You are on page 1of 1

69

hợp đồng. Trong thực tiễn, các bên thỏa thuận nội dung hợp đồng càng chi tiết
thì càng thuận lợi cho việc thực hiện hợp đồng.
Việc pháp luật quy định nội dung của hợp đồng kinh doanh, thương mại
có ý nghĩa hướng các bên tập trung vào thỏa thuận những nội dung quan trọng
của hợp đồng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện, đồng thời phòng ngừa
những tranh chấp xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng. Luật Thương mại
không quy định bắt buộc các bên phải thỏa thuận những nội dung cụ thể nào
trong hợp đồng kinh doanh, thương mại. Các nội dung chủ yếu của hợp đồng
kinh doanh, thương mại có thể xác định được dựa trên những quy định mang
tính "khuyến nghị", "định hướng" của pháp luật8, thói quen và tập quán thương
mại. Trong điều kiện nhận thức của nhà kinh doanh còn nhiều hạn chế, thì điều
này tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến những rủi ro pháp lý, những tranh chấp trong hoạt
động kinh doanh, thương mại.
Trên cơ sở các quy định của Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại, xuất phát
từ tính chất của quan hệ hợp đồng trong kinh doanh, thương mại, có thể thấy
những điều khoản quan trọng của hợp đồng trong kinh doanh, thương mại bao
gồm: đối tượng; số lượng và chất lượng; giá cả, phương thức thanh toán; thời hạn
và địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng; quyền và nghĩa vụ của các bên;
trách nhiệm do vi phạm hợp đồng; phương thức giải quyết tranh chấp... Cũng cần
lưu ý rằng, đối với từng loại hợp đồng cụ thể, pháp luật có thể có quy định về
những nội dung bắt buộc phải có (điều khoản chủ yếu) của hợp đồng.
2.2. Thủ tục giao kết hợp đồng trong kinh doanh, thương mại
Một hợp đồng kinh doanh, thương mại có thể được hình thành theo bất cứ
cách thức nào mà chứng tỏ giữa các bên đã đạt được sự thỏa thuận. Thời điểm
giao kết hợp đồng trong kinh doanh, thương mại là thời điểm mà các bên đã đạt
được sự thỏa thuận. Trong quá trình xác lập hợp đồng trong kinh doanh, thương
mại, các vấn đề pháp lý cơ bản cần được làm rõ là: (i) Đề nghị giao kết hợp
đồng; (ii) Chấp nhận đề nghị hợp đồng; (iii) Thời điểm giao kết và hiệu lực của
hợp đồng. Những vấn đề này không được Luật Thương mại quy định cụ thể, vì
vậy các quy định của Bộ luật Dân sự sẽ được áp dụng đối với những nội dung
này trong quá trình thực hiện việc giao kết hợp đồng kinh doanh, thương mại.
a) Đ nghị giao k t hợp đồng trong kinh doanh, thương mại
Đề nghị giao kết hợp đồng nói chung có bản chất là hành vi pháp lý đơn
phương của một chủ thể, có nội dung bày tỏ ý định giao kết hợp đồng với chủ
thể khác theo những điều kiện xác định. Từ quy định của Điều 386 Bộ luật Dân
sự, có thể định nghĩa đề nghị giao kết hợp đồng kinh doanh, thương mại là việc
thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của
bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể.
Bộ luật Dân sự cũng như Luật Thương mại không quy định về hình thức
của đề nghị giao kết hợp đồng trong kinh doanh, thương mại, song có thể dựa

8
Xem Điều 398 Bộ luật Dân sự

You might also like