yếu là một
chế định trung tâm của pháp luật thương mại. Hợp đồng được các thương nhân tạo lập
để ràng buộc những cam kết cua minh, việc hợp đồng được thực hiện đúng có thể mang
lại những lợi ích mà các bên mong muốn khi giao kết. Nhưng không phải bao giờ hợp
đồng cũng được thực hiện suôn sẻ như mong muốn tại thời điểm thiết lập quan hệ hợp
đồng. Việc vi phạm hợp đồng gây ra không ít tranh chấp giữa các bên, khi đó bên bị vi
phạm phải được bảo vệ trước sự vi phạm hợp đồng. Bên bị vi phạm có thể tự mình yêu
cầu bên vi phạm phải có trách nhiệm đối với những vì phạm của mình hoặc nhờ tới sự
can thiệp của nhà nước. Pháp luật Việt Nam rất quan tâm đến việc bảo vệ các quan hệ
hợp đồng, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của của bên bị vi phạm, ổn định các quan
hệ kinh tế, thúc đẩy sự hợp tác của các thương nhân. Tuy nhiên pháp luật hiện hành còn
nhiều bất cập, nhiều quy định không thống nhất, không hợp lý. Những nguyên tắc được
coi là quan trọng nhất trong hoạt động thương mại của các thương nhân là nghĩa vụ thiện
chí, trung thực, công bằng chưa được quy định và thể hiện nhiều trong các quy định về
chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại. Nhiều quy định về điều kiện áp dụng các
chế tài cụ thể còn không được phân biệt rõ ràng dẫn đến những khó khăn cho các bên và
cho cả çác cơ quan giải quyết tranh chấp, quyền lợi của các bên không được đảm bảo.
Vai trò của tòa án bị hạn chế trong việc can thiệp vào các khoản tiền phạt, bồi thường
định trước vượt quá những thiệt hại xảy ra…

Với mục tiêu nghiên cứu, đề tài của nhóm đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
của pháp luật về chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại, đặc trưng cơ bản của các
biện pháp chế tài đối với việc vi phạm hợp đồng thương mại. Tìm ra được nhiều điểm
hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật hiện hành và đề xuất một số giải pháp
để hoàn thiện pháp luật.

44
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ luật Dân sự 2015


2. Luật Thương mại 1997
3. Luật thương mại 2005
4. Đinh Văn Cường (2020), “Thực trạng pháp luật và một số kiến nghị hoàn thiện pháp
luật về chế tài phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại và
mối quan hệ giữa hai chế tài”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát, số 03/2020, tr. 51.
5. Nguyễn Đức Anh, “Phạt vi phạm hợp đồng theo pháp luật thương mại Việt Nam”,
https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/phat-vi-pham-hop-dong-theo-phap-luat-
thuong-mai-viet-nam, truy cập ngày 22/12/2021.
6. Nguyễn Văn Hợi, “Sự không thống nhất trong quy định về hợp đồng giữa Luật
Thương mại và Bộ luật Dân sự”,
http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=210500, truy cập ngày
22/12/2021.
7. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, Tập II, Nxb. Công
an nhân dân, Hà Nội, 2018

45

You might also like